ĐỀ TÀI CẤP BỘ
Transcript of ĐỀ TÀI CẤP BỘ
1
BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
KỶ YẾU
ĐỀ TÀI CẤP BỘ
2012 - 2013
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
Hà Nội - 2014
2
3
MỤC LỤC
Lời giới thiệu............................................................................................................... 5
• Xây dựng Bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động Việt Nam (MS: CB2013-01-02) ....................................................................................... 7
• Thực trạng thi hành pháp luật dạy nghề và kiến nghị các nội dung cần sửa đổi vào Luật Dạy nghề (MS: CB2013-04-06) ............................. 25
• Nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động di cư vùng biên (MS: CB2012-01-02) ........... 45
• Nghiên cứu, xây dựng các mức đóng, hưởng và cơ chế vận hành quỹ bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phù hợp với Việt Nam (MS: CB2012-01-03) .................................................................... 66
• Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nghề nghiệp trong giai đoạn mới (MS: CB2012-01-07) ............................................................................... 96
• Cơ sở lý luận và thực tiễn sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (MS: CB2012-02-07) .......... 142
• Nghiên cứu phương pháp, cơ chế đánh giá, giám sát bình đẳng giới ở các cấp (MS: CB2012-02-08) ...................................................................... 165
• Già hoá dân số tác động đến việc làm và an sinh xã hội giai đoạn 2015-2020 (MS: CB2012-02-09) ................................................. 196
• Hệ thống các vấn đề phát sinh trong đơn thư, khiếu nại về lao động - xã hội và khuyến nghị các định hướng cần nghiên cứu giải quyết (MS: CB2012-02-11) ........................................................................................ 231
• Chính sách tiền lương và thu nhập trong phát triển năng lực cạnh tranh của nguồn lao động (MS:CT2011-01-04) ................................ 259
• Định hướng mở rộng độ bao phủ an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020 (MS: CT2011-02-01) ............................................................. 285
• Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chính sách khuyến khích tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với lao động nghèo, lao động là người dân tộc thiểu số, nông dân có mức thu nhập từ trung bình trở xuống (MS: CT2011-02-02) ............................................ 315
• Đánh giá thực trạng khả năng và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương đặc biệt tại các vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số (MS: CT2011-02-03) ........ 348
4
5
LỜI GIỚI THIỆU
au giai đoạn khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu, thế giới sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới với việc
tái cấu trúc với sự phát triển của kinh tế tri thức; Khoa học Công Nghệ
(KH-CN) phát triển mạnh mẽ, chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu
tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh phát triển kinh tế - xã hội
(KT-XH) của mỗi quốc gia. Hội nhập ASEAN đặt ra những thách thức
cho việc chuẩn bị nguồn nhân lực và các tiêu chuẩn xã hội của Việt Nam
khi cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Chiến lược phát triển KT-XH xác định đến năm 2020 nước ta về cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó, quá
trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng sẽ có tác
động tích cực trong dài hạn, xong trong ngắn hạn có thể có tác động bất
lợi, ảnh hưởng đến sinh kế của người dân, đặc biệt là người nghèo... dẫn
đến yêu cầu đầu tư để tái phân bố lao động và các giải pháp an sinh xã
hội cho những người bị tác động.
Tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh bất ổn sẽ làm gia tăng nhóm
người yếu thế. Bên cạnh đó, sự phát triển không đồng đều giữa các vùng
miền, các nhóm xã hội cũng sẽ làm gia tăng bất bình đẳng với những
hình thái mới. Do vậy, trong thời gian tới, giảm bất bình đẳng và bảo
đảm công bằng xã hội là một trong những mục tiêu quan trọng.
Những thuận lợi và thách thức đòi hỏi công tác nghiên cứu khoa
học cần phát huy vai trò là tiền đề, cung cấp các luận cứ vững chắc cũng
như đưa ra những định hướng cho quản lý xã hội trong thời kỳ tới.
