De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

29
Chương 1 : Lược sử hình thành quỹ đầu tư 1.1/ Lược sử hình thành quỹ đầu tư trên thế giới tưởng tập trung các khoản tiền nhỏ thành một nguồn lớn hơn để đầu tư xuất hiện tại châu Âu vào khoảng giữa thế kỷ 19, khởi thủy ở Hà Lan, đến nửa cuối thế kỷ 19 thì được du nhập sang Anh. Mặc dù có gốc gác từ châu Âu, nhưng Hoa Kỳ mới là nơi các quỹ đầu tư phát triển mạnh mẽ nhất. Năm 1893, các khoản quyên góp và ủng hộ tài chính xây dựng và phát triển Đại học Harvard tại Hoa Kỳ được ghi nhận như sự xuất hiện một quỹ đầu tư. Vào ngày 21/3/1994, quỹ tương hỗ đầu tiên chính thức được thành lập bởi ba nhà kinh doanh chứng khoán tại Boston (Hoa Kỳ) có tên gọi Quỹ Tín thác các nhà đầu tư Massachusetts (Massachusetts Investors Trust-MIT). Có lẽ, chính những người sáng lập cũng không thể dự báo trước tương lai phát triển phổ biến của loại hình này. Sau một năm thành lập, Massachusetts Investors Trust với 50.000 đô- la Mỹ ban đầu đã sở hữu khối tài sản trị giá 392.000 USD và thu hút gần 200 nhà đầu tư. MIT tập trung và các cổ phiếu lớn, tăng trưởng nhanh và có trả cổ tức. Danh mục đầu tư của Quỹ gồm các loại cổ phiếu của General Electric Co., Standard Oil Of Indiana (ngày nay là một phần của BP PLC) và American Telephone & Telegraph Co. (AT&T Inc.). Không giống nhiều quỹ đầu tư hoạt động trong thời kỳ này, MIT tránh sử dụng các đòn bẩy tài chính để huy động nguồn đầu tư. Khi thị trường chứng khoán Hoa Kỳ chạm đáy vào năm 1932, nhiều quỹ đầu tư đã gục ngã nhưng MIT vẫn trụ vững và tồn tại cho đến hôm nay, với tên gọi được biết đến rộng rãi MFS Investment Management. Khủng hoảng 1929 làm chậm quá trình tăng trưởng các quỹ đầu tư tương hỗ tại Hoa Kỳ. Luật chứng khoán năm 1933 và Luật Giao dịch chứng khoán năm 1934 được ban hành nhằm khôi phục thị trường. Theo hai đạo luật này, các quỹ đầu tư phải đăng ký hoạt động với Ủy ban SEC (Securities & Exchance Comission) và cung cấp bản báo bạch tới các nhà đầu tư tiềm năng. Tới năm 1940, SEC tiếp tục ban hành Luật Công ty đầu tư với các chỉ dẫn pháp lý bắt buộc các quỹ đầu tư phải tuân theo, được áp dụng tới tận ngày nay.

Transcript of De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

Page 1: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

Chương 1 : Lược sử hình thành quỹ đầu tư

1.1/ Lược sử hình thành quỹ đầu tư trên thế giới

Tư tưởng tập trung các khoản tiền nhỏ thành một nguồn lớn hơn để đầu tư xuất hiện tại châu Âu vào khoảng giữa thế kỷ 19, khởi thủy ở Hà Lan, đến nửa cuối thế kỷ 19 thì được du nhập sang Anh. Mặc dù có gốc gác từ châu Âu, nhưng Hoa Kỳ mới là nơi các quỹ đầu tư phát triển mạnh mẽ nhất.

Năm 1893, các khoản quyên góp và ủng hộ tài chính xây dựng và phát triển Đại học Harvard tại Hoa Kỳ được ghi nhận như sự xuất hiện một quỹ đầu tư. Vào ngày 21/3/1994, quỹ tương hỗ đầu tiên chính thức được thành lập bởi ba nhà kinh doanh chứng khoán tại Boston (Hoa Kỳ) có tên gọi Quỹ Tín thác các nhà đầu tư Massachusetts (Massachusetts Investors Trust-MIT). Có lẽ, chính những người sáng lập cũng không thể dự báo trước tương lai phát triển phổ biến của loại hình này.

Sau một năm thành lập, Massachusetts Investors Trust với 50.000 đô-la Mỹ ban đầu đã sở hữu khối tài sản trị giá 392.000 USD và thu hút gần 200 nhà đầu tư. MIT tập trung và các cổ phiếu lớn, tăng trưởng nhanh và có trả cổ tức. Danh mục đầu tư của Quỹ gồm các loại cổ phiếu của General Electric Co., Standard Oil Of Indiana (ngày nay là một phần của BP PLC) và American Telephone & Telegraph Co. (AT&T Inc.). Không giống nhiều quỹ đầu tư hoạt động trong thời kỳ này, MIT tránh sử dụng các đòn bẩy tài chính để huy động nguồn đầu tư. Khi thị trường chứng khoán Hoa Kỳ chạm đáy vào năm 1932, nhiều quỹ đầu tư đã gục ngã nhưng MIT vẫn trụ vững và tồn tại cho đến hôm nay, với tên gọi được biết đến rộng rãi MFS Investment Management.

Khủng hoảng 1929 làm chậm quá trình tăng trưởng các quỹ đầu tư tương hỗ tại Hoa Kỳ. Luật chứng khoán năm 1933 và Luật Giao dịch chứng khoán năm 1934 được ban hành nhằm khôi phục thị trường. Theo hai đạo luật này, các quỹ đầu tư phải đăng ký hoạt động với Ủy ban SEC (Securities & Exchance Comission) và cung cấp bản báo bạch tới các nhà đầu tư tiềm năng. Tới năm 1940, SEC tiếp tục ban hành Luật Công ty đầu tư với các chỉ dẫn pháp lý bắt buộc các quỹ đầu tư phải tuân theo, được áp dụng tới tận ngày nay.

Niềm tin được phục hồi trên thị trường chứng khoán và các quỹ tương hỗ bắt đầu nở rộ. Tới cuối thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Hoa Kỳ có khoảng 270 quỹ với giá trị tài sản nắm giữ ước khoảng 48 tỷ đô-la Mỹ.

Năm 1976, John C. Bogle mở quỹ đầu tư chỉ số thị trường đầu tiên, có tên First Index Investment Trust. Vào tháng 11 năm 2000, đây là quỹ tương hỗ có giá trị lớn nhất trong lịch sử với 100 tỷ đô-la Mỹ tài sản. Quỹ này ngày nay có tên gọi Vanguard 500 Index.

Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ

Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ có một lịch sử khá lâu đời và đã nhanh chóng phát huy được những đặc tính ưu việt của mình nhờ được sự hỗ trợ đáng kể của một nền kinh tế phát triển khá ổn định và một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả.

Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh

Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh có thể tồn tại dưới hai dạng kết thúc đóng và kết thúc mở tương ứng với hai loại hình quỹ đặc trưng của Anh là Quỹ tín thác đầu tư và Quỹ tín thác đơn vị.

Ở Anh, các công ty quản lý quỹ hay Quỹ đầu tư cũng không đảm nhận việc mua bán chứng chỉ quỹ hay cổ phiếu trực tiếp tới công chúng, chức năng này thường do một công ty chứng khoán thực hiện

Page 2: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

Các Quỹ đầu tư ở Nhật mang một số đặc điểm nổi bật sau. Các quỹ chỉ tồn tại theo mô hình tín thác chứ không theo mô hình công ty

Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Nhật Bản

Quỹ đầu tư lần đầu tiên xuất hiện ở Nhật vào năm 1941. Trải qua nhiều khó khăn nhưng kể từ năm 1996 trở lại đây, các Quỹ đầu tư đã thực sự bước vào giai đoạn phát triển ổn định và đóng một vai trò quan trọng vào sự phát triển của thị trường chứng khoán và nền kinh tế nói chung

Quỹ đầu tư chứng khoán tại Hàn Quốc

Quỹ đầu tư chứng khoán Hàn Quốc được hình thành từ năm 1969 với mô hình tương tự như mô hình Quỹ đầu tư dạng tín thác ở Anh. Chính phủ Hàn Quốc quyết định chọn mô hình này là nhằm hỗ trợ cho chính phủ trong các chính sách phát triển kinh tế. Bởi vì Quỹ đầu tư mô hình tín thác là yếu tố cần thiết trong việc huy động được một lượng vốn khổng lồ cho tiến trình phát triển kinh tế trong ngắn hạn và đem lại sự ổn định cho thị trường tài chính thông qua hoạt động đầu tư chứng khoán gián tiếp. Hiện nay, Hàn Quốc đã cho phép tồn tại cả hai mô hình tín thác và công ty

Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan

Chỉ sau khi thị trường chứng khoán Thái Lan ra đời được một năm (năm 1974), chính phủ Thái Lan đã rất chú trọng đến việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán và tăng cường khả năng huy động vốn bằng cách thiết lập Quỹ đầu tư chứng khoán dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn. Nhờ đó giúp giới đầu tư Thái Lan vốn rất bỡ ngỡ với thị trường chứng khoán có thể có được một phương thức đầu tư mới đơn giản và an toàn hơn nhờ tính đầu tư chuyên nghiệp của quỹ. Tuy nhiên phải đến hai năm sau, hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán Thái Lan mới chính thức đi vào hoạt động. Trải qua nhiều thăng trầm, đến những năm 90, kể từ khi Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán mới ra đời vào năm 1992 thì hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan mới phát triển rực rỡ. Sự thành công này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng phân phối và dịch vụ của các Quỹ đầu tư. Các quỹ đã xây dựng được các kênh phân phối rất mạnh thông qua việc liên kết với các ngân hàng thương mại lớn. Góp thêm vào sự phát triển của các quỹ còn phải kể đến các văn bản luật và quy chế của uỷ ban chứng khoán hoạt động khá hiệu quả do được soạn thảo bởi những người có kinh nghiệm. Bên cạnh đó, Thái Lan cũng khuyến khích việc liên doanh với nước ngoài để thành lập Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ nhằm tranh thủ vốn và kỹ năng của đối tác nước ngoài. Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng là cùng với sự hoạt động của các tổ chức tín thác đầu tư, Thái Lan cũng đã có một sự quan tâm đúng mức đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán.

1.2/ Lược sử hình thành quỹ đầu tư tại VN

Những quỹ đầu tư đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng đầu những năm 1990. Trong nửa đầu những thập kỷ 90, có tám quỹ đầu tư tiến hành hoạt động tại Việt Nam với tổng lượng vốn huy động khoảng 700 triệu USD. Những khó khăn trong nỗ lực tìm kiếm cơ hội bỏ vốn cùng tác động của khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1997 đã khiến các quỹ nản lòng và lần lượt rút lui. Thời điểm sau năm 1997 chỉ còn lại hai quỹ đầu tư là Vietnam Enterprise Investment Fund (VIEL) do công ty Dragon Capital quản lý và Vietnam Frontier Fund (VFF) thuộc tập đoàn Finasa. Bản thân VFF, với qui mô 50 triệu USD, rốt cuộc cũng ra khỏi Việt Nam sau 10 năm hoạt động. Chỉ khi thị trường chứng khoán có những dấu hiệu tăng trưởng tích cực, quỹ này mới trở lại với qui mô khiêm tốn hơn- 15 triệu USD, năm 2005.

Page 3: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

Giai đoạn từ 2002 đến 2005, hoạt động của các quỹ đầu tư tương đối trầm lặng. Mặc dù vậy vẫn xuất hiện thêm nhiều quỹ mới thuộc các công ty Mekong Capital, VinaCapital, IDG, VietFund hay PXP Asset Management.

Cùng với những biến đổi tích cực và mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, từ giữa năm 2006, hệ thống tài chính Việt Nam ghi nhận giai đoạn bùng nổ các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ. Trong hai năm 2006-2007, khoảng 20 quỹ đầu tư được mở mới. UBCKNN cũng cấp giấy phép hoạt động cho 17 công ty quản lý quỹ. Trong số này, nổi bật có Công ty liên doanh Quản lý quỹ đầu tư BIDV-Vietnam Partners với quỹ VIF có qui mô vốn tối đa 1.600 tỷ đồng và một loạt công ty thành lập vào nửa cuối năm 2007 với qui mô vốn lớn: Công ty cổ phần Quản lý quỹ đầu tư FPT (vốn điều lệ lớn nhất thị trường- 110 tỷ đồng), Công ty TNHH Quản lý quỹ SSI (vốn điều lệ 30 tỷ đồng), Công ty TNHH Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Đông Á (vốn điều lệ- 30 tỷ đồng) Còn phải kể tới hoạt động của các công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam như Nomura Internetional (Hongkong), Blackhorse Asset Management Pte Ltd. (Singapore) hay Mirae Asset Maps Investment Management Co., Ltd. (Hàn Quốc).

Chương 2: Thực trạng hoạt động của quỹ đầu tư tại Việt Nam

2.1 Tổng quan về các quỹ đầu tư tại Việt Nam

Trong năm 2009, với 46 công ty quản lý quỹ được thành lập, hoạt động ngành quản lý quỹ tại Việt Nam dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường chứng khoán. Tính đến cuối năm 2009, các công ty quản lý quỹ đã huy động vốn để đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và hoạt động quản lý ủy thác đầu tư lên đến gần 72 nghìn tỷ đồng (xấp xỉ 4 tỷ USD), chiếm gần 10% giá trị vốn hóa thị trường, trong đó chủ yếu nhận ủy thác thông qua các hoạt động quản lý danh mục đầu tư chiếm tới 87% tổng số vốn huy động thông qua các công ty quản lý quỹ.

Phần lớn tiền của các quỹ đầu tư vào cổ phiếu niêm yết với giá trị 7.500 tỷ đồng, chiếm 54% giá trị tài sản ròng của các quỹ, 2.700 tỷ đồng tương đuơng 20% vào chứng khoán chưa niêm yết, phần còn lại vào các tài sản khác. Nguyên nhân có sự tăng mạnh giá trị chứng khoán niêm yết là do TTCK quý 4/2009 sôi động, giá chứng khoán tăng nâng giá trị tài sản đầu tư các quỹ vào chứng khoán niêm yết và các quỹ có xu hướng gia tăng đầu tư vào chứng khoán niêm yết.

Về huy động vốn, tính đến đầu năm 2008, tổng quy mô các quỹ ở mức 12.600 tỷ đồng và duy trì đến quý 3/2009, nhưng đến cuối năm 2009 chỉ còn 12.350 tỷ đồng do có 1 quỹ giải thể (Indochina capital).

Về tăng trưởng giá trị tài sản ròng (NAV) của các quỹ cũng từng bước được cải thiện. Cuối năm 2008, giá trị tài sản ròng của các quỹ là gần 10.500 tỷ đồng, thì đến cuối năm 2009 tăng lên gần 13.500 tỷ đồng, gần 23% so với năm 2008. Hầu hết các quỹ đều đạt tỷ lệ tăng trưởng dương. Với chiến lược đầu tư dài hạn và đầu tư vào sản phẩm chất lượng cao, các công ty quản lý quỹ đã tạo ra được giá trị gia tăng đáng kể cho các nhà đầu tư là tổ chức và cá nhân.

Xét về chỉ tiêu lợi nhuận (tổng thu nhập/NAV) năm 2009 khoảng 29%, tỷ lệ này là khá khả quan, các quỹ đã có dấu hiệu thoát khỏi khủng hoảng (cuối năm 2008, tỷ lệ lợi nhuận âm 40%)

Xét chỉ tiêu chi phí, tỷ lệ chi phí/quy mô vốn bình quân năm 2009 đạt khoảng 3.5%, tỷ lệ này được đánh giá là thấp so với chi phí quản lý quỹ của ngành quản lý quỹ các nước.

Page 4: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

Xét chỉ tiêu về thu nhập, tỷ lệ thu nhập ròng /NAV bình quân là 5.1%, tỷ lệ này đạt dương được đánh giá là khả quan trong tình hình TTCK có nhiều biến động, giá chứng khoán giảm sâu như cuối năm 2008 đầu năm 2009.

Nhìn chung, tính đến năm 2009, hoạt động của hầu hết các quỹ đầu tư có kết quả khả quan, tỷ lệ tăng trưởng NAV lớn, đạt trên 20%. Đây thực sự là nỗ lực của ngành quản lý quỹ nói chung và các công ty quản lý quỹ nói riêng.

Năm 2009, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định trong phát triển kinh tế như: ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng hợp lý trong bối cảnh các nước trong khu vực đều gặp khó khăn, kinh tế vĩ mô tương đối ổn định.

Nhưng bên cạnh những điểm đạt được, kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa đạt được như: hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do thị trường co lại, tỷ giá hối đoái điều chỉnh chưa kịp thời, hoạt động của các tập đoàn Nhà nước chưa thực sự hiệu quả... đã ảnh hưởng đến hoạt động chung của toàn bộ nền kinh tế.

Tuy nhiên, để đạt được thành công trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu và là một trong số ít các nước trên thế giới có tốc độ tăng trưởng dương ở mức cao trong năm 2009, cần phải ghi nhận Chính phủ Việt Nam đã rất cố gắng và bản lĩnh trong hoạt động điều hành chính sách vĩ mô của mình.

Được đánh giá là nền kinh tế tăng trưởng nhanh thứ hai trên thế giới, sau Trung Quốc, Việt Nam thực sự không phụ sự tin tưởng của các nhà đầu tư quốc tế và trong nước. Với những cải cách về chính sách triệt để, quá trình cổ phần hoá được đẩy mạnh cùng với sự ra đời của thị trường chứng khoán và sự trỗi dậy mạnh mẽ của nền kinh tế tư nhân, các Quỹ đầu tư thực sự ăn nên làm ra tại Việt Nam.

