Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

35
TRƯỜNG ĐẠI HỌC …… KHOA TÀI CHÍNH * * * BÀI TIỂU LUẬN ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Giảng viên : …… Sinh viên : ….. Mã sinh viên : ….. Lớp : ….

Transcript of Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

Page 1: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ……

KHOA TÀI CHÍNH

* *

*

BÀI TIỂU LUẬNĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP

QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Giảng viên : ……

Sinh viên : …..

Mã sinh viên : …..

Lớp : ….

Hà Nội …..

Page 2: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

MỤC LỤC

2

Page 3: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

Lời mở đầu

Với mỗi công ty, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có vốn. Vốn là một trong những yếu tố sống còn của doanh nghiệp, quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp, nhất là trong giai đoạn kinh tế khó khăn hiện nay. Vốn càng lớn thì tiềm lực công ty càng lớn, nó tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công ty trong các quyết định đầu tư và có thể tiếp cận các dự án lớn, lợi nhuận cao, đem lại sự thành công cho công ty.

Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường đầy năng động hiện nay, các chủ doanh nghiệp gặp phải rất nhiều khó khăn khi phát triển những lĩnh vực cốt lõi hay mở rộng sang những lĩnh vực kinh doanh mới. Nguyên nhân lớn nhất để các doanh nghiệp lâm vào cảnh trên là do thiếu vốn. Các doanh nghiệp còn loay hoay trong việc huy động vốn để đầu tư, tái sản xuất, đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ dẫn tới sản phẩm vừa sản xuất ra không đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng về mặt chất lượng, quy cách, mẫu mã.. thêm vào đó là sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của các công ty đa quốc gia khi Việt Nam ra nhập WTO khiến cho các doanh nghiệp càng khó khăn hơn.

Hiện tượng các doanh nghiệp thiếu vốn còn đang là tình trạng khá phổ biến. Việc huy động vốn không chính thức với lãi suất cao, không ổn định, thường gánh chịu rủi ro, khiến các doanh nghiệp không an tâm khi hoạt động kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Tình trạng các doanh nghiệp sụt giảm doanh thu, sa thải nhân viên, thậm chí đóng cửa hay phá sản ngày càng nhiều.

Xét về khía cạnh huy động vốn, ngoài những hình thức huy động vốn qua các kênh truyền thống như: Vay ngân hàng, tổ chức tín dụng và các quỹ đầu tư, huy động vốn khách hàng, chiếm dụng vốn của nhà cung cấp, liên doanh – liên kết trong và ngoài nước…thì kênh huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán ( TTCK ) là một kênh chi phí thấp và dần trở lên quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào của Việt Nam cũng có thể tiếp cận được với kênh huy động vốn này bởi các doanh nghiệp phải đạt được những điều kiện nhất định.

Bài tiểu luận em viết chủ yếu nghiên cứu về điều kiện và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán với góc độ vĩ mô. Tập trung trnh bày các cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán và cách thức huy động vốn cũng như điều kiện và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp qua kênh quan trọng này. Vì thế em đi sâu vào phân tích và chia ra bố cục bài như sau:

Phần 1. Lý thuyết về điều kiện huy động vốn của doanh nghiệp trên TTCKPhần 2. Thực trạng về khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trên TTCK Việt Nam

Phần 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trên TTCK

3

Page 4: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

Bài biết dựa trên mức độ tìm hiểu chưa được chi tiết và cách viết còn mang tính chất sinh viên nên có thể chưa được hoàn chỉnh về nội dung nên em mong nhận được những nhận xét và phản hồi từ phía cô và các bạn trong lớp để bài tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn.

Em xin chân thành cảm ơn.

4

Page 5: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

Phần I. Lý thuyết về điều kiện huy động vốn của doanh nghiệp trên TTCK1.1 Khái niệm Thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. Xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các họat động trao đổi các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán. Những xét về mặt bản chất thì:

- TTCK là nơi tập trung phân phối các nguồn vốn tiết kiệm

- TTCK là định chế tài chính trực tiếp: cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia thị trường một cách trực tiếp. Qua kênh dẫn vốn trực tiếp, các chủ thể đàu tư đã thực sự gắn quyền sử dụng và quyền sở hữu về vốn, năng cao tiềm năng quản lý vốn.

- TTCK thực chất là quá trình vẫn động của tư bản tiền tệ, chuyển tư bản tiền tệ từ tư bản sở hữu sang tư bản chức năng. Đây là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa.

Đặc điểm của TTCK là:

- TTCK gắn với hình thức tài chính trực tiếp.

- TTCK gắn với thị trường cạnh tranh hoàn hảo thông qua giá cả hình thành theo quan hệ cung cầu, tự do tham gia và rút khỏi thị trường, công khai thông tin ra công chúng.

1.2 Điều kiện huy động vốn qua thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp

1.2.1 Các kênh huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp

a, Vốn chủ sở hữuTrong môi trường hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp đã chuyển đổi mô hình kinh

doanh từ Công ty TNHH sang Công ty cổ phần, để tiếp cận kênh huy động vốn thông qua quyền phát hành cổ phiếu từ TTCK.

Ưu điểm: Tập trung và huy động vốn rất lớn từ xã hội vì quyền tự do chuyển nhượng và mua bán trên thị trường, giảm chi phí huy động vốn do tiếp cận trực tiếp với nhà đầu tư.

Nhược điểm: Chịu áp lực cao từ cổ đông, nhà đầu tư về kỳ vọng, tình hình hoạt động SXKD; Giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi các thông tin liên quan đến Công ty, quan hệ cung cầu, tình hình TTCK…

b, Phát hành trái phiếu Công tyƯu điểm: Vốn đến từ nhiều đối tượng có tiềm lực tài chính (quỹ đầu tư, Công

ty và tập đoàn bảo hiểm, tài chính…) và thủ tục pháp lý không quá phức tạp. Doanh nghiệp có thể áp dụng lãi suất linh hoạt cũng như nhiều phương án trả lãi và gốc.

5

Page 6: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

Doanh nghiệp phát hành trái phiếu không phải thế chấp tài sản; Hoạch định tài chính bằng trái phiếu rẻ hơn các khoản vay khác.

