Diễn Ngôn - Giới và Tính dục trong cuộc sống muôn màu

101

Transcript of Diễn Ngôn - Giới và Tính dục trong cuộc sống muôn màu

DIỄN NGÔN - GIỚI VÀ TÍNH DỤC TRONG CUỘC SỐNG MUÔN MÀU

Bản quyền © 2014

ISBN: 978-604-908-860-5

Thiết kế bìa: KiMi Trần

Biên tập viên Alpha Books: Nhữ Vân

Không phần nào trong xuất bản phẩm này được phép sao chép

hay phát hành dưới bất kỳ hình thức hoặc phương tiện nào

mà không có sự cho phép trước bằng văn bản của Công ty Cổ phần Sách Alpha.

Chúng tôi luôn mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của quý vị

độc giả để sách ngày càng hoàn thiện hơn.

Góp ý về sách, liên hệ về bản thảo và bản dịch: [email protected]

Liên hệ hợp tác về nội dung số: [email protected]

Liên hệ hợp tác xuất bản & truyền thông trên sách: [email protected]

Liên hệ dịch vụ tư vấn, đại diện & giao dịch bản quyền: [email protected]

NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC

VIỆN NGHIÊN CỨU XÃ HỘI, KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG

Lời giới thiệu

DIỄN NGÔN vốn là tên gọi được lựa chọn cho diễn đàn trực tuyến của Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) với những hàm ý về mối quan hệ đa chiều của ngôn ngữ, tri thức và quyền lực. Mượn ý tưởng về diễn ngôn (discourse) của nhà triết học Pháp Michel Foucault, chúng tôi muốn khởi lập một diễn đàn học thuật liên ngành để khám phá những vấn đề của đời sống văn hóa-xã hội Việt Nam từ nhiều góc nhìn mới.

DIỄN NGÔN được tạo lập nên từ tri thức và những quan hệ quyền lực đa dạng trong cuộc sống. DIỄN NGÔN, đến lượt nó, cũng là phương cách tạo lập nên tri thức, cùng với những thực hành xã hội, các dạng thức của chủ thể và mối quan hệ quyền lực. Được bắt rễ từ trong ngôn ngữ, DIỄN NGÔN tạo ra niềm tin, niềm tin biến thành tri thức, và tri thức tạo nên quyền lực. Bởi vậy sẽ không có tri thức nào là chân lý tuyệt đối và hoàn toàn khách quan. Chúng tôi tin rằng có nhiều chân lý cùng tồn tại trên cuộc đời này, mọi

6

tiếng nói đều có giá trị, và sự “đa thanh” đó làm nên muôn màu của cuộc sống.

Bộ sách DIỄN NGÔN ra đời như một hình thức thể hiện vật chất của những ý tưởng và góc nhìn đã được lưu chuyển trên không gian sôi động của diễn đàn www.dienngon.vn. Bộ sách cùng với diễn đàn trực tuyến DIỄN NGÔN mong muốn trở thành nơi đối thoại về tri thức, ý tưởng và sự trải nghiệm của những người tâm huyết với việc xây dựng một xã hội Việt Nam đa dạng, công bằng và tràn đầy tình yêu thương.

Chúng tôi hy vọng sẽ có sự đồng hành của các bạn trong thời gian tới, vì một tương lai tươi đẹp ấy.

Ban biên tập Diễn Ngôn

Mục lục

Bình ñaúng giôùi 9

Quyeàn ña daïng giôùi tính 59

Beân kia giôùi tính 73

Höôùng tôùi töông lai 135

8 Bình đẳng giới 9

Phần I

BÌNH ĐẲNG GIỚI

10 Bình đẳng giới 11

Ai rửa bát sau khi ăn cơm?Thu Hiền

Phong trào nữ quyền là một trong những phong trào dân sự lâu đời nhất. Tuy nhiên, nó cũng là một phong trào khó khăn nhất vì đụng chạm đến lợi ích thiết thân của nhiều người, mà đặc biệt là nam giới. Thật đơn giản, nếu bình đẳng giới xảy ra thực sự, ai sẽ là người vào bếp nấu cơm, rửa bát và giặt giũ quần áo cho gia đình? Câu hỏi cụ thể, nhưng thách thức một trong những bất công lâu đời và phổ biến nhất của loài người. Và có lẽ, nó chính là rào cản lớn nhất vì nó hiện hữu hàng ngày.

Quay lại khái niệm cơ bản về vai trò giới, đó là quan niệm xã hội quy định các công việc, trách nhiệm hoặc tính cách (nam tính, nữ tính) là chuẩn mực cho nam giới và nữ giới. Ví dụ đơn giản, phụ nữ làm các công việc nhẹ, thuần thục việc nội trợ gia đình, và nên ăn nói nhẹ nhàng, e thẹn. Nam giới làm các việc nặng, là trụ cột kinh tế gia đình, và nên giao lưu xã hội rộng rãi. Đây là các “quan niệm xã hội” do con người quy định, được xã hội chấp nhận và trở

Lịch sử “cuộc chiến giới tính” của loài người cho đến nay căn bản vẫn đang viết những chương tiếp theo về chiến thắng của nam giới trước nữ giới về mọi mặt: địa vị xã hội, địa vị gia đình, quan niệm xã hội về vai trò nam-nữ, các định kiến đạo đức về hôn nhân và tình dục... Sự phát triển của khoa học xã hội cùng những thay đổi trong kết cấu xã hội phần nào đã vãn hồi một “sự quan tâm” của toàn thể xã hội tới thân phận của người nữ, nhưng ánh sáng từ một ngọn đèn vẫn không xua nổi bóng đêm. Nữ quyền vẫn đặt trong phạm vi nam giới, và cho đến khi nào Eva vẫn chỉ là một xương sườn của Adam, thì thân-phận người nữ vẫn giống “lời nguyền rủa của Thượng đế” hơn là một phép lạ.

Các tác giả cũng nhận ra điều ấy. Những chủ đề xoay quanh đường biên của quan niệm xã hội về vai trò của người nữ trong gia đình, tình dục và mại dâm đã vén mở phần nào những khúc mắc trong một xã hội hãy còn dang dở như Việt Nam. Có lẽ, ấn tượng nhất trong các phân tích là cuộc tấn công vào quan niệm của xã hội Việt Nam về mại dâm - tình dục, vốn là những lĩnh vực xã hội đang xảy ra cuộc chuyển biến mạnh mẽ nhất, mặc dù đây cũng là mấu chốt của những nguy cơ khủng hoảng xã hội từ bên trong nền tảng của nó. Mặc dù, chính vấn đề mại dâm cũng khiến người ta nhận ra rằng, thật đáng đau đớn, cuộc chiến chống lại những sức ép của định kiến giới lại xảy ra nơi người phụ nữ bị xã hội lạm dụng nhất.

12 Bình đẳng giới 13

mạnh mẽ, quyết đoán, nóng tính và hào phóng là của nam giới. Điều này tưởng như hiển nhiên, nhưng nó tạo ra rào cản cho phụ nữ làm lãnh đạo vì đa số người dân coi nam tính (mạnh mẽ, quyết đoán) là tố chất cần thiết của lãnh đạo. Nói cách khác, “nam tính” và “lãnh đạo tính” trùng nhau nên tạo lợi thế cho nam giới trong việc thăng tiến.

Trong công việc cũng có sự phân định về nam tính và nữ tính. Phụ nữ bị gắn với các nghề có thu nhập thấp hơn, ví dụ như nhân viên văn phòng, thợ may, giáo viên tiểu học hay phụ giúp việc. Nam giới được gắn với những việc có thu nhập cao như quan chức chính phủ, cảnh sát và lập trình viên. Phụ nữ thích các công việc ổn định, dành nhiều thời gian cho gia đình, còn nam giới thích việc có thu nhập cao và có thể chu du thiên hạ.

Đây là lát cắt cho thấy những định kiến giới vẫn đeo bám trong giới trẻ Việt Nam. Tuy nhiên, điều gây bất ngờ lớn nhất đó là phụ nữ lại là người đang níu kéo những giá trị bất lợi cho vị thế của chính mình. Không có nghĩa nam giới không còn định kiến giới, nhưng dường như họ lại “thoáng” hơn trong việc chấp nhận những giá trị có tính “giải phóng phụ nữ”.

Theo một nghiên cứu của viện iSEE, Trung tâm CGFED và Quỹ châu Á, đa số phụ nữ mong đợi bạn đời của họ kiếm được thu nhập cao trong khi chỉ chưa đến 20% nam giới mong đợi phụ nữ làm điều này. Đa số phụ nữ muốn mình ở thế “bị động” và mong đợi nam giới phải

thành chuẩn mực. Tuy nhiên, vì là sản phẩm của con người và xã hội nên nó thay đổi theo thời gian. Ví dụ trước đây phụ nữ không có quyền bầu cử, nay phụ nữ đã được tham gia vào hoạt động chính trị bình đẳng.

Nhưng trên thực tế, phụ nữ vẫn chưa được bình đẳng như nam giới. Các số liệu thống kê ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới vẫn chỉ ra khoảng cách lớn giữa nam và nữ trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ ở Việt Nam chỉ có 10% bộ trưởng, 8% thứ trưởng và 24% đại biểu quốc hội là phụ nữ. Tương tự như vậy, ở Mỹ chỉ có 14% dân biểu và 16% thống đốc bang là phụ nữ. Bất bình đẳng trong gia đình còn nặng nề hơn, đặc biệt về thời gian và khối lượng việc nhà, hoặc bạo lực gia đình phụ nữ phải gánh chịu.

Như vậy, rào cản để xóa bỏ những bất công mà phụ nữ đang phải gánh chịu là gì? Có phải đàn ông muốn duy trì lợi thế của mình? Có phải phụ nữ cam chịu hoặc hy sinh hạnh phúc vì chồng con? Vì sao nỗ lực của chính phủ, cũng như hàng chục phong trào nữ quyền và hàng trăm tổ chức xã hội dân sự hoạt động vì quyền của phụ nữ mà vẫn bất lực trước thực trạng này?

Nhiều nghiên cứu về giới gần đây đã soi chiếu nguyên nhân cốt lõi ngăn cản tiến bộ trong bình đẳng giới. Đa số giới trẻ vẫn tin rằng các đặc tính như làm việc chăm chỉ, chịu thương chịu khó, khéo léo và khiêm nhường là các đặc trưng của phụ nữ. Tương tự như vậy, các tố chất như

14 Bình đẳng giới 15

cách, là nguyên nhân của đổ vỡ gia đình, họ chịu sức ép to lớn từ chính những người phụ nữ khác và phải chui vào vỏ bọc chuẩn mực xã hội.

Nhưng có lẽ, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất chính là phong trào thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam bị xé lẻ, thiếu thủ lĩnh và không nhận được sự ủng hộ của quảng đại phụ nữ. Phong trào nữ quyền vẫn gói gọn ở trong một số tổ chức xã hội dân sự, chưa trở thành câu chuyện hàng ngày của phụ nữ và nam giới. Hơn nữa, nhiều nhà hoạt động lại đòi hỏi các ưu tiên riêng biệt cho phụ nữ, coi phụ nữ như một nhóm yếu thế hơn là một nhóm phải được đối xử bình đẳng như với nam giới. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tư duy và triết lý hoạt động dựa vào sự ban phát hơn là quyền và bình đẳng.

Không ai có thể đòi quyền của mình mạnh bằng chính bản thân mình. Người da đen không thể có quyền bình đẳng nếu họ không dũng cảm đấu tranh và thách thức sự phân biệt chủng tộc. Người đồng tính không thể kết hôn nếu họ giấu mình và mong chờ sự ban ơn của người dị tính. Đã đến lúc, phụ nữ phải thực hiện quyền bình đẳng của mình, và bắt đầu từ một câu hỏi đơn giản trong gia đình: Ai rửa bát sau khi ăn cơm?

là người chủ động trong mối quan hệ yêu đương. Hơn nữa, chính phụ nữ lại ít bất bình hơn khi thấy đa số lãnh đạo là nam, và nhiều phụ nữ hơn nam giới muốn sếp mình là đàn ông. Rõ ràng, chính phụ nữ đang tiếp tay cho sự bất bình đẳng giới trong công việc, gia đình và cả trong quan hệ tình cảm.

Có nhiều cách giải thích khác nhau cho hiện tượng này, một trong số đó là trẻ em gái được giáo dục khắt khe hơn trẻ em nam về việc tuân thủ các chuẩn mực xã hội. Chính những người mẹ đã giáo dục con gái mình phải đảm đang, biết nấu ăn, chăm sóc chồng và chịu nhịn khi “cơm chẳng dẻo, canh chẳng ngọt”. Những người mẹ chồng cũng khắt khe hơn với con dâu và mong họ phải tuân thủ chuẩn mực hy sinh, tuân thủ lễ giáo nhà chồng. Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ của phụ nữ về giá trị của tự do và bình đẳng.

Bên cạnh đó, các diễn ngôn phổ biến trong xã hội cũng như của các cơ quan đại diện cho phụ nữ đang cổ súy cho người phụ nữ chịu trách nhiệm chính trong việc duy trì sự êm ấm của gia đình. Những phẩm chất đạo đức của người phụ nữ gắn liền với sự hy sinh, tính chịu thương chịu khó và nhẫn nhịn vì hạnh phúc gia đình. Điều này mạnh đến mức, ngay những người phụ nữ hoạt động trong phong trào nữ quyền, ngoài xã hội có thể đấu tranh rất hăng nhưng về nhà lại trở lại nhiệm vụ “gìn giữ gia phong.” Những người phụ nữ muốn thể hiện mình bị coi là phá

16 Bình đẳng giới 17

cãi lại chồng. Người khác cho rằng tuy nam giới có quyền “dạy” vợ, nhưng cũng nên dùng lời, biện pháp chuyên chính thay vì bạo lực. Dù vậy, vẫn khẳng định vợ và con cái trong nhà phải “theo chồng, theo cha”. Rất ít người cho rằng nam giới không nên có uy quyền, lấn át vợ và quan hệ vợ chồng phải bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.

Một đặc trưng nữa thường có liên hệ với quan niệm về nam tính, cũng như quan điểm về uy quyền của đàn ông, là người cha phải là người đóng vai trò chính trong dạy dỗ con cái, nhất là con trai. Đặc tính này được thể hiện theo hai cách: người cha phải quản lý việc học hành ở trường của con, đồng thời phải biết chỉ bảo con cái trong cuộc sống. Cha dạy con bao gồm giúp con làm bài tập ở nhà, dạy cho con cả những bài học về xã hội, như làm người đàn ông thì phải thế nào. Có mối quan hệ giữa uy quyền – đặc trưng chính trong quan niệm về nam tính ở Việt Nam – và cách nam giới thể hiện uy quyền thông qua việc dạy bảo cả vợ lẫn con cái. Chính vì vậy, việc bị thách thức uy quyền thường được coi là một lý do chính đáng để nam giới sử dụng vũ lực.

Như vậy, là người chỉ giáo, biết giữ nền nếp, kỷ cương và có uy quyền là những đặc trưng chính trong quan niệm thế nào là đàn ông. Đây là những quan điểm phổ biến, được đa số nhất trí ở tất cả các đối tượng, bất kể địa vị xã hội, vị trí địa lý. Điều này cho thấy mức độ phổ biến của những đặc trưng này, cũng như những nếp sống liên quan,

“Nam tính nho nhã”, “nam tính cơ bắp” đều phải dạy vợ để gìn giữ gia phong?

Đào Thế Đức

Đặc trưng phổ biến nhất về nam tính ở Việt Nam là quan niệm cho rằng nam giới (thường là chồng, cha) phải là trụ cột và là người ra quyết định chính trong nhà. Nhiều nghiên cứu cho thấy người chồng có vị trí cao hơn người vợ và là người đứng đầu gia đình. Các thành viên tin “quyền quyết định lúc nào cũng phải là của người chồng, trước đây, hiện nay và sau này cũng vậy”. Con cái thể hiện sự ngưỡng mộ về cách cha mình thực thi uy quyền, kỷ luật trong gia đình.

Cách nam giới thể hiện uy quyền, cũng như quan niệm về mức độ uy quyền bất khả xâm phạm của mình cũng có sự khác biệt. Một số người cho rằng chồng phải biết “dạy” vợ để vợ phục tùng họ. Dạy ở đây bao gồm dạy để vợ không được cãi chồng và phải biết tuân phục chồng. Theo họ dạy vợ là “quyền của đàn ông”. Có người đề cập đến đòn roi như một biện pháp “dạy” hay “ngăn cấm” vợ

18 Bình đẳng giới 19

Khác với Huế, ở Hà Tây, sức vóc lại được coi là tố chất lý tưởng của nam giới. Nhiều người mô tả nam giới có xu hướng thích bạo lực, nóng nảy, trong khi những đức tính như lịch sự, có học thường không được nhắc đến nhiều. Họ cho rằng con trai thì phải cao to, khỏe mạnh, vì như vậy mới đủ sức “chiến đấu”, được nể sợ, và con gái mới thích vì có khả năng bảo vệ cho họ. Nam giới ở Hà Tây thường xuyên nhắc đến với đặc tính nóng tính, nóng nảy nên nếu vợ “hỗn” thì bị chồng đánh là bình thường, trừ khi có người can ngăn. Như vậy, phụ nữ phải tránh lúc chồng “nóng tính” và phải biết “nhịn” khi chồng đang nóng. Những ý kiến về việc nam giới nóng tính này phù hợp với kết quả nghiên cứu hiện nay về quan niệm văn hóa trong sự khác biệt giữa phụ nữ (âm) và nam giới (dương) ở Việt Nam.

Những khác biệt rõ ràng giữa Huế và Hà Tây cho thấy vai trò của những yếu tố xã hội, kinh tế, địa lý trong việc hình thành nên một số (dù không phải là tất cả) các quan niệm phổ biến về nam tính, đồng thời cũng cho biết cách hiểu của nam giới về hình mẫu đàn ông lý tưởng chủ yếu được xây dựng dựa trên các giả định về uy quyền của nam giới so với phụ nữ. Tuy các đặc tính của nam tính có khác nhau do yếu tố vùng miền, văn hóa mang lại, nó đều tựu chung về một điểm: Nam giới phải nam tính và phải dạy vợ, con để ổn định gia phong, và củng cố vị thế bá quyền của mình.

trong quan niệm bá quyền ở xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, những đặc trưng về quan niệm nam tính có khác nhau, do ảnh hưởng của các yếu tố xã hội, kinh tế, địa lý. Hình mẫu đàn ông lý tưởng theo mô tả của các nam giới ở Huế, phần lớn là những người được học hành, lớn lên trong những gia đình trung-thượng lưu, khá khác biệt so với những nam giới được phỏng vấn ở Phú Xuyên, Hà Tây, đa số ít được đi học, lớn lên trong các gia đình nghèo.

Ở Huế, hình mẫu đàn ông lý tưởng là phải “lịch sự”, “có tri thức”, “có học”. Sức mạnh cơ bắp thường không được nhấn mạnh trong quan niệm thế nào là người đàn ông thực sự. So với nam giới ở các khu vực khác, đàn ông Huế thường điềm đạm, ít nói hơn. Việc đàn ông Huế làm thơ là điều bình thường, vì đối với phụ nữ Huế, đây là một nét hấp dẫn. Chính vì vậy, “con trai mà vai u thịt bắp thì hay bị xem là thô kệch”, cho nên phải “điềm đạm, ít nói, thư sinh”. Vì “Huế nổi tiếng là đất văn hiến” nên người dân ở đây cũng coi trọng học hành hơn (vì như vậy mới tìm được việc làm tốt) so với những hoạt động khác như thể thao. Những người gốc Huế cho rằng, trước đây phụ nữ thường thích nam giới giỏi học hành, thứ mới đến những người giỏi lao động chân tay, “Nhất là học hay, nhì là cày giỏi”. Con gái thường không thích con trai “to khỏe, thích đánh nhau”. Rất ít người cho rằng “đàn ông thực sự” phải khỏe mạnh, đồng thời phải là “chỗ dựa cho vợ con cả về vật chất, tinh thần, sức khỏe”.

20 Bình đẳng giới 21

đại kỹ năng và giá trị của mình khi đàm phán để có mức lương cao và cơ hội tốt hơn. Phụ nữ, ngược lại thường đánh giá thấp giá trị công việc của mình, quan tâm đến các vấn đề nội tâm hơn là công việc, và thường tham chiếu với mức lương thấp hơn sẵn có của phụ nữ khi đàm phán. Hậu quả là phụ nữ nhận lương thấp hơn cho dù làm công việc như nam giới. Các hành vi này được ủng hộ bởi chuẩn mực xã hội. Thái độ tự tâng của nam giới thường được chấp nhận hơn là thái độ tự tâng của nữ giới, đặc biệt là từ phía đàn ông. Tương tự, đàn ông thường nghiêm khắc với những người đàn ông khiêm nhường hoặc “yếu đuối” trong khi phụ nữ lại ủng hộ những người phụ nữ hiền lành. Như vậy, cả đàn ông và đàn bà đều cổ súy cho chuẩn mực tự tâng của đàn ông và hiền dịu của phụ nữ.

Các nghiên cứu về tâm lý còn cho thấy nam giới và phụ nữ giao thiệp rất khác nhau. Phụ nữ thường nói một cách ngập ngừng hơn đàn ông, và họ thường nói ngập ngừng với đàn ông hơn là với phụ nữ. Nam giới lại thích những người phụ nữ ăn nói dịu dàng, và họ bị ảnh hưởng bởi phong cách ngập ngừng của phụ nữ hơn. Như là hậu quả, phụ nữ thường nói nhẹ nhàng và bị giảm cơ hội của họ có được những vị trí lãnh đạo trong quản lý, chính trị. Điều này là do các thuộc tính của lãnh đạo thường được gắn với “mạnh mẽ, quyết đoán”, và rõ ràng là không phù hợp với phụ nữ hiền dịu.

Dịu dàng là vũ khí hay gông cùm của phụ nữ?Mạnh Hải

Bình đẳng giới là vấn đề toàn cầu. Đã có nhiều giải pháp khác nhau, tốn kém nhưng dường như chưa thực sự mang lại hiệu quả. Ở cả các nước phát triển và đang phát triển, tỉ lệ phụ nữ trong vai trò lãnh đạo còn rất thấp. Phụ nữ chỉ chiếm 15,7% cán bộ quản lý trong các tập đoàn kinh tế và 11,4% trong các vị trí CEO. Đại diện của nữ trong các vị trí lãnh đạo chính trị cũng thấp. Ví dụ ở Mỹ chỉ có 14% dân biểu và 16% thống đốc bang là phụ nữ. Tương tự như vậy, ở Việt Nam chỉ có 10% bộ trưởng và 24% đại biểu quốc hội là phụ nữ. Hầu hết các nghiên cứu và phân tích nguyên nhân cho rằng, sự khác biệt giữa nam và nữ là do các yếu tố sinh học, điều kiện kinh tế và cơ hội giáo dục. Rất ít các phân tích về nguyên nhân tâm lý gây ra bất bình đẳng giới.

Các thí nghiệm tâm lý đã cho thấy, có những hành vi cụ thể làm nặng thêm định kiến giới dẫn đến bất bình đẳng giới. Ví dụ đàn ông thường tự tiến cử mình, khuếch

22 Bình đẳng giới 23

“tôi đánh vợ là chuyện bình thường, thiên hạ làm việc đó đầy.” Tương tự như vậy, nếu muốn giảm việc phân biệt đối xử trong tuyển dụng với phụ nữ, các cơ quan quản lý lao động bên cạnh việc đưa ra những quy định rõ ràng, không nên trưng những số liệu để cho thấy việc phân biệt đối xử đang diễn ra tràn lan.

Các thông điệp mang tính định hướng sử dụng để cổ vũ cho những hành vi tốt nên nhấn mạnh tính phổ biến của nó trong xã hội. Bằng cách nêu bật tính “đa số” của hành vi tốt, mọi người sẽ tuân thủ một cách tốt hơn. Cùng với các chiến lược về giáo dục và kinh tế, phương pháp tiếp cận tâm lý sẽ bổ sung và đóng góp vào việc xóa bỏ định kiến giới và bất bình đẳng giới, đặc biệt trong các chiến dịch truyền thông.

Như vậy, các chuẩn mực và khuôn mẫu giới được cổ súy bởi xã hội, đặc biệt bởi đàn ông. Nếu những chuẩn mực và khuôn mẫu này không được đánh đổ thì bất bình đẳng giới sẽ chỉ càng trở nên nghiêm trọng. Một chiến lược hiệu quả có thể đóng góp giải quyết vấn đề này đó là “cấy những thông điệp chuẩn mực” tích cực để thay đổi diễn ngôn về giới.

Trong cuộc sống, người ta thường làm những gì mà được xã hội chấp nhận hoặc coi là phổ biến. Ví dụ ở Singapore, đường phố sạch sẽ nên không ai vứt rác ra đường và giữ vệ sinh chung được coi là hành vi chuẩn mực. Ở Việt Nam lại có đầy rác ở ngay cả nơi treo biển “cấm đổ rác” nên mọi người tiếp tục vứt rác ra đường vì đó là hành vi được coi là phổ biến. Chính vì vậy, các thông điệp truyền thông về bình đẳng giới nên thay đổi cách nói về vai trò của phụ nữ và nam giới. Cần nhấn mạnh, việc phụ nữ mạnh mẽ, quyết đoán, dấn thân, thành công là bình thường và phổ biến. Tương tự, việc nam giới nhẹ nhàng, không xông pha trong xã hội là bình thường và không phải là hiếm. Diễn ngôn này sẽ cân bằng với các chuẩn mực hiện có, tạo ra sự đa dạng và bình đẳng hơn trong lựa chọn cho cả nam và nữ.

Bên cạnh đó, để các thông điệp về bình đẳng giới, ví dụ phòng chống bạo lực gia đình như “đánh vợ là vi phạm pháp luật và không được xã hội chấp nhận” có hiệu quả, cần tránh kèm theo các số liệu chỉ ra rằng hành vi đánh vợ là khá phổ biến. Nếu nói việc này khá phổ biến, có nghĩa

24 Bình đẳng giới 25

đạo đức và pháp luật của việc mua bán dâm, chúng ta hãy xem cách xã hội phân biệt đối xử với phụ nữ như thế nào. Thay vì lên án những người bán dâm nam, báo chí và dư luận xã hội lại tập trung vào dè bỉu những người phụ nữ đi mua dâm, lên án lối sống “trác táng” và nhu cầu “dị biệt” của họ. Trong khi nam giới đi mua dâm, tất nhiên cũng với các cô gái trẻ, thì xã hội lại tập trung phê phán những người phụ nữ bán dâm. Trong trường hợp nào, phụ nữ cũng là người có lỗi và cần phải điều chỉnh hành vi tình dục của mình. Tại sao lại như vậy?

Lý do đầu tiên là quan niệm xã hội cho rằng phụ nữ phải là người “bị động” trong quan hệ yêu đương và đặc biệt trong quan hệ tình dục. Khi nam giới đi “chinh phục” phụ nữ hoặc được nhiều cô gái thích thì anh ta được coi là “sát gái” hoặc “đào hoa”. Còn khi phụ nữ chủ động hoặc có nhiều người đàn ông thích thì bị khép vào tội “lăng nhăng” hoặc “dâm đãng”. Điều này có nghĩa phụ nữ cần phải gìn giữ trinh tiết và sống “chính chuyên”, dù có nhu cầu tình dục cũng phải kìm nén. Nếu họ chủ động, có nghĩa họ đã phá vỡ khuôn mẫu xã hội tạo ra, và bị lên án bởi cả nam giới và những người phụ nữ khác trong xã hội.

Thứ hai, từ trước đến nay phụ nữ bị coi là phải phục vụ đàn ông trong cuộc sống tình dục. Khi được đòi hỏi, phụ nữ phải cắn răng thỏa mãn nhu cầu của chồng dù không muốn. Nếu không, họ có thể phải đối mặt với bạo lực gia đình vì “làm vợ” là một “thiên chức” của người phụ

Tình dục, mại dâm và sự thiệt thòi của phụ nữThu Hiền

“Nam nữ thụ thụ bất thân” là một giá trị “lâu đời” của nhiều người Kinh. Cho đến ngày nay nó vẫn được duy trì ở cả nông thôn và thành thị. Trên thực tế, nó được sử dụng để “quản lý” hành vi tình dục của phụ nữ nhiều hơn là đàn ông. Điều này được thể hiện qua các hình phạt như “cạo đầu bôi vôi” ngày xưa, hoặc những câu châm ngôn cay độc “gái không chồng mà chửa” được dùng ngày nay nhằm lên án và ngăn cản các hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân, hoặc ngoài hôn nhân của phụ nữ. Trong những vụ việc này, người đàn ông dường như vô can và không chịu hình phạt nào của xã hội.

Tương tự như vậy, gần đây rộ lên những bàn luận về chuyện mại dâm nam mà khách hàng là những người phụ nữ trung niên. Do những hoàn cảnh khác nhau như độc thân, không thỏa mãn nhu cầu tình dục với chồng, hoặc đơn giản muốn tìm cảm giác lạ mà những người phụ nữ này tìm đến các chàng trai trẻ. Khoan hãy bàn về khía cạnh

26 Bình đẳng giới 27

Hợp pháp hóa mại dâm việc đúng nên làmBình Lê

Con người sở hữu cơ thể của mình, có nghĩa họ có quyền làm bất cứ điều gì với cơ thể của họ. Đây là cốt lõi của tự do và là nguồn gốc của nhiều quyền con người - những người đã được thừa nhận và bảo vệ bởi pháp luật. Con người sở hữu cơ thể của mình cũng có nghĩa họ sở hữu sức lao động. Họ có quyền quyết định sử dụng sức lao động của mình vào việc họ muốn, miễn là không xâm phạm quyền của người khác.

Như vậy, con người có quyền dùng cơ thể và sức lao động của mình cho việc bán dâm. Điều này cũng giống như những người sử dụng cơ thể và sức lao động của mình để làm tiếp viên hàng không, nhân viên văn phòng, người mẫu hoặc ca sĩ. Mọi người tự do lựa chọn nghề nghiệp, tự do làm hay không làm việc. Không ai có quyền cấm hoặc bắt ép người khác làm việc vì như vậy là vi phạm quyền con người vì lao động bắt buộc (forced labor) và tình trạng nô lệ (slavery) là phi pháp. Câu hỏi đặt ra là tại sao những nghề khác được tôn

nữ. Mà làm vợ, có nghĩa là thực hành chức năng của “giống cái” – thỏa mãn nhu cầu tình dục của giống đực và sinh con đẻ cái. Chính vì vậy, khi nam giới phải phục vụ nữ giới trong tình dục đã đi ngược lại vai trò giới trong quan hệ tình dục. Nó đe dọa vị thế và nam tính của người đàn ông. Đây là lý do để nhiều người chĩa mũi dùi vào người phụ nữ đi mua dâm.

Nhưng có lẽ, nguyên nhân quan trọng nhất đó là quan niệm về tình dục vẫn tồn tại trong xã hội: tình dục phải gắn với hôn nhân và duy trì nòi giống. Đối với nhiều người, tình dục phải gắn với “tính loài” nên tình dục ngoài hôn nhân và không gắn với sinh sản là vi phạm đạo đức nghiêm trọng. Nó đi ngược lại thuần phong phong mỹ tục. Để duy trì đức hạnh, người phụ nữ phải kìm nén và hy sinh nhu cầu tình dục của mình.

Rõ ràng người phụ nữ đi mua dâm đang bị lên án nhiều hơn người đàn ông đi mua dâm. Xét trên khía cạnh quyền bình đẳng, phụ nữ cũng như người đàn ông đều có quyền có cuộc sống tình dục an toàn và thỏa mãn. Nếu quan hệ tình dục của người phụ nữ không vi phạm những giá trị đạo đức (như ngoại tình hoặc quan hệ cận huyết) hoặc sức khỏe (như lây nhiễm bệnh tật) thì cũng cần phải được tôn trọng. Chính vì vậy, việc người phụ nữ đi mua dâm (nếu mại dâm được hợp pháp hóa) cũng cần coi là bình thường và được tôn trọng như người đàn ông đi mua dâm.

28 Bình đẳng giới 29

bán dâm có thể là cả nam giới và nữ giới vì cả phụ nữ và đàn ông đều có nhu cầu mua dâm. Thứ hai, những người phụ nữ bán dâm không đại diện cho giới phụ nữ nói chung. Họ chỉ đại diện cho bản thân họ như những con người độc lập, riêng rẽ và có nhân phẩm. Nói cách khác, phụ nữ bán dâm cũng như phụ nữ bán hàng rong, phụ nữ trí thức, phụ nữ giáo viên đều không thể đại diện cho giới phụ nữ nói chung. Chính vì vậy, việc đánh đồng việc phụ nữ bán dâm có nghĩa là hạ thấp nhân phẩm của phụ nữ là không hợp logic.

Có ý kiến cho rằng, cho phép mại dâm sẽ dẫn đến sự tan vỡ của gia đình vì vợ hoặc chồng sẽ có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Suy luận này là sai lầm vì việc quan hệ tình dục ngoài hôn nhân hay không là quyết định cá nhân dựa trên giá trị đạo đức của họ chứ không phải dựa trên việc có dịch vụ mại dâm hay không. Nếu một người cho rằng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là xấu, là vi phạm đạo đức thì họ sẽ không bao giờ thực hiện điều đó. Ngược lại, nếu đó không phải là giá trị đạo đức họ coi trọng thì họ sẽ có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân với bạn tình hoặc người bán dâm, dù cấm hay không.

Ngoài ra, mại dâm cũng tuân theo quy luật cung cầu của thị trường. Khi có cầu thì tất có cung. Nhiều người đàn ông và phụ nữ đến tuổi trưởng thành đều có nhu cầu quan hệ tình dục. Nhiều người có người yêu, có bạn tình để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhiều người không có nên phải lựa chọn hoặc là thủ dâm, hoặc là tìm đến dịch vụ mại

vinh còn nghề mại dâm thì bị lên án, thậm chí bị thu gom và phạt hành chính?

Xét bản chất của mại dâm, ta thấy đây là một hoạt động dựa trên hợp đồng (thường là bằng miệng) giữa hai người trưởng thành, theo nguyên tắc “có đi có lại”. Người bán dâm có trách nhiệm cung cấp dịch vụ, đó là cơ thể và kỹ năng của mình để cho người mua dâm thỏa mãn nhu cầu tình dục. Người mua dâm có nghĩa vụ trả tiền cho người bán dâm theo thỏa thuận hợp đồng. Vì người bán dâm sở hữu cơ thể của mình, nên họ hoàn toàn có quyền làm điều đó. Còn người mua dâm là công dân nên có tư cách pháp nhân thực hiện giao dịch dân sự này.

Tranh cãi về mại dâm thường xuất phát từ giá trị đạo đức của việc mua bán dâm. Nếu xét về đạo đức, chúng ta có thể xem xét từ hai khía cạnh: bản chất của việc bán dâm và ảnh hưởng/hậu quả của việc mua bán dâm. Như thảo luận ở trên, việc mua bán dâm là một việc tự nguyện, người bán dâm đối xử tốt với khách hàng của mình, còn người mua dâm tôn trọng người cung cấp dịch vụ cho mình. Cả hai đều đạt được mục đích, một người có thu nhập một người được thỏa mãn. Chính vì vậy, bản thân hoạt động mua bán dâm không vi phạm đạo đức vì hai người liên quan không bị lợi dụng hoặc tổn hại gì.

