Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

33
Báo cáo (tóm tắt) Đề tài: XÂY DỰNG HỆ THỐNG DANH PHÁP VÀ THUẬT NGỮ HÓA HỌC VIỆT NAM (PHẦN DANH PHÁP) Mở đầu Đề tài “Xây dựng hệ thống Danh pháp và Thuật ngữ hóa học Việt Nam” (dưới đây gọi tắt là Đề tài) do Hội Hóa học Việt Nam chủ trì (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam quản lý) có ý nghĩa rất lớn đối với những người học Hóa học, dạy và nghiên cứu Hóa học, sản xuất hóa chất cũng đối với tất cả những người làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến Hóa học và hoá chất. Từ khi đất nước ta tiếp cận với các lĩnh vực khoa học tự nhiên đã có nhiều học giả quan tâm đến việc phiên chuyển các thuật ngữ khoa học sang tiếng Việt, mà người có đóng góp lớn nhất là GS Hoàng Xuân Hãn. Những đề xuất của GS Hoàng Xuân Hãn đã đặt nền móng cho việc “Việt hóa” các danh từ khoa học, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên, trong đó có Hoá học, ở nước ta. Sau GS Hoàng Xuân Hãn, nhất là sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, ở miến bắc cũng như miền nam đã có những văn bản cấp bộ quy định cách phiên chuyển và gọi tên các nguyên tố, tên các hợp chất hóa học cũng như dịch hoặc phiên chuyển các thuật ngữ hóa học từ tiếng nước ngoài, trong đó với tư cách là những nhà hóa học tiêu biểu, các GS Nguyễn Thạc Cát và Lê Văn Thới đã có những đóng góp quan trọng. Sau năm 1975 đã có một số hội thảo bàn về danh pháp và thuật ngữ, trong đó có đề cập đến danh pháp và thuật ngữ hóa học. Bộ 1

description

Hóa vô cơ

Transcript of Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

Page 1: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

Báo cáo (tóm tắt) Đề tài: XÂY DỰNG HỆ THỐNG DANH PHÁP VÀ THUẬT NGỮ

HÓA HỌC VIỆT NAM

(PHẦN DANH PHÁP)Mở đầu

Đề tài “Xây dựng hệ thống Danh pháp và Thuật ngữ hóa học Việt Nam” (dưới đây gọi tắt là Đề tài) do Hội Hóa học Việt Nam chủ trì (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam quản lý) có ý nghĩa rất lớn đối với những người học Hóa học, dạy và nghiên cứu Hóa học, sản xuất hóa chất cũng đối với tất cả những người làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến Hóa học và hoá chất.

Từ khi đất nước ta tiếp cận với các lĩnh vực khoa học tự nhiên đã có nhiều học giả quan tâm đến việc phiên chuyển các thuật ngữ khoa học sang tiếng Việt, mà người có đóng góp lớn nhất là GS Hoàng Xuân Hãn. Những đề xuất của GS Hoàng Xuân Hãn đã đặt nền móng cho việc “Việt hóa” các danh từ khoa học, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên, trong đó có Hoá học, ở nước ta. Sau GS Hoàng Xuân Hãn, nhất là sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, ở miến bắc cũng như miền nam đã có những văn bản cấp bộ quy định cách phiên chuyển và gọi tên các nguyên tố, tên các hợp chất hóa học cũng như dịch hoặc phiên chuyển các thuật ngữ hóa học từ tiếng nước ngoài, trong đó với tư cách là những nhà hóa học tiêu biểu, các GS Nguyễn Thạc Cát và Lê Văn Thới đã có những đóng góp quan trọng. Sau năm 1975 đã có một số hội thảo bàn về danh pháp và thuật ngữ, trong đó có đề cập đến danh pháp và thuật ngữ hóa học. Bộ Giáo dục cũng đã ban hành quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay chúng ta vẫn chưa có một hệ thống danh pháp và thuật ngữ hoá học thống nhất, đặc biệt là việc viết tên các nguyên tố và hợp chất hoá học khá tùy tiện, ngay đối với từng cá nhân cũng ít khi nhất quán. Trong giới đại học và nghiên cứu tình trạng đó khá nặng nề. Sinh viên và nghiên cứu sinh không biết viết thế nào cho đúng, thầy giáo không biết nên sửa như thế nào, thậm chí, trong một công trình khoa học, tên một hóa chất khi thì viết thế này, khi thì viết thế khác. Chính vì vậy, nhu cầu xây dựng một hệ thống danh pháp và thuật ngữ hóa học thống nhất là việc làm có tính cấp bách và đó chính là lý do mà Hội Hóa học Việt Nam chủ động đề xuất và nỗ lực thực hiện Đề tài này.

Đề tài được khởi động từ năm 2005. Giai đoạn đầu tập trung xử lý cách viết và gọi tên các nguyên tố hoá học, trên cơ sở đó tiếp tục xử lý tên các hợp chất hoá học. Ban chủ nhiệm Đề tài đã tổ chức nhiều hội thảo ở Hà

1

Page 2: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

Nội và TP Hồ Chí Minh để thảo luận các đề xuất của ban chủ nhiệm theo từng giai đoạn tiến triển khác nhau của Đề tài cũng như nhận được các bài viết của nhiều nhà khoa học tham gia thảo luận các nội dung của Đề tài. Tại các hội thảo và trong các bài viết, các thành viên tham gia Đề tài cũng như nhiều nhà khoa học khác đã trình bày các ý kiến của mình một cách thẳng thắn; đặc biệt, các lý lẽ bảo vệ các quan điểm khác nhau đã được trình bày rõ ràng. Về một số nội dung vẫn còn có hai loại ý kiến khác nhau để có thể đi đến một phương án thống nhất, tuy nhiên, trong những trường hợp như vậy, hầu hết ý kiến đều đồng tình với việc đưa ra hai phương án để tiếp tục xử lý hoặc cho lưu hành cho đến khi một trong hai phương án đó được cộng đồng hoá học chấp nhận. Điều có thể khẳng định chắc chắn là, ai cũng rất trăn trở và bức xúc muốn sớm có một hệ thống danh pháp và thuật ngữ hóa học Việt Nam thống nhất, dù có thể chưa hoàn chỉnh, nhưng khả dĩ đáp ứng được những đòi hỏi không thể trì hoãn của một xã hội đang phát triển nhanh chóng trong thế giới ngày càng hội nhập sâu rộng, trong đó hóa học và công nghệ hóa học, với tầm vóc và tính đặc thù của mình, hiển nhiên có vai trò hết sức quan trọng.

Các nguyên tắc chung trong xây dựng hệ thống danh pháp Tính khoa học; Tính hệ thống và nhất quán; Tính dân tộc và phổ cập; Tính quốc tế và hội nhập Tính kế thừa.

Về tổng thể, đã có sự thống nhất ý kiến cao đối với các nguyên tắc nêu trên. Tuy nhiên, nhiều đề xuất và phương án khác nhau hết sức phong phú đã xuất hiện khi vận dụng các nguyên tắc đó vào việc đặt ra những quy tắc cụ thể của hệ thống danh pháp, đặc biệt là những quy tắc phiên chuyển tên gọi các nguyên tố hóa học và các hợp chất hóa học từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt.

Tính hệ thống và tính nhất quán, về bản chất, cũng là tính khoa học, cho nên đảm bảo tính khoa học là nguyên tắc quan trọng nhất. Và nếu đảm bảo được tính khoa học thì cũng đồng thời làm cho các nguyên tắc về tính hệ thống và tính nhất quán dễ dàng được tuân thủ. Để các nguyên tắc trên đây ít bị vi phạm thì khi xây dựng các quy tắc cụ thể cần tránh có nhiều ngoại lệ. Đây là việc làm rất khó khi phải xây dựng một hệ thống danh pháp khoa học trong hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt trên cơ sở chất liệu và quy tắc của một số ngôn ngữ cổ điển và hiện đại phương Tây.