Nhược điểm: Doanh nghiệp phải thanh toán đầy đủ khi đáo hạn đúng theo cam kết trong hợp đồng với mức lãi suất cố định. Phải bảo đảm dòng tiền liên quan đến nợ không bị âm.

c, Vay ngân hàng, tổ chức tín dụng và các quỹ đầu tưVay ngân hàng, tổ chức tín dụng:Ưu điểm: Một phương thức vay truyền thống và phổ biến, có những hạn chế

nhất định nhưng dễ dàng được chấp nhận hơn quy định của TTCK; Có thể xin gia hạn nếu chưa có khả năng trả (đối với Công ty có uy tín và quan hệ lâu dài với ngân hàng).

Nhược điểm: Ngân hàng đang siết chặt tín dụng khiến kênh này đang bị tắc nghẽn và khó tiếp cận.

Vay các quỹ đầu tư:Ưu điểm: Một xu hướng mới với vòng đời quỹ nhất định và đảm bảo dòng tiền

trong khoảng thời gian đó. Doanh nghiệp hưởng lợi từ nguồn tài chính dồi dào từ nhà đầu tư trong và ngoài nước; đóng góp vào việc xây dựng doanh nghiệp, tư vấn chiến lược, giới thiệu nhân sự chuyên nghiệp chứ không đơn thuần là đầu tư vào cổ phiếu của doanh nghiệp đó. Sự có mặt của các quỹ nổi tiếng với tư cách là cổ đông lớn sẽ làm tăng giá trị cổ phiếu công ty.

Nhược điểm: Doanh phải có lợi thế cạnh tranh, thuộc ngành hàng đang tăng trưởng mạnh. Phải chứng minh được tiềm lực tài chính mạnh, hệ thống quản trị và nhân lực tốt, chiến lược kinh doanh khả thi, tiềm năng tăng trưởng cao.d, Liên doanh – liên kết với doanh nghiệp nước ngoàiHình thức liên doanh, liên kết bao gồm việc thành lập công ty cổ phần, công ty TNHH

Ưu điểm: Dành cho doanh nghiệp có quy mô lớn hơn: liên doanh với đối tác nước ngoài mạnh về vốn và kinh nghiệm sẽ bổ sung kiến thức kinh nghiệm quản lý cho nguồn nhân lực, nâng cao uy tín, khẳng định thương hiệu cho doanh nghiệp. Tính pháp lý của dự án rõ ràng.

Nhược điểm: Đối tác nước ngoài thường có những phân tích rất kỹ về năng lực, quy mô, tính khả thi của dự án. Xuất hiện những bất đồng trong quản trị DN, văn hóa kinh doanh, nguồn nhân lực hiện tại.

Thị trường chứng khoán giúp các công ty thoát khỏi các khoản vay có chi phí tiền vay cao ở các ngân hàng. Các doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Hoặc chính thị trường chứng khoán tạo ra tính thanh khoản để cho công ty có thể bán chứng khoán bất kỳ lúc nào để có tiền. Như vậy, thị trường chứng khoán giúp các doanh nghiệp đa dạng hoá các hvình thức huy động vốn và đầu tư.

Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác (kể cả giá trị hữu hvình và vô hvình) thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành

6

Page 7: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.

Thị trường chứng khoán là nơi giúp các tập đoàn ra mắt công chúng. Thị trường chứng khoán chính là nơi quảng cáo tốt nhất về bản thân doanh nghiệp.

1.2.2. Điều kiện huy động vốn qua thị trường chứng khoán của doanh nghiệp

Các doanh nghiệp có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán bằng cách phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu hoặc các chứng chỉ quỹ) ra công chúng.

Phát hành ra công chúng là quá trình trong đó chứng khoán được bán rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn người đầu tư, trong tổng lượng phát hành phải giành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ và khối lượng phát hành phải đạt được một mức nhất định.

Việc phát hành cổ phiếu sẽ giúp cho công ty có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty… thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên mỗi phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tuỳ từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp.

Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải chịu sự chi phối của pháp luật về chứng khoán và phải được cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán cấp phép. Những công ty phát hành chứng khoán phải thực hiện một chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự giám sát riêng theo quy định của pháp luật chứng khoán.

Mỗi nước có những quy định tiêng trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng tuy nhiên để phát hành chứng khoán ra công chúng thông thường phải đảm bảo những yêu cầu chung:

- Đảm bảo có quy mô vốn tối thiểu- Đảm bảo tính liên tục về hoạt động sản xuất kinh doanh- Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi (hoạt động có hiệu quả trong một số

năm)- Có đội ngũ cán bộ đủ năng lực và trình độ quản lý hoạt động sản xuất kinh

doanh- Có phương án khả thi về việc sử dụng số vốn huy độngỞ Việt Nam việc quy định điều kiện phát hành chứng khoán ra công chúng

được quy định tại điều 12 luật chứng khoán số 70/2006/QH 11 ban hành ngày

7

Page 8: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

29/06/2006. Trong đó, luật quy định các doanh nghiệp phải đảm bảo những yêu cầu sau cho việc phát hành các loại chứng khoán như:

i. Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm:a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ

mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi,

đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán;c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào

bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua.ii. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng bao gồm:a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ

mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi,

đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm;

c) Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán được Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty thông qua;

d) Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.

iii. Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng bao gồm:a) Tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán tối thiểu năm mươi tỷ đồng

Việt Nam;b) Có phương án phát hành và phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt chào

bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định của Luật này.iii. Chính phủ quy định điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối

với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần, doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao; chào bán chứng khoán ra nước ngoài và các trường hợp cụ thể khác.

Riêng đối với cổ phiếu, điều kiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng:Theo quy định của Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường

chứng khoán và Thông tư 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định 48/1998/NĐ-CP, tổ chức phát hành phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng phải đáp ứng được các điều kiện sau:

- Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam

- Hoạt động kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất

- Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng Giám đốc) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh.

8

Page 9: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

- Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu.

- Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành.

- Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc đợt phát hành.

- Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành.

Ngoài ra, để có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp cần phải tạo dựng được uy tín, danh tiếng trên thị trường, tạo được hình ảnh đẹp trong mắt công chúng. Để đạt được điều đó, doanh nghiệp cần tuân thủ nguyên tắc công bố thông tin: đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin cần thiết cho người mua chứng khoán. Bản thân doanh nghiệp luôn phải tăng cường hiệu quả của chính mình, phải tăng cường việc quản trị công ty một cách minh bạch và phải bảo đảm yêu cầu niêm yết của thị trường vốn trong nước và quốc tế.

