ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU PHẦN 2
-
Upload
tin-ha-dang -
Category
Documents
-
view
764 -
download
2
description
Transcript of ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU PHẦN 2
LÝ HOA
221
LÝ HOA (? - 766)
Quê Liễu Hoàng, Triệu Châu (tỉnh Hà Bắc). Tên chữ là Hà Thúc, đỗ Tiến sĩ năm 735, làm Giám sát Ngự sử năm 752. Vì tính cương trực nên trái ý quyền thần Dương Quốc Trung, chuyển làm chức Tả Bổ khuyết. Khi An Lộc Sơn làm phản, vì cứu mẹ trong nơi loạn quân chiếm đóng, nên bị bắt, phải nhận chức Phượng các Xá nhân. Sau khi loạn dẹp, phải chuyển làm Tham quân Tư hộ châu Hàng. Ông rất ân hận vì việc cộng tác với loạn quân, vua Đường mời ra giữ chức Tả Bổ Khuyết, viên ngoại lang tư Phong nhưng ông đều từ chối, tạm thời làm việc dưới trướng Quan sát sứ Giang Nam. Rồi lại lấy cớ ốm xin từ chức và về ở ẩn đất Sơn Dương, cày cấy tự cung cho tới cuối đời. Ông là bạn thân của Tiêu Dĩnh Sĩ, còn nổi tiếng cả về văn xuôi.
XUÂN HÀNH KÝ HỨNG
Nghi Dương∗ thành hạ thảo thê thê Giản thủy đông lưu phục hướng tê Phương thụ vô nhân hoa tự lạc Xuân sơn nhất lộ điểu không đề.
CHƠI XUÂN CẢM HỨNG
Nghi Dương thành ấy cỏ xanh dày Nước lạch xuôi đông lại chuyển tây Người vắng cây thơm hoa tự rụng Chim suông hót mãi núi xuân này.
■ ∗ Nghi Dương: ở phía tây nam Lạc Dương (Hà Nam).
222
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÝ GIA HỰU Quê Triệu Châu. Tự là Tòng nhất – Đậu tiến sĩ thời Đường Thiên Bảo – làm chức Thứ sử Tô Châu.
KÝ VƯƠNG XÁ NHÂN TRÚC LÂU
Ngạo lại thân nhàn tiếu ngũ hầu
Tây Giang thủ trúc khởi cao lâu
Nam phong bất dụng bồ quỳ phiến
Sa mạo nhàn miên đối thủy âu.
GỬI XÁ NHÂN HỌ VƯƠNG NƠI LẦU TRÚC
Chức nhỏ thân nhàn ngán ngũ hầu
Tây giang chặt trúc dựng cao lầu
Nồm nam chẳng phải gồi làm quạt
Mũ lụa ngơi dài trước đám âu.
■
LÝ GIA HỰU
LÝ ÍCH
223
LÝ ÍCH (748 – 827)
Quê Cô Tàng, Lũng Tây (Cam Túc), tên chữ là Quân Ngu. Người cùng họ với nhà thơ Lý Hạ. Năm 796 đỗ Tiến sĩ, làm chức Úy huyện Trịnh (Thiểm Tây), vì chậm lên chức, bất mãn, xin từ quan, đi chơi các vùng Hà Bắc, rồi làm việc dưới trướng Tiết độ sứ U Châu, Phần Châu (Cam Túc). Được Đường Túc Tông biết tiếng, vời làm Thiếu giám Bí Thư, rồi Học sĩ Điện Tập Hiền. Vì thái độ ngạo mạn, nên bị giáng chức, nhưng sau lại được cử giữ chức Thị Ngự sử, Thái tử Tân khanh, Hữu tán ky thường thị, rồi Thượng thư bộ Lễ. Lý rất đa nghi, thường khóa chặt buồng vợ và thiếp…nên được gọi là Thượng thư Đố Si họ Lý (Đố là ghen, Si là mê).
BIỆN HÀ∗ KHÚC
Biện thủy đông lưu vô hạn xuân Tùy gia cung khuyết dĩ thành trần
∗ Biện Hà: Còn gọi là Biện Thủy, Biện Cừ. Là một lối trọng yếu trong mạch giao thông nam bắc. Các triều vua đều sửa sang, tu bổ, nên dòng sông có khác chút ít. Từ Tùy tới Đường là phân lưu của Hoàng Hà từ Thành Cao, tỉnh Hà Nam phía đông nam chảy từ Thương Khâu vào tỉnh An Huy, qua huyện Túc, huyện Từ rồi nhập vào sông Hoài. Tùy Dạng Đế cho đắp đê ở bờ tây sông này, trồng dương liễu, dựng hơn 40 tòa Ly cung để hành lạc. Sau khi nhà Tùy mất, chỉ còn rặng liễu, các Ly cung đều hoang phế.
224
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Hành nhân mạc thượng trường đê vọng Phong khởi dương hoa sầu sái nhân.
KHÚC HÁT SÔNG BIỆN
Sông Biện xuôi đông xuân ngập trời
Nhà Tùy cung điện bụi tro rồi
Người đi đừng đứng đê dài ngắm
Gió cuốn hoa dương não khổ người. ■
DẠ THƯỚNG THỤ HÀNG THÀNH V ĂN ĐỊCH
Hồi nhạc phong tiền sa tự tuyết,
Thụ Hàng∗ thành ngoại nguyệt như sương. Bất tri hà xứ xuy lô quản, Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.
ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG NGHE TIẾNG SÁO
Trước núi Hồi Nhạc cát tựa tuyết,
Ngoài thành Thụ Hàng trăng như sương.
Chả hay đâu đó khèn lau nổi
Một tối chinh nhân thẩy ngó làng. ■ ∗ - Thụ Hàng: Tên thành ở Tuy Viễn.
LÝ ÍCH
225
DẠ THƯỢNG THỤ HÀNG THÀNH V ĂN ĐỊCH
Hồi lạc∗ phong tiền sa tự tuyết,
Thụ Hàng∗ thành ngoại nguyệt như sương.
Bất tri hà xứ xuy lô quản,
Nhất dạ chinh nhân∗ tận vọng hương.
■
ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG NGHE SÁO
Trước núi Hồi Lạc cát tựa tuyết,
Ngoài thành Thụ hàng trăng như sương.
Chả hay sáo sậy∗ nơi nào nổi
Một tối chinh nhân thẩy ngó làng.
■ ∗ Thụ Hàng: Tên thành ở tây bắc Bao Đầu, tỉnh Tuy Viễn do công tôn Ngao đời Hán đắp. Thời Đường, Trương Nhân Nguyện lại tu bổ thêm, đắp lại chia làm ba phần đông, giữa tây để ngăn ngừa quân Đột Quyết. ∗ Hồi Lạc: Tên núi ở đông nam Tuy Viễn, gần Tokoto (Thác Khắc Thác), thuộc huyện Hồi lạc tây nam Ninh Vũ, tỉnh Ninh hải. Ở Đại Đồng, Sơn Tây cũng có núi Hồi Lạc, cũng gần thành Thụ Hàng. ∗ Sáo sậy: Sáo làm bằng lá sậy. ∗ Chinh nhân: Binh sĩ đánh trận, hoặc người đi xa.
226
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÍNH HI ỂU GIỐC
Biên sương tạc dạ trụy quan du∗
Xuy giốc đương thành∗ phiến nguyệt cô
Vô hạn tái hồng phi bất độ
Thu phong xuy nhập Tiểu Thiền Vu∗.
NGHE ỐC SỚM
Đêm qua sương ải động hàng du
Tiếng ốc ngang thành mảnh nguyệt trơ
Núi ngất nhạn hồng không vượt nổi
Gió thu nổi khúc “Tiểu Thiền Vu”.
■ ∗ Du: Tên một loại cây cao, đời xưa thường trồng ở quan ải. Do đó, nơi cửa ải trọng yếu được gọi là “Ải Du”. Truyện Hàn An Quốc có chép: Tướng nhà Tần là Mông Điềm đánh đuổi quân Hung Nô, lấy đá chất làm thành, ngoài trồng cây Du để làm cửa ải. ∗ Đương thành: Nói chung hiêu là “thị trấn nơi đó”, nhưng thời Hán ở huyện Ứng (tỉnh Hà Bắc) có thị trấn tên là “Dương Thành” ∗ Tiểu Thiền Vu: Tên một bản nhạc. Theo Quách Mậu Thiển, đời Đường có những bản nhạc: Đại Thiền Vu, Tiểu Thiền Vu. Thiền Vu là tên gọi nước Hung Nô.
LÝ ÍCH
227
TÒNG QUÂN BẮC CHINH
Thiên Sơn∗ tuyết hậu Hải phong hàn
Hoàng địch thiên xuy hành lộ nan∗
Tích lý chinh nhân tam thập vạn
Nhất thời hồi thủ nguyệt trung khan.
THEO QUÂN ĐÁNH PHƯƠNG BẮC
Gió Hồ∗ tê tái tuyết Thiên Sơn
Ngang sáo ngân bài “Hành Lộ nan”
Biển cát quân đi ba chục vạn
Quay đầu cùng ngó giữa trăng vàng.
■
∗ Thiên Sơn: Tên dãy núi cắt ngang tỉnh Tân Cương, phía nam và bắc đều có đường tới Tây Vực. ∗ Hồ: Đây là hồ Thanh Hải. vùng này cũng có núi Kỳ Liên (gọi là Thiên Sơn) giữa hai tỉnh Thanh Hải và Cam Túc. ∗ Hành Lộ nan: Tên bản nhạc.
228
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÝ KIẾN HUÂN (? – 925) Người quê Quảng Lăng. Cuối đời Đường, Lý hết lòng giúp đỡ Vương triều Nam Đường, được làm chức Trung thư Thị Lang Bình Chương sự (Tể tướng), nhưng về sau thế lực suy yếu, bị đổi đi làm Tiết độ sứ Phủ châu. Có lúc sắp được làm chức Tư Không, nhưng vì Lý đang xây dựng trang trại ở Chung Sơn (đông bắc Nam Kinh) nên xin từ chức. Nhà vua gọi ông là “Ông Chung Sơn”. Hiện còn “Tập thơ Lý thừa tướng”.
CUNG TỪ
Cung môn trường bế vũ y nhàn
Lược thúc quân vương mấn tiện ban
Khước tiện lạc hoa xuân bất quản
Ngự câu lưu đắc đáo nhân gian.
LỜI CUNG NỮ
Cửa cung đóng mãi áo xiêm nhàn
Nghe nói nhà vua tóc bạc lan
Lại thích hoa rơi xuân chẳng biết
Trôi từ ngòi ngự tới nhân gian.
■
LÝ KIẾN HUÂN
LÝ KIẾN HUÂN
229
LÝ KỲ Quê ở Đông Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên). Năm 735 đỗ Tiến sĩ, làm chức Úy ở Tân Hương (Hà Nam). Ông chán thế tục, thích đạo thần tiên, hay giao du với đạo sĩ.
KÝ HÀN BẰNG
Vi chính tâm nhàn vật tự nhàn
Triêu khan phi điểu mộ phi hoàn
Ký thư hà thượng thần minh tể
Tiện nhĩ thành đầu Cô Dịch∗ san.
GỬI HÀN BẰNG
Làm việc nhàn tâm nhàn tới vật
Xem chim sớm tối thỏa đi về
Gửi quan huyện giỏi sông Hà ấy
Cô Dịch đầu thành đẹp núi kia.
■
∗ - Cô Dịch (còn gọi là Cô dạ, Cô Sạ), tên núi ở vùng Lâm Phần, Tương Lăng, tỉnh Sơn Tây. Cảnh vật đẹp, truyền thuyết nói núi này có Tiên.
LÝ KỲ
230
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÝ NGAO
U CƯ
Tuyên đắc u cư hiệp dã tình
Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thời trực thướng cô phong đính,
Nguyệt hạ phi vân khiếu nhất thanh.
NƠI Ở VẮNG
Chọn nơi vắng vẻ tình quê thỏa,
Đưa đón quanh năm chả bận mình.
Có lúc đỉnh non mây ráng vén,
Hú dài một tiếng ánh trăng thanh.
BÙI HẠNH CẨN DỊCH■
LÝ NGAO
LÝ NGAO
231
LÝ THÂN
VĂN VIÊN
Kiến thuyết tam thanh ba Giáp thâm,
Thử thời hành giả tận chiêm khâm.
Đoan Châu giang khẩu liên vân xứ,
Thủy tín ai viên thương khách tâm.
NGHE TIẾNG VƯỢN
Ba Giáp nghe tên đã hiểm trở,
Đến đây ai cũng áo xiêm đầm.
Cửa sông Đoan ấy liền mây núi,
Tiếng vượn càng thêm khách khổ tâm.
■
LÝ THÂN
232
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÝ THIỆP Quê Lạc Dương (Hà Nam). Hiệu là Thanh Khê. Lúc đầu ở ẩn Lư Sơn, sau ra làm quan thời Tống.
ĐĂNG SƠN
Chung nhật hôn hôn túy mộng gian
Hốt văn xuân tận cưỡng đăng san
Nhân qua trúc viện phùng tăng thoại,
Hựu đắc phù sinh bán nhật nhàn.
LÊN NÚI
Suốt buổi men say lẫn mộng tràn
Chợt nghe xuân cạn gượng leo ngàn
Gặp sư trò chuyện ngang sân trúc
Cuộc sống thêm ra một lúc nhàn.
■
LÝ THIỆP
LÝ THƯƠNG ẨN
233
LÝ THƯƠNG ẨN Quê Châu Hoài (Tấn Dương, Hà Nam). Tên tự là Nghĩa Sơn. Được lệnh Hồ Sở nhận thấy có tài năng mời vào làm việc dưới trướng, nhờ sự giúp đỡ của con trai Sở là Đào năm 837 đỗ Tiến sĩ. Nhưng năm sau đó, Lý lấy con gái Vương Mậu Nguyên làm vợ, Mậu Nguyên vốn chống đối Lệnh Hồ Sở, Lý trở thành người trung gian của hai phái, do đó bị đời nghi ngờ về phẩm chất. Lý làm chức Hiệu thư lang, rồi chức Úy ở Hoằng Nông (phía nam Linh Bảo, tỉnh Hà Nam) rồi chính tự Bí thư sảnh, rồi thư ký của Quan sát sứ Quế Lâm, chức Úy Trừu Chí (Thiểm Tây), Lưu hậu Tham quan Kinh Triệu Doãn, Phán quan Tiết độ sử Vũ Minh (Giang Tô), Thái học Bác sĩ, thư ký cho Tiết độ sứ Đông Xuyên. Giữa chừng cũng có lúc xin từ chức hoặc bị bãi miễn. Ưa cuộc sống phóng lãng, cho qua cảnh ngộ không gặp vận. Cùng Đỗ Mục, Ôn Đình Quân là những đại biểu về thơ thời kỳ Vãn Đường. Nay còn tập « Lý Nghĩa Sơn thi » (còn gọi Ngọc Khê kinh thi).
HÁN CUNG TỪ∗
Thanh tước tây phi cánh vị hồi
Quân vương trường tại Tập linh đài∗
∗ Cung Hán: Ở đây ý nói cảnh vua chúa cầu thuốc trường sinh. Hán Vũ Đế cho tìm cách sống lâu không già. Lý muốn mỉa mai Đường Vũ Tông tìm thuốc trường sinh. Vũ Tông cho đắp đài tiên ở Nam Giao, Trường An cầu thần tiên ban thuốc sống lâu nhưng chỉ sống có 33 tuổi. Các vua Đường trước đó như Hiến Tông, Mục Tông cũng thường dùng thuốc sống lâu.
234
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Thị thần tối hữu Tương Như khát
Bất tứ kim hành∗ lộ nhất bôi.
CUNG VUA HÁN
Sẻ biếc∗ sang tây chửa thấy về
Tập Linh vua ngự mãi đài kia
Quan hầu mắc chứng Tương Như khát∗
Móc quý không hề được một ly.
■
∗ Sẻ biếc (xanh): Ban Cố viết trong “chuyện vua Hán Vũ”, sẻ xanh là sứ giả của bà tiên Tây Vương Mẫu tu ở núi Côn Luân phía tây. Thời Hán Vũ Đế, sẻ xanh bay tới, vua hỏi thăm Tây Vương Mẫu, lát sau Tây Vương Mẫu hiện ra cùng ăn tiệc với Hán Vũ Đế nhưng không dạy thuật trường sinh bất lão rồi ra đi. ∗ Đài Tập Linh: Do Hán Vũ Đế xây dựng ở phía bắc núi Hoa và ở Tập Linh hoa Âm, tỉnh Thiểm Tây. ∗ Tương như khát: Tên bệnh của Tư Mã Tương Như, một danh sĩ thời Hán, tức là bệnh đái đường (diabet) ∗ Kim hành: Tên một cột đồng cao được Hán Vũ Đế dựng ở cung Kiến Chương, trên đặt chiếc “chậu hứng móc”, vì cho rằng uống bột ngọc báu và “móc” quý kia sẽ sống lâu không chết.
LÝ THƯƠNG ẨN
235
DẠ VŨ KÝ BẮC
Quân vấn qui kỳ vị hữu kỳ,
Ba son dạ vũ trướng thù trì.
Hà đương cộng tiễn tây song chúc
Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì.
ĐÊM MƯA GỬI VỀ BẮC
Người hỏi ngày về vẫn đáp chưa,
Ba Sơn mưa tối ngập hồ thu.
Song tây cùng đuốc bao giờ nhỉ,
Lại kể Ba Sơn thuở tối mưa.
■
236
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOA HẠ TỦY
Tầm phương bất giác túy lưu hà,
Ỷ thụ trầm miên nhật dĩ tà.
Khách tán tửu tinh thâm dạ hậu
Cánh trì hồng chúc thưởng tàn hoa.
SAY DƯỚI HOA
Tìm hoa chợt gặp chiều mây đẹp
Say giấc bên cây tới xế tà
Rượu tỉnh khách tan trời tối sẫm,
Lại bừng đuốc lửa ngắm tàn hoa.
■
LÝ THƯƠNG ẨN
237
MỘC LAN HOA
Động Đình ba lãnh hiểu xâm vân,
Nhật nhật chinh phàm tống viễn nhân.
Kỷ độ mộc lan chu thượng vọng,
Bất tri nguyên thị thử hoa thân.
HOA MỘC LAN
Động Đình sóng lạnh sáng mây vần
Sớm tối ngang bờ khách tiễn chân.
Mấy dạo mộc lan thuyền đứng ngó,
Nào hay hoa ấy chính tiền thân.
■
238
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THƯỜNG NGA∗
Vân mẫu bình phong chúc ảnh thâm,
Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm.
Thường Nga ưng hối thâu linh được,
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.
HẰNG NGA
Bình phong tiên cảnh đuốc ngời lên,
Sao sớm, Ngân hà thấp bốn bên.
“Tr ộm thuốc” Hằng Nga giờ hối hận
Trời xanh biên biếc nỗi đêm đêm.
■
∗ Thường Nga, Hằng Nga: Tên vợ Hậu Nghệ, ăn trộm thuốc tiên của Tây Vương Mẫu bay lên mặt trăng – có thuyết nói hóa thành con cóc ở mặt trăng. Do đó mặt trăng còn được gọi là Thiềm Cung.
LÝ THƯƠNG ẨN
239
VỊ HỮU
Vị hữu vân bình vô hạn kiều,
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu
Vô đoan giá đắc kim quy tế,
Cô phụng hương khâm sự tảo triều.
VÌ
Đầy đủ rèm che lộng lẫy mầu
Phụng thành lạnh hết, tối xuân ầu
Không đâu lấy được chồng quan lớn,
Bỏ mặc chăn thơm, giữ buổi chầu.
■
KÝ LỆNH HỒ∗ LANG TRUNG ∗
Tung∗ vân Tần thụ cửu ly cư
Song lý∗ thiều thiều nhất chỉ thư
∗ Lệnh Hồ: Tức Lệnh Hồ Đào, con Lệnh Hồ Sở. ∗ Lang trung: Chức quan cai quản ba bộ Công – Hình – Binh ở Thượng thư sảnh. ∗ Tung: Đất giữa địa phận Trịnh Châu và Lạc Dương, nơi Lý ở. ∗ Tần: Tức Trường An (Thiểm Tây).
240
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
►
Hưu vấn Lương Viên∗ cựu tân khách
Mậu Lăng∗ thu vũ bệnh Tương Như.
GỬI QUAN LANG TRUNG L ỆNH HỒ
Tần∗, Tung cây ráng bao ngăn cách
Diệu vợi xa xôi một lá thư
Đừng hỏi vườn Lương khách quen cũ
Mưa thu lăng Mậu khổ Tương Như. ■
∗ Song lý (Hai cá chép): Biểu trưng dùng in vào giấy gửi thư (cũng như hình “nhạn”). ∗ Lương Viên: Nơi giáo phường (dạy múa, nhạc, lập từ thời Hán) do Lương Hiếu Vương, con trai Hán Văn Đế lập ra. ∗ Mậu Lăng: Nơi có lăng tẩm Hán Vũ Đế, ở phía bắc Trường An, nay gần Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây. Tư Mã Tương Như bị bệnh “tiêu khát” (đái đường) từ quan ở nơi đây. Ở đây cũng có chuyện Tương Như mê một cô gái Mậu Lăng định lấy nhưng do Trác Văn Quân (ở Lâm Cùng, Tứ Xuyên) gửi thư rất tha thiết nên thôi.
LÝ ƯỚC
241
LÝ ƯỚC Thời Tống.
QUAN KỲ VŨ
Tang điều vô diệp thổ sinh yên,
Tiêu quản nghênh long thủy miếu tiền.
Chu môn kỷ xứ khan ca vũ,
Do khủng xuân âm yết quản huyền.
XEM LỄ CẦU MƯA
Dâu cành không lá, khói đồng loang,
Trước miếu Long vương rộn sáo đàn.
Mấy chốn lầu son vui hát múa,
Sợ trời xuân mát át ca vang.
■
242
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
MẠNH ĐẠI VŨ
XUÂN NHẬT VÃN VỌNG
Ốc giốc phong vi yên vụ phi,
Liễu ty vô lực hạnh hoa phì.
Mông lung sổ điểm tà dương lý
Ưng thị ni nam yến tử quy.
CHIỀU XUÂN NGẮM CẢNH
Bên trái gió bay mù khói tỏa
Hạnh hoa rộ nở liễu lê thê
Chập chờn vài điểm trong chiều nắng
Chắc hẳn liu lo cánh én về.
■
MẠNH ĐẠI VŨ
LÝ ƯỚC
243
MẠNH HẠO NHIÊN Quê Tương Dương, Tương Châu, tên chữ là Hạo Nhiên, tuổi trẻ không đỗ đạt, sau một thời gian đi chơi các miền về ở ẩn tại núi Lộc Môn quê nhà. Khi 40 tuổi, tới kinh đô chơi với các danh sĩ như Vương Duy nhưng không được dự hàng quan chức. Sau đó khi Trương Cửu Linh bị đầy đi làm Trưởng sư Kinh Châu đã mời Mạnh làm việc nhưng không bao lâu ông lại từ chức, đi chơi Giang Nam ồi về quê. Được Vương Xương Linh đích thân mở tiệc mời. Sau bị bệnh nặng rồi mất.
TỐNG ĐỖ THẬP TỨ∗ CHI GIANG NAM
Kinh ∗Ngô∗ tương tiếp thủy vi hương Quân khứ xuân giang chính diểu mang Nhật mộ cô chu hà xứ bạc Thiên nhai nhất vọng đoạn nhân trường.
TIỄN ANH ĐỖ ĐI GIANG NAM
Kinh Ngô liên tiếp nước mênh mang
Đưa tiễn sông xuân sóng bạt ngàn
Ngày xế thuyền trơ đâu chốn trọ
Chân trời một ngó nát can tràng. ■
∗ Đỗ thập tứ: Có sách đề “Ti ễn Tiến sĩ Đỗ Hoảng đi Đông Ngô” (tức một giải Tô Châu). ∗ Kinh: Ngày xưa là đất nước Sở, nay là tỉnh Hồ Bắc. ∗ Ngô: nay là Giang Tô.
MẠNH HẠO NHIÊN
244
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
MỤC ĐỒNG
ĐÁP CHUNG NHƯỢC ÔNG∗
Thảo phô hoành dã lục thất lý,
Địch lộng vãn phong tam tứ thanh
Qui lai bão phạn hoàng hôn hậu
Bất thoát soa y ngọa nguyệt minh.
TRẢ LỜI ÔNG CHUNG NHƯỢC
Cỏ lan đồng nội sáu bảy dặm
Sáo chiều rộn gió một vài thanh
Về nhà cơm no nha nhem tối
Để cả tơi nằm khểnh trăng thanh.
■
∗ Chung nhược ông: Chỉ là học trò, không đỗ đạt gì, nhưng được cất nhắc làm quan cao, sau bị biếm.
MỤC ĐỒNG
LÝ ƯỚC
245
NGHIÊM VŨ (726 – 765) Quê Hoa Âm, Hoa Châu (Thiểm Tây), tên tự là Quý Ưng, tính tình hào sảng. Khi 8 tuổi, cha yêu người thiếp hơn mẹ, ông tức giận nhân khi đêm lấy chầy sắt đập vỡ đầu người thiếp của cha. Ông làm Tham quân phủ Thái Nguyên, rồi tiến lên Điện trung Thị Ngự sử. Khi An Lộc Sơn làm phản, ông theo Đường Huyền Tông vào Thục, được thăng chức Gián nghị Đại phu. Sau đó làm Cấp sự trung, thiếu doãn Kinh – Triệu, rồi Tiết độ sứ Kiến Nam (tỉnh Tứ Xuyên). Sau về kinh làm Kinh Triệu Doãn. Ước mơ làm Tê tướng không được, ông lại nhận chức Tiết độ sứ Kiến Nam, phá tan đại quân Thổ Phồn. Ông thường không làm theo ý cấp trên, đối với thuộc hạ hay hà khắc. Khi Đỗ Phủ lưu lạc ở Tứ Xuyên được ông giúp đỡ.