S
6
Với mục tiêu trên, cuốn “Kỷ yếu các đề tài cấp Bộ 2012-2013”
được biên soạn trên cơ sở tuyển chọn, tóm tắt những kết quả nghiên cứu
chủ yếu nhất của các đề tài. Những công trình này được lưu giữ tại Thư
viện Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Bạn đọc cần cung cấp thông tin
chi tiết xin vui lòng liên hệ:
Thư viện Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Số 2 Đinh Lễ - Hà Nội
Điện thoại: 84-4-39387384 Fax: 84-4-38269733
Email: [email protected]
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
7
XÂY DỰNG BỘ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Mã số: CB2013-01-02
Cơ quan chủ trì đề tài: Cục Việc làm
Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Thị Hải Vân
Thư ký: ThS. Nguyễn Thế Hà
CHƯƠNG I
PHƯƠNG PHÁP LUẬN XÂY DỰNG BỘ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
I. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
- Cũng như một số nước trong khu vực, Việt Nam bị ảnh hưởng tương
đối từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới không chỉ ở lĩnh vực kinh tế mà
còn ở nhiều mặt văn hóa, xã hội khác (trong đó có các vấn đề về thị trường
lao động, lao động - việc làm...). Năm 2012, tốc độ tăng trưởng GDP thấp
hơn so với mức tăng năm 2011 (5,1% so với 5,9%); tốc độ tăng trưởng của
cả 3 ngành kinh tế năm 2012 đều có xu hướng giảm so với năm 2011.
- Thị trường lao động Việt Nam vẫn tiếp tục được phát triển theo
hướng hiện đại hóa và định hướng thị trường:
+ Ưu điểm: thị trường lao động ngày càng được hoàn thiện hơn: chất
lượng cung tăng lên, cơ cấu cầu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực,
năng suất lao động và tính cạnh tranh lao động được tăng lên…
+ Trong bối cảnh của một nước đang trong quá trình chuyển đổi, sự
hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam vẫn còn tồn tại:
Lao động chủ yếu làm việc trong khu vực nông nghiệp, khu vực phi chính
thức, năng suất thấp, nhiều rủi ro; Cung lao động khá dồi dào xong chất
lượng cung lao động thấp, điều kiện nơi làm việc nghèo nàn, chứa đựng
nhiều rủi ro, phân bố chưa hợp lý; Cầu lao động còn thấp về số lượng và
chất lượng; vẫn tồn tại sự mất cân bằng giữa cung và cầu lao động; Thị
8
trường lao động bị phân mảng, khoảng cách lớn giữa thành thị - nông thôn,
lao động không được đào tạo - được đào tạo...
II. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG BỘ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
- Việc xác định và lượng hóa tính không hiệu quả của thị trường lao
động cũng như vấn đề sử dụng lao động lãng phí và thiếu việc làm là bước
đầu trong công cuộc xây dựng các chính sách việc làm nhằm tăng cường
năng lực của người lao động từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong bối
cảnh đó, chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động là công cụ nhằm kiểm soát và
nắm bắt nhiều vấn đề quan trọng, liên quan đến chức năng của thị trường
lao động.
- Bộ chỉ tiêu giúp đánh giá đúng thị trường lao động sẽ là cơ sở cho
việc hoạch định các chính sách phát triển thị trường lao động một cách hiệu
quả, đúng hướng, tiết kiệm các nguồn lực của đất nước góp phần phát triển
kinh tế bền vững. Đồng thời, có thể so sánh mức độ phát triển của thị trường
lao động quốc gia so với các nước trong khu vực và quốc tế.
III. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TRONG XÂY DỰNG BỘ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
- Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) bắt đầu chương trình xây dựng Các
chỉ tiêu cơ bản về thị trường lao động (Key Indicators of the Labour Market
- KILM) vào năm 1999. Ở lần xuất bản thứ năm (2007), KILM đó có những
phát triển mới trong so sánh, đánh giá, phân tổ các khu vực và chỉ ra những
khuynh hướng mới trên thị trường lao động thế giới, bao gồm 20 chỉ tiêu và
được phân thành 8 nhóm: (1) Chỉ tiêu về lực lượng lao động; (2) Chỉ tiêu về
việc làm; (3) Chỉ tiêu về thất nghiệp, thiếu việc làm và không hoạt động kinh
tế; (4) Chỉ tiêu về trình độ học vấn; (5) Chỉ tiêu về tiền lương và chi phí lao
động; (6) Chỉ tiêu về năng suất lao động và chi phí lao động đơn vị; (7) Chỉ
tiêu về co giãn việc làm; (8) Chỉ tiêu về nghèo đói và phân phối thu nhập.
Nhìn chung, các thông tin của các tổ chức trên thường được thu thập
từ các nguồn quốc gia hoặc dựa vào các ấn phẩm chính thức từ các quốc gia.