Phần II. Thực trạng về khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp trên TTCK Việt Nam

9

Page 10: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

2.1. Thực trang hoạt động của TTCK trong những năm qua

Thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCKVN) chính thức đi vào hoạt động vào năm 2000 với việc vận hành sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) TP.HCM vào ngày 20/7/2000 và SGDCK Hà Nội vào ngày 8/3/2005 (trước đó các SGDCK hoạt động với mô hình là các Trung tâm Giao dịch chứng khoán và tổ chức dưới hình thức đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước). Đến nay, sau hơn 10 năm đi vào hoạt động, TTCK đã đạt được một số kết quả sau:

Về quy mô và hàng hóa (nguồn cung) của thị trường

Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ từ 2000-2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% GDP vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% vào năm 2007. Trước biến động của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số giá chứng khoán đã sụt giảm liên tục trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%, xuống còn 18%. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ , chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng. Tổng giá trị vốn hóa thị trường trên TTCK cuối năm 2012, tăng 226.000 tỷ đồng so với cuối năm 2011 và bằng 26% GDP.

Hoạt động phát hành huy động vốn trên TTCK thực tế chỉ mới phát sinh từ năm 2006 trở lại đây. Trong năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203 triệu cổ phiếu và đến năm 2007, hoạt động phát hành mới thực sự bùng nổ, khi có gần 200 đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại được đăng ký với UBCKNN với tổng lượng vốn huy động lên đến gần 40.000 tỷ VND. Trong năm 2008, do sự suy giảm của TTCK, tổng số vốn huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên, nếu tính cả chào bán đấu giá cổ phần hóa, tổng số vốn huy động năm 2012 là 18.000 tỷ đồng, giảm 10% so với năm 2011.

Về niêm yết và giao dịch chứng khoán

Năm 2000, với 02 công ty niêm yết khi đưa TTGDCK TP.HCM vào hoạt động, TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan hiếm, chỉ số VN Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày 25/6/2001. Sau đó, thị trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 3 năm sau đó, trước khi tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2003. Năm 2005, sau khi TTGDCK Hà Nội đi vào hoạt động, tổng số các công ty niêm yết trên cả hai thị trường là 44 công ty với tổng giá trị niêm yết là 4,94 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, nhìn chung, giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn hoạt

10

Page 11: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

động khá trầm của TTCK Việt Nam. Tính đến cuối năm 2012 đã có 704 mã chứng khoán niêm yết. Trong năm 2012, hai Sở có thêm 25 mã niêm yết, tuy nhiên, có 21 mã hủy niêm yết, chủ yếu do thua lỗ hoặc vi phạm nghiêm trọng chế độ công bố thông tin.Thị trường chứng khoán đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết mà cả về tính thanh khoản của thị trường. 1.304 tỷ đồng là là giá trị giao dịch bình quân/phiên trong năm 2012 của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, tăng 28% so với năm 2011.

Mặc dù đã có những bước phát triển nhảy vọt nhưng thị trường giao dịch cổ phiếu còn nhiều biến động và hạn chế về tính thanh khoản đặc biệt khi thị trường có dấu hiệu suy giảm. Bên cạnh đó, hàng hóa niêm yết trên TTCK chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư và phòng ngừa rủi ro của nhà đầu tư (chưa có các sản phẩm phái sinh, các sản phẩm đầu tư tập thể). Các dịch vụ tiện ích cho nhà đầu tư trên thị trường còn nghèo nàn (chưa có nghiệp vụ bán khống, vay ký quỹ, bán trước ngày hoàn thất giao dịch), tính minh bạch của thị trường chưa đáp ứng nhu cầu của công chúng đầu tư.

2.2. Thực trạng khả năng huy động vốn qua thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp trong thời gian qua

Thống kê của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, huy động vốn của TTCK qua 12 năm được 700.000 tỷ đồng. Với con số này, TTCK đã và đang được xem là kênh huy động vốn trung và dài hạn chính cho nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh ngân hàng khó khăn.

2.2.1 Kênh huy động vốn qua TTCK thực tế gặp phải nhiều rủi ro

Việc có 700.000 tỷ đồng trong 12 năm, TTCK Việt Nam đã không ít lần biến động mạnh. Năm 2007, khi TTCK đạt đỉnh cao của sự hoàng kim, nhiều nhà đầu tư đã xem TTCK như một “canh bạc” lớn, đổ xô đầu tư chứng khoán. Từ doanh nghiệp (DN), công chức, viên chức đến chị đầu bếp đều tham gia thị trường nhằm kiếm lời. Bước sang 2008, TTCK đã bắt đầu có dấu hiệu đi xuống. Thế nhưng, nhiều nhà đầu tư vẫn kỳ vọng, sự đi xuống chỉ là nhất thời, TTCK sẽ sớm trở lại thời hoàng kim. Vì thế, số lượng nhà đầu tư và các CTCK vẫn tiếp tục tăng. Tuy nhiên, từ năm 2009 đến nay, TTCK tuột dốc không phanh, bất chấp các nhận định: thị trường sẽ sớm khởi sắc.

Thực tế cho thấy, sự đi xuống của thị trường là tất yếu, khi việc làm giá và báo cáo tài chính của các DN niêm yết phần lớn là ảo. Chưa kể, tình hình kinh tế khó khăn đã kéo các DN niêm yết rơi vào khó khăn, nợ nần chồng chất. Hệ quả sự tăng trưởng nóng của tín dụng do sự cho vay dễ dãi, cùng với sự suy yếu của kinh tế đã làm TTCK liên tục đỏ sàn. Rõ ràng, TTCK tuy hoạt động 12 năm nhưng vẫn là ngành kinh doanh mới, chứa đựng nhiều khó khăn, rủi ro.