QUÂN THÀNH TẢO THU∗
Tạc dạ thu phong nhập Hán quan Sóc vân biên nguyệt mãn Tây san Cánh thôi Phi tướng truy kiêu lỗ Mạc khiển sa trường thất mã hoàn.
THU SỚM TRÊN THÀNH QUÂN Ải Hán đêm thu dậy gió ngàn Non tây may bắc ải trăng tràn Càng xui Phi tướng dồn quân giặc Quyết chiến không cho chúng vẹn toàn. ■
∗ Thơ làm khi giữ chức Tiết độ sứ Kiến Nam, đại phá quân Thổ Phồn.
NGHIÊM VŨ
246
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NGÔ DUNG
TRIỀU
Mộ khứ triêu lai vô định kỳ,
Tang điền trường bị thử thanh di.
Bồng lai∗ nhược thám nhân gian sự,
Nhất nhật hoàn ưng lưỡng độ tri.
NƯỚC TRIỀU
Sáng dẫy chiều lên cha định kỳ,
Ruộng dâu tiếng sóng vỗ tư bề
Bồng lai nếu muốn hay trần thế,
Một buổi hai phen tới lại về.
■
∗ - Bồng lai: Nơi tiên ở.
NGÔ DUNG
LÝ ƯỚC
247
NGÔ DUY TÍN
TÔ ĐÊ THANH MINH T ỨC SỰ
Lê hoa phong khởi chính thanh minh,
Du tử tầm xuân bán xuất thành.
Nhật mộ sinh ca thu thập khứ,
Vạn chu dương liễu thuộc lưu oanh.
THANH MINH Ở ĐÊ TÔ∗
Hoa lê nổi gió đúng thanh minh
Du khách tìm hoa lối ngọi thành
Chiều tối sênh ca im ắng hết
Muôn cây dương liễu rộn lời oanh.
■
∗ - Đê Tô: Con đê do Tô Đông Pha khởi công ở Tây Hồ, thời Tống.
NGÔ DUY TÍN
248
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NGÔ ĐÀO
TUYỆT CÚ
Du tử xuân sam dĩ thí đơn,
Đào hoa phi tận dã mai toan.
Quái lai nhất dạ oa thanh yết,
Hựu tác đông phong thập nhật hàn.
THƠ 4 CÂU
Du khách mới vừa thay áo đơn
Hoa đào bay hết, mận chua lòm
Một đêm tiếng ếch không kêu nữa
Lại gió đông qua chục buổi hàn.
■
NGÔ ĐÀO
LÝ ƯỚC
249
NGÔ TU LƯƠNG
HOÀNH KHÊ ĐƯỜNG XUÂN HI ẾU
Nhất bả thanh ương sấn thủ thanh,
Khinh yên mạc mạc vũ minh minh.
Đông phong nhiễm tận tam thiên khoảnh,
Bạch lộ phi lai vô xứ đình.
SÁNG XUÂN Ở HOÀNH KHÊ
Màu mạ xanh theo tay cấy xanh
Mưa bay nhè nhẹ khói mong manh
Gió đông nhuộm thắm ba ngàn mẫu
Cò trắng bay về chỉ lượn quanh.
■
NGÔ TU LƯƠNG
250
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NGÔ TƯỢNG CHI
THI ẾU NIÊN HÀNH
Thừa ân tá liệp Tiểu Bình Tân∗
Sử khí thường du trung quý nhân∗
Nhất trịch thiên kim hồn thị đảm
Gia vô tứ bích bất tri bần.
THỜI TRAI TRẺ
Cùng vui săn bắn Tiểu Bình Tân
Khảng khái thường quen các quý nhân
Một ném ngàn vàng∗ chi xá kể
Nhà trơ bốn vách chẳng hay bần.
■
∗ - Tiểu Bình Tân: Tên một bến đò sông Hoàng, phía bắc Mạnh Tân, tỉnh Hà Nam ∗ - Quý nhân: Chỉ lớp người hầu cận nhà vua ∗ - Ném ngàn vàng: Ở đây là chơi bạc.
NGÔ TƯỢNG CHI
NGUYÊN CHẨN
251
NGUYÊN CHẨN (779-831)
Quê ở Lạc Dương (Hà Nam), tên tự là Vi Chi, đỗ Tiến sĩ năm 806, được giữ chức Tả thập di, nhưng ông luôn luôn dâng thơ lên vua, nên bị bọn quyền thần ghét và phải biếm đi làm chức Úy ở Hà Nam. Sau đó được làm Giám sát Ngự sử. Rồi lại vì chuyện va chạm nên bị đầy đi làm sĩ tào tham quân ở Giang Lăng (Hồ Bắc). Khoảng năm 820, được triệu về kinh làm chức Thiện bộ Viên ngoại lang (trông coi việc yến tiệc thuộc bộ Lễ). Sau đấy từ chức Trung thu Xá nhân, thăng làm Đồng trung thư môn hạ Bình Chương sự (Tể tướng), nhưng chả được bao lâu lại bị bãi miễn, chuyển làm Tiết độ sứ Vũ Xương (Hồ Bắc), rồi mất ở đó. Nguyên là bạn thân của Bạch Cư Dị, nên đời có câu “Nguyên Bạch” để ca tụng.
VĂN LẠC THIÊN ∗ THỤ GIANG CHÂU T Ư MÃ
∗ Lạc Thiên: Tức Bạch Cư Dị. Năm 815 trong triều xảy ra chuyện Tể tướng bị ám sát vì các thế lực quan lại tranh giành quyền hành. Bạch Cư Dị phấn khích dâng thư lên nhà vua, nên bị chúng ghét đầy đi làm Tư Mã Giang Châu. Năm năm trước Nguyên Chẩn cũng vì hoạn quan ghen ghét phải biếm đi Giang Lăng (Hồ Bắc), và đang ở đó thì nghe tin Bạch bị biếm, đầu đề có sách in : « Nghe tin Bạch Lạc Thiên bị giáng chức làm Tư Mã Giang Châu ». Khi Bạch tới Giang Châu, có viết thư gửi Nguyên Chẩn, đầu đề là « Thư gửi anh Chín Nguyên ».
252
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Tàn đăng vô diệm ảnh đồng đồng
Thử tịch văn quân trích Cửu giang
Thùy tử bệnh trung kinh tọa khởi∗
Ám phong xuy vũ nhập hàn song.
NGHE TIN BẠCH LẠC THIÊN PHẢI GIÁNG LÀM TƯ MÃ GIANG CHÂU (1)
Chập chờn le lói ánh đèn tàn
Vừa tối nghe anh biếm Cửu Giang
Đang ốm hãi hùng ngồi nhỏm dậy
Gió lùa mưa hắt lạnh song ngang.
NGHE TIN BẠCH LẠC THIÊN PHẢI GIÁNG LÀM TƯ MÃ Ở GIANG CHÂU (2)
Mờ mờ bóng nhạt ngọn đèn tàn,
Tối chợt nghe người biếm Cửu Giang.
Giữa bệnh kinh hoàng ngồi nhỏm dậy
Ngang song lạnh lẽo gió mưa tràn.
■
∗ - Kinh tọa khởi : Có sách in “Nhưng trướng vọng” = vẫn buồn nhìn.
NGUYÊN CHẨN
253
NHẠC PHI Thời Tống.
TRÌ CHÂU THÚY VI ĐÌNH
Kinh niên trần thổ mãn chinh y,
Đặc đặc tầm phương thướng Thúy Vi.
Hảo thủy hảo sơn khan bất túc,
Mã đề thôi sấn nguyệt minh quy.
ĐÌNH THÚY VI Ở CHÂU TRÌ
Bao năm cát bụi phủ chinh y
Nay chợt thảm hoa đình Thúy Vi
Nước biếc non xanh xem chả đủ
Bon bon vó ngựa sáng trăng về.
■
NHẠC PHI
254
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ÔN ĐÌNH QUÂN Còn có tên là Kỳ Tự là Phi Khanh. Quê ở châu Tinh. Cùng nổi tiếng với Lý Thương Ẩn – Người đời gọi là « Ôn Lý ». Thời Đường.
DAO SẮT∗ OÁN
Băng đạm ngân sàng mộng bất thành,
Bích thiên như thủy dạ vân khinh.
Nhạn thanh viễn quá Tiêu Tương khứ,
Thập nhị lâu trung nguyệt tự minh.
NỖI OÁN THAN CỦA CÂY ĐÀN
Giường êm chiếu trúc mộng không thành,
Nước biếc da trời mây tối thênh.
Tiếng nhạn Tiêu Tương nghe đã vắng,
Mười hai lầu∗ gác thảy trăng thanh.
■
∗ - Dao sắt: Một loại đàn 25 giây. ∗ - Mười hai lầu: Vua Hoàng đế có 12 lầu để cầu tiên.
ÔN ĐÌNH QUÂN
NGUYÊN CHẨN
255
TẶNG THIẾU NIÊN
Giang hải tương phùng khách hận đa,
Thu phong diệp hạ Động Đình ba.
Tửu hàm dạ biệt Hoài Âm thị,
Nguyệt chiếu cao lâu, nhất khúc ca.
TẶNG TUỔI TRẺ
Sông biển quen nhau khách nhiều hận
Động Đình sóng lộng lá thu xa,
Rượu say đêm biệt Hoài Âm trấn
Trăng sáng lầu cao một khúc ca.
■
256
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ÔNG QUYỂN Thời Tống.
HƯƠNG THÔN TỨ NGUYỆT
Lục biến sơn nguyên bạch mãn xuyên
Tử quy thanh lý vũ như yên
Hương thôn tứ nguyệt nhàn nhân thiểu
Tài liễu tàn tang hựu sáp điền.
LÀNG XÓM THÁNG TƯ
Xanh khắp non ngàn trắng khắp sông
Nghe trong tiếng cuốc bụi mưa rung
Tháng tư làng xóm ít người rỗi
Xong lứa tằm tơ lại xuống đồng.
■
ÔNG QUYỀN
PHẠM THÀNH ĐẠI
257
PHẠM THÀNH ĐẠI Quê ở Tô Châu (Giang Tô). Biệt hiệu là Vân Hồ cư sĩ. Từng làm Hữu Thừa tướng, sau bị bãi quan, ở ẩn. Ông là nhà thơ nổi tiếng thời Tống.
ĐIỀN GIA
Trú xuất vân điền dạ tích ma
Thôn trang nhi nữ các đương gia
Đồng tôn vị giải cung canh chức
Dã bạng tang âm học chủng qua.
NHÀ NÔNG
Sáng đi bừa ruộng tối đay tơ
Trai gái trong thôn đảm việc nhà
Lũ trẻ chưa hay cày với dệt
Bên bờ dâu mát học trồng dưa.
■
258
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOÀNH ĐƯỜNG
Nam phố xuân lai lục nhất xuyên,
Thạch kiều chu tháp lưỡng y nhiên.
Niên niên tống khách Hoành Đường lộ,
Tế vũ thùy dương hệ họa thuyền.
ĐÊ NGANG
Nam phố xuân về sông dải biếc
Tháp son cầu đá vẫn y nguyên.
Năm năm tiễn khách đê ngang ấy
Mưa nhỏ bờ dương buộc mạn thuyền.
■
PHẠM THÀNH ĐẠI
259
TỨ THÌ ĐIỀN VIÊN TẠP HỨNG ( I )
Mai tử kim hoàng, hạnh tử phì,
Mạch hoa tuyết bạch, thái hoa hy.
Nhật trường ly lạc vô nhân quá,
Duy hữu thinh đình giáp điệp phi.
VƯỜN RUỘNG BỐN MÙA ( I )
Vàng đậm chùa mơ, hồng thắm mận
Cải hoa thưa thớt, lúa hoa dầy
Ngày dài ngõ vẳng không ai tới
Chỉ có con chuồn cái bướm bay.
■
260
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỨ THÌ ĐIỀN VIÊN TẠP HỨNG (NHỊ)
Hồ điệp song song nhập thái hoa,
Nhật trường vô khách đáo điền gia.
Kê phi quá ly khuyển phệ đậu,
Tri hữu hành thương lai mãi trà.
VƯỜN RUỘNG BỐN MÙA (2)
Bươm bướm bay đôi lẫn luống hoa
Ngày dài không khách tới thăm nhà
Gà bay qua dậu chó sủa bóng
Biết có phường buôn tới bán trà.
■
PHẠM THÀNH ĐẠI
261
VỊNH BA TIÊU
Cốt tướng linh lung thấu bát song,
Hoa đầu đảo tháp tử hà hương.
Nhiễu thân vô sổ thanh la phiến,
Phong bất lai thờ dã tự lương.
VỊNH CÂY CHUỐI
Cây lá lung linh rợp bốn bên
Đầu hoa đảo ngược tỏa hương sen
Quanh mình quạt lụa xanh vô số
Khi gió không qua tự mát liền.
■
262
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
PHỔ ĐỘ THIỀN SƯ Thời Tống.
MẶC MAI THI
Thường ức Tây Hồ xử sĩ gia,
Sơ chi lãnh nhị tự hoành tà.
Tinh minh nhất phiến đương thì sự,
Chỉ khiếm thanh hương bất khiếm hoa.
CÂY MAI TRONG TRANH
Từng nhớ hồ Tây nhà ẩn sĩ
Cành thưa nhị lạnh tự ngang ròa
Rõ ràng một bức tranh sinh động
Chỉ thiếu mùi hương chả thiếu hoa.
■
PHỔ ĐỘ THIỀN SƯ
PHỔ ĐỘ THIỀN SƯ
263
SÁI HY TỊCH Quê Khúc A (Đan Dương, tỉnh Giang Tô). Có sách này nói ông người Tế Nam, làm chức Úy ở Vị Nam.
LẠC DƯƠNG KHÁCH XÁ
PHÙNG TỔ VỊNH LƯU YẾN
Miên miên chung lậu∗ Lạc Dương thành
Khách xá bần cư tuyệt tống nghinh
Phùng quân thạ tửu nhân thành túy
Túy hậu yên tri thế thượng tình.
QUÁN KHÁCH L ẠC DƯƠNG
GẶP TỔ VỊNH CHO UỐNG RƯỢU
Dằng dặc canh khuya giữa Lạc Thành
Nghèo suông quán khách một thân mình
Gặp anh mua chịu men cho uống
Say khướt hay chi mọi thế tình.
■
∗ - Chung lậu: Có thể hiểu là “cánh già”. ∗ - Miên miên chung lậu: Lần lữa (nấn ná) già nua.
SÀI HY TỊCH
264
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
SẦM THAM Người Giang Lăng, châu Kinh (có sách nói người Nam Dương). Năm 744 đỗ Tiến sĩ, làm việc ở dinh quan Tiết độ sứ An Tây, Hà Tây. Nhiều năm ở nơi biên ải. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, theo đạo quân của Túc Tông ở Phượng Tường. Được Đỗ Phủ tiến cử, làm chức Hữu Bổ khuyết, sau đó làm Thứ sử châu Quắc (Hà Nam), rồi Xử bộ lang trung, Thứ sử châu Gia (Tứ Xuyên). Từ chức về kinh, dọc đường mất ở quán trọ Thành Đô.
MỤC TÚC PHONG KÝ GIA HÂN
Mục Túc phong biên phùng lập xuân
Hồ Lô∗ hà thượng lệ chiêm cân Khuê trung chỉ thị không tương ức Bất kiến sa trường sầu sái nhân.
Ở NÚI MỤC TÚC∗ GỬI QUÊ NHÀ
Mục túc đài bên gặp tiết xuân
Hồ Lô sông nước lệ dằm khăn
Phòng khuê chỉ những suông mong nhớ
Không thấy sa trường sầu não thân./.
∗ Núi Mục Túc: Phía tây ngoài ải Ngọc Môn, toàn sa mạc có bố trí những đài đốt lửa. ∗ Hồ Lô: Tên sông, không rõ vị trí cụ thể. Ở tỉnh Liêu Ninh có Hồ Lô đảo.
SẦM THAM
265
NGỌC QUAN KÝ TRƯỜNG AN LÝ CHỦ BẠ
Đông khứ Trường An vạn lý dư
Cố nhân na tích nhất hàng thư
Ngọc quan∗ tây vọng trường kham đoạn
Huống phục minh triêu thị tuế trừ.
TỪ NGỌC QUAN GỬI CHỦ BẠ HỌ LÝ Ở TRƯỜNG AN
Trường An nơi ấy xa ngàn dặm
Sao cố nhân còn tiếc cánh thư
Tây ngó Ngọc Quan thường đứt ruột
Mà đêm mai nữa lại giao thừa.
■ ∗ Ngọc quan: Tức Ngọc Môn Quan.
266
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
PHÓ BẮC ĐÌNH ∗ ĐỘ LŨNG TƯ GIA
Tây hướng Luân Đài∗ vạn lý dư
Dã tri hương tín nhật ưng sơ
Lũng Sơn∗ anh vũ năng ngôn ngữ
Vị báo gia nhân sổ ký thư.
ĐI BẮC ĐÌNH QUA LŨNG NHỚ NHÀ
Tây tớ Luân Đài vạn dăm thừa
Tin quê cũng biết sẽ càng thưa
Lũng Sơn yểng vẹt từng hay nói
Nhắn giúp quê nhà luôn gửi thư.
■
∗ Bắc Đình: Tên phủ Đô Hộ, gần Phú Viễn, nay thuộc tỉnh Tân Cương. Năm 754 (niên hiệu Thiên Bảo 13) Sầm làm việc ở đây. ∗ Lũng Sơn: Tên một dãy núi có cửa ải, trên đường từ Trường An ra biên giới Tây Bắc. ∗ Luân Đài: Tên huyện ở phía tây phủ Đô Hộ Bắc Đình.
SẦM THAM
267
PHÙNG NHẬP KINH SỨ
Cố viên đông vọng lộ man man
Song tụ long chung lệ bất can
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút
Bằng quân truyền ngữ báo bình an.
GẶP SỨ VÀO KINH
Vườn xưa đông ngó lối mênh mang
Tay áo đung đưa lệ mãi dàn
Trên ngựa gặp nhau không bút giấy
Nhờ anh nói giúp vẫn bình an.
■
268
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
SƠN PHÒNG XUÂN SỰ
Lương viên nhật mộ loạn phi nha
Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia
Đình thụ bất tri nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa.
MÙA XUÂN AM CŨ
Vườn Lương∗ quạ lượn loạn chiều tà
Hút mắt đìu hiu mấy nóc nhà
Cây ngõ chẳng hay người vắng hết
Xuân về lại nở cánh hoa xưa.
■
∗ Vườn Lương: Nơi dinh thự và vườn hoa cũ của Lương Hiếu Vương.
SẦM THAM
269
TÍCH TRUNG TÁC
Tẩu mã tây lai dục đáo thiên
Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên
Kim dạ bất tri hà xứ túc
Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.
VIẾT TRÊN ĐỤN CÁT CUỘI
Ngựa duổi về tây muốn tới trời
Xa nhà trăng sáng hai phen rồi
Đêm nay chẳng biết nơi nào trọ
Cồn cát ngàn muôn chẳng bóng người.
■
270
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỐNG NHÂN HOÀN KINH
Thất mã tây tòng thiên ngoại quy
Dương tiên chỉ cộng điểu tranh phi
Tống quân cửu nguyệt Giao hà bắc
Tuyết lý đề thi lệ mãn y.
TIỄN NGƯỜI VỀ KINH
Ngựa lẻ từ tây ngoài cõi về
Vung roi bay với cánh chim kia
Tiễn anh tháng chín bờ Giao∗ bắc
Giữa tuyết đề thơ vạt lệ đìa.
■
∗ Sông Giao: Tên sông ở Thổ Lỗ Phồn, tỉnh Tân Cương.
SẦM THAM
271
TỬU TUYỀN THÁI THÚ T ỊCH THƯỢNG TÚY HẬU TÁC
Tửu Tuyền∗ Thái thú năng kiếm vũ
Cao đường trí tửu dạ kích cổ
Hồ già nhất khúc đoạn nhân trường
Tọa khách tương khan lệ như vũ.
VIẾT THƠ SAU KHI RƯỢU SAY NGAY TRÊN TIỆC NHÀ THÁI THÚ TỬU TUYỀN
Thái thú Tửu Tuyền gươm giỏi múa
Nhà cao mở tiệc đêm trống gõ
Khèn Hồ một khúc nghe não lòng
Nhìn nhau lệ khách như mưa đổ.
■
∗ - Tửu Tuyền : Địa danh ở tây bắc tỉnh Cam Túc.
272
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
XUÂN MỘNG
Động phòng tạc dạ xuân phong khởi,
Dao ức mỹ nhân Tương Giang thủy.
Chẩm thượng phiến thời xuân mộng trung,
Hành tận Giang Nam sổ thiên lý.
GIẤC MƠ XUÂN
Tối trước phòng khuê gió xuân nổi
Nhớ xa người đẹp bến sông Tương.
Mơ xuân có lúc về bên gối,
Đi hết Giang Nam vạn dặm đường.
■
TẠ PHƯƠNG ĐẮC
273
TẠ PHƯƠNG ĐẮC (1226 - 1289)
Quê ở Qua Dương (Giang tây). Tự là Quán Trực – hiệu là Diệp Sơn, từng làm quan thời Nam Tống. Khi Nam Tống bị diệt, ông đổi họ tên và đi ở ẩn - nhà Nguyên nhiều lần mời ông làm quan nhưng ông đều từ chối.
KHÁNH TOÀN AM HOA ĐÀO
Tầm đắc Đào Nguyên hảo tỵ Tần Đào hồng hựu thị nhất niên xuân Hoa phi mạc khiển tùy lưu thủy, Phạ hữu ngư lang lai vấn tân.
MỪNG HOA ĐÀO AM TOÀN
Tìm được Đào Nguyên∗ để tránh Tần
Hồng đào giờ lại một năm xuân
Hoa bay đừng để theo dòng nước
E có chàng ngư∗ đến hỏi thăm./. ∗ Đào Nguyên: Tên một động núi ở Hồ Nam – Đào Tiềm đã viết bài ký Đào Nguyên, kể chuyện hai người thuyền chài là Lưu Thần, Nguyễn Triệu lạc vào đây, gặp gỡ dân cư vùng này, vốn là người tránh loạn lạc đời Tần truyền lại. Sau khi về, trở lại không thấy nữa. Người đời cho là gặp Tiên. Cũng gọi “đầm Đào hoa”. Đường nhầm với đầm Đào hoa mà Lý Bạch viết thơ tặng Uông Luân.
274
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÀM PHỤ NGÂM
Tử quy đề triệt tứ canh thời
Khởi thị tàm điều phạ diệp hi
Bất tín lâu đầu dương liễu nguyệt
Ngọc nhân ca vũ vị tằng qui.
NGƯỜI ĐÀN BÀ CHĂN TẰM
Tử quy∗ khắc khoải bốn canh khuya
Dậy ngó dâu tằm sợ ít đi,
Đâu biết lầu cao trăng liễu sáng,
Đàn ca người ngọc vẫn chưa về!
■
∗ Chàng ngư: người đánh cá, ông chài. ∗ Tử quy: Tức chim đỗ quyên, kêu đêm, tương truyền kêu đến lúc miệng ứa ra máu.
TẠ CAO
275
TẠ CAO
QUÁ HÀNG CHÂU CỐ CUNG
Hòa thử hà nhân vi thủ hôn,
Lạc hoa đài điện ám tiêu hồn.
Triều Nguyên các hạ quy lai yến,
Bất kiến tiền đầu anh vũ ngôn.
QUA CUNG CŨ Ở CHÂU HÀNG
Ngô lúa nhà ai xanh giữa cưa
Hoa rơi cung điện ngẩn ngơ hồn
Triều Nguyên dưới gác đi về én
Tiếng vẹt năm nao cũng chẳng còn.
■
276
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÀO BÌNH Quê Ôn Châu (Chiết Giang). Tự là Tây sĩ, hiệu là Đông Xuyên. Người thời Tống.
XUÂN MỘ
Môn ngoại vô nhân vấn lạc hoa
Lục âm nhiễm nhiễm biến thiên nha
Lâm oanh đề đáo vô thanh xứ
Thanh thảo trì đường độc thính oa.
CHIỀU XUÂN
Ngoài cửa hoa rơi không kẻ hỏi
Chân trời tít tắp dải màu xanh
Oanh rừng hót thấu nơi im phắc
Cỏ rậm bờ ao ếch ộp mình.
■
TÀO BÌNH
TẠ CAO
277
TÀO NGHIỆP
QUAN THƯƠNG THỬ
Quan thương lão thử đại như đẩu,
Kiến nhân khai thương diệc bất tẩu.
Kiện nhi vô lương, bách tính cơ,
Thùy khiển triêu triêu nhập quân khẩu.
CHUỘT KHO CÔNG
Kho chung đàn chuột to hiếm thấy,
Thấy người mở kho cũng không chạy.
Trăm họ thiếu đói, lính không lương,
Sớm tối ai đưa vào miệng ấy?.
■
TÀO NGHIỆP
278
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TĂNG KỶ (1084 – 1166)
Quê ở Giang Tây. Tự là Cát Phủ, hiệu là Trà Sơn. Là thầy học của Lục Du (Tống).
TAM CÙ ĐẠO TRUNG
Mai tử hoàng thời nhật nhật tình,
Tiểu khê phiếm tận khước sơn hành.
Lục âm bất giảm lai thời lộ,
Thiêm đắc hoàng ly tứ ngũ thanh.
DỌC ĐƯỜNG ĐI TAM CÙ
Khi mơ vàng chín trời khô tạnh
Khe lạnh qua rồi leo nú xanh
Màu thắm vẫn như đường mới tới
Lại thêm dăm bảy tiếng vàng oanh.
■
TĂNG KỲ
TẠ CAO
279
TÂN KHÍ TẬT
TỐNG KIẾM DỮ PHÓ NHAM TẨU
Mạc Da tam xích chiếu nhân hàn,
Thí dữ khiêu đăng tử tế khan.
Thả quải không trai tác cầm bạn,
Vị tu huề khứ trảm Lâu Lan.
TẶNG GƯƠM CỤ PHÓ NHAM
Mạc Da∗ ba thước ánh gươm hàn
Khêu ngọn đèn to ngắm kỹ càng
Viện vắng bên đàn treo có bạn
Chưa cần dùng để chém Lâu Lan∗.