2

Page 3: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

Về tính dân tộc và phổ cập phải được hiểu, đây là hệ thống danh pháp hoá học Việt Nam, áp dụng cho người Việt Nam. Trong quá trình thảo luận nhiều ý kiến đã đề cập đến nguyên tắc này và nhận thức chung cho rằng, hệ thống danh pháp này được xây dựng lên không phải chỉ để cho các nhà khoa học sử dụng, nhưng cũng không phải để phục vụ rộng rãi cho mọi người dân trong xã hội. Đây là một hệ thống danh pháp khoa học; nó là một thành tố của hệ thống thuật ngữ tiếng Việt, nhưng có thể có những đặc thù riêng của một tiểu hệ thống có chứa một số thành tố vay mượn. Vì vậy, tính dân tộc và tính phổ cập cũng cần phải được hiểu trong khuôn khổ là để đáp ứng nhu cầu của một số tầng lớp cư dân nhất định, chứ không phải đối với toàn xã hội. Thực tế thì sự tiếp cận của đại đa số dân chúng đối với các thuật ngữ hoá học cũng chỉ hạn chế trong một số hoá chất và quá trình công nghệ hết sức thông dụng; đối với những thuật ngữ này, như đã trình bày ở trên, sẽ áp dụng hai phương án phiên chuyển. Đối với học sinh trung học bắt đầu học hoá học thì số lượng các thuật ngữ cũng không nhiều lắm; cách xử lý có thể giống như đối với những người ít tiếp cận với hoá học và hoá chất. Tuy nhiên, việc học tiếng nước ngoài, mà chủ yếu là tiếng Anh, ở trường phổ thông đang có xu thế nhanh chóng được mở rộng quy mô, cho nên, đối tượng này cũng sẽ ngày càng gặp ít khó khăn trong việc đọc và viết tên hoá chất (số lượng cũng không nhiều) trong đó có những vần không có trong tiếng Việt thuần tuý.

Đề tài cũng phải xây dựng được một hệ thống danh pháp và thuật ngữ hóa học phục vụ cho một giai đoạn lịch sử tương đối dài có tính đến sự phát triển tất yếu của ngôn ngữ Tiếng Việt nói chung và ngôn ngữ hóa học nói riêng. Xu thế chung của ngôn ngữ tất cả các dân tộc là phát triển trong một thế giới ngày càng hội nhập sâu rộng; Tiếng Việt không thể là ngoại lệ. Mặt khác, Hoá học là một môn khoa học tự nhiên mà trước đây hầu như chưa được phát triển ở nước ta. Trong khoảng hơn nửa thế kỷ qua, Hoá học được phát triển ở Việt Nam rất nhanh chóng, tuy nhiên, trên thế giới Hoá học và Công nghệ hoá học đã và đang phát triển như vũ bão làm cho yêu cầu hội nhập với thế giới đang trở nên là nhu cầu bức bách không thể trì hoãn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Không thể không thừa nhận rằng, đã nhiều thập kỷ nay, trong khi hệ thống danh pháp hoá học Việt Nam ở trong tình trạng rất thiếu nhất quán thì từng nhà hoá học cụ thể, bằng cách này hay cách khác, dù không phải dễ dàng lắm, vẫn tìm cách hội nhập với hoá học thế giới. Rõ ràng là tình trạng lôn xộn trong hệ thống danh pháp hoá học đang tỏ ra cản trở sự giao lưu và hội nhập của giới hoá học Việt Nam. Và chắc chắn sự cản trở đó ngày càng tăng lên, nếu chúng ta không nhanh chóng xây dựng được một hệ thống danh pháp hoá học có tính quốc tế và hội nhập thoả đáng.

3

Page 4: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

Để phát triển không thể không kế thừa những thành quả đã đạt được trong quá khứ. Những đóng góp của các thế hệ đi trước, đặc biệt là các nhà khoa học tiêu biểu như đã nhắc đến ở trên, là rất quý giá, có tính khai phá, đặt nền móng và hướng dẫn các thế hệ nối tiếp hoàn thiện hệ thống danh pháp và thuật ngữ hoá học. Nhưng thế hệ hiện nay cũng không có quyền dừng lại chỉ ở những thành quả mà các thế hệ đi trước đã khai phá và để lại. Bởi vì, so với khoảng 50 – 60 năm trước đây, các ngành khoa học đã được phát triển đến mức mà có lẽ lượng thông tin đã tăng lên rất nhiều lần. Riêng số lượng các hợp chất hoá học hiện nay đã lên tới nhiều chục triệu. Trong lúc đó nhu cầu giao lưu giữa các quốc gia đã thu hút không phải chỉ hàng trăm, ngàn nhà hoá học như trước đây, mà nhu cầu đó đã trở nên bức thiết đối với hàng triệu người làm hóa học trên toàn thế giới, trong đó có rất nhiều người không phải là chuyên nghiệp. Cho nên, đối với tất cả các lĩnh vực khoa học trên toàn thế giới, không có ngoại lệ cho bất kỳ ở một quốc gia nào, những người có liên quan đến hoá học và công nghệ hoá học đều đang trong quá trình hội nhập. Trong Hoá học và Công nghệ hoá học hệ thống danh pháp IUPAC đang ngày càng được áp dụng rộng rãi, trở thành nền tảng của hệ thống danh pháp ở nhiều quốc gia. Chúng ta hết sức trân trọng những di sản có tính khai phá của các bậc tiền bối, đồng thời thừa kế có chọn lọc di sản đó để phát triển và mở rộng các quy tắc phiên chuyển và đặt tên các đơn chất và hợp chất hoá học, đáp ứng đòi hỏi của thực tế nhu cầu phát triển khoa học-công nghệ và kinh tế-xã hội của đất nước.

Đề tài đang được thực thi trong bối cảnh xã hội cũng rất đáng được quan tâm. Không kể việc sử dụng tiếng Anh trong xã hội hiện nay, trước hết là trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đang trở nên ngày càng phổ biến và cũng rất tuỳ tiện (do không có sự chỉ đạo thống nhất), quan điểm coi tiếng Anh là ngoại ngữ chính, thậm chí là ngoại ngữ phổ cập, đã được chấp nhận rộng rãi. Có thể coi giai đoạn ngập ngừng trong việc coi tiếng Anh là đòi hỏi bức bách trong các biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và cạnh tranh ngày càng khốc liệt đã qua. Thực tế, sự yếu kém tiếng Anh đang là rào cản quá lớn không phải chỉ trong công việc của các nhà chính trị hay văn hoá-xã hội, mà ngay đối với hàng triệu người lao động để có thể tạo ra năng suất lao động cao hơn, đóng góp cho GDP nhiều hơn và có thu nhập cao hơn. Vì vậy, hệ thống danh pháp hoá học Việt Nam cũng chỉ có thể được xây dựng bằng cách “Việt hoá” trên nền tảng chất liệu của hệ thống danh pháp IUPAC chủ yếu lấy tiếng Anh làm cơ sở. Như vậy, các thuật ngữ được chọn để phiên chuyển chủ yếu sẽ lấy từ tiếng Anh, tuy nhiên, riêng đối với tên các nguyên tố hoá

4

Page 5: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

học, để có sự tương hợp giữa tên nguyên tố và ký hiệu của nguyên tố đó, trong nhiều trường hợp, vẫn cần dùng tên Latin làm gốc.

Các quy tắc xây dựng hệ thống danh phápDanh pháp hoá học, theo GS Hoàng Xuân Hãn, là cách gọi tên các

đơn chất và hợp chất hoá học và từ đó có thể suy ra cách gọi tên các chất phụ thuộc. Theo ông, nước nào cũng có danh pháp riêng, nhưng tên đặt ra lại giống nhau. Trong hoàn cảnh Việt Nam chúng ta, có thể hiểu rằng, danh pháp bao gồm hai nội dung: (i) các quy tắc phiên chuyển những từ ngữ hoá học gốc tiếng nước ngoài và (ii) các quy định diễn giải việc cấu tạo tên hợp chất hoá học. GS Nguyễn Thạc Cát đã viết: “Danh pháp hoá học tiếng Việt được xây dựng dựa trên danh pháp hoá học đã được nhiều hội nghị quốc tế công nhận, chỉ riêng thuật ngữ cần phải sửa đổi cho phù hợp với quy định về cách đặt thuật ngữ tiếng Việt trên cơ sở thuật ngữ nước ngoài”. GS Lê Văn Thới cũng đã viết: “Phương sách phiên âm rất tiện lợi vì danh từ hoá chất đã có sẵn và đặt theo một hệ thống quốc tế vững chắc ta khỏi phải tìm đâu xa”. “Các hội nghị quốc tế” và “hệ thống quốc tế vững chắc” ở đây có thể được hiểu là hệ thống danh pháp IUPAC. Như vậy, danh pháp hoá học bao gồm hai nội dung: các quy tắc phiên chuyển và các quy tắc gọi tên hoá chất. Trong khi “quy tắc gọi tên” chúng ta có thể dựa vào các quy tắc của IUPAC, thì “quy tắc phiên chuyển” chính là vấn đề hết sức phức tạp, sự không nhất quán và lộn xộn chủ yếu là ở đây.