Nhiều người cho rằng cho phép mại dâm sẽ hạ thấp giá trị của người phụ nữ vì đa số người bán dâm là phụ nữ. Ở đây, có hai vấn đề cần phải làm rõ. Thứ nhất, những người

30 Bình đẳng giới 31

những chèn ép, quỵt tiền, hoặc hành hung, đánh đập họ vì đối tác có nhiều quyền lực hơn, sẵn sàng tố cáo họ hành nghề phi pháp. Nhiều người bị ép phải quan hệ tình dục vượt quá sức chịu đựng, hoặc theo cách rủi ro gây đến tổn hại về sức khỏe và bệnh tật. Rõ ràng việc cấm mại dâm đã làm tổn hại ghê gớm đến quyền của những người bán dâm, và đây chính là vấn đề đạo đức cần xem xét.

Thứ ba, việc cấm mại dâm dẫn đến hoạt động này được thực hiện trong thế giới ngầm không thể quản lý được. Nhiều người tham gia vào việc môi giới mua bán dâm, thu lợi và thậm chí chèn ép cả khách hàng lẫn người bán dâm gây ra nhiều vấn đề xã hội. Về bản chất, việc môi giới mua bán dâm cũng giống như việc môi giới mua bán nhà đất. Tuy nhiên, vì mại dâm đang bị cấm nên việc môi giới là phạm pháp. Nếu mại dâm được hợp pháp hóa thì rõ ràng việc quản lý dịch vụ này sẽ rõ ràng hơn, minh bạch hơn và những người tham gia vào dịch vụ môi giới có thể đăng ký kinh doanh và nộp thuế. Thuế sẽ được sử dụng cho việc quản lý cũng như chăm sóc y tế cho những người tham gia hoạt động mại dâm.

Nhiều người lo lắng nếu hợp pháp hóa mại dâm thì sẽ làm cho hoạt động này bùng nổ. Lo lắng này là không cần thiết vì khi mại dâm là một hoạt động kinh tế bình thường thì việc tăng hay giảm cũng là điều bình thường, nó cũng sẽ tuân theo quy luật cung cầu của thị trường. Nhà nước có thể tham gia điều tiết thông qua quy hoạch, đánh thuế

dâm. Đây là điều bình thường trong xã hội vì quan hệ tình dục là nhu cầu bình thường của đa số mọi người. Còn quan hệ như thế nào, với ai thì là quyền của mỗi người, tùy vào giá trị đạo đức, tôn giáo cũng như điều kiện kinh tế, xã hội của họ. Rõ ràng, nhu cầu này là độc lập với gia đình vì họ là những người trưởng thành, chưa lập gia đình.

Như vậy, hoạt động mua bán dâm không vi phạm quyền con người của ai, không làm thấp giá trị của ai, không làm tổn hại giá trị đạo đức tốt đẹp nào, và không phải là nguyên nhân phá vỡ gia đình. Ngược lại, việc cấm hoặc tội phạm hóa mại dâm lại có những vấn đề về công bằng và đạo lý mà chúng ta cần phải phân tích.

Thứ nhất, như đã nói ở phần đầu, con người là tự do và bình đẳng, có quyền sở hữu cơ thể của mình, sử dụng sức lao động của mình vào những việc không làm tổn hại đến quyền của người khác. Cấm mại dâm, có nghĩa là tước đi quyền sở hữu cơ thể và sức lao động của những người phụ nữ và nam giới bán dâm. Điều này cũng có nghĩa là họ bị đối xử không bình đẳng như những con người khác trong việc lựa chọn nghề nghiệp của mình.

Thứ hai, những người vẫn thực hiện hoạt động bán dâm vô hình chung trở thành yếu thế trong giao dịch hợp đồng mua bán dâm với khách hàng của mình. Khi hoạt động của họ là phi pháp, có nghĩa họ không được bảo vệ, không có quyền lực để đàm phán và bắt khách hàng thực thi nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng. Điều này dẫn tới

32 Bình đẳng giới 33

Đàn ông Việt Nam: bạo lực và ngoại tình?Vũ Hồng Phong

Scott và Trương Thị Kim Chuyên (2007) đã nêu lên rằng hình ảnh bạo lực của đàn ông người Kinh nổi lên rất rõ trong các nghiên cứu xuất bản trong nước. Đó là người đàn ông có gia đình, chịu ảnh hưởng của đạo đức Khổng giáo: là người trụ cột trong gia đình, coi trọng dòng họ cha và việc thờ cúng, coi trọng việc có con trai, cũng như coi sử dụng bạo lực như một cách để thể hiện vai trò làm chủ trong gia đình. Người đàn ông đó sẽ bị xem là kém cỏi, mất mặt, hay mất danh dự nếu không phải hay không thể là trụ cột gia đình, không coi trọng việc thờ tự và quan hệ dòng họ, không có con trai, và không “biết” dạy vợ.

Các tác giả nước ngoài viết về nam tính ở Việt Nam, như Helle Rydstrøm (2003, 2006) cũng theo lối phân tích kể trên. Theo Helle thì việc đàn ông sử dụng bạo lực đối với vợ của họ có liên quan đến quan niệm dân gian về “tính nóng” và “tính lạnh”, những xúc cảm mà các cựu binh mang về từ chiến trường, và các chuẩn mực đạo đức Khổng giáo. Helle

cũng như thúc đẩy các bàn luận về đạo đức cá nhân, gia đình và xã hội để cho mọi người tự quyết định cho hành vi đúng sai của mình.

Việc hợp pháp hóa mại dâm là việc đúng nên làm, vì rõ ràng nó không vi phạm giá trị đạo đức cũng như quyền của bất kỳ ai. Ngược lại, việc cấm mại dâm đang vi phạm quyền sở hữu thân thể và sức lao động của những người bán dâm. Nó tạo ra sự bất bình đẳng và yếu thế cho những người bán dâm. Đây chính là vấn đề đạo đức của việc cấm mại dâm cần được gỡ bỏ. Khi đó, việc hợp pháp hóa mại dâm cũng giúp cho nhà nước quản lý tốt hơn, minh bạch hơn và nhân văn hơn.

34 Bình đẳng giới 35

tình dục, thì người đàn ông ngoại tình bỗng trở thành đối tượng giám sát của ngành y tế công cộng (Choi et al., 1994; Mitsunaga et al., 2005). Ở Việt Nam, từ giữa những năm 1990 trở lại đây, do ảnh hưởng của trào lưu này, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào chủ đề quan hệ tình dục ngoài hôn nhân của nam giới, và gần đây hơn, thì đã tập trung vào quan hệ tình dục trước hôn nhân của nam giới. Hầu hết các nghiên cứu này đều gắn hành vi quan hệ ngoài hôn nhân với các nguy cơ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, và việc làm lây lan các bệnh đó cho những người ‘bình thường’ khác.

Một ví dụ tiêu biểu cho loại nghiên cứu này là công trình của Phinney (2008). Khi nghiên cứu những biến đổi về kinh tế, xã hội thời kỳ sau Đổi Mới ở Hà Nội, Phinney nhận thấy rằng những biến đổi này, như là sự dư dả về tiền mặt, sự bùng nổ của các dịch vụ giải trí, quảng cáo hướng đến nam giới và nam tính, và sự sẵn có của các cơ hội ngoại tình khác, đã góp phần hình thành và thúc đẩy sự ngoại tình ở nam giới. Phinney đã rất giỏi trong việc vận dụng những câu “tục ngữ mới” của người dân Hà Nội vào việc mô tả hiện tượng ngoại tình. Ví dụ, câu “chán cơm, thèm phở” được tác giả dùng ngay làm tiêu đề cho bài báo, đã tạo được sự thú vị rất lớn cho người đọc. “Cơm” là từ lóng để chỉ “người vợ”, còn “phở”, một thứ được cho là ngon hơn cơm, thỉnh thoảng mới được ăn trong thời kỳ bao cấp, là từ lóng để chỉ “người tình” thời nay.

mô tả rằng tính cách của nam giới được cho là có thuộc tính “nóng” một cách tự nhiên, còn của phụ nữ thì có tính “lạnh”. Tính nóng ấy, nói cách khác, được cho là một phần tự nhiên của nam tính. Nam giới thể hiện ‘tính nóng’ thông qua việc sử dụng bạo lực trong việc dạy con (nhất là con trai) và trong quan hệ với vợ, qua đó, thể hiện nam tính của họ. Sự thể hiện “tính nóng” có thể trở nên bạo lực hơn khi nam giới đã uống rượu, hoặc trải qua các cơn đau do chấn thương thời chiến tranh tái phát. Phụ nữ có tính “lạnh” và bị canh giữ bởi những chuẩn mực đạo đức Khổng giáo, cho nên họ có xu hướng chấp nhận sự bạo lực của đàn ông.

Như vậy, Helle Rydstrøm và nhiều tác giả khác đã cung cấp một quan điểm khá cứng nhắc về nam tính ở Việt Nam. Có thể thấy rằng trong các nghiên cứu của họ thì nam giới thường được mô tả là những người tạo ra vấn đề cho phụ nữ và trẻ em chứ không phải là những người cũng đang phải chịu đựng những vấn đề của riêng họ. Các nhà nghiên cứu dường như phụ thuộc quá nhiều vào các quan niệm Khổng giáo truyền thống để mô tả về nam tính và nữ tính mà chưa tính đến tác động của những biến đổi kinh tế, xã hội mạnh mẽ ở nông thôn Việt Nam trong những thập kỷ gần đây đối với những hình mẫu nam tính và nữ tính theo truyền thống Khổng giáo đó.

Khi trào lưu nghiên cứu về tính dục trở nên nở rộ vào giữa những năm 1980s, thời điểm mà người ta tìm thấy mối liên hệ giữa sự truyền nhiễm HIV và quan hệ

36 Bình đẳng giới 37

tình là các nhóm ‘có nguy cơ’ phản ánh sự vượt trội của các chương trình nghiên cứu được tài trợ bởi các quỹ hay các tổ chức có mục đích chính là nâng cao sự bình đẳng giới cho phụ nữ, hay phòng chống sự lan truyền của HIV/AIDS ở Việt Nam.

Theo mạch này, ngày càng nhiều ‘nhóm nguy cơ’ mới sẽ được phát hiện. Ví dụ, gần đây đã có một số người nói đến sự cần thiết phải nghiên cứu nguy cơ nhiễm HIV/AIDS trong nhóm nam quan hệ tình dục cùng giới (MSM) hoặc nam thành phố lao động tự do. Đặc điểm chung của những người bị gán mác ‘có nguy cơ’ là họ là nhóm yếu thế hơn, hay nói cách khác là cách làm đàn ông của họ không được những nhóm khác có nhiều quyền lực hơn ủng hộ. Những người càng yếu thế thì càng khó có khả năng kháng cự lại cái nhãn ‘có nguy cơ’ mà người ta gán cho họ. Việc này dẫn đến định kiến kỳ thị, tạo ra hình ảnh xấu xí của người đàn ông Việt Nam. Hơn nữa, nó có thể dẫn đến tự định kiến và gây ra những khó khăn cho việc tham gia của đàn ông vào việc phòng chống HIV cũng như bình đẳng giới thật sự.

Khi mô tả đô thị như là một nơi nam giới có thể dễ dàng có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, Phinney cho rằng điều này có thể làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng. Cuối bài viết tác giả khuyến nghị rằng cần có biện pháp để nam giới Việt Nam sử dụng bao cao su nhiều hơn, và cần phải có cách để cải thiện sự giao tiếp giữa vợ chồng (hay là những người bạn tình) để có thể phòng tránh sự lây lan của HIV tốt hơn.

Có vấn đề gì trong lập luận rằng ngoại tình đang có xu hướng tăng lên và rằng ngoại tình có liên quan đến sự lây lan HIV/AIDS như ta thấy trong nghiên cứu của Phinney không? Hiện tại, không hề có bằng chứng chắc chắn nào nói rằng ngoại tình đã tăng lên, hoặc là tình dục của những người nam giới ngoại tình là không an toàn. Việc gắn ngoại tình với HIV/AIDS có thể gây ra những hệ quả không mong muốn khi mà sự kết hợp của diễn ngôn đạo đức (ví dụ, người ngoại tình là “bạc bẽo”, “không biết giữ mình”, “không chung thủy”) và diễn ngôn y tế công cộng (ví dụ người ngoại tình “có nguy cơ nhiễm HIV cao”) sẽ chỉ làm cho những người này che giấu hành vi của mình hơn để đối phó lại sự kỳ thị chống lại họ.

Rõ ràng việc tập trung vào người đàn ông bạo lực và người đàn ông ngoại tình mà các nghiên cứu về nam tính ở Việt Nam trình bày trong bài viết chưa thể hiện được sự đa dạng của các loại nam tính. Hơn nữa, việc một số học giả cố gắng định nghĩa nhóm nam giới bạo lực hay ngoại

38 Bình đẳng giới 39

Chính quan niệm Nho giáo này đã đẩy người phụ nữ vào thế bị động, như hạt mưa sa vào trong giếng nước, gặp giếng trong thì hạnh phúc, gặp giếng đục thì tủi hờn. Vị thế “yếu và phụ thuộc”, do quan niệm xã hội tạo ra, làm người phụ nữ không dám phản kháng lại những bất công, bạo lực đối với mình. Có người cũng muốn thoát ra, nhưng ngay lập tức bị bủa vây bởi định kiến xã hội, cho rằng gia đình tan vỡ là do người phụ nữ không biết nhường nhịn, “chín bỏ làm mười”. Họ bị đổ lỗi là nguyên nhân thất bại trong việc giữ lửa cho gia đình. Điều này một lần nữa đẩy người phụ nữ quay lại với cuộc sống địa ngục có tên là bạo lực gia đình.

Có những người phụ nữ vượt qua được lễ giáo, và sẵn sàng bỏ qua dư luận để giải thoát mình. Tuy nhiên, họ lại bị ràng buộc bởi suy nghĩ “hy sinh đời mẹ vì hạnh phúc của đời con”. Họ bị thuyết phục rằng ly dị có nghĩa là tạo ra một gia đình tan vỡ, con sẽ phải sống với mẹ, hoặc với cha. Một gia đình không “tròn trịa”, thiếu cha hoặc thiếu mẹ, sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của con cái. Chính vì vậy, việc chạy trốn khỏi bạo lực gia đình bị xem như là hành vi ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân, không quan tâm đến con cái. Người mẹ nào cũng thương con, và vì con, họ lại chịu đựng cuộc sống tủi nhục của mình.

Nhiều nghiên cứu khác nhau, ví dụ của Judith S. Wallerstein, cho thấy ly hôn có tác động đến sự phát triển của trẻ. Sự chia tay của cha mẹ, có thể để lại một vết sẹo tiêu cực, làm cho trẻ khó khăn hơn trong quá trình trưởng

Ai nhốt phụ nữ trong địa ngục gia đình?Thu Hiền

Có những người phụ nữ không muốn ly dị dù bị đánh đập, bạo dâm, và hạ nhục, thậm chí phải tự tử để giải thoát mình. Tại sao họ lại cam tâm chịu đựng? Tại sao họ không dám từ bỏ người chồng vũ phu, không yêu thương mình, để thoát khỏi địa ngục trần gian, tìm một tương lại tốt đẹp hơn? Tại sao họ bị nhốt trong nhà tù có tên là bạo lực gia đình?

Có nhiều lý do, nhưng đầu tiên đó là quan niệm về gia đình, và vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Tam tòng, tứ đức vẫn là những giá trị còn tồn tại dai dẳng trong xã hội Việt Nam. Tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất gia tòng phu, phu tử tòng tử) nói lên vai trò phụ thuộc, phục dịch của người phụ nữ cho dòng họ nhà chồng. Chuẩn mực của một người vợ tốt là tứ đức gồm công (khéo léo may vá, bếp núc, chăm sóc chồng con), dung (biết chăm sóc thân thể của mình để đẹp cho chồng), ngôn (ăn nói dịu dàng, mềm mỏng đề vừa lòng chồng), hạnh (nết na, hiền thảo, kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con).

40 Bình đẳng giới 41

Sự bất công, dường như đã được định sẵn khi họ ký vào tờ giấy kết hôn. Khi họ muốn từ bỏ sự bất công, thì xã hội lại thuyết phục họ hy sinh mình vì cái gọi là “gia đình” hay “tương lai con cái” để sống chung với bạo lực. Đây là lý do làm nhiều người phụ nữ bị đánh đến tàn phế, hoặc bức tử vì không còn lối thoát nào.

Ngày nay, có nhiều nỗ lực trong luật pháp và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ để đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ, như việc ban hành các luật Hôn nhân gia đình, Luật bình đẳng giới, và Luật phòng chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, các nỗ lực này chỉ có tác dụng nếu nó thực sự coi gia đình là kết hợp dân sự bình đẳng, là môi trường yêu thương và chăm sóc lẫn nhau. Nếu vẫn coi gia đình là nơi duy trì nòi giống (cho dòng họ nhà chồng), là tế bào của xã hội nên phải giữ gìn và “hoàn thiện”, nghĩa là có một vợ, một chồng và các con, thì các nỗ lực này còn lâu mới có kết quả.

Và cuối cùng, người phụ nữ là tự do và bình đẳng. Họ lập gia đình để mưu cầu hạnh phúc. Nếu gia đình không đảm bảo hạnh phúc cho họ, họ không nên khư khư giữ nó, các đoàn thể và cơ quan hòa giải không nên ép họ giữ nó. Đây là lý lẽ đơn giản để ly dị là một giải pháp, chứ không phải là một điều tồi tệ cho những người phụ nữ bị bạo hành.

thành. Nhiều đứa trẻ khi lớn lên lo lắng về khả năng thiết lập quan hệ yêu thương, hoặc cam kết lâu dài với người khác. Đặc biệt, một số trẻ lớn lên tiếp nhận những hành vi rủi ro cao, như ma túy, rượu và quan hệ tình dục không an toàn.

Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu của Hội nhi khoa Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng, việc phát triển của trẻ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng quan hệ trong gia đình, giữa người lớn và trẻ. Nếu quan hệ đó là yêu thương, chia sẻ, thì trẻ sẽ phát triển tốt. Nếu là quan hệ bạo lực, lừa dối, hoặc bất bình đẳng, thì sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của chúng. Nói cách khác, những ảnh hưởng tiêu cực của việc ly dị lên trẻ, có thể ít hơn rất nhiều so với những ảnh hưởng của một môi trường gia đình đầy bạo lực. Đây cũng chính là kết luận của nhiều nghiên cứu, trong đó có E. Mavis Hetherington và John Kelly, cho rằng về ngắn hạn ly dị có thể ảnh hưởng đến trẻ, nhưng về lâu dài hầu như không có nhiều ảnh hưởng. Trong quá trình trưởng thành, trẻ sẽ vượt qua những tác động của ly dị, và trở thành những người vợ hoặc chồng có trách nhiệm với gia đình của mình.

Nếu coi hôn nhân là một hợp đồng dân sự, thì rõ rằng những người phụ nữ này đã bị thiệt thòi khi phải mang theo rất nhiều trách nhiệm. Họ phải phụng dưỡng chồng, bố mẹ chồng, gia đình nhà chồng. Họ phải sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường cho nhà chồng. Họ phải tuân thủ “thuần phong mỹ tục” và những lễ giáo của nhà chồng.

42 Bình đẳng giới 43

chống những vấn đề đó. Phi pháp hoá chỉ đẩy mại dâm vào bàn tay của xã hội đen. 2. Hợp pháp hóa mại dâm cũng đồng nghĩa với việc hợp

pháp hóa ma cô, bảo kê và các đường dây cung cấp “hàng” cho các nhà chứaKhông nhất thiết. Nhiều quốc gia đi theo mô hình

không hình sự hoá hành vi mua và bán dâm, nhưng cấm các hành vi tổ chức xung quanh như dẫn khách, mở nhà thổ v.v… với mục đích đánh vào những kẻ ăn bám trên lưng người phụ nữ. Nói cách khác, ở đây làm “gái gọi” độc lập thì hợp pháp, nhưng làm má mì thì không. 3. Mại dâm không phải là một ngành kinh tế đáng mong đợi

Vì sao ngành đánh bốc lại đáng mong đợi hơn? Ở đó thiên hạ trả tiền xem hai người đánh nhau bật máu, gãy răng. Đau đớn lắm. 4. Không thể tách rời giữa buôn nguời và mại dâm, chúng

liên quan rất mật thiết với nhauTách rời được. Mại dâm hay được chia ra làm ba loại:

Đứng đường, trong nhà chứa, và làm việc độc lập (call girl). Ở các nước Tây Âu, mại dâm đứng đường là nguy hiểm nhất cho người bán dâm vì nguy cơ gặp khách bạo lực, côn đồ lớn hơn ở các dạng kia. Ở Việt Nam, các nhà chứa là nơi tiềm ẩn nạn buôn người lớn nhất. Mô hình cấm nhà thổ nói trên đánh vào vấn đề này, chuyển nhu cầu mua dâm sang gặp phần cung khác. 5. Mại dâm đi liền với ma tuý

Mại dâm như một chiến lược của phụ nữ? Đặng Hoàng Giang

Sau khi đọc xong các bài và các ý kiến độc giả gần đây trên Diễn Ngôn chung quanh chủ đề nên hay không nên hợp pháp hoá mại dâm, tôi xin phép được tập hợp lại 11 lý do phản đối việc hợp pháp hoá mại dâm, cũng như các suy nghĩ của tôi vì sao những lý do này có vấn đề. Ngoài ra, tôi xin nêu ra ba biện pháp để giảm thiểu mại dâm, cũng như một gợi ý về mối liên quan giữa hôn nhân và mại dâm. 1. Người bán dâm không phải là tự nguyện, mà họ buộc phải

lựa chọn vì mưu sinh của mìnhỞ đây chúng ta phải phân biệt giữa trường hợp người

bán dâm bị ép hay bị lừa vào làm công việc này, hay bị bộ máy vận hành (ví dụ chủ nhà chứa) tước khả năng thoát ra ngoài, và trường hợp người bán dâm tự chủ và đầy đủ ý thức quyết định làm việc này, như một lựa chọn tốt nhất cho cá nhân họ trong thời điểm đó. Ép, lừa, buôn người cần phải bị đấu tranh triệt để, và kinh nghiệm của nhiều nước chỉ ra rằng hợp pháp hoá mại dâm hữu hiệu hơn để

44 Bình đẳng giới 45

9. Mại dâm là một việc vô đạo đức. Tình dục chỉ nên xảy ra giữa những người yêu nhau. Mại dâm làm mất đi cái thiêng liêng của tình dục. Vậy ta cấm luôn các gia đình hay các đôi nam nữ vẫn

sinh hoạt tình dục với nhau trong khi không còn yêu nhau nữa? Bởi vì không còn yêu nhau nữa mà vẫn làm tình với nhau thì còn gì là thiêng liêng? Tiện thể cấm luôn cả thủ dâm, vì thủ dâm thì thiêng liêng với ai? 10. Tôi không muốn Việt Nam nổi tiếng vì công nghệ tình

dục. Hà Lan nổi tiếng vì công nghiệp tình dục, 5% tổng

thu nhập quốc dân của họ tới từ ngành công nghiệp này. May quá, chúng ta không phải là người Hà Lan. 11. Người Việt Nam vốn đã lười, hợp pháp hoá mại dâm thì

các cô gái sẽ làm gì? Hoá ra các cô gái Việt Nam vốn lười biếng, chỉ chăm

chăm đi vào con đường mại dâm. Lại may quá, ta có pháp luật ngăn lại!

Vậy khi quy kết mại dâm là tội phạm không phải là biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu nó thì có cách nào khác không? Theo các nhà nghiên cứu kinh tế và xã hội, có ba nỗ lực chúng ta có thể làm để giảm thiểu mại dâm:

Tăng thu nhập của phụ nữ ở những ngành khác: Khi cơ hội thu nhập cao ở những lĩnh vực khác nhiều lên, sẽ ít phụ nữ chọn mại dâm là công việc để nuôi sống bản thân và gia đình. Các khảo sát chỉ ra rằng ở Tây Âu tỉ

Ca sĩ và người mẫu cũng đi liền với hút, chích, lắc. Ta cấm luôn cả hai nghề này cho tiện. 6. Mại dâm phá hoại phẩm giá của phụ nữ, không thể dùng

tiền để mua phụ nữTa nên lập luôn một hội đồng xét duyệt các trường

hợp các cô gái trẻ cặp với đại gia. Các đại gia phải chứng minh được là các chu cấp vật chất của mình là xuất phát từ đáy lòng, chứ không phải để “mua” một cô gái trẻ. Và cô gái cũng phải chứng minh là nếu không có chu cấp vật chất thì tình cảm của mình với đại gia cũng không suy chuyển. Một trong hai bên không chứng minh được thì đôi đó phạm luật. Mà nghĩ cho kỹ thì nên xét duyệt tất cả các hôn nhân và các quan hệ mà trong đó bên nữ đồng ý làm tình với bên nam, không chỉ các cặp gái trẻ - đại gia. 7. Hợp pháp hoá mại dâm sẽ làm nó tăng trưởng hơn

Sai. Mại dâm có nhiều hơn ở các nước nghèo, nơi nhiều phụ nữ chọn lựa chọn này. Nó không nhiều hơn ở nước được hợp pháp hoá nếu so với những nước khác có cùng mức sống. 8. Mua bán dâm phá hoại hạnh phúc gia đình

Vậy ta chỉ cho những người chưa có gia đình, những người goá bụa và ly dị mua dâm? Người bán dâm mà tiếp người đã kết hôn thì sẽ bị phạt nặng? Mức phạt sẽ do các bà vợ đặt ra? Ta có nên cung cấp cho người bán dâm danh sách đàn ông đã kết hôn ở địa phương, cập nhật hàng tháng, để họ biết mà tránh?

46 Bình đẳng giới 47

dâm, nhưng không thể là cả hai. Nếu hôn nhân là một nguồn thu nhập cho phụ nữ thì công việc mại dâm cần phải được trả giá xứng đáng cho chi phí cơ hội mà cô ấy bị mất trên thị trường hôn nhân… Nhìn nhận mại dâm như một chiến lược của phụ nữ sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về quá trình tiến hoá của hôn nhân.”

lệ người bán dâm hồi đầu thế kỷ 20 cao hơn bây giờ rất nhiều. Hiện nay, người bán dâm ở những quốc gia này chủ yếu là người nhập cư, những người có cơ hội hạn chế hơn ở các lĩnh vực khác.

Tăng thu nhập của đàn ông: Các nghiên cứu cũng chỉ ra đàn ông thu nhập thấp mua dâm nhiều hơn. Lý do là đàn ông thu nhập cao có nhiều điều kiện để có bạn gái hoặc lập gia đình hơn. Một nghiên cứu ở Scotland năm 2008 cho thấy 52% người mua dâm thuộc nhóm thu nhập thấp nhất.

Tăng cơ hội có tình dục trước hôn nhân: Trước cách mạng tình dục ở phương Tây, 80% đàn ông có quan hệ tình dục đầu tiên với gái mại dâm, bởi vì đó là cách duy nhất họ đến với trải nghiệm tình dục. Hiện nay, con số này là dưới 20%. Ở Việt Nam, tình dục trước hôn nhân sẽ là yếu tố quan trọng giảm thiểu nhu cầu mua dâm.

Cuối cùng, mại dâm và hôn nhân liên quan tới nhau như thế nào? Nhiều hơn bạn tưởng. Chủ đề dài và phức tạp, tôi chỉ muốn lưu ý là nếu các bạn google “Marriage is a form of prostitution” (“Hôn nhân là một hình thức mại dâm”), các bạn sẽ có 33.300.000 kết quả trong vòng 0.35 giây. Các bạn có thể bắt đầu bằng nghiên cứu “A Theory of Prostitution” (“Một lý thuyết về mại dâm”) năm 2001 của hai giáo sư Lena Edlund và Evelyn Korn của trường Đại học Columbia, Mỹ. Phần tóm tắt của nghiên cứu có đoạn này: “Một phụ nữ chỉ có thể là vợ hay là người bán

48 Bình đẳng giới 49

nữ. Nhiều nghiên cứu chỉ ra trẻ em gái và phụ nữ ở các gia đình nghèo, khó khăn, và thiếu thông tin là các nạn nhân đầu tiên của các băng đảng. Chúng nhắm đến những gia đình yếu thế, dễ bị dụ dỗ để “tuyển dụng”, mà thực chất là ép buộc hoặc lừa đảo. Khi đã tham gia, toàn bộ hệ thống bảo kê, tội phạm, ma cô và quản lý sẽ ép buộc họ làm việc như nô lệ tình dục trong các nhà thổ. Theo UNICEF, hàng năm có hàng triệu phụ nữ bị buôn bán và ép buộc gia nhập ngành công nghiệp mại dâm, và khoảng 30% trong số họ là trẻ vị thành niên, thậm chí dưới 13 tuổi.

Nhiều người cho rằng vấn đề buôn bán người không liên quan đến vấn đề mại dâm. Nhiều chính phủ còn đề nghị phải phân nhóm những người bị buôn bán thành hai loại, một loại bị ép buộc và một loại đồng thuận. Họ còn đề nghị nạn nhân bị buôn bán phải tự đưa ra bằng chứng bị ép buộc của mình nếu muốn được coi là nạn nhân. Các quốc gia ủng hộ việc tách biệt này chủ yếu là những nước đã hợp pháp hóa mại dâm, hoặc có ngành công nghiệp du lịch tình dục phát triển.

Tuy nhiên, không thể tách rời giữa tình trạng buôn nguời và mại dâm vì hai vấn đề này liên quan rất mật thiết với nhau, như cung (buôn bán người) và cầu (mại dâm). Kể cả những người phụ nữ được coi là “đồng thuận” tham gia, thực chất vẫn là bị ép buộc. Họ thường là những người yếu thế, nghèo, không còn lựa chọn nào khác, do hoàn cảnh họ phải đồng thuận. Bên cạnh đó, nhiều người bị

Hợp pháp hóa mại dâm việc sai không được làmLệ Quyên

Hoạt động mua bán mại dâm tưởng là bình đẳng, nhưng thật ra là một việc làm phi đạo đức và không công bằng. Hai cơ thể con người, sinh ra tự do và bình đẳng, thì phải được đối xử công bằng như nhau. Trong mại dâm, một người phải đưa thân xác ra mua vui cho một người; cơ thể người mua dâm có được khoái cảm và thỏa mãn dục vọng; cơ thể người bán dâm không có khoái cảm, thậm chí đau đớn. Việc “tự nguyện” tham gia hợp đồng mua bán dâm chỉ đúng với người mua dâm vì họ chủ động đi thỏa mãn nhu cầu và sẵn sàng trả tiền. Còn với người bán dâm không phải là tự nguyện, mà họ buộc phải lựa chọn vì cuộc mưu sinh của mình. Hoạt động mua bán dâm thể hiện sự bất bình đẳng giữa hai con người.

Hợp pháp hóa mại dâm cũng đồng nghĩa với việc hợp pháp hóa các đường dây cung cấp “hàng mới” cho các nhà chứa. Điều này cũng có nghĩa là toàn bộ hệ thống buôn người, ma cô, bảo kê sẽ được huy động để săn lùng phụ

50 Bình đẳng giới 51

một món hàng, người phụ nữ bán dâm cũng khó từ chối vì nó liên quan đến sinh kế và cuộc sống của họ.

Nếu cho rằng việc đánh đập hoặc ép buộc quan hệ không an toàn không nằm ở bản chất của mại dâm, mà nằm ở việc quản lý của nhà nước cũng như trình độ của đội ngũ ma cô và chủ nhà chứa là sai lầm. Năng lực quản lý của nhà nước, đặc biệt ở những nước như Việt Nam cho một ngành dịch vụ phức tạp này là rất yếu, đấy là chưa nói đến tham nhũng và cấu kết bảo kê. Hơn nữa, khi hoạt động hợp pháp, các chủ chứa và ma cô càng lộng hành vì họ được pháp luật bảo hộ. Phụ nữ mại dâm, với “chứng chỉ hành nghề mại dâm” không cải thiện được vị thế, cũng như quyền lực của họ trong quan hệ kinh tế này. Và kết quả là trước đây họ bị bóc lột một cách bất hợp pháp thì giờ đây họ bị bóc lột hợp pháp.

Như vậy, hợp pháp hóa mại dâm tưởng như là cách để bảo vệ quyền của phụ nữ, vô hình chung lại chỉ hợp pháp hóa sự mua dâm của đàn ông. Hơn nữa nó sẽ tăng thêm sức hút, biến nhiều người phụ nữ và trẻ em gái thành nạn nhân của hoạt động buôn bán người, hoặc nô lệ tình dục. Nó hợp pháp hóa sự bất bình đẳng về cơ thể giữa người mua dâm và người bán dâm. Đáng buồn, lợi nhuận thu được sẽ được chia đều cho những người tham gia, thậm chí cho cả nhà nước, và người bị hành hạ trên thân xác của mình, cuối cùng lại là người phụ nữ!

cung cấp thông tin sai lệch, một chiều hoặc thậm chí dối trá để tham gia vào công việc này. Đến khi phát hiện bị lừa thì họ đã bị ràng buộc, kiểm soát, dọa dẫm hoặc thậm chí bạo lực phải phục vụ như nô lệ tình dục.

Việc coi mại dâm là một nghề hợp pháp vì nó đóng góp vào GDP, bảo vệ phụ nữ hành nghề mại dâm khỏi bạo lực và bệnh tật là một lý luận không dựa trên công lý và sự công bằng. Thứ nhất, phải đặt câu hỏi liệu mại dâm có phải là một ngành kinh tế đáng mong đợi hay không? Rõ ràng là không, vì những người phụ nữ tham gia vì không còn lựa chọn nào khác, nên đó là một lựa chọn bắt buộc. Điều này đồng nghĩa họ phải lao động trái với mong muốn của mình. Việc lao động trái với mong muốn của mình, trong chừng mực nào đó đồng nghĩa với nô lệ tình dục. Một ngành kinh tế dựa vào sự chịu đựng của phụ nữ, cũng như sự đối xử mang tính ép buộc của hệ thống là không có đạo đức. Thứ hai, như đã thảo luận ở trên, mại dâm là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em. Nó là một sức hút vô hình, đẩy nhiều con người, đặc biệt những người yếu thế vào con đường cụt, không có tương lai. Thứ ba, mối quan hệ quyền lực giữa phụ nữ bán dâm và nam giới mua dâm là không bao giờ công bằng cho dù mại dâm được hợp pháp hóa. Việc hợp pháp hóa mại dâm chỉ biến những người đàn ông thành những người mua dâm “đàng hoàng và hợp pháp”, và vô hình chung tăng thêm quyền lực cho họ ép buộc và hành hạ tình dục với món hàng của mình. Khi là

52 Bình đẳng giới 53

được nói đến, cho dù đó là một trong những nguyên nhân gốc rễ khởi đầu cho sự lây lan HIV.

Những người đang trong độ tuổi quan hệ tình dục thường có các quan hệ rủi ro cao và không được bảo vệ cho dù họ biết rất rõ về mối hiểm nguy của HIV/AIDS. Điều này là do họ nghĩ chỉ những người “số đen” mới bị dính HIV, còn sự kém may mắn này sẽ không xảy ra với họ. Hiện tượng “định kiến lạc quan” này là do các chiến dịch truyền thông thường gắn HIV với các nhóm có rủi ro cao như mại dâm, ma túy hay nam quan hệ tình dục cùng giới (MSM). Hiển nhiên tôi không thuộc các nhóm trên, không quan hệ với họ nên tôi không thể dính HIV. Đây là hậu quả của sự tự huyễn hoặc, cho rằng mình kiểm soát được tình hình và biết tự bảo vệ mình như thế nào.