■
∗ Mạc Da: tên thanh gươm quý ∗ Lâu Lan: Một bộ tộc ở Trung Quốc xưa.
TÂN KHÍ TẬT
280
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TẦN QUÁN
XUÂN NHẬT
Nhất tịch khinh lôi lạc vạn ty,
Tễ quang phù ngõa bích sâm si.
Hữu tình thược dược hàm xuân lệ,
Vô lực tường vi ngọa hiểu chi.
NGÀY XUÂN
Sấm tối ù vang tơ rụng sạch
Mây quang ngói biếc mái so le
Đa tình thược dược xuân đằm lệ
Ẻo lả nghiêng mình một nhánh Vi.
■
TẦN QUÁN
TẠ CAO
281
THÁI XÁC Quê Tân Giang (Phúc Kiến). Tự là Từ Chinh, làm Tể tướng thời Tống Thần Tông. Ủng hộ Tân pháp của Vương An Thạch. Sau bị biếm
THỦY ĐÌNH ∗
Chỉ bình thạch chẩm, trúc phương sàng,
Thủ quyện phao thư ngọ mộng tràng
Thụy khởi hoãn nhiên thành độc tiếu
Sổ thanh ngư địch tại Thương Lang∗.
ĐÌNH BÊN SÔNG
Bình phong, gối đá, trúc kên giường
Buông sách trưa hè giấc mộng vương
Tỉnh dậy, một mình cười mỉm miệng
Sáo chài vài tiếng vọng Thương Lang.
■
∗ Bài này còn có tên “Hạ nhật đăng Xa Cái đình” – ngày hè lên chơi đình Xa Cái. ∗ Thương Lang: Tên sông ở Hồ Bắc – dân gian Trung Quốc xưa có câu: “Nước sông Thương Lang trong chừ, ta có thể giặt giải mũ – Nước sông Thương Lang đục chừ, ta có thể rửa đôi chân”. Ý nói về sự linh hoạt ở đời.
THÁI XÁC
282
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THẠCH NHU
TUYỆT CÚ
Lai thời vạn lũ lộng khinh hoàng,
Khứ nhật phi cầu mãn lộ bàng.
Ngã tỷ dương hoa cánh phiêu đãng,
Dương hoa chỉ thị nhất xuân mang.
THƠ 4 CÂU
Muôn tơ khi tới sắc hoe vàng
Tới lúc bay đi hạt khắp đường
Nênh nổi hoa dương sao sánh được
Vì hoa chỉ vội lúc xuân sang.
■
THẠCH NHU
TẠ CAO
283
THẨM THUYÊN KỲ Quê Châu tương (An Dương, Hà Nam). Tên tự là Vân Khanh, đỗ Tiến sĩ năm 675, làm chức Khảo Công Lang, mắc tội ăn hối lộ bị bỏ ngục. Khi kẻ bao che là Trương Dịch Chi bị giết, Thẩm bị đày sang châu Hoan (Việt Nam). Sau đó được gọi về nước làm chức Trực học sĩ quán Tu Văn, rồi Trung thư lệnh Xá nhân, Thái tử thiếu thiêm sự. cùng nổi tiếng với Tống Chi Vấn. Đời gọi là “Thẩm Tống”.
MANG SƠN
Bắc mang sơn thượng liệt phần doanh Vạn cổ thiên thu đối Lạc Thành Thành trung nhật tịch ca chung khởi Sơn thượng duy văn tùng bách thanh.
NÚI MANG
Bắc Mang∗ núi ấy mộ rải khắp
Ngàn vạn năm qua cạnh Thành Lạc
Chiều xế trong thành đàn hát vang
Trên non chỉ thấy tiếng thông trắc.
■
∗ - Bắc Mang: tên một núi ở Lạc Dương.
THẨM THUYÊN KỲ
284
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÍCH HẠO NHIÊN Quê ở Ngô Hưng (tỉnh Giang Tô). Vốn họ Tạ, tự là Thanh Trú, dòng dõi nhà thơ Tạ Linh Vận thời Lục triều, đi tu ở chùa Trữ Sơn. Năm đầu Trinh Nguyên, được cử làm việc tập hợp thơ văn của các vị cao tăng (khoảng 10 cuốn). Sau đó về trụ trì ở chùa Tây Lâm núi Lư. Còn lại mấy tập thơ: Thi thức, Trú thượng nhân tập,… Theo một tài liệu: Thời Nguy – Tấn, lúc đầu những người tu phật thường lấy tên của Sư tổ làm họ. Từ nhà sư thời Tấn là Ngụy Đạo An bắt đầu lấy chữ “Thích” (do Thích Ca là Phật tổ) làm họ. Từ đó thành nếp.
TÁI H Ạ KHÚC
Hàn tái vô nhân kiến Lạc Mai Hồ phong xuy nhập địch thanh lai Lao Lao đình thượng xuân ưng độ Dạ dạ∗ thành nam chiến vị hồi.
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI
Ải lạnh “Mơ rơi” ∗ bỗng chợt nghe
Khèn Hồ theo gió tiếng vu vi
Lao Lao∗ đình ấy xuân đang tới
Tối tối thành nam lính chửa về./. ∗ Dạ dạ (đêm đêm): Còn là tên thành. ∗ Mơ rơi: Tên một khúc hát. ∗ Lao Lao: Tên một đình ở Giang Minh (tỉnh Giang Tô) nơi người đi tiễn nhau ở Kim Lăng (Nam Kinh)
THÍCH HẠO NHIÊN
THÍCH LINH NHẤT
285
THÍCH LINH NHẤT Vốn họ Ngô, quê ở Diệm Trung (tỉnh Chiết Giang), có sách nói Quảng Lăng, Giang Đô, tỉnh Giang Tây. Chín tuổi đi tu, sau đó trụ trì ở chùa Vân Môn, khe Nhược Da ( Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang) có nhiều. Tính ông thích núi sông, thường đi thăm các núi, các chùa ở Chiết Đông và Chiết Tây. Chơi thân với Chu Phóng. Có tập thơ “Linh Nhất”.
TĂNG VIỆN∗
Hổ Khê∗ nhà nguyệt dẫn tương qua
Đới tuyết tùng chi quải tiết la∗
Vô hạn thanh sơn hành dục tận
Bạch vân thâm xứ lão tăng đa.
► ∗ Đầu đề có sách in “Đề nhà chùa”. ∗ Hổ Khê: Tên sông, gần chùa Đông Lâm núi Lư (tỉnh Giang Tây). Đời Tấn có nhà sư giỏi tên là Tuệ Viễn tu ở chùa này. Khách tới thăm, nhà thơ chỉ tiễn tới bờ sông, nhưng khi Đào Uyên Minh và Lục Tĩnh Tu tới thăm thì sư Tuệ Viễn tiễn sang sông Hổ Khê. Ba người nhìn cả nhau cười, do đó có điển tích “Ba người cười bên sông Hổ Khê”. ∗ Tiết la: Tên một loài cây leo.
THÍCH LINH NHẤT
286
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NHÀ CHÙA
Hổ Khê trăng lặng tiễn nhau qua
Tuyết đọng cành thông trĩu tiết la
Dằng dặc non xanh đi muốn hết
Nơi sâu mây trắng lắm sư già.
■
THÍCH LINH NHẤT
287
THIÊN BẢO CUNG NHÂN
HỰU ĐỀ LẠC UYỂN NGÔ DIỆP THƯỢNG
Nhất diệp đề thi xuất cấm thành,
Thùy nhân thù họa độc hàm tình.
Tự ta bất cập ba trung diệp,
Đãng dạng thừa xuân thủ tiện hành.
LẠI ĐỀ THƠ LÁ NGÔ ĐỒNG TRONG VƯỜN LẠC DƯƠNG
Một lá thơ đề vượt cấm thành,
Ai người họa nhỉ kết chung tình.
Tự than kém lá trong làn sóng,
Nênh nổi theo xuân thỏa viễn hành.
■
THIÊN BẢO CUNG NHÂN
288
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÔI HỘ Tên tự là Âm Công, người Bắc Lăng (Hà Nam), rất đẹp trai, đỗ Tiến sĩ thời Đường Trinh Nguyên, từng làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam.
ĐỀ ĐÔ THÀNH NAM TRANG ∗
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri∗ hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
►
∗ - Một ngày thanh minh, thôi Hộ đi chơi phía nam kinh thành, thấy một trang trại trồng rất nhiều đào, bèn gọi cửa xin nước uống, trong trang trại có một cô gái xinh đẹp ra mở cổng hỏi họ tên và đem nước ra mời, tình ý đậm đà. Năm sau, cũng tiết thanh minh, Thôi lại tới không gặp người xưa, bèn viết thơ lên cánh cổng rồi đi. Sau vài ngày Thôi trở lại, thấy trong trang trại có tiếng khóc, bèn vào hỏi chuyện. có ông già ra hỏi: Ngài có phải là Thôi tiên sinh không? Con gái tôi sau khi đọc thơ của ngài ở cánh cổng rồi khóc than và nhịn ăn đến chết. Hộ xin vào thăm thì cô gái lại tỉnh. Bèn cưới làm vợ. Năm đầu Trinh Nguyên thi đỗ Tiến sĩ. ∗ - Chữ “Bất tri” có sách chép là “Chỉ kim”.
THÔI HỘ
THÍCH LINH NHẤT
289
ĐỀ LÀNG NAM KINH THÀNH
Ngày này năm ngoái cổng bên trong
Người đẹp hoa đào lẫn ánh hồng
Người đẹp giờ đâu không rõ nữa
Hoa đào như cũ nở làn đông.
■
THÔI HỘ
290
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÔI HUỆ ĐỒNG Người quê châu Bác (phía tây bắc Liêu Thành, tỉnh Sơn Tây). Con Thôi Đình Ngọc, Thứ sử châu Ký. Lấy công chúa Tấn quốc (con gái Đường Huyền Tông).
YẾN THÀNH ĐÔNG TRANG∗
Nhất nguyệt chủ nhân tiếu kỷ hồi Tương phùng tương trị thả hàm bôi Nhẫn khan xuân sắc như lưu thủy Kim nhật tàn hoa tạc nhật khai.
ĂN TIỆC Ở TRANG TRẠI NGOẠI Ô PHÍA ĐÔNG KINH THÀNH
Một tháng chủ nhân mấy chuyến cười∗
Gặp nhau đông đảo rượu nâng mời
Mắt xem xuân sắc như dòng chảy
Hoa rụng hôm nay trước tươi.
■
∗ Đầu đề thơ: Có sách còn ghi thêm mấy chữ “phụng họa” (vâng họa). Cười mấy lần: Theo Trang Tử, đời người 100 năm, mỗi tháng thường chỉ có bốn, năm ngày cười vui.
THÔI HUỆ ĐỒNG
THÔI HUỆ ĐỒNG
291
THÔI LỖ Không rõ quê quán, năm sinh. Khoảng năm 850 đỗ Tiến sĩ, làm chức Tư mã châu Đệ phía nam Huệ Dân (tỉnh Quảng Đông).
HOA THANH ∗ CUNG
Thảo già hồi đắng tuyệt minh loan Vân thụ thâm thâm bích điện hàn Minh nguyệt tự lai hoàn tự khứ Cánh vô nhân ỷ ngọc lan can.
CUNG HOA THANH
Cỏ lan bậc cuốn∗ bặt chuông loan∗
Thăm thẳm mây cây điện biếc hàn
Trăng sáng tự đi rồi tự lại
Chả còn ai tựa ngọc lan can. ■ ∗ - Hoa Thanh: Giữa núi Ly, phía đông bắc Trường An có suối nóng, lúc đầu vua Đường cho xây Ly cung ở đây, gọi là “Ôn Tuyền Cung” (suối nóng). Thời Đường Huyền Tông đổi tên là cung Hoa Thanh, luôn luôn cùng với Dương Quý Phi đi chơi nơi này. Trong thơ Bạch Cư Dị cũng có nhắc tới. ∗ - Bậc cuốn: Bậc đá xây cuốn trước cửa cung Hoa Thanh ∗ - Chuông loan: Chuông nhỏ đúc theo hình chim loan, đeo ở xe, kiệu.
THÔI LỖ
292
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÔI MẪN ĐỒNG Là em của Thôi Huệ Đồng, quê ở châu Bác (phía tây bắc
Thành Liêu, Tỉnh Sơn Đông), làm chức Phò mã Đô úy.
YẾN THÀNH ĐÔNG TRANG
Nhất niên thủy hữu nhất niên xuân
Bách tuế tằng vô bách tuế nhân
Năng hướng hoa tiền kỷ hồi túy
Thập thiên cô tửu mạc từ bần.
DỰ TIỆC Ở TRANG TRẠI NGOẠI Ô PHÍA ĐÔNG KINH THÀNH
Một năm mới có một mùa xuân
Trăm tuổi không người tuổi chẵn trăm
Nếu được bên hoa say túy lúy
Ngàn muôn∗ mua rượu chớ lần khân.
■
∗ - Ngàn muôn: Ý nói bao nhiêu cũng không ngại tiếc.
THÔI MẪN ĐỒNG
THÔI HUỆ ĐỒNG
293
THÔI QUỐC PHU Quê Sơn Âm (Chiết Giang), năm 726 đỗ Tiễn sĩ, làm Trực học sĩ viện tập Hiền, rồi Lang trung bộ Lễ. khoảng năm Thiên Bảo, Ngự sử Đại phu là Vương Cung mắc tội chết, vì thân cận nên Thôi bị đày đi làm Tư mã ở Cánh Lăng (Hồ Bắc).
CỬU NHẬT
Giang môn phong lạc cúc hoa hoàng Thiếu trương đăng cao nhất vọng hương Cửu nhật Đào gia tuy tải tửu Tam niên Sở khách dĩ triêm thường.
NGÀY MÙNG CHÍN
Bên sông phong rụng cúc hoa vàng
Già trẻ lên cao ngóng xóm làng
Mồng chín∗ ông Đào∗ dù chở rượu
Ba năm khách Sở∗ lệ còn vương. ■
∗ Lúc này Thôi đang làm Tư mã ơ Cánh Lăng Mồng 9 tháng 9: Nhân dân có lệ lên cao ngó về xóm làng cũ ∗ Ông Đào: tức Đào Uyên Minh * Khách Sở: Cánh Lăng là vùng nước Sở cũ.
THÔI QUỐC PHU
294
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THƯỜNG KIẾN ( ? ) Quê ở Trường An, đỗ Tiến sĩ năm 727. làm quan đến chức huyện úy Hu Thai (tỉnh An Huy) thời Đường Đại Lịch. Thăng tiễn chậm, bất mãn, sống cuộc đời ẩn dật, lãng du. Có tư liệu nói ông thường gặp tiên nữ trao cho phép thuật. Cuối đời, về ẩn ở núi Ngạc Chử (Vũ Xương, Hồ Bắc), rủ Vương Xương Linh cùng sống cuộc đời tự do.
TÁI H Ạ∗ KHÚC I
Ngọc bạch∗ triều hồi vọng đế hương
Ô Tôn∗ quy khứ bất xưng vương Thiên nhai tĩnh xứ vô chinh chiến Binh khí tiêu vi nhật nguyệt quang.
KHÚC HÁT XUỐNG ẢI I
Ngọc lụa chầu về nơi đế khuyết
Ô Tôn từ đó chẳng xưng vương
Chân trời ắng lặng không chinh chiến
Loạn hết, trời trăng ánh rõ ràng.
■ ∗ - Tái hạ: Tên một khúc hát trong nhạc phủ ∗ - Ô Tôn: Tên một nước ở vùng núi Thiên Sơn ∗ - Ngọc bạch: Ngọc quý và lụa gấm, Chư hầu đem ngọc lụa vào cống – tiền.
THƯỜNG KIẾN
295
TÁI H Ạ KHÚC II
Bắc Hải âm phong động địa lai
Minh Quân∗ từ thượng vọng Long Đôi∗
Xúc lâu giai thị Trường Thành∗ tốt Nhật mộ sa trường phi tác hôi.
KHÚC HÁT XUỐNG ẢI II
Bắc Hải heo may động đất trời
Đền Minh Phi ấy ngó Long Đôi
Sọ Khô đầu lính xây thành trước
Ngày xế tro bay loạn cát đồi.
■ ∗ Minh Quân: Tức Vương Tường – Chiêu Quân, cung phi đời Hán Nguyên Đế. Vì không chịu đút lót cho thợ vẽ, nên tranh xấu không được vua vời. sau lại được gả sang Hồ, vì nhà vua chọn tranh của một cung phi xấu nhất. Khi thấy Chiêu Quân thực rất đẹp thì chuyện đã rồi. Do đó, Hán Vũ Đế sai giết bọn thợ vẽ Mao Diên Thọ, bêu xác ở chợ ∗ Long Đôi: Tên gọi Kinh đô Hung Nô xưa. ∗ Thành: Đây là Vạn Lý Trường Thành, đắp từ thời Tần Thủy Hoàng.
296
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TAM NH ẬT TẦM LÝ CỬU TRANG
Vũ yết dương lâm đông độ đầu
Vĩnh Hòa tam nhật đẳng khinh châu
Cố nhân gia tại Đào hoa ngạn
Trực đáo môn tiền khê thủy lưu.
NGÀY 3 ∗ (THÁNG 3) TÌM TRANG TRẠI CỦA LÝ CỬU
Rừng liễu bờ đông mới tạnh mưa
Vĩnh Hòa∗ hàn thực lướt con đò
Cố nhân nhà ở dinh Đào ấy
Trước cổng dòng khe chảy lững lờ.
■
∗ Ngày 3: Tức “mồng 3 tháng 3”, tết Hàn thực, xưa còn gọi là tết “Thượng tỵ” nghĩa là ngày tỵ tuần đầu tháng 3. ∗ Vĩnh Hòa: Niên hiệu đời Tấn, năm Vĩnh Hòa thứ 9, Vương Hy Chi (một nhà thơ hay, bút thiếp đẹp) nhân tết Hàn Thực họp bạn mời tiệc ở Lan Đình (thuộc Cối Kê, Thiệu Hưng, Chiết Giang).
THƯỜNG KIẾN
297
TỐNG VŨ VĂN LỤC
Hoa ánh thùy dương Hán thủy∗ thanh
Vi phong lâm lý nhất chi khinh
Tức kim giang bắc hoàn như thử
Sầu sái giang nam ly biệt tình.
TIỄN ANH SÁU VŨ VĂN
Hoa ánh bờ dương bến Hán xanh
Ngang rừng gió động nhẹ lay cành
Hôm nay sông bắc còn như thế
Quá ngán sông nam cách biệt tình.
■ ∗ Hán Thủy: Tên sông lớn chảy qua Hà Bắc tới Vũ Hán hợp cùng với Kinh Giang (đoạn sông Trường Giang chảy qua Vũ Hán). Lúc này tác giả có thể ở gần Nhạc Dương (tỉnh Hồ Nam). Vũ Văn đi sông bắc (Dương Tử Giang)
298
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TIỀN KHỞI Tự là Trọng Văn, quê ở Ngô Hưng, tỉnh Chiết Giang. Thuở nhỏ rất thông minh. Đậu Tiến sĩ năm 751. Từ năm 766 – 779 làm Thái Thanh cung sứ và hàn lâm viện học sỹ, là một trong “Đại Lịch thập tài tử”, nổi tiếng về thơ. Thời ấy có gọi “Ti ền Lang” – tức là Tiền Khởi và Lang Sĩ Nguyên, hai nhà thơ hay.
QUY NHẠN
Tiêu Tương hà sự đẳng nhàn hồi
Thủy bích sa minh lưỡng ngạn đài
Nhị thập ngũ huyền đàn dạ nguyệt
Bất thăng thanh oán khước phi lai.
NHẠN VỀ
Tiêu Tương∗ sao đợi nhạn về đây
Cát sáng dòng xanh rêu bến dày
Đàn sắt∗ ngân đêm trăng loáng ánh
Xiết bao nỗi oán vọng trời mây. ■ ∗ Tiêu Tương: Sông Tương ( chảy vào hồ Động Đình) tới Linh Lăng (phía nam tỉnh Hồ Nam) hợp lưu với sông Tiêu. ∗ Đàn sắt: 25 dây.
TIỀN KHỞI
299
MỘ XUÂN QUI CỐ SƠN THẢO ĐƯỜNG
Cốc khẩu xuân tàn hoàng điểu hi,
Tân di hoa tận, hạnh hoa phi
Thủy liên u trúc sơn song hạ.
Bất cải thanh âm đãi ngã qui.
XUÂN MUỘN TRỞ VỀ LỀU NÚI CŨ
Xuân tàn cửa động chim vàng ít,
Hoa hạnh, tân di thảy lụi đi
Yêu quá lùm tre ngang sổ núi
Xanh râm chẳng đổi đợi ta về.
■
300
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TIẾT ĐÀO Danh kỹ đời Đường – là bạn thân của Vương Duy, Lý Bạch v.v.
TỐNG HỮU NHÂN
Thủy quốc kiêm hà dạ hữu sương,
Nguyệt hàn sơn sắc cộng thương thương.
Thùy ngôn thiên lý tự kim tịch
Ly mộng diểu như quan lộ trường.
TIỄN BẠN
Bãi sậy bờ lau tối đẫm sương
Mầu trăng sắc núi lạnh mênh mang
Ai rằng nghìn dặm đêm nay cách
Mộng biệt dài như vạn dặm đường.
■
TIẾT ĐÀO
TIẾT ĐÀO
301
TIỂU THUYẾT CHI Quê Tế Châu (Sơn Đông). Tự là Dĩ Đạo – hiệu là Cảnh Vu Sinh. Đậu Tiến sĩ thời Tống Thần Tông.
ĐẢ CẦU ĐỒ
Xương hạp thiên môn vạn hộ khai,
Tam lang trầm túy đả cầu hồi
Cửu Linh dĩ lão, Hàn Hưu tử
Vô phục minh triều gián sớ lai.
BỨC TRANH CHƠI CẦU
Cung điện ngàn muôn cửa sáng ngời
Tam Lang∗ mê mải đá cầu chơi
Cửu Linh∗ già lão, Hàn Hưu mất
Dâng sớ can ngăn cha có người.
■
∗ Tam Lang: Tên gọi khác của Đường Minh Hoàng. ∗ Trương Cửu Linh, Hàn Hưu: Những viên quan dám can ngăn những điều sai trái.
TIÊU THUYẾT CHI
302
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÔ PHỤC CỔ
SƠ HẠ DU TRƯƠNG VIÊN
Nhũ áp trì đường thủy thiển thâm
Thục mai thiên khí bán tình âm
Đông viên tải tửu tây viên túy
Trích tận tỳ bà nhất thụ câm.
ĐẦU HÈ CHƠI VƯỜN NHÀ HỌ TRƯƠNG
Vịt nhỏ đùa bơi khắp vũng đầm
Mơ vàng trời tạnh lại râm râm
Vườn đông chở rượu, vườn tây khướt
Một gốc tỳ bà quả trụi lâng.
■
TÔ PHỤC CỔ
TÔ PHỤC CỔ
303
HOÀI THÔN BINH H ẬU
Tiểu đào vô chủ tự khai hoa
Yên thảo mang mang vãn đới nha
Kỷ xứ bại viên vi cổ tỉnh
Hướng lai nhất nhất thị nhân gia.
LÀNG HOÀI SAU BINH H ỎA
Đào con không chủ tự ra hoa
Cỏ khói mênh mang tối đậu quả
Mấy chỗ tường xiêu vây giếng cũ
Trước kia đây đó thẩy là nhà.
■
304
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÔ THỨC (1037 – 1101)
Quê ở Mi Sơn (Tứ Xuyên) – hiệu là Đông Pha. Bố là Tô Toàn, em trai là Tô Triệt đều là danh sĩ thời Tống.
ẨM HỒ THƯỢNG SƠ TÌNH
Thủy quang liễm diễm tình phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ
Dục bả Tây hồ tỷ Tây∗ tử
Đạm trang nùng mạt tổng tương nghi.
UỐNG RƯỢU TRÊN HỒ SAU LÚC MƯA TẠNH
Nước loáng mênh mang trời mới tạnh
Màu mưa màu núi thảy tân kỳ
Tây hồ đem sánh cùng Tây tử
Mọi vẻ yêu kiều chả khác chi.
■
∗ - Tây Thi: Một người đẹp nổi tiếng ở nước Việt xưa.
TÔ THỨC
305
CÁT TƯỜNG TỰ HOA TƯƠNG LẠC NHI TRẦN THUẬT CỔ KỲ BẤT CHÍ
Kim tuế đông phong xảo tiễn tài,
Hàm tình chỉ đãi sứ quân lai.
Đối hoa vô ngữ hoa ưng hận,
Trực khủng minh niên hoa bất khai.
HOA CHÙA CÁT TƯỜNG SẮP RỤNG NHƯNG TRẦN THUẬT CỔ KHÔNG TỚI
Nay gió đông về khéo điểm trang
Sớm chiều chờ đợi sứ quân sang
Trước hoa không nói hoa đừng giận
Chỉ sợ năm sau nụ muộn màng.
■
306
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CÁT TƯỜNG TỰ TĂNG CẦU CÁC DANH
Quá nhãn vinh khô điện dữ phong,
Cửu trường na đắc tự hoa hồng.
Thượng nhân yến tọa quan không cac,
Quan sắc quan không sắc tức không.
CHÙA CÁT TƯỜNG SƯ NHỜ ĐẶT TÊN GÁC
Trải đủ tươi rầu, sấm với dông
Dài lâu sao được tựa hoa hồng
Sư già trong tiệc, nhìn quanh gác
Xem sắc xem không sắc tức không.
■
TÔ THỨC
307
DĨ NGỌC ĐÁI THI NGUYÊN TR ƯỞNG LÃO, NGUYÊN DĨ NẠP QUẦN TƯƠNG BÁO
Bệnh cốt nan kham ngọc đái vi,
Độn căng nhưng lạc tiễn phong ky
Dục giao khất thực ca cơ viện,
Cố dữ vân sơn cựu nạp y.