9
IV. NỘI HÀM VÀ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
- KILM cung cấp các chỉ tiêu liên quan đến lực lượng lao động, việc
làm, thất nghiệp, trình độ học vấn đạt được, chi phí tiền công và thù lao, chi
phí năng suất và lao động, co giãn về việc làm và nghèo đói. Hai mươi chỉ
tiêu này được sắp xếp theo chủ đề chung của tám chương. Dưới đây mô tả
tóm tắt về từng chỉ tiêu thị trường lao động:
+ KILM 1: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động được đo bằng tỷ số giữa lực lượng
lao động và tổng dân số trong độ tuổi lao động (Theo tiêu chuẩn của ILO,
dân số trong tuổi lao động là dân số từ 15 tuổi trở lên).
+ KILM 2: Tỷ số việc làm trên dân số
Tỷ số việc làm trên dân số là tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động
đang có việc làm trong tổng dân số trong tuổi lao động (theo ILO là từ 15
tuổi trở lên).
+ KILM 3: Vị thế công việc
Vị thế công việc là việc làm được phân tổ thành 3 nhóm chủ yếu là :
(a) lao động làm công ăn lương, (b) lao động tự làm, và (c) lao động gia
đình không hưởng lương - mỗi phân tổ là cấu thành của tổng việc làm. Phân
tổ theo vị thế công việc có thể giúp khám phá cả về động thái của thị trường
lao động và cả về mức độ phát triển của quốc gia.
+ KILM 4: Việc làm theo ngành kinh tế
Việc làm theo ngành kinh tế là việc làm được phân bổ theo ba nhóm
ngành kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, được tính
bằng tỷ lệ phần trăm trong tổng việc làm.
+ KILM 5: Lao động làm việc bán thời gian
Ở các quốc gia đã phát triển, lao động bán thời gian tăng nhanh chóng
trong một vài thập kỷ gần đây. Tỷ lệ lao động làm việc bán thời gian được
đo bằng tỷ số giữa người làm việc dưới mức “đủ giờ” và tổng số người có
việc làm.
10
+ KILM 6: Số giờ làm việc
Số giờ lao động có ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm lý của người lao
động cũng như năng suất lao động và chi phí lao động của cơ sở sản xuất
kinh doanh. Thước đo thứ nhất là số giờ làm việc một tuần; Thước đo thứ
hai là số giờ bình quân một lao động làm việc trong năm được tính bằng tỷ
số giữa tổng số giờ làm việc trong năm của tổng số người lao động và tổng
số lao động đó.
+ KILM 7: Việc làm trong khu vực phi chính thức
Việc làm trong khu vực kinh tế phi chính thức liên quan đến số
người ước tính tham gia làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức trên
tổng số người có việc làm.
+ KILM 8: Thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp được đo bằng tỷ số giữa số người thất nghiệp và
tổng lực lượng lao động.
+ KILM 9: Thất nghiệp thanh niên
Tỷ lệ thất nghiệp thanh niên được đo bằng tỷ số giữa số thanh niên
(theo ILO là người từ 15 đến 24 tuổi) thất nghiệp và tổng lực lượng lao động
thanh niên.
+ KILM 10: Thất nghiệp dài hạn
Tỷ lệ thất nghiệp dài hạn được đo bằng tỷ số giữa số người thất nghiệp
dài hạn và tổng LLLĐ.
Tỷ lệ thất nghiệp dài hạn trong tổng số thất nghiệp được đo bằng tỷ số
giữa số thất nghiệp dài hạn và tổng số người thất nghiệp.
+ KILM 11: Thất nghiệp theo trình độ học vấn
Chỉ tiêu này cho biết sự tường minh về mối quan hệ giữa trình độ học
vấn đạt được của người lao động và thất nghiệp tại quốc gia khác nhau, cho
phép các nhà nghiên cứu thấy ra các đặc trưng chủ yếu của một quốc gia
hoặc lực lượng lao động thất nghiệp theo vùng và từ đó xác định khả năng
cao nhất xảy ra hiện tượng thất nghiệp theo nhóm lao động khác nhau.
11
+ KILM 12: Thiếu việc làm
Chỉ tiêu thiếu việc làm gồm hai thước đo-tỷ trọng thiếu việc làm theo
thời gian trong lực lượng lao động và tỷ trọng thiếu việc làm theo thời gian
trong tổng việc làm.