11

Page 12: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

2.2.2 TTCK tuột dốc, khiến cho việc huy động vốn của doanh nghiệp cũng giảm theo

Con số phát hành thực tế trong năm 2010 chỉ đạt khoảng 5,7 tỉ cổ phiếu nhưng cũng đủ giúp doanh nghiệp thu về 47.000 tỉ đồng. Mặc dù vậy, các đợt phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu vẫn có tỉ lệ thành công cao hơn so với đấu giá. Nửa cuối năm 2010, thị trường đã ghi nhận những phiên đấu giá thất bại của các công ty như Hồng Hà Dầu khí (PHH), Công ty Cổ phần Kinh doanh Khí hóa lỏng Miền Bắc (PVG). Tỉ lệ bán được so với lượng cổ phiếu đấu giá của PHH chỉ là 22,6% và PVG là 0,61%. Thậm chí, Công ty Cổ phần Tập đoàn Thép Tiến Lên (TLH) phải hủy kế hoạch đấu giá cổ phần do không có ai tham gia.

Tình hình huy động vốn qua phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) cũng không mấy lạc quan. Điển hình, đợt IPO lớn nhất và được quan tâm nhất trong năm của PV Gas cũng chỉ đạt lượng đăng ký mua xấp xỉ 2/3 lượng chào bán.

Sự ảm đạm của thị trường khiến doanh nghiệp chỉ còn biết trông cậy vào cổ đông hiện hữu. Năm 2010 có đến 56% doanh nghiệp chọn phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, trong khi năm ngoái tỉ lệ này chỉ là 25%.

Sang năm 2011, sau 2 quý đầu năm, huy động vốn qua TTCK chỉ đạt hơn 6.500 tỷ đồng, bằng 40% so với cùng kỳ năm ngoái Nhìn lại từ đầu năm 2011, xu hướng thị trường chủ yếu là đi xuống, VN-Index từ mức 484,4 điểm (31/12/2010) giảm khoảng 13%, còn  428,3 điểm (6/7/2011). Tuy nhiên, từ quý III năm 2011, tình hình huy động vốn qua thị trường chứng khoán đã không còn thuận lợi như trước. Chỉ 81% doanh nghiệp phát hành cổ phiếu đúng kế hoạch, còn lại phải điều chỉnh, hoãn, thậm chí phải hủy kế hoạch.

Rõ ràng, trái phiếu không phải là kênh dành cho mọi doanh nghiệp. Theo Công ty Chứng khoán HSC, chỉ 75 doanh nghiệp niêm yết phát hành trái phiếu trong năm 2010 và chủ yếu là các tên tuổi lớn như Hoàng Anh Gia Lai, Tập đoàn Vincom… Họ đã huy động được 75.954 tỉ đồng thông qua kênh này.

Năm 2012, TTCK Rơi xuống vực nhưng chưa tới đáy. Trên toàn thị trường hiện có tới gần 70% cổ phiếu được giao dịch dưới mệnh giá, nhiều cổ phiếu rẻ bằng một chén nước chè… nguội. Sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM hiện có hơn 51 mã chứng khoán giao dịch có giá dưới 5.000 đồng/cổ phiếu, thậm chí có mã giá dưới 2.000 đồng/cổ phiếu. Sàn Hà Nội cũng không kém cạnh với la liệt cổ phiếu giao dịch dưới mệnh giá.

Thị trường không thể bật dậy cho dù HNX-Index đang ở vùng thấp lịch sử, còn VN-Index cũng ở mức thấp nhất trong nhiều tháng qua. Điều đáng nói là tính thanh khoản trên thị trường tiếp tục đứng ở mức rất thấp và thực sự vẫn đang thử thách sự

12

Page 13: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

kiên nhẫn đã sắp cạn kiệt của nhà đầu tư. Gần như trong toàn bộ tháng 11/2012, giá trị giao dịch khớp lệnh cổ phiếu trên cả 2 sàn chứng khoán TP.HCM và Hà Nội đều quanh quẩn ở con số vài trăm tỷ, chưa bằng giá trị giao dịch của một cổ phiếu blue-chip hoặc một cổ phiếu đầu cơ thời sôi động.

2.2.3 Huy động vốn trên thị trường chứng khoán đang gặp khó khănTrước đây, nhà đầu tư (NĐT) chưa bao giờ có khái niệm mua cổ phiếu dưới

mệnh giá, nhưng hiện nay có quá nhiều mã như thế; điều này cho thấy sự khó khăn của kinh tế và các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi chính sách thắt chặt tiền tệ. Quan trọng hơn là giá trị giao dịch trên thị trường sụt giảm nghiêm trọng cùng với tâm lý nhà đâu tư chán nản vì thua lỗ kèo dài. Và chính sự suy giảm của TTCK đã khiến cho một số doanh nghiệp tuyên bố rút lui khỏi thị trường vì cho rằng thị trường không đáp ứng được là kênh huy động vốn trung và dài hạn cũng như thị trường đã đánh giá quá thấp đối với giá trị của doanh nghiệp...

Trên thực tế, việc huy động vốn của doanh nghiệp từ nửa cuối 2010 chịu rất nhiều bất lợi. Trước hết, những bất ổn vĩ mô như lãi suất, lạm phát, tỉ giá VND/USD tăng đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh, khiến nhiều doanh nghiệp phải cân nhắc lại kế hoạch tăng vốn. Bất ổn vĩ mô cũng là nguyên nhân quan trọng đẩy giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán giảm sâu, làm đổ vỡ không ít kế hoạch huy động vốn của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, phải thừa nhận việc có quá nhiều doanh nghiệp muốn tăng vốn trong năm nay đã dẫn đến sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu. Trong khi nguồn cung cổ phiếu mới liên tục đổ vào thì dòng tiền trên thị trường lại tỏ ra hụt hơi. Tính trung bình, khối lượng giao dịch mỗi phiên của cả 2 sàn trong 11 tháng qua chỉ đạt khoảng 30,3 triệu cổ phiếu, với giá trị bình quân ước đạt 1.018 tỉ đồng. So với 42 triệu cổ phiếu và 1.400 tỉ đồng của năm 2009 thì thanh khoản của thị trường không những không được tiếp sức mà còn sụt giảm.

Ngoài ra, ngày càng có nhiều nhà đầu tư mất niềm tin vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu nhưng chưa trả lời được cho cổ đông câu hỏi “nguồn vốn huy động sẽ được sử dụng như thế nào?”.