ĐEM ĐAI NGỌC TẶNG TRƯỞNG LÃO HỌ NGUYÊN, ÔNG TẶNG LẠI ÁO SỢI CỦA
NHÀ CHÙA
Đai ngọc thân gày khó xứng đôi
Ngu xi đành chịu phận hèn tồi
Khó trao ca quán mong sinh lợi
Nên gửi chùa am bạn áo sồi.
■
308
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HẬU THẬP DƯ NHẬT PHỤC CHÍ ∗
Đông quân ý thiển trước hàn mai,
Thiên đóa thâm hồng vị hạ tài.
An đắc đạo nhân Ân Thất Thất,
Bất luôn thời tiết khiển hoa khai.
SAU MƯỜI NGÀY LẠI TỚI
Chúa xuân nông nổi chăm mai lạnh
Ngàn đóa hồng tươi chửa kịp trồng
Sao được đạo nhân An Thất Thất∗
Mùa nào hóa phép cũng đơm bông.
■
∗ Có thể lại tới chua Cát Tường. ∗ An Thất Thất: Tên một đạo sĩ.
TÔ THỨC
309
ĐỀ TÂY LÂM BÍCH
Hoành khan thành lĩnh trắc thành phong,
Viễn cận cao đê các bất đồng.
Bất thức Lư Sơn∗ chân diện mục,
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung.
ĐỂ TRÊN TƯỜNG CHÙA TÂY LÂM
Nhìn ngang là núi, nghiêng là ngọn
Cao thấp gần xa khác lạ lùng
Thực trạng núi Lư khôn biết được
Bởi mình quanh quẩn đứng trong vòng.
■
∗ - Lư Sơn: Một danh thắng ở Trung Quốc.
310
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐỀ THẨM QUÂN CẦM
Nhược ngôn cầm thượng hữu cầm thanh,
Phóng tại hạp trung hà bất minh ?
Nhược ngôn thanh tại chỉ đầu thượng,
Hà bất ư quân chỉ thượng thính.
ĐỀ THƠ CHIẾC ĐÀN ÔNG THẨM
Bảo rằng tiếng đàn từ dây phím
Sao đàn trong hộp chả vang dây
Còn như bảo tiếng đàn do ngón
Sao chả nghe đàn ở ngón tay?
■
TÔ THỨC
311
ĐÔNG CHÍ NHẬT ĐỘC DU CÁT TƯỜNG TỰ
Tỉnh để vi dương hồi vị hồi,
Tiêu tiêu hàn vũ thấp khô cai.
Hà nhân cánh tự tô phu tử,
Bát thị hoa thờ khẳng độc lai.
NGÀY ĐÔNG CHÍ MỘT MÌNH ĐI THĂM CHÙA CÁT TƯỜNG
Nắng nhạt còn hoe mặt giếng thơi
Gốc khô lạnh lẽo đẫm mưa rồi
Có ai giống được thầy Tô∗ nhỉ
Giữa lúc không hoa vẫn tới chơi.
■
∗ - Thầy Tô: Tự nói.
312
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐÔNG PHA
Vũ tẩy Đông Pha nguyệt sắc thanh,
Thị nhân hành tận dã nhân hành.
Mạc hiềm lạc xác pha đầu lộ,
Tự ái khanh nhiên duệ trượng thanh.
GÒ ĐÔNG
Mưa gội gò Đông trăng bốn bề
Phố phường vắng hết, rộn người quê.
Đừng hiềm khấp khểnh đường leo dốc
Vì thích nghe dài tiếng gậy lê.
■
TÔ THỨC
313
HẢI ĐƯỜNG
Đông phông niểu niểu phiếm sùng quang
Hương vụ không mông nguyệt chuyển lang
Chỉ khủng dạ thầm hoa thụy khứ,
Cố thiêu cao chúc chiếu hồng trang.
HOA HẢI ĐƯỜNG
Đầy trời sương móc trăng dời bóng
Dìu dịu mơ màng trận gió đông
Chỉ sợ canh khuya hoa ngủ thiếp
Nên nâng cao đuốc dọi xiêm hồng.
■
314
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOA ẢNH
Trùng trùng điệt điệt thướng Dao Đài
Kỷ độ hô đồng tảo bất khai
Cương bị thái dương thu nhập khứ
Khước giao ming nguyệt tống tườn lai.
BÓNG HOA
Tầng tầng lớp lớp tới Dao Đài
Mấy lượt đàn em quét chưa thôi
Trời xế nắng mờ vừa hết dấu
Đã ngời trăng tới rạng tương lai.
■
TÔ THỨC
315
HOÀI TH ƯỢNG TẢO PHÁT
Đạm nguyệt khuynh vân hiểu giác ai,
Tiểu phong xuy thủy bích lân khai
Thử sinh định hướng giang hồ lão
Mặc số Hoài trug thập vãng lai.
SỚM TỪ BÊN HOÀI
Trăng nhạt mây thưa, ốc sởm dài
Gió xô nước biếc sóng chơi vơi
Kiếp này già với sông hồ đấy
Từng chục lần qua lại bến Hoài.
■
316
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LỤC NGUYỆT NHỊ THẬP THẤT NHẬT VỌNG HỒ LÂU TÚY TH Ư
Phóng sinh ngư miết trục nhân lai
Vô chủ hà hoa đáo xứ khai.
Thủy chẩm năng linh sơn phủ ngưỡng,
Phong thuyền giải dữ nguyệt bồi hồi
NGÀY 27 THÁNG 6, SAY VIẾT TẠI LẦU VỌNG HỒ
Ba ba, cá thả quẫy bên người
Không chủ bông sen nở mọi nơi
Gối nước, núi như đầu cúi xuống
Bâng khuâng trăng gió ánh đò trôi.
■
TÔ THỨC
317
LƯ SƠN
Lư sơn yên tỏa Chiết Giang chiều,
Vị đáo sinh bình hận bất tiêu.
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự,
Lư sơn yên tỏa Chiết Giang triều.
LƯ SƠN
Non Lư khói phủ triều sông Chiết
Chưa tới, lòng luôn mãi khát khao
Tới được, thì ra cũng cha lạ
Non Lư khói phủ Chiết giang trào.
■
318
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
MAI HOA ( I )
Xuân lai u cốc thủy sàn sán,
Đích lạc mai hoa thảo cức gian.
Nhất dạ đông phong xuy thạch liệt,
Bán tùy phi tuyết độ quan san.
HOA MAI ( I )
Xuân về động thắm nước lan man
Mai rụng hoa đầy giữa cỏ hoang
Một tối gió đông ào đá lở
Nửa theo tuyết trắng vượt non ngàn.
■
TÔ THỨC
319
MAI HOA ( II )
Hà nhân bà tửu ủy thâm u,
Khai tự vô liêu lạc cánh sầu.
Hạnh hữu thanh khê tam bách khúc,
Bất từ tương tống đáo Hoàng Châu.
HOA MAI ( II )
Ai người nâng chén bớt thâm u
Nở rất bâng quơ rụng quá sầu
May có khe trong ba trăm khúc
Chẳng nề đưa tiễn tới Hoàng Châu.
■
320
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TẨY NHI HÍ TÁC
Nhân giai dưỡng tử vọng thông minh,
Ngã bị thông minh ngộ nhất sinh.
Duy nguyện hài nhi ngu thả lỗ,
Vô tai vô nạn đáo công khanh∗.
VIẾT ĐÙA TẶNG CON
Sinh con ai chả muốn thông minh
Ta vị thông minh lụy tới mình
Chi ước con thơ ngu lại vụng
Không tai không nạn tới công khanh.
■
∗ - Công khanh: Bậc quan to
TÔ THỨC
321
TẶNG LĨNH THƯỢNG MAI ∗
Mai hoa khai hậu bách hoa khai,
Quá tận hành nhân quân bất lai.
Bất sấn thanh mai đương chử tửu,
Yêu khan tế vũ thục hoàng mai.
TẶNG MAI L ĨNH THƯỢNG
Sau hoa mai nở trăm hoa nở
Chỉ vắng mình anh chả tới chơi
Chẳng được mơ xanh đem nấu rượu
Thì xem mưa bụi rụng vàng mai.
■
∗ Có tài liệu ghi bài này Tô làm sau khi bị biếm ở Quỳnh Châu (đảo Hải Nam) được triệu về kinh.
322
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TẶNG LƯU CẢNH VĂN
Hà tận dĩ vô kình vũ cái,
Cúc tàn do hữu ngạo sương chi.
Nhất niên hảo cảnh quân tu ký,
Tối thị chanh hoàng quất lục thì.
TẶNG LƯU CẢNH VĂN
Sen chết lọng xanh che mưa gió
Cúc tàn cành vẫn ngẩng trời sương
Một năm cảnh đẹp người nên nhớ
Là lúc chanh thơm quất chín vàng.
■
TÔ THỨC
323
THƯỢNG NGUYÊN∗ THỊ YẾN
Đạm nguyệt sơ tinh nhiễu Kiến Chương Tiên phong xuy hạ ngự lô hương
Thị thần kháo lập Thông Minh điện
Nhất đóa hồng vân bổng Ngọc Hoàng∗
. RẰM THÁNG RIÊNG HẦU TIỆC (1)
Trăng lạnh sao thưa điện Kiến Chương∗
Gió thơm lò ngự ngát đưa hương
Quan hầu đứng chật Thông Minh* điện
Một áng mây son đón Ngọc Hoàng.
.RẰM THÁNG RIÊNG HẦU TIỆC (2)
Trăng lạnh sao thưa điện Kiến Chương
Gió thơm lò ngự ngát đưa hương
Quan hầu đứng chật Thông Minh điện
Một áng mây son đón Ngọc Hoàng∗.
■ ∗ Thượng nguyên: Rằm tháng giêng âm lịch ∗ Ngọc Hoàng: Vua ∗ Kiến Chương, Thông Minh: Tên cung điện nhà vua ∗ Ngọc Hoàng: Vua
324
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỊCH THƯỢNG ĐẠI NHÂN T ẶNG BIỆT ( I )
Thê âm oán loạn bất thành ca.
Túng sử trùng lai nại lão hà.
Lệ nhãn vô cùng tự mai vũ,
Nhất phiên quân liễu nhát phiên đa.
GIỮA TIỆC THAY NGƯỜI TẶNG BIỆT ( I )
Nghẹn ngào lời tiếng chả thành ca
Lại gặp lần sau chắc đã già
Mắt lệ nhiều như mưa hạnh đổ
Càng phen gạt lệ, lệ càng sa.
■
TÔ THỨC
325
TỊCH THƯỢNG ĐẠI NHÂN T ẶNG BIỆT ( II )
Liên tử phách khai tu kiến ức,
Thu bình trước tận cánh vô kỳ.
Phá sam khước hữu trùng phùng xứ,
Nhất phạn hà tằng vong khước thì.
GIỮA TIỆC VIẾT THAY NGƯỜI KHÁC ( II )
Hạt sen tách vỏ thành liên nhục
Cờ tướng chơi xong chả hẹn kỳ
Áo rách cũng còn nơi để vá
Bữa này sao nỡ nhãng quên đi.
■
326
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
XUÂN TIÊU
Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim
Hoa hữu thanh hương nguyệt hữu âm
Ca quản lâu đài thanh tế tế
Thu thiên viện lạc dạ trầm trầm.
ĐÊM XUÂN
Ngàn vàng một khắc giá đêm xuân
Hoa ngát trăng trong cảnh tuyệt trần
Đàn hát lầu cao nghe vọng mãi
Đu bay sân rộng tối trầm dần.
■
TÔ THỨC
327
TRUNG THU NGUYỆT
Mộ vân thu tận dật thanh hàn
Ngân Hán vô thanh chuyển ngọc bàn
Thử sinh thử dạ bất trường hảo
Minh nguyệt minh niên hà xứ khan
TRĂNG RẰM TRUNG THU
Mây chiều thu hết trời quang lạnh
Mâm ngọc∗ Ngân hà∗ chuyển bước êm
Cuộc sống đêm nay vui vẻ nữa
Sang năm trăng sáng chốn nao nhìn.
■
∗ Mâm ngọc: Người xưa thường dùng mâm ngọc, mâm vàng…để chỉ mặt trăng rằm ∗ - Ngân hà: Ngân giang
328
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỐNG CHI VẤN (656 – 712)
Người Châu Phần (Sơn Tây), tên tự là Diên Thanh, Thiếu Liên, đỗ Tiến sĩ năm 675, được Võ Tắc Thiên trọng tài cho làm Giám thừa Thương phương. Tống xu phụ quyền thần Trương Dịch Chi (cung nhân của Võ hậu), khi Dịch Chi bị giết, Tống bị biếm đi Long Châu (Quảng Đông). Sau đó trốn về Lạc Dương, ẩn náu trong nhà Trương trọng Chi. Tống tố cáo Trọng Chi có âm mưu giết quyền thần Võ Tam Tư, nên được làm Chủ bạ Hồng Lô, rồi thăng chức Khảo công lang. vì cố a dua công chúa Thái Bình, bị giáng làm Trưởng sử châu Việt ( Chiết Giang). Ở đây Tống chỉ ngao du, chè chén cho qua ngày tháng. Khi Duệ Tông lên ngôi, thấy không sửa chữa, lại chuyển đi châu Khàm (Quảng Đông), sau đó được lệnh tự sát. Trước đó, Tống đã bị chỉ trích là sát hại Lưu Đình Chi. Tống là người nổi tiếng cùng thời với Thẩm Thuyên Kỳ (thời kỳ sơ Đường), đời gọi là “Thẩm Tống”.
HẠ SƠN CA
Hạ Tung sơn∗ hề đa sở ty Huề giai nhân hề bộ trì trì
∗ - Tung sơn: Còn có tên Ngoại Phương, ở Đăng Phong, tỉnh Hà Nam. Núi có 3 ngọn: ngọn giữa có tên Tuấn Cực, phía đông là ngọn Thái Thất, phía tây là ngọn Thiếu Thất.
TỐNG CHI VẤN
329
Tùng gian minh nguyệt trường như thử Quân tái du hề phục hà thì.
BÀI CA XUỐNG NÚI
Xuống núi Tung chừ nhiều suy tư
Cùng người đẹp chừ bước từ từ
Ngàn thông trăng sáng như thế mãi
Người lại đi chừ biết bao giờ. ■
TỐNG TƯ MÃ ĐẠO SĨ DU THIÊN THAI
Vũ khách∗ sênh ca thử địa vi Li diên sổ xứ bạch vân phi
Bồng Lai∗ khuyết hạ trường hương ức
Đồng Bá∗ Sơn đầu khứ bất quy.
TIỄN ĐẠO SĨ TƯ MÃ CHƠI THIÊN THAI
Đạo sĩ sênh ca biệt chốn ni Tiễn đưa mấy neo trắng mây đi
∗ Vũ khách: Người mặc áo lông nhẹ (tiên), là tiếng gọi của đạo sĩ. ∗ Bồng Lai: Ở đây chỉ cung vua. ∗ Đồng Bá: Tên núi ở phía tây Thiên Thai. Tư mã Thừa Trinh dựng nhà gọi là cung Đồng Bá. Tư mã Thừa Trinh là đạo sĩ (đạo Lão) được vua Đường Duệ Tông mời về kinh, nhưng ông không muốn lưu lại, do đó nhà vua cho mở tiệc lớn tiễn ông về núi Thiên Thai. Thừa Trinh cũng còn thơ họa đến nay.
330
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Bồng Lai dưới cửa dài mong nhớ Đồng Bá đầu non chẳng thấy về.
■
TRẦN DỮ NGHĨA Quê huyện Diệp, tự Khứ Phủ, hiệu Giản Trai, đậu Bác sĩ thời Tống Huy Tông – chính sự giỏi, thơ hay.
TƯƠNG ÁP ĐẠO TRUNG
Phi hoa lưỡng ngạn chiếu đò hồng,
Bách lý du đê bán nhật phong.
Ngọa khán mãn thiên vân bất động,
Bất tri vân dữ ngã câu đông.
ĐƯỜNG QUA TƯƠNG ÁP
Hai bờ hoa thắm ánh do hồng
Trăm dặm đê du gió trập trùng.
Nằm ngó đầy trời mây lặng tắp
Mây cùng ta đấy thẩy sang đông.
■
TRẦN DƯ NGHĨA
TRẦN ĐÀO
331
TRẦN ĐÀO
LŨNG TÂY HÀNH
Thệ tảo Hung Nô bất cố thân,
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần.
Khả liên Vô Định∗ hà biên cốt,
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
BÀI HÁT L ŨNG TÂY
Thề diệt Hung Nô chẳng tiếc thân,
Năm ngàn chiến sĩ đã xa trần.
Đáng thương xương trắng bờ Vô Định
Vẫn đậm mơ dài lắm gái xuân.
■ ∗ - Vô Định: Tên một con sông.
TRẦN ĐÀO
332
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRẦN HỰU ( ? )
TẠP THI
Vô Định hà biên mộ địch thanh
Hách Liên ài bạn lữ nhân tình
Hàm Quan quy lộ thiên dư lý
Nhất tịch thu phong bạch phát sinh.
TẠP THI
Vô Định∗ bên sông vai sáo tối
Hách Liên đài∗ ấy khách lênh đênh
Đường về Hàm Cốc∗ hơn ngàn dặm
Một tối làn thu tóc bạc nhanh.
■
∗ Vô Định: Tên sông gần Mễ Chi, phía bắc tỉnh Thiểm Tây, chảy vào Hoàng Hà. Vì dòng sông chảy xiết, lòng sông luôn luôn thay đổi (Vô Định) nên có tên này. ∗ Đài Hách Liên: Do Hách Liên Bột Bột (Hồ) nước Đại hạ xây dựng nên. Nay ở phía đông nam thành phố Ngân Xuyên, thủ phủ tỉnh Ninh Hạ. ∗ Hàm Cốc: Tên ải ở tỉnh Hà Nam, từ biên giới vào Trường An phải qua cửa ải này.
TRẦN HỰU
TRẦN HỰU
333
TRẦN NGỌC LAN
KÝ PHU
Phu thú biên quan, thiếp tại Ngô,
Tây phong xuy thiếp, thiếp ưu phu.
Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ,
Hàn đáo quân biên, y đáo vô.
GỬI CHỒNG
Chàng ở biên cương thiếp ở Ngô,
Nhớ chàng mỗi bận gió thu lùa.
Một hàng thư gửi nghìn hàng lệ,
Rét đến bên chàng, áo đến chưa?
■
TRẦN NGỌC LAN
334
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRIỀU ĐOAN HỮU
TÚC TẾ CHÂU MÔN NGOẠI LỮ QUÁN
Hàn lâm tàn nhật dục thê ô,
Bích lý thanh đăng xạ hữu vô.
Tiểu vũ âm âm nhân bất mị
Ngọa thinh bì mã khiết tàn sô.
NGỦ NGOÀI CỬA QUÁN TRỌ CHÂU TỀ
Rừng lạnh chiều sâu bóng quạ vù
Đèn xanh bên vách chợt loe mờ
Mưa bay mù mịt người không ngủ
Ngựa mỏi bên chuồng gặm cỏ khô.
■
TRIỆU ĐOAN HỮU
TRIỆU HỖ
335
TRIỆU HỖ Quê ở Sơn Dương (Giang Tô). Biểu tự là Thừa Hựu. Năm 844 đôc Tiến sĩ. Khoảng năm 855 làm chức úy ở Vị Nam. Văn chương rất nổi tiếng nhưng bậc quan không cao. Vua Đường Huyền Tông biết chuyện, muốn cất nhắc nhưng vì không thích giọng thơ của Hỗ nên lại thôi. Triệu có câu : « Sáo dài một tiếng người tựa lầu » rất được Đỗ Mục khâm phục, gọi là « Triệu ỷ lâu » (tựa lầu) .
GIANG LÂU TH Ư CẢM ∗
Độc thướng giang lâu tứ diểu nhiên Nguyệt quang như thủy thủy liên thiên Đồng lai ngoạn nguyệt nhân hà xứ Phong cảnh y hy tự khứ liên.
∗ Đầu đề có sách in: “Giang lâu cựu cảm”. Ở khoảng giữa sông Trường Giang và sông Tiền Đường (có thể là Trấn Giang, tỉnh Giang Tô). Triệu ở cùng một người thiếp yêu. Vì phải về kinh sát hạch, người thiếp lại bị ga Trưởng quan ép đưa về nhà. Hỗ làm thơ buồn than. Vị Trưởng quan cũng động lòng cho người đưa nàng thiếp đó về kinh với Hỗ. Hai người gặp nhau, ôm khóc, nhưng hai hôm sau đó người thiếp chết, Hỗ thương nhớ nàng, cho vẽ hình để bên giường. Bài thơ đây là tả nỗi niềm nhớ người thiếp yêu.
TRIỆU HỖ
336
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
►
CẢM KHÁI LẦU SÔNG
Lên lẻ lầu sông lắng nỗi niềm
Trăng trong như nước nước trời li ền
Người cùng ngắm nguyệt giờ đâu tá
Phong cảnh năm nào vẫn giống nguyên.
■
TẬP LINH ĐÀI
Quắc quốc phu nhân thừa chủ ân
Bình minh ky mã nhập cung môn
Khước hiềm chi phấn ô nhan sắc
Đạm tảo nga mi triều chí tôn.
ĐÀI TẬP LINH∗
∗ Đài Tập Linh: Đường Huyền Tông cho xây dựng ở điện Trường Sinh, trong cung Hoa Thanh. Đài dùng làm nơi tế thần. Ba chị em gái của Dương Quý Phi được phong phu nhân nước Quắc, phu nhân nước Hàn, phu nhân nước Tần. Quắc quốc phu nhân đã tự sát khi gặp loạn An Lộc Sơn. Theo nghi lễ, mỗi khi gặp vua, phụ nữ phải trang sức thực đẹp. Nhưng Quắc quốc phu nhân cậy thế được vua chiều nên không son phấn mà chỉ bôi nhẹ lông mày.
TRIỆU HỖ
337
Quắc quốc phu nhân bao xiết ơn
Tinh mơ cưỡi ngựa vượt cung môn
Lại hiềm son phấn nhơ nhan sắc
Tô nhẹ mày xanh chầu chí tôn.
VŨ LÂM LINH ∗
Vũ lâm linh dạ khước quy Tần∗
Do thị Trương Huy nhất khúc tân
Trường thuyết Thượng Hoàng∗ thùy lệ giáo
∗ Vũ lâm linh: Cũng là tên bài trong nhạc phủ do Đường Huyền Tông sáng tác. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, Đường Huyền Tông lánh nạn vào Thục (Tứ Xuyên), dọc đường tới gò Mã Ngôi, người quý phi yêu mến nhất bị quân cận vệ giết. Đường vào Thục bằng sạn đạo, mưa dầm không dứt, sương mù dầy đặc, tiếng nhạc ngựa vọng ngang rừng núi. Huyền Tông nghe tiếng nhạc ngựa, thương nhớ Dương Quý Phi liền soạn khúc hát rồi đặt tên là “Nhạc ngựa đêm mưa dầm”, và giao cho nhạc sư Trương Huy ngâm hát. Không bao lâu loạn yên, Huyền Tông trở về Kinh, tới cung Hoa Thanh ở Ly Sơn, Trương huy dạo bản nhạc ấy, nhà vua nghĩ tới Dương Quý Phi nước mắt đầm đìa. ∗ Tần: Nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, tức là nơi có kinh đô Trường An.
338
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Nguyệt minh Nam Nội cánh vô nhân.
►
NHẠC NGỰA ĐÊM MƯA DẦM
Mưa đêm nhạc ngựa lại về Tần
Còn khiến Trương Huy khúc mới ngâm
Nghe nói Thượng Hoàng rơi lệ nhủ
Trăng soi Nam Nội∗ quạnh vô ngần.
■
∗ - Thượng Hoàng: Đường Huyền Tông (Vua thoái vị ở dọc đường vào Thục) ∗ - Nam Nội: Tức là cung Hưng Khánh ở Trường An, nơi ở của Huyền Tông khi còn là Hoàng Thái Tử.
TRIỆU HỖ
339
TRIỆU SƯ TÚ (? – 1219)
Quê Vĩnh Gia (Chiết Giang). Tự là Từ Chi – hiệu là Linh Tú. Đậu Tiến sĩ thời Tống Thiệu Hy, có làm quan.
HỮU ƯỚC
Hoàng mai thời tiết gia gia vũ,
Thanh thảo trì đường xứ xứ oa.
Hữu ước bất lai qua bán dạ,
Nhàn sao kỳ tử lạc đăng hoa.
HẸN
Mơ vàng tết tới mọi nhà mưa
Cỏ rợp ao chuôm ếch rộn bờ
Có hẹn không sang đêm quá nửa
Quân cờ gõ nhẹ rụng đèn hoa.
■
TRIỆU SƯ TU
340
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRÌNH HIỆU (1032 - 1085)
Tên chữ là Bá Thuần, đỗ Tiến sĩ. Người cùng thời gọi là “Tiên sinh Minh Đạo”. Một học giả nổi tiếng đời Tống. Xưa có câu “Cửa Khổng sân Trình” – Trình, là nói hai anh em Trình Hiệu và Trình Di.
XUÂN NHẬT NGẪU THÀNH
Vân đạm phong khinh cận ngọ thiên
Bàng hoa tùy liễu quá tiền xuyên
Thời nhân bất thức dư tâm lạc
Tương vị thâu nhàn học thiếu niên.
NGÀY XUÂN CHỢT VIẾT
Gió nhẹ mây thưa gần tới ngọ
Bên hoa men liễu tới sông bên
Người đời chả biết ta vui thích
Cứ bảo đua đòi thói trẻ em.
■
TRÌNH HIỆU
341
THU NGUYỆT
Thanh Khê lưu quá bích sơn đầu
Không thủy trừng tiên nhất sắc thu
Cách đoạn hồng trần tam thập lý
Bạch vân hồng diệp lưỡng du du.
MÙA THU
Thanh Khê∗ chay lượn đầu non biếc
Trời nước xanh trong một sắc thu
Xa cánh hồng trần ba chục dặm
Mây phau lá đỏ thẩy vi vu.
■
∗ - Thanh Khê: Tên một khe nước vùng Giang Tô.