Tỷ lệ thiếu việc làm là tỷ lệ phần trăm những người thiếu việc làm
trong dân số 15 tuổi trở lên có việc làm.
+ KILM 13: Tỷ lệ không tham gia hoạt động kinh tế
Tỷ lệ không tham gia hoạt động kinh tế (TGHĐKT) được đo bằng tỷ
số giữa dân số từ 15 tuổi trở lên không tham gia LLLĐ và tổng dân số từ 15
tuổi trở lên.
+ KILM 14: Trình độ học vấn và tình trạng mù chữ
Trình độ học vấn là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng LLLĐ của một
quốc gia. Một yếu tố ngày càng quan trọng trong hoạt động của thị trường
lao động và khả năng cạnh tranh quốc gia chính là trình độ kỹ năng của lực
lượng lao động. Thông tin về trình độ học vấn đạt được hiện là chỉ tiêu sẵn
có về kỹ năng của lực lượng lao động.
+ KILM 15: Chỉ số về tiền lương trong ngành công nghiệp chế biến
Tiền lương là cách tính phổ biến để đo lường thu nhập của người lao
động. Chỉ số thể hiện mức lương thực tế trong ngành công nghiệp chế biến
(cho dù trên thực tế việc làm được trả công trong ngành công nghiệp không
được coi trọng đồng đều giữa các vùng và các thời điểm khác nhau).
+ KILM 16: Chỉ số thu nhập và tiền lương theo nghề
KILM 16 đưa ra xu hướng và sự khác biệt của tiền lương theo nghề,
trong những nhóm ngành cụ thể.
+ KILM 17: Chi phí lao động theo giờ
Chỉ tiêu thuộc KILM 17 đề cập tới các mức độ, xu hướng và cơ cấu
của các chi phí bồi dưỡng theo giờ của người sử dụng lao động đối với
người lao động trong khu vực sản xuất..
12
+ KILM 18: Năng suất lao động và chi phí lao động đơn vị
Năng suất lao động được định nghĩa là số sản phẩm đầu ra trên số đầu
vào lao động.
+ KILM 19: Hệ số co giãn việc làm
Hệ số co giãn việc làm cung cấp một phương pháp tính toán số học về
sự tăng trưởng thay đổi theo sự tăng trưởng trong hoạt động kinh tế - Nghĩa
là cho thấy bao nhiêu phần trăm tăng trưởng việc làm tương ứng với một
điểm phần trăm tăng trưởng về sản lượng kinh tế.
+ KILM 20: Nghèo đói, Lao động nghèo và Phân phối thu nhập
Tình trạng nghèo đói có thể xảy ra khi người lao động không có khả
năng tạo đủ thu nhập để duy trì mức sống tối thiểu.
Các thước đo được sử dụng: (1) Tỷ lệ nghèo; (2) Tỷ lệ lao động
nghèo; (3) Hệ số GINI.
V. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ VIỆC ỨNG DỤNG BỘ CHỈ TIÊU THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG CỦA ILO
- Năm 1999, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thông qua chương trình
Các chỉ tiêu chủ yếu của Thị trường Lao động (KILM). Ấn bản đầu tiên
được giới thiệu gồm có 18 chỉ tiêu.
- Trong lần xuất bản thứ 2 (2001 - 2002) đó được hoàn thiện so với
lần xuất bản đầu tiên, bổ sung thêm chỉ số tiền lương và thu nhập theo nghề
(chỉ tiêu KILM 16) và dịch chuyển lao động (chỉ tiêu KILM 19).
- Trong lần xuất bản thứ 4, chỉ tiêu KILM 19 được thay bằng chỉ tiêu
độ co giãn về việc làm, đồng thời đưa ra các ước lượng ở cấp khu vực và
thế giới.
- Trong lần xuất bản thứ 5 (2007), bộ chỉ tiêu KILM đó được ILO
xuất bản lần thứ 5, gồm 20 chỉ tiêu phân thành 8 nhóm dưới đây: Nhóm chỉ
tiêu về lực lượng lao động; Nhóm chỉ tiêu về việc làm; Nhóm chỉ tiêu về
thất nghiệp, thiếu việc làm và không hoạt động kinh tế; Nhóm chỉ tiêu về
trình độ học vấn; Nhóm chỉ tiêu về tiền lương và chi phí lao động; Nhóm
chỉ tiêu về năng suất lao động và chi phí lao động đơn vị; Nhóm chỉ tiêu về
trình độ học vấn; Nhóm chỉ tiêu về nghèo đói và phân phối thu nhập.