Bên cạnh việc coi bản thân mình là “miễn nhiễm” với HIV, nhiều người cũng nghĩ là bạn tình của mình cũng không bị nhiễm, và vì vậy không cần sử dụng bao cao su khi quan hệ. Việc không sử dụng bao cao su như một biểu hiện của lòng chung thủy rất nguy hiểm, vì không ai kiểm soát được các quan hệ tình dục của bạn tình. Nhiều nghiên cứu cho thấy đa số người làm nghề mại dâm không sử dụng bao cao su khi quan hệ với người yêu hoặc bạn tình thường xuyên vì nghĩ rằng những người này không có HIV. Đây cũng là một yếu tố dẫn đến việc lây lan HIV vào các nhóm xã hội khác nhau.

Sự lạc quan chết người và nguy cơ nhiễm HIV cho bất kỳ ai

Đỗ Toàn

Sau nhiều năm chiến đấu, đại dịch HIV đã phần nào bị làm chậm lại, tuy nhiên nó vẫn là một trong những nguy cơ hiện hữu lớn nhất ảnh hưởng đến sinh mạng và sự phát triển của nhiều cá nhân, cộng đồng và quốc gia. Sự lây lan của HIV làm giảm tỉ lệ tăng trưởng kinh tế, suy yếu lực lượng lao động, phá hủy điều kiện sống và thậm chí giảm tuổi thọ trung bình. Tuy nhiên, việc phòng chống HIV ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều khó khăn và trở ngại, đặc biệt trong thay đổi thái độ và hành vi về tình dục.

Nhiều nghiên cứu cho thấy sự lây truyền HIV vẫn tiếp diễn và thậm chí gia tăng ở một số nhóm dân cư do (i) thái độ bất cẩn của người dân đối với tình dục; (ii) thái độ tiêu cực của công chúng với người có HIV, và (iii) sự tiếp cận của người có HIV đối với các dịch vụ xét nghiệm và chăm sóc. Hai vấn đề sau đã được thảo luận và tập trung cải thiện khá nhiều. Tuy nhiên, trở ngại đầu tiên ít khi

54 Bình đẳng giới 55

để thấy hậu quả của bệnh tật đối với sức khỏe và tương lai như thế nào. Bên cạnh đó, cần tiếp xúc với những người có HIV, có thể là công nhân, sinh viên hoặc các ngành nghề khác để thấy rằng ai cũng có thể nhiễm HIV, và thực sự HIV lây qua quan hệ tình dục, chứ không phải lây qua tệ nạn xã hội. Chỉ có như vậy, người dân mới thức tỉnh và hóa giải được “định kiến lạc quan” và thay đổi hành vi tình dục theo hướng an toàn, tự bảo vệ mình tốt hơn.

Do nhiều người nghĩ HIV luôn gắn với tệ nạn xã hội nên họ là những người “không mong muốn của xã hội”, họ xứng đáng với bệnh tật và đau khổ. Điều này dẫn đến định kiến và kỳ thị, làm những người có HIV tự che giấu, xa lánh hoặc không tự bảo vệ mình và bạn tình trong quan hệ tình dục. Sự che giấu này càng làm cho nhóm có HIV trở nên “vô hình”, củng cố thêm quan điểm là chỉ những ai thuộc nhóm nguy cơ cao như mại dâm ma túy mới có HIV. Còn những người “bình thường” khác thì nguy cơ lây nhiễm HIV là rất thấp, trong đó có bản thân mình.

Như vậy, một trong những giải pháp quan trọng là xóa bỏ “định kiến lạc quan” cho rằng mình là người may mắn, kiểm soát được tình hình nên không thể bị lây nhiễm HIV. Thông điệp truyền thông và giáo dục không nên chỉ tập trung vào nhóm có nguy cơ cao tạo cảm giác mình an toàn vì mình không thuộc, hoặc không quan hệ với nhóm đó. Ngược lại, thông điệp truyền thông nên tập trung vào hậu quả của việc nhiễm HIV như sức khỏe, những bất lợi khi bị nhiễm HIV cho bản thân, gia đình cũng như những người thân yêu. Và quan trọng hơn, bất cứ ai cũng có thể bị lây nhiễm HIV vì HIV không gắn với tệ nạn, mà gắn với hành vi quan hệ tình dục không an toàn.

Tuy nhiên, cách làm truyền thông phải tạo ra được sự gợi nhớ và liên tưởng để hình thành thói quen và văn hóa tự bảo vệ mình. Một trong những cách làm hiệu quả, là tạo sự tiếp xúc với bệnh nhân AIDS giai đoạn cuối ở bệnh viện

56 Bình đẳng giới 57

xét sự sống nào đáng sống và sự sống nào không đáng sống, và tiêu chí duy nhất được đặt ra là giới tính của phôi.

Nhiều người cho rằng khi phôi thai còn nhỏ, thường dưới ba tháng tuổi, thì nó chỉ tồn tại như một bộ phận “gắn thêm” vào cơ thể người mẹ, vì phôi ở giai đoạn này chưa có ý thức. Người mẹ có toàn quyền giữ hay loại bỏ nó như mong muốn của mình, giống như họ có muốn cắt bỏ ruột thừa sớm hay không. Tuy nhiên, phôi thai khác với ruột thừa vì phôi là một con người tiềm năng trong tương lai, và như vậy việc phá thai cũng là giết một con người tiềm năng.

Hơn nữa, nếu cho rằng phôi thai là chưa có bản ngã hay bản năng độc lập của mình nên có thể bị loại bỏ, cũng sẽ tương đương với một đứa trẻ dưới ba tuổi, vì dưới ba tuổi trẻ chưa là một người tự do và có bản ngã riêng. Điều này gợi nhớ tới những tội ác của chủ nghĩa Hít Le cho rằng những người khuyết tật và thiểu năng trí tuệ vào hạng “không đáng sống” và giết họ.

Trong những trường hợp có thai ngoài ý muốn, ví dụ như trong những quan hệ tình dục ngoại tình hoặc bị hiếp dâm, thì liệu người phụ nữ có quyền nạo phá thai không? Liệu phôi thai kia có phải là “hàng lậu” vì không dựa trên sự tự nguyện và có thể “hủy bỏ” như hàng cấm nhập vào một quốc gia? Tuy nhiên, nếu cho rằng việc giết một thai nhi vì nó được tạo ra không dựa trên hôn nhân và tình

Phụ nữ có quyền phá thai?Kenly

Phôi thai được hình thành từ khi trứng gặp tinh trùng. Sự hội ngộ này có thể được tạo ra trong quan hệ của các cặp vợ chồng trong hôn nhân, cũng có thể giữa hai người yêu nhau nhưng chưa kết hôn, qua một quan hệ ngoại tình, hoặc thậm chí hiếp dâm. Như vậy, khi nào phụ nữ có quyền quyết định việc giữ hoặc loại bỏ phôi thai trong bụng mình?

Khi phôi sinh ra trong quan hệ yêu đương tự do giữa hai người, gắn bó với nhau trong quan hệ hôn nhân (hoặc không hôn nhân như sống chung không đăng ký, hoặc người mẹ đơn thân), phôi sẽ phát triển, người phụ nữ sẽ sinh hạ, và những đứa trẻ sẽ ra đời. Ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam, do tư tưởng muốn có con trai nối dõi tông đường nhiều bậc cha mẹ lựa chọn giới tính khi sinh.

Việc lựa chọn giới tính khi sinh, ngoài việc dẫn đến sự mất cân bằng giới tính trong dân số, còn kéo theo những vấn đề đạo đức. Rõ ràng, cha mẹ đã cho mình quyền phán

58 Quyền đa dạng giới t ính 59

yêu, thì cũng đồng nghĩa với việc giết một người trưởng thành nếu như anh/chị ta không sinh ra từ tình yêu và trong hôn nhân?

Trên thế giới, nhiều nước quy định việc phá thai chỉ được xảy ra trước 3 tháng tuổi, đơn giản vì sau đó thì nguy hiểm cho tính mạng của người mẹ, chứ không phải là vì sự trưởng thành và phát triển bản năng sống của phôi. Như vậy, việc phá thai phụ thuộc vào việc giảm đau khổ hay tăng hạnh phúc của người mẹ, và như vậy, hạnh phúc của người mẹ lớn hơn và xứng đáng hơn hạnh phúc của thai nhi.

Nếu chỉ dựa vào hạnh phúc hay khổ đau của mình để quyết định người khác nên sống hay chết thì có phần ích kỷ, và phi đạo đức. Thế giới sẽ rơi vào vòng hỗn loạn, vì chắc ai cũng mong một ai đó biến mất khỏi trái đất để mình hạnh phúc hơn.

Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới. Những người theo chủ nghĩa nữ quyền cho rằng “cơ thể của tôi, quyền của tôi” và điều đó dường như đang thắng thế. Nếu trẻ vị thành niên được giáo dục về giới tính và tình dục tốt hơn, chắc sẽ giảm nhiều những dằn vặt của những người trẻ khi phải quyết định, giữ hay bỏ cái thai đang lớn dần trong bụng mình. Và việc tuyên truyền chống lựa chọn thai nhi theo giới tính, bên cạnh lý do mất cân bằng nam nữ, cần có thêm một thông điệp về đạo đức nữa.

Phần II

QUYỀN ĐA DẠNG GIỚI TÍNH

60 Quyền đa dạng giới t ính 61

Thừa nhận cái tôi đồng tínhMạnh Hải

Mỗi con người đều có bản dạng của mình, hiểu đơn giản đó là một cái nhãn mà người ta nhận vào mình và là đại diện cho cái tôi trong một môi trường xã hội cụ thể. Thông thường, bản dạng quy về một vị trí trong phân loại xã hội, ví dụ như người đồng tính, phụ nữ, nam giới, con, cha, mẹ, nông dân hoặc trí thức. Một người có nhiều cái nhãn (bản dạng) khác nhau, ví dụ như vừa là mẹ, vừa là trí thức và vừa là nhân viên văn phòng. Tùy vào bối cảnh cụ thể mà một bản dạng trội hơn, khi đó các bản dạng khác có thể bị rơi vào trạng thái “ngủ”. Khi ở nhà, vai trò làm mẹ hoặc vợ là quan trọng nhất nhưng khi ở văn phòng, bản dạng “nhân viên văn phòng” lại nổi trội. Cái tôi được coi như là tổng hoà của tất cả các bản dạng dù ở trạng thái ngủ hay thức.

Lý thuyết phân đoạn cho rằng quá trình phát triển bản dạng đồng tính bắt đầu khi cá nhân cảm nhận được các cảm giác tình ái hoặc hành vi tình ái đồng tính. Tùy

Sau thế kỷ XX, sau chiến tranh và tiếp tục những khát vọng giàu có, nhân loại bắt đầu quên đi những triết lý thanh sáng của thế kỷ XVII-XVIII, rằng con người nên được thừa nhận “quyền tự nhiên”, nghĩa là được sống bằng những gì “đúng là con người”. Pháp luật phối hợp với định kiến cùng những phương tiện lưu chuyển ác ý của đám đông lại luôn giúp số đông phát tác những ức chế của mình trong cuộc “bạo hành tư tưởng” với thiểu số. Quyền tự nhiên có lẽ đã trở thành “quyền tự nhiên được mọi người thừa nhận”, hoặc không gì cả.

Những người đồng tính trong xã hội Việt Nam, dù đã có khi bứt lên giới hạn của định kiến, vẫn là thiểu số bị lên án-nạn nhân của những định kiến về khuôn dạng giới và sự phù hợp giữa hình dạng và giới tính có sẵn trong truyền thống xã hội. Họ đang lên tiếng, có vẻ cũng hiền lành, như tác giả Mạnh Hải đã nói, về quyền “đa dạng giới tính”. Dĩ nhiên, đó chỉ là một lời kêu gọi, không thể lớn tiếng được trong một xã hội thế này: “ Người đồng tính không cô đơn vì trong xã hội có rất nhiều người đang sống trong vỏ bọc của mình... . Khi định kiến được xóa bỏ, con người được sống là chính mình thì xã hội sẽ có nhiều động lực để phát triển hơn. Quan trọng hơn nữa, sẽ không còn nhiều người phải hối tiếc lúc hấp hối vì đã không thực sự sống đúng bản thân mình...”. Có lẽ, những người đồng tính, trong cuộc đấu tranh vì quyền đa dạng giới tính của mình, sẽ phải nắm chặt tay nhau hơn nếu muốn giành được cuộc sống giới tính mà họ thực sự muốn sống.

62 Quyền đa dạng giới t ính 63

dẫn đến việc chuyển từ “tôi có thể là một người đồng tính” qua việc “tôi là một người đồng tính.” Trong giai đoạn mới này, lòng tự hào về bản dạng đồng tính được phát triển. Người đồng tính tôn vinh sự khác biệt của mình, đồng thời thể hiện sự bực tức với những bất công trong xã hội. Quá trình “come out” được đẩy mạnh với nhiều người xung quanh hơn và và bản dạng này trở nên bền vững.

Trong một thời gian sau khi thừa nhận “tôi là người đồng tính”, bản dạng đồng tính là quan trọng nhất đối với bản thân. Nhưng theo thời gian, sự phân chia thế giới nội tại cũng như niềm tự hào đồng tính và sự bực tức với kỳ thị giảm dần – các khía cạnh đồng tính đã được hoà nhập với cái tôi. Cuối cùng, bản dạng đồng tính không còn là bản dạng quan trọng nhất nữa. Thay vào đó, nó chỉ là một trong rất nhiều bản dạng mà một con người có.

Đây không phải là con đường duy nhất mà tất cả những người đồng tính đi qua trong quá trình phát hiện, tìm hiểu và thừa nhận bản dạng đồng tính của mình. Một số nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng, các giai đoạn có thể được ghép, bỏ qua, hoặc xảy ra đồng thời. Ví dụ, một người chỉ phát hiện ra mình là đồng tính khi có quan hệ cùng giới (tình cờ) với một người khác, hoặc có người thừa nhận mình là đồng tính ngay khi mới phát hiện bản dạng mới mà không cần qua giai đoạn thử nghiệm.

Dù sao con đường thừa nhận cái tôi đồng tính xảy ra như thế nào cũng đều được hình thành và phát triển khi

vào môi trường gia đình, xã hội mà cái tôi hiện tại phản ứng khác nhau với bản dạng mới phát sinh này. Với một số người, cảm giác tình dục đồng giới bị chối bỏ do những lo sợ bị định kiến kỳ thị trong xã hội, hoặc trái với niềm tin tôn giáo và giá trị đạo đức hiện có. Điều này dẫn đến những tổn hại về lòng tự trọng của họ. Những người này có thể phủ nhận hoặc che giấu bản dạng đồng tính của mình và sống một cuộc sống của người dị tính. Có nhiều người không chịu được, hoặc tự kỳ thị mà dẫn đến những hậu quả tâm lý như tự kỷ, sử dụng chất kích thích, chất gây nghiện, thậm chí tự tử.

Phần lớn những người còn lại sẽ chuyển qua giai đoạn kế tiếp: Thử nghiệm bản dạng đồng tính bằng cách trải nghiệm qua các hành vi tình dục và tình cảm với người cùng giới. Các thử nghiệm này được thực hiện nhờ kết nối với cộng đồng người đồng tính. Trong giai đoạn này, các cá nhân có thể cam kết tạm thời với bản dạng đồng tính của mình. Cam kết này ngày càng chắc chắn qua thời gian. Cho dù đồng tính có thể không được cho là bản dạng lý tưởng (so với dị tính) nhưng bản dạng đồng tính vẫn được cá nhân thừa nhận. Có một điều thú vị là dù thừa nhận bản dạng đồng tính của mình, nhiều cá nhân vẫn đánh giá tiêu cực về đồng tính luyến ái, đồng điệu với thái độ xã hội nơi họ sống.

Sau thời gian thử nghiệm, cá nhân thấy thích tiếp xúc và giao lưu với người đồng tính khác, và việc đánh giá về đồng tính luyến ái trở nên tích cực hơn. Giai đoạn này đã

64 Quyền đa dạng giới t ính 65

Khát vọng được là chính mìnhMạnh Hải

Triển lãm “Mở Bằng Yêu” diễn ra ở công viên Vincom Hà Nội từ ngày 28 tháng 12 năm 2012 đến ngày 12 tháng 1 năm 2013 đã thể hiện khát khao của người đồng tính được sống là chính mình. Tác phẩm Mặt nạ khắc họa những người đồng tính phải che giấu xu hướng tình dục của mình bằng cách sống như “một trong số họ”. Là tác phẩm Hạ màn miêu tả cuộc sống tình cảm của người đồng tính, một nửa sống trong bình phong với người khác giới như vợ chồng, một nửa sống thật với người yêu cùng giới. Là tác phẩm Ngã rẽ khắc họa sự bối rối của các bạn trẻ đồng tính khi phải quyết định mình sống thật hay sống như “lẽ thường” đó là lập gia đình, sinh con để cuộc đời bị cầm tù trong chính vỏ bọc của mình.

Những câu chuyện qua ảnh trong triển lãm rung lên một hồi chuông cảnh báo về hậu quả của định kiến và kỳ thị mà người đồng tính, người dị tính và cả xã hội đang gánh chịu. Vì kỳ vọng “trai lớn phải lấy vợ, gái lớn phải gả

giao tiếp với người xung quanh trong môi trường mình sinh sống. Chính vì vậy, quá trình hình thành bản dạng đồng tính bị ảnh hưởng sâu sắc bởi môi trường xã hội và gia đình. Nếu xã hội kỳ thị và hiểu sai về đồng tính sẽ làm cho người đồng tính khó khăn thừa nhận bản dạng của mình hơn. Nếu xã hội bao dung, có kiến thức đúng thì sẽ giúp người đồng tính không tự kỳ thị, dễ dàng hội nhập bản dạng đồng tính vào cái tôi chung, một cái tôi tự trọng và tự do để cùng phát triển.

66 Quyền đa dạng giới t ính 67

thường cho dù lẽ thường đi ngược lại tự do cá nhân và tinh thần sáng tạo. Đây chính là những hậu quả tai hại của định kiến và kỳ thị vì chúng tạo ra các rào cản ngăn sự phát triển của xã hội. Định kiến không phải tự nhiên mà có, nó được học ở gia đình, nhà trường và cộng đồng. Khi con người bị áp đặt suy nghĩ một chiều và né tránh phản biện họ dễ dàng có thái độ tiêu cực với những khác biệt. Họ luôn coi những gì mình có là đúng, là chuẩn để phán xét và kỳ thị người khác. Những định kiến kỳ thị này thường dựa trên những khác biệt về giới tính, xu hướng tính dục, bản dạng giới, tình trạng cơ thể, sắc tộc, vùng miền, tuổi tác, tư tưởng hoặc niềm tin tôn giáo.

Như vậy người đồng tính chỉ là một trong những nạn nhân của định kiến kỳ thị xã hội. Họ sống trong vỏ bọc vì xã hội đang mong họ sống thuận theo số đông. Triển lãm “Mở Bằng Yêu” là những bước đầu tiên để người đồng tính bước ra ánh sáng, sống là chính mình và gỡ bỏ những vỏ bọc ngăn cản hạnh phúc con người. Những người đi tiên phong có thể gặp phải sự phản đối, kỳ thị thậm chí là đánh đập vì họ thách thức những định chuẩn truyền thống. Tuy nhiên, họ là những người mở đường cho xã hội làm quen với sự khác biệt, dần chấp nhận sự đa dạng về tình dục để những người đồng tính có thể yêu nhau và chung sống với nhau. Khi người đồng tính được sống thật là chính mình, hạnh phúc chỉ tăng lên vì không còn người dị tính phải làm bình phong và không còn những gia đình đổ vỡ vì hôn nhân giả dối.

chồng” mà các bậc cha mẹ thường ép buộc con em mình phải lập gia đình. Họ không biết có từ 3% đến 5% người đồng tính không tuân theo “lẽ thường” đó. Những con em đồng tính không muốn lập gia đình với người khác giới. Họ yêu và muốn lập gia đình với những người cùng giới. Điều này vẫn khó chấp nhận trong một xã hội còn coi hôn nhân là để duy trì nòi giống và gia đình “lý tưởng” phải có đủ cha mẹ, con trai và con gái. Những khác biệt bị coi là “lệch chuẩn” và bị kỳ thị. Đó là lý do người đồng tính phải lấy người khác giới tạo ra các “tổ lạnh” nơi tất cả mọi người là nạn nhân của định kiến xã hội.

Câu chuyện của người đồng tính không phải là riêng lẻ cá biệt. Trong cuộc sống, có rất nhiều người không dám sống thật là mình, nói điều mình nghĩ và làm điều mình muốn làm. Những khuôn mẫu, chuẩn mực hoặc truyền thống lễ giáo trói buộc con người, làm họ phải sống vì ý muốn của người khác hơn là hạnh phúc cá nhân. Nhiều người phụ nữ góa chồng khi còn trẻ nhưng không dám đi bước nữa vì xã hội muốn họ “thủ tiết” không tái giá. Nhiều người khuyết tật không dám yêu, hoặc nghĩ đến hôn nhân vì xã hội cho rằng khuyết tật thì “sống được là may lắm rồi, có lập gia đình sinh con đẻ cái đâu mà yêu đương gì.” Những chuẩn mực này hạn chế lựa chọn, tự do và hạnh phúc của nhiều người.

Một xã hội không tôn trọng sự đa dạng thì con người thường khép mình, không dám đưa ra những giải pháp khác biệt hoặc ý kiến trái chiều. Họ thường thuận theo lẽ

68 Quyền đa dạng giới t ính 69

Điều hối tiếc nhấtMạnh Hải

Từ ngày 28 tháng 12 năm 2012 đến ngày 12 tháng 1 năm 2013 ở công viên Vincom Hà Nội có một triển lãm ảnh đặc biệt, triển lãm “Mở Bằng Yêu”. Đây là một triển lãm nói về những trăn trở, bối rối của người đồng tính khi phát hiện ra sự khác lạ của mình. Thay vì yêu người khác giới họ yêu người cùng giới. Điều bình thường tự nhiên này bỗng trở thành bất thường vì khi mới chào đời họ đã được sinh ra trong một gia đình dị tính, có cha và có mẹ. Khi lớn lên, họ được học hành trong một môi trường dị tính nơi “trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng.” Chính vì vậy, việc sống là chính mình trở nên vô cùng khó khăn vì xung quanh họ có biết bao quy tắc chuẩn mực về giới mà họ phải tuân thủ. Sống là chính mình và yêu người mình yêu là hành trình phá vỡ quy luật xã hội. Đa phần trong số họ sống trong vỏ bọc, lấy người khác giới và chối bỏ bản thân mình.

Điều này gợi nhớ đến câu chuyện của một nữ y tá người Úc chuyên chăm sóc những người sắp chết. Cô đã

Như vậy, thừa nhận sự đa dạng không những giúp con người chui ra khỏi những vỏ bọc, sống cuộc sống có ý nghĩa của chính mình, thừa nhận sự đa dạng còn tạo ra động lực cho phát triển. Khi mỗi người tự do suy nghĩ và tự do đưa ra ý kiến và tự do thể hiện mình là khi sự sáng tạo được hình thành, đem lại phát triển cho xã hội và hạnh phúc cho mỗi người.

70 Quyền đa dạng giới t ính 71

Trong một xã hội đa dạng với vô vàn khác biệt việc con người đối xử với nhau và với sự khác biệt như thế nào vô cùng quan trọng. Nếu xã hội nhìn sự khác biệt một cách khắt khe và dùng tiêu chuẩn của mình để phán xét thì con người sẽ cố gắng chui vào khuôn mẫu cho yên thân. Nếu xã hội coi sự khác biệt là tự nhiên, là sự đa dạng của cuộc sống thì con người sẽ được tự do thể hiện bản thân và sống thật là mình.

Người đồng tính không cô đơn vì trong xã hội có rất nhiều người đang sống trong vỏ bọc của mình. Nhiều người Thanh Hóa, Nghệ An ra Hà Nội phải giả giọng Bắc vì họ biết quê hương họ được dán những cái nhãn tiêu cực như “cục bộ”, “ăn rau má phá đường tàu” hay “dân cá gỗ”. Nhiều người dân tộc thiểu số đang học hoặc công tác ở Hà Nội cũng không dám thể hiện mình vì người dân tộc là “lạc hậu, ngố, dễ bị lừa”. Chính những định kiến xã hội đã làm cho con người không dám sống là chính mình, phải giống với mọi người để có cảm giác yên bình.

Trong triển lãm “Mở Bằng Yêu” cũng có những bức ảnh khắc họa tình yêu của người đồng tính. Đây là sự dũng cảm bước ra ánh sáng để gửi cho xã hội một lời nhắn nhủ thật đơn giản “chúng tôi cũng là con người và tình yêu của chúng tôi cũng giống tình yêu của các bạn. Yêu là yêu và tất cả mọi người đều có quyền yêu vì tình yêu không phân biệt giới tính”. Người đi xem triển lãm có thể cảm nhận được thông điệp này và đối xử với tình yêu cùng giới nhân văn

đã ghi lại những hối tiếc thường thấy nhất ở những người đang hấp hối và câu nói “tôi ước mình có đủ dũng cảm để sống một cuộc sống thật sự với bản thân chứ không phải cuộc sống theo mọi người mong muốn” được lặp lại nhiều nhất. Có lẽ, nhiều người đồng tính chia sẻ điều hối tiếc này vì đã là con người ai cũng ước ao có được tự do. Mà tự do thực sự chỉ có được khi mình sống là chính mình, không lừa dối, không sợ hãi và không phải tạo vỏ bọc cho mình.

Như vậy, người đồng tính có lỗi không? Câu trả lời thật không đơn giản vì sinh ra là con trai hay con gái họ được rèn luyện, uốn nắn và mong đợi sống theo hình mẫu của “Adam và Eva.” Là đàn ông họ phải mạnh mẽ, quyết đoán và không được thể hiện cảm xúc của mình. Họ phải “chuẩn men” phải ga lăng và tất nhiên nếu có nhiều chiến công chinh phục các cô gái thì càng tốt. Là phụ nữ, họ phải dịu dàng, khéo léo và giỏi việc nội trợ bếp núc, có những khao khát tình cảm hay tình dục họ cũng phải ý tứ kìm nén kẻo bị đánh giá là “mê trai.” Chính những khuôn mẫu này đã đúc ra một thế giới nhị nguyên với hai phái nam và nữ gắn liền với nam tính và nữ tính. Những sự khác biệt trở thành dị biệt và bị kỳ thị trong xã hội. Các chàng trai chỉ cần có chút nữ tính hay các cô gái có chút nam tính đã bị coi là lệch chuẩn và cần phải uốn nắn. Nếu đàn ông mà lại yêu đàn ông, đàn bà mà lại yêu đàn bà thì rõ ràng là bất bình thường và cần loại bỏ. Chính thái độ này đã làm cho người đồng tính phải che giấu và không dám sống thật với bản thân.

72 Bên kia giới t ính 73

hơn, bình đẳng hơn. Sâu hơn nữa, họ có thể suy ngẫm để thấy rằng những khác biệt về giới tính, về xu hướng tính dục, dân tộc, vùng miền hay tình trạng thân thể chỉ là sự đa dạng của cuộc sống. Khi định kiến được xóa bỏ, con người được sống là chính mình thì xã hội sẽ có nhiều động lực để phát triển hơn. Quan trọng hơn nữa, sẽ không còn nhiều người phải hối tiếc lúc hấp hối vì đã không thực sự sống đúng bản thân mình.

Phần III

BÊN KIA GIỚI TÍNH

74 Bên kia giới t ính 75

được chỉ ra, chúng ta cần nhìn thấy rằng trong tâm thức xã hội bắt đầu “ám ảnh” và “ức chế” đối với người đồng tính. Theo một nghĩa khác, đạo đức đã trở thành “bệnh tật của tâm thần” - có lẽ vì đạo đức mà đa số đang lưu giữ bắt đầu có nét quá khích và phi lý trí, vì chúng là những định kiến không bị thách thức? Như các tác giả kêu gọi, có lẽ, đã đến lúc lòng vị tha và thông cảm giữa con người và của con người với nhau lên tiếng - đã đến lúc chúng ta nhìn lại xem những gì ta kì thị là gì và vì gì? Đó mới chính là nỗ lực xây dựng một xã hội đức lý hơn.

Trong thế kỷ XX, xã hội nhân loại đã chứng kiến những khu vực của đời sống hòa với nhau làm một đến mức không thể tách bạch rõ ràng: tâm lý - xã hội - kinh tế - chính trị... Nhưng cũng chính thế kỷ XX đã bắt đầu cuộc xô đẩy những giới hạn của giới và giới tính: các phong trào nam nữ bình quyền và quyền đồng tính chính là biểu hiện cho xu hướng ấy.

Cuộc cách mạng tình dục đã kích thích cuộc khai sáng màn đêm giới tính. Con người hiện đại đã bắt đầu phải nhận ra những điều nhiều hơn định kiến của mình: đồng tính có chính đáng không, và, chúng ta có nên chống lại đồng tính không? Trong khi tính chính đáng của “đồng tính” vừa nổi lên trong mọi diễn đàn tranh luận cho và của người đồng tính; thì “nỗi sợ hãi đồng tính” cộng hưởng với “bạo lực tượng trưng” của định kiến có vẻ lại trở thành một xu hướng của đa số xã hội.

Những bức thư của người đồng tính trong chương này phần nào đó có thể làm chúng ta suy nghĩ về tâm trạng rất-con-người của họ, thay vì lập tức xem họ là những kẻ lạc lối. Rốt cuộc, những gì là tự nhiên trong con người có nên được thừa nhận không, hay cần chờ đợi người ta thảo luận xem cái gì là tự nhiên và không tự nhiên, hoặc chúng ta viện dẫn đến một tự nhiên phù hợp với con người? Nên lắng nghe con người hay lắng nghe định kiến?

Các tác giả cũng viện dẫn đến khoa học và lập luận cho tính chính đáng của đồng tính, cùng những quyền đồng tính, quyền hôn nhân và nuôi con... Nhưng hơn thế nữa, như

76 Bên kia giới t ính 77

của mẹ và niềm kiêu hãnh của cha quan trọng hơn tất cả. Con hiểu rằng mình cần phải thay đổi, vì lẽ thường con phải yêu con trai.

Con đau khổ nhìn người yêu đau khổ. Chúng con chia tay vì con không thể là chính mình. Vì cha mẹ con phải sống dối mình. Con trầm lặng, chịu đựng một mình để vượt qua đau khổ. Có lẽ, chưa bao giờ con thấy mình đơn độc đến thế. Mẹ vẫn yêu con, vẫn lo lắng. Nhưng sao con không còn vô tư để dỗi hờn. Mẹ có hỏi nhưng con mỉm cười lau mắt. Chuyện của tuổi dậy thì, chắc mẹ cũng hiểu đúng không?

Con đơn độc ngay chính trong gia đình mình. Bao nhiêu điều con không thể nói. Chỉ biết rằng cuộc đời con như con thuyền vô bến, cứ trôi nhưng chẳng rõ đến phương trời nào. Mẹ đã từng là bến đậu của con, trong những lúc giận hờn, mệt mỏi hay đơn giản vì con muốn thế. Nhưng giờ đây sao con thấy chơi vơi, ngay những lúc ngả đầu trên vai mẹ. Con biết rằng mẹ đang hạnh phúc, vẽ lên tương lai tươi sáng cho con. Còn con vẫn đang phải dối lòng mình.

Tình yêu là điều kỳ diệu, nhưng tình yêu với con như một trái cấm. Con vụng trộm, con dối lòng, con thất bại, con đau khổ nhưng mẹ không thể là chỗ con có thể dựa vào. Những lúc con muốn ôm bờ vai của mẹ nhất, là những lúc con phải trốn chạy xa mẹ nhất. Hằng đêm ôm gối, con thẫn thờ ngắm vầng trăng khuyết. Cuộc đời con

Con ước gì nói với mẹ sớm hơn!Kenly

Khi con chào đời mẹ mong con khôn lớn để sau này thành giáo viên hay bác sĩ. Mẹ mong con giúp ích cho đời và làm rạng danh gia đình và dòng họ. Mẹ chăm con, nuôi con và truyền ước mơ cho con. Con lớn khôn tự nhiên như bầu sữa mẹ, như tình mẹ dành cho con.

Rồi một ngày con thấy mình khác lạ. Con khác những điều được học, được nghe và được sống. Thay vì yêu con trai như những đứa bạn gái cùng lớp, con lại yêu một người con gái giống mình. Con lo sợ tột cùng vì tình cảm trong con là bất thường. Con không biết bấu víu vào đâu vì đây là điều mẹ chưa từng nói. Mẹ chưa từng nói con có thể yêu một người con gái khác.

Con thấy người ta nói đồng tính là bệnh hoạn, là bất bình thường. Đồng tính là tệ nạn hay nguy hại cho nòi giống. Con cũng thấy vậy vì dường như con là người duy nhất trên đời yêu người cùng giới. Con hận mình, con thương mẹ và con lo sợ cho gia đình. Với con, hạnh phúc

78 Bên kia giới t ính 79

hòa vào nhau như ngày con còn bú mẹ. Và nước mắt của mẹ đã làm con thức tỉnh để yêu chính mình, vì mẹ muốn con yêu người con yêu.

Con hối tiếc những ngày tháng qua con đã quá lo sợ phải giấu mình. Con đã không tin mẹ có thể yêu con người thật của con. Nếu con có thể nói với mẹ sớm hơn thì cả nhà ta không phải sống trong thời gian dài đau khổ. Giờ con hiểu tình mẹ con luôn là chỗ dựa, cho mẹ và cho con. Con yêu mẹ!

chắc mãi khuyết như trăng, vì tình yêu của mình chẳng bao giờ vẹn tròn.

Gần đây con chợt thấy mẹ hay thở dài khi đưa con đến lớp. Dường như mẹ hay mệt mỏi hơn thời gian trước. Mẹ thường nhìn con rất lâu và ôm ghì con những khi nằm nghe tiếng mưa trên mái. Con cựa mình vì sợ rằng mẹ sẽ biết tình cảm thật của con. Những lúc như thế, mẹ chỉ lặng lẽ nhìn con bước vào phòng của mình. Từ bao giờ, căn phòng trên gác đã thành vỏ ốc, bảo vệ, ngăn cách và kiểm soát những sóng gió trong con người con.

Con mở cửa bước vào phòng mình, nặng nề như những đêm dài khó ngủ. Bật đèn thấy trên giường một phong thư màu hồng, đặt ngay ngắn trên gối với dòng chữ “Gửi con gái yêu của mẹ”. Đọc từng dòng chữ nhảy múa mà con thấy mình ngạt thở. Nước mắt con trào ra khi mẹ viết “dù con là ai, yêu ai, con vẫn luôn là con gái yêu của mẹ!” Con òa khóc lao xuống nhà và đã thấy mẹ đứng ngoài cửa. Mẹ ôm con vào lòng như bao lần trước. Con thấy sao thân thương và quen thuộc. Hơi ấm của mẹ đã làm lặng đi từng cơn run trong người con. Mẹ biết con rồi mà sao con còn phải giấu? Điều gì đã ngăn cản để con không nói cho mẹ sớm hơn?