342
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRÌNH HIỆU HẠO ( ? )
ĐỀ HOÀI NAM T Ự
Nam khứ bắc lai hưu tiện hưu
Bạch tần xuy tận Sở giang thu,
Đạo nhân bất thị bi thu khách
Nhất nhiệm vãn sơn tương đối sầu.
ĐỀ CHÙA HOÀI NAM ∗
Qua lại bắc nam đều nghỉ lại
Bãi tần∗ sông Sở lộng làn thu
Buồn thu đâu chuyện người tu đạo
Nhìn núi chiều hôm thấy nỗi sầu.
■ ∗ - Chùa Hoài Nam: Ở châu Dương. ∗ - Tần: Một loại rau nước như muống, rút.
TRÌNH HIỆU HẠO
TRỊNH CỐC
343
TRỊNH CỐC
ĐỘC LÝ BẠCH TẬP
Hà sự văn tinh dữ tửu tinh,
Nhất thời chung tại Lý tiên sinh.
Cao ngâm đại túy tam thiên thủ,
Lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh.
ĐỌC THƠ LÝ BẠCH
Hà cớ Sao Văn cùng sao Rượu
Một thời dồn cả Lý tiên sinh?
Ngâm vang say khướt ba ngàn vận
Bạn với trăng trong mãi nghĩa tình.
■
TRỊNH CỐC
344
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOÀI TH ỦY BIỆT HỮU
Dương Tử*) giang đầu dương liễu xuân,
Dương hoa sấu sái độ giang nhân.
Sổ thanh phong địch ly đình vãn,
Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần.
TỪ BIỆT BẠN BÊN SÔNG HOÀI
Dương Tử đầu sông liễu sắc xuân
Hoa dương rười rượi vẻ du nhân
Ly Đình chiều xuống dăm làn sáo,
Anh tới Tiêu Tương tôi tới Tần.
■
*) Dương Tử: Đoạn sông Đại Giang (ngày nay gọi là Trường Giang) chảy trên địa phận châu Dương được gọi là Dương Tử Giang, người phương Tây thường nhầm gọi toàn bộ sông Trường Giang là Sông Dương Tử. (NL chú thích)
TRỊNH CỐC
345
TRỊNH HỘI Tên chữ là Hựu Cực, hiệu là Diệp sơn – người thời Tống.
ĐỀ ĐỂ GIAN BÍCH
Đồ mi hương mộng khiếp xuân hàn
Thúy yếm trùng môn yến tử nhàn
Xao đoạn ngọc thoa hồng chúc lãnh
Kế trình ưng thuyết đáo Thường san.
ĐỀ VÁCH NHÀ TRỌ
Đồ mi∗ thơm mộng e xuân lạnh
Cửa biếc rèm che cánh én nhàn
Khêu gãy ngọc thoa mờ đuốc đỏ
Chặng dài lại muốn đến Thường Sơn∗.
■
∗ - Đồ mi: Còn gọi hoa Trà mi ∗ - Thường Sơn: Còn gọi Trường Sơn.
TRỊNH HỘI
346
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRỪ QUANG HY (707- 759)
Quê châu Duyện (Tư Dương, tỉnh Sơn Đông). Năm 762 (Khai Nguyên 14) đỗ Tiến sĩ, làm Giám sát Ngự sử, khi loạn An Lộc Sơn, bị bắt cộng tác, sau khi loạn yên bị đày đi Quảng Đông rồi mất ở đó.
KÝ TÔN SƠN NHÂN
Tân lâm nhị nguyệt cô chu hoàn
Thủy mãn thanh giang hoa mãn san
Tá vấn cố viên ẩn quân tử∗
Thời thời lai vãng trụ nhân gian.
GỬI SƠN NHÂN HỌ TÔN
Tháng hai thuyền lẻ về nơi cũ
Nước ắp sông trong hoa ắp ngàn
Xin hỏi vườn xưa quân tử ẩn
Có thường qua lại chốn nhân gian.
■ ∗ Quân tử: Người hiền tài.
TRỪ QUANG HY
TRỪ QUANG HY
347
TRƯƠNG BÍCH
NÔNG PHU
Vận sừ canh chúc xâm tinh khởi,
Lũng mẫu phong doanh mãn gia hỉ.
Đáo đầu hòa thử thuộc tha nhân,
Bất tri hà xứ phao thê tử.
NÔNG DÂN
Sao trời chưa lặn đã đi cày
Mừng ngỡ vàng ươm hạt trĩu cây.
Rốt cuộc lúa đầy kho kẻ khác,
Vợ con biết quẳng xó nào đây?
■
TRƯƠNG BICH
348
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG DUYỆT
(667- 730)
Người Lạc Dương, tự là Đạo Tế, sau lại đổi Duyệt Chi, đỗ Tiến sĩ năm 689 (thời Võ Hậu), làm Thái tử Hiệu thư rồi xá nhân Phượng các. Vì trái ý anh em Trương Dịch Chi nên bị đày đi châu Khâm. Sau khi Dịch Chi bị giết, lại được gọi về kinh làm Thị lang bộ Công, rồi Thị lang bộ Binh. Sau khi Đường Duệ Tông lên ngôi được giữ chức Bình Chương sự Đồng trung thư môn hạ (như Tể Tướng). Thời Huyền Tông đã làm Trung thư lệnh (Tể tướng) nhưng vì chống Diêu Sùng nên bị đổi đi làm Thứ sử các châu tương, châu Nhạc (Hồ Nam). Sùng chết, ông lại về kinh làn Trung thư lệnh. Cuối đời vì ỷ thế được Huyền Tông tin dùng nên chuyên quyền, rồi bị các quan phê phán, bị bãi miễn nhưng sau lại được vời làm tả Thừa tướng, được phong Yên Quốc Công.
TỐNG LƯƠNG LỤC∗
Ba Lăng nhất vọng Động Đình thu Nhật kiến cô phong thủy thượng phù
∗ Bài này làm khi Trương giữ chức Thứ sử châu Nhạc. Có sách còn ghi dưới đầu đề năm chữ “Động Đình sơn tự tác” (làm ở núi Động Đình).
TRƯƠNG DUYỆT
TRƯƠNG DUYỆT
349
Văn đạo thần tiên bất khả tiếp Tâm tùy hồ thủy cộng du du.
TIỄN LƯƠNG LỤC∗
Ba Lăng∗ một ngó Động Đình thu
Mặt nước mênh mang nối núi trơ∗
Nghe nói thần tiên không thể gặp
Lòng theo hồ nước thấy mơ mơ.
■
∗ Lương Lục: Có thể tên là Lương Tri Vi, Thứ sử châu Đàm (Trường Sa, Hồ Nam). ∗ Ba Lăng: Tên núi Động Đình. ∗ Núi trơ: Ở đây là Quân Sơn, nơi này truyền là có nữ thần.
350
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG HỖ (792 - 852) Quê ở Thanh Hà (tỉnh Hà Bắc), tên chữ là Thừa Cát. Năm 822 được lệnh Hồ Sở tiến cử làm quan nhưng không thành. Ở nhờ các nhà quyền quý, nhưng vì tính tình không ưa bợ đỡ nên làm nhà riêng. Sau đó ngao du vùng Hoài Nam, thích phong cảnh Khúc A, bèn dựng nhà ở đây. Có lúc được cử giữ chức Tri huyện ở Quảng Đông nhưng lại xin từ chức về nhà.
HỒ VỊ CHÂU∗
Đình đình cô nguyệt chiếu hành châu Tịch tịch Trường Giang vạn lý lưu Hương quốc bất tri hà xứ thị Vân sơn mạn mạn sử nhân sầu.
CHÂU VỊ ĐẤT HỒ
Cao cao trăng lẻ sáng con đò
Quạnh quẽ sông dài vạn dặm mau
Làng nước chẳng hay đâu đó nhỉ
Núi mây man mác khiến ai sầu. ■
∗ - Hồ Vị châu: Cũng là tên bài thơ trong nhạc phủ. Vị Châu bây giờ là Lũng Tây (tỉnh Cam Túc).
TRƯƠNG HỖ
351
TẶNG NỘI NHÂN
Cấm môn cung thụ nguyệt ngân qua,
Mỵ nhãn vi khan túc lộ oa.
Tà bạt ngọc thoa đăng ảnh bạn
Dịch khai hồng diệm cứu phi nga.
TẶNG NGƯỜI CUNG NỮ
Cửa cung trăng sáng rọi đầy cây
Nheo mắt nhìn chim giữ giấc say
Bên cạnh đèn hoa thoa ngọc rút
Gạt vùng lửa đỏ cứu ngài bay.
■
352
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG HÚC
ĐÀO HOA KHÊ ∗
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên,
Thạch cơ tây bạn vấn ngư thuyền.
Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy,
Động tại thanh khê hà xứ biên.
SUỐI HOA ĐÀO
Thấp thoáng cầu chênh khói nội chen,
Phía tây mỏm đá hỏi ngư thuyền.
Hoa đào sớm tối theo dòng nước
Động ơ khe trong có dễ tìm?.
■
∗ Theo “Đào Nguyên Ký” của Đào tiềm, đời Tấn, ngày xưa có một số người tránh loạn thời Tần, đi vào khe Đào Hoa (Vũ Lăng, Hồ Bắc). Sau đó có mấy người đánh cá đi lạc vào, ở lại – Đời sau cho là Tiên.
TRƯƠNG HÚC
TRƯƠNG HÚC
353
TRƯƠNG HỰU
ĐỀ KIM L ĂNG ĐỘ
Kim Lăng tân độ Tiểu Sơn lâu,
Nhất túc hành nhân tự khả sầu.
Triều lạc dạ giang tà nguyệt lý,
Lưỡng tam tinh hỏa thị Qua Châu.
BẾN ĐÒ KIM LĂNG
Kim Lăng bến mới một căn lầu
Trọ một đêm thôi khách cũng sầu
Trăng xế sông đêm con nước xuống,
Dăm ba ánh lửa – đó Qua Châu.
■
TRƯƠNG HỰU
354
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG KẾ Quê châu Tương, tên chữ là Ý Tôn. Năm 753 đỗ Tiến sĩ, bắt đầu làm chức Phán quan về muối, sắt ơ dưới trướng Tiết độ sứ. Tới năm Đại Lịch về triều giữ chức Kiểm hiệu Từ bộ lang trung.
PHONG KIỀU∗ DẠ BẠC
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô∗ thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở PHONG KIỀU
Trăng xế quạ kêu sương bốn bên
Lửa chài cây bến giấc sầu quen
Hàn Sơn ngoài trấn Cô Tô ấy
Thuyền khách chuông hồi động nửa đêm. ■
∗ Phong Kiều: Cầu bắc trên sông Phong ở ngoại ô phía tây Tô Châu (Giang Tô) một nơi danh thắng. Gần đây có tư liệu nói: “Ô đề”, “Sầu Miên” cũng là tên riêng. ∗ Cô Tô: Tên cũ của Tô Châu.
TRƯƠNG KẾ
355
XƯỚNG MÔN∗ TỨC SỰ
Canh phu triêu mộ trục lâu thuyền,
Xuân thảo thanh thanh vạn khoảnh điền
Thí thướng Ngô môn khuy quận quách,
Thanh minh kỷ xứ hữu tân yên.
VIẾT Ở XƯỚNG MÔN
Gọi hết nông phu kéo ngự thuyền,
Ruộng đồng muôn khoảnh cỏ xanh liền
Ngô Môn lên đỉnh nhìn tư phía
Đâu chốn Thanh Minh khói mới nhen.
■
∗ Xướng môn: Cửa chính nơi cung điện.
356
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG KIỀU Người quê Trì Châu (tỉnh An Huy). Khoảng năm 870, có thuyết nói năm 890 dự thi Tiến sĩ đỗ nhưng tránh loạn Hoàng Sào (cuối Đường), về ở chân núi Cửu Hoa ở quê cho tới già.
YẾN BIÊN TƯỚNG
Nhất khúc Lương Châu kim thạch thanh Biên phong tiêu táp động giang thành Tòa trung hữu lão sa trường khách Hoành địch hưu xuy tái thượng thanh.
DỰ TIỆC CÙNG CÁC TƯỚNG BIÊN ẢI
Một khúc “Châu Lương” ∗ vàng đá∗ rung
Gió biên xào xạc động thành sông
Trong dinh có khách già chinh chiến
Sáo đặt ngang môi ngồi lặng không. ■
∗ Châu Lương: Nay ở Vũ Uy (tỉnh Cam Túc). Ca khúc Châu Lương giống như ca khúc Châu Y, nội dung tả tâm trạng chiến sĩ và phong vật biên cảnh. ∗ Vàng đá: Tượng trưng cho các nhạc cụ làm bằng kim loại và đá.
TRƯƠNG KIỀU
357
GIANG NAM HÀNH
Tư cô∗ diệp lạn biệt tây loan
Liên tử hoa khai do vị hoàn
Thiếp mộng bất ly giang thượng thủy
Nhân truyền lang tại Phượng Hoàng san∗.
HÀNH KHÚC GIANG NAM
Tư cô lá úa biệt Tây loan∗
Hoa nơ đầm sen chửa lại làng
Mộng thiếp dài như dòng sóng nước
Người đồn chàng ở chốn non Hoàng.
■ ∗ Tư cô: Một thứ rau mọc ở cạnh nước thường úa lá vào mùa thu. ∗ Núi Phượng Hoàng: Nhiều nơi có. Nhưng nổi tiếng thì có núi ở phía nam Hàng Châu (tỉnh Chiết Giang). ∗ Tây loan: Vịnh ở phía tây.
358
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG KÍNH TRUNG Không rõ quê quán, ngày tháng năm sinh. Theo quan Ngự sử và Tướng quân Trương Nhân Trực đi đánh trận ở phía bắc, được tín nhiệm, rồi giữ các chức Giám sát Ngự sử, Lang trung bộ Lại. Năm 719 làm tới Tiết độ sử Bình Lư (tỉnh Sơn Đông).
BIÊN TỪ
Ngũ Nguyên∗ xuân sắc cựu lai trì
Nhị nguyệt thùy dương vị quải ty
Tức kim hà bạn băng khai nhật
Chính thị Trường An hoa lạc thì.
BÀI HÁT BIÊN TR ẤN
Ngũ Nguyên xuân sắc chậm lâu rồi
Liễu tháng hai mà tơ chưa lơi
Bây giờ băng giá bên sông rạn
Là lúc Trường An hoa cánh rơi.
■ ∗ Ngũ Nguyên: Ở phía đông tỉnh Ninh Hạ, gần Diêm Trì.
TRƯƠNG KÍNH TRUNG
359
BIÊN TỪ
Ngũ Nguyên xuân sắc cựu lai trì,
Nhị nguyệt thùy dương vị quải ti.
Tức kim hà bạn băng khai nhật,
Chính thị Trường An hoa lạc thì.
KHÚC HÁT BIÊN CƯƠNG
Xuân Ngũ Nguyên sao lại muộn về,
Tháng hai tơ liễu chưa lê thê.
Trong khi sông lớn băng vừa rạn,
Hoa ở Trường An rụng bốn bề.
■
360
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG LAI
HIỂU VŨ
Khinh âm giang thượng thiên phong tú,
Tiểu vũ tường biên bách thảo sinh.
Duy hữu xuân cầm úy cô khách,
Hiểu đề hồn tự cố viên thanh .
MƯA SỚM
Ngang sông râm mát nghìn non đẹp,
Mưa nhỏ bên tường cỏ biếc xinh.
Chỉ có chim xuân thương khách lẻ.
Tình quê mấy tiếng gọi bình minh.
■
TRƯƠNG LAI
TRƯƠNG LAI
361
TRƯƠNG NGẠC Đỗ Tiến sĩ năm 708, phục vụ Trần Vương (người hoàng tộc), sau lại giúp việc dưới trướng Kỳ Vương (em trai Đường Huyền Tông). Vì không được triều đình chấp thuận, nên phải chuyển làm chức Thừa ở Son Nhiễm ( tỉnh Sơn Đông).
CỬU NHẬT YẾN
Thu diệp phong xuy hoàng táp táp
Tình vân nhật chiếu bạch lân lân∗ Quy lai đắc vấn thu du nữ Kim nhật đăng cao túy kỷ nhân .
TIỆC MỒNG 9 (THÁNG 9)∗
Xao xác lá thu vàng gió thổi
Long lanh nắng loáng rạng mây vần
Thù Du cài tóc nàng cho hỏi
Say khách nan cao được mấy lần. ■
∗ - Bạch lân lân: Mây xốp từng lớp trông như vây cá. ∗ - Mồng 9 tháng 9: Người trong gia đình thường rủ nhau đi chơi đồi núi, tóc giắt cành thù du, uống rượu vui vẻ.
TRƯƠNG NGẠC
362
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG THỨC (1133 - 1180)
Quê ở Cẩm Trúc (Từ Xuyên). Tự là Kính Phu, Lạc Trãi. Hiệu là Nam hiên- một nhà thơ thời Nam Tống.
LẬP XUÂN∗ NGẪU THÀNH
Luật hồi tuế vãn băng sương thiểu,
Xuân đào nhân gian thảo mộc tri.
Tiên giác nhãn thiền sinh ý mãn,
Đông phong xuy thủy lục xâm xi.
NGÀY XUÂN CHỢT VIẾT
Đã qua năm cũ băng sương ít
Xuân tới nhân gian thảo mộc này
Trước mặt rõ điều no ấm đủ
Gió đông gợn biếc nước vơi đầy.
■
∗ - Lập xuân: 1 trong 24 tiết của nông lịch. Thường vào đầu tháng 2 âm lịch.
TRƯƠNG THỨC
TRƯƠNG TỊCH
363
TRƯƠNG TỊCH Quê ở Ô Giang, châu Hoàn (An Huy). Tên tự là Văn Xương. Được Hàn Dũ nhận thấy tài năng nên mời giúp việc. Năm 799 đỗ Tiến Sĩ, được làm Bí thư Lang Thái Thường tự Thái chúc, Thủy bộ Lang Trung. Hàn Dũ lại tiến cử giữ chức, gặp vấn đề tranh cãi, ông cũng tỏ rõ ý kiến.
LƯƠNG CHÂU∗ TỪ
Phượng Lâm∗ quan lý thủy đông lưu
Bạch thảo∗ hoàng du∗ lục thập thu Biên tướng giai thừa chủ an trạch Vô nhân giải đạo thủ Lương Châu .
BÀI TỪ CHÂU LƯƠNG
Phượng Lâm trong ải sông trôi mau
Cỏ trắng du vàng sáu chục thâu∗
∗ Lương Châu: Nay là Vũ Uy, tỉnh Cam túc. ∗ Phượng Lâm: Nay ở tây nam Lam Châu, tỉnh Cam Túc. ∗ Bạch thảo: Tên cỏ, còn là tên thảo nguyên. ∗ Du: Cây trồng ở ngoài cửa ải. ∗ Sáu chục thâu: Tính từ 764, Quảng Đức 2 thời Đường Đại Tông. Năm này, Thổ Phồn đánh cướp Lương Châu; sau đó, lấy đây làm ranh giới giữa hai nước Đường và Thổ Phồn. Trương Tịch sinh vào khoảng niên hiệu Trịnh Nguyên – Nguyên Hoà, tức là năm 820. Bởi vậy thời gian là sáu mươi năm.
TRƯƠNG TỊCH
364
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Biên tướng đều ơn vua chúa cả
Không ai không bảo lấy Lương Châu.
■
THÀNH ĐÔ KHÚC
Cẩm Giang cận tây yên thủy lục,
Tân vũ sơn đầu lệ chi thục.
Vạn lý kiều biên đa tưu gia,
Du nhân ái hướng thùy gia túc?
KHÚC HÁT THÁNH ĐÔ
Phía tây sông Cẩm dòng xanh khói,
Mưa mới đầu non vải chín rồi.
Vạn Lý bên cầu nhiều quán rượu,
Tối nay du khách trọ nhà ai?
■
TRƯƠNG TỊCH
365
THU TỨ
Lạc dương thành lý kiến thu phong,
Du tác gia thư ý vạn trùng.
Phục khủng thông thông thuyết bất tận,
Hành nhân lâm phát hựu khai phong.
Ý MÙA THU
Lạc Dương một sớm nổi làn thu,
Muốn viết thư nhà dạ rối tơ.
Chỉ sợ vội vàng khôn hết ý,
Người đi sắp trảy – lại coi như.
■
366
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG TIẾT KÝ NHÂN
Biết mộng y y đào Tạ gia,
Tiểu lang hồi hợp khúc lan tà.
Đa tình chỉ hữu xuân đình nguyệt,
Do vị ly nhân chiếu lạc hoa.
GỬI AI
Mộng biệt quay về chốn Tạ gia∗,
Lan can khúc khuỷu uốn hiên nhà.
Đa tình chỉ có trăng san cũ,
Vẫn vị người đi sáng cánh hoa.
■
∗ Tạ gia: Chưa rõ
TRƯƠNG TIẾT
TRƯƠNG TRỌNG TỐ
367
TRƯƠNG TRỌNG TỐ Quê Nam Dương. Tên tự là Hội Chi. Năm 798 đỗ Tiến Sĩ. Vì không có người quen ở triều đình, không được nhận chức quan ngay, nên ông làm việc cho quân đội Vũ Khang (Giang Tô). Năm thứ 20 niên hiệu Trịnh Nguyên, Trương được làm Tư huấn Viên ngoại lang, Hàn lâm học sĩ, Tung thư Xá nhân.
HÁN UYỂN HÀNH ∗
Hồi nhạn cao phi Thái Dịch trì* Tân hoa đê phát Thượng Lâm chi Niên quang đáo xứ giai kham thưởng Xuân sắc nhân gian tổng vị*) tri.
►
∗ Đầu đề là tên bài của Tân nhạc phủ. Tuy tên “Hán” nhưng thực tế là cảnh vật đời Đường. * Thái Dịch trì (Hồ/ao/ Thái Dịch): Phía bắc cung Kiến Chương ngoài thành Trường An thời Hán. Trong cung Đại Minh thời Đường cũng có Hồ/ao/ cùng tên. *) Có tài liệu chép “ Xuân sắc nhân gian tổng bất* tri
TRƯƠNG TRỌNG TỐ
368
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÀNH KHÚC VƯỜN NGỰ HÁN (1)
Thái Dịch hồ cao vút nhạn về
Thượng Lâm∗ hoa mới tr ĩu cành khoe
Phong quang đây đó đều vui thích
Xuân sắc nhân gian chửa biết gì.
HÀNH KHÚC VƯỜN NGỰ HÁN (2)
Thái Dịch∗ hồ trong cánh nhạn về
Thượng Lâm* cành thấp mới hoa khoe
Xinh tươi khắp chốn đều ưa mắt,
Xuân sắc nhân gian chả biết gì.
■
∗ Thượng Lâm: Tên vườn ngự thời Hán. ∗ Thái Dịch, Thượng Lâm là tên hồ và vườn hoa trong cung vua Hán.
TRƯƠNG TRỌNG TỐ
369
TÁI HẠ KHÚC ( I )
Tam thú Ngư Dương∗ tái độ Liêu∗
Tinh cung∗ tại tý kiếm∗ hoành yêu
Hung Nô∗ tự nhược tri danh tính
Hưu bạng Âm sơn∗ cánh sạ điêu∗.
KHÚC CA XUỐNG ẢI ( I )
Ba chuyến Ngư Dương hai chuyến Liêu
Cánh cung vai khoác kiếm lưng đeo
Hung Nô ví biết rành tên họ
Chả dám non Âm lại bắn điêu. ■
∗ Ngư Dương: Thuộc huyện Kế, tỉnh Hà Bắc, phía đông bắc Bắc Kinh. Thời xưa đây là biên giới. ∗ Liêu: Tên sông ở tỉnh Liêu Ninh, phía bắc bán đảo Liêu Đông, chảy vào biển. ∗ Tinh cung: Cung cứng màu đỏ. ∗ Kiếm: Có sách in là “tiến” (mũi tên) ∗ Hung Nô: Nước Hồ ∗ Âm sơn: Tên dãy núi ở tỉnh Tuy Viễn. Xưa là biên giới Trung Quốc và Hung Nô. ∗ Bắn chim điêu: Điêu là một loại chim cắt dữ. Xưa, Lý Quảng, Phi tướng quân đời Hán từng thi tài bắn chim điêu với người Hung Nô; tướng quân Hộc Luật Quang, triều Bắc Tề cũng có tài bắn rớt chim điêu đang bay.Ý chung là võ nghệ cao cường.
370
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÁI H Ạ KHÚC ( II )
Sóc tuyết phiêu phiêu khai Nhạn Môn∗
Bình sa lịch loạn quyển bồng∗ căn
Công danh sỉ kế cầm sinh số
Trực trảm Lâu Lan∗ báo quốc ân.
KHÚC CA XUỐNG ẢI ( II )
Tuyết bắc đầy trời mở Nhạn Môn
Tơi bời biển cát cánh đồng trơn
Công danh thẹn đếm từng tên giặc
Quyết chém Lâu Lan báo quốc ơn.
■
∗ Nhạn Môn: Tên cửa ải, phía tây bắc núi Nhạn Môn (tỉnh Sơn Tây). ∗ Bồng: Tên một loại cỏ mùa đông khô, rễ đứt ra, hình như qua cầu, gió thổi là lăn. ∗ Lâu Lan: tên một nước ở Tây Vực. Thời Hán sai Phó Giới Tự đánh chém được vua nước ấy, đổi tên là Thiện Thiện. Nay thuộc tỉnh Tân Cương.
TRƯƠNG TRỌNG TỐ
371
THU KHUÊ TƯ∗
Bích song tà nhật ái thâm huy
Sầu thính hàn tương lệ thấp y
Mộng lý phân minh kiến quan tái
Bất tri hà lộ hướng kim vi∗.
NỖI NHỚ PHÒNG KHUÊ MÙA THU
Song sanh nắng xế ráng chiều hoe
Lệ đẫm xiêm buồn lắng giọng ve
Trong mộng rõ ràng thấy quan ải
Chả hay nào lối tới Kim Vi.