Một số doanh nghiệp nói một đằng làm một nẻo. Số khác dùng cụm từ “nâng cao năng lực tài chính, tái cơ cấu nguồn vốn” như một cách nói tránh cho việc dùng nguồn tiền huy động được để trả nợ ngân hàng, nộp thuế, nộp bảo hiểm xã hội. Chẳng hạn, trước khi phát hành hơn 19,8 triệu cổ phiếu, Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu VITACO (VTO) nêu rõ mục đích là bổ sung nguồn vốn lưu động, tái cấu trúc nguồn vốn nhằm nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí tài chính. 

Một điểm bất lợi khác khiến hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp bị khựng lại là tốc độ tăng vốn quá nhanh đã dẫn đến việc cổ phiếu bị pha loãng.  Tốc độ

13

Page 14: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

tăng vốn điều lệ là 29%, trong khi tăng trưởng lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) năm 2010 theo ước tính của Ngân hàng HSBC chỉ khoảng 18%, chênh lệch giữa gia tăng cổ phiếu và lợi nhuận đã là 11%. Đây quả là thiệt hại mà cổ đông không thể không nghĩ đến.

Lãi suất cao đã và đang tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong điều kiện bình thường, lợi nhuận của các doanh nghiệp bình quân đạt từ 15% đến 20% được cho là tốt, nhưng với lãi suất vay từ 20% đến 25% như hiện nay đã vượt quá sức chi trả của doanh nghiệp. Khi lãi suất cao dẫn đến gánh nặng chi phí tài chính tăng lên, lạm phát tăng đẩy chi phí đầu vào tăng cộng với chi phí lương cũng phải tăng để bù đắp cho người lao động, dẫn đến thu nhập doanh nghiệp giảm sút, thậm chí lỗ. Nếu tình trạng này kéo dài nhiều doanh nghiệp sẽ đứng trên bờ vực phá sản. Cụ thể nhìn vào các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán trong báo cáo quý I hoặc báo cáo dự kiến quý II có thể thấy đa số đều lỗ hoặc lợi nhuận ở mức rất thấp.

Khi nền kinh tế không ổn định và trong giai đoạn thắt chặt tiền tệ, hầu như dòng tiền của nhà đầu tư không chạy vào TTCK mà tìm một kênh trú ẩn an toàn hơn. Tuy nhiên, có thể thấy một số tác động tích cực: Luật chứng khoán có hiệu lực từ 1/7 đó là một điều kiện khá quan trọng để tạo ra sự minh bạch cho TTCK trong thời gian sắp tới và tạo hình ảnh tốt đối với các quỹ đầu tư nước ngoài. Chính phủ vừa đồng ý trình Quốc hội thông qua phương án miễn thuế thu nhập cá nhân, trong đó có cả thuế từ đầu tư chứng khoán, đã thêm hy vọng cho nhà đâu được được đối xử công bằng với những người gửi tiết kiệm. Chỉ số CPI có dấu hiệu hạ nhiệt là tiền đề Ngân hàng Nhà nước xem xét điều chỉnh giảm lãi suất trên thị trường giúp thị trường sẽ hấp dẫn hơn. Việc lãi suất giảm sẽ tạo cho TTCK thêm nhiều cơ hội cho nhà đâu tư lựa chọn; cũng như tạo ra lợi thế canh tranh hút vốn từ tiết kiệm...

2.3 Nguyên nhân gây khó khăn trong huy động vốn qua thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp thời gian qua

2.3.1 Những khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng do mặt bằng lãi suất cao

Đây là nguyên nhân đẩy doanh nghiệp tìm đến kênh phát hành cổ phiếu, chấp nhận chia sẻ miếng bánh lợi nhuận cho các cổ đông mới.

Trên thực tế, việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán đã có thời phát triển "cực thịnh" cách đây vài năm. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động sau đó bị nhiều DN sử dụng sai mục đích. Đặc biệt là hiện tượng vốn huy động từ chứng khoán rồi nguồn vốn này lại chảy ngược lên thị trường thay vì đổ vào các dự án sản xuất, kinh doanh như dự kiến ban đầu khiến nhà đầu tư mất lòng tin. Vì vậy sau đó, việc huy động vốn bị "nghẽn" lại, tỷ lệ thành công ít hơn. Bên cạnh đó, việc thị trường sụt giảm mạnh trong 2 năm trở về đây cũng là cản trở không nhỏ cho các DN trong việc huy động vốn qua kênh này.

14

Page 15: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

Tuy vậy, theo một chuyên gia chứng khoán tại TP.HCM, việc thị trường tăng, giảm tuy có ảnh hưởng tới việc phát hành của các DN nhưng không quá lớn. Vấn đề là DN có dự án khả thi, kế hoạch kinh doanh tốt và không "tham" phát hành với giá quá cao thì chứng khoán vẫn là kênh huy động hiệu quả. "Ngay trong cả giai đoạn thị trường sụt giảm, nhiều DN vẫn huy động được nguồn vốn lớn. Tôi đã tìm hiểu, các DN có sức khỏe tốt, đề án thực tế hiệu quả thì cổ đông luôn ủng hộ", chuyên gia này nói.

Việc huy động vốn qua kênh chứng khoán nếu khơi thông hiệu quả sẽ giảm tải cung vốn cho hệ thống ngân hàng và mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cực lớn cho các DN nói riêng và nền kinh tế nói chung.

2.3.2 Đa phần doanh nghiệp đều nôn nóng tìm cách tăng vốn qua thị trường chứng khoánNhững ngày cuối tháng 10/2010, thị trường chứng khoán xôn xao về 2 scandal của Công ty Cổ phần Dược phẩm Viễn Đông (DVD). Câu chuyện của DVD chỉ là cá biệt, nhưng phần nào phản ánh một đặc điểm nổi bật trên thị trường chứng khoán năm 2010. Đó là việc chứng khoán được chào bán, IPO với những điều kiện rất đơn giản và các Doanh nghiệp huy động vốn từ TTCK chưa làm được đó là minh bạch hoạt động sản xuất kinh doanh của chính mình, điều đó gây ra cho người đầu tư những hoang mang và nghi vấn cho một TTCK chưa tích cực.

Không thể phủ nhận sự đi xuống của TTCK trong những năm gần đây phần nhiều là do hoạt động của các doanh nghiệp yếu kém và niềm tin đối với thị trường, với doanh nghiệp suy giảm.