2.1.1 Nhóm Quỹ đầu tư chứng khoán

Theo khảo sát của tập đoàn đầu tư và tư vấn tài chính LCF Rothschild trong năm 2009, các quỹ đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam có mức tăng trưởng NAV (Net Asset Value - Chỉ số giá trị tài sản thuần) xấp xỉ 40%, thấp hơn mức tăng 48,4% của VN-Index.

Ông Dominic Scriven - Tổng giám đốc Dragon Capital - cho biết: “Tăng trưởng của các quỹ năm 2009 không theo kịp đà tăng của chỉ số VN-Index do các nhà quản lý quỹ đã quá thận trọng, ít đầu tư vào cổ phiếu rủi ro cao, thay vào đó là mua trái phiếu hoặc giữ tiền mặt”. Ngoài ra, theo ông, các quỹ có quy mô lớn cũng tăng trưởng chậm hơn quỹ nhỏ, vì thiếu linh động hơn trong điều hành và thích ứng với thị trường.

Hiện có khoảng 20 quỹ đang tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán VN, trong đó có các quỹ lớn thuộc các công ty quản lý VinaCapital và Dragon Capital như Vietnam Opportunity Fund (VOF), Vietnam Infrastructure Ltd (VNI), Vietnam Growth Fund (VGF), Vietnam Enterprise Investment Ltd (VEIL) và Vietnam Dragon Fund (VDF). Giá trị NAV trung bình của 20 quỹ này tính đến ngày 21/1/2010 là 147 triệu USD, trong đó lớn nhất là VOF với giá trị lên đến 771 triệu USD, 3 quỹ do Dragon Capital quản lý có tổng NAV là 889 triệu USD.

Tuy nhiên, mức tăng trưởng cao lại thuộc về các quỹ có quy mô trung bình. Đơn cử là 3 quỹ do PXP Vietnam Asset Management (PXP) quản lý gồm VLF - Vietnam Lotus Fund, VEEF - Vietnam Emerging Equity Fund và PXP Vietnam Fund có mức tăng trưởng NAV đứng đầu bảng xếp hạng các quỹ

Page 5: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

đầu tư có hoạt động tốt nhất tại Việt Nam do LCF Rothschild khảo sát. Trong đó, cao nhất là quỹ VEEF, tính đến ngày 9/11/2009 có mức tăng NAV là 98,3%.

Một trong những nguyên nhân thành công của PXP chính là “tập trung” vào thị trường chứng khoán. Cú lội ngược dòng của TTCKVN năm 2009 hầu như hoàn toàn bù đắp “mất mát” của PXP trong năm 2008. Trong khi đó, những “gạo cội” như VinaCapital và Dragon Capital lại theo chiến lược đa dạng hóa danh mục đầu tư chứ không chỉ tập trung vào chứng khoán. Đơn cử, VinaCapital chỉ dành 22% danh mục đầu tư cho chứng khoán. Đồng thời, cú ngã đau 2008 khiến họ thận trọng hơn trong việc giải ngân, thậm chí “án binh bất động” ngay cả lúc VN-Index giảm mạnh và chạm đáy vào tháng 2/2009, để rồi sau đó tiếc nuối khi VN-Index tăng mạnh trong nửa cuối năm 2009.

Các quỹ đầu tư vào cổ phiếu niêm yết, các công ty cổ phần

Quỹ Công ty quản lý

Tăng trưởng

năm 2009 (%)

Vietnam Equity Holding (VEH) Saigon Asset Management (SAM) 10,1

Bao Tin Equity Fund Bao Tin Capital  

Bao Viet Investment Fund Bao Viet Fund Management (BVFMC)  

Blackhorse Enhanced Vietnam Inc Blackhorse Asset Management 39,3

BIDV-Vietnam Partners' Vietnam Investment Fund BVIM Investment Management  

DWS Vietnam FundDeutsche Bank

 

DWS Vietnam Fund  

Vietnam Enterprise Investments Ltd. (VEIL)

Dragon Capital

31,9

Vietnam Growth Fund Limited (VGF) 27,2

Vietnam Dragon Fund (VDF) 25,8

Vietnam Equity Fund Finansa Fund Management  

Golden Bridge Financial Group's Vina Blue Ocean Fund

Golden Bridge Financial Fund 

Hanoi Fund Hanoi Fund Management  

Indochina Capital Vietnam Holdings Indochina Capital 45,6

JF Vietnam Opportunities FundJF Vietnam Opportunities

4,3

JF Vietnam Opportunities Fund

Page 6: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

Kamm Investment Holdings Kamm Investment  

Vietnam Growth Fund

Korea Investment Trust Management

 

Worldwide Vietnam Fund  

China and Vietnam Fund  

KITMC RSP Balanced Fund  

KITMC Vietnam Growth Fund I and II  

KITMC Worldwide Vietnam Fund I and II  

Vietnam Oilfield Fund  

Lion Capital Vietnam Fund Lion Capital  

Manulife Progressive Fund (MAPF1) Manulife Funds 48,6

Vietnam Azalea Fund Mekong Capital

 

MekongEnterprise Fund  

Mirae Asset’s Mirae Asset Securities JSC Mirae Asset Maps Investment Management  

Maxford Investment management Ltd’s Vietnam Focus Fund SP

Maxford Investment Management 

Orient Management Company’s Orient Fund 1 (OF1)

Cty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Phương Đông

 

Prudential Balanced FundPrudential Fund Management

6,7

Prudential Vietnam Securities Investment Fund  

Vietnam Lotus Fund

PXP Vietnam Asset Management

39,3

PXP Vietnam Fund Ltd 56,2

Vietnam Emerging Equity Fund  

Saigon Securities Investment Fund A1 (SFA1)Thanh Viet Fund Management

 

Saigon Securities Investment Fund A2 (SFA2)  

Viet Capital Fund Management’s Viet Capital Fund (VCF)

Cty quản lý quỹ Bản Việt 

Viet Fund 1 (VF1)

Viet Fund Management

50,9

Viet Fund 2 (VF2)  

Viet Fund 4 (VF4) 48,2

Vietcombank Partners Fund 1 (VPF1) Vietcombank Fund Management  

Page 7: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

Vietnam Emerging Market Fund (VEMF) Vietnam Asset Management 71,3

2.1.2 Nhóm Quỹ đầu tư bất động sản

Nhóm quỹ đầu tư vào bất động sản trong năm 2009 cũng gặt hái ít nhiều thành công, nhưng chỉ tập trung ở một vài quỹ có chiến lược thích hợp với tình hình thị trường BĐS không mấy khởi sắc năm qua. Đó là chiến lược nhắm đến các dự án “đất sạch”, đặc biệt là các dự án chung cư, phân khúc có nhu cầu luôn ổn định bất chấp thị trường BĐS đang vào “mùa” nào. Được LCF Rothschild xếp đầu bảng là tân binh VPH (Vietnam Property Holding) của Saigon Asset Management (SAM), hoạt động chính thức vào năm 2008, với mức tăng trưởng là 12,9%. Quỹ bất động sản VPF của Dragon Capital đứng thứ hai với mức tăng trưởng NAV là 9,5%. Trong khi đó, quỹ VNL của VinaCapital chỉ ở mức tăng trưởng âm 14,4% khi đầu tư tập trung vào phân khúc cao cấp gồm các dự án cao ốc văn phòng và khách sạn, hướng đầu tư không phù hợp với bối cảnh khủng hoảng kinh tế đang trong thời điểm “tạo dấu ấn” năm 2009.

Tuy nhiên, trong tình hình thị trường tài chính có nhiều bất ổn thì tiềm năng tăng trưởng của nhóm quỹ đầu tư BĐS là rất lớn trong năm 2010.

Các quỹ đầu tư vào bất động sản ở VN

Quỹ Cty quản lý quỹ Tăng trưởng 2009 (%)

Vietnam Property Holding (VPH) Saigon Asset Management 12,9

Bao Tin Real Estate Fund Bao Tin Capital  

Vietnam Property Fund (VPF) Dragon Capital 9,5

Indochina Land Holdings Indochina Capital  

Aseana Properties Ireka Corporation Berhad  

Vietnam Real-Estate Development Fund Korea Investment Trust Management  

Vietnam Infrastructure Limited (VNI)VinaCapital

3,1

VinaCapital's VinaLand -14,4

2.2 Tác động của Quỹ đầu tư đến nền kinh tế Việt Nam

2.2.1. Thành tựu:

2.2.1.1. Đối với vốn đầu tư xã hội

Để phát triển bền vững rất cần những nguồn vốn trung và dài hạn. Quỹ đầu tư tạo ra hàng loạt các kênh huy động vốn phù hợp với nhu cầu của cả người đầu tư lẫn người nhận đầu tư. Các nguồn vốn nhàn rỗi riêng lẻ trong công chúng do vậy sẽ được tập trung lại thành một nguồn vốn khổng lồ, thông qua Quỹ đầu tư sẽ được đầu tư vào các dự án dài hạn, đảm bảo được nguồn vốn phát triển vững chắc cho cả khu vực tư nhân lẫn khu vực nhà nước.