Con chợt nhận ra mẹ vẫn luôn là mẹ. Mẹ vẫn luôn hiểu được niềm vui và nỗi buồn của con. Con đã từng nghĩ giấu mẹ vì con yêu mẹ. Nhưng với mẹ, hạnh phúc của con mới là hạnh phúc thật sự của mẹ. Nước mắt hai mẹ con

80 Bên kia giới t ính 81

con tập nói, tập bò, tập đi, mẹ luôn bên cạnh con, nâng đỡ con dậy mỗi khi con té ngã. Ở bên mẹ con thật hạnh phúc biết bao. Ngày đầu tiên đi học, mẹ cũng dắt tay con vào lớp. Thời gian trôi qua thật nhanh cấp 1, cấp 2, rồi cấp 3... mẹ luôn bên cạnh khuyên bảo những lúc con gặp khó khăn. Mẹ đối với con là một vĩ nhân, là hình tượng cho con học hỏi. Rồi con cũng vào đại học. Mẹ luôn đặt vào con niềm hy vọng nhỏ nhoi, đó là mong con được thành tài, có sự nghiệp, mong con có được gia đình hạnh phúc. Con biết chứ, cha mẹ nào mà chả mong con cái được như thế. Con yêu mẹ nhiều lắm.

Nhưng cuộc sống thật khắc nghiệt. Con sinh ra không giống như bao thằng con trai khác, con sinh ra trong sự trớ trêu của tạo hóa. Mẹ ơi, CON LÀ GAY… con không thích con gái, con chỉ thích nhìn con trai. Mẹ ơi, con xin lỗi. Ngay từ lớp 1 con đã cảm thấy mình có gì đó không ổn, rồi đến năm lớp 7 con đã biết yêu, mẹ còn nhớ Huy Vũ không? Đó là người đã làm con phải biết bao lần say đắm, mẹ có còn nhớ là con đã nhiều lần nói với mẹ về nó không? Lúc đó con cũng chẳng biết mình là ai nữa. Rồi năm lớp 10 con cũng đã từng mến Trọng, nhưng sau đó con đã nhận ra mình là ai và biết được rằng thế giới này không dành cho con. Thật sự là cấp 3 con đã yêu, yêu nhiều lắm nhưng con chỉ yêu con trai. Đã có lúc con thử với con gái nhưng tất cả chỉ là giả tạo, đó không phải là yêu, đó chỉ là lừa dối chính bản thân mình. Mẹ ơi, con xin lỗi.

Mẹ ơi, con xin lỗi!Teddy1

Hôm nay là lần đầu tiên con viết thư cho mẹ. Con cũng không dám nghĩ là nó lại khó khăn đến như vậy. Khó để nói lên những tâm sự con giấu bấy lâu, khó để làm cho mẹ hiểu được những gì con đã trải qua…

Mẹ biết không, khi con vừa cất tiếng khóc chào đời thì người đầu tiên ôm con vào lòng, người đầu tiên cho con tình thương là mẹ. Mẹ đã cho con cuộc sống. Rồi đến khi

1. Diễn Ngôn xin đăng lá thư của Teddy gửi cho mẹ Ly vào năm 2009, sau nhiều năm chịu đựng sự hiểu sai và ép buộc thay đổi xu hướng tính dục của mình bởi gia đình. Chính lá thư này đã làm mẹ Ly thức tỉnh và nhận ra những sai lầm của mình trong việc ép buộc và ngăn cản việc Teddy được là chính mình. Mẹ Ly giờ không những ủng hộ và yêu thương Teddy, mà còn tham gia vận động nhà nước và xã hội thay đổi, bảo vệ quyền bình đẳng của Teddy và những người bạn đồng tính, song tính và chuyển giới của con mình. Thư này đã được TS. Hoàng Văn Tú, phó viện trưởng Viện nghiên cứu Lập pháp (ILS) của Ủy ban thường vụ Quốc hội đọc trong cuộc hội thảo “Người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT): Những quy định pháp luật và quan điểm của cộng đồng” ở Hà Nội cho các đại biểu quốc hội ngày 10 tháng 5 năm 2013, do Viện iSEE và ILS tổ chức.

82 Bên kia giới t ính 83

đời của chính họ. Bế tắc trong cuộc sống, sự cô đơn trong trái tim và sự căm ghét, không chấp nhận của gia đình đã đẩy họ vào bước đường cùng… tự tử, đó là cách đơn giản nhất để không còn đau khổ cũng như không còn làm cho gia đình cảm thấy bị sỉ nhục. Con đã mất đi mấy đứa bạn chỉ vì thế.

Mẹ, con yêu người ấy nhiều lắm, nhưng càng yêu con càng cảm thấy đau đớn hơn. Vì mẹ, con không muốn làm mẹ phải khóc vì con nữa. Con tự hỏi rằng nếu con không được sinh ra thì mẹ sẽ không bao giờ đau khổ, không bao giờ phải buồn vì con. Phải chi con có thêm thằng anh hay đứa em trai thì con cũng không phải dằn vặt chính bản thân mình như thế, mẹ chỉ tống cổ con ra đường và coi như con không tồn tại, đằng này con lại là con một, là cháu đích tôn. Mẹ ơi con xin lỗi. Con biết là con sẽ xuống âm ty, con sẽ bị đày ngàn kiếp vì tội bất hiếu nhưng con vẫn chỉ muốn mẹ sống vui và hạnh phúc mà thôi. Mẹ ơi con xin lỗi.

Mẹ đừng đưa con đi bác sĩ tâm lý nữa vì người ta đã chứng minh đây không phải bị tâm lý mà. Con cũng không phải bị sinh lý. Mẹ hãy cho con biết con nên làm gì. Con chỉ xin mẹ nếu như mẹ còn coi con là con của mẹ thì mẹ hãy chấp nhận con người này của con, hoặc là nếu mẹ không thể thì con van xin hãy cho con thêm một năm nữa để con tốt nghiệp ra trường, sau lúc ấy con sẽ đi khỏi đây mãi mãi để không phải là nỗi ô nhục của mẹ. Con sẽ làm việc để cố

Con biết là bây giờ mẹ đang khóc, khóc nhiều lắm nhưng con cũng rất đau khổ khi viết thư cho mẹ. Con không bao giờ dám nói với mẹ điều này. Con nhìn bề ngoài thì vui vẻ nhưng con sống bằng nội tâm, bằng chính cái ngoài lạc (quan) trong bi. Cái ngày mà mẹ biết con như vậy, mẹ đã khóc, khóc nhiều lắm, con tim con như nhói đau, con chỉ muốn mình chết đi để không làm mẹ phải đau khổ như vậy. Con đã hứa là sẽ sửa nhưng như vậy chả khác gì làm sắt biến thành vàng. Mọi điều con cứ giữ trong lòng. Mẹ có biết hằng đêm con đã khóc nhiều lắm, con khóc vì mẹ, con khóc vì sự tủi thân, vì sự cô đơn trong chính trái tim, con chỉ muốn mình không còn trên đời này nữa.

Mẹ ơi, con xin lỗi. Con biết là mẹ khóc, con cũng đang khóc. Cuộc sống đầy rẫy sự bế tắc. Nếu con bị bại liệt thì mẹ cũng vẫn thương con, nếu con bị câm điếc thì mẹ vẫn thương con, nhưng con là gay thì đó là một sự sỉ nhục cho cả dòng họ, một tên tội đồ. Ước gì con chết ngay từ khi mới lọt lòng để mẹ không phải có đứa con như vậy, ước gì con là một người bình thường… Nhưng trớ trêu, tại sao con phải lọt vào 3% của dân số, tại sao con lại yêu con trai. Mẹ ơi, đừng tự dằn vặt mẹ, mẹ không có lỗi khi sinh ra con, chính tạo hóa đã sinh ra con như thế. Nếu con ở Iran thì có lẽ con đã bị treo cổ vì tội là người đồng tính. Nhưng có lẽ chết đi vẫn là cách tốt nhất để không phải đau khổ.

Con đã gặp rất nhiều người giống con, ai ai cũng có tâm sự như vậy. Gia đình là nỗi buồn lớn nhất trong cuộc

84 Bên kia giới t ính 85

con người, dù là một bộ phận nhỏ. Con không phải do tiếp xúc với ai mà bị, gay không phải là bệnh, chỉ là con sinh ra từ bé đã vậy rồi. Con là con trai, nhưng con khác một thằng con trai khác là con lại thích con trai. Các nước phương Tây phát triển hơn Việt Nam mình nhiều lắm, họ đã chấp nhận điều đó, tại sao mẹ lại vướng vào tư tưởng Nho giáo vậy. Con có thể có gia đình hạnh phúc, con có thể có con nuôi hoặc là con sinh hộ, đó vẫn là gia đình mà thôi. Xin mẹ đừng ép con phải làm những điều con không thể. Mẹ sinh con ra mẹ muốn con hạnh phúc, con hạnh phúc khi con ở cạnh người con yêu, con không thể có hạnh phúc khi nhắm mắt cố gắng giả tạo để yêu một người con gái được. Mẹ có muốn nhìn thấy con mẹ mãi mãi không có hạnh phúc.

Con muốn tâm sự với mẹ nhiều nhiều lắm về tình cảm, nhưng con không thể, vì mẹ sẽ không bao giờ chấp nhận. Mọi việc con đành phải giữ nó trong lòng, lủi thủi làm một mình. Con có thể tâm sự với mẹ về việc học, bạn bè nhưng có lẽ tình cảm thì con cũng chẳng thể hy vọng được. Tại sao mẹ phải xấu hổ với mọi người, con có giết người đâu, con có trộm cắp đâu, con là một con người có chí hướng, có suy nghĩ, con chẳng mong mẹ tự hào vì con, vì con nghĩ mẹ sẽ không có đủ can đảm để làm vậy, mẹ sẽ không che chở con như mẹ thường làm. Rồi cũng sẽ mình con phải đương đầu với sóng gió phía trước, dù đau lắm nhưng con phải cố gắng thôi. Con luôn mơ ước con được

gắng báo đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ. Con sẽ đi đến nơi xa xôi và đó là hình phạt cao nhất, bởi vì con sẽ khóc, khóc vì nhớ mẹ, khóc vì mình là kẻ đáng chết. Mẹ ơi, con yêu mẹ nhiều lắm.

Con đang khóc nhưng con biết khóc cũng chả ích gì, bởi vì con là gay. Cuộc sống không chấp nhận con, gia đình không châp nhận con. Dù con có ở bên cạnh người ấy con cũng sẽ mãi không bao giờ được hạnh phúc. Con không thể cưới một cô gái để rồi cô ta phải đau khổ vì con. Con cũng không thể cưới một thằng con trai để rồi mẹ phải dằn vặt bản thân. Cuộc sống, tương lai đã đến ngõ cùng, bế tắc. Xin mẹ, hãy để con đi, để cho con chết đi cũng được. Hằng đêm khi đối mặt với chính mình, con đã khóc nhiều lắm, con hận chính bản thân, con hận ông trời tại sao lại sinh con ra như thế. Con cũng không bao giờ hy vọng là mẹ có thể chấp nhận con như một thằng bạn con đã được mẹ nó chấp nhận, bởi vì con hiểu sự kỳ vọng mẹ đặt vào con. Nhưng mẹ ơi, con xin lỗi.

Mẹ của con, đây không phải là điều trái tự nhiên, tại sao người ta rẽ phải được mà con rẽ trái không được. Con không làm gì nên tội lỗi, con không làm gì sai trái với đạo đức con người mà. Mẹ ơi, Đức Phật không bao giờ ghét con, Người luôn răn dạy con dù thế nào cũng phải làm người tốt. Chỉ vì con sinh ra ở một đất nước mang nặng tư tưởng Nho giáo, mẹ có thấy biết bao nhiêu đất nước đã công nhận hôn nhân đồng tính, bởi vì đó là nhu cầu của

86 Bên kia giới t ính 87

Thức tỉnh để đón cầu vồngSáu Sắc

“Em vừa mới công khai với ba mẹ em là người đồng tính!” Đó là câu nói tôi nghe không dưới 1 lần mỗi tháng, trong suốt gần hai năm qua. Thời gian đầu, tôi cảm thấy rất ngạc nhiên về sự dũng cảm của những người bạn trẻ này. Tôi nhớ lại chỉ khoảng 5 năm trước đây, hầu hết trường hợp là bị gia đình phát hiện, không một người đồng tính nào lại chủ động đi công khai xu hướng tính dục của mình cả. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi. Họ có kế hoạch để công khai, và họ dám thực hiện nó.

Điều gì đã xảy ra? “Người đồng tính cũng có quyền như tất cả mọi

người khác!” Câu nói đó gần như tôi đọc được hàng ngày khi lướt trên các trang mạng xã hội cập nhật tin tức về LGBT (LGBT: viết tắt tiếng Anh của “người đồng tính, song tính và chuyển giới”). Câu nói như đã trở thành một lời tuyên ngôn luôn sẵn sàng để được cất lên. Ngày càng nhiều người nói về “quyền” và cảm nhận nó một cách gần gũi, sâu sắc hơn. Mà nếu lùi thời gian về vài năm trước thôi, chúng ta chỉ có thể nghe những câu dạng như “người

sống chung với bố mẹ cùng với người con yêu trong một căn nhà, nhưng con nghĩ đó vẫn chỉ là ước mơ. Nên có lẽ con sẽ ra đi mẹ à, ít ra để mẹ không cảm thấy đau khổ khi nhìn thấy tụi con. Nếu buồn mẹ hãy gọi cho bà Trẻ Thục, có lẽ bà biết khuyên mẹ ra sao… Con yêu mẹ!

Con bây giờ cũng chẳng biết tương lai sẽ ra sao. Do mẹ quyết định cả, nhưng con đã sẵn sàng tất cả… Dù điều gì đến, dù con sắp phải đi xa, con cũng chỉ muốn nói với mẹ rằng: “CON YÊU BỐ MẸ NHIỀU LẮM!!!”……. Mẹ ơi, con xin lỗi!

Con trai của mẹ,Teddy

88 Bên kia giới t ính 89

khắc nghiệt. Năm 2002, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội kêu gọi đưa đồng tính vào “tệ nạn xã hội.” Năm 2004, chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội phát biểu về đồng tính là “tư tưởng nó bệnh hoạn, (...) dẫn đến hành động cũng bệnh hoạn” và “cần tập trung cho công tác tuyên truyền giáo dục hơn là luật hóa nó.”

Rồi những tổ chức, hội nhóm đại diện cho người LGBT đi vào hoạt động trong thực tế, thể hiện một hình ảnh tích cực, tươi sáng và đầy tự hào. Nhiều người giật mình khi thấy người bạn thân thiết của mình công khai là người đồng tính, khi thấy người đồng nghiệp giỏi giang của mình công khai là người đồng tính, khi thấy người thân yêu trong gia đình mình công khai là người đồng tính. Họ sửng sốt, ngạc nhiên, tự vấn. “Đây là trào lưu hay là dịch bệnh?” Và rồi họ nhận ra đồng tính là một hiện thực của mọi lúc, mọi nơi.

Bây giờ, 11 năm sau lời kêu gọi xem đồng tính như tệ nạn xã hội, 9 năm sau đề nghị “giáo dục nam nữ thanh niên không nên đồng tính”, năm 2013, chắc chắn một điều rằng hiện nay không một cán bộ, nhà khoa học nào có thể dám tự tin nói những lời tương tự như thế. Những người phản đối tự biết rằng ý kiến của mình là lạc hậu. Những người ủng hộ không sợ rằng ý kiến của mình là lập dị. Những tiêu chuẩn, giá trị mới được xác lập.

Không ai có thể ngờ trong vòng chỉ một thập kỷ, từ việc phủ bỏ quyền của người LGBT, Việt Nam đã đưa chủ đề đồng tính lên bàn nghị sự, và thật sự thảo luận nghiêm

đồng tính nên được xã hội chấp nhận và cảm thông.” Sự “ban phát” dành cho người đồng tính đã chuyển sang đòi hỏi về sự “công bằng” cho tất cả.

Điều gì đã xảy ra?Có lẽ vì người đồng tính Việt Nam đang thức tỉnh.

Trước hết là thức tỉnh trong chính cơn mê của mình. Đã một thời gian dài người đồng tính chìm sâu trong những kiến thức sai lệch về chính mình tràn lan trong xã hội, và tắm mình bằng chính những định kiến, kỳ thị. Một anh lớn tuổi nói với tôi “Thời đó, bọn anh không thể trả lời được chính mình, không biết gọi mình là gì. Cứ thế sống trong im lặng.” Rồi anh mơ màng nhớ về những buổi nằm ngủ trưa cùng “người thương” ở đống rơm khô trong làng, rất nhiều những câu chuyện tình lãng mạn khác, nhưng điểm chung là không hề có điểm đến, khi cả hai không biết mình là ai và đang làm gì. Đó cũng là lịch sử.

Internet vào Việt Nam thực sự là một bước ngoặt thay đổi sâu sắc đến từng người đồng tính. Dẫu cho thông tin thời gian đầu vẫn còn rất nhiễu loạn, nhưng ít nhất họ biết rằng mình “tồn tại” và mình “bình thường.” Một sự thật tưởng như hiển nhiên mới được khám phá ra. Rồi những cộng đồng đồng tính trên internet xuất hiện từ khoảng những năm 2001, trở thành không gian an toàn và riêng tư để mọi người tìm hiểu và kết nối với nhau.

Có hiện diện thì sẽ có phản đối. Sự phản đối đồng tính thời gian đầu diễn ra không nhiều, nhưng vô cùng

90 Bên kia giới t ính 91

Khát vọng được là chính mình và sự đảo lộn của giá trị đạo đức

Mạnh Hải

“Em muốn được phẫu thuật rồi cho em sống một giờ thôi em cũng chịu. Chỉ cần chết trong thân xác của một người phụ nữ”. Đây là tâm sự của một người chuyển giới từ nam sang nữ. Một người sinh ra với cơ thể hoàn thiện là nam giới, nhưng luôn nghĩ và khát khao trở thành một người phụ nữ. Chính vì nghĩ mình là nữ nên họ ăn mặc đồ nữ, độn ngực, để tóc dài, và có cử chỉ điệu bộ như một người nữ. Có người tiến hành tiêm hóc môn và phẫu thuật, để có thân hình trùng khớp với tâm hồn phụ nữ của mình.

Khát khao được sống là chính mình của người chuyển giới rất mạnh mẽ. Mặc những định kiến, kỳ thị, phân biệt đối xử, thậm chí là bạo lực trong xã hội, người chuyển giới vẫn sống thật là chính mình. Nhiều người bị bạn bè bắt nạt, khinh bỉ thậm chí cô lập ở trường học, phải bỏ học. Họ đánh mất ước mơ trở thành kỹ sư, bác sĩ, hay luật

túc về nó. Quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới được công nhận là quyền con người và cần phải bảo vệ bởi pháp luật.

Xã hội đã được lay tỉnh nhưng người đồng tính không thể tiếp tục ngủ vùi trong “thiên thời, địa lợi” đó. Người đồng tính nhận ra mình chỉ có thể thanh thản khi mình thành thật. Thành thật làm cuộc sống đơn giản và rõ ràng hơn. Thành thật làm con người mạnh mẽ hơn. Việc giấu kín bí mật trong lòng không làm bất kỳ điều gì tốt lên.

Và rồi khi người đồng tính bước ra ánh sáng, những bí mật biến mất, họ trở thành người tự do, sống cuộc đời của chính mình. Công khai, sống thật trở thành tiêu chuẩn của người đồng tính thời đại. Ngọn cờ cầu vồng đã cuốn đi những bóng tối, sợ hãi trong từng người, trở thành biểu tượng tự hào và đa dạng, dẫn dắt người LGBT trên con đường tìm kiếm sự bình đẳng cho tất cả mọi người.

Một linh cảm nào đó khiến tôi hay gọi 2012 là “Year One” (Năm Một), vì tôi tin nó thật sự là khởi đầu chính thức cho phong trào quyền LGBT tại Việt Nam. Từ đây, LGBT Việt Nam có một diện mạo mới: Tự tin, tự hào, tài giỏi, khéo léo.

Không lâu nữa, khi nhìn lại khoảng thời gian trước đây, chắc hẳn chúng ta sẽ phải tự hỏi tại sao đã từng có thời mình phải ngồi im đầy sợ hãi trong bóng tối như vậy. Con đường đi ngập tràn ánh sáng, không phải bởi mặt trời, mà bởi chúng ta đã dám mở mắt ra để nhìn nó.

92 Bên kia giới t ính 93

Tại sao, một người chỉ vì muốn sống là chính mình lại bị đối xử tàn tệ như vậy? Họ không làm hại ai, không trộm cắp của ai, và không đe dọa sự phát triển của ai, mà sao bị hắt hủi và xa lánh? Phải chăng, sống thật là mình trở nên khó được chấp nhận trong xã hội Việt Nam đến vậy?

Tại sao những quan chức tham nhũng, lợi dụng chức quyền, và sơ hở của pháp luật để thu vén quyền lợi riêng tư, không bị xã hội, gia đình và trường học kỳ thị hoặc lên án? Họ dùng thu nhập bất chính để hưởng lạc trong nhà cao cửa rộng, đi xe sang và gửi con đi du học nhưng vẫn được kính trọng. Phải chăng, việc thể hiện giới không theo chuẩn mực gây hại cho những người xung quanh, cho gia đình và xã hội hơn những kẽ tham nhũng, đục khoét của công?

Tại sao những người bán thực phẩm bẩn, ngâm hóa chất gây ung thư và bệnh tật cho nhân dân không bị kỳ thị hoặc lên án? Họ đầu độc khách hàng, những người nuôi sống gia đình mình, mà vẫn sống nhởn nhơ. Phải chăng hành vi độn ngực, để tóc dài của người chuyển giới nguy hại hơn sự hủy hoại nòi giống dân tộc của những kẻ vì lợi ích riêng mà hy sinh sức khỏe của cộng đồng?

Dường như xã hội đang có sự đảo ngược về giá trị. Những người chuyển giới chỉ muốn sống thật với con người mình thì bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Những kẻ lừa dối, đục khoét và gây hại cho cộng đồng thì vẫn

sư khi còn rất trẻ. Nhiều người bị đánh đập, xích, nhốt bởi chính cha mẹ và gia đình, dẫn đến việc bỏ nhà đi bụi như một giải pháp giải thoát, trở thành trẻ em đường phố. Nhiều người không chịu được bạo lực, kỳ thị phải quyên sinh. Các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ tự tử trong cộng đồng người chuyển giới rất cao, thậm chí cả chục lần so với tỉ lệ tự tử trung bình của dân số.

Có nhiều nguyên nhân khác nhau liên quan đến sự kỳ thị với người chuyển giới. Có lẽ, đầu tiên là do người Việt Nam quá tuân thủ những giá trị gọi là nam tính, nữ tính. Xã hội Nho giáo mong đợi “nam phải ra nam, nữ phải ra nữ”, có nghĩa người đàn ông phải thể hiện được sự mạnh mẽ, ga lăng và xốc vác của phái nam; người phụ nữ phải thể hiện được sự dịu dàng, thu vén, và khéo léo của phái nữ. Chính vì vậy, khi người chuyển giới đi ngược lại khuôn mẫu giới này, họ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của gia đình, xã hội và nhà trường.

Bên cạnh đó, nhiều người không hiểu, cho rằng chuyển giới là trào lưu, đua đòi và tập nhiễm của giới trẻ. Họ cổ vũ cho sự cấm đoán, ngăn cản và điều chỉnh buộc trẻ thể hiện đúng với giới tính sinh học của mình. Điều này thật ngây thơ vì không ai lại chịu đau đớn về thể xác do phải tiêm hóc môn và phẫu thuật, buồn tủi về tâm hồn do sự dè bỉu của xã hội, chỉ để theo phong trào “chuyển giới hóa”. Hãy thử tưởng tượng phải tự chặt một ngón tay để theo phong trào “tay thiếu ngón” thì có mấy người dám làm?

94 Bên kia giới t ính 95

Vài lời với cha mẹ có con là đồng tínhMariam kaufinan1

Khi cha mẹ biết con có quan hệ cùng giới, câu hỏi bật ra đầu tiên đó là “làm sao có thể biết con tôi thực sự đồng tính?”. Điều này thể hiện việc các bậc cha mẹ thường chối bỏ và hy vọng mong manh con mình chỉ “đua đòi” hoặc “thử nghiệm” chứ không phải là “đồng tính thật”. Tất nhiên, “không có bài thử tâm lý hoặc vật lý nào để nói rằng một người vị thành niên (hoặc bất kỳ ai) là đồng tính.” Các bác sĩ cũng như cha mẹ không cần phải “xét nghiệm” xu hướng tính dục đồng giới của trẻ vị thành niên. Trẻ vị thành niên có thể nhận ra cậu ấy là người đồng tính, và không thể và không nên “hướng” cậu ấy đến xu hướng tính dục khác. Tiếp theo, cha mẹ thường có câu hỏi “tại sao con tôi là đồng tính? Có phải lỗi tại tôi? Có phải con tôi đã là đồng tính và sẽ luôn là đồng tính?”

1. Mariam Kaufinan là Tiến sĩ, bác sĩ làm việc ở khoa chăm sóc trẻ vị thành niên, Bệnh viện Nhi Toronto. Ông cũng là giáo sư giảng dạy ở Khoa nhi, Đại học Toronto.

sống nhởn nhơ, thậm chí được đối xử thành kính. Đã đến lúc chúng ta cần lấy giá trị nhân bản, nhân quyền và công lý để bày tỏ thái độ của mình. Đừng chỉ vì khác biệt với khuôn mẫu định sẵn mà đối xử bất công với người chuyển giới.

96 Bên kia giới t ính 97

Roesler và Deisher cho thấy 38% trẻ vị thành niên đồng tính nam đã ít nhất có một lần cố tự kết liễu đời mình. Các hành vi tự tử này thường theo sau một giai đoạn bão tố về tình cảm hoặc thể chất gây ra bởi bạn bè hoặc gia đình khi biết rằng họ là đồng tính. Hành vi tự tử cũng có thể là kết quả của nhiều năm nghe các câu truyện tiếu lâm về đồng tính và tự ứng vào bản thân mình dẫn đến giảm lòng tự trọng. Báo cáo năm 1989 của Nhóm công tác của Bộ trưởng Bộ Y tế Hoa Kỳ về hành vi tự tử ở tuổi trẻ đã cho thấy có đến 30% trẻ vị thành niên tự kết liễu đời mình là đồng tính.

Các áp lực này có thể dẫn đến việc sử dụng chất gây nghiện. Có tới 30% người đồng tính trẻ có vấn đề với thuốc gây nghiện hoặc rượu. Trẻ đồng tính thường trải qua bạo lực nhiều hơn trẻ dị tính. Martin và Hetrick thấy rằng 40% trẻ học ở trường Harvey Milk (trường trung học cho người đồng tính ở New York) đã từng bị tấn công vì xu hướng tính dục đồng tính của mình. Gần một nửa bị lạm dụng bởi các thành viên trong gia đình. Cha mẹ có thể làm giảm nguy cơ bạo lực bằng cách đảm bảo nó không xảy ra trong gia đình nhưng nó vẫn xảy ra ở ngoài xã hội.

Ngày nay, HIV/AIDS là điều đầu tiên cha mẹ nghĩ đến khi biết con mình là đồng tính. Là đồng tính không có nghĩa là đưa đến cho đứa trẻ bệnh lây qua đường tình dục (STDs) hay HIV. Tuy nhiên, các hành vi tình dục như

Khoa học chưa khẳng định được nguyên nhân quyết định xu hướng tính dục, cho cả dị tính luyến ái và đồng tính luyến ái. Có hàng núi bằng chứng về ảnh hưởng của gen và di truyền lên xu hướng tính dục. Lý thuyết về nguyên nhân sinh học của xu hướng tính dục đồng giới được thể hiện mạnh nhất trong nghiên cứu của các cặp sinh đôi cùng trứng. Nhưng điều mà chúng ta biết rõ là cha mẹ không “gây” ra xu hướng tính dục. Điều tra rộng lớn của Bell, Weinberg, và Hammersmith vào năm 1981 đã phủ định lý thuyết cho rằng xã hội hoặc tâm lý là nguyên nhân của xu hướng tính dục đồng giới. Rõ ràng, cha mẹ không đóng vai trò gì trong việc hình thành xu hướng tính dục của con.

Cha mẹ thường lo lắng xem đồng tính “có ảnh hưởng đến sức khỏe của con tôi và có biện pháp bảo vệ gì không?”. Tất nhiên, bản thân đồng tính không ảnh hưởng gì đến sức khỏe. Có một vài rủi ro gắn với một vài hành vi tình dục và bản dạng đồng tính trong một xã hội căm ghét người đồng tính. Thái độ kỳ thị đồng tính trong xã hội dẫn đến nhiều rủi ro. Sự căm ghét đồng tính – một nỗi sợ hãi phi lý đồng tính khá phổ biến trong văn hóa đã dẫn đến bệnh tật hoặc cái chết của nhiều người trẻ đồng tính. Sự căm ghét đồng tính trong xã hội dẫn đến sự tự căm ghét bản thân và điều này gây ra lòng tự trọng thấp cũng như các hậu quả của nó.

Một trong những nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng nhất ở trẻ vị thành niên đồng tính là tự tử. Nghiên cứu của

98 Bên kia giới t ính 99

hối hận về sau. Hội cha mẹ và bạn bè của người đồng tính (PFLAG) rất hữu ích trong việc cung cấp thông tin và hình mẫu để cha mẹ tự hào về con và chấp nhận xu hướng tính dục của nó. Chính vì vậy, ngoài việc thừa nhận con là đồng tính cha mẹ nên tham gia PLFAG và các hoạt động xã hội để bảo vệ con mình một cách tốt nhất.

quan hệ qua đường hậu môn không dùng bao cao su, đặc biệt với nhiều bạn tình sẽ làm tăng nguy cơ lây nhiễm bệnh lậu, giang mai, viêm gan, và các bệnh đường ruột khác. Phải biết rằng sự lây nhiễm HIV được giảm rất đáng kể khi sử dụng bao cao su. Một trẻ vị thành niên sẽ quan hệ tình dục an toàn nếu có lòng tự trọng cao và sự tự chấp nhận bản thân mình. Một người mà cảm thấy mình thật tồi tệ thì thường không quan tâm đến việc tự bảo vệ cho bản thân mình. Cũng nên biết, các hành vi tình dục của đồng tính nữ có nguy cơ lây nhiễm STDs thấp hơn phụ nữ dị tính.

Nguy cơ lây nhiễm STDs và HIV cũng tăng do sự thiếu hiểu biết về việc thiết lập quan hệ yêu đương. Những người trẻ tuổi đồng tính phải tìm sự giúp đỡ thường thiếu những kỹ năng xã hội cơ bản như làm sao có thể hẹn hò, làm gì trong buổi hẹn hò, làm sao tiến tới quan hệ tình dục. Họ thường thiên về việc quan hệ tình dục với người lạ, không chọn lọc hoặc là quan hệ tình dục không an toàn. Họ cần có cơ hội để giao lưu trong cách thông thường với những trẻ đồng tính khác. Các thành phố lớn có các tổ chức dành cho các bạn trẻ đồng tính để cung cấp nơi an toàn cho giao lưu, nhưng ở các thị xã lẻ thì trẻ đồng tính thường bị cô lập hơn.

Như vậy, điều quan trọng là bố mẹ phải hiểu rằng con mình vẫn là nó như trước khi biết nó là đồng tính. Cha mẹ nên bình tĩnh và suy nghĩ trước khi hành động để tránh

100 Bên kia giới t ính 101

Chủ nghĩa độc tôn dị tính

Sự bảo hộ đặc quyền dị tính

Chứng ghê sợ đồng tính

Định chuẩn hóa dị tínhHệ nhị

nguyên giới

Nói một cách ngắn gọn, chủ nghĩa độc tôn dị tính là hệ thống những quan điểm để bảo vệ cho tính dục khác giới, bao gồm ba thành tố cơ bản. Thứ nhất là quan điểm mặc định mọi người đều là dị tính. Thứ hai là quan điểm cho rằng dị tính là ưu việt hơn, xem những gì ngoài dị tính đều là thấp kém hơn; và cuối cùng tiến tới chối bỏ, tạo sự thiên vị, phân biệt đối xử với những thiểu số tính dục khác.

Như nhiều người vẫn hay nói, xã hội mà chúng ta đang sống là một “xã hội dị tính.” Và sống trong xã hội dị tính đó, các quan điểm về tính dục khác giới chiếm ưu thế. Đôi khi, những quan điểm đó được dùng để biện minh cho sự bất bình đẳng đối với người đồng tính, song tính, chuyển giới hay các xu hướng, bản dạng khác.

Điều cần nhấn mạnh, chủ nghĩa độc tôn dị tính không chỉ là sản phẩm của những người dị tính. Nhiều người LGBT cũng thừa nhận và tuân theo hệ thống quan

Chủ nghĩa độc tôn dị tínhSáu sắc

Chủ nghĩa độc tôn dị tính (heterosexism) là khái niệm lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1971 bởi Craig Rodwell, một nhà hoạt động đồng tính. Vì không phải là thuật ngữ khoa học mà là thuật ngữ ra đời bởi phong trào vận động quyền đồng tính, song tính và chuyển giới (“LGBT”), nên mỗi nhà hoạt động cũng có những cách sử dụng khác nhau của mình.

Chủ nghĩa độc tôn dị tính có liên hệ mật thiết với nhiều khái niệm khác, đặc biệt là “chứng ghê sợ đồng tính” (homophobia). Nếu ví chủ nghĩa độc tôn dị tính là một cái bánh, có thể tạm hình dung chiếc bánh đó có các lớp như sau:

102 Bên kia giới t ính 103

Một ví dụ khác là nếu một người dị tính trước kia từng thích người cùng giới, thì người ta nghĩ rằng đó chỉ là nhất thời, chưa xác định rõ, không thể chắc chắn họ là người đồng tính. Nhưng nếu một người đồng tính mà đã từng thích một người khác giới, thì người ta sẽ nói ngay “đấy, ngày trước nó vẫn thích người khác giới mà!” và nghĩ rằng họ không thể là người đồng tính. Đây cũng là lỗi rất nhiều nhà tư vấn tâm lý hay mắc phải.

Nhiều phụ huynh khi biết con mình là người đồng tính thường liên tục đặt nghi vấn: Con mình đang có chuyện gì buồn, con mình dạo này quan hệ bạn bè với ai để “tập nhiễm” chăng, mình đã làm gì sai... để cố gắng chối bỏ việc con mình là người đồng tính.

Nhiều chuyên viên tư vấn tâm lý khi nhận được câu hỏi “em có phải là người đồng tính” thường “trấn an” ngay khách hàng bằng một loạt lời khuyên: có thể em còn nhỏ nên chưa xác định rõ, có thể em đang ở giai đoạn bối rối, có thể em chưa tiếp xúc nhiều với người khác giới, có thể đó chỉ là cảm xúc nhất thời... chỉ nhằm giảm xuống mức thấp nhất khả năng khách hàng có thể là người đồng tính. Và thường chỉ chốt lại “nhưng nếu trong trường hợp không mong muốn nhất, em là người đồng tính thì cũng đừng mặc cảm...”

Như vậy, việc ngầm định tất cả mọi người là dị tính và tối thiểu hóa khả năng một người không phải là dị tính nhiều khi là một quá trình vô thức. Nó xuất phát từ quan điểm lưỡng nguyên cho rằng chỉ có hai giới nam và nữ, nữ

điểm này. Hệ quả là họ trở nên mặc cảm, chối bỏ bản thân, chối bỏ bản dạng, hạ thấp lòng tự tôn, tự kỳ thị cùng nhiều vấn đề khác.