Các quy tắc phiên chuyểnHiện trạng

Như đã nói ở trên, hiện nay việc viết tên các nguyên tố hoá học và các hoá chất chưa thống nhất, lộn xộn và tuỳ tiện. Đặc biệt, trong các giáo trình, sách chuyên khảo và các luận án, luận văn, các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học..., tình trạng chung là các tác giả lúng túng dẫn đến sự không nhất quán ngay trong một công trình và tự xử lý theo cách nghĩ của mình. Nguyên nhân của tình trạng này có thể có nhiều, ví dụ tác giả không nắm được những quy tắc chính thống (ví dụ, quy định của Uỷ ban Khoa học Nhà nước trước đây), tuy nhiên nguyên nhân chính là các quy định có tính chính thống (cả ở miền bắc và ở miền nam) có nhiều yếu tố chưa hợp lý. Có thể tóm tắt các quy định có tính chính thống hiện nay như sau:

1/ Quy định của Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Các quy định này (chủ yếu dựa vào gốc tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, tuỳ trường hợp cụ thể và quen dùng) được thể hiện tương đối nhất quán trong các sách giáo khoa bậc trung học và trong Từ điển bách khoa Việt Nam (có được mở rộng). Đó là:

5

Page 6: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

Bỏ dấu thanh và dấu mũ (oxi), viết liền các âm tiết (etilen), một phụ âm viết hai lần liền nhau bỏ đi một (berili), bỏ bớt nguyên âm E nếu không gây nhầm lẫn (benzen), các cặp nguyên âm đi liền nhau có thể giữ nguyên nếu dễ phát âm (iot), hoặc chuyển thành một nguyên âm (ơtecti), bỏ các hậu tố um và ium (natri, omoni, platin, uran);

Chuyển tất cả nguyên âm Y thành I (hiđro), trừ khi nguyên âm Y nằm ở đầu từ (Ytri), phụ âm D thành Đ (Inđi), bỏ phụ âm H sau các phụ âm T (tiophen), C (clo);

Bổ sung một số phụ âm trong tiếng Việt không có: F (flo), J (jun), Z (ziriconi);

Chuyển phụ âm C đứng trước các nguyên âm mềm thành X (axeton, axit, nhóm hiđroxyl), chuyển phụ âm W thành V (vonfram) và phụ âm G đứng trước các nguyên âm mềm thành GI (giecmani), mở rộng sử dụng phụ âm K (kali). Về phụ âm C, thực ra các quy định chính thống (của UBKHNN và Bộ Giáo dục) cũng không phải giống nhau. Theo GS Lê Khả Kế, năm 1960 UBKHNN quy định chấp nhận các vần CE, CI, CY và các con chữ F, J, W, Z và các phụ âm cuối không có trong tiếng Việt (vd. ID, YD, OZ...), tuy nhiên, sau đó UBKHNN đã tổ chức một số hội thảo và quy định “phiên theo âm” là chính, nghĩa là hầu như bãi bỏ các các quy định năm 1960 như đã nhắc đến trên đây. Trong khi đó, năm 1984, Bộ trưởng Bộ Giáo dục lại ban hành quy định về chính tả và thuật ngữ tiếng Việt áp dụng cho sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục lại cho phép sử dụng các quy tắc gần giống như trong quy định năm 1960 của UBKHNN. Quy định này được ban hành trên cơ sở đề nghị của Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ do Bộ trưởng lập cuối năm 1982. Không rõ vì sao quy định này không được áp dụng trong ngành giáo dục, mặc dù sau đó không có quy định nào khác nữa của cấp có thẩm quyền trong ngành.

Chấp nhận một số tổ hợp phụ âm: Br (brom), Cl (clo), Cr (crom), Đr (hiđro), Fl (flo) , Fr (franxi), Gl (glucoza), Gr (graphit), Kr (kripton), Pl (platin), Sp (spinen) , St (stibi), Str (stronti), Tr (triti). Tuy nhiên, đối với các tổ hợp hai phụ âm ở âm vận giữa thì thêm nguyên âm I cho dễ đọc, vd., AD (cađimi), RC (ziriconi)...

Chấp nhận ba vần ngược biểu thị nhóm chức là: AL (metanal), OL (etanol) và YL (axetyl), còn tất cả các vần ngược đều chuyển thành các vần ngược có trong tiếng Việt được phát âm tương đối giống âm vận trong tiếng nước ngoài: AL = AN (anđehit), AF = AP (hapni), AR = AC (cacbon), AS = AT (atpirin), ER = EC (Ytecbi), ID = IT (anđehit), OL = ON (honmi), OS = OT (photpho), hoặc bỏ đi: OR = O (fomic). Như đã trình bày ở trên, các vần ngược trên đây cũng đã

6

Page 7: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

từng được chấp nhận không phiên chuyển trong các quy định của UBKHNN (1960) và Bộ Giáo dục, tuy nhiên, việc phiên chuyển như trình bày ở đây vẫn được coi là chính thống.

Hậu tố ASE chuyển thành AZƠ (bazơ ) hoặc AZA (amilaza), hậu tố OSE chuyển thành OZA (glucoza).

Hậu tố URE (trong tiếng Pháp) hoặc IDE (trong tiếng Anh) của nguyên tố đứng sau trong công thức hợp chất nhị tố và một số ion đa nguyên tử chuyển thành UA (clorua, cacbua).

2/ Các quy tắc do GS Lê Văn Thới và Hội đồng biên soạn danh pháp (1963) đề ra và được áp dụng ở miền nam. Hiện nay các quy tắc này vẫn được sử dụng trong các trường đại học ở phía nam, tuy nhiên cũng bị pha lẫn với các quy định nêu tại mục 1 trên đây cũng như sự “tuỳ nghi” của người dùng. Các quy tắc đó có thể được tóm lược như sau:

Tên các nguyên tố hoá học, chủ yếu dựa vào tên tiếng Pháp, được viết theo các quy tắc được liệt kê dưới đây; hậu tố UM và IUM vẫn giữ nguyên (clor, brom, oxigen, natrium, uranium, magnesium, calcium);

Bỏ dấu thanh và dấu mũ, viết liền các âm tiết, một phụ âm viết hai lần liền nhau bỏ đi một;

Chuyển tất cả phụ âm Y thành I kể cả trong hậu tố chỉ nhóm chức (etil, oxigen), trừ trường hợp nguyên âm Y nằm ở vị trí đầu của tên nguyên tố (Ytrium) hoặc nguyên âm Y có trong ký hiệu nguyên tố (Dysprosium – Dy).

Bỏ các phụ âm và nguyên âm “câm”: E (benzen), H (metan), S (verni), T (momen), trừ trường hợp phụ âm H có trong ký hiệu nguyên tố (Thorium – Th)

Phụ âm C đọc là “xờ” nhưng không chuyển thành X; chấp nhận thêm các phụ âm F, J, Z, P và W;

Các hậu tố ASE và OSE chuyển thành AZ (baz) và OZ (celuloz); Chấp nhận các vần ngược không có trong tiếng Việt: AD (cadmium),

AF (hafnium), AL (aldehid, metanal), AR (carbon, argon), ER (polimer), ES (ester), ID (glucid), IS (histamin) IL/YL (octil), OD (iod), OL (alcol), OR (cloroform, formol), OS (osmium, phosphoric), UL (sulfuric, sulfamid), UR (furfural);

Hậu tố URE (từ gốc tiếng Pháp) chuyển thành UR (clorur).3/ Bộ Y tế có các quy định riêng cho ngành Dược với nguyên tắc cố gắng phiên âm sao cho khỏi lầm thuốc, nguy hiểm cho người bệnh dùng thuốc. Những quy định chính gồm:

Bỏ các dấu thanh, dấu mũ; các âm tiết viết liền; không thay D bằng Đ, không thay Y bằng I;

7

Page 8: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

Bỏ ký tự E ở cuối từ (streptomycin), ký tự H câm (cloroform, colesterol) nhưng H được giữ lại nếu nằm trong ký hiệu nguyên tử (rhodium – Rh) và trong thiol (thiouracil), một phụ âm viết hai lần liền nhau bỏ đi một (penicilin);

Thu nhận các tổ hợp phụ âm không có trong tiếng Việt: BL (blastolysin), CL (clo), GL (glucose), GN (magnesium), GR (Grignard), CR (crom), DR (dehydro), FL (flo);

Giữ nguyên các vần ASE (amylase), OSE (glucose), GE (viết gen, không viết gien);

Giữ nguyên các tổ hợp nguyên âm (trừ nguyên âm kép dính của tiếng Pháp, thay bằng nguyên âm tiếng Anh, vd. oestradiol = estradiol): EU (leucin), AU (aureomycin), OU (coumarin);

Chấp nhận các vần ngược; AL (aldehyd), AD (cadmium), AF (hafnium), AR (carbon), EUR (Pasteur), OS (phosphat), ID (glucosid), OID (alcaloid), OD (iod);

Chấp nhận phụ âm C đứng trước các nguyên âm mềm: CI (acid), CE (aceton, acetic), CY (cyanogen, cyanua);

Chuyển UL thành UN (acid sunfuric); Tên người, tên nước và tên địa danh không phiên chuyển.