Không những thế, các Quỹ đầu tư còn khuyến khích được dòng chảy vốn nước ngoài. Đối với luồng vốn gián tiếp, việc đầu tư vào Quỹ sẽ loại bỏ các hạn chế của họ về giao dịch mua bán chứng khoán trực tiếp, về kiến thức và thông tin về chứng khoán cũng như giảm thiểu các chi phí đầu tư. Đối với luồng vốn đầu tư trực tiếp, Quỹ đầu tư góp phần thúc đẩy các dự án bằng cách tham gia góp vốn vào các liên

Page 8: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

doanh hay mua lại một phần vốn của bên đối tác, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc thu hồi vốn cũng như tăng được sức mạnh trong nước ở các liên doanh.

2.2.1.2. Đối với công ty cổ phần :

Việc tiếp cận các nguồn vốn tiết kiệm nhỏ từ các cá nhân qua hệ thống ngân hàng luôn phải đối phó với những thủ tục rườm rà (đảm bảo khoản vay với các chứng từ tài chính và tài sản …). Thông qua Quỹ đầu tư, việc huy động vốn chỉ đơn thuần là phát hành chứng khoán với chi phí giảm đáng kể.

Nhận được các thông tin tư vấn quản lý, marketing và tài chính: Quỹ đầu tư cung cấp các thông tin tài chính, tư vấn về kế hoạch tài chính, marketing và các mối quan hệ với các tổ chức tài chính và các doanh nghiệp khác. Lợi ích này của Quỹ đầu tư được đặc biệt đánh giá cao với các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp vừa và nhỏ, và nhất là trong các nền kinh tế chuyển đổi.

Tiếp cận nguồn tài chính dài hạn: Lợi ích này thu được do sự kết hợp các công cụ huy động vốn của Quỹ. Đó là các loại chứng khoán do Quỹ phát hành, cùng với hoạt động của thị trường chứng khoán cho phép trao đổi, mua bán các loại chứng khoán đó. Sự kết hợp này khuyến khích các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có khả năng đầu tư dài hạn, cung cấp nguồn tài chính vô cùng cần thiết cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp.

2.2.1.3. Đối với nhà đầu tư và thị trường chứng khoán

Trước hết và quan trọng hơn cả là khả năng đầu tư đa dạng. Một cá nhân bình thường với số vốn hạn chế khó có thể đa dạng hoá một cách tối ưu danh mục đầu tư của mình. Nhưng bằng phương thức kết hợp vốn cùng với nhiều người khác trong các quỹ đầu tư, cá nhân đó có điều kiện chia phần lợi trong một tập hợp các chứng khoán được đa dạng tối đa. 

Lợi ích khác do các quỹ đầu tư mang lại là trình độ quản lý chuyên nghiệp. Nhiều nhà đầu tư nhỏ khó đạt hiệu năng quản lý các hoạt động đầu tư của mình một cách khôn ngoan nhất, họ cũng không có khả năng hoặc thấy không còn có lợi nếu phải trả các khoản phí cần thiết để “mua” sự quản lý chuyên nghiệp riêng cho mình. Bằng cách chung vốn tập thể vào các quỹ đầu tư, những cá nhân này có thể yên tâm sẽ được các nhà điều hành chuyên nghiệp quản lý số tiền đầu tư của mình với một chi phí thấp hơn so với việc họ phải tự lo liệu. 

Một lợi ích nổi bật nữa của quỹ đầu tư là các cổ phần góp vốn vào quỹ này có tính thanh khoản. Điều này có nghĩa là nếu nhà đầu tư muốn rút lui khỏi tổ chức đầu tư này, họ có thể bán lại phần tài sản của họ với một giá phải chăng để chuyển thành tiền mặt trong một thời gian ngắn. Do các chứng khoán mà các quỹ đầu tư mua bán thường thuộc những loại đầu tư có điều kiện bán nhanh nhất, nên những người mua cổ phần quỹ đầu tư không phải lo bị chôn vốn. Họ có thể thực hiện thanh lý việc nắm giữ cổ phần của họ vào bất cứ ngày nào có giao dịch, ở mức giá được công bố hiện hành và nhận tiền sau một khoảng thời gian qui định, thường là một tuần. Việc tính toán giá cổ phần của quỹ đầu tư rất đơn giản, vì tổng tài sản của quỹ đầu tư hầu hết là các chứng khoán có độ linh hoạt cao, giá của nó được cập nhật vào sau mỗi phiên giao dịch và dựa vào thị trường chứng khoán

Bên cạnh đó, sự tham gia của các Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ, với vai trò là tổ chức đầu tư chuyên nghiệp đã góp phần thúc đẩy sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường chứng khoán, đặc biệt đối với các thị trường còn non trẻ như thị trường chứng khoán Việt Nam.

Công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư chứng khoán cũng đã là cầu nối giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp, cung cấp vốn đầu tư tập trung vào các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế, góp phần nâng

Page 9: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thông qua việc đóng góp các kinh nghiệm tài chính và quản trị hiện đại vào các doanh nghiệp được đầu tư, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như thị trường chứng khoán nói riêng.

2.2.2 Tồn tại, yếu kém:

2.2.2.3 Góc độ Cơ quan quản lý Nhà nước

Đầu tiên, các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của các quỹ cũng khá khắt khe như không cho phép đầu cơ trong giai đoạn thị trường đi xuống, không repo hay sử dụng các đòn bẩy tài chính như đối với nhà đầu tư cá nhân.,

Thứ hai, thuế hiện nay là vấn đề mấu chốt nhất gây nên tính kém hấp dẫn, đặc biệt với đối tượng NĐT cá nhân, bởi có một sự khác biệt rất lớn trong thuế suất áp dụng khi họ tự thực hiện đầu tư so với khi họ đầu tư qua quỹ đầu tư nội địa. Ngoài ra, phương pháp tính thuế và thuế suất áp dụng cũng rất khác nhau giữa quỹ đầu tư nội địa và quỹ đầu tư ofshore, tạo thế kém hấp dẫn của quỹ nội địa.

Thứ ba, theo Luisa Gibbs, một luật sư người Úc làm việc tại Văn phòng Phillips Fox Hà Nội trong 02 năm qua, nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến các quy tắc, luật lệ hỗ trợ và bảo vệ thị trường hơn lợi nhuận. Những mối quan tâm chủ yếu là nhà đầu tư nước ngoài là có một khuôn khổ quản trị công ty hiệu quả, mở rộng các lĩnh vực mà nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư, khuyến khích các công ty ở Việt Nam lên niêm yết trên thị trường và tạo sự bình đẳng về nghĩa vụ công bố thông tin giữa các công ty niêm yết và công ty chưa niêm yết.

Thứ tư, hạn chế trong quy định về đấu giá cổ phần của cơ quan quản lý nhà nước. T heo Nghị định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư 126, tất cả các cuộc bán cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước có vốn trên 10 tỷ đồng phải thực hiện đấu giá qua Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phương thức đấu giá này có ưu điểm làm cho quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước minh bạch hơn, tiền thu về bán cổ phần cho nhà nước sẽ lớn hơn, nhất là đối tượng cổ phần hoá là các doanh nghiệp có tiềm năng thu hút người đầu tư. Tuy nhiên, phương thức này tỏ ra không thích hợp với các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả và làm tốn kém thêm chi phí, thay vì các công ty này chỉ cần thương lượng bán cổ phần cho các nhà đầu tư chiến lược là các Quỹ đầu tư. Các tổ chức đầu tư lớn như Quỹ đầu tư muốn mua cổ phần của các doanh nghiệp trên sẽ phải tham gia một cách bình đẳng vào các cuộc đấu giá cổ phần. Việc nhà đầu tư chiến lược là các Quỹ đầu tư phải tham gia đấu giá bình đẳng như các nhà đầu tư khác đang là rào cản đối với họ, bởi đối tượng này muốn được mua một tỷ lệ cổ phần đủ lớn bằng cách thương thảo theo những yêu cầu riêng biệt hoặc thỏa thuận pháp lý. Điều này phù hợp với những công ty hoạt động kém hiệu quả và cần được tái cơ cấu lại.