Người đồng tính có thể là bất kỳ aiNhư vậy, vấn đề dường như xuất phát từ việc xã hội

thường mặc định mọi người đều là dị tính để áp đặt giá trị dị tính. Quan điểm mặc định mọi người là dị tính thể hiện ở hai điểm, thứ nhất nó làm ẩn đi việc một người có thể là người đồng tính, và thứ hai là giảm thiểu tối đa khả năng một người là người đồng tính.

Làm ẩn đi việc một người có thể là người đồng tính có nghĩa là mỗi người đều đặt ra những mong đợi định trước cho việc thế nào là một người nữ, một người nam. Cụ thể, nếu một người có giới tính sinh học là nữ, người đó sẽ được mong đợi để phải nghĩ mình là nữ giới, yêu nam giới và thể hiện một cách nữ tính. Có nghĩa là khi gặp một người nữ, người ta thường hỏi ngay “đã có bạn trai chưa”, tương tự sẽ hỏi “bạn có bạn gái chưa” khi gặp một người nam. Việc “làm ẩn” một người có thể là người đồng tính đôi khi không phải là một sự cố ý, mà nó đã hằn sâu vào trong hệ thống quan điểm của từng người.

Việc giảm thiểu tối đa khả năng một người là người đồng tính có thể dẫn tới việc chối bỏ sự tồn tại của người đồng tính, hoặc né tránh hết mức việc một người có thể là người đồng tính.

104 Bên kia giới t ính 105

Gỡ nhãn cho đồng tínhMạnh Hải

Trong bài “chủ nghĩa độc tôn dị tính” người viết phân tích về quan điểm mặc định xem mọi người đều là người dị tính do hậu quả của hệ nhị phân về giới tính sinh học gây ra. Nếu chỉ dừng lại ở đó thì chủ nghĩa độc tôn dị tính sẽ không có ảnh hưởng gì lớn. Nhưng trên thực tế sự định chuẩn hóa dẫn đến áp đặt các giá trị đúng-sai, ưu việt-thấp kém vào tính dục của mỗi con người.

Và tất nhiên, chủ nghĩa độc tôn dị tính cho rằng dị tính là ưu việt hơn, những gì ngoài dị tính là thấp kém hơn. Quan điểm này biểu hiện ở một số điểm như lấy dị tính làm chuẩn mực và gắn đồng tính, song tính với những đặc tính xấu.

Từ những ví dụ rất nhỏ như cách gọi tên “trai xịn”, “trai 100%” hay “người bình thường” để nói về người dị tính, chúng ta ngầm hiểu như vậy người đồng tính là không “xịn”, không “100%” và không “bình thường.”

Hay một ví dụ khác, câu hỏi mà nhiều bậc phụ huynh hay đặt ra “mày có muốn lấy sợ, sinh con, lập gia đình như

phải yêu nam và nam phải yêu nữ. Việc này vô hình chung đã “chuẩn hóa dị tính” và coi những khác biệt tính dục là khác thường, là không mong đợi hoặc thậm chí ghê sợ. Từ đó đưa ra những thể chế để bảo hộ sự độc tôn dị tính. Đây chính là cội nguồn của những kỳ thị và phân biệt đối xử với người đồng tính, song tính và chuyển giới.

Để giải quyết vấn đề, có lẽ nên bắt đầu bằng việc xóa bỏ mặc định cho rằng người thân, bạn bè, đồng nghiệp hoặc bất kỳ ai đó là dị tính; và người đồng tính có thể là bất kỳ ai xung quanh chúng ta.

106 Bên kia giới t ính 107

Còn nếu người đồng tính chia tay nhau, thì đó là vì bản chất người đồng tính không thể yêu nhau lâu bền được.”

Trên báo chí và xã hội việc gắn đồng tính với tội phạm cũng khá phổ biến với hàm ý cho rằng nếu người dị tính giết người cướp của, thì đó là vì lòng tham và tội lỗi của cá nhân họ. Còn nếu người đồng tính giết người cướp của, thì đó là vì cộng đồng người đồng tính hay phạm tội.

Thậm chí, trong những vụ án, nếu người đồng tính là thủ phạm, thì đó là một yếu tố “tăng nặng”, còn nếu người đồng tính là nạn nhân, thì đó là hậu quả do “lối sống” của họ. Trong nhiều trường hợp, thủ phạm (là người dị tính) thậm chí còn lợi dụng điều đó, xoáy sâu, mặc sức thóa mạ nạn nhân để biện hộ cho mình. Còn nạn nhân (là người đồng tính) thì không dám lên tiếng.

Nếu một người đồng tính thử có trải nghiệm dị tính (quen với người khác giới) thì được xem là rất tốt, được khuyến khích để làm việc đó. Nhưng nếu một người dị tính có trải nghiệm đồng tính (quen với người cùng giới) thì lập tức bị xem là không tốt, phải chấm dứt ngay. Dị tính ưu việt và đồng tính thấp kém chính là vì vậy.

Quan điểm này là nguyên nhân gây ra định kiến và phân biệt đối xử đối với người đồng tính, song tính và chuyển giới. Như vậy, ngoài việc không nên ngầm định mọi người đều là dị tính hãy dừng dán những nhãn tiêu cực cho người đồng tính vì xu hướng tính dục không quyết định tính cách của một con người!

bao người con trai khác không?” thường làm bối rối những người con đồng tính. Nhiều bạn đồng tính “sập bẫy” này và trả lời “Con cũng muốn lắm nhưng không thể được.”

Một cuộc sống dị tính điển hình được đưa ra để làm chuẩn mực áp đặt lên mọi người. Thật ra, người con hoàn toàn có thể trả lời “Con muốn được là chính mình, được yêu người mình yêu, được kết hôn và xây dựng gia đình với người đó.” Khi đó, rõ ràng dị tính không còn là “chuẩn mực duy nhất” nữa.

Việc gắn đồng tính, song tính với những đặc tính xấu cũng khá phổ biến với những câu thường nghe như “Đồng tính nam là do tập nhiễm, a dua, đua đòi, theo phong trào,” “Đồng tính nữ là do chán ghét đàn ông, do thất bại trong tình cảm,” hoặc “Người song tính là người hay lăng nhăng, không chung thủy, không dứt khoát.”

Khi xã hội cố gắn ghép LGBT với những đặc tính xấu, và luôn “săm soi” vào những đặc tính đó sẽ gây ra định kiến và kỳ thị. Tất nhiên, khi nói “người đồng tính là người bình thường” có nghĩa là người đồng tính cũng có những đặc tính tốt và xấu như bất kỳ ai khác. Thế nhưng, quan điểm cho rằng dị tính là ưu việt hơn luôn có xu hướng bôi tất cả những điều tiêu cực vào hình ảnh của người đồng tính, song tính.

Xuất phát từ quan điểm trên mà có những diễn giải mang tính “bêu xấu” người đồng tính như nếu người dị tính chia tay nhau, thì đó là vì tình cảm của họ không còn.

108 Bên kia giới t ính 109

giới trong nhà trường, tiểu thuyết, phim ảnh. Được phổ biến những kiến thức về dị tính mà không bị xem là đang “tuyên truyền” cho dị tính. Được kết hôn với người mà bạn yêu và nuôi nấng, dạy dỗ con cái mà không bị người ngoài đánh giá về khả năng làm cha mẹ của bạn.

Từ những đặc quyền dị tính này, xã hội tiến thêm một bước bằng việc bảo hộ cho những đặc quyền đó bằng pháp luật, bằng những thiết chế mang tên “đạo đức”, “văn hóa” và “truyền thống”. Trong đó, pháp luật là công cụ trực tiếp và có tính bắt buộc nhất nhằm tôn vinh chủ nghĩa độc tôn dị tính; hay nói cách khác, để phân biệt đối xử với người đồng tính.

Những giá trị thuộc về “đạo đức”, “văn hóa” hay “truyền thống” thường rất mơ hồ để xác định ranh giới giữa thế nào là “đạo đức” hay “phi đạo đức”, “truyền thống” hay “ngược với truyền thống.” Và những giá trị này cũng thay đổi rất nhanh chóng chứ không hề đứng yên như nhiều người nghĩ. Có một câu nói, khi bạn viện dẫn cho lý do “truyền thống”, có nghĩa là bạn chẳng còn lý do nào khác nữa.

Tuy nhiên có tính chất mạnh mẽ hơn, là pháp luật. Bằng pháp luật, xã hội nhấn mạnh vào việc định nghĩa thế nào là chuẩn mực cư xử, hành vi của con người.

Pháp luật bắt đầu can thiệp vào hôn nhân, định nghĩa hôn nhân là giữa một nam và một nữ. Ở một số nơi, người đồng tính bị cấm kết hôn, bị cấm hiến máu, bị cấm nhận

Đặc quyền ủng hộ đồng tínhSáu Sắc

Việc ngầm định mọi người đều là dị tính và gắn những thuộc tính tiêu cực cho đồng tính đã mở đường cho việc tạo thiên vị, phân biệt đối xử với người đồng tính nói riêng và những thiểu số tính dục nói chung. Nói cách khác, đây chính là cơ sở để xã hội xác lập ra những đặc quyền dị tính.

Đặc quyền dị tính nói một cách ngắn gọn là những quyền, những việc mà người dị tính có thể thoải mái thực hiện mà không lo sợ sẽ bị kỳ thị hay phân biệt đối xử. Điều này có thể là việc thoải mái thể hiện tình cảm ở nơi công cộng, hoặc công khai mối quan hệ yêu đương với gia đình. Thoải mái nói về người yêu, dự định hôn nhân khi đi xin việc mà không lo sẽ bị kỳ thị. Được đánh giá việc học tập, làm việc bằng năng lực chứ không tập trung vào tính dục. Hay thậm chí, “ủng hộ cho người đồng tính” cũng là một đặc quyền của người dị tính.

Đặc quyền dị tính còn được ghi nhận rõ ràng hơn trong xã hội như được thấy những hình mẫu cặp đôi khác

110 Bên kia giới t ính 111

gần gũi hàng ngày: cách chúng ta gọi tên người đồng tính, cách chúng ta nghĩ về họ với tư cách là một con người, cách chúng ta đặt câu hỏi tại sao chúng ta được làm điều này còn người đồng tính thì không.

Hãy lên tiếng để mọi người đều có phẩm giá đáng được tôn trọng như nhau, và được hưởng những quyền giống nhau. Khi đó, bạn đã thoát khỏi là nạn nhân của chủ nghĩa độc tôn dị tính!

con nuôi, bị cấm gia nhập quân đội, thậm chí bị cấm công khai mình là người đồng tính.

Người đồng tính không được nằm trong phạm vi của các luật chống kỳ thị và phân biệt đối xử. Tệ hơn nữa, một số quốc gia (chủ yếu là Hồi giáo và châu Phi) còn tội phạm hóa đồng tính. Một số bang của Mỹ hoặc của Úc còn duy trì cái gọi là “phòng vệ đồng tính chính đáng”, có nghĩa là bạn có quyền “hoảng loạn và giết chết người đồng tính nếu họ có tình ý với bạn”, và điều đó được gọi là “phòng vệ đồng tính chính đáng.”

Pháp luật, vốn được xem là chuẩn mực xử sự trong xã hội, ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhận thức của mọi người. Và khi chủ nghĩa độc tôn dị tính càng được pháp luật bảo hộ, chính người dân sẽ trở thành nạn nhân của nó. Định kiến càng được khắc sâu, phân biệt đối xử diễn ra càng tinh vi.

Aristotle, triết gia Hy Lạp cổ đại, từng nói: “Hình thái tồi tệ nhất của sự bất công là biến những thứ bất bình đẳng thành những thứ bình đẳng.” Khi người ta xem sự bất bình đẳng giữa người đồng tính và dị tính là những điều bình thường, thậm chí là cần thiết cho xã hội, thì nghĩa là sự bất công vẫn còn được cổ vũ, và định kiến, kỳ thị vẫn còn sẽ lan tràn khắp nơi.

Chủ nghĩa độc tôn dị tính, đứng từ góc độ nào đó chỉ là một tên gọi để góp nhặt lại những bất công đang diễn ra hàng ngày. Điều mà chúng ta cần thay đổi, không phải là một hệ thống gì đó quá to lớn hay xa vời, mà là những gì rất

112 Bên kia giới t ính 113

với người “thành phố.” “Nhà quê” đi liền với những thuộc tính như “ngố”, “lạc hậu” hay “nghèo” đối lập với thành phố “văn minh,” “sành điệu” hoặc “giàu có.” Tương tự như vậy, một người có HIV chỉ khác một điều duy nhất là họ có virut HIV trong người, nhưng cái nhãn người có HIV được gắn với “tệ nạn xã hội” hoặc “không mại dâm thì cũng ma túy”. Những cái nhãn tiêu cực nhằm hạ thấp giá trị của những nhóm thiểu số hoặc yếu thế và trở thành cơ sở để tạo ra sự kỳ thị hoặc phân biệt đối xử.

Như vậy, kỳ thị là hiện tượng mà một cá nhân (hoặc một nhóm người) có những thuộc tính khác biệt và không được chấp nhận bởi các nhóm xã hội thường là đa số và thống trị. Theo Parker và Aggleton kỳ thị đã được sử dụng để chuyển sự khác biệt thành sự bất công - bao gồm sự bất công dựa trên các khía cạnh như giới, độ tuổi, xu hướng tính dục, giai cấp, chủng tộc hoặc niềm tin tôn giáo - và như vậy cho phép một vài nhóm hạ thấp giá trị của các nhóm khác dựa trên cơ sở của những khác biệt đó.

Ở Việt Nam, một trong những đối tượng đang bị kỳ thị là người đồng tính vì khác biệt trong xu hướng tính dục của mình. Người đồng tính bị gắn cho những cái nhãn như “bất thường”, “bệnh”, “ẻo lả”, “đua đòi”, “chỉ quan tâm đến tình dục”, “không có khả năng nuôi con.” Tùy vào mỗi hoàn cảnh, người đồng tính có thể phải đối mặt với những cấp độ kỳ thị khác nhau, từ chế nhạo (95% người đồng tính đã từng nghe nói đồng tính là bất bình thường

Bạn kỳ thị đồng tính ở mức độ nào?Mạnh Hải

Chúng ta là mỗi cá thể khác biệt nhưng chúng ta đều là con người. Chúng ta sống trong một thế giới bị chia cắt bởi niềm tin tôn giáo, sắc tộc, hệ thống chính trị, giới tính, xu hướng tính dục hay địa vị xã hội. Sự khác biệt này là khách quan nhưng thái độ đối xử với sự khác biệt này thì lại rất chủ quan.

Trong cuộc sống chúng ta luôn có những so sánh để nhận ra sự giống nhau hay khác nhau. Tôi là người miền Nam anh là người miền Bắc, tôi quê xứ Thanh chị gốc Hà Nội, tôi người nhà nước chị làm tự do, tôi theo đạo thiên chúa anh theo đạo phật. Những so sánh này là tự nhiên vì để nhận thức thế giới con người cần những khuôn mẫu. Tuy nhiên, những khuôn mẫu này thường dẫn đến định kiến về những khác biệt của cuộc sống. Và sự định kiến thường bắt đầu bằng những cái “nhãn.”

Khi một người có xuất thân từ nông thôn, một cái nhãn “nhà quê” ngay lập tức được sử dụng để phân biệt

114 Bên kia giới t ính 115

Mức thứ ba là chịu đựng, cho đồng tính chỉ là một giai đoạn phát triển và mọi người sẽ vượt qua. Vì thế người đồng tính nên được đối xử như người chưa chín chắn và không nên giao quyền hạn cho họ. Giải pháp là phải giáo dục và uốn nắn để họ trở lại bình thường, đặc biệt ở giai đoạn dậy thì ban đầu.

Thứ tư là chấp nhận và hỗ trợ, coi đó là việc của người đồng tính không liên quan đến mình. Những người này có thể không thoải mái với đồng tính nhưng họ nhận thức được sự bất bình đẳng và tôn trọng quyền của mọi người, trong đó có quyền của người đồng tính.

Thứ năm là thừa nhận, cho rằng người đồng tính đóng góp cho sự lớn mạnh của xã hội. Những người này thực sự kiểm soát thái độ kỳ thị đồng tính của họ và đánh giá cao sự đa dạng của con người và xem đồng tính như một phần của sự đa dạng đó. Những người này sẵn sàng chống lại thái độ ghê sợ đồng tính trong họ và trong người khác, trân trọng và mến phục người đồng tính và sẵn sàng là đồng minh và ủng hộ quyền bình đẳng cho người đồng tính.

Như vậy, để tăng cường số người thừa nhận, cần phải gỡ những cái nhãn sai và tiêu cực đang gắn cho đồng tính. Phải hiểu người đồng tính cũng giống người dị tính, chỉ khác duy nhất là thay vì yêu người khác giới họ yêu người cùng giới. Khác biệt này không ảnh hưởng đến đạo đức, trí tuệ cũng như tính cách của người đồng tính. Có như vậy chúng ta mới tránh khỏi những định kiến và kỳ thị. Và

và bị dè bỉu), xa lánh (20% người đồng tính đã bị mất bạn khi bị phát hiện là người đồng tính), phân biệt đối xử (hơn 6% người đồng tính bị đuổi việc hoặc 4% bị mất chỗ ở vì là đồng tính), tấn công/đánh đập (15% người đồng tính bị chửu mắng, đánh đập bởi gia đình) [theo nghiên cứu của Viện iSEE].

Có nhiều nguyên nhân kỳ thị khác nhau, nhưng chủ yếu do hiểu sai về đồng tính, trải nghiệm về sự đa dạng cuộc sống chưa cao, và do văn hóa Nho giáo lấy độc tôn dị tính làm chuẩn. Để giảm thiểu kỳ thị, người dân cần phải nhận thức được định kiến mình đang có, từ đó quản lý nó và dần dần xóa bỏ nó. Trong tâm lý học, kỳ thị đồng tính được phân ra nhiều nấc bậc khác nhau, tùy thuộc vào mức độ ghê sợ đồng tính.

Mức thứ nhất là kinh sợ, cho rằng đồng tính là tội lỗi trái với tự nhiên. Người đồng tính là bệnh hoạn, điên khùng, không có đạo đức. Thay đổi đồng tính là cần thiết, và cần sử dụng nhà tù, bệnh viện, liệu pháp tâm lý. Đây thường là những suy nghĩ cực đoan, tồn tại nhiều trong xã hội khắt khe về tôn giáo hoặc không coi trọng quyền con người.

Mức thứ hai là thương hại, vì coi dị tính ưu việt, chín chắn và tốt hơn đồng tính. Những người này tỏ ra thương cảm cho sự không may mắn của người đồng tính nên bất cứ có cơ hội để biến người đồng tính thành dị tính đều nên làm.

116 Bên kia giới t ính 117

Một tư tưởng nguy hiểm về đồng tính cần phải loại trừBình Lê

Đa số con người không sống cô độc, mỗi chúng ta là thành viên trong một gia đình, cộng đồng hoặc quốc gia. Đây chính là bản chất tự nhiên hình thành từ tổ tiên xa xưa. Mỗi người không phải là một chiến binh đơn lẻ, hãm hại lẫn nhau, mà là những thành viên biết chăm lo cho các thành viên khác trong nhóm. Đây chính là lòng vị tha, là năng lực tư duy và hành động theo mong muốn của người khác. Cùng với lòng vị tha, con người còn có phẩm giá - đó là năng lực hướng thiện, không làm tổn hại người khác - và lòng tự trọng – đó là mong muốn ứng xử có đạo đức, phân biệt đúng sai. Đây chính là những giá trị rất con người để hình thành con người.

Một người có lòng vị tha, phẩm giá và lòng tự trọng luôn luôn hành xử nhân văn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đây chính là những giá trị thôi thúc họ suy nghĩ, quyết định và hành động trong cuộc sống. Những giá trị này đôi khi mạnh hơn thông tin kiến thức họ có, dư luận

điều này cũng đúng cho các nhóm xã hội khác, như người khuyết tật chỉ khác về điều kiện thân thể, hay người di cư chỉ khác ở nơi sinh ra. Khi nào coi sự khác biệt là một phần của cuộc sống, khi đó cuộc sống của mỗi người sẽ đẹp và có ý nghĩa hơn rất nhiều.

118 Bên kia giới t ính 119

Chính vì vậy, ông đã đề nghị các đại biểu quốc hội xem xét và bấm nút ủng hộ quyền bình đẳng cho những thành viên trong cộng đồng con người của mình.

Tuy nhiên, còn nhiều tranh luận khác nhau về hôn nhân cùng giới, ủng hộ nhiều nhưng phản đối cũng không thiếu. Gần đây, có một vài trí thức về luật và xã hội học đã lên tiếng phản đổi hôn nhân đồng tính, vì lý do “hôn nhân đồng tính không sinh sản được” nên không thể duy trì nòi giống. Phải nói rằng, người đồng tính cũng như những người đàn ông và đàn bà dị tính, họ có khả năng sinh sản bình thường. Khi nhà nước hỗ trợ họ như những cặp gia đình khác giới không có khả năng sinh con, hoặc những người mẹ đơn thân, thì họ hoàn toàn có khả năng sinh con và tiếp tục duy trì nòi giống. Ở tầm cỡ quốc gia, các nghiên cứu khoa học đã khẳng định việc các nước đã thừa nhận hôn nhân cùng giới hàng chục năm trước đây, hôn nhân cùng giới không hề ảnh hưởng đến dân số của họ.

Nhưng điều quan trọng, sinh con hay không sinh con là quyền của mỗi con người. Không thể phân biệt đối xử giữa những người sinh con và những người không sinh con vì như vậy sẽ trái với nguyên tắc bình đẳng. Luật Hôn nhân và gia đình hiện tại cũng không dùng khả năng sinh con để quyết định một người có quyền lập gia đình và mưu cầu hạnh phúc hay không. Nhưng trên hết, dù một cá nhân, hoặc một cặp đôi không sinh con (vì họ không muốn, hoặc họ không có khả năng) họ phải được đối xử công bằng. Nếu không, sự

hoặc sự sợ hãi. Điều này rất quan trọng vì họ tin vào điều đúng sai, vào cái tâm của một con người.

Đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc trong thư gửi cho Giám đốc ICS, sau khi nhận được hơn 1.500 ý kiến ủng hộ Hôn nhân cùng giới đã viết, “Tôi đã nhận được tập hồ sơ của ông đại diện trung tâm thể hiện quan điểm và kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp liên quan đến quyền của cộng đồng LGBT tại Việt Nam. Tuy chưa hiểu nhiều về cộng đồng này nhưng về nguyên tắc tôi luôn bày tỏ quan điểm của mình tại các diễn đàn có liên quan về quyền bình đẳng mọi công dân thuộc mọi giới tính khác nhau tồn tại trong đời sống xã hội hiện tại... Được cung cấp thêm những tài liệu của quý Trung tâm, tôi sẽ tiếp tục bày tỏ quan điểm của mình trong những hoạt động liên quan đến sửa đổi Hiếp pháp sắp tới và tôi tin rằng sẽ có nhiều người cùng chia sẻ.”

Tương tự như vậy, GS. Nguyễn Minh Thuyết, trong Hội thảo “người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) – quy định pháp luật và quan điểm của cộng đồng” do Viện nghiên cứu lập pháp và Viện iSEE tổ chức cho các đại biểu quốc hội, đã nhớ lại lần đầu tiên được hỏi về chủ đề này, dù chưa hiểu nhiều về đồng tính ông đã thấy cần phải đối xử bình đẳng với tất cả mọi người, trong đó có người LGBT. Với ông, bình đẳng và thương yêu là nguyên tắc, là giá trị sống nên ông ủng hộ những con người khác trong cộng đồng của mình. Và khi tìm hiểu rõ hơn, ông càng thấy điều này là đúng, là cần phải làm ở Việt Nam.

120 Bên kia giới t ính 121

chủng. Tư tưởng cho rằng “đồng tính là hiện tượng không nên mong muốn” là bước đầu dẫn đến sự ngược đãi, bạo hành và từ bỏ những người con là đồng tính của các gia đình. Nó có thể sinh ra những trào lưu phát xít bài trừ đồng tính, dẫn đến rối loạn xã hội và sợ hãi bao trùm. Rõ ràng, xã hội Việt Nam bao dung không thể chấp nhận những tư tưởng nguy hiểm mang tính phân biệt đối xử và loại trừ như vậy.

Hơn nữa, đồng tính là xu hướng tính dục bình thường của loài người, chỉ thể hiện sự đa dạng của tự nhiên nói chung và loài người nói riêng. Nếu loại bỏ đồng tính, không những là loại bỏ những người bình thường xung quanh như con cái, họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, mà cả những người đã cống hiến cho sự tiến bộ của nhân loại trong tất cả các lĩnh vực như triết học (Michel Foucault), nghệ thuật (Tchaikovsky, Arthur Rimbaud, Paul Verlaine,) chính trị (Johanna Singurdardottir,) hay khoa học (Leonardo da Vinci).

Nhưng trên hết, đạo đức và phẩm giá, sự công bằng và tình yêu thương con người mới là giá trị điều khiển các quyết định về con người. Có như vậy, dù bất cứ là ai, khác biệt về bất cứ điều gì như tình trạng cơ thể, trí tuệ, xuất thân, giới tính hay xu hướng tính dục đều không bị đe dọa đến tính mạng và quyền con người của mình. Có như vậy xã hội mới ổn định và phát triển, con người mới được tự do và mưu cầu hạnh phúc.

phân biệt đối xử này sẽ gây ra các hệ lụy như khuyến khích quan hệ tình dục trước hôn nhân, có con thì mới cưới và lập gia đình. Hoặc cặp đôi nào không có con vì lý do sinh học, họ sẽ dễ dàng rời bỏ nhau và gây ra đổ vỡ gia đình. Các phân biệt đối xử này, sẽ làm tổn hại đến giá trị quan trọng nhất của hôn nhân, mà luật Hôn nhân gia đình đề cập đến, đó là hôn nhân phải dựa trên tình yêu và sự tự nguyện.

Nguy hiểm hơn, có tác giả gần đây còn nói “đồng tính là hiện tượng không nên mong muốn” khi bình luận về hôn nhân cùng giới. Điều này, thể hiện quan điểm phân biệt đối xử nặng nề và nó sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong việc bảo vệ quyền, tính mạng công dân và duy trì ổn định gia đình và xã hội.

Quan điểm cho rằng đồng tính là không mong muốn có thể bị diễn giải là cần phải loại bỏ người đồng tính ra khỏi xã hội loài người. Điều này là không thể, vì không phải người đồng tính sinh ra người đồng tính, mà đa số cha mẹ dị tính sinh con là người đồng tính, và tỉ lệ người đồng tính luôn ổn định từ 3-5%. Nói cách khác, người đồng tính giống như người thuận tay trái, hay người có nhóm máu B+ luôn tồn tại cho dù họ là thiểu số. Chính vì vậy, dù có loại bỏ hết người đồng tính đã được sinh ra, thì những người đồng tính khác sẽ tiếp tục được sinh ra bởi các cặp đôi dị tính khác.

Nhưng nguy hiểm hơn, quan điểm này tương tự như quan điểm của chủ nghĩa phát xít khi cho rằng người Do Thái là không mong muốn nên đã dẫn đến chủ nghĩa diệt

122 Bên kia giới t ính 123

ngưỡng truyền thống và đặc biệt là sở hữu cộng đồng về đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Sinh kế của họ thường bị đe dọa và phá hủy bởi các dự án khai khoáng, thủy điện, xung đột vũ trang và tái định cư. Nhìn chung, người dân tộc thiểu số và người bản địa là những người nghèo nhất, dễ bị tổn thương nhất và quyền con người của họ dễ bị xâm phạm nhất.

Chính vì vậy, tôi kêu gọi Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN phải đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số trong việc sở hữu đất đai theo cá nhân hoặc cộng đồng như họ mong muốn, được thông tin và tham vấn cũng như đồng ý trước khi các dự án về khai khoáng, thủy điện và di dân được thực hiện. Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN cần đảm bảo quyền của người thiểu số được bảo tồn và phát triển văn hóa của họ như ngôn ngữ, kiến thức bản địa và phương thức quản trị cộng đồng truyền thống.

Có một nhóm thiểu số khác cũng thường bị kỳ thị, phân biệt đối xử và thậm chí còn bị tội phạm hóa chỉ vì họ là chính họ. Nhóm này là người đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính và chuyển giới. Người đồng tính là ai? Họ là bác sĩ, luật sư, giáo viên, bộ đội, công nhân, sinh viên, con trai, con gái, họ hàng, đồng nghiệp, bạn bè. Phân biệt đối xử người đồng tính chính là phân biệt đối xử một ai đó là người chúng ta yêu thương và kính trọng. Khi từ chối quyền của người đồng tính được chung sống, xây dựng mối quan hệ lâu dài và bền vững, quyền sở hữu tài sản

Không thể kỳ thị chỉ vì họ là chính họ!Bình Lê

Kính thưa các vị đại diện Ủy ban liên Chính phủ về quyền con người ASEAN!

Kính thưa các quý bà, quý ông! Tôi muốn bắt đầu bằng một câu hỏi tại sao chúng ta

lại cần một Tuyên ngôn nhân quyền chung trong bối cảnh có quá nhiều khác biệt về văn hóa, kinh tế, xã hội, trình độ phát triển và hệ thống chính trị giữa các nước ASEAN? Câu trả lời là chúng ta có một mục đích chung đó là bảo vệ quyền con người và tự do của mọi công dân ASEAN. Chúng ta cần các cơ chế bảo vệ nhân quyền vì chúng ta biết rằng có những nhóm và cá nhân dễ bị tổn thương hơn các nhóm khác, đặc biệt là phụ nữ, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người bản địa, người đồng tính, song tính và chuyển giới.

Có hàng triệu người dân tộc thiểu số và người bản địa ở ASEAN. Họ thường bị gạt ra ngoài lề, kỳ thị, phân biệt đối xử bởi nền văn hóa đặc trưng, lối sống khác biệt, tín

124 Bên kia giới t ính 125

nhân quyền ASEAN cần phải nhận được sự đồng thuận. Vì những thách thức này mà một số người muốn thỏa hiệp bằng cách thay việc nêu tên cụ thể người dân tộc thiểu số, người bản địa và người đồng tính bằng từ “thiểu số theo bản dạng tự nhận.” Đây có thể là một gợi ý tốt nhưng chúng ta vẫn đang né tránh vấn đề. Tôi kêu gọi Ủy ban liên Chính phủ về nhân quyền ASEAN đưa người dân tộc thiểu số, người bản địa, người đồng tính, song tính và chuyển giới vào để đảm bảo bình đẳng và quyền con người cho tất cả mọi người. Nếu Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN không nêu cụ thể những nhóm thiểu số này thì hàng triệu người sẽ trở thành vô hình và quyền con người của họ sẽ bị xâm phạm. Tôi không đòi hỏi thừa nhận sự khác biệt, tôi không đòi hỏi quyền mới. Tôi chỉ đòi hỏi sự công bằng cho tất cả mọi người, bao gồm cả người dân tộc thiểu số, người bản địa, người đồng tính, song tính và chuyển giới. Tôi tin rằng, chỉ cần cùng nhau chúng ta sẽ thực hiện được những bước đi dũng cảm để đạt được điều này.

Xin cảm ơn!

chung, quyền thừa kế, quyền sinh con, quyền nhận con nuôi... chúng ta không những từ chối quyền con người của người đồng tính mà còn tạo ra nhiều vấn đề cho gia đình họ, cho cộng đồng và cho người dị tính.

Nhiều người đồng tính không dám sống là chính mình vì bị kỳ thị xã hội và phân biệt đối xử trong luật pháp, họ lập gia đình với người dị tính để che giấu xu hướng tính dục của mình. Như vậy, nhiều người dị tính trở thành vợ hoặc chồng của người đồng tính. Đây có phải là một gia đình hạnh phúc không? Đây có phải là một kết cục tốt đẹp không? Không, không phải, và tôi tin rằng không người dị tính nào muốn có bạn đời là người đồng tính cũng giống như không có người đồng tính nào muốn có bạn đời là người dị tính. Dị tính, đồng tính, song tính và chuyển giới đều muốn và xứng đáng được sống là chính họ. Thừa nhận quyền của người đồng tính là một giải pháp hai bên cùng thắng cho cả người đồng tính và người dị tính. Chính vì vậy, tôi kêu gọi Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN hãy đảm bảo quyền bình đẳng cho tất cả mọi người, bao gồm cả người đồng tính, song tính và chuyển đổi giới tính. Tuyên ngôn nhân quyền nên xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử, bao gồm cả phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới.

Tôi biết rằng thật không dễ dàng cho một số chính phủ cụ thể hóa quyền của người dân tộc thiểu số và người đồng tính trong luật pháp của họ. Tôi biết Tuyên ngôn

126 Bên kia giới t ính 127

vì có tới 1/3 ca ấu dâm được ghi nhận là giữa đàn ông và bé trai, nên họ kết luận, những người đàn ông này phải là người đồng tính, và như vậy thì tỉ lệ người đồng tính có hành vi ấu dâm rất cao. Chính vì vậy, cần phải ngăn chặn việc để cho các cặp đôi đồng tính, đặc biệt đồng tính nam nuôi con.

Tuy nhiên, các nhà tâm lý học đã khẳng định ấu dâm là một xu hướng độc lập, không liên quan đến xu hướng tính dục đồng tính. Các nghiên cứu khoa học cho thấy, đa số những người đàn ông ấu dâm với trẻ em nam là người dị tính, hoặc không có phản ứng tình dục với người trưởng thành, chứ không phải là người đồng tính. Năm 2002, Hội nhi khoa Hoa Kỳ đã ủng hộ quyền nhận con nuôi của các cặp đôi đồng tính. Năm 2004, Hội tâm lý học Hoa Kỳ tuyên bố “không có bằng chứng khoa học nào chứng minh có sự khác biệt trong việc nuôi dạy con cái của các cặp đôi đồng tính: các cặp cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam cũng tương tự như các cặp cha mẹ dị tính, cung cấp một môi trường lành mạnh và hỗ trợ cho trẻ nhỏ.” Liên đoàn vì phúc lợi trẻ em Hoa Kỳ, năm 2004 cũng ra tuyên bố, “tất cả các tổ chức chuyên môn chính thống về sức khỏe và phúc lợi trẻ em, đồng ý rằng không có cơ sở nào để loại bỏ người đồng tính nam và đồng tính nữ ra khỏi việc nhận con nuôi.”

Về sự phát triển của trẻ trong các gia đình đồng tính, có rất nhiều nghiên cứu, bao gồm cả Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ, năm 2006 đã kết luận không có bằng chứng nào

Cặp đôi đồng tính có nên nuôi con? Mạnh Hải

Nhiều người phản đối cho phép các cặp đôi đồng tính nuôi con vì lo sợ đứa trẻ lớn lên sẽ trở thành đồng tính, hoặc phát triển lệch lạc, không tốt như những đứa trẻ được nuôi dưỡng trong các gia đình dị tính “có bố và có mẹ”. Tuy nhiên, nếu hiểu về xu hướng tính dục là sự hấp dẫn về tình cảm, tình yêu và tình dục, và là tự nhiên, không thể lựa chọn, hoặc “bị lây”, thì có nghĩa các đứa trẻ lớn lên trong gia đình đồng tính sẽ phát triển là chính nó. Nếu nó là đồng tính, nó sẽ là đồng tính; là dị tính thì sẽ là dị tính. Điều này cũng giống như những đứa trẻ đồng tính, sinh ra và lớn lên trong các gia đình dị tính (có bố và có mẹ), lớn lên vẫn là một người đồng tính.