Các quy tắc được đề xuất để xây dựng danh pháp hoá học Việt Nam1/ Áp dụng những quy tắc đã được thống nhất trong cả nước, gồm:

Bỏ dấu thanh và dấu mũ, viết liền các âm tiết (etylen); Giữ nguyên các tổ hợp nguyên âm và đọc nhanh từng âm theo tiếng

Việt: AE (caesi), AU (tautomer), EA (seaborgi), EI (einsteini), EO (neodym), EU (eugenol), IO (iod, niobi), OU (coumarin), UO (fluor), YO (yohimbin);

Bỏ bớt một trong hai phụ âm của phụ âm đôi: CC (sacarose), FF (cafein), LL (alyl, paladi), MM (amoni), NN (cinamic), RR (pyrole), TT (ytri), ngoại lệ là vẫn giữ phụ âm kép MM trong ammin là phối tử của phức chất để khỏi lẫn với amin.

Bỏ bớt nguyên âm E ở cuối từ nếu không gây nhầm lẫn (viết benzen, propan,... nhưng phải viết indole, pyrole, thiazole,...)

Bổ sung các phụ âm không có trong tiếng Việt: F (ferum), J (jasmin), Z (benzen); P (paladi, pentan) và mở rộng phạm vi sử dụng phụ âm K để phù hợp với ký hiệu (kali, krypton...) hoặc danh pháp IUPAC (alkan);

Chấp nhận các tổ hợp phụ âm: Br (brom), Cl (clor), Cr (crom), Dr (hydro), Fl (fluor), Fr (freon), Gl (glucose), Gr (graphit), Kr

8

Page 9: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

(krypton), Pt (platin), Pr (proton), Ps (pseudoionon), Sp (spin), St (sterol), Str (stronti), Tr (natri).

2/ Phụ âm G đứng trước nguyên âm E không chuyển thành GI hoặc GH, có thể đọc như “gie” hoặc “ghe” (germani);

3/ Phụ âm D không chyển thành Đ nhưng vẫn đọc như Đ trong tiếng Việt (hydro, indi); các phụ âm I (i ngắn) và Y (i dài) vẫn giữ nguyên như trong tiếng Anh. Trong tiếng Anh tên các nguyên tố (molybdenum, beryllium) và cả tên các hợp chất (trừ trường hợp oxygen và oxide) được viết nhất quán hoặc I hoặc Y. Trong thực tế, mặc dầu có một quy định trong chính tả tiếng Việt về việc chuyển Y thành I, hầu như rất ít người chịu viết I thay cho Y trong những trường hợp mà theo thói quen/truyền thống người ta đã quen viết Y (kỹ thuật, kỳ quan, tỷ lệ...). Điều quan trọng là việc vẫn giữ các nguyên âm Y và I không trái với quy tắc chính tả Tiếng Việt mà lại đúng với nguyên gốc tiếng nước ngoài, tạo thuận lợi cho việc tra cứu cũng như đọc và viết các công trình khoa học.

4/ Không bỏ phụ âm H nếu phụ âm này nằm trong tổ hợp tạo vần tiếng Việt như methan, ethylen, lithi, thali, thuli, thiophen, chitin, chavebitol, chalcon..., kể cả trường hợp Rhodi (Rh) dù không tạo vần tiếng Việt nhưng phụ âm H có mặt trong ký hiệu nguyên tố. Như vậy, phụ âm H sẽ bị bỏ trong các từ như clor, crom, bismut, bicromat...và trong các trường hợp tương tự.

5/ Không thay phụ âm S bằng X hoặc Z. Phụ âm này trong tiếng Pháp thường đọc là “zờ” nếu đứng giữa hai nguyên âm, vì vậy, được chuyển thành Z (miền nam: baz, amilaz, glucoz) và ZƠ hoặc ZA (miền bắc: bazơ, glucoza, amilaza). Người Anh không đọc như vậy. Người Việt cũng đọc phụ âm này là “xờ” hoặc “sờ”, tuỳ theo địa phương. Cho nên, không nên phụ thuộc cách đọc của tiếng Pháp, nghĩa là không cần phiên chuyển các vần được tạo bởi phụ âm S, trong khi quy tắc chính tả tiếng Việt không bắt buộc phải thay đổi gì cả. Có thể đọc base là “ba-se”, glucose là “glu-co-se” v.v..., nhưng việc đọc là “bax”, “glucox” có thể không phải là khó đối với bất kỳ ai có học vài bài nhập môn tiếng Anh.

6/ Bỏ bớt âm tiết cuối UM hoặc IUM trong tên phần lớn các nguyên tố hoá học và một số cation. Ví dụ: kali, natri, uran/urani, fluor, carboni, amoni, oxoni,...Riêng hai nguyên tố Curium (Cm) và Thulium (Tm) thì không bỏ đuôi UM vì để tương hợp với ký hiệu nguyên tố.

9

Page 10: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

7/ Phụ âm C bình thường thì được đọc như K, tuy nhiên, nếu đứng trước các nguyên âm mềm (E, I, Y) thì phải đọc như X (“xờ”). Việc chuyển C = X có ưu điểm là tạo thuận lợi cho mọi người đọc, kể cả những người chưa quen với hoá học, tuy nhiên, gây trở ngại nhất định cho việc hội nhập, trong khi hầu hết những người có trình độ hoá học nhất định lại không có nhu cầu phải phiên chuyển như vậy. Đặc biệt, trong hoá học hữu cơ thì số lượng những hợp chất mà tên gọi có chứa các vần CE, CI, CY lại rất nhiều; những hợp chất này chủ yếu liên quan đến các công trình khảo cứu chứ ít có liên hệ với đại đa số công chúng. Những nhà nghiên cứu, bao gồm cả sinh viên, thật sự không có nhu cầu phải phiên chuyển các thuật ngữ có liên quan đến các vần của phụ âm C, không những thế, nếu phiên chuyển sẽ gây khó khăn cho việc tra cứu, bởi vì lúc đó sẽ không thể phân biệt được đâu là vần XE thật đâu là vần XE được phiên chuyển từ vần CE. Mặc dầu vậy, một số thuật ngữ tương đối thông dụng có các vần này (vd. axit, axeton, axetic) lâu nay đã được dùng rộng rãi (ở miền bắc và trong sách giáo khoa bậc phổ thông), kể cả trong công chúng, cho nên có thể cần tiếp tục duy trì trong những giới hạn nhất định, mà cụ thể là để tiếp tục tồn tại như một phương án song đôi. Đối với các hợp chất phức tạp hơn và ít phổ biến hơn thì không phiên chuyển, như đang áp dụng triệt để trong ngành dược và ở miền nam.

8/ Không sử dụng và phiên chuyển hậu URE (theo tiếng Pháp) mà sử dụng hậu tố IDE (theo tiếng Anh) trong tên gọi các hợp chất nhị tố, vd., cloride, carbide, sunfide/sulfide,...Có ý kiến đề nghị bỏ nguyên âm E, nhưng như vậy sẽ có thể bị nhầm lẫn với những hợp chất mà tên gọi có hậu tố ID nhưng khác về bản chất.

Như vậy, trên cơ sở những quy tắc nêu trên, các đề xuất của Đề tài đối với hệ thống danh pháp hoá học Việt Nam bao gồm các nội dung như trình bày dưới đây.