2.2.2.2. Góc độ quỹ đầu tư

Một trong những khó khăn cho hoạt động của các quỹ liên quan đến cơ chế của bản thân các quỹ. Không linh hoạt như nhà đầu tư cá nhân, các quỹ đầu tư phải tuân thủ các kế hoạch, chiến lược được đề ra từ trước, tất nhiên nguyên tắc an toàn, ít rủi ro được quan tâm hàng đầu, gây trở ngại trong việc chớp cơ hội hay chuyển hướng đầu tư khi thời cơ đến

Thứ hai, việc quản lý của Công ty quản lý quỹ. Được kỳ vọng nhiều nhưng một số Quỹ đầu tư đã có lúc họat động không hiệu quả và thua lỗ. Một số Qũy đã sai lầm trong chiến luợc đầu tư của mình khi đầu tư vào một doanh nghiệp họat động kém hiệu quả. Rủi ro này phát sinh từ việc quản lý của Công ty quản lý quỹ làm cho quỹ không đạt được mục tiêu đã đề ra. Điều này dẫn đến thiệt hại cả về vật chất và

Page 10: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

tinh thần cho nhà đầu tư, làm giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với lọai hình doanh nghiệp mới này tại Việt Nam.

Thứ ba, xung đột về mặt lợi ích. Trong quá trình hoạt động của mình, Công ty quản lý quỹ có thể gặp phải những xung đột lợi ích giữa các quỹ mà công ty quản lý hoặc giữa Quỹ với các sản phẩm tài chính khác của công ty. Các xung đột này có thể dẫn đến sự đối xử có lợi hay bất lợi đối với mỗi quỹ.

Thứ tư, rủi ro về định mức tín nhiệm. Các Quỹ đầu tư thường sẽ đầu tư một phần tài sản của quỹ, mặc dù không lớn vào trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu công ty. Việc đầu tư này sẽ hàm chứa rủi ro là tổ chức phát hành này có thể sẽ không có khả năng hoàn trả tiền gốc hoặc lãi cho nhà đầu tư.

2.2.2.3. Góc độ doanh nghiệp

Khó khăn đầu tiên mà các Quỹ đầu tư đang gặp phải là những rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam do thiếu thông tin hoặc không thẩm định được thông tin về doanh nghiệp. Khó khăn lớn nhất của nhà đầu tư là tìm hiểu thông tin tài chính của doanh nghiệp Việt Nam.

Điều quan trọng nhất đối với nhà đầu tư là muốn hiểu được hoạt động của doanh nghiệp một cách chân thực và chính xác qua bản báo cáo tài chính, nhưng phần lớn doanh nghiệp ở Việt Nam đều coi việc báo cáo tài chính chỉ để đối phó với cơ quan thuế, chứ không phải là dành cho cổ đông cũng như các nhà đầu tư tiềm năng. Doanh nghiệp Việt Nam hiên nay thường lập 2 loại sổ sách kế toán, một dành cho mình và một dành cho việc báo cáo thuế. Trong khi đó, hệ thống kiểm toán còn nhiều bất cập, có những quy định không tuân theo chuẩn mực quốc tế. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hoá chủ yếu là tính theo giá trị sổ sách chứ không sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền, nên để đánh giá giá trị thực của một doanh nghiệp là rất khó. Hệ thống thông tin của doanh nghiệp còn yếu, không cung cấp đầy đủ cho nhà đầu tư về tình hình hoạt động cũng như những dự báo trong tương lai. Hoạt động thâu tóm giữa các doanh nghiệp gần đây mới được công bố công khai. Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam đều ngại công khai tình hình hoạt động kinh doanh. Hội đồng quản trị chưa phải là tổ chức quy tụ những cổ đông lớn và không hoạt động độc lập, bởi tại nhiều doanh nghiệp, Giám đốc lại kiêm luôn chức Chủ tịch Hội đồng quản trị...

Thứ hai, hàng hoá trên thị trường hiện nay tuy đa dạng nhưng nhìn chung vân còn thiếu về cả số lượng lân chất luợng. Đặc trưng các công ty cổ phần Việt Nam hầu hết xuất phát từ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quyền lực chi phối vẫn thuộc về cổ đông nhà nước. Chính vì sợ bị mất quyền lợi, sợ phải đối mặt với việc minh bạch hóa thông tin khiến việc xem xét niêm yết bị hạn chế. Đây chính là nguyên nhân khiến cho các Quỹ đầu tư gặp nhiều khó khăn trong giải ngân nguồn vốn đầu tư. Khi mà quy mô thị trường không được nâng lên, không hội tụ được những doanh nghiệp lớn lên niêm yết thì thị trường chứng khoán Việt Nam khó có khả năng thu hút nhà đầu tư tài chính nước ngòai lớn như các Quỹ đầu tư nước ngòai.

Thứ ba, các quỹ đầu tư gặp phải khó khăn khi lựa chọn công ty để giải ngân. Xu thế chung của các quỹ đầu tư khi đầu tư vào doanh nghiệp cổ phần là đầu tư toàn diện, nghĩa là không chỉ góp tiền, mà quỹ còn giúp doanh nghiệp về nhân lực, kinh nghiệm quản lý, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thị trường tiêu thụ… Việc được tiếp nhận nguồn vốn đầu tư này có thể coi như một may mắn cho sự phát triển của doanh nghiệp cổ phần, bởi họ có cơ hội để lớn mạnh vững chắc. Để tiếp cận được nguồn vốn đầu tư mang tính chất toàn diện này, trước hết, doanh nghiệp phải biết những tiêu chuẩn cần thiết mà các Quỹ đầu tư đưa ra. Hiện nay ở Việt Nam rất ít các công ty phù hợp với tiêu chí để Quỹ bỏ vốn đầu tư, vì hầu hết các

Page 11: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

công ty cổ phần có quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được yêu cầu minh bạch tài chính hoặc những yêu cầu khác của Quỹ.

Ngoài một số quỹ đang đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp niêm yết trên sàn, hiện có một số Quỹ đầu tư chuyên đi tìm kiếm những doanh nghiệp đang ở giai đoạn phát triển tiềm năng để đầu tư. Vơi tầm nhìn chiến lược rộng, các Quỹ đầu tư sẽ phân loại những doanh nghiệp nào họ có thể phát triển về bề rộng và doanh nghiệp nào có thể phát triển về bề sâu.

Với những tiêu chí riêng, các Quỹ đầu tư sẽ đưa ra những chuẩn mực cho từng doanh nghiệp trong một lĩnh vực. Những tiêu chuẩn mà Quỹ IDG Ventures đưa ra hiện nay là: doanh nghiệp phải hiểu rõ sở thích, hoạt động cũng như những điều kiện về nhân khẩu của khách hàng; có sản phẩm hoặc dịch vụ độc đáo, mang lại lợi nhuận vuợt trội, đáp ứng nhu cầu thị trường; có khả năng sử dụng lợi thế từ công nghệ để giữ ưu thế trên thị trường; có những chuẩn bị để phản ứng kịp thời với sự thay đổi của thị trường; có đội ngũ điều hành tài năng với tầm chiến lược, kinh nghiệm… Trên thực tế, những chuẩn mực IDG Ventures đưa ra cho các doanh nghiệp để hợp tác, rót vốn đầu tư vừ khó lại vừa dễ. Nó dễ là vì bất cứ doanh nghiệp nào hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, phần mềm dù lớn hay nhỏ, phát triển trong giai đoạn nào cũng có thể tiếp cận được nguồn đầu tư này. Còn rất khó là ở chỗ, để có những sản phẩm hay dịch vụ độc đáo mang lại lợi nhuận vượt trội thì không phải doanh nghiệp nào cũng làm được.

Quỹ đầu tư bất động sản Indochina Land Holdings cũng vậy. Nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm cơ hội hợp tác với những doanh nghiệp bất động sản trong nước có tài sản đất đai nằm ở những vị trí tốt, có thể xây dựng cao ốc văn phòng, khách sạn, khu chung cư cao cấp… Để có những vị trí đẹp và tiện dụng, doanh nghiệp Việt Nam cũng phải qua những cuộc đấu thầu lớn với sự cạnh tranh gay gắt. Mêkông Capital thì yêu cầu về năng lực của đội ngũ quản lý doanh nghiệp rất cao.

Chính vì vậy, không những Mêkông Capital mà hầu hết các Quỹ đầu tư nước ngoài cũng như trong nước hiện nay đều định hướng đầu tư dài hạn, chú trọng vào những doanh nghiệp có đội ngũ quản lý tốt, bởi trong dài hạn, doanh nghiệp nào có đội ngũ quản lý xuất sắc sẽ có khả năng thành công hơn, bất kể họ thuộc lĩnh vực nào.

Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động các quỹ đầu tư tại Việt Nam

3.1 Phân tích SWOT nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới

Điểm mạnh

Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao

Thị trương nội địa đang dần phát triển

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh

Đạt kết quả tốt về xóa đói giảm nghèo

Các chỉ số xã hội tốt

Có lượng kiều hối cao

Điểm yếu

Tốc độ tăng xuất khẩu giảm

Kết quả đáng thất vọng về FDI

Tỷ suất đầu tư/tăng trưởng tăng

Chênh lệch nông thôn/thành thị tăng

Lạm phát cao

Nợ công cao (50% GDP)

Xuất khẩu

Page 12: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

Dự trữ ngoại tệ ít (khoảng 2 tháng nhập khẩu)

Nền kinh tế ngầm chiếm tỷ lệ lớn (theo một số nghiên cứu thì khoảng 60%)

Chỉ số năng lực cạnh tranh thấp

Thâm hụt ngân sách cao ( liên tục trong 5 năm trở lại đây vởi tỷ lệ >5% GDP, năm 2009 khoảng 7% GDP

Đánh giá của nước ngoài về hệ số tín nhiệm của Việt Nam thấp hơn một số nước trong khu vực như Indonesia và Malaysia do đó Việt Nam phải vay vốn trên thị trường tài chính quốc tế với lợi suất cao hơn

Nhập siêu cao

Xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng sơ cấp (tài nguyên thiên nhiên, các mặt hàng nông lâm thủy sản)

Cơ hội

Các chính sách tốt hơn ở các tỉnh

Duy trì sự tăng trưởng doanh nghiệp cổ phần hóa

Thu hút đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài

Có vốn để có thể sử dụng có hiệu quả

Nguy cơ

Quá coi trọng đầu tư theo định hướng

Chất lượng giáo dục thấp (có thể)

Cần thêm tiến bộ về IT (chất lượng/sử dụng)

Bất cân bằng các vùng và thành thị/nông thôn tăng

3.2. Giải pháp cho chính phủ

3.2.1. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô

Sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vĩ mô có mối quan hệ mật thiết tới thị trường chứng khoán nói chung và sự phát triển của các Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng. Chỉ trong một nền kinh tế ổn định, các chỉ số vĩ mô như lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng, tỷ giá hối đoái, mức lãi suất ổn định thì mới tạo lập được niềm tin và kích thích người đầu tư xoá bỏ tâm lý e ngại, dè chừng khi tham gia vào một hình thức đầu tư mới. Từ đó khuyến khích các tổ chức kinh tế tích cực hơn trong quyết định thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán cũng như tạo ra môi trường tốt cho hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển.

Trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô có nhiều dấu hiệu bất ổn, thiếu sự kiểm soát thì các nhà đầu tư không thể mạo hiểm tham gia vào thị trường chứng khoán vì họ không tin tưởng vào khả năng sinh lợi trên thị trường này. Điều này dẫn đến sự đình trệ trong hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung.

Page 13: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

Một nền kinh tế ổn định còn giúp cho hệ thống doanh nghiệp có thể duy trì sự phát triển ổn định của mình, thu hút được các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, quan tâm tới việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, họ sẽ có nhu cầu về vốn rất cao và tìm cách huy động dưới nhiều hình thức trong đó có việc tham gia vào thị trường chứng khoán. Đây là xu hướng tất yếu của các doanh nghiệp trong một nền kinh tế phát triển. Như vậy, nguồn cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán sẽ phong phú. Đồng thời, khi đó các chứng khoán được phát hành ra sẽ hấp dẫn hơn đối với người đầu tư, do đó sẽ làm tăng tính thanh khoản của các chứng khoán, làm cho hoạt động kinh doanh chứng khoán sôi động.

Để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, kiểm soát lạm phát trong điều kiện chịu sự ảnh hưởng của những biến động kinh tế thế giới trong xu hướng toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay thì Việt Nam phải thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:

- Thực hành tiết kiệm để tạo và nuôi dưỡng nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Chính sách tiết kiệm phải đi đôi với chính sách khuyến khích đầu tư và chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.

- Đầu tư phát triển phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong các quyết sách kinh tế quốc gia. Đầu tư phải có trọng điểm, có ưu tiên theo hướng chuyển dịch cơ cấu theo hướng kết hợp phát triển theo chiều rộng với việc hoàn thiện, cải tiến thiết bị công nghệ theo chiều sâu.

3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý

Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý là để tạo hành lang cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp hoạt động một cách công bằng và hiệu quả. Hiện nay, chúng ta đã có luật các tổ chức tín dụng nhưng chưa đề cập rõ về Quỹ đầu tư.

Việc điều chỉnh các hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán chỉ dựa vào quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ kèm theo Quyết định số 05/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998. Nhưng để các văn bản này đi vào thực tiễn và phát huy hiệu lực thì cần sớm đưa các nội dung này vào trong khuôn khổ pháp lý cao hơn dưới hình thức các luật như Luật về Chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật các định chế tài chính trung gian khi thị trường chứng khoán Việt Nam dần đi vào hoạt động ổn định.

Ngoài ra, do Quỹ đầu tư chứng khoán có một số đặc điểm riêng so với các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường nên nó chịu sự chi phối của nhiều bộ luật khác có liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật dân sự… Các bộ luật này và các văn bản dưới luật đi kèm có một số điểm bất đồng, chồng chéo nhau và chưa có sự bổ sung điều chỉnh đối với một hình thức đầu tư mới - đầu tư qua quỹ. Do vậy, một yêu cầu đang được đặt ra là cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các bộ luật này để tạo nên một hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo sự công bằng cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như nhằm giải quyết một cách nhanh chóng khi có tranh chấp xảy ra. Ví dụ như đối với Luật đầu tư nước ngoài, cần nhanh chóng chỉnh sửa nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư nước ngoài được nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu của một công ty lớn hơn tỷ lệ hiện nay là 30%.

3.2.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư

Khi thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động thì việc hình thành các Quỹ đầu tư là hết sức cần thiết để tạo điều kiện cho công chúng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, Quỹ đầu tư chứng khoán còn là vấn đề rất mới và trong điều kiện hiện nay còn nhiều khó khăn để quỹ ra đời

Page 14: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

và hoạt động, do vậy rất cần có sự trợ giúp của nhà nước. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy trong giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán, chính phủ Hàn Quốc đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy trợ giúp sự hình thành và phát triển Công ty tín thác đầu tư. Tại Malaixia có Quỹ đầu tư chứng khoán do chính phủ thành lập tên là PNB. Nó có những quỹ chi nhánh theo chuyên ngành để hỗ trợ, giúp đỡ người dân mua các cổ phiếu của các công trình, công ty làm ăn có lãi. Giống với Malaixia, ở Singapore chính phủ cũng thành lập một Quỹ đầu tư chứng khoán của nhà nước với mục đích tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Số vốn của các quỹ đó ngày càng tăng khiến cho quỹ có thể mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Do vậy, sự trợ giúp của nhà nước thể hiện ở việc nhà nước cần đi tiên phong trong việc thành lập công ty quản lý quỹ và thiết lập các Quỹ đầu tư để mở đầu tạo niềm tin cho công chúng trong đầu tư. Việc mở đầu thành công có ý nghĩa rất quan trọng để khuyến khích, thu hút các thành phần kinh tế và các tổ chức khác.

3.2.4. Thu hút đầu tư gián tiếp

Chúng ta nên có chế độ ưu tiên đối với lĩnh vực đầu tư gián tiếp cũng được ưu đãi như đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới và quan trọng không kém so với hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam đã rất thành công trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng xem ra việc thu hút đầu tư nước ngoài gián tiếp vẫn còn bị bỏ ngỏ. Các nhà quản lý hình như chưa có chính sách thông thoáng để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp này, một phần vì sợ các nhà đầu tư nước ngoài có quyền rút vốn ồ ạt gây khủng hoảng cho nền tài chính quốc gia tương tự như cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra vào năm 1997. Nhưng trên thực tế, tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường Việt Nam hiện nay chiếm chưa đến 1% vốn đầu tư trực tiếp trong khi ở Thái Lan khi xảy ra khủng hoảng tỷ lệ này là 80%. Chính vì vậy, Việt Nam phải quan tâm hơn nữa tới kênh thu hút vốn này.

3.2.5. Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam

Thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó hữu cơ với nhau. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát triển vững chắc trên cơ sở một hệ thống ngân hàng lành mạnh và được kiểm soát tốt. Đối với các Quỹ đầu tư, ngân hàng đóng vai trò là chủ thể giám sát, bảo quản tài sản của quỹ. Muốn trở thành ngân hàng giám sát, ngân hàng đó phải đáp ứng các điều kiện do Uỷ ban chứng khoán nhà nước đề ra. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực liên tục cơ cấu lại tổ chức, hoàn thiện các nghiệp vụ phục vụ khách hàng và từng bước chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ. Ngân hàng nhà nước nên có chế độ giám sát đảm bảo độ an toàn của các ngân hàng thương mại, xây dựng các môi trường pháp lý chặt chẽ, xây dựng các tiêu chuẩn hạch toán, báo cáo tài chính kế toán, kiểm toán rõ ràng và trung thực để các ngân hàng thương mại có thể đáp ứng một nghiệp vụ mới này.