Một lý do nữa cũng được sử dụng, đặc biệt là ở Mỹ, để ngăn chặn quyền nuôi con của các cặp đôi đồng tính, đó là nguy cơ trẻ bị lạm dụng tình dục. Dẫn đầu phong trào này, Dailey (Hội đồng nghiên cứu Gia đình) và Cameron (Viện nghiên cứu gia đình) ở Mỹ, cho rằng

128 Bên kia giới t ính 129

gia đình đồng tính, cũng phải có quyền như những đứa trẻ được nuôi trong các gia đình dị tính. Điều này có nghĩa, cha mẹ của trẻ cũng phải có quyền như nhau. Như vậy, việc cho phép các cặp đôi đồng tính nhận con nuôi, cũng đồng nghĩa nên hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới. Chính vì vậy, những người phản đối hôn nhân cùng giới lo sợ việc cho phép các cặp đôi cùng giới nuôi con, sẽ dẫn đến việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới nhanh hơn.

Rõ ràng, việc sử dụng phúc lợi của trẻ em chỉ là cái cớ để nhiều người bảo vệ giá trị và thái độ kỳ thị đồng tính của mình. Vì phản đối đồng tính, nên họ cũng phản đối việc cho phép các cặp đôi nuôi dạy con trẻ. Quá trình bảo vệ giá trị của họ, vô hình chung đã làm hại quyền lợi cũng như phúc lợi của những đứa trẻ, đáng ra đã có một gia đình đầm ấm.

Việc không cho hai người đồng tính nhận con nuôi, không ngăn chặn được việc các cặp đôi đồng tính nuôi con, mà nó chỉ làm cho việc nuôi con của họ khó khăn hơn, có nghĩa gây khó khăn cho đứa trẻ. Như vậy, các luật phân biệt đối xử đi ngược lại lợi ích của đứa trẻ, hơn là bảo vệ chúng. Nên hỏi những đứa trẻ mồ côi xem chúng có muốn lớn lên ở trại tế bần không, hay chúng cũng muốn có một gia đình của riêng mình? Hãy hỏi những đứa trẻ, liệu chúng có muốn hai người cha, hay hai người mẹ của mình, có được quyền đưa chúng đến trường, hay mang chúng đến bệnh viện khi ốm đau?

chỉ ra bất kỳ nguy cơ cho sự phát triển của trẻ, khi trẻ được nuôi dưỡng trong các gia đình đồng tính. Trong thực tế, sự phát triển và hạnh phúc của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa trẻ và người lớn, chứ không phụ thuộc vào cấu trúc gia đình, hay giới tính hoặc xu hướng tính dục của cha mẹ. Giáo sư Judith Stacey của trường Đại học New York đã thống kê khoảng 50 nghiên cứu khác nhau về chủ đề này, và tất cả đều cho thấy trẻ em lớn lên trong gia đình đồng tính không khác so với trẻ em lớn lên trong gia đình dị tính.

Như vậy, các nghiên cứu khoa học đều chỉ ra việc một đứa trẻ được nuôi dưỡng trong gia đình đồng tính phát triển bình thường như những đứa trẻ khác. Câu hỏi đặt ra, tại sao vẫn có nhiều người phản đối việc cho phép cặp đôi cùng giới nuôi con?

Những người phản đối các cặp đồng tính nuôi con, thường là những người kỳ thị đồng tính, hoặc phản đối hôn nhân cùng giới. Sự kỳ thị này chủ yếu do quan hệ cùng giới đi ngược lại những giá trị tôn giáo, hoặc truyền thống của họ. Đa số những người này cho rằng, thà để đứa trẻ mồ côi trong nhà tế bần, hơn là cho nó vào một gia đình đồng tính. Việc một đứa trẻ được nuôi nấng bởi hai người đồng tính là tội ác, vì để trẻ tiếp xúc và tiêm nhiễm những giá trị sai trái và tội lỗi.

Các nghiên cứu về xã hội học cho thấy, đa số mọi người đồng ý những đứa trẻ được nuôi dưỡng trong các

130 Bên kia giới t ính 131

Chứng sợ đồng tính và sự gồng mình của đàn ông! Thu Hiền

Có một thực tế trên thế giới, đó là những hành vi bạo lực hoặc kỳ thị người đồng tính ở nam giới thường cao hơn nữ giới. Hành vi bài đồng tính thường được thực hiện bởi những nhóm cực đoan, đứng đầu là nam giới. Trong gia đình, những người cha, người anh cũng gặp khó khăn hơn những người mẹ, người chị khi chấp nhận con trai/em trai mình đồng tính. Một nghiên cứu của Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường iSEE cho thấy, ngay những người đồng tính nam cũng muốn bộc lộ xu hướng tính dục của mình với mẹ, chị hoặc bạn gái, hơn là với cha, anh và bạn trai. Tại sao nam giới lại khó chấp nhận đồng tính hơn?

Việc kỳ thị đồng tính có nhiều nguyên nhân khác nhau, ngoài chủ nghĩa độc tôn dị tính, còn là nỗi sợ của những người đàn ông dị tính cho “nam tính” của mình. Nhiều người hiểu sai cho rằng nam giới đồng tính thường giả gái, muốn chuyển giới và có hành vi nữ tính. Vì gắn “dị tính” với “nam tính”, và “nữ tính” với “đồng tính” nên nếu

Ai cũng sinh ra trong một gia đình, và ai cũng muốn có một gia đình của riêng mình. Gia đình là sự chia sẻ, đùm bọc và yêu thương. Chính vì vậy, việc không cho người đồng tính kết hôn, cũng như nhận con nuôi là từ chối quyền con người cơ bản nhất của họ.

Đừng hy sinh lợi ích của trẻ để bảo vệ các giá trị và thái độ định kiến của mình!

132 Bên kia giới t ính 133

Điều này là do kỳ thị đồng tính và kỳ thị giới tính thường có những liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, chắc chắn sẽ khó khăn hơn đối với những người có nỗi sợ đồng tính, vì họ rất quan tâm bảo vệ nam tính của mình, và chối bỏ tất cả những gì được gắn với nữ tính.

Ví dụ, họ cho rằng, chỉ những người đàn ông đồng tính mới làm công việc đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế như nấu ăn, chăm sóc trẻ em, hay quan tâm và thể hiện tình cảm của mình. Quan niệm này khắc sâu thêm định kiến giới, và làm cho phụ nữ phải làm những việc được coi là của phụ nữ, để đàn ông không bị “nghi ngờ” là người đồng tính.

Như vậy, để giải quyết vấn đề, cần phải giúp cho nam giới đối mặt với những e ngại bị dán nhãn. Điều này chỉ làm được khi có những thay đổi về quan niệm nam tính và nữ tính. Điều quan trọng là bỏ đi những định kiến cho rằng những người đàn ông có “nữ tính” hoặc làm những việc của phụ nữ đều là đồng tính. Khi đó mới giúp đàn ông tự tin để tham gia vào các hoạt động chia sẻ công việc với phụ nữ, và không còn lo sợ cho nam tính của mình bị mất.

Quan trọng hơn, để xóa bỏ nỗi sợ đồng tính, người đồng tính cần phải công khai nhiều hơn. Khi người đồng tính công khai, họ không những xóa bỏ những hiểu sai, hoặc gỡ nhãn tiêu cực cho người đồng tính, mà còn cung cấp một con người cụ thể cho sự kỳ thị đồng tính. Khi đó, sự kỳ thị không còn nhắm vào một đối tượng mơ hồ, làm

chấp nhận những người nam có tố chất nữ tính, cũng có nghĩa nam tính của họ bị đe dọa.

Cũng có nhiều người đàn ông dị tính lo sợ tố chất nữ tính trong những người đàn ông đồng tính, kích thích sự ham muốn tình dục trong họ. Chính vì vậy, để bảo vệ nam tính của mình, họ căm ghét nữ tính trong người nam, và căm ghét luôn người đồng tính.

Bên cạnh đó, đàn ông dị tính cũng có một nỗi sợ mơ hồ, đó là sự cạnh tranh để có được sự quan tâm của phụ nữ. Với họ, những người đàn ông khác là những đối thủ trong việc hấp dẫn phụ nữ. Họ không quen với việc tồn tại của những người đàn ông, những người đàn ông đồng tính, mà không có sự cạnh tranh. Trong tâm thức họ, đàn ông có nghĩa là một đối thủ trong việc hấp dẫn phụ nữ.

Những người đàn ông dị tính cũng có nỗi sợ bị chọc ghẹo, hoặc thậm chí hãm hiếp từ những người đàn ông đồng tính khác. Họ ý thức được sự “tội lỗi” trong việc trêu chọc phụ nữ, và lo rằng mình cũng có thể trở thành nạn nhân của sự trêu chọc này.

Như vậy, cần phân biệt nguyên nhân của kỳ thị đồng tính: một là do chủ nghĩa độc tôn dị tính mang lại, hai là do những nỗi sợ mơ hồ tạo ra. Để giải quyết nỗi sợ đồng tính, cần có những giải pháp khác bổ trợ cho những hoạt động tập trung vào sự bình đẳng.

Nhiều nghiên cứu cho thấy đàn ông dị tính đàn áp người đồng tính cũng là người có xu thế đàn áp phụ nữ.

134 Hướng tới tương lai 135

cho người kỳ thị phải giật mình thức tỉnh. Đó cũng chính là kết quả nghiên cứu ở nhiều nước, khi tỉ lệ công khai của người đồng tính càng cao thì tỉ lệ kỳ thị đồng tính và phản đối hôn nhân cùng giới càng giảm. Và việc này, cũng giúp xóa bỏ nỗi sợ đồng tính trong những người đàn ông dị tính, đang lo lắng cho nam tính của mình!

Phần IV

HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI

136 Hướng tới tương lai 137

Việt Nam bảo vệ quyền đồng tính là phản logic?Bình Lê

Năm 2012, khi tin Việt Nam xem xét có hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới không lan ra, giới truyền thông quốc tế bất ngờ vì điều này ngoài sức tưởng tượng của họ. Tại sao một nước cộng sản lại có thể xem xét một điều mà nhiều nước phương Tây cũng chưa làm được? Chính vì vậy, trong các cuộc trao đổi và phỏng vấn câu hỏi “tại sao” luôn luôn được đặt ra.

Một trong những lời giải thích mà nhiều người nước ngoài thấy “xuôi tai”, đó là Bộ chính trị Đảng Cộng sản quyết định đưa vấn đề hôn nhân cùng giới ra thảo luận để “đánh lạc hướng dư luận” khỏi những khó khăn kinh tế và khủng hoảng xã hội lúc bấy giờ. Với nhiều người, cách giải thích này là hợp lý, vì nó trùng khớp với hình ảnh Việt Nam trong mắt họ. Một Việt Nam được biết đến vì những cáo buộc bỏ tù bloggers, đàn áp người bất đồng chính kiến và tham nhũng tràn lan.

Tuy nhiên, nếu ai ở Việt Nam và theo dõi phong trào

Mỗi cuộc đấu tranh đều là vì một tương lai, mỗi thành quả của đấu tranh là động lực cho bước tiến không ngừng. Chúng ta đã quen nghĩ rằng mỗi phong trào là biểu hiện của một xu hướng xã hội, nhưng những người đồng tính - chuyển giới - song tính đã chứng minh rằng cuộc đấu tranh của họ tạo ra xu hướng, ngay cả khi họ là thiểu số. Nếu đa phần chúng ta ngạc nhiên rằng vì sao đồng tính lại trở thành một xu hướng được thừa nhận, hoặc trong khi đa phần chúng ta đổ lỗi cho một xã hội đang tan vỡ là nguyên nhân của đồng tính; thì chính những người đồng tính lại tuyên bố sự chính đáng của mình trên cơ sở một con người nguyên vẹn - có vẻ Thượng Đế tạo ra hình hài Adam và Eva hơn là giới tính của họ? Mặc dù vẫn chỉ là một xu hướng, nhưng tương lai của những người đồng tính đã bắt đầu được ánh sáng rọi chiếu. Vấn đề của họ được đưa ra ở nhiều nước, dù chỉ được chấp nhận ở một số quốc gia. Ở Việt Nam, “hôn nhân đồng tính” được đưa ra thảo luận ngay ở chính quyền, và dù những ý kiến trái chiều nhau tồn tại, thì chiến thắng của những người đồng tính cũng bắt đầu xuất hiện: bản thân cuộc thảo luận giữa các bộ phận chính quyền là một sự thừa nhận.

Đúng vậy, bóng đêm chỉ tồn tại ở những nơi không có mặt trời: màn đêm giới tính đang được chính những người đồng tính thắp sáng. Họ có quyền tin vào cuộc đấu tranh của mình, và họ hoàn toàn có thể tin rằng cuộc đấu tranh trên mọi bình diện xã hội để đòi quyền “được là chính mình” của họ sẽ có một kết quả “nhân văn”.

138 Hướng tới tương lai 139

về đồng tính với cái nhìn khách quan hơn, nhân văn hơn và kiến thức chính xác hơn. Đây chính là thành công lớn nhất của cộng đồng LGBT và các Tổ chức xã hội dân sự vì từ thay đổi của báo chí đã khơi dậy nhiều thay đổi khác.

Khi biết “báo chí không đáng sợ” như mình tưởng, nhiều người đồng tính, song tính và chuyển giới đã bắt đầu gặp và kể những câu chuyện của mình. Những nghiên cứu khoa học về người đồng tính, song tính và chuyển giới, những sự kiện công cộng như triển lãm Mở, triển lãm Góc, hay chuỗi kịch “Được là chính mình”, ngày IDAHO, Viet Pride hay flashmob “yêu là yêu” đã giúp báo chí viết về cộng đồng LGBT tốt hơn, giúp xã hội hiểu hơn và chấp nhận sự khác biệt về tính dục tốt hơn. Nhiều người trong cộng đồng LGBT tự tin, công khai và dẫn đến thay đổi xã hội rộng hơn. Qua sự lan tỏa tích cực, cộng đồng LGBT đã khởi động một sự thay đổi xã hội to lớn, bắt đầu bằng thay đổi báo chí.

Khi môi trường trở nên cởi mở, những đám cưới giữa hai người cùng giới tính xuất hiện nhiều hơn và được báo chí và xã hội đặc biệt chú ý. Thái độ bao dung và ủng hộ quyền mưu cầu hạnh phúc dần trở thành chuẩn mực mới của xã hội. Nhiều người chợt nhận ra người thân của mình, bạn bè của mình, thầy cô của mình, hay thậm chí là thần tượng của mình cũng có thể là người đồng tính, song tính hoặc chuyển giới. Nhiều người chủ động góp sức vào quá trình thay đổi xã hội. Nếu trước đây, nói về chủ đề đồng tính là cấm kỵ hoặc e ngại, thì hiện nay rất nhiều bạn sinh

bảo vệ quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) thì biết đây không phải là điều từ “bộ chính trị rơi xuống”. Cách đây 5 năm, khi báo chí còn miêu tả đồng tính tiêu cực, gắn với tệ nạn xã hội, tội phạm, bệnh tật và đua đòi thì một phong trào xã hội bảo vệ quyền của người đồng tính đã dần dần hình thành. Cộng đồng LGBT, thời đó chỉ dám liên kết qua các diễn đàn trên mạng vì sợ “bị lộ”, lần đầu tiên liên kết với nhau “vì một hình ảnh tốt đẹp của người đồng tính, song tính và chuyển giới.” Vượt qua những sợ hãi và lo lắng ban đầu, họ đã cùng nhau xây dựng chiến lược mà viễn cảnh lúc đó chỉ là mơ ước “vào năm 2020, Việt Nam sẽ thừa nhận hôn nhân cùng giới.”

Sau cuộc gặp đầu tiên, một nhóm làm việc liên diễn đàn có tên Kết nối và chia sẻ thông tin - ICS đã hình thành để vận động cộng đồng và làm việc với báo chí. Đối với người đồng tính lúc đó, báo chí là “kẻ thù số một”vì “cứ mở báo ra thấy ngay giật tít đồng tính giết bạn tình, đồng tính cướp của, đồng tính bệnh tật, đồng tính HIV” như một thành viên ICS nói. Chính vì vậy, làm việc với báo chí qua tập huấn về đồng tính luyến ái, về định kiến kỳ thị đã được ưu tiên hàng đầu. Hơn nữa, việc kết nối báo chí với cộng đồng LGBT đã làm cho hầu hết các nhà báo, trước đó chưa hề gặp một người đồng tính công khai nào, hiểu rằng người đồng tính đang sống xung quanh họ, là những người “bình thường như những người bình thường khác.” Chính vì vậy, họ đã viết

140 Hướng tới tương lai 141

Tuy nhiên, các lý do này không “lọt tai” nhiều hãng thông tấn nước ngoài. Với họ, việc Việt Nam vì quyền con người mà xem xét hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới là thiếu logic, khập khiễng và không ăn nhập với hình ảnh Việt Nam trong mắt họ. Chính vì vậy, các lý giải mang tính logic trở thành phi logic vì họ chỉ tập trung tìm kiếm những bằng chứng phù hợp với một Việt Nam vi phạm quyền con người. Đây chính là lý do tại sao nhiều bài báo viết về việc Việt Nam xem xét hôn nhân cùng giới với sự ngạc nhiên thú vị, nhưng luôn luôn nghi ngờ, hoặc chốt bằng một câu “Việt Nam là một nước cộng sản độc đảng”, trong khi hôn nhân cùng giới và cộng sản không liên quan đến nhau.

Rõ ràng, thảo luận xã hội về đồng tính và hôn nhân cùng giới trong thời gian qua đã góp phần tạo ra thay đổi theo hướng giảm kỳ thị và tăng quyền cho người đồng tính, song tính và chuyển giới. Dù kết quả sửa luật có đi theo chiều hướng nào, thì việc xem xét hôn nhân cùng giới đã tạo ra các thay đổi tích cực. Mỗi người đều có sẵn định kiến của mình, trong trường hợp này là về thành tích nhân quyền của Việt Nam, nên có thể rơi vào bẫy tâm lý chỉ đi tìm các bằng chứng phù hợp để khẳng định cho chính kiến của mình. Điều này có thể khắc sâu thêm định kiến, bỏ qua điều đúng Bộ tư pháp đang làm, phủ nhận vai trò của cộng đồng LGBT và công sức các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam.

viên chọn chủ đề đồng tính hay hôn nhân cùng giới để thuyết trình hay làm luận văn tốt nghiệp.

Hòa chung phong trào bảo vệ quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới nhiều tổ chức làm về quyền con người cũng đã lên tiếng. Thú vị hơn, cha mẹ có con là đồng tính đã cất tiếng để bảo vệ con mình. Họ đã vượt qua những đau khổ, xấu hổ thậm chí là tức giận để tìm hiểu rồi thấu hiểu và “thừa nhận con như là con người thật của nó”. Họ đã bắt đầu lên tiếng với xã hội, với báo chí và với các cơ quan chính quyền. Chính họ, đã sát cánh cùng con để thay đổi xã hội, thay đổi tương lai của con, và bảo vệ bản thân cũng như gia đình.

Nếu suy nghĩ kỹ một chút thấy chính sự công khai, vượt qua nỗi sợ của cộng đồng LGBT, chính sự ủng hộ tích cực của báo chí và sự chấp nhận ngày càng nhiều của xã hội đã dẫn đến việc Bộ tư pháp đưa vấn đề hôn nhân cùng giới ra xem xét. Trong các lý do Bộ tư pháp viện dẫn để thay đổi luật, có lý do “vì yêu cầu của cuộc sống khi ngày càng có nhiều người đồng tính muốn kết hôn, nhiều cặp đôi cùng giới sau khi sống chung, chia tay, ra tòa đề nghị giải quyết về tài sản và các hậu quả pháp lý khác nên luật cần phải thay đổi”. Trong các nguyên tắc, nguyên tắc tôn trọng quyền con người và bình đẳng xã hội luôn được Bộ tư pháp nhấn mạnh như là định hướng để sửa luật. Và đây cũng là nguyên tắc để bác lại những lý do phản đối hôn nhân cùng giới mang tính “cảm tính” hoặc “mơ hồ” về đạo đức và truyền thống.

142 Hướng tới tương lai 143

lượt loại đồng tính ra khỏi danh sách bệnh đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc bảo vệ người đồng tính khỏi những đối xử man rợ. Năm 1998, Đan Mạch là nước đầu tiên thừa nhận hình thức kết đôi có đăng ký cho hai người cùng giới, và năm 2000 thì Hà Lan là quốc gia đầu tiên thừa nhận hôn nhân cùng giới.

Gần đây nhất, Hạ viện Pháp ngày 12 tháng 2 năm 2013 đã bỏ phiếu với kết quả 329 phiếu thuận và 229 phiếu chống thông qua việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới. Tại Anh, nghị viện nước này cũng bỏ phiếu với kết quả 400 phiếu thuận và 175 phiếu chống mở đường cho phép hai người cùng giới kết hôn. Như vậy, Pháp và Anh là hai nước mới nhất đi những bước vững chắc thừa nhận quyền kết hôn cho người đồng tính cùng với 13 nước khác như Nam Phi, Canada, Achentina... Bên cạnh đó, có hàng chục nước đã thừa nhận quyền kết hợp dân sự giữa hai người cùng giới.

Nếu tính trên số lượng thì số nước đã thừa nhận hôn nhân bình đẳng cho người đồng tính, hoặc hình thức sống chung có đăng ký là thiểu số. Tuy nhiên, nếu nhìn vào xu hướng thì rõ ràng ngày càng có nhiều nước thừa nhận quyền bình đẳng cho cộng đồng LGBT. Hơn nữa, nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng thừa nhận kết hôn cùng giới đã tạo ra thay đổi tích cực trong cộng đồng đồng tính nói riêng và xã hội nói chung. Các nước đã thừa nhận sống chung hay kết hôn bình đẳng đều tự hào về điều này, và không có nước nào thay đổi muốn hủy hôn nhân cùng giới.

Việt Nam không đơn độc!Mạnh Hải

Trong nhiều lý do viện dẫn để phản đối hôn nhân cùng giới, có lý do cho rằng số nước ủng hộ hôn nhân cùng giới mới là thiểu số và chưa có nước nào ở châu Á nên Việt Nam không nên thừa nhận. Ngay nước Mỹ tự xưng là dân chủ và đi đầu trong bảo vệ quyền con người còn chưa thừa nhận hôn nhân cùng giới thì tại sao Việt Nam phải làm điều này. Có người còn cho rằng nên đưa hôn nhân cùng giới ra trưng cầu dân ý vì tin rằng đa số người dân Việt Nam sẽ phản đối hôn nhân cùng giới. Nghe có vẻ dân chủ nhưng có hai vấn đề làm kết quả không ổn. Thứ nhất do người dân chưa có kiến thức đầy đủ về đồng tính nếu không nói là còn hiểu sai nên khó ủng hộ hôn nhân cùng giới. Thứ hai, việc đưa quyền của một nhóm thiểu số ra cho nhóm đa số phán quyết không tránh khỏi bất công vì chênh lệch quyền lực.

Điểm lại một số mốc lịch sử để hiểu rằng đồng tính đã từng bị coi là bệnh cho đến năm 1973 và năm 1991 khi Hội tâm lý học Hoa Kỳ và Tổ chức y tế thế giới lần

144 Hướng tới tương lai 145

sửa luật hôn nhân gia đình 2000 hay không. Sau khi tham vấn, hôn nhân cùng giới đã được cho là một nội dung quan trọng cần phải xem xét vì thực tế của cuộc sống và vì quyền con người. Rõ ràng việc xem xét nội dung hôn nhân cùng giới là một bước tiến của Việt Nam vì nó thể hiện sự nghiêm túc của chính phủ đối với việc bảo vệ quyền bình đẳng của người đồng tính. Việc Bộ tư pháp đưa chủ đề hôn nhân cùng giới ra thảo luận chính thức đã giúp cho xã hội có cơ hội tìm hiểu và thảo luận về quyền của người đồng tính nhiều hơn. Đây chính là cơ sở đặt nền móng cho việc thay đổi thái độ xã hội từ kỳ thị sang ủng hộ.

Bên cạnh Việt Nam, Đài Loan, Thái Lan và Nepal là hai nước và vùng lãnh thổ ở châu Á đang có những động thái chính thức trong việc thừa nhận quyền kết hôn của các cặp đôi đồng tính. Xã hội Đài Loan tương đối cởi mở với quan hệ cùng giới và Diễu hành của người đồng tính được tổ chức hàng năm với hàng chục nghìn người tham dự, thu hút đông đảo khách du lịch đến Đài Loan. Tháng 1 năm 2013, Tòa án tối cao Đài Loan đã xem xét việc cho kết hôn giữa những người cùng giới tính. Thứ trưởng Bộ tư pháp Đài Loan gợi ý cần phải nghiên cứu về thái độ xã hội đối với hôn nhân cùng giới vào năm tới để làm cơ sở quyết định. Trong khi đó, một cuộc điều tra của báo United Daily News vào tháng 9 năm 2012 cho thấy 55% người Đài Loan ủng hộ hôn nhân cùng giới và chỉ có 37% phản đối. Dường như Đài Loan đang trên đường trở thành

Các cuộc điều tra xã hội của Mỹ cho thấy thay đổi chắc chắn trong quan điểm của dân chúng theo chiều hướng ủng hộ hôn nhân cùng giới. Ví dụ như theo điều tra Gallup thì năm 1996 chỉ có 27% ủng hộ hôn nhân cùng giới trong khi đó có 68% phản đối và 5% không có ý kiến gì. Đến năm 2006, có 42% ủng hộ, 56% phản đối và 2% không có ý kiến gì. Đến năm 2011 thì có 53% ủng hộ, 45% phản đối và 2% không có ý kiến gì. Song song với Gallup thì tất cả các cuộc điều tra xã hội có uy tín khác ở Mỹ vào năm 2012 đều cho thấy hơn 50% người Mỹ ủng hộ hôn nhân cùng giới.

Cùng với thay đổi về quan điểm xã hội, việc thừa nhân hôn nhân cùng giới đã được hợp pháp hóa ngày càng nhiều ở Mỹ và hiện có 9 bang thừa nhận hôn nhân cùng giới sau khi ba bang Washington, Maine và Maryland bỏ phiếu thông qua hôn nhân cùng giới vào năm 2012. Đây là ba bang chọn việc bỏ phiếu phổ thông để thông qua, thay vì dùng con đường tòa án hay cơ quan lập pháp như một số bang khác. Điều này càng khẳng định sự thay đổi vững chắc của nước Mỹ trên con đường thừa nhận hôn nhân cùng giới.

Việt Nam là một trong bốn nước và vùng lãnh thổ đầu tiên ở châu Á đang xem xét việc cho người đồng tính kết hôn bình đẳng. Bộ tư pháp có công văn tham vấn các cơ quan liên quan vào tháng 5 năm 2012 xem nội dung kết hôn cùng giới có nên đưa vào xem xét trong quá trình

146 Hướng tới tương lai 147

đẳng của mình, và biến quan hệ đồng tính trở thành bình thường trong xã hội.

Như vậy, việc Việt Nam xem xét vấn đề hôn nhân cùng giới là phù hợp với xu hướng trên thế giới và Việt Nam không phải là nước duy nhất ở châu Á làm việc này. Việc số nước đã thừa nhận hôn nhân cùng giới đang là thiểu số nhưng họ đã ở bên phải của việc bảo vệ quyền con người. Như nhiều nhà hoạt động nhân quyền đã nói, việc bảo vệ quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới là một cuộc “giải phóng con người” quan trọng nhất kể từ sau khi các nô lệ da đen được tự do. Có thể trong một tương lai không xa chúng ta sẽ tự hỏi sao đã có thời người đồng tính song tính và chuyển giới phải chịu sự kỳ thị và phân biệt đối xử, giống như bây giờ ta hỏi sao người người da đen phải chịu làm nô lệ trong quá khứ.

vùng lãnh thổ đầu tiên ở Châu Á thừa nhận hôn nhân cho người đồng tính.

Ở Thái Lan một nhóm làm việc gồm các chuyên gia lập pháp và các nhà hoạt động vì quyền của người đồng tính đã soạn thảo một dự luật nhằm cho phép các cặp đôi cùng giới có thể đăng ký dân sự. Dự luật này sẽ được đệ trình cho chính phủ sau khi hội tụ đủ điều kiện trước khi mang ra Quốc hội thảo luận. Đây cũng là lần đầu tiên Thái Lan xem xét quá trình xây dựng một dự luật cho người đồng tính. Còn ở Nepal, năm 2008 Tòa án tối cao đã ra phán quyết bảo đảm quyền bình đẳng cho người đồng tính và yêu cầu chính phủ soạn thảo luật thừa nhận hôn nhân cùng giới. Tuy nhiên, do những chuyển đổi chính phủở Nepal dẫn đến việc trì hoãn soạn thảo và thông qua dự luật này. Chính vì vậy, Nepal đã không phải là quốc gia châu Á đầu tiên thừa nhận hôn nhân cùng giới.

Bên cạnh quyền kết hôn, châu Á cũng có những chuyển động theo hướng tích cực khác trong nỗ lực bảo vệ quyền của người đồng tính song tính và chuyển giới. Việc Ấn Độ chính thức loại bỏ luật tội phạm hóa quan hệ đồng tính năm 2009 là một bước đi quan trọng mở đường cho quyền bình đẳng của người LGBT. Tuy chưa bỏ luật như Ấn Độ, nhưng chính phủ Singapore đã cam kết không thi hành điều luật tội phạm hóa quan hệ đồng tính. Những năm gần đây cộng đồng LGBT ở Singapore đã sử dụng tòa án như là nơi đấu tranh cho quyền bình

148 Hướng tới tương lai 149

đình và con người. Thú vật không cần tới hôn nhân vẫn có thể duy trì giống nòi. Thực tế khi nhà nước bảo hộ cho hôn nhân bằng pháp luật, việc bảo hộ đó không nhằm để kích thích sinh sản. Định chế hôn nhân là một định chế xã hội, không phải là một định chế sinh vật. Và giá trị hôn nhân nằm ở tính xã hội, quan hệ và đời sống giữa những con người với nhau, đó là sự phó thác, chia sẻ và tình yêu với nhau.

Lật ngược câu hỏi lại, vậy liệu việc cấm hôn nhân cùng giới có góp phần thúc đẩy việc sinh sản duy trì nòi giống hay không? Câu trả lời là hoàn toàn không. Con người ngày càng tự do hơn và sẽ không làm những gì đi ngược lại với tự do của mình. Việc cấm người đồng tính kết hôn không làm họ tự nhiên mong muốn kết hôn với người khác giới. Cũng như việc cho phép họ lấy nhau cũng không ảnh hưởng gì tới khả năng sinh sản của các cặp khác giới.

Bản chất duy trì nòi giống là gì?

Một quan điểm phổ biến là hay đánh đồng việc “duy trì nòi giống” và “giao hợp thụ thai.” Trước hết cần khẳng định người đồng tính không phải là người vô sinh. Hai người đồng tính không thể “giao hợp thụ thai” nhưng họ hoàn toàn có thể có con với sự hỗ trợ khoa học. Một số người có thể nói việc này không tự nhiên, nhưng khoa học phát triển chẳng phải để con người vượt qua những giới

Hôn nhân cùng giới: Duy trì nòi giống hay dựng rào cản ngăn bình đẳng?1

Sáu sắc

Cấm hôn nhân cùng giới vì “không thể sinh sản duy trì nòi giống được”?Nếu lấy lý do không thể duy trì nòi giống được thì

những người vô sinh, những người đã mãn dục là những người đầu tiên bị cấm kết hôn. Như vậy những cặp vợ chồng đang chung sống với nhau và không có con (vì lý do sức khỏe hay lựa chọn), vậy họ có phải là gia đình hay không, và có nên bị hủy bỏ hôn nhân không khi mà mục đích “duy trì nòi giống” không đạt được? Đây là một sự xúc phạm và phân biệt đối xử nghiêm trọng tới nhiều người trong xã hội.

Việc cho rằng hôn nhân chỉ là hình thức “xác nhận cha mẹ cho đứa trẻ được sinh ra” là hạ thấp giá trị của gia

1. Bài viết nhằm phản hồi một số quan điểm từ bài viết “Hôn nhân đồng tính và những hệ lụy”:http://www.thanhtra.com.vn/tabid/77/newsid/67727/temidclicked/1062/seo/Hon-nhan-dong-tinh-va-nhung-he-luy/Default.aspx.

150 Hướng tới tương lai 151

nhân. Thực ra điều này cũng hoàn toàn đúng với những người dị tính, các cặp khác giới vẫn có thể sống với nhau mà không cần hôn nhân. Vậy tại sao họ vẫn muốn kết hôn, tại sao những người dị tính thì có quyền còn người đồng tính thì không, khi mà hai mối quan hệ đều dựa trên nền tảng là sự yêu thương, chia sẻ và cam kết? Nếu câu trả lời là “vì người dị tính duy trì nòi giống được” thì xin đọc lại phần bên trên.

Cuối cùng cũng chỉ là câu chuyện về sự bất bình đẳng. Đơn giản là một nhóm người cho rằng tôi có quyền kết hôn với người tôi yêu, còn chị thì không. Lý do bởi vì tôi cho rằng tôi bình thường, còn chị thì không. Đã có sự đánh tráo hai khái niệm: “số đông” với “bình thường”, và “số ít” với “bất thường.” Số người yêu người khác giới nhiều hơn không có nghĩa là người yêu người cùng giới là bất thường. Và pháp luật làm ra không phải phục vụ số đông hay tước đoạt quyền của số ít. Pháp luật là để bảo vệ tất cả mọi người. Cấm hôn nhân cùng giới cần phải được thừa nhận là hình thức phân biệt đối xử với người đồng tính.

Thay đổi pháp luật hay thay đổi xã hội trước?

Việc cho rằng nên để thái độ xã hội thay đổi trước khi thay đổi pháp luật là phiến diện. Không phải ngẫu nhiên nhiều trường đại học có môn học “Luật và Thay đổi Xã hội.” Kinh tế, giáo dục, khoa học vẫn sẽ phát triển nếu không có pháp luật. Kinh tế mua bán vật đổi vật không

hạn của tự nhiên hay sao: từ kính cận, thuốc men, cho tới quần áo đều là không tự nhiên. Việc hỗ trợ sinh sản cho cặp đồng tính cũng tương tự như những cặp hiếm muộn, chưa kể là dễ dàng hơn về mặt kỹ thuật.

Nếu cho rằng quyền đi đôi với nghĩa vụ, anh được sinh ra thì anh phải sinh sản duy trì nòi giống, thì chẳng khác gì một quan hệ “đổi chác” thời tiền sử, thậm chí còn lạc hậu hơn. Không tính các yếu tố thảm họa thiên tai, nguy cơ tuyệt chủng ngày nay của con người là từ chính nền văn minh hiện đại và khai thác tài nguyên kém bền vững, chứ chưa bao giờ các nhà khoa học cho rằng nguy cơ tuyệt chủng là do khả năng sinh sản của loài người.

Nhìn vấn đề duy trì nòi giống ở một tầm mức cao hơn, con người ngày nay là một con người xã hội, chứ không còn là con người giống loài thuở hoang sơ nữa. Vì vậy mà khi được sinh ra, trách nhiệm của con người đầu tiên cho đến sau cùng là trách nhiệm với đời sống xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống chứ không phải trách nhiệm phối giống cho loài. Chưa kể đến trong thực tế, bằng sự phân công lao động xã hội và những đóng góp của mình, người đồng tính vẫn góp phần vào sự sinh tồn của giống loài, hay cao hơn, là cho sự phát triển của xã hội loài người văn minh.