Các nguyên tố hoá học1. Những nguyên tố đã có tên Việt hoặc Hán-Việt đang được sử dụng

rộng rãi thì cứ tiếp tục gọi như vậy mà không cần phải phiên chuyển từ tiếng Latin (hoặc tiếng Anh, tiếng Pháp) nữa. Tuy nhiên, để biết nguồn gốc của ký hiệu và tiện viết tên các dẫn chất cũng như thể hiện các cation trong các phức chất, vd. kali hexacyanoferat (II) hay axit/acid tetracloroauric, bên cạnh tên Việt, sẽ viết thêm tên Latin nhưng để trong ngoặc đơn . Đó là 10 nguyên tố: Ag (Argentum), Au (Aurum), Al (Aluminium), Cu (Cuprum), Fe (Ferrum), Hg (Hydrargyrum), Pb (Plumbum), Sn (Stannum), S (Sulfur), Zn

10

Page 11: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

(Zincum). Có ý kiến đề nghị xem xét thêm hai nguyên tố Ni và Pt, nên chăng sử dụng tên Việt là “kền” và “bạch kim”. Tuy nhiên, mức độ phổ biến của các tên “kền” và “bạch kim” có thể chưa thật rộng rãi như các nguyên tố nêu trên, cho nên, Ban chủ nhiệm Đề tài thấy không cần đưa Ni và Pt vào danh sách các nguyên tố được đặt tên Việt hoàn toàn. Không thể không thừa nhận rằng, đặt tên Việt hoặc Hán-Việt sẽ làm cho việc gọi tên nguyên tố được dễ dàng, nhưng lại gây khó khăn cho việc hình thành các dẫn chất của chúng; trong tuyệt đại đa số trường hợp khi hình thành tên hợp chất hoặc phức chất đều phải sử dụng tên Latin của các nguyên tố đó. Cho nên không cần mở rộng việc đặt tên Việt nếu không thật sự cần thiết. Bên cạnh đó, Ban chủ nhiệm Đề tài lại thấy, vì tên “nitơ”, giống như “hydro” và “oxy” đã được phổ biến quá rộng rãi, nên chăng coi tên “nitơ” của nguyên tố N là tên Việt và sẽ viết rời chứ không viết hai từ liền nhau, bởi vì nếu là tên Việt hoàn toàn thì không viết liền và có thể có dấu thanh, dấu mũ. Xin lưu ý rằng, theo quy ứơc được nhiều người chấp nhận thì các thuật ngữ hoá học được hình thành trên cơ sở chất liệu từ thuật ngữ nước ngoài không nên có dấu thanh và dấu mũ (những trường hợp như “ơgenol” hoặc “ơtecti” đang được kiến nghị loại bỏ để chuyển thành “eugenol”, “eutecti”). Nếu xử lý tên nguyên tố này theo đề xuất trên đây thì sẽ không còn tranh chấp giữa các phương án “nitơ” và “nitrogen”; lúc đó nó là nguyên tố bình đẳng trong số các nguyên tố có tên Việt hoàn toàn như “vàng”, “thuỷ ngân” (cũng gồm hai từ viết rời nhau) v.v...Việc hình thành tên các dẫn chất của N cũng được xử lý như các nguyên tố có tên Việt khác mà không cần quan tâm mối liên quan giữa tên nguyên tố với tên dẫn chất*. Có ý kiến đề nghị đối với hai nguyên tố H và O nên sử dụng tên Hydrogen và Oxygen. Thực ra, nếu viết như vậy thì phù hợp với quy tắc đã được đề ra trên đây về việc bỏ đuôi UM và IUM như đối với các nguyên tố khác, và cũng không gây khó khăn gì trong việc đọc (đằng nào chúng ta cũng phải đọc “halogen” khi nhắc đến các nguyên tố thuộc nhóm này), tuy nhiên vì hiện nay các tên “hydro” và “oxy” đã trở nên quá phổ biến và cũng không gây trở ngại gì nhiều cho việc hình thành các dẫn chất của chúng, cho nên, nên để nguyên, không cần thay đổi.

* Ý kiến này của Ban chủ nhiệm không được đa số đồng tình; ý kiến chung vẫn muốn giữ tên gọi NITƠ như hiện nay, cũng coi như một ngoại lệ của việc sử dụng dấu thanh. Một số ý kiến đề nghị đưa ra hai phương án là NITƠ và NITROGEN (không thể viết NITRO vì sẽ gây nhầm lẫn với nhóm NITRO) để sau này khi viết tên các hợp chất, vi dụ, các phức chất không gặp khó khăn (xem phần sau).

11

Page 12: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

2. Để có sự tương hợp giữa tên và ký hiệu nguyên tố, nguyên tố Ce viết Ceri chứ không viết Xeri, nguyên tố Cs viết là Caesi chứ không viết Xesi, nguyên tố Cm viết Curium, nguyên tố Tm viết Thulium.

3. Đối với các trường hợp phụ âm đứng ở cuối âm vận mà không có trong các vần của Tiếng Việt, phần lớn chấp nhận viết như nguyên tiếng nước ngoài và người đọc có thể xử lý theo hai cách; hoặc đọc như các phụ âm độc lập với nhau (vd. ly-bờ-đen, ha-fờ-ni...), hoặc đọc nhẹ vần ngược đó (vd., A-rơ-gon hay Ca-rơ-bon, đọc nhẹ vần “rơ”), gần như không đọc thành âm. Đó là các trường hợp vần AD (cadmi), AF (hafni), AG (magnesi), AR (argon, arsen, carbon), AS (astati), ER (erbi, germani, terbi, yterbi), IR (zirconi), IS (bismut), OD (iod), OR (bor, clor, fluor), OS (osmi, phospho), YB (molybden). Đối với các nguyên tố B, Cl, F, I cần giữ các phụ âm R và D ở cuối để dễ dàng chuyển sang các dẫn chất của chúng như cloric, fluoric, boric, iodic v.v... Một số ý kiến cho rằng các vần ngược: AL, OL, EL thuộc loại khó đọc, cho nên sẽ áp dụng quy tắc hai phương án, đó là 6 nguyên tố: canxi/calci, honmi/holmi, niken/nickel, coban/cobalt, tantan/tantal. wonfram/wolfram.

4. Hiện nay tên người và cả tên địa danh nói chung là không phiên chuyển, vì vậy, nguyên tố Fr (francium) và các nguyên tố sau U (uranium) là những nguyên tố được đặt tên theo tên của các nhà khoa học lớn của nhân loại (là chính) và một số địa danh hoặc hành tinh, cho nên không phiên chuyển mà chỉ bỏ đuôi UM.

Như vậy, tên các nguyên tố sẽ được viết như sau: 1. Hydrogenium Hydro, ký hiệu H;2. Helium Heli, ký hiệu He;3. Lithium Lithi, ký hiệu Li;4. Beryllium Beryli, ký hiệu Be;5. Borum Bor, ký hiệu B;6. Carboneum/Carbon Carbon, ký hiệu C;7. Nitrogenium Nitơ/Nitrogen, ký hiệu N;8. Oxygenium Oxy, ký hiệu O,9. Fluorum Fluor, ký hiệu F,10.Neon Neon, ký hiệu Ne,11.Natrium Natri, ký hiệu Na,12.Magnesium Magnesi (5), ký hiệu Mg; 13.Aluminium Nhôm, ký hiệu Al,14.Silicium Silic, ký hiệu Si,15.Phosphorus Phospho, ký hiệu P,

12

Page 13: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

16.Sulfur Lưu huỳnh, ký hiệu S,17.Chlorum Clor, ký hiệu Cl,18.Argon Argon, ký hiệu Ar,19.Kalium Kali, ký hiệu K,20.Calcium Canxi (1)/Calci (2), ký hiệu Ca,21.Scandium Scandi, ký hiệu Sc,22.Titanium Titan, ký hiệu Ti,23.Vanadium Vanadi, ký hiệu V,24.Chromium Crom, ký hiệu Cr,25.Manganum Mangan, ký hiệu Mn,26.Ferrum Sắt, ký hiệu Fe,27.Cobaltum Coban (1)/Cobalt (2), ký hiệu Co,28.Niccolum/Nickel Niken (1)/Nickel (2), ký hiệu Ni,29.Cuprum Đồng, ký hiệu Cu,30.Zincum Kẽm, ký hiệu Zn,31.Gallium Gali, ký hiệu Ga,32.Germanium Germani, ký hiệu Ge,33.Arsenicum Arsen, ký hiệu As,34.Selenium Selen, ký hiệu Se,35.Bromum Brom, ký hiệu Br,36.Krypton Krypton, ký hiệu Kr,37.Rubidium Rubidi, ký hiệu Rb,38.Strontium Stronti, ký hiệu Sr,39.Yttrium Ytri, Ký hiệu Y,40.Zirconium Zirconi, ký hiệu Zr,41.Niobium Niobi, ký hiệu Nb,42.Molybdenum Molybden, ký hiệu Mo,43.Technetium Techneti, ký hiệu Tc,44.Ruthenium Rutheni, ký hiệu Ru,45.Rhodium Rhodi, ký hiệu Rh,46.Palladium Paladi, ký hiệu Pd,47.Argentum Bạc, ký hiệu Ag,48.Cadmium Cadmi, ký hiệu Cd,49.Indium Indi, ký hiệu In, 50.Stanum Thiếc, ký hiệu Sn,51.Stibium Antimon/Stibi, ký hiệu Sb,52.Tellurium Teluri, ký hiệu Tl,53.Iodum Iod, ký hiệu I,54.Xenon Xenon, ký hiệu Xe,55.Caesium Caesi, ký hiệu Cs,