Nhưng khó khăn không chỉ xuất phát tự nội tại các doanh nghiệp, mà một phần không nhỏ đến từ sự khan hiếm, cạn kiệt của dòng tiền nói chung. Các dự báo gần đây đều cho thấy, nền kinh tế đã có những bước chuyển biến tích cực.

Ngay trong năm khó khăn 2012, nền kinh tế vẫn có những điểm sáng (như lạm phát ổn định, tăng trưởng đang phục hồi trở lại, PMI tăng trở lại ấn tượng...) và dự báo cho 2013 cũng đã có nhiều điểm hồng, không chỉ còn là mầu xám.

Hệ thống ngân hàng - mạch máu của nền kinh tế - cũng được đánh giá đã qua giai đoạn khó khăn nhất và thanh khoản cũng đang khá dồi dào, Ngân hàng Nhà nước đang liên tục hút ròng trên thị trường mở...

Trên thị trường, không ít nhà đầu tư chứng khoán tin tưởng dòng tiền sẽ sớm trở lại với chứng khoán sau hàng loạt các biện pháp giải cứu doanh nghiệp, giải cứu thị trường bất động sản (BĐS) như lãi suất giảm, đẩy mạnh tín dụng, giảm thuế, giãn thuế, tăng cường đầu tư công, bơm tiền cho người có nhu cầu mua nhà...

15

Page 16: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

2.3.3 TTCK đã không phản ứng tích cực với các thông tin tốt về lãi suất, về sự ổn định của đồng VND

Thực tế đã không diễn biến đúng như dự đoán và dự báo của nhiều người.

Vấn đề nằm ở chỗ, với một nền kinh tế mà tồn kho hàng hóa lên tới vài chục tỷ USD (riêng BĐS cũng hơn chục tỷ USD), nợ xấu ngân hàng lên tới 10% dư nợ tín dụng, nhiều doanh nghiệp Nhà nước, tập đoàn đang vùng vẫy tìm cọc... thì ưu tiên đầu tiên có lẽ không phải dành cho chứng khoán.

Điều mà nhiều người nhận thấy là đó là vấn đề tiền cạn kiệt và hướng đi của dòng tiền không phải vào chứng khoán mà dường như tiền đang phải tập trung triệt để cho công cuộc tái cấu trúc nền kinh tế đang ở bước đầu.

Thực tế, hàng loạt các doanh nghiệp lớn trên thị trường là các ngân hàng, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, các doanh nghiệp Nhà nước, tập đoàn, tổng công ty vốn trước đây được coi là một trong những động lực thúc đẩy thị trường đi lên thì giờ đều đang vật lộn với những khó khăn như nợ xấu, tiền đầu tư dàn trải...

Một khi doanh nghiệp chưa thể tự gỡ khó cho mình thì việc cầm tiền đầu tư vào các thị trường khác như chứng khoán, BĐS hay những chính sách hỗ trợ hướng dòng tiền vào chứng khoán có lẽ là khó khả thi.

Về nguyên tắc, thị trường chứng khoán là một phần thị trường vốn, về cơ bản nó đóng vai trò huy động vốn nhàn rỗi đầu tư cho sản xuất kinh doanh.

Thị trường chứng khoán thứ cấp đóng vai trò chủ yếu cho thanh khoản chứng khoán. Tuy nhiên sau một thời gian phát triển, thị trường chứng khoán đã sớm biến thành một thị trường đầu cơ khổng lồ, ở đó hàng loạt các thủ đoạn đè giá thổi giá… phi pháp hoành hành như chốn không người đã làm thất vọng rất nhiều nhà đầu tư chân chính.

Các công cụ của thị trường chứng khoán gồm các cơ quan quản lý và các tổ chức kinh doanh chứng khoán chính là những người phải chịu trách nhiệm chính về việc thị trường chứng khoán suy sụp và làm mất niềm tin của nhà đầu tư. Hãy xem kinh nghiệm của thị trường bất động sản.

Sự sụp đổ của thị trường bất động sản không phải là do cung nhiều hơn cầu, giá bị thổi quá cao… mà chủ yếu là do mất lòng tin của các nhà đầu tư thứ cấp và của người tiêu dùng.

Quá nhiều doanh nghiệp muốn tăng vốn trong năm 2010 đã dẫn đến sự mất cân đối cung cầu. Trong khi nguồn cung cổ phiếu mới liên tục đổ vào thì dòng tiền trên thị trường lại tỏ ra hụt hơi.

16

Page 17: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

Quá nửa số cổ phiếu trên sàn có giá dưới mệnh giá (10.000 đồng) nên khó có thể phát hành đại chúng. Nhà đầu tư có tiền sẽ không dại gì tham gia các đợt phát hành đại chúng dù giá thấp.

2.3.4 Phát hành trái phiếu doanh nghiệp gọi vốn cũng khó thành công Một số trường hợp các doanh nghiệp khi có sẵn các đối tác sẽ chọn hình thức phát hành riêng lẻ. Theo chia sẻ của một chuyên gia lâu năm trong ngành, hiện nay các doanh nghiệp gần như chỉ phát hành cổ phiếu thưởng bằng nguồn lợi nhuận để lại. Đây chỉ là hình thức điều chuyển vốn bên trong doanh nghiệp và dành cho các doanh nghiệp làm ăn có lãi.

Về lý thuyết, thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp. Trong bối cảnh vay vốn ngân hàng không được và huy động vốn trên thị trường chứng khoán cũng không xong khiến các doanh nghiệp rơi vào tình cảnh khó khăn, không có vốn đầu tư sản xuất kinh doanh.

Thông thường, các doanh nghiệp khi huy động vốn qua thị trường chứng khoán thường ưu tiên cho phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn cho sản xuất kinh doanh. Hình thức phát hành này trong bối cảnh hiện nay đẩy nhà đầu tư vào thế bí do tình hình tài chính khó khăn. Chính vì vậy hoạt động phát hành cổ phiếu tăng vốn trong hơn hai năm gầy đây không thu hút được giới đầu tư. Ở một hướng khác, một số doanh nghiệp tìm đến cách thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Do nhiều nguyên nhân như uy tín của các doanh nghiệp chưa đủ lớn, nhà đầu tư tham gia cần có lượng vốn lớn... cộng với việc nếu là trái phiếu tự do chuyển đổi thì nếu không để ý về ngày chuyển đổi nhà đầu tư sẽ phải đợi tới khi tất toán trái phiếu mới có thể rút được tiền về.