Hôn nhân là dành cho ai?

Một lập luận phổ biến là người đồng tính hoàn toàn có thể yêu thương nhau, sống với nhau mà không cần hôn

152 Hướng tới tương lai 153

Chỉ có điều chắc chắn là một ngày mà pháp luật còn chưa thừa nhận quyền bình đẳng yêu thương của tất cả mọi người, thì một ngày người đồng tính vẫn còn phải chịu kỳ thị và sống với niềm hạnh phúc quý giá nhưng không được thừa nhận của mình.

cần tới tiền, nhà băng vẫn có thể tồn tại, nhà nước không cần lập hệ thống giáo dục thì con người vẫn có thể tiếp thu học hỏi từ xung quanh. Cũng như xã hội chắc chắn cũng sẽ bình đẳng, tự do hơn một cách từ từ.

Tuy vậy, chúng ta cần nhớ rằng nhận thức xã hội luôn thay đổi cực kỳ chậm nếu không dùng pháp luật như một công cụ để thúc đẩy nó. Pháp luật định hình nên chuẩn mực hành vi xử sự của con người. Khi hôn nhân đa hôn ở Việt Nam bị cấm, xã hội đã thay đổi rất nhanh chóng chuẩn mực về số lượng phối ngẫu trong hôn nhân, họ hiểu rằng hôn nhân chỉ là giữa hai người.

Câu hỏi đặt ra là liệu hôn nhân phân biệt giới tính đã tới lúc hoàn thành sứ mệnh của mình chưa? Và nó sẽ để lại gì cho xã hội khi ra đi: Sự tức giận và phản đối của những người vẫn xem hôn nhân là đặc quyền của người dị tính, hay liệu xã hội sẽ trở nên cởi mở hơn với người đồng tính? Nghiên cứu ở nhiều nước như Canada, Thụy Điển đều cho thấy tỷ lệ dân số ủng hộ hôn nhân cùng giới tăng nhanh lên rõ rệt từ sau khi nhà nước công nhận hôn nhân không phân biệt giới tính.

Vấn đề còn lại chỉ là chúng ta có thực sự muốn thừa nhận quyền hôn nhân bình đẳng này hay không. Việc cho rằng nên thay đổi nhận thức xã hội trước khi thừa nhận hôn nhân cùng giới chỉ là một cách trì hoãn hay lảng tránh câu hỏi về bình quyền. Thực tế xã hội và pháp luật luôn cần đi song song, sự thay đổi nào cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự thay đổi kia.

154 Hướng tới tương lai 155

đồng tính vì nó là quyền được sống thực với gì mình có - đó là quyền con người.” Còn theo Đoàn Thanh niên, “Luật Hôn nhân và gia đình cần xóa bỏ sự phân biệt đối xử về giới. Luật Hôn nhân và gia đình nên cho phép những người đồng giới tính kết hôn với nhau.”

Hai cơ quan đi tiên phong trong việc bảo vệ quyền bình đẳng cho người đồng tính đã viện dẫn những lý do như sự tồn tại thực tế của cộng đồng người đồng tính và song tính ở Việt Nam. Những cấm đoán trong hôn nhân, cũng như sự thiếu hiểu biết của xã hội đã dẫn đến những hậu quả tiêu cực cho người đồng tính. Bên cạnh đó, khoa học đã chứng minh đồng tính là một xu hướng tính dục tự nhiên, bình thường và cần được tôn trọng. Nhưng trên hết, hai cơ quan này cho rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới “nhằm đảm bảo tính nhân bản, công bằng và bình đẳng trong công nhận, thực hiện và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình.”

Khác với quan điểm ủng hộ của Bộ Y tế và Đoàn Thanh niên, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (gọi tắt là Hội Phụ nữ) đang phản đối thừa nhận hôn nhân bình đẳng cho người đồng tính. Lý do phản đối được đưa ra bởi Hội Phụ nữ là do “số lượng người đồng tính chưa được xác định rõ ràng, không có nhiều các nước công nhận hôn nhân đồng tính; mục đích của hôn nhân và gia đình ngoài việc thoả mãn nhu cầu cá nhân còn bảo đảm thực hiện 5 chức năng của gia đình và

Ai ủng hộ, ai phản đối hôn nhân cùng giới và phương án nào cho Việt Nam?

Mạnh Hải

Hội nghị toàn quốc về thi hành luật hôn nhân và gia đình sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 16 tháng 4 năm 2013. Đây là Hội nghị quan trọng và được chủ trì bởi Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Bộ trưởng Bộ tư pháp Hà Hùng Cường. Trong nhiều nội dung khác nhau, điều khoản liên quan đến hôn nhân cùng giới chắc chắn sẽ nhận được mối quan tâm đặc biệt. Tuy dư luận xã hội đã ủng hộ quyền bình đẳng trong hôn nhân cho người đồng tính, phản ánh rất rõ trên báo chí truyền thông, các cơ quan công quyền vẫn đang chia rẽ trước câu hỏi “có nên hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới hay không?” Điều này được thể hiện trên quan điểm chính thức của họ gửi về Bộ tư pháp trước ngày khai mạc Hội nghị.

Bộ Y tế và Đoàn Thanh niên là hai đại diện trong nhóm có quan điểm ủng hộ hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới. Theo đề xuất chính thức của Bộ Y tế, “cho phép kết hôn

156 Hướng tới tương lai 157

đồng tính. Các cơ quan này đều thừa nhận quyền bình đẳng của người đồng tính, nhưng có những lo ngại về ảnh hưởng của hôn nhân cùng giới lên xã hội, trẻ em nuôi dạy trong gia đình đồng tính hoặc khả năng duy trì nòi giống. Những lo ngại này đã được nhiều nghiên cứu trên thế giới chứng minh là không có căn cứ, nhưng do chưa được phổ biến ở Việt Nam nên vẫn được viện dẫn.

Thuộc nhóm này, Viện Khoa học Kiểm sát thuộc Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cho rằng “Để bảo đảm quyền con người, Luật không nên quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” . Tuy nhiên, việc thừa nhận hôn nhân của người đồng tính cần cân nhắc một số hệ lụy về mặt xã hội như “những người bình thường về mặt giới tính lợi dụng có quan hệ đồng tính vì mục đích xấu do y học không dễ dàng phân biệt được các trường hợp này”; hoặc việc nuôi dạy con nuôi, hoặc con đẻ của các cặp đôi đồng tính “bị định hướng sai lệch về giới tính, về chức năng của từng loại giới tính”. Chính vì vậy, tuy đồng ý không cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, nhưng “cần bổ sung quy định trường hợp người cùng giới tính có quan hệ chung sống có yêu cầu ly hôn thì Tòa án không công nhận họ là vợ chồng.”

Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre cho rằng “việc luật hóa ngay việc kết hôn đồng tính có thể chưa phù hợp trong điều kiện hiện nay, nhưng phải có quy định để giải quyết những hậu quả pháp lý phát sinh thực tế từ việc sống chung giữa những người đồng tính.” Chính vì vậy “Luật không thể cấm

không phù hợp với phong tục, tập quán của Việt Nam.” Theo Hội Phụ nữ, có thể thay khoản 5 điều 10 đang cấm hôn nhân cùng giới, bằng một điều khoản chung như “Nhà nước không thừa nhận việc kết hôn giữa những người có cùng giới tính với nhau”. Quy định này “vừa giải quyết được băn khoăn của người đồng tính, vừa bảo đảm tôn trọng quyền con người của họ dưới góc độ dân sự và hạn chế tối đa những quy định cấm.Những khía cạnh khác liên quan đến quyền nhân thân của người đồng tính nên được quy định trong pháp luật về Dân sự.”

Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội thừa nhận “việc xã hội đang hiểu biết rất hạn chế về đồng tính. Đa số đang hiểu sai ít hoặc nhiều về người đồng tính. Tuy nhiên, Luật quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính là phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống của người Việt Nam cũng như mục đích của việc kết hôn.” Chính vì vậy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị “tiếp tục quy định cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính như Luật hiện hành, không can thiệp vào việc sống chung như vợ chồng giữa những người cùng giới tính, không quy định về quyền và nghĩa vụ giữa các bên cùng giới tính trong quan hệ chung sống như vợ chồng để đảm bảo sự phù hợp về tâm, sinh lý của các cặp vợ chồng và phong tục, tập quán của người Việt Nam.”

Bên cạnh hai cực ủng hộ và phản đối hôn nhân cùng giới, một số cơ quan trung ương và địa phương khác có quan điểm “thỏa hiệp” trong việc bảo vệ quyền của người

158 Hướng tới tương lai 159

là “giữ nguyên như quy định hiện hành” (tức là vẫn cấm hôn nhân cùng giới).

Như vậy, Bộ tư pháp đang đưa ra ba phương án thể hiện các mức độ khác nhau trong việc thừa nhận quyền bình đẳng trong hôn nhân của người đồng tính. Nhưng chiếu theo Báo cáo tổng kết của Bộ tư pháp về công tác thực hiện Luật HN&GĐ thì “vấn đề kết hôn của những người đồng tính và việc thực hiện, bảo vệ các quyền con người của họ đã và đang là vấn đề thực tiễn ở Việt Nam,” và ”cần nhìn nhận đồng tính là một xu hướng tính dục tự nhiên, việc thừa nhận cũng là tự nhiên, không nên ngăn cấm” thì thiết nghĩ việc lựa chọn phương án hai là hoàn toàn hợp lý. Điều này sẽ giúp giải quyết những định kiến, kỳ thị và phân biệt đối xử mà người đồng tính và gia đình họ đang phải chịu đựng. Nó cũng thể hiện cam kết bảo vệ quyền con người của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Và trên hết, nó sẽ bảo vệ “quyền kết hôn của người đồng tính nói riêng, đảm bảo tính nhân bản, công bằng và bình đẳng trong công nhận, thực hiện và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình” như Bộ tư pháp đã kết luận trong Báo cáo tổng kết của mình.

họ “Chung sống như vợ chồng”, thiết lập tài sản chung, thậm chí là “con chung” (con nuôi với cập đôi đồng tính nam) và con đẻ của một bên (với cập đôi đồng tính nữ)”. Còn Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa chưa ủng hộ hôn nhân cùng giới nhưng thừa nhận “hiện nay tại Việt Nam cộng đồng người đồng tính ngày càng có xu thế mở rộng, cùng với nhu cầu được kết hôn hoặc chung sống với nhau ngày càng tăng lên từ đó làm phát sinh các quan hệ về nhân thân, tài sản hoặc về con (con nuôi, con thụ tinh ống nghiệm...) và cần phải có cơ chế pháp lý để điều chỉnh các quan hệ này. Do vậy, nên bổ sung quy định về hậu quả pháp lý của việc sống chung của những người đồng giới.”

Rõ ràng quan điểm của các cơ quan nhà nước đang rất khác nhau và được viện dẫn các lý do khác nhau. Bộ tư pháp, cơ quan chủ trì việc soạn thảo, đang đưa ra ba phương án cho hôn nhân cùng giới. Theo phương án một, Luật HN&GĐ sửa đổi sẽ “Không quy định theo hướng cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính như Luật hiện hành mà quy định theo hướng không thừa nhận hôn nhân của những người cùng giới tính; Không can thiệp vào việc sống chung như vợ chồng giữa những người cùng giới tính. Quy định về quyền và nghĩa vụ giữa các bên cùng giới tính trong quan hệ chung sống như vợ chồng theo giải pháp quy định về việc chung sống như vợ chồng giữa những người khác giới.” Phương án hai là “thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Và phương án ba

160 Hướng tới tương lai 161

nên không thể thống kê đầy đủ. Hơn nữa, đã là quyền con người thì dù là đa số, hay thiểu số đều bình đẳng và cần bảo vệ); Hai là chưa có nhiều nước công nhận hôn nhân đồng tính (đúng là số nước thừa nhận đang là thiểu số, nhưng xu hướng ngày càng tăng); Ba là trái với phong tục tập quán của Việt Nam (điều này mơ hồ vì bản thân Hội Phụ nữa chưa bao giờ nói rõ phong tục tập quán họ viện dẫn là gì.)

Nhưng điều quan trọng, Hội Phụ nữ không coi quan hệ tình cảm, yêu đương và gắn bó giữa hai người đồng tính là quan hệ “hôn nhân” và “gia đình”. Chính vì vậy, ngoài việc không thừa nhận, họ còn đề nghị “những khía cạnh khác liên quan đến nhân thân của người đồng tính nên được quy định trong pháp luật về dân sự.” Đây thực sự là vấn đề lớn, vì theo quan điểm này, quan hệ giữa hai người đồng tính được ví như những giao dịch dân sự khác, như giữa hai người xa lạ mua bán hàng hóa, hợp tác làm ăn, vay nợ, hoặc thuê nhà ở chung. Như vậy, Hội Phụ nữ phân biệt tình cảm giữa hai con người dị tính là “tình cảm gia đình” còn tình cảm giữa hai người đồng tính là “giao dịch dân sự”. Từ đó, đề nghị đối xử với hai “loại tình cảm” này khác nhau, quy định trong hai bộ luật khác nhau.

Theo website chính thức của Hội Phụ nữ, nhiệm vụ của Hội là “đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới” . Đây là sứ mệnh tổ chức

Phản đối hôn nhân cùng giới - Hội Phụ nữ làm khó mìnhMạnh Hải

Gần đây dư luận xã hội khá quan tâm đến việc Liên hiệp Hội Phụ nữ Việt Nam (viết tắt là Hội Phụ nữ) phản đối hôn nhân cùng giới. Ý kiến của họ được để ý tới vì Hội Phụ nữ thường được gắn với những vấn đề liên quan đến gia đình và bình đẳng giới. Nhưng cũng cần phải làm rõ, ý kiến của Hội Phụ nữ không phải là ý kiến của tất cả hội viên, càng không phải là ý kiến của tất cả những người phụ nữ Việt Nam khác.

Trước khi phân tích lý do tại sao Hội Phụ nữ nên ủng hộ hôn nhân cùng giới, chúng ta nên hiểu sâu hơn về quan điểm chính thức của họ ghi trong Báo cáo: “Thực trạng lồng ghép giới trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 – Bất cập, hạn chế và đề xuất sửa đổi, bổ sung.” Về cơ bản, Hội Phụ nữ không nhất trí với hôn nhân cùng giới vì ba lý do. Một là số lượng người đồng tính chưa được xác định rõ ràng (chắc chắn điều này không bao giờ làm được vì ở đâu cũng có nhiều người đồng tính không công khai

162 Hướng tới tương lai 163

ngăn cản sự tiến bộ thực sự của bình đẳng giới ở Việt Nam. Nhưng điều đáng lưu ý, cộng đồng những người đồng tính, song tính và chuyển giới là nhóm ủng hộ bình đẳng giới nhất, mạnh hơn cả nhóm nam giới dị tính và nữ giới dị tính. Họ cởi mở hơn với những giá trị tự do, bình đẳng, và trung lập về giới, cho cả phụ nữ và nam giới. Rõ ràng, khi phản đối hôn nhân cùng giới, Hội Phụ nữ đang phản đối quyền của những người có giá trị cổ súy cho bình đẳng giới nhất.

Phản đối hôn nhân cùng giới, Hội Phụ nữ cũng phản đổi các hình mẫu gia đình có tác dụng tích cực đến bình đẳng giới. Các nghiên cứu quốc tế về hôn nhân cùng giới có những phát hiện rất thú vị về vai trò giới trong gia đình và xã hội. Ví dụ, nghiên cứu của Badgett ở Mỹ cho thấy, việc cho phép kết hôn cùng giới đã có những ảnh hưởng tích cực lên bình đẳng giới trong hôn nhân truyền thống. Điều này là do gia đình đồng giới có tính bình đẳng tương đối cao, hai người ít có sự phân công lao động hay trách nhiệm theo giới. Công việc được chia sẻ, đàn ông chăm con, làm việc nhà, hay người phụ nữ làm các công việc “nam tính” là điều bình thường. Hình ảnh này đã bình thường hóa việc đàn ông chia sẻ công việc nội trợ, và phụ nữ tham gia vào hoạt động xã hội.

Rõ ràng, việc phản đối hôn nhân cùng giới không có lợi cho quyền và lợi ích của phụ nữ nói chung, và gây hại cho phụ nữ đồng tính và song tính nói riêng. Thiết nghĩ,

nên tất cả các quan điểm, hành động và phát ngôn mà Hội phải hướng tới. Tuy nhiên, trong vấn đề hôn nhân cùng giới, Hội Phụ nữ dường như đang đi ngược lại sứ mệnh của mình.

Chúng ta đều biết, nếu lấy tỉ lệ 3% thì có khoảng 800.000 phụ nữ Việt Nam là người đồng tính và song tính. Nếu thực sự Hội Phụ nữ đại diện cho quyền lợi của họ, thì Hội cần phải bảo vệ quyền bình đẳng trong kết hôn và xây dựng gia đình với người mình yêu cho những người phụ nữ này. Hơn nữa, phản đối hôn nhân cùng giới cũng có nghĩa gián tiếp tạo điều kiện cho việc kết hôn giả giữa người đồng tính với người khác giới. Điều này dẫn đến sự bất hạnh cho hội viên của họ, cũng như nguy cơ tan vỡ của các gia đình không được xây dựng trên tình yêu và sự chia sẻ. Nếu tính cả những người mẹ, người chị có con em là người đồng tính, thì số phụ nữ mà quyền lợi của họ bị ảnh hưởng bởi quan điểm phản đối, sẽ là con số hàng triệu người.

Theo một số nghiên cứu về nam tính, nữ tính và định kiến giới gần đây cho thấy, phụ nữ đang là nhóm có tỉ lệ cao nhất muốn níu kéo và bảo vệ các giá trị truyền thống, cao hơn cả nhóm nam giới. Họ mong muốn phụ nữ cần phải dịu dàng, chăm chỉ, giỏi việc nước, đảm việc nhà, nói cách khác phải nữ tính. Điều này đóng khuôn phụ nữ trong vai trò giới định sẵn, chịu sự áp đặt, và đôi khi cả bạo lực tinh thần và thể xác. Đây là một trong các lý do quan trọng

164 Hướng tới tương lai 165

Sửa Hiến pháp để bảo vệ quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới

Bình Lê

Câu mở đầu trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền nêu rõ “mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và về các quyền.” Còn khẩu hiệu của Hội nghị thế giới Vienna về quyền con người năm 1993 là “tất cả các quyền con người dành cho mọi người.” Đây là những nguyên tắc cơ bản về quyền con người, được thể hiện trong các công ước và văn kiện quốc tế về nhân quyền. Nhà nước phải có trách nhiệm không xâm phạm, bảo vệ và tạo điều kiện cho người dân được hưởng các quyền của mình.

Hiến pháp của bất cứ quốc gia nào đều thể hiện khát vọng bảo vệ quyền con người của nhân dân và phát triển đất nước công bằng, bình đẳng và bền vững. Điều này có nghĩa mọi người dân không phân biệt giới tính, tôn giáo, sắc tộc, tình trạng cơ thể, xu hướng tính dục và bản dạng giới... đều có quyền bình đẳng như nhau, và quyền của họ được bảo vệ bởi Hiến pháp và pháp luật.

Hội Phụ nữ nên xem xét kỹ lưỡng, khách quan, và dựa trên các bằng chứng khoa học và thực tế để đưa ra quyết định của mình. Đã đến lúc, họ cần tiếp xúc và gặp gỡ các hội viên là phụ nữ đồng tính, hay có con em là đồng tính để tìm hiểu thực tế. Quyết định dựa trên những giá trị mơ hồ hay định kiến có sẵn, chắc chắn không có lợi cho con người, xã hội và ảnh hưởng đến sứ mệnh thúc đẩy bình đẳng giới của bản thân Hội.

166 Hướng tới tương lai 167

Điều 39 có nói (1) Nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Điều này không đảm bảo quyền kết hôn và lập gia đình của người đồng tính, song tính và người chuyển giới. Chính vì vậy, điều 39 nên được sửa thành (1) mọi công dân có quyền kết hôn và ly hôn. Hai người độc thân có quyền kết hôn theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, tôn trọng lẫn nhau. Sửa như vậy sẽ đảm bảo quyền của tất cả mọi người, không trừ một ai.

Để trọn vẹn, khoản 2 điều 17 nên bổ sung đời sống gia đình vì rõ ràng hiện tại có rất nhiều phân biệt đối xử với người đồng tính, song tính và chuyển giới xảy ra trong môi trường gia đình. Vì thiếu hiểu biết, chịu sức ép định kiến xã hội mà nhiều bậc cha mẹ, anh em, họ hàng đã có hành vi ngược đãi, đánh đập, thậm chí là tước quyền học tập, chăm sóc sức khỏe chỉ vì con em họ là người đồng tính, song tính hoặc chuyển giới. Chính vì vậy, khoản 2 điều 17 nên được sửa là (2) Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, và gia đình.

Đây là những sửa đổi quan trọng để đảm bảo chương II, chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thực sự bảo vệ quyền bình đẳng của tất cả mọi người. Các chuyên gia, các tổ chức bảo vệ quyền con người cần lên tiếng. Đặc biệt, cộng đồng người đồng

Thể hiện khao khát này, trong dự thảo Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi năm 2013) đang đưa ra lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 2013, nội dung về quyền con người đã được đưa từ chương V lên chương II thể hiện cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, điều 27 và điều 39 trong dự thảo sửa đổi này chưa tuân theo nguyên tắc bình đẳng và bảo vệ quyền của tất cả mọi người.

Điều 27 có nói (1) Công dân nam, nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình; (2) Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; (3) Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới. Tất cả con người có quốc tịch Việt Nam đều là công dân Việt Nam (điều 18) và đã là công dân thì phải bình đẳng. Tuy nhiên, khi điều 27 nhấn mạnh “công dân nam, nữ” vô hình chung đã loại bỏ những công dân là người chuyển giới hoặc người liên giới tính. Chính vì vậy, Điều 27 nên bỏ yếu tố giới mà chỉ nên dùng từ “công dân” vì như vậy sẽ đảm bảo quyền bình đẳng cho tất cả mọi người. Bên cạnh đó, ở khoản 3 điều 27 nên bổ sung việc nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về xu hướng tính dục và bản dạng giới vì nó liên quan đến yếu tố gia đình.

168 Hướng tới tương lai 169

12 điều người đồng tính Việt Nam không nên nói nữaSáu Sắc

Đây hẳn sẽ là một danh sách khó khăn vì chính người viết cũng đã từng nói nhiều trong số những câu nói dưới đây. Việc lựa chọn câu nói nào được đưa vào danh sách chủ yếu được phân tích trên khía cạnh thái độ và cảm xúc của người nghe, cũng như sự tương hợp của tác động câu nói đối với mục tiêu mà cộng đồng người đồng tính đang hướng tới.

1. “Tôi vừa công khai giới tính thật của mình…”

Vậy “giới tính giả” của bạn là gì? Giới tính của loài người có nam, nữ và tình trạng liên giới tính (không xác định rõ là nam hay nữ). Còn “giới tính thật” bạn đang muốn nói là “xu hướng tính dục”, là việc một người thích người cùng giới, khác giới hay cả hai chứ không liên quan giới tính nam hay nữ của bạn. Thêm nữa, đừng dùng cụm từ “bị đồng tính” hay “người bình thường” để nói về người dị tính, vì đồng tính cũng hoàn toàn là bình thường và không phải là một điều tiêu cực. Nếu muốn tránh dùng

tính, song tính và chuyển giới nên gửi ý kiến trực tiếp của mình cho Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 theo địa chỉ http://duthaoonline.quochoi.vn/Pages/default.aspx để đảm bảo quyền bình đẳng, quyền kết hôn và quyền mưu cầu hạnh phúc của mình được ghi trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.

170 Hướng tới tương lai 171

giỏi của công ty”, hay “tôi vẫn hiếu thuận với gia đình.” Theo ngữ pháp tiếng Việt, thì vế “mặc dù” này sẽ có sắc thái ngược lại, tức là nó là một điều tiêu cực, không mong muốn. Việc là một người đồng tính thì tương phản hay ngăn cản gì việc bạn làm những điều tốt, hay rộng hơn, khiến bạn không được là một người với đầy đủ mặt tốt và cả xấu?

5. “Bạn đồng tính rồi thì hãy cố sống tốt, sống có ích là được.”

Đây là câu thường nghe những người đồng tính an ủi, động viên nhau và lặp lại trong các chuyên mục tư vấn tâm lý. Câu nói này xem chuyện sống tốt, sống có ích là một sự bù đắp, chuộc gỡ cho việc là người đồng tính. Như vậy, nó cũng hàm ý đồng tính là một điều tiêu cực, không mong muốn. Việc lấy xu hướng, bản dạng thiểu số làm động lực phấn đấu (hoặc gây áp lực để người khác phấn đấu) có thể dễ hiểu trong giai đoạn còn bất bình đẳng, tuy vậy, khuyến khích điều này để làm gì? Chuyện sống tốt, sống có ích liên quan đến mục tiêu chung của con người. Vận động cho quyền bình đẳng chính là để cho mỗi một người, dù là ai và yêu ai, đều có điều kiện hướng thiện và cải thiện cuộc sống như nhau.

6. “Không ai có quyền lựa chọn giới tính của mình khi sinh ra, nhưng có quyền lựa chọn cách sống với giới tính mà mình đang có.”

Đây là câu thoại từ bộ phim “Hot boy nổi loạn” được nhiều người yêu thích và hay trích lại như một tuyên ngôn.

thuật ngữ khó hiểu, cứ đơn giản nói “Tôi vừa công khai mình là người đồng tính” một cách thật tự tin.

2. “…những người như chúng em/tôi.”

Nhiều người đồng tính rất ngần ngại khi phải nói ra từ “đồng tính.” Thật ra đây cũng là cảm giác của cả những người dị tính khi hay nói “Nó cũng là người ‘giống vầy’ hả?” một cách rất e ngại như thể nói ra từ “đồng tính” sẽ khiến họ ngất xỉu ngay lập tức. Điều này thể hiện bạn vẫn xem đồng tính là một điều cấm kỵ và nhạy cảm. Vậy nên đề nghị “chúng em” là ai thì cứ nói ra - đồng tính, chuyển giới - để người nghe khỏi phải đoán mò!

3. “Xin đừng kỳ thị những người thuộc thế giới thứ ba.”

Bạn không cần van xin ai cả, chúng ta có quyền để không bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Ai kỳ thị bạn thì người đó đang vi phạm quyền con người. Thêm nữa, “thế giới thứ ba” là thuật ngữ để chỉ những nước kém phát triển, ở hoàn cảnh Việt Nam thì là được dùng gọi chung cho cả người đồng tính, chuyển giới và mang tính phân tách xã hội cao. Thế giới này quá nhỏ bé để phân thành thế giới thứ nhất hay thứ hai, vì một thế giới công bằng là đủ cho tất cả.

4. “Mặc dù là một người đồng tính…”

Theo sau cấu trúc câu này luôn luôn là một vế có nội dung rất tốt đẹp, dạng như “anh ấy vẫn là một nhân viên

172 Hướng tới tương lai 173

tự giới thiệu về cộng đồng, vì thật sự không có căn cứ khoa học nào để nói như vậy cả. Thêm nữa, người đồng tính không phải là búp bê mà tất cả đều xinh đẹp, hoàn hảo như nhau. Chúng ta cũng như tất cả mọi người, có những người tốt, kẻ xấu, những người rộng lượng cũng như hẹp hòi, người giỏi và không giỏi. Việc xây dựng hình ảnh lung linh về người đồng tính có thể tạo ấn tượng, nhưng không thể tạo niềm tin về lâu dài.

9. “Hôn nhân cùng giới có ích vì dân số thế giới đang quá nhiều, trẻ em mồ côi sẽ được chăm sóc.”

Thoạt nghe thì câu nói này rất ổn, rất có lý. Tuy nhiên nó xuất phát từ việc xem người đồng tính chỉ nên được ủng hộ khi họ đi giải quyết những hậu quả mà người dị tính gây ra: dân số đông, trẻ em bị bỏ rơi. Vậy nếu người đồng tính vẫn muốn có con sinh học của mình, làm tăng dân số, không nhận nuôi trẻ em mồ côi thì chúng ta không có quyền kết hôn sao? Điều này cũng tương tự như nói “người nhập cư cũng rất có ích vì họ chịu khó làm những công việc vất vả, lương thấp mà ở đô thị không ai chịu làm” vậy. Sự chấp nhận không nên có điều kiện kèm theo.

10. “Thừa nhận hôn nhân cùng giới sẽ giúp người đồng tính chung thủy hơn.”

Thứ nhất, chưa có một nghiên cứu khoa học uy tín và toàn diện nào cho thấy người đồng tính có bản chất không

Không nhắc tới thuật ngữ “giới tính” như đã đề cập bên trên, vấn đề của câu nói này đó là nó tiếp tục xu hướng xem đồng tính như một điều không mong muốn hoặc không may mắn, từ đó đưa ra giải pháp là sống tích cực với hoàn cảnh đó. Thật ra người dị tính khi sinh ra họ cũng không lựa chọn mình sẽ thích người khác giới, nhưng họ có “lựa chọn cách sống” với điều đó hay không? Đứng trên quan điểm bình đẳng thì chỉ đơn giản là “tôi có quyền quyết định cuộc sống của tôi.”

7. “Thật ra tôi cũng không muốn mình như vậy.”

“Như vậy” là “đồng tính” hay là “bị kì thị”? Hãy phân biệt thật sự vấn đề bạn không mong muốn là gì: là việc bạn là người đồng tính, hay là việc bạn bị kì thị vì là người đồng tính? Tương tự như câu “Nếu được lựa chọn tôi không muốn mình là người đồng tính.” Thứ nhất, việc bạn có sự hấp dẫn tình cảm với giới nào thì bạn hay bất kỳ ai cũng không lựa chọn được. Thứ hai, cái cần thay đổi là thái độ xã hội đối với bạn chứ không phải bản thân việc bạn là người đồng tính. Và thứ ba, cách nói đó cũng không khiến người nghe thấy cảm thương vì sự “bất hạnh” của bạn đâu!

8. “Người đồng tính rất có tài, vượt trội hơn người dị tính trong nhiều lãnh vực.”

Nhận định trên thường được đưa ra để gây thiện cảm, tuy nhiên nó nên được người khác nói ra hơn là việc bạn

174 Hướng tới tương lai 175

xảy ra với nhiều phụ nữ khi mà phong trào nữ quyền diễn ra. Nhiều phụ nữ, nhất là những người đang có cuộc sống tương đối dễ chịu, thường cho rằng phụ nữ không nên đòi hỏi quá nhiều. Đối với người đồng tính thì đó là tâm lý sợ rằng nếu kêu gọi quyền bình đẳng thì người ta sẽ nghĩ rằng mình đang muốn đặc quyền, trong khi thực tế nó chỉ là những quyền cơ bản ai cũng có. Tóm lại là bạn có quyền ngồi im, nhưng bạn không có quyền ngăn cản người khác đứng dậy!

Và điều cuối cùng…

Đừng nói “bạn không được nói như vậy” khi bạn có nghe ai nói một trong những điều trên. Hãy bắt đầu bằng việc giải thích, đặt câu hỏi gợi mở chứ không phải ngay lập tức dập tắt những phát ngôn của người khác. Rất khó để chính bản thân chúng ta cũng thực sự ngẫm nghĩ lại những gì lâu nay chúng ta vẫn hay nói ra. Và sự thay đổi tốt hơn chỉ xảy ra khi chúng ta hiểu rõ và tự lựa chọn lấy sự thay đổi đó.

chung thủy. Thứ hai, chúng ta không thể lấy một vài trường hợp công khai không chung thủy để đổ lỗi đó là hậu quả của việc pháp luật không thừa nhận hôn nhân cùng giới. Thứ ba, hôn nhân cùng giới hay khác giới đều có thể dựa trên nhiều giá trị khác nhau, cũng như đều có hợp có tan không chỉ vì chung thủy hay không. Một người đồng tính hay dị tính không cần (và cũng không thể) chứng minh mình sẽ chung thủy thì mới được quyền kết hôn, vì vậy không thể lấy sự chung thủy để “mặc cả” quyền được kết hôn.

11. “Được kết hôn mà gia đình không thừa nhận thì cũng như không.”

Vậy bạn có muốn không được kết hôn và gia đình không thừa nhận luôn không? Tương tự câu này là câu “pháp luật thừa nhận mà xã hội còn kỳ thị thì cũng vô ích.” Sự bảo vệ của pháp luật và thái độ của xã hội cũng như hai cái chân đang bước đi. Tất nhiên không thể chỉ cử động một chân mà muốn đi tới đích, nhưng tùy hoàn cảnh thuận lợi thì việc bước chân nào lên cũng sẽ kéo chân còn lại tiến tới. Còn nếu được, thì cứ nhảy cóc cả hai chân cùng lúc!

12. “Các bạn đừng làm quá người ta ghét mình luôn. Cứ bình thường đi mà sống.”

Nhìn vào sâu bên trong câu nói này là một sự mặc cảm thua kém dẫn tới tự nhượng bộ. Điều này cũng từng

176 Hướng tới tương lai 177

tôi có thể đối diện với bạn bè, làm sao tôi có thể đối diện với gia đình, làm tôi, làm sao tôi có thể đối diện với chính tôi?

Tôi đồng ý sống theo cách mà người khác muốn. Tôi đồng ý tự tay giấu đi hạnh phúc của chính mình. Tôi đồng ý ở trong góc tối và đồng ý với cô đơn. Tất cả đều chống lại tôi, trong đó có cả chính tôi. Tôi thấy day dứt và sợ hãi chính mình. Tôi nhắm mắt lại khi đọc một bài báo nói về những người giống tôi, tôi bịt tai lại khi nghe ai đó bình luận bằng những từ ngữ miệt thị. Tôi ước phải chi mình đừng là mình. Đừng-là-mình.

* * *

Năm 2008, cộng đồng người đồng tính, song tính và chuyển giới hoạt động rời rạc trong những diễn đàn trên mạng internet. Có cả những mâu thuẫn về quan điểm, cách làm, đồng tính nữ không chơi với đồng tính nam, đồng tính nam kỳ thị người chuyển giới, không diễn đàn nào tìm được tiếng nói chung với nhau.

Cho đến một ngày. Có một dự án huy động sự tham gia của tất cả các diễn đàn. Lần đầu tiên điều hành viên của các website gặp mặt nhau. Và quan trọng hơn, là cùng nhau làm một dự án có tên gọi: Vì một hình ảnh tích cực của cộng đồng LGBT. Chúng tôi bắt đầu kết nối với nhau, cùng thống nhất đứng chung với nhau trên một con đường. Cũng có những vấp ngã, thất bại đầu tiên khi không phải tất cả chúng tôi đều cùng tìm được tiếng nói.

Bước tới tự doSáu Sắc

Được sinh ra trong cuộc đời này đã là một điều may mắn. Tiếng khóc chào đời đánh thức tình yêu mà cha mẹ và gia đình dành cho chúng ta. Cũng như tất cả mọi người, người đồng tính, song tính và chuyển giới, đến với cuộc sống này bằng tình yêu thương. Chúng tôi lớn lên trong sự vô tư và bình yên.