13

Page 14: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

56.Barium Bari, ký hiệu Ba,57.Lanthanum Lanthan, ký hiệu La,58.Cerium Ceri, ký hiệu Ce,59.Praseodymium Praseodym, ký hiệu Pr,60.Neodymium Neodym, ký hiệu Nd,61.Promethium Promethi, ký hiệu Pm,62.Samarium Samari, ký hiệu Sm,63.Europium Europi, ký hiệu Eu,64.Gadolinium Gadolini, ký hiệu Gd,65.Terbium Terbi, ký hiệu Tb,66.Dysprosium Dysprosi, ký hiệu Dy,67.Holmium Honmi (1)/Holmi (2), ký hiệu Ho,68.Erbium Erbi, ký hiệu Er,69.Thulium Thulium, ký hiệu Tm,70.Ytterbium Yterbi, ký hiệu Yb,71.Lutetium Luteti, ký hiệu Lu,72.Hafnium Hafni, ký hiệu Hf,73.Tantalum Tantan (1)/Tantal (2), ký hiệu Ta,74.Wolframium Wonfram (1)/Wolfram (2), ký hiệu W,75.Rhenium Reni, ký hiệu Re,76.Osmium Osmi, ký hiệu Os,77.Iridium Iridi, ký hiệu Ir,78.Platinum Platin, ký hiệu Pt,79.Aurum Vàng, ký hiệu Au,80.Hydrargyrum Thủy ngân, ký hiệu Hg,81.Thalium Thali, ký hiệu Tl,82.Plumbum Chì, ký hiệu Pb,83.Bismuthum Bismut, ký hiệu Bi,84.Polonium Poloni, ký hiệu Po,85.Astatinum Astatin, ký hiệu At,86.Radon Radon, ký hiệu Rn,87.Francium Franci, ký hiệu Fr,88.Radium Radi, ký hiệu Ra,89.Actinium Actini, ký hiệu Ac,90.Thorium Thori, ký hiệu Th,91.Protactinium Protactini, ký hiệu Pa,92.Uranium Urani/Uran, ký hiệu U,93.Neptunium Neptuni, ký hiệu Np,94.Plutonium Plutoni, ký hiệu Pu,95.Americium Americi, ký hiệu Am,

14

Page 15: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

96.Curium Curium, ký hiệu Cm,97.Berkelium Berkeli, ký hiệu Bk,98.Californium Californi, ký hiệu Cf,99.Einsteinium Einsteini, ký hiệu Es,100. Fermium Fermi, ký hiệu Fm,101. Mendelevium Mendelevi, ký hiệu Md,102. Nobelium Nobeli, ký hiệu No,103. Lawrencium Lawrenci, ký hiệu Lr,104. Rutherfordium Rutherfordi, ký hiệu Rf,105. Dubnium Dubni, ký hiệu Db,106. Seaborgium Seaborgi, ký hiệu Sg,107. Bohrium Bohri, ký hiệu Bh,108. Hassium Hassi, ký hiệu Hs,109. Meitnerium Meitneri, ký hiệu Me,110. Darmstadtium Darmstadti, ký hiệu Ds,111. Roentgenium Roentgeni, ký hiệu Rg.

Tên đồng vị của một nguyên tố hoá học gồm tên của nguyên tố đó kèm theo chữ số Arap chỉ nguyên tử khối của nó. Trong ký hiệu, chỉ số chỉ nguyên tử khối viết ở phía trên bên trái (vd. 6Li, 7Li, và 35Cl, 37Cl ...). Những đồng vị của nguyên tố hydro có tên và ký hiệu riêng: Deutri (D), Triti (T).

Đơn chất có cùng tên với nguyên tố tương ứng. Tên của mỗi dạng thù hình của đơn chất là tên của đơn chất đó kèm theo tính từ nêu đặc tính của dạng thù hình hoặc có tên riêng, vd. Phospho trắng và Phospho đỏ của P, Graphit và Kim cương của C, Ozon (O3) của oxy, ...

Về cách gọi tên các hợp chất hóa học:Tên các hợp chất hoá học được phiên chuyển theo các quy tắc đã trình

bày trên đây và đã áp dụng cho cách phiên chuyển tên các nguyên tố hoá học. Đối với tên của một số hợp chất được coi là rất phổ biến sẽ để hai phương án để người dùng tự lựa chọn. Đó là: axit/acid, axeton/aceton (đối với các keton thì vẫn giữ như nguyên dạng đó của tiếng Anh chứ không sử dụng tên tiếng Pháp là cetone), axetic/acetic (và các dẫn chất), axetylen/acetylen, andehyd/aldehyd, ancol/alcol, sunfuric/sulfuric, xyanide/cyanide (có thể bổ sung).

A. Các hợp chất vô cơTheo quy định của IUPAC, một hoá chất có thể có ba loại tên: tên

thông thường (tên truyền thống), tên hệ thống và tên nửa hệ thống. Mặc dù tên hệ thống thể hiện tính khoa học rất rõ ràng, ví dụ, sulfuric acid là tên

15

Page 16: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

thông thường, còn tên hệ thống phải là dihydrogen trioxosulfate. Tuy vậy, trên các sách báo quốc tế cả tên hệ thống và tên thông thường đều được sử dụng.

Vấn đề thứ tự các từ tố trong tên hợp chất được xử lý thống nhất là trong tên, cũng như trong công thức, phần dương được viết và đọc trước, phần âm (hoặc âm hơn) được viết và đọc sau. Như vậy, đối với các muối thì thống nhất như trong hệ thống danh pháp IUPAC (tiếng Anh), nhưng đối với các axit/acid thì công thức được viết giống, nhưng tên thì viết khác với hệ thống tiếng Anh (viết công thức HNO3 như trong danh pháp IUPAC, nhưng viết tên và đọc tên thì axit/acid nitric chứ không phải nitric axit/acid). Ở đây không phải chúng ta không nhất quán, khi thì theo tiếng Pháp, khi thì theo tiếng Anh, mà là theo quy tắc của ngôn ngữ Tiếng Việt. Trong tiếng Việt, trật tự các từ tố của một từ ghép phụ thuộc vào vai trò của các từ tố; nếu hai từ tố có vai trò như nhau (đẳng lập) thì thứ tự không quan trọng (vd., khoẻ mạnh hoặc mạnh khoẻ đều như nhau), nhưng nếu không phải là hai từ tố đẳng lập thì từ tố đóng vai trò chính phải đước đặt trước từ tố kia. Ta nói xe đạp, chứ không nói đạp xe, cá chép chứ không phải chép cá, bởi vì từ xe và từ cá mới là các từ chính. Tương tự như vậy, axit/acid mới là từ chính, còn nitric chỉ là từ phụ, làm rõ nghĩa cho từ chính (axit/acid gì?).

Hợp chất nhị tố1. Như đã trình bày ở trên về trật tự các từ tố, tên của các hợp chất nhị tố

gồm tên của nguyên tố dương (dương hơn) tiếp theo là tên của nguyên tố âm (âm hơn) với hậu tố IDE, ví dụ: canxi/calci carbide (CaC2), natri fluoride (NaF), bari cloride (BaCl2), sắt sunfide/sulfide (FeS), hydro cloride (HCl), hydro phosphide (H3P).

2. Tên các hợp chất nhị tố của oxy trước đây được phiên chuyển thành oxit (miền bắc) và oxid (miền nam) đều gần với cách phát âm trong tiếng Pháp và cách viết cả trong tiếng Pháp lẫn trong tiếng Anh, trong khi không thể phiên chuyển tên các hợp chất nhị tố khác (từ tiếng Anh) bằng cách thêm hậu tố IT vào tên nguyên tố âm hơn đứng sau vì sẽ gây nhầm lẫn với các muối của các axit/acid có chứa oxy như clorit, nitrit. Vì vậy các hậu tố UA và UR đã được sử dụng để phiên âm các hợp chất nhị tố không phải của oxy. Nay nên thống nhất là tên tất cả các hợp chất nhị tố, kể cả của oxy, đều được phiên chuyển với hậu tố IDE. Như vậy các hợp chất nhị tố của oxy sẽ được phiên chuyển thành OXIDE. Tuy nhiên, đối với các oxide cần phân biệt các trường hợp sau đây: (i) Nếu nguyên tố bị oxy hoá chỉ có một hoá trị hoặc cả nguyên tố bị oxy hoá lẫn nguyên tố oxy đều chỉ có một nguyên tử (ion), thì tên oxide gồm tên nguyên tố bị oxy hoá và tiếp