■
∗ Thu khuê tư: Đầu đề của nhạc phủ. ∗ Kim Vi: Tên núi ở Ngoại Mông (Trung Quốc) nay chưa rõ vị trí chính xác. Thời Hán, bộ tướng của Đậu Hiến đã đánh thắng quân vua Hung Nô ở nơi này.
372
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG TỬ DUNG (Thế kỷ VIII) Quê ở Tương Dương. Lúc đầu, cùng Mạnh Hạo Nhiên ở ẩn dưới chân núi Lộc Môn quê hương. Năm 713, đỗ Tiến sĩ được cử giữ chức Lệnh thành Lạc (phía nam Bành Trạch, tỉnh Giang Tây). Khi có loạn An Lộc Sơn, ông lánh sang Giang Nam, sau đó bỏ chức quan về làng ở.
LƯƠNG CHÂU CA
Sóc phong xuy diệp nhạn môn∗ thu
Vạn lý yên trần hôn thú lâu∗
Chinh mã trường tư Thanh Hải∗ thượng Hồ già dạ thính Lũng Sơn đầu.
BÀI CA CHÂU L ƯƠNG
Gió may động lá Nhạn Môn thu
Bụi khói đường xa tối thú lâu
Ngựa chiến nhớ dài Thanh Hải ấy
Khèn Hồ đất Lũng vọng đêm sâu. ■
∗ Nhạn Môn: Tên núi ở phía tây bắc huyện Đại, tỉnh Sơn Tây. Trên núi có cửa ải. ∗ Thú lâu: Chòi canh của lính thú coi biên ải. ∗ Thanh Hải: Tên hồ ở tỉnh Thanh Hải.
TRƯƠNG TỬ DUNG
373
THỦY CỔ TỪ∗
Điêu cung bạch vũ liệp sơ hồi
Bạc dạ ngưu dương phục hạ lai
Mộng thủy hà biên thanh thảo hợp
Hắc sơn phong ngoại trận vân khai.
THỦY CỔ TỪ
Tên lông∗ cung đẹp săn vừa dứt
Chập tối trâu dê lại xuống đồi
Sông Mộng∗ bên bờ cỏ xanh∗ rợp
Hắc sơn∗ mây trận∗ nổi tơi bời.
■ ∗ Thủy cổ từ: Tên một bài hát. Không rõ xuất xứ. ∗ Tên lông: Đầu mũi tên có cắm lông trắng vừa cho tên bay xa, vừa trông đẹp mắt ∗ Sông Mộng: Ở phía bắc tỉnh Thiểm Tây. ∗ Cỏ xanh: có sách in “cỏ thu”, vì mùa thu tới, các dân tộc ở biên giới hay gây chiến. ∗ Núi Hắc: tên dãy núi ở tỉnh Sơn Tây và phía tây tỉnh Thiểm Tây. ∗ Mây trận: mây đen dầy, tượng trưng mây chiến tranh.
374
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG VỊ Quê Hà Nội (Hà Nam), tên tự là Chính Ngôn, bắt đầu đọc sách ở núi Tung. Năm 743 đỗ Tiến sĩ, theo việc quân ở di Tiết độ sứ phương Bắc. Mắc lỗi, phải đầy tới Kế Môn. Khoảng năm 770 làm chức Thị lang bộ Lễ rồi Thái thú châu Đàm (Trường Sa, Hồ Nam).
ĐỀ TRƯỜNG AN CHỦ NHÂN BÍCH
Thế nhân kết giao tu hoàng câm
Hoàng kim bất đa giao bất thâm
Túng linh nhiên nặc tạm tương hứa
Chung thị du du hành lộ tâm.
ĐỀ VÁCH NHÀ CHỦ Ở TRƯỜNG AN
Người đời kết bạn cần ngàn vàng
Vàng mười không nhiều chơi không thân
Ví có “vâng, dạ”t ạm hứa hẹn
Qua đường rồi cũng dạ lần khân.
■
TRƯƠNG VỊ
375
TỐNG NHÂN SỨ HÀ NGUYÊN ∗
Cố nhân hành dịch hướng biên châu
Thất mã kim triêu bất thiểu lưu
Trường lộ quan sơn hà nhật tận
Mãn đường ty trúc vị quân sầu.
TIỄN CHÂN NGƯỜI ĐI SỨ VÙNG HÀ NGUYÊN
Cố nhân đi sứ đất biên châu
Ngựa lẻ hôm này chẳng ném lâu
Non ải đường dài nao hết nhỉ
Khắp nhà đàn sáo vị anh sầu.
■
∗ Hà Nguyên: Đầu nguồn sông Hoàng. Nay là từ Ngân Xuyên tỉnh Ninh Hạ cho tới Lan Châu tỉnh Cam Túc.
376
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TƯ KHÔNG THỰ Thời Tống.
GIANG THÔN TỨC SỰ
Bãi điếu qui lai bất hệ thuyền,
Giang thôn nhật lạc chính kham miên
Túng nhiên nhất dạ phong xuy khứ,
Chỉ tại lô hoa thiển thủy biên.
TỨC SỰ BÊN SÔNG
Xong buổi câu về chả buộc thuyền,
Thôn sông trời xế ngủ ngon liền.
Gió đêm ví có vô tình thổi,
Chỉ ở hoa lau bãi sậy bên.
■
TƯ KHÔNG THỰ
TƯ MÃ LỄ
377
TƯ MÃ LỄ Có sách in là Tư Mã Trát. Sống khoảng năm 858 niên hiệu Đại Trung thời Đường Tuyên Tông.
CUNG OÁN
Liễu sắc sâm si yểm họa lâu
Hiểu oanh đề tống mãn cung sầu
Niên niên hoa lạc vô nhân kiến
Không trục xuân tuyền xuất ngự câu∗.
NỖI OÁN TRONG CUNG
Mầu liễu so le rợp gác lầu
Oanh mai hót tiễn khắp cung rầu
Năm năm hoa rụng không người thấy
Suông với dòng xuân chảy ngự câu.
■
∗ Ngự câu: Hệ thống ngòi lạch chung quanh cung vua.
378
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TƯ MÃ QUANG Quê Giáp Châu (Sơn Tây). Tự là Quân Thực. Làm Hàn lâm học sĩ thời Tống Thần Tông. Chống « Tân Pháp » của Vương An Thạch. Có nhiều tác phẩm – Sau thường được gọi là « Ôn công ».
KHÁCH TRUNG SƠ HẠ
Tứ nguyệt thanh hòa vũ xạ tình
Nam sơn đương hộ chuyển phân minh.
Cánh vô liễu nhứ nhân phong khởi,
Duy hữu quỳ hoa hướng nhật khuynh.
ĐẤT KHÁCH ĐẦU MÙA HÈ
Tháng bốn trời trong mưa mới tạnh
Non nam trước cửa ngó phân minh
Lại không tơ liễu bay ngang gió
Chỉ có hoa quỳ hướng nắng chênh.
■
TƯ MÃ QUANG
TỪ HUYỀN
379
TỪ HUYỀN Quê Quảng Lăng (Châu Dương) – tên chữ là Đỉnh Thần. Làm quan thời Tống Huy Tông, cùng em trai là Từ Khải đều nổi tiếng.
DƯƠNG LIỄU ( I )
Bả tửu bàng quân xướng liễu chi,
Dã tòng ti quản đệ tương tùy.
Phùng xuân chỉ hợp triêu triêu túy,
Ký thủ thu phong lạc diệp thì.
DƯƠNG LIỄU ( I )
Nâng chén bên chàng hát «Liêu Chi »
Râm ran đàn sáo tiếng sen kề
Gặp xuân chỉ muốn hôn say đắm
Nhớ lá mùa thu lúc gió về.
■
380
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG LIỄU ( II )
Tạm biệt Dương Châu thập độ xuân, Bất tri quang cảnh thuộc hà nhân. Nhất phàm quy khách thiên điều liễu, Trường đoạn đông phong Dương Tử tân.
DƯƠNG LIỄU ( II )
Dương Châu tạm biệt chốc mười xuân Chốn ấy ai giờ hóa chủ nhân Thuyền khách quay về ngàn liễu vẫy Gió đông rầu rĩ bến bâng khuâng.
■
DƯƠNG LIỄU ( III )
Tiên nhạc xuân laians vũ yêu, Thanh thanh thiên tự bạng kiều nhiêu. Ứng duyên oanh thiệt đa tình lại, Trường hướng Song Thành thuyết thúy điều.
DƯƠNG LIỄU ( III )
Nhạc lạ xuân về múa dẻo eo
Như bên người đẹp tiếng trong veo
Nhờ oanh chút giọng đa tình nhé
Gửi tới Song Thành thắm biếc yêu. ■
TỪ HUYỀN
381
DƯƠNG LIỄU ( IV )
Phượng sênh lâm hạm bất năng xuy, Vũ tụ đương diên diệc tự nghi. Duy hữu mỹ nhân đa ý tự, Giải y phương thái họa song mi.
DƯƠNG LIỄU ( IV )
Bên hiên sáo phượng thôi không thổi,
Giữa tiệc làn xiêm múa chả say.
Chỉ có giai nhân nhiều ý tứ,
Vẫn nguyên duyên dáng đẹp đôi mày. ■
DƯƠNG LIỄU ( V )
Nam viên nhật mộ khơi xuân phong, Xuy tán dương hoa tuyết man không. Bất tích dương hoa phi dã đắc, Sầu quân lão tận kiểm biên hồng.
DƯƠNG LIỄU ( V )
Vườn nam chiều tối gió xuân rung
Thổi tản hoa dương trắng khoảng không
Chả tiếc hoa dương bay khắp ngả
Buồn ai đến với má phai hồng. ■
382
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG LIỄU ( VI )
Mạch thượng chu môn liễu ánh hoa, Liêm câu bán quyển lục âm tà. Bằng lang tạm trú thanh thông mã, Thử thị Tiền Đường Tiểu Tiểu gia.
DƯƠNG LIỄU ( VI )
Cửu son đường lớn liễu ngời hoa,
Cuộn nửa rèm treo bóng thắm ròa.
Du khách tạm xin dừng vó ngựa,
Tiền Đường “Cô Bé” chính đây nhà. ■
DƯƠNG LIỄU ( VII )
Giáp ngạn chu lan liễu ánh lâu, Lục ba bình mạn đới hoa lưu. Ca thanh bất xuất trường điều mật, Hốt địa phong hồi kiến thái chu.
DƯƠNG LIỄU ( VII )
Lầu gác bên đê ánh liễu ngời
Sóng xanh lờ lững cuốn hoa trôi
Tiếng ca quanh quẩn sau bờ liễu
Chợt thấy buồm nâu lộng gió trời. ■
TỪ HUYỀN
383
DƯƠNG LIỄU ( VIII )
Lão đại phùng xuân tổng hận xuân, Lục dương âm lý tối sầu nhân. Cựu du nhất biệt vô nhân kiến, Nộn diệp như mi xứ xứ tân.
DƯƠNG LIỄU ( VIII )
Tuổi tác chơi xuân ngán bội phần
Ngại ngùng dưới bóng liễu xanh râm
Người xưa một biệt giờ không lại
Lá liễu mày ai đẹp tuyệt trần. ■
DƯƠNG LIỄU ( IX )
Mông mông đê bạn liễu hàm yên, Nghi thị Dương Hòa nhị nguyệt thiên. Túy ly bất tri thời tiết cải, Mạn tùy nhi nữ đả thu thiên.
DƯƠNG LIỄU ( IX )
Bên bờ dương liễu khói tơi bời
Những ngỡ trời xuân mới tháng hai
Say rượu không hay mùa đã đổi
Mải theo đàn trẻ bổng đu chơi. ■
384
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG LIỄU ( X )
Thủy các xuân lai xạ giảm hàn, Hiểu trang sơ bãi ỷ lan can. Trường điều loạn phất xuân ba động, Bất hứa giai nhân chiếu ảnh khan.
DƯƠNG LIỄU ( X )
Thủy tạ xuân về trời bớt lạnh
Vừa qua gương lược, tựa bên hiên.
Cành dài phơ phất làn xuân gợn
Chả để giai nhân đối diện nhìn. ■
DƯƠNG LIỄU ( XI )
Liễu ngạn yên hôn túy lý quy, Bất tri thâm xứ hữu phương phi. Trùng lai dĩ kiến hoa phiêu tận, Duy hữu hoàng oanh chuyển thụ phi.
DƯƠNG LIỄU ( XI )
Bờ liễu đường mờ rượu uống say
Dường như trong bụi có hương bay
Quay tìm đã thấy thơm tan hết
Chỉ có oanh vàng hót bụi cây. ■
TỪ HUYỀN
385
DƯƠNG LIỄU ( XII )
Thử khứ tiên nguyên bất thị diêu, Thùy dương thâm xứ hữu chu kiều. Cộng quân đồng quá chu kiều khứ, Sách ánh thùy dương thính động tiêu.
DƯƠNG LIỄU ( XII )
Đây tới nguồn đào chả mấy xa
Trong rừng liễu rủ có cầu qua
Cùng chàng vượt khỏi cầu son ấy
Tiếng sáo hang Đào gió vọng ra. ■
386
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HỰU THÍNH « NGHÊ TH ƯỜNG VŨ Y KHÚC » TỐNG TRẦN QUÂN
Thanh thương nhất khúc viễn nhân hành, Đào diệp tân đầu nguyệt chính minh. Thử thị Khai Nguyên thái bình khúc, Mạc giao thiên tác biệt ly thanh.
TRONG CUỘC TIỄN BIỆT TRẦN QUÂN, LẠI NGHE NHẠC « NGHÊ
THƯỜNG VŨ Y »
Thanh Thương một khúc thưở lâm hành
Đầu bến Đào kia ánh nguyệt thanh
Nét nhạc Khai Nguyên đời thịnh tri
Xin đừng chen lẫn điệu ly tình.
■
TỪ HUYỀN
387
XUÂN TẬN NHẬT DU HẬU HỒ TẶNG LƯ KHỞI CƯ
(LƯU THỜI PHƯƠNG THIÊU DƯỢC)
Kim triêu hồ thượng tống xuân quy,
Vạn khoảnh trừng ba chiếu bạch tì.
Tiếu chiết tàn hoa khuyến quân tửu,
Kim đan thành thục thị hà thì.
CUỐI XUÂN ĐI CHƠI HỒ, TẶNG LƯU KHỞI CƯ
(LÚC NÀY LƯU ĐANG BÀO CHẾ THUỐC)
Sớm nay hồ nước tiễn xuân về
Làn sóng trong veo vỗ trắng ria
Cười bẻ hoa tàn, mời cạn chén
Khi nào thuốc được nói dùm nghe!
■
388
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỪ NGUYÊN KIỆT Quê ở Thương Nhiễu (Giang Tây). Tự là Bá Nhàn, chức công bị Thị lang thời Tống.
HỒ∗ THƯỢNG
Hoa khai hồng thụ loạn oanh đề
Thảo trưởng bình hồ bạch lộ phi
Phong nhật tình hoa nhân ý hảo,
Tịch dương tiêu cổ kỷ thuyền qui.
TRÊN HỒ
Cây hồng hoa nở rộn hoàng li∗
Cò vút, hồ ngang, cỏ rậm rì
Trời tạnh, giá êm người thoải mái
Chiều vang trống sáo mấy đò về.
■
∗ Hồ: Tây hồ ∗ Hoàng li: Hoàng oanh
TỪ NGUYÊN KIỆT
TƯỞNG DI CUNG
389
TƯỞNG DI CUNG
VỊNH KIM C ƯƠNG
Dương mi đấu mục ác tinh thần,
Niết hợp tương lai cáp tự chân.
Cương bị thời lưu tá cử thế.
Bất tri thân tự thị nê nhân.
TƯỢNG KIM CƯƠNG
Giương mi trợn mắt dữ vô ngần
Người nặn y như thật mọi phần
Luôn được trần gian nhờ cậy thế
Không hay bùn đất tạo nên thân.
■
TƯỞNG DI CUNG
390
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
UNG ĐÀO
ĐỀ TÌNH T ẬN KIỀU
Tòng lai chi hữu tình nan tận
Hà sự danh vi “Tình tận kiều”
Tự thử cải danh vi “Chiết liễu”
Nhiệm tha ly hận nhất điều điều.
ĐỀ THƠ CẦU HẾT TÌNH
Trước nay chỉ có tình không hết,
Sao đặt tên là cầu “H ết tình”
Nay đổi gọi thành cầu “Chiết liễu” ∗
Tha hồ ly hận vấn vương quanh.
■ ∗ - Chiết liễu: Bẻ liễu. Thời xưa, khi tiễn nhau, thường bẻ một cành liễu tặng nhau. Cầu “Chiết liễu”: cũng là một tên tượng trưng cho các cuộc chia tay.
UNG ĐÀO
UNG ĐÀO
391
ƯƠNG KỲ ( ?)
MAI
Bất thụ trần ai bán điểm xâm
Trúc ly mao xá tự cam tâm
Chỉ nhân ngộ thức Lâm Hòa Tịnh
Nhạ đắc thi nhân thuyết đáo kim.
MAI
Chả chịu trần ai∗ nửa chút nhơ
Cam lòng mái cỏ với rào thưa
Chỉ vì lỡ biết Lâm Hòa Tĩnh∗
Nên được thi nhân nhắc tận giờ.
■
∗ Trần ai: Bụi cát ∗ Lâm Hòa Tĩnh tức Lâm Bô, một ẩn sĩ nổi tiếng thơ hay, gọi Mai là vợ, Hạc là con.
ƯƠNG KỲ
392
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VI TRANG (836 – 910)
Người quê ở Đỗ Lăng, Kinh Triệu (Trường An). Biểu tự là Đoan Kỷ. Chắt của Vị Ứng Vật (hiệp sĩ cận vệ của Đường Huyền Tông, làm nhiều chức quan, sau đi tu). Thi mãi không đỗ. Năm 894, nhận chức Hiệu thư lang. Lúc ấy có loạn Vương Kiến ở Tứ Xuyên, triều đình sai Lý Tuân làm chánh sứ, Vi Trang làm Bổ tá đi phủ dụ. Nhưng Vi Trang lại theo Vương Kiến. Kiến trở thành vua Thục, dùng Trang làm Tể tướng. Hậu THục đóng đô ở Thành Đô. Vi cho sửa lại căn nhà cũ của Đỗ Phủ ở ngoại ô. Giờ còn tập thơ văn “Cán hoa thảo đường”.
CỔ BIỆT LY
Tình yên mạc mạc liễu tham tham Bất ná ly tình tửu bán hàm Cánh bả ngọc chiên vân ngoại chỉ Đoạn trường xuân sắc tại Giang Nam.
NỖI BIỆT LY XƯA
Khói hơi man mác liễu dăng hàng Ngà rượu chia ly nôi ngút ngàn Roi ngọc chỉ nơi mây ráng nổi Mầu xuân rẫu rĩ ở Giang Nam.
■
VI TRANG
393
ĐÔNG DƯƠNG TỬU GIA TẶNG BIỆT
Thiên nhai phương thán dị hương thân,
Hựu hướng thiên nhai biệt cố nhân.
Minh nhật ngũ canh cô điếm nguyệt,
Túy tinh hà xứ các triêm cân.
TẶNG THƠ BIỆT NHAU Ở QUÁN RƯỢU ĐÔNG DƯƠNG
Chân trời vừa ngán kiếp du nhân
Giờ lại trời xa biệt bạn thân.
Mai sớm canh năm trăng quán lẻ,
Nơi nào say tỉnh cũng đằm khăn.
■
394
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
KIM L ĂNG ĐỒ
Giang vũ phi phi giang thảo tề
Lục triều như mộng điều không đề.
Vô tình tối thị Đài thành liễu,
Y cựu yên lung thập lý đê.
QUANG CẢNH KIM LĂNG∗
Lất phất mưa sông cỏ bãi lì
Sáu Triều như mộng tiếng chim chi.
Liễu thành Đài hóa vô tình nhất
Khói vẫn giăng dài chục dăm đê.
■
∗ Kim Lăng: Tên một kinh đô cũ. Tức nam Kinh.
VI ỨNG VẬT
395
VI ỨNG VẬT (737 – 804)
Quê Kinh Triệu (Trường An). Khi trẻ ưa tính nghĩa hiệp, làm cận vệ cho Đường Huyền Tôn. Sau khi Huyền Tôn mất, Vi chuyển sang đọc sách. Khi Đại Tôn lên ngôi, Vi làm chức Lạc Dương thừa, rồi thăng chức lệnh ở Lịch Dương (tỉnh Thiểm Tây). Xin từ chức về kinh, trụ trì ở Tinh Xá chùa Thiện Phúc. Năm 782, lại được bổ nhậm chức Ty bộ viên ngoại lang, rồi Thứ sử châu Trừ (tỉnh An Huy), Thứ sử Giang châu (Cửu Giang, Giang Tây), rồi Tả ty Lang trung. Vì đề bạt nhanh, nên bị đồng liêu ghen tỵ, và phải chyển làm Thứ sử Tô Châu (Giang Tô). Sau khi thôi quan, Vi lại được vời ra làm Thái bộc Thiếu khanh kiêm Ngự sử Trung thừa, rồi làm vận chuyển sứ muối, sắt các đạo (Giang Hoài). Sau khi nghỉ việc quan, Vi về ở Tinh Xá Vĩnh Đinh. Cuối cùng không rõ.
ĐĂNG LÂU KÝ V ƯƠNG KHANH
Đạp các phan lâm hận bất đồng
Sở vân thương hải tứ vô cùng
Sở gia châm chử thu sơn hạ
Nhất quận kinh trăn hàn vũ trung.
►
VI ỨNG VẬT
396
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÊN LẦU GỬI VƯƠNG KHANH
Leo gác∗ vin rừng hận chả chung
Biển xanh mây Sở tứ vô cùng
Dăm nhà chầy∗ nện thu ven núi
Mưa lạnh song gai∗ khắp một vùng.
■
THÙ LI ỄU LANG TRUNG XUÂN NH ẬT QUY DƯƠNG CHÂU
NAM QUÁCH KI ẾN BIỆT CHI TÁC
Quảng Lăng tam nguyệt hoa chính khai Hoa lý phùng quân túy nhất hồi Nam bắc tương qua thù bất viễn Mộ triều quy khứ tảo triều lai.
NGÀY XUÂN TIỄN LANG TRUNG HỌ LIỄU VỀ DƯƠNG CHÂU, VIẾT KHI CHIA TAY Ở
PHÍA NAM NGOÀI THÀNH
Quảng Lăng∗ tháng ba hoa nở tươi Giữa hoa gặp anh rượu say chơi
∗ Gác: Ở đây có thể hiểu như một công trình nền đài. ∗ Mùa thu người ta dùng chầy đập vải lụa để lấy sợi dệt may áo mùa đông. ∗ Song gai: Bụi mây, lùm cây gai, ý nói hoang lương. ∗ Quảng Lăng: Là Dương Châu
VI ỨNG VẬT
397
Nam bắc∗ qua nhau xa chả mấy
Sớm ra triều rậc tối tri ều lui.
■
TRỪ CHÂU TÂY GI ẢN
Độc liên u thảo giản biên sinh,
Thượng hữu hoàng ly thâm thụ minh.
Xuân trào đái vũ vãn lai cấp,
Dã độ vô nhân chu tự hoành.
LẠCH TÂY CHÂU TRỪ
Thương cho cỏ rậm bên bờ lạch,
Trên bụi oanh vàng hót ngon cây.i
Sóng nổi kèm mưa chiều xuống vội,
Đò không có khách tự ngang xoay.
■
∗ - Nam bắc: Hai bờ sông Dương Tử
398
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VÔ DANH
ĐỀ BÍCH
Nhất đoàn mao thảo loạn bồng bồng
Mạc địa thiên thiên mạc địa không
Tranh tự mãn lô uy cốt quật
Mạn đằng đằng địa noãn hồng hồng.
ĐỀ VÁCH
Một vùng cỏ bái rối bồng bồng
Từng lúc trời cao ngất lửa hồng
Giống tựa đầy lò loài củi gốc
Cứ lan tỏa mãi nóng bừng bừng.
■
VÔ DANH
399
SƠ QUÁ HÁN GIANG
Tương Dương hảo hướng Nghiễn Đình khan
Nhân vật tiêu điều trị tuế lan
Vị báo Tập gia đa trí tửu
Dạ lai phong tuyết quá giang hàn.
LẦN ĐẦU QUA SÔNG HÁN ∗
Tương Dương nhìn rõ đình non Nghiễn∗
Cảnh vật đìu hiu tết sắp sang
Vườn Tập∗ nhắn dùm nên sẵn rượu
Phòng đêm tuyết lạnh vượt sông sang.
∗ Sông Hán: Đoạn ở Vũ Hán (Hồ Bắc) gặp sông Dương Tử thành sông lớn ∗ Đình Nghiễn: Ở phía nam Tương Dương có núi Nghiễn, trên núi có đình. ∗ Vườn tập: Ở phía nam núi Nghiễn có sân vườn nhà thổ hào họ Tập. Thời nhà Tấn, khi Sơn Giản làm trưởng quan đất Tương Dương thường bày sẵn tiệc rượu ở vườn nhà họ Tập để tiếp đãi khách.
400
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
■
TẠP THI
Cận hàn thực vũ thảo thê thê
Trước mạch miêu phong liễu ánh đê.
Đẳng thị hữu gia quy vị đắc
Đỗ quyên hưu hướng nhĩ biên đề.
TẠP THƠ
Mưa gần Hàn Thực cỏ xanh rì
Gió lúa xao đồng liễu loáng đê.
Nhất nỗi có nhà về chửa được,
Bên tai ra rả cuốc kêu chi.
■
VÔ DANH
401
VU HỰU
HỒNG DIỆP LƯƠNG MÔI
Nhất liên giai cú tùy lưu thủy,
Thập tải u tư mãn tố hoài.
Kim nhật khước thành loan phượng lữ,
Phương tri hồng diệp thị lương môi.
BÀ MỐI LÁ THẮM
Thơ viết vài vần theo nước chảy,
Mười năm đằng đẵng đợi mong hoài.
Hôm nay loan phượng nên duyên đẹp,
Lá thắm thành ra mụ mối tài.