Phần III. Một số giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trên TTCK

3.1 Giải pháp về phía doanh nghiệp3.1.1 Nâng cao năng lực kinh doanha, Thiết lập và vận hành hệ thống kiểm soát nội bộ giúp doanh nghiệp bảo vệ

tài sản và kiểm soát hoạt động kinh doanh hiệu quả.b, Chú trọng cải tiến quy trình công nghệ, không những áp dụng công nghệ tiên

tiến máy móc thiết bị hiên đại mà còn chú trọng nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất

17

Page 18: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Chú trọng nghiên cứu thị trương.

c, Áp dụng phương pháp quản lí với bộ máy quản lí tinh giản , gọn nhẹ, linh hoạt, dễ dàng ra quyết định, dễ dàng thích nghi với mọi biến động của thị trường.

d, Cắt giảm những khâu hoạt động không có hiệu quả chuyển sang hình thức thuê ngoài nhằm tận dụng kinh nghiệm của các doanh nghiệp thuê ngoài chuyên nghiệp, từ đó nâng cao lợi thế so sánh.

3.1.2 Hoàn thiện và minh bạch hệ thống kế toána, Xây dựng và tổ chức bộ máy kế toán gọn nhẹ nhưng hiệu quả trong việc thu

thập các thông tin kế toán, tài chính, lập báo cáo tài chính một cách rõ ràng trung thực, phản ánh đúng thực chất kết quả hoạt động kinh doanh.

b, Dành nguồn lực đào tạo, huấn luyện, nâng cao kiến thức chuyên môn cho các nhân viên tài chính, kế toán.

c, Tranh thủ sự hỗ trợ về đào tạo, tư vấn, chia sẻ kinh nghiệm từ các tổ chức quốc tế, tổ chức phi lợi nhuận nhằm hoàn thiện quy trình, hoàn thiện bộ máy kế toán, bộ máy kiểm soát nội bộ.

3.2 Giải pháp về phía cơ quan quản lý nhà nước

3.2.1. Tăng cường cơ chế quản lý, giám sát công bố thông tin trên thị trường, có chế tài đủ mạnh đối với các công ty cổ phần tham gia TTCK để tạo ra một thị trường minh bạch giúp các nhà đầu tư có thể ra quyết định dựa trên thông tin đầy đủ, chính xác. Song hành với đó là tăng cường năng lực quản lý, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước, tiến tới thành lập một uỷ ban giám sát trong lĩnh vực này.

3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường, thiết lập một môi trường ổn định, đồng bộ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt thích đáng đối với các hành vi vi phạm.

Đi kèm với đó là công tác quản lý việc chào bán chứng khoán của các doanh nghiệp, mục tiêu huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua kênh chứng khoán.

3.2.3. Để khắc phục tình trạng nhà đầu tư quá tập trung vào thị trường phi tập trung, cần nhanh chóng tái cấu trúc lại TTCK theo hướng phát triển thị trường niêm yết chính thống, thu hẹp thị trường tự do bằng cách thu hẹp thị trường tự do:

- Yêu cầu tất cả công ty đại chúng (dù chưa niêm yết) phải đăng ký lại với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và sẽ bị xử phạt theo quy định mới đối với trường hợp cố tình không đăng ký, không tuân thủ quy định hiện hành. Các công ty này cũng sẽ phải thực hiện kiểm toán khi chào bán cổ phiếu qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời, các giao dịch trên thị trường OTC vẫn được tiến hành nhưng kết quả giao dịch phải chuyển qua trung tâm lưu ký để tránh xảy ra tình trạng lừa đảo.

18

Page 19: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

- Thực hiện lưu ký, đăng ký tập trung đối với các công ty đại chúng để giảm thiểu rủi ro thanh toán trên thị trường tự do.

- Triển khai đưa vào áp dụng đề án giao dịch chứng khoán chưa niêm yết, sử dụng công ty chứng khoán làm đầu mối, chuyển giao dịch về TTGDCK Hà Nội và thực hiện lưu ký qua Trung tâm lưu ký chứng khoán. Từng bước công khai hóa hoạt động thị trường tự do và thu hút dần vào thị trường chính thức.

- Cần sớm ban hành Nghị định của Chính phủ về quản lý việc phát hành chứng khoán riêng lẻ của các công ty cổ phần.

Riêng cá nhân em, qua quá trình học tập và nghiên cứu, em có thể thấy được những bất cập mà thị trường chứng khoán Việt Nam đang gặp phải và thiết nghĩ, đi từ những nguyên nhân nóng nhất mà thị trường chứng khoán đang gặp phải,

Các tổ chức trung gian hoạt động chưa chuyên nghiệp, chất lượng quản trị điều hành, quản trị rủi ro còn kém… Vì thế, sắp tới đây UBCKNN nên tái cấu trúc TTCK, cụ thể là hợp nhất 2 Sở giao dịch chứng khoán thành một. Điều này đồng nghĩa, TTCK Việt Nam sẽ chuyển sang tập trung vào chất lượng. Theo đó sẽ  giảm từ hơn 100 xuống còn vài chục CTCK. Điều này sẽ giúp cho thị trường cải thiện và nâng cao thanh khoản, giúp TTCK phát triển bền vững.

Mở rộng thị trường tập trung bằng cách như chấn chỉnh hoạt động phát hành chứng khoán, quản lý công ty đại chúng theo Luật chứng khoán… Việc tập trung nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho các sàn giao dịch chứng khoán tập trung, đáp ứng yêu cầu phục vụ cũng là một việc làm cần thiết để kéo nhà đầu tư về với thị trường này.

Xuất phát từ những điểm mới của thị trường trái phiếu, khi mà lượng giao dịch là 236.107 tỷ đồng trong 312 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ (TPCP) được Sở GDCK Hà Nội (HNX) tổ chức kể từ năm 2010 đến 30/11/2012. Thì thiết nghĩ, sang năm tới thị trường trái phiếu Chính phủ (TPCP) sẽ có thêm nhiều điểm mới để tăng tính hiệu quả của việc huy động vốn trên thị trường sơ cấp và tăng thanh khoản trên thị trường thứ cấp với loại hàng hóa này, tăng tính đa dạng hóa cho các nguồn huy động vốn đối với doanh nghiệp bằng các loại trái phiếu.