16

Page 17: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

sau đó là từ oxide, ví dụ: magnesi oxide (MgO), nhôm oxide (Al2O3) hoặc carbon oxide (CO), ni tơ oxide (NO). (ii) Nếu nguyên tố bị oxy hoá chỉ có một nguyên tử nhưng có thể có nhiều hoá trị (thường là các kim loại) thì tên oxide gồm tên nguyên tố bị oxy hoá có kèm theo hoá trị viết bằng số La Mã trong ngoặc đơn và sau đó là từ oxide, ví dụ: đồng (I) oxide (Cu2O), đồng (II) oxide (CuO), sắt (II) oxide (FeO), sắt (III) oxide (Fe2O3). (iii) Nếu nguyên tố bị oxy hoá có thể có nhiều hoá trị và có một hoặc nhiều hơn một nguyên tử thì tên oxide gồm tên nguyên tố bị oxy hoá có kèm theo tiền tố chỉ dẫn số lượng nguyên tử (ion) của nguyên tố đó tiếp theo là từ oxide có kèm theo tiền tố chỉ số lượng nguyên tử (ion) oxy, ví dụ: lưu huỳnh dioxide (SO2) , lưu huỳnh trioxide (SO3), dinitơ/dinitrogen oxide (N2O), dinitơ/dinitrogen trioxide (N2O3), dinitơ/dinitrogen tetraoxide (N2O4), dinitơ/dinitrogen pentaoxide (N2O5), diphospho pentaoxide (P2O5). (iv) Nếu hợp chất của oxy (oxide) có chứa hai nguyên tử oxy liền nhau trong công thức cấu tạo (– O – O – ) thì trong tên gọi từ oxide có thêm tiền tố PER, ví dụ, natri peroxide (Na2O2), hydro peroxide (H2O2). Bởi vì, dù các oxide chứa ít hay nhiều nguyên tử oxy thì hoá trị của oxy trong các oxide đó cũng không thay đổi mà chỉ hoá trị của nguyên tử bị oxy hoá thay đổi, cho nên các oxide này cũng có thể được gọi tên theo cách đơn giản hơn là gồm tên nguyên tố bị oxy hoá với số La Mã trong ngoặc đơn chỉ hoá trị của nó và tiếp theo là từ oxide (giống như trường hợp các oxide của các kim loại thay đổi hoá trị). Ví dụ, N2O4

gọi là ni tơ (IV) oxide, P2O5 gọi là phospho (V) oxide.3. Tên của các hydroacid gồm từ axit/acid và tiếp theo là tên nguyên tố

của anion với hậu tố HYDRIC, ví dụ, các axit/acid: clorhydric (HCl), bromhydric (HBr), sunfurhydric/sulfurhydric (H2S),... Muối của các hydroacid được gọi tên như hợp chất nhị tố đã kể đến ở trên, nghĩa là có hậu tố IDE ở tên nguyên tố âm hơn nằm ở vị trí cuối trong công thức của hợp chất, ví dụ, natri cloride (NaCl), bari sunfide/sulfide (BaS).

Hợp chất có hơn hai nguyên tốCác hợp chất loại này có thể chia thành các nhóm sau đây:

1. Hợp chất, trong đó các nguyên tố ít âm hơn chỉ liên kết với nguyên tố ít âm nhất. Các hợp chất này được gọi tên bằng cách thêm hậu tố IDE vào tên của tất cả các nguyên tố, trừ nguyên tố ít âm nhất. Riêng đối với nguyên tố oxy thì không thêm hậu tố IDE, ví dụ: phospho trifluoride dibromide (PF3Br2), phospho oxy bromide (POBr).

17

Page 18: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

2. Hợp chất, trong đó các nguyên tố tạo thành phần âm liên kết với nhau (trừ các axit/acid có chứa oxy và muối của chúng) thành một cụm gọi là gốc, có tên riêng và tính chất khác với các nguyên tố tạo ra nó, ví dụ, anion OH (hydroxide), CN (xyanide/cyanide). Tên những hợp chất loại này gồm tên phần dương và tên gốc, ví dụ, natri hydroxide (NaOH), kali xyanide/cyanide (KCN).

3. Các axit/acid có chứa oxy mà công thức có dạng HmXnOp.a/ Trường hợp n = 1: Đối với những axit/acid tương ứng với các muối thường gặp trong

thiên nhiên (dạng bền nhất), theo quy ước của nhiều nước, có tên tận cùng bằng hậu tố IC, ví dụ, các axit/acid: sunfuric/sulfuric (H2SO4), nitric (HNO3), cloric (HClO3), manganic (H2MnO4).

Những axit/acid chứa ít hơn các axit/acid có hậu tố IC một nguyên tử oxy nhưng có cùng số nguyên tử hydro, theo tiếng Anh có hậu tố OUS, còn theo tiếng Pháp có hậu tố EUR, và lâu nay được phiên chuyển (phiên âm) thành Ơ (ở miền bắc) và để nguyên EUR như tiếng Pháp (ở miền nam). Cả hai phương án đều dựa theo âm của tiếng Pháp. Phương án Ơ có thuận lợi là dễ phát âm, tuy nhiên có nhược điểm là vi phạm một quy ước chính tả có thể coi là nhất quán ở chỗ, nều tiếng Việt thuần thì mới có dấu thanh và dấu mũ, còn tiếng Việt có nguồn gốc tiếng nước ngoài thì viết liền và không chứa các dấu đó. Tuy nhiên, như trường hợp nitơ ở trên, có thể chập nhận hai phương án song song, hậu tố Ơ và hậu tố OUS (như trong tiếng Anh), còn hậu tố EUR vừa khó đọc vừa xa với tiếng Anh. Như vậy, có thể chấp nhận tên của HNO2 là axit nitrơ/acid nitrous, H2SO3 là axit sunfurơ/acid sulfurous, v.v...

Những axit/acid chứa ít hơn các axit/acid có hậu tố Ơ/OUS một nguyên tử oxy nhưng có cùng số nguyên tử hydro thì tên gọi gồm tên của axit/acid có hậu tố Ơ/OUS nhưng thêm tiền tố HYPO, ví dụ, các axit/acid: hyponitrơ/hyponitrous (HNO), hypoclorơ/hypoclorous (HClO).

Những axit/acid chứa nhiều hơn axit/acid có hậu tố IC một nguyên tử oxy nhưng cùng số nguyên tử hydro (HmXOp+1) hoặc cùng số nguyên tử oxy nhưng kém một nguyên tử hydro (Hm-1XOp) thì tên gồm tên axit/acid có hậu tố IC cộng với tiền tố PER, ví dụ, các axit/acid: percloric (HClO4), permanganic (HMnO4).

b/ Trường hợp n > 1: Phân tử của loại axit/acid này có thể được coi như do nhiều phân tử

cùng một axit/acid mất nước tạo thành, nghĩa là, số oxy hoá của nguyên

18

Page 19: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

tử trung tâm không thay đổi, cho nên, tên của các axit/acid này vẫn không thay đổi nhưng thêm tiền tố DI, TRI...để chỉ rõ số nguyên tử trung tâm, ví dụ, axit disunfuric/acid disulfuric (H2S2O7 = 2H2SO4 – H2O), axit/acid diphosphoric (H4P2O7). Mặc dầu trong thực tế có phổ biến các tên gọi với tiền tố META, ORTHO và PYRO, ví dụ, metaphosphoric (HPO3), orthophosphoric (H3PO4) và pyrophosphoric (H4P2O7), dạng PYRO thực ra chỉ là tổ hợp hai dạng META và ORTHO. Cho nên, không nên gọi H2S2O7 là pyrosulfuric và H4P2O7 là pyrophosphoric.

c/ Các axit/acid (n bằng hoặc lớn hơn 1) có chứa nhóm (– O – O –) được gọi bằng tên của axit/acid tương ứng nối thêm tiền tố PEROXO, ví dụ, các axit/acid: peroxosunfuric/ peroxosulfuric (H2SO5), peroxophosphoric (H4P2O8).

d/ Các axit/acid, trong đó nguyên tố oxy được thay bằng lưu huỳnh có tên gọi như axit/acid tương ứng nhưng thêm tiền tố THIO, ví dụ, axit thiosunfuric/acid thiosulfuric (H2S2O3), axit/acid thiocarbonic (H2CSO2).

e/ Theo IUPAC, tên các axit/acid có chứa oxy và muối của chúng được gọi tên như là các phức chất, trong đó nguyên tử oxy là phối tử. Như vậy, theo các quy tắc nêu trên, có thể gọi tên các hợp chất này như sau: HNO3: tên thông thường là axit/acid nitric, tên hệ thống là hydro trioxonitrat; HNO2: axit/acid nitrous và hydro dioxonitrat; H3PO4: axit/acid phosphoric và trihydro tetraoxophosphat; H3PO3: axit/acid phosphorous và trihydro trioxophosphat; H4P2O7: axit/acid diphosphoric (pyrophosphoric) và tetrahydro -oxo-hexaoxodiphosphat; H2S2O3: axit thiosunfuric/acid thiosulfuric và dihydro trioxothiosunfat /trioxothiosulfat, v.v...Tên của các muối cũng được gọi theo cách đó, chỉ thay số nguyên tử hydro bằng số cation kim loại. Theo cách gọi này chúng ta sẽ khỏi phải xử lý hậu tố của axit/acid chứa ít hơn một nguyên tử oxy so với axit/acid có hậu tố IC, đồng thời không những thể hiện đúng thành phần của công thức phân tử (không thể gây nhầm lẫn) mà còn chú ý đến cả công thức cấu tạo phân tử, ví dụ, phân biệt nguyên tử oxy cầu nối với nguyên tử oxy không cầu nối.