■
VU HỰU
402
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VŨ NGUYÊN HÀNH (758 - 815)
Người Hầu Thị (tỉnh Hà Nam), tên tự là Bá Thương. Năm 783, đỗ Tiến sĩ, được vua Đức Tông nhận thấy có tài, cho làm chức lệnh ở Hoa Nguyên (tỉnh Thiểm Tây) rồi Ty Bộ Viên ngoại lang, Hữu tư Lang trung, Ngự sử Trung thừa. Thời Đường Thuận Tông, vì bè cánh với quyền thần Vương Thúc Nhân nên bị xuống chức, nhưng năm 807 lại được làm Môn hạ Thị lang, rồi Đồng Trung thư môn Hạ Bình chương sự (như Tể tướng). Thời gian Ngô Nguyên Tế, Tiết độ sứ Hoài Tây làm phản, Vũ được Đường Hiến Tông ủy nhiệm vạch các kế hoạch diệt trừ, nhưng bị tay chân của Ngô ở trong triều ám sát.
GIA LĂNG DỊCH
Du du phong bái nhiễu sơn xuyên
Sơn dịch không mông vũ tác yên
Lộ bán Gia Lăng đầu dĩ bạch
Thục môn tây cánh thướng thanh thiên.
►
VŨ NGUYÊN HÀNH
403
TRẠM GIA LĂNG∗
Gió bay cờ bái rợp non sông
Trạm núi mù mưa ngỡ khói lồng
Nửa chặng Gia Lăng đầu đã bạc
Phía tây∗ cửa Thục lối trời thông.
■
TRÙNG TỐNG LƯ TAM TH ẬP NHẤT KHỞI CƯ∗
Du du phong bái nhiễu sơn xuyên
Sơn dịch không mông vũ tác yên
Lộ bán Gia Lăng đầu dĩ bạch
Thục môn tây cánh thướng thanh thiên.
► ∗ Có sách in “Đề trạm Gia Lăng”: Gia Lăng ở phía tây Thiểm Tây, đi vào Tứ Xuyên, trên có đường “sạn đạo” vào Thục vắt qua (sạn đạo là đường bắc bằng thân cây và cành cây). Đoạn sông Dương Tử chảy qua đây được gọi là sông Gia Lăng. Đây là chặng đường Vũ đi nhậm chức Tiết độ sứ Kiến Nam. ∗ Phía bắc của Thục là núi Kiếm Các, nơi có sạn đạo vào Thục. ∗ Có sách in đầu đề chỉ có “Tống lư khởi cư”. Khởi cư là chức quan chuyên việc ghi chép lời nói và các sắc, chiếu của nhà vua.
404
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LẠI TIỄN KHỞI CƯ XÁ NHÂN HỌ LƯ
Tương Như∗ vinh hiển truyện còn kia
Hà cớ bên hiên vạt lệ đìa
Phủ cũ Đông Sơn∗ còn kỹ nữ
Lại bày ca múa tiễn anh về.
■
∗ - Tư mã Tương Như: người Thành Đô, có tài văn chương, được Hán Vũ Đế tin dùng, có công trong việc thần phục những dân tộc khác ở miền tây Tứ Xuyên, nên được làm chức Trung lang tướng, ngồi xe bốn ngựa ( để đi cho nhanh). Thái thú Thành Đô đưa dân chúng ra đón đông ở ngoại ô. Họ Lư cũng từng làm quan ở Tứ Xuyên. ∗ - Đông Sơn: Ở Cối Kê (Thiệu Hưng, Chiết Giang) nơi Tạ An đời Tấn từng ở ẩn, đi đâu cũng mang theo nhiều ca nhi, kỹ nữ. Sau này Tạ được vời ra giữ chức lớn ở triều đình nhưng vẫn nhớ Đông Sơn. Quê Lư Khởi Cư cũng ở Cối Kê, Đông Sơn.
VƯƠNG AN THẠCH
405
VƯƠNG AN THẠCH (1021 - 1086)
Tự là Giới Phủ, hiệu là Bán Sơn. Quê Lâm Châu (Giang Tây). Đỗ Tiến sĩ thời Tống Nhân Tông. Hai lần làm Tể tướng, thực hiện «Tân pháp» nhằm làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng không được ủng hộ - Sau lại về ở ẩn Kim Lăng. Thơ, văn đều giỏi.
NGUYÊN ĐÁN
Bộc trúc thanh trung nhất tuế trừ Xuân phong tống noãn nhập Đồ Tô Thiên môn vạn hộ đồng đồng nhật, Tổng bả tân đào hoán cựu phù.
MỒNG MỘT TẾT
Năm cũ qua đi trong tiếng pháo
Gió xuân đưa ấm rót Đồ Tô∗
Ngàn nhà muôn hộ vừa học sang
Thảy căm dào tươi đổi lá bùa∗.
■ ∗ Đồ Tô: Tên một loại rượu. ∗ Lá bùa: Ngày xưa, người ta dùng cành đào làm “bùa” để trừ ma quỷ.
406
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
BẠC THUYỀN QUA CHÂU
Kinh khẩu Qua Châu nhất thủy gian,
Chung san chỉ cách sổ trùng san.
Xuân phong hựu lục Giang nam ngạn,
Minh nguyệt hà thời chiếu ngã hoàn.
ĐẬU THUYỀN CHÂU QUA
Kinh khẩu, Qua Châu nước một làn
Chung sơn chi cách mấy non ngàn
Gió xuân lại thắm bờ nam đấy
Trăng sáng khi nao trở lại làng.
■
VƯƠNG AN THẠCH
407
BẮC SƠN
Bắc sơn thâu lục trướng hoành phi,
Trực tiệm hồi đường diễm diễm thì.
Tế số lạc hoa nhân tọa cửu,
Hoãn tầm phương thảo đắc quy trì.
BẮC SƠN
Bắc Sơn dòng biếc ngập lưng đê
Kênh dọc mương ngang nước bốn bề.
Đếm kỹ hoa rơi ngồi nán mãi
Cố tìm cỏ lạ hóa lâu về.
■
408
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
MAO THIỀM
Mao thiềm thường tảo tịnh vô đài,
Hoa mộc thành hề thủ tự tài
Nhất thủy hộ điền tương lục nhiễu,
Lưỡng sơn bài thát tống thanh lai.
THỀM GIANH
Thềm gianh thường quét không rêu bám,
Hoa cỏ tay vun thẳng mấy hàng
Một lạch kênh mương ròng nước biếc
Hai bờ núi mở chuyển xanh sang.
■
VƯƠNG AN THẠCH
409
VÃN LÂU NHÀN T ỌA
Tứ cố sơn quang tiếp thủy quang,
Bằng lan thập lý kỵ hà hương
Thanh phong minh nguyệt vô nhân quản,
Tịnh tác nam lai nhất vị lương.
BUỔI CHIỀU NHÀN NGỒI Ở TRÊN LẦU
Bốn phía non sông cảnh rỡ ràng
Đầy hiên mười dặm ngát sen thơm
Trăng trong gió mát không người quản
Man mác ân tình tới tự nam.
■
410
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NGUYÊN NHẬT
Bộc trúc thanh trung nhất tuế từ,
Xuân phong tống noãn nhập Đồ Tô.
Thiên môn vạn hộ đồng đồng nhật
Tổng bả tân đào hoán cựu phù.
TẾT NGUYÊN ĐÁN
Tiếng pháo ran ran năm cũ hết
Gió xuân đưa ấm rót Đồ Tô∗
Ngàn nhà muôn hộ trời vừa rạng
Đều cắm đào tươi mới lá bùa∗.
■
∗ - Đồ Tô: Một thứ rượu ∗ - Lá bùa: Tục lệ xưa, lấy hai cành đào treo ở hai bên cổng ngày tết, coi như lá bùa trừ tà.
VƯƠNG AN THẠCH
411
XUÂN DẠ
Kim lô hương tận, lậu thanh tàn
Tiễn tiễn kinh phong trận trận hàn.
Xuân sắc não nhân miên bất đắc,
Nguyệt di hoa ảnh thượng lan can.
ĐÊM XUÂN
Lò vàng hương hết giọt đồng∗ khan
Ngăn ngắt heo may lớp lạnh tràn
Xuân sắc nao người không ngủ được
Hoa theo trang sáng tới lan can.
■
∗ - Giọt đồng: Đồng hồ thời cổ. Người ta dùng chiếc chậu đồng, khắc cái nấc giờ, đổ đầy nước và dùi một lỗ nhỏ ở đáy chậu cho nước rỏ xuống.
412
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VƯƠNG BIỂU Đỗ Tiến sĩ năm 779, làm chức Bí thư Thiếu giám.
THÀNH ĐỨC LẠC
Triệu nữ thừa xuân thướng họa lâu∗
Nhất thanh ca phát mãn thành thâu
Vô đoan cánh xướng Quan sơn khúc
Bất thị chinh nhân diệc lệ lưu.
THÀNH ĐỨC LẠC∗
Gái Triệu∗ ngày xuân đẹp dạo lầu
Một lời ca nổi khắp thành thâu
Không đâu lại hát “Quan Sơn khúc”∗
Chẳng phải chinh phu cũng lệ rầu.
■ ∗ Họa lâu: Gác sơn, vẽ đẹp. ∗ Thành Đức Lạc: Tên một bài hát trong nhạc phủ. Ở đây đầu đề và nội dung thơ không ăn khớp với nhau. ∗ Gái Triệu: Đất Triệu nay là tỉnh Sơn Tây. Triệu có nhiều gái đẹp. ∗ Quan Sơn khúc: Bài hát “Độ Quan Sơn” trong nhạc phủ. Ý là vượt núi ải (tả cảnh chinh phu, lữ khách).
VƯƠNG BIỂU
VƯƠNG BỘT
413
VƯƠNG BỘT (648 - 675)
Người Thái Nguyên, tên tự là Tử An, con cháu Vương Thông (anh nhà thơ Vương Tích). Đầu năm Lân Đức (Cao Tông) được triệu tới Kinh, phục vụ cho Bái Vương (họ Vua). Vì tính tình khinh bạc, bị đuổi khỏi Vương phủ, lang thang ở Tứ Xuyên. Mắc tội, sau được đại xá. Cha là Vương Phú bị liên luỵ, biếm sang Giao Châu. Bột
vượt Nam Hải tìm tới chỗ cha. Dọc đường bị rơi xuống biển chết (có thuyết nói thuyền bị bão). Ông là một trong “Tứ kiệt” thời Sơ Đường (Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương).
◄Tượng Vương Bột phía dưới Đằng Vương Các
414
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THỤC∗ TRUNG CỬU NHẬT
Cửu nguyệt cửu nhật vọng Hương đài∗ Tha tịch tha hương tống khách bôi Nhân tình dĩ yếm nam trung khổ Hồng nhạn na tòng bắc địa lai.
MỒNG CHÍN Ở THỤC
Mồng chín tháng chín ngó đài làng
Thôn xa tiệc lạ khách li tràn
Tình người đã chán vùng nam khổ
Hồng nhạn sao còn đất bắc∗ sang.
■
∗ Thục: Nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Vương Bột làm bài này khi thôi chức Tư soạn ở phủ Bái Vương, đi chơi Tứ Xuyên. Theo Kế Hữu Công (đời Tống) Vương cùng Lư Chiếu Lân, Thiện Đại Chấn lên núi Vũ Huyền (truyền có đài vọng hương). ∗ Vọng Hương đài: Đài nhìn về quê làng. Ở phía bắc Thành Đô (Tứ Xuyên). Ở núi Vũ Huyền cũng có đài mang tên này. Quê Vương ở Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây. ∗ Đất bắc: Có thể là đất Trường An.
VƯƠNG CHI HOÁN
415
VƯƠNG CHI HOÁN (688 - 742)
Quê ở Quế Môn (Tây bắc Bắc Kinh), tính hào hiệp, tuổi trẻ ưa săn bắn, rượu tiệc. Khi đứng tuổi quyết chí rèn luyện văn học, nổi tiếng nhưng không đỗ cao.
CỬU NHẬT TỐNG BIỆT
Kế đình tiêu sắt cố nhân hy
Hà xứ đăng cao thả tống quy
Kim nhật tạm đồng phương các tửu
Minh triêu ưng tác đoạn bồng phi.
NGÀY CHÍN∗ TIỄN NHAU
Kế Châu hiu hắt cố nhân đi
Đâu chốn lên cao lại tiễn về
Nay tạm cùng nâng ly rượu cúc
Sớm mai thơ viết cỏ bồng∗ phi.
■
∗ Ngày 9 tháng 9: Tiết Trùng Dương, lữ khách thường lên cao, ngó đài làng, uống rượu nhớ cảnh quê cũ sum họp. ∗ - Cỏ bồng: Tượng trưng cho cuộc đi dài, xa.
416
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LƯƠNG CHÂU TỪ∗
Hoàng hà viễn thướng bạch vân gian
Nhất phiến cô thành vạn nhận san
Khương địch hà tu oán dương liễu
Xuân quang bất độ Ngọc Môn quan.
BÀI TỪ CHÂU LƯƠNG
Sông Hoàng xa tít trắng mây tràn
Một mảnh thành trơ vạn núi ngàn
Khèn lạ oán chi “Dương liễu khúc”
Ánh xuân chẳng vượt Ngọc Môn quan.
■
∗ Đây là một bài thơ được Vương Sĩ Chân (còn tên hiệu là Ngư Dương hoặc Vương Thế Trinh, đỗ Tiến sĩ thời Thanh Thuận Trị) cho là một trong bốn bài ở đỉnh cao trong thơ bốn câu bảy chữ đời Đường. ba bài khác là: + Sớm đi từ Bạch Đế (Lý Bạch) + Bài từ mùa thu ở Trường Tín (Vương Xương Linh) + Tiễn Nguyên nhị đi sứ An Tây
VƯƠNG CHI HOÁN
417
XUẤT TÁI
Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian,
Nhất phiến cô thành vạn nhận san.
Khương địch hà tu oán dương liễu,
Xuân phong bất độ Ngọc Môn Quan.
RA NGOÀI ẢI
Hoàng Hà tít tắp chốn mây ngàn,
Một màng thành trơ vạn trượng non.
Hà cớ sáo Khương hớn oán liễu,
Gió xuân không vượt Ngọc Môn Quan.
■
418
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VƯƠNG CHU Đỗ Tiến sĩ cuối thời Đường. Sau làm quan với nhà Hậu
Thục.
TÚC SƠ BÌ DỊCH
Thu nhiễm đường lê diệp bán hồng
Kinh Châu đông vọng thảo bình không
Thuỳ tri cô hoạn thiên nhai ý
Vi vũ tiêu tiêu cổ dịch trung.
TRỌ TRẠM SƠ BÌ∗
Thu nhuốm đường lê∗ lá nửa hồng
Châu Kinh đông ngó cỏ mênh mông
Ai hay quan lẻ nơi trời biển
Quán cũ đìu hiu mưa não nùng.
■
∗ - Trạm Sơ Bì: Không rõ. Có thể thuộc địa phận Châu Kinh (Giang Lăng, Hồ Bắc) ∗ - Đường lê: Tên cây thuộc họ mận, hoa quả đều thơm.
VƯƠNG CHU
VƯƠNG DUY
419
VƯƠNG DUY (701 - 761)
Người Thái Nguyên (Sơn Tây), tên tự là Ma Cật, 9 tuổi đã biết sáng tác thơ, văn, viết chữ đẹp, thạo âm nhạc, được Kỳ Vương (hoàng tộc) biết tài. Đỗ tiến sĩ năm 731. Sau đó làm Tả thập di, rồi Giám sát Ngự sử, dảm nhiệm châu lương. Tiếp làm Tử phụ khuyết, Lang trung, Cấp sự trung. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, ông trốn chậm bị giặc bắt, ồi bị ép làm quan, cố chối từ không được. Loạn yên, những người làm quan với An Lộc Sơn đều bị tội nặng. Vì từng làm thơ chỉ trích An Lộc Sơn và lại có em làm quan to nên ông chỉ bị giáng chức. Sau đó lại được đề bạt làm Hữu Thương thư. Ông rất nổi tiếng về hội họa và sùng đạo phật. khi 30 tuổi vợ mất, từ đó ông không lấy ai nữa.
CỬU NGUYỆT CỬU NHẬT ỨC SƠN ĐÔNG HUYNH ĐỆ
Độc tại dị hương vi dị khách
Mỗi phùng nhai tiết bội tư thân
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân.
►
420
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NGÀY CHÍN THÁNG CHÍN NHỚ ANH EM Ở SƠN ĐÔNG∗
Ở lẻ làng xa làm khách lạ
Tết về thân thích nhớ khôn nguôi
Anh em xa ấy giờ lên núi
Thẩy giắt thù du∗ vắng một người. ■
DỮ LƯ VIÊN NGOẠI TƯỢNG QUÁ THÔI X Ử SĨ HƯNG TÔNG LÂM ĐÌNH
Lục thụ trùng âm cái tứ lân Thanh đài nhật hậu tự vô trần Khoa đầu cơ cứ trường tùng hạ Bạch nhãn khan tha thế thượng nhân. ►
∗ Lúc này tác giả 17 tuổi đang đến Kinh để thi. Sơn Đông ở phía đông Trường An và Lạc Dương. Vương Duy chính quê gốc ở huyện Kỳ, Sơn Tây (tây nam Thái Nguyên). ∗ Thù Du: Còn có tên “Việt tiêu”, có quả nhỏ màu đỏ, đeo vào có thể tránh được dịch bệnh. Phố Trường Phòng bảo bạn: “Ngày chín tháng chín nên có túi vải đựng quả thù du để tránh dịch bệnh”
VƯƠNG DUY
421
CÙNG VIÊN NGOẠI LƯ TƯỢNG∗ SANG CHƠI ĐÌNH Ở RỪNG CỦA XỬ SĨ THÔI
HƯNG TÔNG∗
Cây biếc cành chồng rợp bóng sân
Rêu xanh lớp lớp thẩy không trần
Dưới thông chân duỗi đầu trần tóc
Mắt trắng∗ nhìn xem phía thế nhân.
■
∗ Viên ngoại Lư Tượng: Người coi giữ đồ thờ và việc dâng cỗ tế ở lang miếu của nhà vua. ∗ Thôi Hưng Tông: Là anh em họ với mẹ tác giả. Lúc này Thôi không làm quan, mà ra rừng làm lều ở chơi. Có tài liệu nói trong chuyến chơi này, còn có em Vương Duy là Vương Tấn và bạn của Vương Duy là Bùi Địch. ∗ Mắt trắng: Xưa Nguyễn Tịch ( một trong bảy người hiền ở rừng Trúc đời Tấn) khi tiếp những người phàm tục thì mắt ông trắng dã (có vẻ coi thường).
422
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÍ ĐỀ BÀN THẠCH
Khả liên bàn thạch lâm tuyền thủy,
Phục hữu thùy dương phất tửu bôi
Nhược đạo xuân phong bất giải ý,
Hà nhân xuy tống lạc hoa lai.
ĐỀ CHƠI TẤM ĐÁ
Đáng yêu tấm đá bên bờ suối,
Lại có cành dương động chén mời
Ví bảo gió xuân không hiểu ý,
Sao còn thổi tới cánh hoa rơi.
■
VƯƠNG DUY
423
NGƯNG BÍCH TRÌ
Vạn hộ thương tâm sinh dã yên
Bách quan hà nhật tái triều thiên
Thu hòe hoa lạc không cung lý
Ngưng Bích trì đầu tấu quản huyền.
ĐẦM NGƯNG BÍCH
Muôn hộ buồn thương khói nội nhen
Trăm quan nao thuở trực hầu bên
Hòe thu hoa rụng suông cung điện
Ngưng Bích đầu đầm nhạc nổi lên.
■
424
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THIẾU NIÊN HÀNH
Tân phong mỹ tửu đẩu thập thiên,
Hàm Dương du hiệp đa thiếu niên.
Tương phùng ý khí vị quân ẩm,
Hệ mã cao lâu thúy liễu biên.
HÀNH KHÚC TUỔI TRẺ
Tân phong∗ rượu đậm đấu mười nghìn,
Cánh trẻ Hàm Dương nghĩa hiệp bền.
Chí lớn gặp nhau cùng chuốc chén
Lầu cao gốc liễu ngựa quàng bên.
■
∗ - Tân Phong: Tên địa phương sản xuất rượu ngon.
VƯƠNG DUY
425
THU DẠ KHÚC
Quế phách sơ sinh thu lộ vi,
Khinh la dĩ bạc vị canh y.
Ngân tranh dạ cửu ân tình lộng,
Tâm khiếp không phòng bất nhẫn qui.
KHÚC HÁT ĐÊM THU
Vừa hé trăng thu sương nhẹ hạt,
Áo the quá mỏng chửa thay gì.
Đàn tranh canh vắng ân tình rộn
Lòng ngại phòng không chẳng nỡ về.
■
426
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỐNG NGUYÊN NHỊ SỨ AN TÂY
Vị thành triêu vũ ấp khinh trần,
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương quan vô cố nhân.
TIỄN NGUYÊN NHỊ ĐI SỨ AN TÂY
Mưa bay thành Vị trời vương bụi
Quán khách xanh xanh liễu mới ngần
Mời anh cạn thêm một ly rượu
Ra khỏi Dương quan không cố nhân.
■
VƯƠNG DUY
427
TỐNG THẨM TỬ PHÚC CHI GIANG ĐÔNG
Dương liễu độ đầu hành khách hy
Cổ sư đãng tưởng hướng lâm kỳ
Duy hữu tương tư tự xuân sắc
Giang nam giang bắc tống quân quy.
TIỄN THẨM PHÚC LỢI ĐI GIANG ĐÔNG∗
Bến đò dương liễu khách thưa đi
Khua mái ông chài lượn khúc đê
Xuân sắc giống như mong nhớ đấy
Sông nam sông bắc tiễn anh về.
■
∗ - Giang Đông: Tên gọi chung một dải dài hạ lưu sông Dương Tử.
428
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VƯƠNG GIÁ (851 - ?)
XUÂN TÌNH
Vũ tiền sơ kiến hoa gian nhị,
Vũ hậu toàn vô diệp để hoa
Phong điệp phân phân quá tường khứ,
Khước nghi xuân sắc tại lân gia.
XUÂN TẠNH
Trước mưa vừa thấy hoa đua nhị
Mưa tạnh còn trơ lá ở trên
Ong bướm vượt tường bay hối hả
Lại ngờ xuân sắc ở nhà bên.
■
VƯƠNG GIÁ
VƯƠNG GIÁ
429
XÃ NHẬT
Nga hồ sơn hạ đạo lương phì
Đồn sách kê thê đối yểm phi
Tang đó ảnh tà xuân xã tán
Gia gia phù đắc túy nhân quy.
LỄ TẾ THẦN XÃ∗
Dưới núi Nga Hồ, ngô lúa mướt
Ổ gà, chuồng lợn cạnh rào tre
Bóng dâu chiều xế xong ngày lễ
Đi đón người say chật lối về.
■
∗ - Thần xã: Tức thần đất – Thổ công
430
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VƯƠNG HÀN Người châu Tinh (Thái Nguyên), tên tự là Tử Vũ, tính tình hào phóng, thích rượu, trong nhà luôn có nhiều kỹ nữ đẹp và nhiều ngựa quý. Thường tổ chức yến tiệc và săn bắn. Năm 710, đỗ Tiến sĩ (năm đầu Cảnh Vân, Đường Duệ Tông) được Trương Duyệt cử giữ chức Viên Ngoại lang giá bộ. Khi Duyệt thất thế, Hàn phải ra làm Thứ sử châu Nhữ (Hà Nam), rồi Thứ sử châu Tiên; sau được đề bạt Tả thiên Biệt giá nhưng triều thần đàn hặc bởi tính tình phóng túng, nên lại bị biếm làm Tư mã châu Đạo (Hồ Nam) rồi mất ở đó.
LƯƠNG CHÂU TỪ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi Dục ẩm tỳ bà∗ mã thượng thôi Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
BÀI HÁT CHÂU L ƯƠNG∗
Bồ đào∗ rượu đậm chén đầy vơi
Muốn uống trên yên nhạc giục rồi
Say gục sa trường anh chớ mỉa
Chiến chinh về lại hỏi bao người? ■
∗ Tỳ bà: Một nhạc cụ. ∗ Châu Lương: Nay là Vũ Uy, tỉnh Cam Túc. ∗ Bồ đào: Rượu nho.
VƯƠNG HÀN
VƯƠNG KÝ
431
VƯƠNG KÝ
XUÂN MỘ DU TIỂU VIÊN
Nhất tòng mai phấn thoái tàn trang,
Đồ mạt tân hồng thượng hải đường.
Khai đáo đồ mi hoa sự liễu,
Ty ty thiên cức xuất môi tường.
CHIỀU XUÂN DẠO VƯỜN
Vừa theo mai trắng rũ tàn trang
Son phấn tô lên má hải đường
Nở tới đồ mi∗ hoa ý rộn
Phất phơ thiên cức∗ vượt rêu tường.
■
∗ Đồ mi: Còn gọi là Trà mi. ∗ Thiên cức: Một loại dây leo như Thiên môn đông.
432
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VƯƠNG KIẾN Quê Dĩnh Xuyên (Hứa Xương, Hà Nam). Tên chữ là Trọng Sơ. Năm 775 (Đường Đại Tông) đỗ Tiến sĩ. Từ chức úy Vị Nam (tỉnh Thiểm Tây) rồi làm Thái phủ Tự thừa, Bí thư thừa, Thị Ngự sử. Năm Đại Hòa thời Đường Văn Tông chuyển làm Tư mã châu Thiểm (huyện Thiểm, Hà Nam) rồi theo việc quân nơi biên ải. Sau khi về nội địa, ở Hàm Dương (tây bắc Trường An).
THẬP NGŨ DẠ NGUYỆT VỌNG∗
Trung đình địa bạch thụ thê nha
Lãnh lộ vô thanh thấp quế hoa∗ Kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng Bất tri thu tứ tại thùy gia.
ĐÊM RẰM NHÌN TRĂNG
Cây sân quạ đậu đất sương nhòa
Móc lạnh âm thầm quế ướt hoa
Trăng sáng đêm nay người ngó hết
Chẳng hay thu tứ ở gần xa. ■
∗ Đầu đề có sách in thêm bốn chữ “Gửi Đỗ Lang Trung” (Ký Đỗ Lang Trung). ∗ Hoa quế: Có sách ghi hoa “mộc tê”.