Các ngân hàng thương mại là những tổ chức đóng vai trò tích cực trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bởi vậy, hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động lành mạnh và được ngân hàng trung ương kiểm soát và giám sát chặt chẽ sẽ có ảnh hưởng lớn đến tính lành mạnh của thị trường chứng khoán. Qua đó đã gián tiếp tạo điều kiện cho sự ra đời của các Quỹ đầu tư.

Nhà nước tích cực khuyến khích các ngân hàng tham gia tạo lực lượng nòng cốt cho thị trường chứng khoán. Ngân hàng nhà nước có thể dành một khoản chi nhất định cho việc thành lập các công ty chứng khoán hoặc tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh để tạo cơ sở cho các ngân hàng thành lập công ty chứng khoán hoặc thực hiện việc liên doanh với công ty chứng khoán nước ngoài. Bên cạnh đó, ngân hàng không ngừng nâng cao nghiệp vụ, áp dụng các phương thức thanh toán… tạo điều kiện cho mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán nói chung cũng như hoạt động của các Quỹ đầu

Page 15: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

tư nói riêng và nhất là có thể đáp ứng được các điều kiện để trở thành tổ chức bảo quản và giám sát tài sản cho các Quỹ đầu tư.

Một tin vui mới đến cho các ngân hàng là vừa qua Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã ký giấy phép công nhận Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là ngân hàng lưu ký chứng khoán. Đây là bước chuẩn bị nhằm tiến tới việc thành lập các ngân hàng giám sát khi các Quỹ đầu tư ra đời.

3.2.6. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của Quỹ đầu tư.

Quỹ đầu tư chứng khoán là một loại hình tổ chức đầu tư còn rất mới mẻ, chắc chắn khi thành lập và những năm đầu mới đi vào hoạt động sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc thực hiện ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của quỹ là việc hỗ trợ hết sức quan trọng và cần thiết của nhà nước đối với sự hoạt động và phát triển của Quỹ đầu tư chứng khoán.

Hiện tại, chưa có bất cứ một quy định nào về thuế đối với Quỹ đầu tư. Theo quy định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán: Quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư được uỷ thác cho công ty quản lý quỹ và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán. Với quy định như vậy thì Quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân, không thuộc sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, vì vậy không phải là đối tượng đánh thuế của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Ở nhiều nước như Pháp, Nhật… họ áp dụng nguyên tắc không đánh thuế các Quỹ đầu tư, coi Quỹ đầu tư là phương tiện, công cụ đầu tư cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, chứ không phải là một pháp nhân kinh doanh. Ngay cả trong trường hợp quỹ là pháp nhân, một số nước cũng áp dụng chế độ miễn trừ nhất định để quỹ này được hưởng ưu đãi thuế hoàn toàn. Các quy định về thuế đối với Quỹ đầu tư đảm bảo rằng, việc nhà đầu tư thực hiện đầu tư qua Quỹ đầu tư và việc nhà đầu tư đầu tư trực tiếp không qua quỹ là tương đương nhau trên góc độ thuế. Nhà đầu tư chỉ phải trả thuế thu nhập khi nhận lợi tức được chia từ các quỹ hoặc chia từ việc đầu tư trực tiếp không qua quỹ. Rõ ràng nếu thu nhập đầu vào và lợi nhuận của quỹ bị đánh thuế thì sẽ không khuyến khích nhà đầu tư đầu tư qua quỹ. Mô hình về thuế với Quỹ đầu tư như trên nhằm khuyến khích sự phát triển của loại hình đầu tư ưu việt này. Kết quả là nhà đầu tư thấy rằng việc họ đầu tư trực tiếp hay thông qua quỹ đều đem lại một mức thuế như nhau. Điều này sẽ tận dụng được hết mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng.

3.2.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện pháp tăng cung kích cầu

Quỹ đầu tư là một loại hình hoạt động gắn liền với thị trường chứng khoán. Để Quỹ đầu tư hình thành và phát triển lành mạnh, tích cực, việc đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng là một nhân tố quan trọng. Trên thực tế, số lượng và giá trị của các cổ phiếu và trái phiếu được niêm yết trên thị trường tập trung là rất nhỏ, trong khi chưa có thị trường giao dịch ngoài quầy, mức cầu cũng không khả quan. Để khuyến khích việc ra đời của các Quỹ đầu tư chứng khoán, nhà nước phải đảm bảo hoạt động của các quỹ này thông qua các biện pháp tăng cung kích cầu trên thị trường chứng khoán.

Các biện pháp tăng cung trên thị trường chứng khoán : Để xây dựng một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả thì việc cung cấp hàng hoá chứng khoán cho thị trường là một vấn đề rất quan trọng. Thực tiễn các thị trường chứng khoán thế giới đã chứng minh rằng một thị trường chứng khoán sẽ không thể hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả nếu lượng chứng khoán cung cấp cho thị trường không nhiều và số lượng nhà đầu tư nhỏ. Một thị trường như vậy được coi là một thị trường mỏng,

Page 16: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

thiếu tính ổn định và ít có khả năng tự điều chỉnh, dễ bị tác động bởi các yếu tố khách quan bên ngoài, không đảm đương được vai trò là nơi huy động và phân bổ một cách có hiệu quả những nguồn lực trong xã hội.

Một trong những mục tiêu hàng đầu của Quỹ đầu tư là thực hiện đa dạng hoá đầu tư vào chứng khoán. Trong điều kiện hiện nay, số lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường còn hạn chế. Để tạo điều kiện cho Quỹ đầu tư bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả, nhà nước cần trợ giúp hàng hoá chứng khoán cho sự hoạt động của các Quỹ đầu tư. Sự trợ giúp được thực hiện bằng cách khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nên dành quyền ưu tiên mua cổ phiếu bán ra bên ngoài. Hiện nay, khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thường dành một tỷ lệ từ 15% - 20% số cổ phiếu phát hành để bán ra bên ngoài cho công chúng. Thế nhưng, phần vốn thuộc sở hữu nhà nước của các doanh nghiệp cổ phần hoá chiếm tỷ lệ cao 35%, phần bán cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp còn cao hơn 38% do đó tỷ lệ bán cho công chúng thấp, không đáp ứng được một trong những điều kiện niêm yết là 20%.

Bên cạnh đó, thực tế cho thấy những doanh nghiệp cổ phần hoá có triển vọng làm ăn tốt thì các nhà đầu tư riêng lẻ là công chúng khó có thể mua được cổ phiếu của các doanh nghiệp này. Vì thế, việc dành quyền ưu tiên mua cho các Quỹ đầu tư vừa tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư hoạt động lại vừa có thể thực hiện phổ biến rộng rãi cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá cho công chúng qua việc họ mua chứng chỉ Quỹ đầu tư của quỹ.

Có thể áp dụng các giải pháp tài chính thích hợp để tăng cung hàng hoá cho thị trường như tín dụng nhà nước và thuế. Nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế nên nhu cầu chi cho đầu tư của ngân sách là rất lớn nên việc vận dụng công cụ tín dụng nhà nước là rất cần thiết để bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước cần có những dự án đầu tư mang tính khả thi và có thể đẩy mạnh việc phát hành các trái phiếu trung và dài hạn, đặc biệt là những trái phiếu công trình với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động của ngân hàng, vì trái phiếu chính phủ là một mặt hàng ít rủi ro dựa trên uy tín của nhà nước.

Hiện nay, chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2000/ NĐ-CP quy định hai hình thức mới của việc phát hành trái phiếu chính phủ: phát hành thông qua các nhà bảo lãnh phát hành và thông qua đấu thầu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, mục đích tập trung thống nhất để trái phiếu chính phủ có thể giao dịch trên thị trường. Vấn đề đặt ra cho việc phát hành trái phiếu chính phủ là phải đổi mới thực sự cơ cấu phát hành. Trong điều kiện lãi suất ngân hàng thấp như hiện nay, nếu trái phiếu chính phủ dài hạn có mức lãi suất tương ứng thì sẽ ít hấp dẫn nhưng lãi suất trái phiếu chính phủ cũng không nên cao hơn lãi suất ngân hàng. Bên cạnh đó, phải tăng khả năng niêm yết của trái phiếu chính phủ trên thị trường thứ cấp. Muốn vậy, trái phiếu cần phải được phát hành theo lịch biểu định kỳ thường xuyên. Việc phát hành từng đợt phải thống nhất về mệnh giá, lãi suất và thời hạn thanh toán mỗi đợt phát hành phải có khối lượng tương đối lớn.