4. Các muối. Có bốn nhóm khác nhau: Muối trung hoà: Muối của các axit/acid nhị tố (hydroaxit/hydroacid)

có tên gọi như các hợp chất nhị tố đã đề cập trên đây. Tên các muối của các axit/acid có chứa oxy được cấu tạo bằng tên của cation hoặc tên gốc dương tiếp theo là tên anion với hậu tố AT nếu là muối của

19

Page 20: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

axit/acid có hậu tố IC hoặc hậu tố IT nếu là muối của axit/acid có hậu tố Ơ/OUS. Ví dụ: natri carbonat (Na2CO3), amoni nitrit (NH4NO2).

Muối axit/acid: Tên các muối loại này gồm tên cation có thêm tiền tố MONOHYDRO (hoặc HYDRO, vì chỉ có một nguyên tử hydro), DIHYDRO (chứa hai nguyên tử hydro), TRIHYDRO (chứa ba nguyên tử hydro), ví dụ: natri monohydrocarbonat hoặc natri hydrocarbonat (NaHCO3), natri dihydrophosphat (NaH2PO4). Không dùng tên natri bicarbonat cho NaHCO3 vì không thể hiện được cấu tạo.

Muối base: Tên muối loại này gồm tên của muối trung hoà tương ứng, trong đó từ tố sau được thêm vào tiền tố chỉ số nhóm OH hoặc số nguyên tử còn lại chưa bị trung hòa. Ví dụ: lanthan monohydroxycloride (LaOHCl2), bismut dihydroxycloride [Bi(OH)2Cl] hoặc nếu loại đi một phân tử nước thì gọi là bismut oxy cloride (BiOCl).

Muối kép: Muối này thực chất là hỗn hợp của các muối có chung anion, vì vậy, tên của loại muối này gồm tên của các cation (viết nối với nhau bằng gạch ngang) và tiếp theo là tên anion, ví dụ, kali-nhôm sunfat/sulfat [KAl(SO4)2], kali-natri carbonat (KNaCO3).

5. Những hợp chất cộng hóa trị có công thức phân tử tương tự muối: Tên các hợp chất này tương tự tên của các hợp chất nhị tố thông thường, nhưng ở vị trí đầu thay vì tên cation là tên của nhóm nguyên tử liên kết với nguyên tố đóng vai trò nguyên tố âm hơn. Ví dụ: thionyl cloride (SOCl2), phosphoryl cloride (POCl2).

Phức chấtTrong công thức, các thành phần của phức chất được sắp xếp theo thứ

tự: nguyên tử trung tâm rồi lần lượt đến phối tử âm, trung tính và dương, nhưng trong tên thì nguyên tử trung tâm lại nằm sau tất cả các phối tử của ion phức.

1. Số phối tử: Dùng tiền tố di-, tri-, tetra-, penta-, hexa-, ...để chỉ số lượng các phối tử 2, 3, 4, 5, 6,...Để chỉ phối tử có tên viết dài hoặc trong tên phối tử đã có chỉ dẫn số lượng như di, tri, tetra,...thì tên của phối tử được viết trong ngoặc đơn, trước dấu ngoặc đơn có các tiền tố bis-, tris-, tetrakis-, pentakis-,..., vd., Pt[(NH3)2Cl2] – diclorodiammin platin (II), [Cu(NH2CH2CH2NH2)2]SO4 – bis(ethylendiamin)đồng (II) sunfat/sulfat...

2. Tên phối tử: nếu là anion thì lấy tên anion + o, vd., F- - fluoro, OH-

- hydroxo, CO32- - carbonato, O2- - oxo, O2

2- - peroxo, S2O32- -

20

Page 21: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

thiosunfato/thiosulfato...; nếu là phân tử trung hoà thì lấy tên phân tử đó, vd., C6H5N – pyridin, CH3NH2 – methylamin; một số phối tử/phân tử có tên riêng, vd., H2O – aqua, NH3 – ammin, CO – carbonyl, NO – nitrosyl.

3. Tên nguyên tử trung tâm: Nếu ion phức là cation thì đọc tên nguyên tố trung tâm và số La Mã đặt trong dấu ngoặc đơn để chỉ số oxy hoá của nó, vd., [Co(NH3)6]Cl3 – hexammin coban (III) cloride, [CoCl(H2O)5]Cl2 – cloropentaaquacoban(III) cloride; nếu nguyên tử trung tâm ở trong anion phức thì đọc tên nguyên tử + hậu tố at (nếu phức là axit/acid thì lấy hậu tố ic) kèm theo số La Mã trong ngoặc đơn để chỉ số oxy hoá, vd., K4[Fe(CN)6] – kali hexacyanoferat (II), H[AuCl4] – acid/axit tetracloroauric/ vàng(III); nếu phức chất không điện ly (không có cation và anion) thì gọi tên phối tử có tiền tố và tên nguyên tố trung tâm, vd., Pt[(NH)2Cl2] – diclorodiammin platin(II).

Hợp kimTên hợp kim gồm tên các kim loại tạo thành hợp kim viết nối với

nhau bằng gạch ngang và tỷ lệ số nguyên tử của các kim loại ấy đặt trong ngoặc đơn, ví dụ, tên hợp kim: niken/nickel-bismut (1:2), công thức: NiBi2; tên hợp kim: magnesi-đồng-nhôm (2:2:5), tên công thức: Mg2Cu2Al5.

B. Các hợp chất hữu cơ1/ Về cơ bản, danh pháp các hợp chất hữu cơ sẽ tuân thủ các quy tắc của IUPAC với các thuật ngữ được phiên chuyển theo những quy tắc đã được trình bày trên đây đối với cả các tên hệ thống, tên nửa hệ thống và tên thông thường. Ví dụ: ethan, hydrocarbon, aldehyd, alkan, citronelol, cystin, antraquinon, v.v...Các hydrocarbon no đầu tiên có tên nửa hệ thống là methan, ethan, propan và butan. Các hydrocarbon chứa số C nhiều hơn tiếp theo có tên hệ thống bắt đầu bằng các tiền tố penta (5), hexa (6), heptadeca (17), ...cộng với hậu tố AN biểu thị liên kết đơn, hậu tố EN biểu thị liên kết đôi và hậu tố YN biểu thị liên kết ba (trừ acxetylen/acetylen).

2/ Các tiền tố được viết như nguyên trong danh pháp IUPAC, ví dụ, mono, di (2), tri (3), ...hexa (6), deca (10), undeca (11), heptadeca (17); bis (2 lần), tris (3 lần), pentakis (5 lần), decakis (10 lần)...; bi (2 vòng), ter (3 vòng), quater (4 vòng ), sexi (6 vòng), octi (8 vòng)...; cyclo, bicyclo, spiro...; dehydro, demethyl...; cis, trans...; syn, anti...; iso, sec, tert...; ortho, meta, para...

21

Page 22: Du Thao Danh Phap Hoa Hoc 08-08-08

3/ Các hậu tố cũng được viết như nguyên dạng, ví dụ, al, yl, diyl, yliden, diyliden, ylidin, enylen, dienylen, v.v...

4/ Các tiền tố và hậu tố biểu thị các nhóm đặc trưng cũng được phiên chuyển theo các quy tắc nêu trên.

Các nhóm đặc trưng chỉ có tên ở dạng tiền tố: bromo, cloro, fluoro, iodo, iodyl, nitroso, nitro,...

Các nhóm đặc trưng có thể có tên ở dạng tiền tố hoặc hậu tố: carboxy/oic hoặc carboxylic (axit/acid), cyano/carbonitril, oxo/al (aldehyd), hydroxy/ol, amino/amin, v.v...

Ban chủ nhiệm Đề tài

22