Ở tuổi mới lớn, cuộc sống mở ra trước mắt chúng tôi những điều thật thú vị. Tôi say mê khám phá cuộc sống, khám phá chính bản thân mình. Trong những xao động đầu tiên của tuổi trẻ, tôi thấy mình biết khẽ khàng rung cảm khi đứng trước một con người. Và trong nhịp loạn của con tim, tôi phát hiện ra: người khiến tôi rung động là một người cùng giới.

Tôi im lặng. Không một sách vở nào nói cho tôi biết về điều này. Báo chí nói đó là sự bất thường, biến thái, bệnh hoạn, lệch lạc. Trong sự bối rối tột cùng, tôi chui mình vào trong tủ áo. Chỉ có bóng tối mới che chở cho tôi. Làm sao

178 Hướng tới tương lai 179

phải bởi mặt trời, mà bởi chúng ta đã dám mở mắt ra để nhìn nó.

* * *

Niềm vui thật vô tư và giản đơn chỉ là hạnh phúc, khi được nói hết những yêu dấu trong lòng ra. Tôi muốn được hạnh phúc, và hạnh phúc cần được thừa nhận. Có người lại nói rằng hãy chờ xã hội thay đổi. Nhưng tôi nhận ra rằng mình không thể chờ ai đó mang tới sự thay đổi, mà mình phải là sự thay đổi. Từ năm 2012, lần đầu tiên, chúng tôi nói về quyền, về luật, về điều khoản, những thứ thật xa lạ trước đây. Các cuộc đối thoại chính sách với nhà làm luật liên tiếp diễn ra. Giờ đây đồng hành cùng chúng tôi, còn có cả chính bố mẹ và gia đình của chúng tôi. Lần đầu tiên, chúng tôi tin mình sinh ra bình đẳng, thì tình yêu con người dành cho nhau nhất quyết cũng phải bình đẳng như vậy. Có người lại nói hãy còn quá sớm, nhưng chúng tôi tin, không bao giờ là quá sớm để bắt đầu những điều tốt đẹp.

* * *

Thế giới này quá nhỏ bé để phân thành thế giới thứ hai hay thứ ba, vì một thế giới công bằng là đủ cho tất cả. Tôi chỉ sống một lần, cuộc sống này là của tôi, và tôi là một phần của cuộc sống. Tương lai nằm ở phía trước, con đường tôi đi cũng nằm ở phía trước. Niềm vui quá nhiều và thử thách cũng không ít. Tôi hiểu hạnh phúc không

Nhưng điều quan trọng nhất, đã có một bàn tay đặt lên vai tôi. Tôi gọi họ là những người bạn đồng hành. Họ giống tôi, họ muốn tôi cùng đứng lên. Tháng 4/2009, bài báo đầu tiên của dự án ICS ra đời có tên gọi nghe thật giản dị: “Thế giới không có người bất bình thường.” Tôi chảy nước mắt khi biết rằng mình không đơn độc. Những cánh cửa liên tiếp mở ra, cho tôi thấy đằng sau là từng con người đang hy vọng. Những vấp váp đầu tiên, cho tôi thấy lên tiếng không bao giờ là dễ dàng. Những bàn tay nắm lấy nhau, những nụ cười trao cho nhau, những cánh vai tựa nhau cùng đứng lên không mệt mỏi. Tôi tin hạnh phúc là sống thật. Được là chính mình.

* * *

Từ năm 2009 đến năm 2011, hàng loạt sự kiện do chính cộng đồng LGBT được đông đảo người dân Việt Nam biết đến: triển lãm ảnh, tập huấn, nghiên cứu, hội thảo, sự kiện cộng đồng… Tôi nhận ra rằng dưới vòm trời này không có gì là khác biệt, hoặc giả mọi thứ đều là khác biệt. Yêu chỉ là yêu và người cũng là người. Những bí mật biến mất, tôi trở thành người tự do. Ngọn cờ cầu vồng đã cuốn đi bóng tối, sợ hãi trong từng người, trở thành biểu tượng tự hào và đa dạng. Những người ủng hộ lên tiếng. Những người phản đối cũng lên tiếng. Những ý kiến va đập vào nhau. Nhưng tôi tin mình có lý do để lên tiếng. Con đường đi ngập tràn ánh sáng, không

180 Hướng tới tương lai 181

ba người bạn thân nhất của ông, tình cờ đều công khai họ là người đồng tính trong ba tháng liên tiếp. Điều này xé toạc tất cả những niềm tin mà ông từng có về đồng tính: đồi bại, tội lỗi, phi tự nhiên, trái đạo đức. Ông không biết làm gì. Và ông đã học cách lắng nghe, và lên tiếng.

Chúng ta đang nói về sự thay đổi. Hay rộng hơn, là sự hòa giải của tình yêu.

Sự thay đổi là khởi đầu, nhưng sự hòa giải mới thực sự sẽ làm đầy cuộc sống. Hòa giải luôn là một việc khó khăn, vì nó buộc người ta phải nhớ đến những điều tổn thương họ đã làm, những sự thiếu thông tin họ đã có. Mỗi bên, vốn luôn mâu thuẫn về niềm tin, lại phải đến bên nhau để cùng nghĩ tới những điều tốt đẹp của nhau.

Ở Việt Nam, một người mẹ tên Thủy có con là người đồng tính viết thư tâm sự, có đoạn: “56 tuổi rồi tôi mới hiểu được rằng, đồng tính không phải là bệnh, mà là một điều hoàn toàn tự nhiên. Tôi đã mất hơn 10 năm để hiểu con, để lại những tổn thương không thể hàn gắn. Nhưng giờ đây tôi đã có thể nói về con với tất cả mọi người, rằng tôi tự hào về nó.”

Nói về quá khứ không hề là một điều dễ dàng. Giây phút khi một người nói rằng “tôi đã từng không đồng ý”, giây phút đó, họ đã sống lại tất cả những niềm tin một thời từng khiến họ không chạm tới được trái tim của những con người mà họ không thực sự hiểu hết: người đồng tính là ai, tình yêu của họ như thế nào, tâm tư của họ là gì, mình thực sự có quyền gì quyết định cuộc sống của họ hay không?

nằm ở đích đến mà nằm ở từng bước chân mà chúng ta dám bước lên. Định mệnh ở trong mỗi bước chân. Và tôi là người nắm giữ nó.

Tôi đã từng không đồng ý!Trong chiến dịch “Tôi Đồng Ý” nhằm giúp những

người ủng hộ hôn nhân cùng giới có cơ hội lên tiếng, nhà báo Tạ Bích Loan đã tham gia chụp hình với tấm bảng “Tôi Đồng Ý.” Khi được hỏi chị muốn nêu cảm nhận gì về hôn nhân cùng giới, chị đã phát biểu rất ngắn gọn: “Tôi đã từng không đồng ý.”

Năm 2010 tại Chicago (Hoa Kỳ) trong một lễ hội ngoài trời của người đồng tính, một nhóm người đứng tụ tập một góc, mặc những chiếc áo thun với dòng chữ “Xin lỗi” và cầm tấm bảng “Tôi đã từng là một người kỳ thị đồng tính.” Một người đồng tính nam đi ngang qua , hỏi lớn “Xin lỗi gì vậy, đang lễ hội vui vẻ mà?” Người đàn ông trong nhóm chỉ vào tấm bảng bên dưới. Trong một khoảnh khắc rất nhanh, người đàn ông đồng tính hiểu ra vấn đề, đứng sững lại nhìn chằm chằm vào cả nhóm người. Và anh ta chạy đến ôm chầm lấy người đàn ông kia, nói thầm vào tai, “cảm ơn anh” cùng với những giọt nước mắt bất ngờ.

Người đàn ông cầm tấm bảng đó là Marin. Ông mô tả mình đã từng được nuôi dạy trong một môi trường rất bảo thủ, và lớn lên với một tư tưởng chống đối đồng tính mạnh mẽ nhất. Mọi việc thay đổi vào mùa hè sinh viên năm nhất,

182 Hướng tới tương lai 183

Số đông là bình thường, số ít là bất thường?Sáu Sắc

Ellen Johnson Sirleaf là tổng thống Liberia. Bà là nữ tổng thống đầu tiên và duy nhất cho tới hiện nay của châu Phi, và là người đạt giải Nobel hòa bình năm 2011 cùng hai nhà hoạt động nữ quyền khác vì những đóng góp cho phong trào đấu tranh quyền phụ nữ ở châu Phi.

Thế nhưng, quan điểm về quyền con người của bà bị thử thách khi người ta nghe bà bà ủng hộ việc duy trì tội phạm hóa đồng tính ngay trong chính luật pháp Liberia.

Trước kia khi nhận giải Nobel, bà đã phát biểu rất cảm động “chúng tôi đã dùng nỗi đau của chúng tôi, những thân thể rạn vỡ của chúng tôi, những vết thương tinh thần của chúng tôi để đương đầu với sự bất công và nỗi sợ hãi của đất nước. Hỡi những người em gái, chị gái, hỡi những người con gái, bạn gái của tôi, hãy lên tiếng.”

Nhưng khi giải thích tại sao bà chống lại nhân quyền của người đồng tính, bà đã giải thích rất ngắn gọn: “Chúng tôi có những giá trị truyền thống mà chúng tôi muốn gìn giữ.”

Một khảo sát trên Washing Post và ABC News cho thấy 53% người khảo sát ủng hộ hôn nhân cùng giới, 39% phản đối và 8% chưa quyết định. Tuy nhiên đáng chú ý là 33% số người ủng hộ nói rằng họ đã từng phản đối nhưng đã thay đổi quan điểm. Và điều khiến họ thay đổi là nhờ những thông tin rõ ràng hơn mà họ có được về người đồng tính, cũng như nhờ chính những bạn bè, người thân là người đồng tính đã giúp họ có cái nhìn gần gũi, công bằng hơn về hôn nhân cùng giới.

“Tôi đã từng không đồng ý,” không có nghĩa là tôi ngày trước ích kỷ hay ngu ngốc, mà nó cho tôi biết rằng tôi đã tìm được con đường để hiểu hơn về người khác, và hiểu hơn về chính bản thân mình. Nếu không có “đã từng không đồng ý”, thì có lẽ tôi sẽ không thể cảm nhận hết được niềm tự hào và hãnh diện như thế nào khi cầm tấm bảng “tôi đồng ý” ngày hôm nay.

“Tôi,” dù là ngày trước hay bây giờ, cũng không hề đơn độc. Vẫn luôn có những người đã và đang chưa đồng ý người đồng tính được quyền kết hôn, giống như “tôi” ngày trước. Tuy nhiên điều đó lại cho phép chúng ta hy vọng ở sự thay đổi, như chính điều nhà báo Tạ Bích Loan muốn gửi gắm trong thông điệp ngắn gọn ấy. Việc nói “tôi đã từng không đồng ý” hóa ra còn đòi hỏi sự dũng cảm hơn gấp nhiều lần việc nói “tôi đồng ý.” Và luôn có một câu chuyện đáng được nghe sau mỗi lời nói: “Tôi đã từng không đồng ý.”

184 Hướng tới tương lai 185

Câu chuyện ở Việt Nam

Ngày 10/9/2013 tại phiên họp thứ 21 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã trình bày về những nội dung trong dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, liên quan tới việc chung sống giữa hai người cùng giới. Theo đó dự thảo đã bỏ đi điều cấm kết hôn giữa hai người cùng giới tính, tuy nhiên khẳng định nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa họ, mà chỉ giải quyết một số hậu quả pháp lý về tài sản khi họ không còn chung sống với nhau.

Chính phủ cho rằng trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, nhà nước và pháp luật chưa nên thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính vì những điều kiện khách quan như sự đồng thuận của xã hội, những nghiên cứu rõ ràng hơn, và đặc biệt e ngại sự thích nghi của văn hóa và truyền thống của Việt Nam nói riêng, cũng như với tư cách một quốc gia châu Á.

Những nhà làm luật đều thừa nhận mọi người, trong đó có những người đồng tính, đều xứng đáng được hưởng quyền bình đẳng, trong đó có quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuy nhiên ý kiến cho rằng người đồng tính cần phải có “lộ trình” để được bình đẳng. Nói cách khác, điều này cũng giống như tuyên bố: “Mọi người đều bình đẳng, nhưng một số người thì bình đẳng chậm hơn những người khác.”

Bà đã không nhớ rằng, bà đã từng phải dành cả đời mình để chống lại cái gọi là “giá trị truyền thống.” Và những người đàn ông cũng đã từng dùng chính “cây gậy” truyền thống của bà để tước đi quyền con người của phụ nữ.

Nhưng cũng có những nhận định cho rằng, ở bối cảnh đất nước như vậy, việc bà ủng hộ phi hình sự hóa đồng tính là “một liều thuốc tự sát chính trị.” Nghĩa là với cương vị lãnh đạo một đất nước vốn cực kỳ khắc nghiệt với người đồng tính, bà buộc phải có thái độ như vậy. Rốt cuộc, vượt qua được “truyền thống” bất bình đẳng với phụ nữ, không đồng nghĩa với đạt được bình đẳng cho tất cả mọi người.

Tổng thư ký Ban Ki-moon cho rằng thế giới sẽ bị tổn thương nếu con người vẫn phải chịu đựng sự phân biệt đối xử chỉ vì giới tính người mà họ yêu, hay vì bề ngoài của họ. Ông nhìn nhận “đây là một trong những thách thức về quyền con người to lớn và khó khăn nhất của thời đại chúng ta. Chúng ta phải sửa chữa những lỗi lầm này.”

“Một vài người sẽ phản đối việc thay đổi. Họ sẽ viện dẫn ra văn hóa, truyền thống hay tôn giáo để chống lại hiện thực.”

“Những lập luận như vậy đã từng được dùng để biện minh cho chế độ nô lệ, cho hôn nhân với trẻ em, cho việc hiếp dâm trong hôn nhân hay tục loại bỏ bộ phận sinh dục nữ.”

“Tôi tôn trọng văn hóa, truyền thống và tôn giáo – nhưng chúng không bao giờ có thể là lý do cho việc khước từ những quyền cơ bản.”

186 Hướng tới tương lai 187

Nhà nước luôn không chắc chắn rằng người dân sẽ ủng hộ hôn nhân bình đẳng không phân biệt giới tính, nhưng lại luôn chắc chắn về việc người dân sẽ phản đối mặc dù cả hai trường hợp đều là giả thuyết.

Bình đẳng nhưng tách biệtCó ý kiến cho rằng người đồng tính chỉ cần chung

sống, không cần đăng ký kết hôn vì hoàn toàn có thể dùng những quy định pháp luật hiện tại để bảo vệ quyền của các cặp cùng giới sống chung với nhau. Điều này đồng nghĩa người đồng tính buộc phải tự bảo vệ mình trước khi được pháp luật bảo vệ.

Lập luận này làm chúng ta nhớ đến câu chuyện “bình đẳng nhưng tách biệt” đã xảy ra trong lịch sử. Trong những năm thập niên 50-60 của thế kỷ trước, tại một số nhà vệ sinh công cộng ở Hoa Kỳ, có hai bồn rửa mặt, một dành riêng cho người da trắng, và một dành riêng cho người da đen. Lập luận “bình đẳng nhưng tách biệt” ở đây đó là “người da đen vẫn hoàn toàn có thể sử dụng bồn rửa mặt để đáp ứng nhu cầu của họ, như vậy cũng là bình đẳng rồi, không nhất thiết phải sử dụng chung bồn rửa mặt với người da trắng.”

Câu chuyện tương tự về quyền kết hôn của người đồng tính, “chỉ cần chung sống, không cần kết hôn.” Thực ra điều này cũng hoàn toàn đúng với những người dị tính, các cặp khác giới vẫn có thể sống với nhau mà không cần hôn nhân. Vậy tại sao họ vẫn muốn kết hôn, tại sao những người dị tính thì có

Thực tế là bình đẳng không thể mặc cả, rằng hôm nay tôi cho anh một ít quyền và để dành phần còn lại cho ngày mai. Ngay khi nào được nhận ra đang tồn tại sự bất bình đẳng, thì bình đẳng cần được thực thi ngay. Nếu chúng ta biết rằng người đồng tính đáng được đối xử bình đẳng, tình yêu và mối quan hệ của họ cần được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, thì câu trả lời cho thời điểm thích hợp nhất luôn luôn là: Bây giờ.

Việc cho rằng cần thiết phải có “lộ trình” để hợp pháp hóa hôn nhân giữa những người cùng giới là một suy nghĩ nguy hiểm. Tại sao các cặp khác giới không cần “lộ trình” mà cặp cùng giới phải cần? Có phải bản chất người đồng tính muốn kết hôn với người mình yêu thì cần phải chờ đợi người khác cho phép hay không? Tại sao người đồng tính không thảo luận, biểu quyết quyền kết hôn của người dị tính mà lại là ngược lại? Tại sao xem rằng hôn nhân cho người đồng tính là “đột phá” trong khi nó là quyền tối thiểu cơ bản mà công dân 18 tuổi nào cũng đều có?

Cần phải hiểu rằng “lộ trình” để hợp pháp hóa hôn nhân bình đẳng chỉ là lộ trình của kỹ thuật lập pháp, chứ nhất thiết không thể là lộ trình của sự bình đẳng. Nói một cách gay gắt, “bước tiến” này thực chất chỉ phục vụ cho tòa án vốn vẫn phải giải quyết những trường hợp như thế này. Nó chỉ giúp cho cơ quan nhà nước có thêm khung pháp lý để làm việc, chứ thật sự chưa mang lại những quyền lợi thiết thân cho người đồng tính.

188 Hướng tới tương lai 189

có thể hy vọng xã hội Việt Nam sẽ tiến nhanh hơn nữa trong việc ủng hộ cho quyền bình đẳng của người đồng tính. Không nên mất niềm tin vào lương tri của con người.

Chắc chắn vẫn sẽ còn nhiều nền pháp luật khác vẫn tiếp tục sử dụng những giá trị truyền thống để biện minh cho những vi phạm quyền con người. Nhưng nếu những vi phạm quyền con người ấy lại được quy chuẩn ngược lại thành giá trị truyền thống thì sẽ là một sự dẫm đạp thô bạo lên quyền con người. Bởi vì, kỳ thị và quyền con người không bao giờ có thể đi chung với nhau.

“Một quyền bị trì hoãn là một quyền bị chối bỏ.” (Martin Luther King) Có thể diễn đạt bằng nhiều lý lẽ khác nhau, nhưng rõ ràng quyền bình đẳng của những người đồng tính vẫn đang bị tránh né. Truyền thống, văn hóa, hay tình hình thế giới, đều là những “bí danh” của sự phân biệt đối xử. Vấn đề còn lại chỉ là chúng ta có thực sự muốn thừa nhận quyền hôn nhân bình đẳng này hay không. Việc cho rằng nên thay đổi nhận thức xã hội trước khi thừa nhận hôn nhân cùng giới chỉ là một cách trì hoãn hay lảng tránh câu hỏi về bình quyền. Thực tế xã hội và pháp luật luôn cần đi song song, sự thay đổi nào cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự thay đổi kia.

Chỉ có điều chắc chắn là một ngày mà pháp luật còn chưa thừa nhận quyền bình đẳng yêu thương của tất cả mọi người, thì một ngày người đồng tính vẫn còn phải chịu kỳ thị và sống với niềm hạnh phúc quý giá, giản dị nhưng không được thừa nhận của mình.

quyền còn người đồng tính thì không, khi mà hai mối quan hệ đều dựa trên nền tảng là sự yêu thương, chia sẻ và cam kết?

Cuối cùng cũng chỉ là câu chuyện về sự bất bình đẳng. Đơn giản là một nhóm người cho rằng tôi có quyền kết hôn với người tôi yêu, còn anh chị thì không. Lý do bởi vì tôi cho rằng tôi bình thường, còn anh chị thì không. Đã có sự đánh tráo hai khái niệm: “số đông” với “bình thường”, và “số ít” với “bất thường.” Số người yêu người khác giới nhiều hơn không có nghĩa là người yêu người cùng giới là bất thường. Và pháp luật làm ra không phải phục vụ số đông hay tước đoạt quyền của số ít. Pháp luật là để bảo vệ tất cả mọi người.

Niềm tin ở sự thay đổiNăm 2002, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội kêu

gọi đưa đồng tính vào “tệ nạn xã hội.” Năm 2004, chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội lúc bấy giờ phát biểu về đồng tính là “tư tưởng nó bệnh hoạn, (...) dẫn đến hành động cũng bệnh hoạn” và “cần tập trung cho công tác tuyên truyền giáo dục hơn là luật hóa nó.”

Không ai có thể ngờ trong vòng chỉ một thập kỷ, Quốc hội và chính phủ Việt Nam từ việc phủi bỏ, đã đưa chủ đề đồng tính lên bàn nghị sự, và thật sự thảo luận nghiêm túc. Nếu chỉ trong vòng 9 năm, xã hội đã tiến từ việc cho rằng cần “giáo dục nam nữ thanh niên không nên đồng tính” đến việc phải “bảo vệ quyền của người đồng tính” (Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường); thì chúng ta vẫn hoàn toàn

190 Hướng tới tương lai 191

yêu nhau và chúng tôi muốn mọi người biết điều đó. Có ai ghét được tình yêu đâu, vì tình yêu là một điều giản dị của cuộc sống. Ai cũng yêu, và ai cũng khao khát được yêu, nên không ai có quyền từ chối tình yêu của người khác.

“Khi đoàn diễu hành đi ngang nhà thờ Đức Bà thì cũng vừa lúc cha xứ của nhà thờ đang đi qua. Thế là cả nhóm đồng thanh hỏi “Cha ơi, cha có ủng hộ hôn nhân cùng giới không cha?”, vị linh mục từ tốn đáp lại “tất nhiên là có rồi, hạnh phúc là của mọi người mà!”

Câu nói của cha như tiếp thêm sức mạnh cho cả đoàn đi. Đúng như lời ông nói, hạnh phúc không chỉ dành cho riêng ai, nó là quyền của mỗi con người và ai cũng phải trân trọng! Dù là dân tộc, tôn giáo, văn hoá, bản sắc, truyền thống nào... thì hạnh phúc của mỗi con người trong xã hội phải được đặt lên đầu tiên [facebook ICS]

Tôi không là người theo đạo, nhưng tôi yêu những điều cha xứ nói. Tôi yêu sự vị tha, lòng nhân hậu và tính nhân văn trong mỗi con người. Xét cho cùng, chúng tôi chỉ mang tình yêu xuống phố, với hoa, bóng bay và cờ cầu vồng rực rỡ. Chúng tôi mang tình yêu đến cho thành phố, cho mỗi cộng đồng, và từng mái ấm gia đình. Chúng tôi yêu nhau, và chúng tôi sống tốt để xã hội đẹp đẽ thêm một phần.

Hôm nay tôi xuống phố, tay trong tay với người yêu bên cạnh. Xung quanh tôi những gương mặt quen thuộc, vì trên đó đều có một nụ cười. Chúng tôi cười vì mình đã

Niềm tự hào lan tỏa!PFLAG

Khi diễu hành giữa đám đông, bên cạnh những người đồng tính khác, tôi cảm nhận được quyền lực của mình, quyền lực của một con người dám sống tự do và bình đẳng, tự hào và kiêu hãnh. Tôi thấu hiểu giá trị thực sự của thời gian trong cuộc đời mỗi con người, và tôi hiểu mình cần bước ra ánh sáng, tham gia vào dòng người, và hô vang khẩu hiệu “yêu là yêu” để “niềm tự hào lan tỏa”.

Cầm tay nhau bước trên đường phố, không đơn giản chỉ để xã hội nhìn thấy tôi, mà trước tiên để tôi được sống chính là mình. Sống chính là mình để thoát những đêm dài vật vã, tự hỏi mình là ai, yêu người cùng giới có là tội lỗi hay không. Sống là chính mình để thoát những ngày dài lê thê, tự hỏi cuộc đời mình sẽ trôi về đâu, có được hạnh phúc hay không.

Khi tôi cầm tay người yêu bước trên đường phố, mọi người tò mò hỏi chúng tôi là ai, sao nhiều màu sắc như thế. Vui vẻ trả lời, chúng tôi là người đồng tính, chúng tôi

192 Hướng tới tương lai 193

Có cần cứu hôn nhân?Lệ Quyên

Trong thời gian gần đây, nhiều người lo sợ cho định chế hôn nhân trong xã hội hiện đại. Tỉ lệ kết hôn giảm và số vụ ly hôn tăng, sống chung không kết hôn, hoặc làm mẹ đơn thân ngày càng phổ biến. Có nhiều người cho rằng đây là xu thế tất yếu của sự phát triển xã hội, nhưng có nhiều người kêu gọi sử dụng “mọi biện pháp” để cứu một trong những thể chế xã hội lâu đời nhất của loài người.

Có hai luồng ý kiến khác nhau về nguyên nhân đe dọa thể chế hôn nhân. Trường phái thứ nhất cho rằng các thay đổi về kinh tế xã hội đã làm cho chức năng sản xuất mang tính ‘tự cung tự cấp’ của gia đình trở nên không còn phù hợp. Thêm vào đó, những thay đổi về vai trò giới cũng là một phần của nguyên nhân ảnh hưởng đến thể chế hôn nhân. Phụ nữ không còn cam chịu ở nhà làm nội trợ, nuôi dạy con cái, mà đã độc lập tham gia vào sản xuất, tạo thu nhập. Trường phái thứ hai, do những người bảo thủ khởi xướng, cho rằng hôn nhân đổ vỡ là do những thay đổi về

được sống thật, để niềm tự hào lan tỏa đến muôn nơi. Để ai ai cũng như vị cha xứ kia, thừa nhận hạnh phúc con người, trong lời nói, hành vi và cả luật pháp. Và khi đó cuộc sống sẽ đẹp hơn, và cầu vồng sẽ hiện lên phía chân trời tươi sáng!

194 Hướng tới tương lai 195

ba, những biến đổi của gia đình không phải là đơn tuyến, mà rất phức tạp và đa chiều, phụ thuộc vào thời điểm hay nhóm xã hội.

Có nhiều tranh luận về việc sụp đổ của thể chế hôn nhân vì có nhiều ý kiến khác nhau về hậu quả của nó đến gia đình, đặc biệt là trẻ em. Nhiều người cho rằng sự phát triển của trẻ em không bị ảnh hưởng bởi thể chế gia đình, mà bị ảnh hưởng bởi nguồn lực sở hữu bởi gia đình, trong đó nó được nuôi dưỡng. Thiếu nguồn lực (vật chất và văn hóa) ảnh hưởng đến việc phát triển của trẻ nhiều hơn việc trẻ sinh ra trong gia đình có hôn nhân, sống chung không đăng ký, hay cha mẹ đơn thân.

Tất nhiên, đứa trẻ sẽ phát triển tốt hơn trong gia đình có hai người chăm sóc, so với gia đình có một người, nếu tính trung bình với tất cả các điều kiện như nhau. Tuy nhiên, gia đình cha mẹ đơn thân nhưng có nguồn lực thì đứa trẻ sẽ phát triển tốt hơn gia đình có hai người nhưng thiếu nguồn lực, kỹ năng chăm sóc con cái. Hơn nữa, những cặp đôi thiếu nguồn lực thường có sóng gió, và có thể không gắn kết được với nhau lâu dài. Điều này, ngược lại sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đứa trẻ. Rõ ràng, cách tốt nhất để làm cho gia đình bền vững và trẻ phát triển tốt, chính là nguồn lực và dịch vụ cung cấp cho họ, bất kể hình mẫu gia đình họ là gì.

Như vậy, sự kém hấp dẫn của thể chế hôn nhân truyền thống, không phải do những đe dọa về giá trị mang

giá trị, và như vậy có thể đảo ngược bằng cách đưa ra các quy định pháp luật, hành chính, hoặc diễn ngôn đại chúng, để bảo vệ định chế hôn nhân.

Trên thực tế, nếu nhìn vào lịch sử thì hình thức “gia đình hạt nhân”, nghĩa là một vợ một chồng, không hẳn đã là “giá trị phổ quát”, hay một hình thức “gia đình lý tưởng”. Có nhiều người còn đặt câu hỏi liệu gia đình hạt nhân có phải là mô hình tốt nhất, nếu xét về chức năng, hay không. Trong những năm 1960s và 1970s, theo Frank Furstenberg, nhiều bằng chứng nhân học chỉ ra rằng, sự đa dạng về hình mẫu gia đình mới là giá trị phổ quát. Ở Mỹ, các nghiên cứu về dân số cho thấy hình mẫu gia đình, đặc biệt ở bờ Tây và bờ Đông, thay đổi theo các điều kiện kinh tế, xã hội, dân số và chính trị. Nói tóm lại, “gia đình hạt nhân” không phải là một “đơn vị tự nhiên” trong lịch sử, như nhiều người lầm tưởng. Hình mẫu gia đình rất khác nhau giữa các nền văn hóa, thậm chí giữa các nhóm xã hội trong cùng nền văn hóa.

Từ những nghiên cứu dân khẩu học, các nhà khoa học Mỹ đã đưa ra ba kết luận quan trọng. Thứ nhất, không có hình mẫu phổ quát cho gia đình để thực hiện các chức năng sinh sản, nuôi dưỡng, xã hội hóa và kinh tế. Trong các xã hội, và thậm chí cùng một xã hội, gia đình có các hình mẫu, diện mạo và hành vi khác nhau. Thứ hai, các thay đổi là sâu rộng ở tất cả các loại hình gia đình. Các thay đổi này thường tạo ra căng thẳng và lo lắng trong xã hội. Thứ

196 Hướng tới tương lai 197

Yêu thương định nghĩa gia đình!Thu Hiền

Tại sao người ta kết hôn và lập gia đình? Vì người ta yêu nhau! Câu trả lời thật đơn giản và ai cũng đồng ý. Tại sao người ta vẫn ở với nhau khi tình yêu đã chết? Vì người ta đã quen với giả dối! Câu trả lời “chuẩn không cần chỉnh” nhưng không phải ai cũng thừa nhận.

Gia đình Việt Nam được gán cho rất nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhau, trong đó nổi lên bốn chức năng cơ bản. Thứ nhất, chức năng sinh sản, tái sản xuất con người. Có nghĩa, nếu không có gia đình thì con người đã tuyệt chủng. Chức năng thứ hai là nuôi dưỡng, giáo dục và hình thành nhân cách. Nguy trọng, vì ai không có gia đình đồng nghĩa họ không có nhân cách. Chức năng thứ ba là thỏa mãn nhu cầu tâm lý, tình cảm. Như vậy, không có gia đình thì sẽ cô đơn và trầm cảm. Chức năng thứ tư là đảm bảo kinh tế. Quan trọng vì không có gia đình thì không chết đói cũng đi ăn mày.

Khi con người gán cho gia đình bốn chức năng tối quan trọng trên, họ đã tự khoác lên mình bốn sứ mệnh cao

lại, mà thực sự do những thay đổi về xã hội, kinh tế và văn hóa làm con người có những lựa chọn phù hợp cho mình hơn. Hình mẫu gia đình không ảnh hưởng đến chất lượng sống của các thành viên, bao gồm cả trẻ em, mà nguồn lực vật chất, tinh thần, sự chia sẻ mới là điều kiện quan trọng. Như vậy, những lo sợ cho sự đổ vỡ của gia đình truyền thống là không có cơ sở, vì cuối cùng, hình mẫu gia đình nào thì điều quan trọng vẫn là hạnh phúc con người, và ổn định xã hội.

* * *

*** Bài lược dịch và tổng hợp từ quan điểm của Frank Furstenberg về hôn nhân

198 Hướng tới tương lai 199

đánh đập, hắt hủi nhưng không dám ly hôn vì nỗi sợ không còn chỗ dựa tình cảm cho mình. Họ lo cho tương lai kinh tế bấp bênh nếu không có sự chung tay của người đàn ông. Chính những chức năng được gắn cho gia đình đã làm mỗi cá thể yếu đi, làm lu mờ điều quan trọng nhất của gia đình, đó là sự yêu thương.

Như vậy, để bảo vệ gia đình, văn hóa và luật pháp phải bảo vệ tình yêu và sự tự do. Hai người yêu nhau, đến với nhau vì muốn cùng nhau hưởng hạnh phúc, chứ không phải mưu cầu cùng nhau mất tự do hoặc cùng nhau bị trói buộc. Với con trẻ, sự bảo vệ tốt nhất cho chúng chính là tình yêu của cha mẹ. Nếu cha mẹ yêu thương nhau, sinh ra chúng thì có nghĩa chúng sẽ được yêu thương và che chở. Nếu tình yêu đã chết, chỉ còn sự lừa dối và bạo lực, cũng có nghĩa lá chắn “gia đình” đã không còn tác dụng.

Và như vậy, gia đình chính là tình yêu, dù giữa hai người cùng giới hay khác giới, cùng tôn giáo hay khác tôn giáo, cùng sắc tộc hay khác sắc tộc, cùng điều kiện cơ thể hay khác điều kiện cơ thể. Văn hóa và pháp luật nên bảo vệ tình yêu, tự do và khai phóng con người, hơn là phân biệt, trói buộc, hay ép con người phải giả dối ngay trong gia đình của mình.

cả. Bốn sứ mệnh cao cả đến mức mà nền tảng quan trọng nhất, là động lực khởi thủy để hai cá thể gắn với nhau bị quên mất: đó là tình yêu thương, sự tôn trọng và lòng trung thực trong quan hệ lứa đôi.

Vì không có con, thậm chí không có con trai nối dõi tông đường, nhiều gia đình tan vỡ vì bị sức ép từ cha mẹ, họ hàng, thậm chí là bạn bè đồng nghiệp. Tình yêu lứa đôi trở nên phù phiếm nếu tình yêu đó không “đơm hoa kết trái” thành những đứa con gái, con trai. Những lãng mạn trong yêu đương khi trước, những thề non hẹn biển khi kết hôn, chỉ là màn sương tan biến trước áp lực “nối dõi tông đường.” Có người, không muốn mang tiếng là “cổ hủ”, ngấm ngầm quan hệ với cô gái khác để có con trai nối dõi cho mình. Cả đời, họ sống trong giả dối chỉ vì mong muốn đảm bảo chức năng gia đình.

Vì muốn duy trì một ngôi nhà yên ấm làm môi trường giáo dục cho con cái, nhiều cặp vợ chồng vẫn phải gắn bó với nhau dù không còn yêu nhau nữa. Họ có thể có bạn tình, “sáng chở cơm đi ăn phở, trưa chở phở đi ăn cơm”, tối về nằm úp lưng vào nhau, lạnh nhạt trong phòng ngủ. Họ chủ động, hoặc che dấu việc làm phi đạo đức này với một lời an ủi, làm vậy vì một gia đình “êm ấm” cho con cái lớn lên bình thường.

Không còn tình yêu, nhưng họ không dám chia tay vì nếu mất gia đình có nghĩa là không thể làm nổi các chức năng “thiên định” của gia đình. Nhiều người phụ nữ bị

NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC

53 Nguyễn Du - Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 39454 661 - Fax: (84-4) 3945 4660

Email: [email protected]

DIỄN NGÔN

GIỚI VÀ TÍNH DỤC TRONG CUỘC SỐNG MUÔN MÀU

Chịu trách nhiệm xuất bản

CHU HẢO

Biên tập: Trương Đức Hùng

Bìa: Kimi Trần

Trình bày: Diệu linh

In 1.000 cuốn, khổ 14 x 20.5 cm tại Nhà in Tổng cục Hậu Cần - Bộ Quốc Phòng

Giấy chấp nhận đăng kí kế hoạch xuất bản số: 1835-2013/CXB/1-31/TrT

Quyết định xuất bản số: 84/QĐLK-NXB TrT.

In xong và nộp lưu chiểu quý I-2014.