VƯƠNG KIẾN
VƯƠNG LỆNH
433
VƯƠNG LỆNH ( 1032 – 1059) Quê Giang Tô. Bạn thân của Vương An Thạch (Tống). Có tư tưởng đổi mới. Mất sớm. Có sách « Quảng Lăng tiên sinh văn tập ».
TỐNG XUÂN
Tam nguyệt tàn hoa lạc cánh khai
Tiểu thiềm nhật nhật yến phi lai
Tử qui dạ bán do đề huyết
Bất tín đông phong hoán bất hồi.
TIỄN XUÂN
Xuân muộn hoa tàn hoa lại nở
Hiên bên buổi buổi én bay chơi
Đêm khuya giọng cuốc còn ra rả
Gọi mãi làn đông có tái hồi!
■
434
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VƯƠNG LIỆT Sống khoảng niên hiệu Đại Lịch (Đường Đại Tông, 770).
TÁI TH ƯỢNG KHÚC ( I )
Hồng nhan tuế tuế lão Kim Vi∗
Sa tích niên niên ngọa thiết y∗
Bạch Thảo∗ thành trung xuân bất nhập
Hoàng Hoa Thú∗ thượng nhạ trường phi.
BÀI HÁT TRÊN ẢI ( I )
Trẻ trai năm tháng mãi Kim Vi
Đồi cát bao lần trải chiến y
Bạch Thảo thành nay xuân chả tới
Ải Hoàng Hoa Thú nhạn bay đi.
■ ∗ Kim Vi: Tên núi ở ngoại Mông cổ. ∗ Thiết y: Áo chiến, áo giáp. ∗ Bạch Thảo: Thành ở bãi cỏ trắng, nên đặt tên theo. ∗ Hoàng Hoa Thú: Tên cửa ải quan trọng ở phía bắc châu Y (gần Y Ngô).
VƯƠNG LIỆT
435
TÁI THƯỢNG KHÚC 2
Cô thành tịch đối thú lâu nhàn
Hồi hợp thanh minh vạn nhận san
Minh kính bất tu sinh bạch phát
Phong sa tự giải lão hồng nhan.
BÀI HÁT TRÊN ẢI 2
Thành trơ lầu thú∗ bóng chiều lan
Trời thẳm quanh co núi ngút ngàn
Gương sáng chả nên soi tóc bạc
Trẻ trai gió cát xạm hồng nhan.
■
∗ - Lầu thú: Lầu canh (vọng gác) của lính thú.
436
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VƯƠNG VŨ XỨNG Quê Tế châu (Sơn Đông). Tự là Nguyên Chi. Đậu Tiến sĩ thời Tống Thái Tông. Tính cương trực, dâng thư can gián bị biếm chức.
THANH MINH
Vô hoa vô tửu quá thanh minh
Hứng vị tiêu nhiên tự dã tăng
Tạc nhật lân gia khất tân hỏa
Nhiễu song phân dữ độc thư đăng.
TIẾT THANH MINH
Thanh minh đón tết không hoa rượu
Cuộc sống sơ sài chả khác sư
Hôm trước nhà bên nhen lửa mới∗
Bên song nhờ sáng đọc Thi, Thư.
∗ Nhen lửa mới: Tết thanh minh còn gọi là Hàn thực (ăn đồ lạnh). Vì tục xưa kiêng đốt lửa ngày 3 tháng 3 âm lịch. Do đó hôm sau mọi nhà mới nhen lửa mới để nấu nướng.
VƯƠNG VŨ XỨNG
437
■
DƯ ĐIỀN ĐIỆU ( I )
Đại gia tề lực chước sàn nhan,
Nhĩ thính điền ca thủ mạc nhàn.
Các nguyện chủng thành thiên bách sách,
Đậu ky hòa tuệ mãn thanh san.
VỠ HOANG ( I )
Mọi người chung sức vỡ đồi hoang
Giữa giong thôn ca việc rộn ràng.
Đều muốn cấy trồng ngàn vạn mẫu,
Đậu non lúa mấy khắp non ngàn.
■
438
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯ ĐIỀN ĐIỆU ( II )
Bắc san chủng liễu chủng nam san,
Tương trợ lực canh khởi hữu thiên.
Nguyện đắc nhân gian giai tự ngã,
Dã ưng tứ hải thiêu hoang điền.
VỠ HOANG ( II )
Trồng xong núi bắc lại non nam
Cầy cấy đua nhau gắng sức làm
Mong khắp cõi đời như vậy cả
Rồi ra bốn bể ít đồng hoang.
■
VƯƠNG XƯƠNG LINH
439
VƯƠNG XƯƠNG LINH Tự Thiếu Bá, người Giang Ninh (nay là tỉnh Giang Tô) hoặc Trường An (tỉnh Thiểm Tây). Đỗ Tiến sĩ năm 727. Tính tình cương trực nên hay bị biếm truất. Sau bị bức hại chết
KHUÊ OÁN
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giáo phu tế mịch phong hầu.
NỖI OÁN PHÒNG KHUÊ
Phòng khuê thiếu phụ chả hay sầu
Xiêm áo ngày xuân dạo thúy lầu
Chợt thấy đầu bờ màu lá liễu
Hối xui chồng kiếm ấn phong hầu.
■
440
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LƯ KHÊ BI ỆT NHÂN ∗
Vũ Lăng khê khẩu trụ thiên châu
Khê thủy tùy quân hướng bắc lưu
Hành đáo Kinh Môn thượng Tam Giáp
Mạc tương cô nguyệt đối viên sầu.
CHIA TAY Ở LƯ KHÊ∗
Vũ Lăng∗ cửa lạch con thuyền đậu
Dòng chảy theo anh hướng bắc lau
Đi tới Kinh Môn lên Tam Giáp
Đừng soi trăng lẻ vượn đêm sầu.
■
∗ Có sách in: “Lư Khê chủ nhân”. ∗ Lư Khê: Ở Tây nam tỉnh Hồ Nam. ∗ Vũ Lăng: Nay thuộc huyện Thường Đức, tỉnh Hồ Nam.
VƯƠNG XƯƠNG LINH
441
LƯƠNG VIÊN
Lương Viên thu trúc cổ thời yên
Thành ngoại phong bi dục mộ thiên
Vạn thặng tinh kỳ hà xứ tại
Bình Đài tân khách hữu thùy liên.
VƯỜN LƯƠNG
Vườn Lương∗ trúc cũ khói thu vương
Gió thảm ngoài thành chiều xám buông
Cờ xí muôn xe đâu đó nhỉ?
Bình Đài khách khứa có ai thương.
■
∗ Vườn Lương: Còn gọi “Thố Viên”, nay là thị trấn Thương Khâu, phía đông tỉnh Hà Nam. Lương Hiếu Vương là con vua Hán Văn Đế cho xây dựng lầu gác, gọi là Bình Đài, mời các danh sĩ như Trâu Dương, mai Thặng, Tư Mã Tương Như tới đây yến tiệc, sáng tác thơ phú. Sau này “Vườn Lương” được coi là trung tâm văn học đầu đời Hán.
442
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
PHÙ DUNG LÂU TỐNG TÂN TI ỆM
Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô,
Bình minh tống khách Sở sơn cô.
Lạc dương thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
LẦU PHÙ DUNG TIỄN TÂN TIỆM
Mưa lạnh liền sông tối tới Ngô
Sớm mai tiễn khách Sở non trơ.
Bạn thân thành Lạc như thăm hỏi,
Một tấm lòng băng giữa ngọc hồ.
■
VƯƠNG XƯƠNG LINH
443
TÂY CUNG THU OÁN
Phù dung bất cập mỹ nhân trang
Thủy điện phong lai châu thúy hương
Khước hận hàm tình yểm thu phiến
Không huyền minh nguyệt đãi quân vương.
NỖI OÁN MÙA THU NƠI CUNG TÂY
Hoa sen không sánh được người đẹp
Rèm ngọc lầu hồ gió thoảng hương
Lại oán quạt thu e ấp nỗi
Trăng sông suông sáng đợi quân vương.
■
444
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÂY CUNG XUÂN OÁN
Tây cung dạ tĩnh bách hoa hương
Dục quyển châu liêm xuân hận trường
Tà bão vân hòa thâm kiến nguyệt
Lung linh thụ sắc ẩn Chiêu Dương.
NỖI OÁN MÙA XUÂN CUNG TÂY
Cung Tây∗ đêm lặng vạn hoa thơm
Muốn cuốn rèm châu xuân hận vương
Nghiêng lướt Vân Hòa∗ trăng đẫm ánh
Màu cây loang loáng lấn Chiêu Dương∗.
■
∗ Cung Tây: Cung nhà vua. Đây là cung Trường Tín trong cung Trường Lạc. ∗ Vân Hòa: Tên đàn (một loại đàn tỳ bà). ∗ Chiêu Dương: Tên cung điện trong cung Vị Ương, nơi Triệu Phi Yến ở.
VƯƠNG XƯƠNG LINH
445
THÁI LIÊN KHÚC
Hà diệp la quần nhất sắc tài,
Phù dung hướng kiểm lưỡng biên khai
Loạn nhập trì chung khan bất kiến,
Văn ca thủy gác hữu nhân lai.
KHÚC HÁT HÁI SEN
Tờ sen quần lụa một màu tươi,
Hai má phù dung ửng cả đôi.
Bóng loạn trong đầm nhìn chả thấy,
Nghe ca mới biết có người chơi.
■
446
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THANH LÂU KHÚC
Bạch mã kim yên tụng Vũ hoàng∗
Tinh kỳ thập vạn túc Trường Dương
Lâu đầu thiếu phụ minh tranh tọa
Dao kiến phi trần nhập Kiến Chương.
KHÚC HÁT LẦU XANH∗
Ngựa trắng yên vàng theo Vũ hoàng
Tinh kỳ mười vạn ngợp Trường Dương
Ngang lầu gái trẻ ôm đàn dạo
Cát bụi bay vào điện Kiến Chương.
■ ∗ Vũ Hoàng: Chỉ Hán Vũ Đế. ∗ Lầu xanh: 1. Ở đây chỉ Kỹ viện; 2. Đời Hán có lầu Hưng Quang, trên treo toàn cờ màu xanh, nên gọi “Thanh lâu”. Ngoài ra, còn dùng chỉ lầu gác nhà quyền quý, hoặc nơi người đẹp ở.
+ Trường Dương: Tên một ly cung đời Hán (Ly cung là nơi vua nghỉ ngơi ngoài cung điện chính trong Hoàng Thành). Trường Dương ở tây Trường An.
+ Gái trẻ: Ở đây là kỹ nữ + Kiến Chương: Tên cung điện đời Hán ở ngoái phía
tây Trường An.
VƯƠNG XƯƠNG LINH
447
TỐNG BIỆT
Túy biệt giang lâu quất dữu hương,
Giang phong dẫn vũ nhập thuyền lương.
Ức quân dao tại Tương sơn nguyệt,
Sầu thính thanh viên mộng lý trường.
TIỄN ĐƯA
Say biệt lầu sông bưởi quất thơm,
Gió sông mưa hắt mát đầy khoang.
Nhớ chàng trăng sáng non Tương ngái
Giữa mộng dài nghe vượn hú buồn.
■
448
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÒNG QUÂN HÀNH ( I )
Phong Hỏa thành tây bách xích lâu
Hoàng hôn độc tọa hải phong thu
Cánh xuy Khương địch quan sơn nguyệt
Vô ná kim khuê vạn lý sầu.
HÀNH KHÚC TÒNG QUÂN ( I )
Phong Hỏa∗ thành xây trăm thước lầu
Chiều vàng ngồi le ngợp hơi thu
Khèn Khương∗ thổi khúc «Trăng quan ải»∗
Chợt dấy phòng khuê vạn dặm sầu.
■ ∗ Phong Hỏa (hoặc Phong Toại, Phong Yên) là thành lũy quan trọng bậc nhất ở tiền tuyến, nhằm dò xét địch tình và báo hiệu bằng lửa hoặc khói khi có giặc tới. Ban đêm có giặc thì đốt lửa để cho các nơi chung quanh biết. Ban ngày thì đốt cỏ khô (có thể cho lẫn “phân chó sói” để thêm khói) cho khói bốc cao làm tín hiệu báo động… ∗ Khương: Là một dân tộc ở Tây Vực (có sách nói là Miêu hoặc Hồ). Khèn Hồ làm bằng trúc, có từ 3 tới 5 lỗ. ∗ Trăng quan ải (quan san nguyệt): Tên một bản nhạc dùng cho Khèn - Sáo.
VƯƠNG XƯƠNG LINH
449
TÒNG QUÂN HÀNH ( II )
Thanh Hải trường vân ám Tuyết san
Cô thành dao vọng Ngọc Môn quan
Hoàng sa bách chiến xuyên kim giáp
Bất phá Lâu Lan chung bất hoàn.
HÀNH KHÚC TÒNG QUÂN ( II )
Thanh Hải∗ mây dài xám Tuyết san∗
Thành trơ xa ngó Ngọc Môn quan∗
Cát vàng, giáp sắt từng trăm trận
Chẳng phá Lâu Lan∗ chẳng lại làng.
■
∗ Thanh Hải: Tên tỉnh, trong có hồ lớn tên Thanh Hải. ∗ Tuyết san: Nhiều nơi có núi mang tên này, ở đây là núi Kỳ Liên, ngọn cao nhất cao 5.925 mét. ∗ Ngọc Môn quan: Còn gọi “Ngọc Quan”, nay thuộc huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Phía đông là Dương Quân. Đây là hai cửa ải trọng yếu ở biên giới Tây Vực xưa. ∗ Lâu Lan: Thời Hán là tên một nước ở Tây Vực. Hán sai Phó Giới Từ đánh thắng, đổi tên là nước Thiện Thiện. Nay ở gần hồ Lốp-No
450
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÒNG QUÂN HÀNH ( III )
Tần thời minh nguyệt∗ Hán thời quan
Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn
Đãn sử Long thành∗ Phi tướng tại
Bất giao hồ Mã độ Âm san∗.
HÀNH KHÚC TÒNG QUÂN ( III )
Y nguyên ải Hán với trăng Tần
Muôn dặm chinh phu bóng khuất dần
Phi tướng ví nay vẫn còn sống
Ngựa Hồ đâu dễ vượt non Âm.
■
∗ Trăng sáng: Có tư liệu ghi là tên cửa ải thời Tần (Minh Nguyệt). ∗ “Long Thành”: Là một tên gọi Hung Nô thời Hán. “Long Thành phi tướng” là tên gọi Lý Quảng, tướng tài thời Hán, nhiều lần đánh dẹp Hung Nô. Người Hung Nô sợ hãi gọi ông là “Tướng quân bay” (phi tướng). ∗ Âm san: Tên núi ở Tuy Viễn. Xưa là biên giới Hán – Hung Nô
VƯƠNG XƯƠNG LINH
451
TỐNG BIỆT NGỤY NHỊ
Túy biệt giang lâu quất dữu hương
Giang phong dẫn vũ nhập chu lương
Ức quân dao tại Tương sơn nguyệt
Sầu thính thanh viên mộng lý trường.
TIỄN BIỆT ANH HAI NGỤY
Tiễn biệt lầu sông bưởi quất thơm
Mưa sông gió hắt lạnh đầy khoang
Nhớ anh trăng sáng non Tương thẳm
Tiếng vượn nào nghe giữa mộng buồn.
■
452
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỐNG TIẾT ĐẠI PHÓ AN LỤC∗
Tân đầu vân vũ ám Tương san∗
Thiên khách ly ưu sở địa nhan
Dao tống thiên chu An Lục quận
Thiên biên hà xứ Mục Lăng quan.
TIỄN BÁC TIẾT ĐI AN LỤC
Mây mưa đầu bến ám non Tương
Đất Sở∗ buồn xa khách võ vàng
Xa tiễn con thuyền về Lục quận
Chân trời đâu nhỉ Mục lăng quan∗.
■ ∗ An Lục: Ở phía tây bắc Vũ Hán (Hồ Bắc). ∗ Tương Sơn: Tức Quân sơn, ở hồ Động Đình. ∗ Đất Sở: Vùng này nói chung trước kia thuộc Sở. ∗ Mục Lăng quan: phía đông bắc quận An Lục.
VƯƠNG XƯƠNG LINH
453
TRÙNG BIỆT LÝ BÌNH SỰ∗
Mạc đạo thu giang ly biệt nan
Châu thuyền minh nhật thị Trường An
Ngô cơ hoãn vũ lưu quân túy
Tùy ý thanh phong∗ bạch lộ hàn.
LẠI BIỆT ÔNG BÌNH SỰ HỌ LÝ
Đừng bảo sông thu ly biệt khó
Con thuyền mai sớm lại Trường An
Nàng Ngô múa chậm say anh đấy
Sương bạc cây xanh nỗi lạnh tràn.
■
∗ Bình sự: Là một chức quan coi việc Hình. ∗ Phong: Một loại cây cao, lá hình bàn tay. Ngoài có “răng cưa”, mùa thu lá chuyển màu đỏ, mùa xuân có hoa.
454
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
XUÂN CUNG KHÚC
Tạc dạ phong khai lộ tỉnh đào
Vị ương tiền điện nguyệt luân cao
Bình dương ca vũ tân thừa sủng
Liêm ngoại xuân hàn tứ cẩm bào.
CUNG XUÂN
Bên giếng đêm qua làn gió động
Vị ương điện trước ánh trăng cao
Bình Dương ca múa thêm chiều chuộng
Xuân lạnh ngoài hiên tặng cẩm bào.
■
VƯƠNG XƯƠNG LINH
455
MỤC LỤC TÁC GIẢ THƠ BỐN CÂU
LỜI ĐẦU SÁCH...................................................... 3 ÂU DƯƠNG CHIÊM................................................7 ÂU DƯƠNG TU.......................................................8 BẠCH NGỌC THIỀM.............................................27 BAO HÀ.................................................................28 CẢNH VỸ...............................................................29 CAO BIỀN .............................................................30 CAO THÍCH...........................................................38 CAO THIỀM...........................................................42 CHÍ NAM................................................................43 CHU HI..................................................................44 CHU KHÁNH DƯ...................................................49 CHU TẤT ĐẠI .......................................................51 CHU THỤC CHÂN.................................................52 CỐ HUỐNG...........................................................57 DÃ TĂNG...............................................................61 DIỆP THÁI ........................................................... 62 DIỆP THIỆU ÔNG.................................................63 DƯƠNG BỊ ...........................................................64 DƯƠNG CỰ NGUYÊN..........................................66 DƯƠNG VẠN LÝ...................................................68 DƯƠNG PHÁC......................................................74 DƯƠNG SĨ NGẠC.................................................75
456
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐOÀN THÀNH THỨC ...........................................77 ĐỖ LỖI...................................................................79 ĐỖ MỤC ...............................................................80 ĐỖ PHỦ.................................................................92 ĐỖ THẨM NGÔN ...............................................103 ĐỖ TUÂN HẠC....................................................105 GIẢ CHÍ ..............................................................107 GIẢ ĐẢO..............................................................114
HẠ TRI CHƯỞNG.............................................. 118 HÀN CÂU............................................................ 120 HÀN DŨ ............................................................. 121 HÀN HOẰNG (HOÀNH)..................................... 124 HÀN TÔNG ........................................................ 127 HÀN TƯỜNG..................................................... 128 HOA NHAN......................................................... 129 HOÀNG PHỦ NHIỄM......................................... 130 HOÀNG SÀO ..................................................... 134 HỒNG TUÂN...................................................... 135 HỨA HỒN .......................................................... 136 LA ẨN................................................................ 138 LÂM CHẨN ........................................................ 141 LÂM THĂNG....................................................... 142 LÂU DĨNH .......................................................... 143 LIỄU TÔNG NGUYÊN ....................................... 144 LỘ ĐỨC CHƯƠNG............................................ 147 LỤC DU.............................................................. 148 LƯ BẬT............................................................... 155
VƯƠNG XƯƠNG LINH
457
LƯ ĐÌNH KỲ....................................................... 157 LƯ MAI PHA....................................................... 158 LƯƠNG HOÀNG ............................................... 161 LƯU HÀN............................................................ 162 LƯU KHẮC TRANG .......................................... 163 LƯU QUÝ TÔN .................................................. 164 LƯU SƯ THIỆU.................................................. 165 LƯU TỬ VỰNG.................................................. 166 LƯU TRƯỜNG KHANH .................................... 167 LƯU PHƯƠNG BÌNH ........................................ 172 LƯU VŨ TÍCH .................................................... 173 LÝ BẠCH ........................................................... 183 LÝ CẤU............................................................... 212
LÝ CHỬNG..........................................................214 LÝ DỤC................................................................217 LÝ ĐOAN.............................................................219
LÝ HOA …………………… ………………...221 LÝ GIA HỰU........................................................222
LÝ ÍCH.................................................................223
LÝ KIẾN HUÂN....................................................228
LÝ KỲ ..................................................................229
LÝ NGAO.............................................................230
LÝ THÂN .............................................................231
LÝ THIỆP.............................................................232
LÝ THƯƠNG ẨN.................................................233
LÝ ƯỚC ..............................................................241
MẠNH ĐẠI VŨ .....................................................242
458
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
MẠNH HẠO NHIÊN .............................................243
MỤC ĐỒNG.........................................................244
NGHIÊM VŨ ........................................................245
NGÔ DUNG.........................................................246
NGÔ DUY TÍN .....................................................247
NGÔ ĐÀO............................................................248
NGÔ TU LƯƠNG ................................................249
NGÔ TƯỢNG CHI ..............................................250
NGUYÊN CHẨN ..................................................251
NHẠC PHI ...........................................................253
ÔN ĐÌNH QUÂN ..................................................254
ÔNG QUYỂN.......................................................256
PHẠM THÀNH ĐẠI ..............................................257
PHỔ ĐỘ THIỀN SƯ ............................................262
SÁI HY TỊCH .......................................................263
SẦM THAM..........................................................264
TẠ PHƯƠNG ĐẮC..............................................273
TẠ CAO ...............................................................275
TÀO BÌNH............................................................276
TÀO NGHIỆP ......................................................277
TĂNG KỶ.............................................................278
TÂN KHÍ TẬT.......................................................279
TẦN QUÁN..........................................................280
THÁI XÁC............................................................281
THẠCH NHU .......................................................282
THẨM THUYÊN KỲ .............................................283
THÍCH HẠO NHIÊN.............................................284
VƯƠNG XƯƠNG LINH
459
THÍCH LINH NHẤT..............................................285
THIÊN BẢO CUNG NHÂN...................................287
THÔI HỘ..............................................................288
THÔI HUỆ ĐỒNG................................................290
THÔI LỖ ..............................................................291
THÔI MẪN ĐỒNG ...............................................292
THÔI QUỐC PHU................................................293
THƯỜNG KIẾN...................................................294
TIỀN KHỞI ..........................................................298
TIẾT ĐÀO............................................................300
TIỂU THUYẾT CHI..............................................301
TÔ THỨC ............................................................304
TỐNG CHI VẤN...................................................328
TRẦN DỮ NGHĨA................................................330
TRẦN ĐÀO..........................................................331
TRẦN HỰU .........................................................332
TRẦN NGỌC LAN ...............................................333
TRIỀU ĐOAN HỮU .............................................334
TRIỆU HỖ ...........................................................335
TRIỆU SƯ TÚ......................................................339
TRÌNH HIỆU........................................................340
TRÌNH HIỆU HẠO ...............................................342
TRỊNH CỐC.........................................................343
TRỊNH HỘI ..........................................................345
TRỪ QUANG HY.................................................346
TRƯƠNG BÍCH...................................................347
TRƯƠNG DUYỆT ...............................................348
460
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG HỖ ......................................................350
TRƯƠNG HÚC ...................................................352
TRƯƠNG HỰU...................................................353
TRƯƠNG KẾ ......................................................354
TRƯƠNG KIỀU...................................................356
TRƯƠNG KÍNH TRUNG.....................................358
TRƯƠNG LAI......................................................360
TRƯƠNG NGẠC.................................................361
TRƯƠNG THỨC.................................................362
TRƯƠNG TỊCH...................................................363
TRƯƠNG TIẾT ...................................................366
TRƯƠNG TRỌNG TỐ ........................................367
TRƯƠNG TỬ DUNG ..........................................372
TRƯƠNG VỊ ........................................................374
TƯ KHÔNG THỰ ................................................376
TƯ MÃ LỄ ...........................................................377
TƯ MÃ QUANG...................................................378
TỪ HUYỀN..........................................................379
TỪ NGUYÊN KIỆT ..............................................388
TƯỞNG DI CUNG...............................................389
UNG ĐÀO............................................................390
ƯƠNG KỲ ...........................................................391
VI TRANG............................................................392
VI ỨNG VẬT........................................................395
VÔ DANH ............................................................398
VU HỰU ..............................................................401
VŨ NGUYÊN HÀNH ............................................402
VƯƠNG XƯƠNG LINH
461
VƯƠNG AN THẠCH ...........................................405
VƯƠNG BIỂU .....................................................412
VƯƠNG BỘT ......................................................413
VƯƠNG CHI HOÁN ............................................415
VƯƠNG CHU......................................................418
VƯƠNG DUY ......................................................419
VƯƠNG GIÁ .......................................................428
VƯƠNG HÀN ......................................................430
VƯƠNG KÝ.........................................................431
VƯƠNG KIẾN .....................................................432
VƯƠNG LỆNH ....................................................433
VƯƠNG LIỆT ......................................................434
VƯƠNG VŨ XỨNG.............................................436
VƯƠNG XƯƠNG LINH.......................................439
MỤC LỤC TÁC GIẢ THƠ BỐN CÂU...................455
462
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU gồm 428 bài thơ Đường luật thất ngôn tứ tuyệt của 170 tác giả thời Đường và Tống Trung Quốc cổ. Cụ Bùi Hạnh Cẩn dịch 2010; In thử nhất khổ 14 x 20 cm: 02 quyển 462 trang tại nhà in NoiLieuhaha tháng 3-2014.