Chúng ta cần tấp trung thay đổi pháp lý tăng quyền hạn và nghĩa vụ của các thành viên giao dịch, cũng như trách nhiêm của các thành viên đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường trái phiếu trong việc chào mua, chào bán các kỳ hạn TPCP, thiết lập đường cong lợi suất cho TPCP, các nguyên tắc để xử lý tình trạng mất khả năng thanh toán trong giao dịch mua bán lại nhằm thúc đẩy giao dịch repos.

Về sản phẩm mới, trong Đề án TTCK phái sinh, sản phẩm đầu tiên dự kiến đưa vào áp dụng là Future trên TPCP. Khoảng 1 - 2 năm sau khi “chạy” thử nghiệm, sản

19

Page 20: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

phẩm phái sinh sẽ được phát triển trên thị trường cổ phiếu. Từ kinh nghiệm quốc tế, đầu tư vào tín phiếu, trái phiếu, về cơ bản nên được miễn thuế để thu hút các đối tượng tham gia.

Bằng sự hợp sức và nỗ lực của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, KBNN, VSD, Hiệp hội trái phiếu và mới đây có các chuyên giá GIZ, thị trường TPCP đã có bước phát triển nhanh chóng khi đạt quy mô gần 20% GDP và đáp ứng 1/3 nhu cầu của thị trường vốn. Với hệ thống pháp lý hiện hành, với cách tổ chức gắn kết chặt chẽ thị trường sơ cấp với thứ cấp, hệ thống trái phiếu ngắn hạn với dài hạn, cùng cơ chế đấu thầu, niêm yết, giao dịch, lưu ký, thanh toán được kết nối hoàn toàn, thị trường TPCP không chỉ là kênh huy động vốn hiệu quả cho ngân sách, mà đang dần tiến tới là một thị trường trọng điểm, làm cơ sở để phát triển thị trường trái phiếu DN như Chiến lược Phát triển TTCK đến năm 2020 đã đề ra.

Cũng theo TS. Trần Đắc Sinh, sau 12 năm phát triển, quy mô thị trường đã có hơn 100 CTCK, 2 Sở giao dịch chứng khoán, hơn 700 công ty niêm yết và 131 công ty đăng ký giao dịch. Tuy nhiên, quy định pháp luật về chứng khoán và TTCK còn chậm ban hành, chưa theo kịp diễn biến thị trường. Ông Dominic Scriven, Tổng giám đốc Dragon Capital, cho rằng, tái cấu trúc TTCK là điều mà nhà đầu tư rất mong đợi. Như vậy sẽ thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài quay trở lại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, Chính phủ cũng nên nhanh chóng ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện tốt các chính sách tái cấu trúc TTCK nhằm tạo lòng tin với nhà đầu tư. Song song đó, phải tăng cường quản trị rủi ro tại CTCK. Trong chương trình triển khai các giải pháp với TTCK, các quy định về việc tách bạch tài khoản của nhà đầu tư, ra các sản phẩm mới, quy định về quỹ mở… sẽ là những thông tin tốt cho thị trường. 

KẾT LUẬN

Qua những tìm hiểu về chức năng huy động vốn và điều kiện huy động vốn qua thị trường chứng khoán của doanh nghiệp, chúng ta đã phần nào hiểu rõ hơn về kênh thu hút vốn quan trọng này dành cho doanh nghiệp. Qua đó, gần như đứng trong cảnh thị trường đang ngày càng bị thu hẹp thì việc huy động vốn của doanh nghiệp đang đứng trước những khó khăn nhất định.

Khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải lúc này chính do những gì doanh nghiệp tự tạo ra cho họ, chưa kể đến thể chế đang còn nhiều khúc mắc khiến lượng vốn Tư bản từ nhà đầu tư trong và ngoài nước đang ngày càng giảm đi làm cho việc huy động vốn của doanh nghiệp bị ngưng trệ trong thời gian tới. Thị trường đã có nhiều biến

20

Page 21: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

động, chính sách của Chính phủ chưa sát và nắm bắt kịp với tình hình biến động đó. Tuy nhiên, việc huy động vốn chính phải do tự bản thân mỗi doanh nghiệp tự thân vận động.

Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tự minh bạch các báo cáo tài chính và hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó tạo dựng niềm tin cho nhà đầu tư, để tạo cho doanh nghiệp có được nguồn vốn dài hạn chi trả cho những hoạt động của mình.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình TTCK2. Báo đầu tư chứng khoán3. Website: tapchitaichinh.vn4. Website: stockmarket.vnn.vn5. Quyết định số 252/QĐ-TTg về chiến lược phát triển thị trường chứng khoán

Việt Nam năm 2011 – 2020. 6. VCCI 2011, Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam năm 20107. VCCI 2012, Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam năm 20118. Bộ Kế hoạch đầu tư: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2012.9. Bộ Kế hoạch đầu tư: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2011.

21

Page 22: Dieu kien va thuc trang huy dong von cua doanh nghiep tren thi truong chung khoan viet nam

10.Mục lục Trang

Lời mở đầu.............................................................................................2Phần 1. Những vấn đề cơ bản về Thị trường chứng khoán,

điều kiện và chức năng huy động vốn qua thị trường chứng khoáncủa Doanh nghiệp.............................................................................................3

1. Bản chất và chức năng của Thị trường chứng khoán..........................31.1. Bản chất Thị trường chứng khoán....................................................3

1.2. Chức năng của Thị trường chứng khoán..........................................3

2. Điều kiện huy động vốn qua thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp

2.1. Huy động vốn của doanh nghiệp......................................................4

2.2. Điều kiện huy động vốn qua thị trường chứng khoán của

doanh nghiệp......................................................................................................5

Phần 2. Điều kiện và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp

Việt Nam qua thị trường chứng khoán những năm gần đây......................8

1. Thực trạng...........................................................................................8

2. Nguyên nhân......................................................................................11

Phần 3. Một số đề xuất cho phương thức huy động vốn củathị trường chứng khoán cho Doanh nghiệp trong tương lai......................15

Kết luận................................................................................................15

22