Bên cạnh trái phiếu chính phủ, một nguồn hàng hoá không nhỏ khác cho thị trường chứng khoán là trái phiếu công ty. Để đảm bảo khả năng thanh toán và nâng cao năng lực tài chính doanh nghiệp, hiện nay việc cơ cấu lại nợ cho công ty nhà nước đang được đặt ra. Hơn nữa, nhà nước cần cắt giảm triệt để bao cấp lãi suất, nguồn vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước. Điều này thúc đẩy họ phải chuẩn bị các điều kiện để phát hành trái phiếu công ty.

Nhà nước khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nhà nước nên nghiên cứu ban hành các chính sách cho phép chuyển công ty liên doanh thành công ty cổ phần, chính sách khuyến khích phát hành ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hoá và các công ty tư nhân, công ty liên doanh với nước ngoài như: chính sách ưu đãi thuế, chính

Page 17: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

sách ưu đãi cho vay thương mại, chính sách cho phép đăng ký phát hành khung, chính sách niêm yết giữa cổ phần hoá và niêm yết chứng khoán… Hiện tại, quy mô vốn của các Quỹ đầu tư nước ngoài đã giảm xuống còn 128 triệu USD, thế nhưng nguồn vốn này sẽ còn là quá lớn so với quy mô vốn giao dịch hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Bên cạnh đó, tổng giá trị giao dịch của các công ty niêm yết vào khoảng 140triệu USD trong khi các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được đầu tư đến 20% cổ phiếu của các công ty niêm yết làm cho các nhà đầu tư có ít chọn lựa để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, việc gia tăng tỷ lệ cho các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần để tăng nguồn cung của thị trường chứng khoán.

Ngoài việc tăng về số lượng chúng ta cần phải nâng cao chất lượng chứng khoán thông qua việc tăng cường hoạt động quản lý phát hành và niêm yết để lựa chọn những công ty đủ chất lượng đưa vào thị trường.

Các biện pháp tăng cầu cho thị trường chứng khoán: Vấn đề đặt ra là phải tạo lập một cơ chế và môi trường đầu tư tốt để khuyến khích công chúng đầu tư vào chứng khoán. Để kích cầu, trước hết cần tiến hành giáo dục, tuyên truyền rộng rãi để thu hút sự quan tâm và nâng cao kiến thức của công chúng về chứng khoán, thị trường chứng khoán và đầu tư chứng khoán.

Có chính sách cho vay đầu tư chứng khoán một cách hợp lý để người lao động có thu nhập thấp cũng có quyền sở hữu cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hoá. Thực chất là người lao động được mua chịu một số cổ phiếu trả chậm với lãi suất ưu đãi. Thúc đẩy sự ra đời của các trung gian tài chính với chức năng tạo lập thị trường, muốn vậy nhà nước cần phải thực hiện một số giải pháp như: nâng mức vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh để tăng cường sức mạnh tài chính cho các ngân hàng tạo cơ sở thành lập các công ty chứng khoán con tại các ngân hàng thương mại.

Đa dạng hoá người đầu tư: công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, ngân hàng, cá nhân, các hội đoàn thể trong và ngoài nước… Đồng thời đa dạng hoá người phát hành như chính phủ, địa phương, ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp…

Tạo cầu nối giữa cung và cầu chứng khoán. Qua 3 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam diễn biến hết sức phức tạp, biểu hiện rõ nét nhất được thể hiện qua sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu chứng khoán, làm đẩy giá thoát ly giá trị thực tế vốn có của nó. Có giai đoạn cầu vượt xa cung, cung vượt xa cầu và cho đến nay thì cầu giảm xuống rõ rệt, có thể nói là cung cầu chứng khoán đã không gặp nhau. Chính vì vậy, phải hình thành những kênh phân phối có hiệu quả đó là các công ty chứng khoán có tác dụng hướng dẫn và tư vấn cho người đầu tư về hình thức kinh doanh chứng khoán.

Mặt khác, bên cạnh thị trường tập trung phải hình thành một thị trường phi tập trung OTC để các loại chứng khoán không được niêm yết có thể giao dịch. Theo kế hoạch việc xây dựng thị trường cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội sẽ được xúc tiến, chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung. Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh sẽ được xây dựng thành Sở giao dịch chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin thị trường tự động hoàn toàn.

3.3 Bản thân các quỹ đầu tư

3.3.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư chuyên nghiệp

Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, một yếu tố có tính chất quyết định đến sự thành công của một Quỹ đầu tư đó là trình độ năng lực của nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp. Ở nhiều nước, các nhà đầu tư riêng lẻ thường chọn Quỹ đầu tư dựa trên cơ sở xem xét tài năng của các nhà đầu tư chuyên nghiệp của

Page 18: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

quỹ, người ta cũng sẵn sàng rút ra khỏi quỹ khi mà nhà quản lý chuyên nghiệp xuất sắc đó không còn làm cho quỹ nữa. Thông thường ở một số nước Quỹ đầu tư do một nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp điều hành, vừa thực hiện chiến lược đầu tư, vừa chịu trách nhiệm điều hành công việc hàng ngày. Hỗ trợ cho sự hoạt động của nhà quản lý chuyên nghiệp còn có đội ngũ chuyên viên phân tích tài chính. Hiện nay, các tổ chức thành lập Quỹ đầu tư chuẩn bị đội ngũ nhân lực cho quỹ theo các kênh:

- Cử một số nhân viên theo học các khoá đào tạo cơ bản về đầu tư, phân tích chứng khoán, về khung pháp lý cho hoạt động đầu tư và các kiến thức nghiệp vụ tài chính tín dụng. Sau đó các nhân viên này sẽ nhận được chứng chỉ và tham gia kỳ thi sát hạch để được cấp giấy phép hành nghề đầu tư chuyên nghiệp.

- Tuyển nhân viên có kiến thức về đầu tư hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, sau đó tiếp tục bồi dưỡng và bổ sung nâng cao trình độ kiến thức cho các nhân viên này.

- Cử nhân viên ra nước ngoài khảo sát, học tập, nghiên cứu về hệ thống Quỹ đầu tư ở một số nước.

Những điều kiện trên cho thấy, một nhà quản lý chuyên nghiệp thực thụ của Quỹ đầu tư chứng khoán phải có một kiến thức sâu rộng và đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tạo cơ sở niềm tin cho công chúng. Điều đó đòi hỏi phải có kế hoạch, chương trình đào tạo có hệ thống để xây dựng đội ngũ các nhà quản lý chuyên nghiệp cho quỹ.

3.3.2. Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công chúng

Những vấn đề về tín thác và Quỹ đầu tư là những vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Do vậy, một mặt cần tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong việc phát triển hệ thống tín thác đầu tư.

Mặt khác, cần phổ biến rộng rãi những kiến thức cơ bản và thông tin về Quỹ đầu tư cho công chúng qua sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng. Đối tượng thu hút các nhà đầu tư tham gia vào Quỹ đầu tư chủ yếu là công chúng. Vì thế sự thành công của quỹ phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết và tham gia của công chúng. Hiện nay, bên cạnh các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho những người đi sâu vào thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước đang có rất nhiều hình thức để phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng như tổ chức các bài giảng, các lớp học ngắn ngày cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này hay trang chuyên đề giải đáp trên các tạp chí chứng khoán. Nhưng với vai trò là người quản lý thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần phải đảm bảo các thông tin trên thị trường chứng khoán là chính xác, trung thực. Có như vậy mới giúp những người ít hiểu biết nhất vẫn tránh được rủi ro và việc quản lý thị trường được dễ dàng. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền thời gian qua chưa được làm liên tục và có hệ thống, chưa nhận được sự quan tâm thích đáng tương xứng với tầm quan trọng về yêu cầu phát triển của thị trường. Nhiều chương trình tuyên truyền mới chỉ dừng lại ở mức thảo luận và đề xuất ý kiến mà chưa được triển khai kịp thời và bài bản. Các chương trình đào tạo vẫn còn quá ít và chỉ tập trung vào thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, chưa mở rộng sang các tỉnh thành khác.

3.3.3. Chiến lược đầu tư thích hợp

Tại Việt Nam, quy mô vốn của một dự án chỉ vào khoảng 10 triệu USD, do đó các Quỹ đầu tư cần xác định chiến lược đầu tư phù hợp, tập trung tìm kiếm các dự án thích hợp với mục tiêu đầu tư của mình. Mặt khác, các quỹ nên hạ thấp yêu cầu về tỷ suất lợi nhuận của các dự án cho phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam hiện tại. Có như vậy, các Quỹ đầu tư mới không bị trói buộc vào thị trường đầu tư của

Page 19: De Tai Thuyet Trinh - Quy dau tu

chính mình. Tuy có một đội ngũ quản trị viên xuất sắc song chủ yếu là người nước ngoài vì vậy các quỹ nên tham khảo ý kiến của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư của Việt Nam hơn nữa nhằm có một chiến lược tương thích với môi trường đầu tư Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạp chí chứng khoán VN số tháng 1+2/2010

2. www.saga.vn

3. www.cafef.com

4. www.ssc.gov.vn

5. …..