13
VI. PHÂN TÍCH BỘ CHỈ TIÊU CỦA ILO TRONG ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ CỦA VIỆT NAM
- Việt Nam là một nước nền kinh tế đang phát triển. Do vậy, việc phân
tích thị trường lao động theo bộ chỉ tiêu KILM của ILO cần đáp ứng 3 yêu
cầu cơ bản sau:
+ Thứ nhất, đòi hỏi sử dụng đồng thời nhiều chỉ tiêu KILM để có thể
đánh giá được đầy đủ và chính xác các khía cạnh quy mô, tốc độ phát triển,
chất lượng, cơ cấu hiện tượng... trên thị trường lao động nhằm phản ánh
được thực chất tình hình.
+ Thứ hai, việc phân tích thị trường lao động cần gắn với nội dung
chất lượng việc làm đáp ứng mục tiêu việc làm bền vững.
+ Thứ ba, hệ thống chỉ tiêu thị trường lao động Việt Nam không chỉ
gồm các chỉ tiêu cơ bản, có khả năng so sánh quốc tế như bộ chỉ tiêu ILO đề
xuất mà còn cần một số chỉ tiêu thị trường lao động khác phản ánh tính đặc
thù của nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi.
- Nguồn dữ liệu tính toán: Nguồn số liệu để tính toán các chỉ tiêu
trên chủ yếu là từ Điều tra Thực trạng Việc làm và Thất nghiệp của Bộ
LĐTBXH thực hiện từ 1996 - 2007 và số liệu Điều tra Lao động - Việc làm
do Tổng cục Thống kê bắt đầu thực hiện từ năm 2007. Tuy nhiên, để nghiên
cứu sâu hơn ở cấp thấp hơn (cấp huyện) sau này có thể sử dụng số liệu Điều
tra Cung - Cầu lao động của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Việc sử
dụng số liệu Điều tra Lao động - Việc làm để tính toán các chỉ số trên về cơ
bản áp dụng cho cấp quốc gia, vùng, tỉnh không áp dụng cho cấp huyện.
- Một số khuyến nghị nâng cao chất lượng phân tích bộ chỉ tiêu của
Tổ chức lao động Quốc tế trong điều kiện Việt Nam hiện nay:
+ Xây dựng và nâng cao năng lực phân tích thị trường lao động cho
cán bộ Trung tâm Quốc gia về Dịch vụ việc làm, thuộc Cục Việc làm, Bộ
Lao động - Thương Binh và Xã hội;
+ Đầu tư cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng đủ để phát triển mạnh hệ thống
thông tin thị trường lao động;
+ Cần duy trì và nâng cao hiệu quả vai trò của các Trung tâm giới thiệu
việc làm trong việc phát triển thông tin thị trường lao động ở địa phương.
14
CHƯƠNG II
THỬ NGHIỆM BỘ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG CHO MỘT SỐ TỈNH
VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA BẮC
Bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động được tính toán thử nghiệm cho 2 thành phố lớn thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc là Hà Nội và Hải Dương nơi mà thị trường lao động phát triển. Nguồn số liệu tính toán từ Điều tra Lao động - Việc làm của Tổng cục Thống kê. Giai đoạn tính toán bộ chỉ tiêu thị trường lao động là 2007-2012.
Dựa vào số liệu Điều tra Lao động - Việc làm giai đoạn 2007-2012 tính được một số chỉ tiêu thị trường lao động với thành phố Hà Nội và Hải Dương kết quả như sau:
I. THỬ NGHIỆM, TÍNH TOÁN BỘ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG CHO HÀ NỘI VÀ HẢI DƯƠNG
Bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động áp dụng cho Hà Nội
- Giai đoạn 2007-2012, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của Hà Nội thấp hơn so với cả nước, tỷ lệ này có xu hướng tăng trong giai đoạn 2007-2010, nhưng năm 2011 lại giảm nhẹ 1,5 phần trăm và tăng trở lại vào năm 2012;
Biểu đồ 1. Tỷ lệ tham gia Lực lượng lao động và tỷ số việc làm trên dân số của Hà Nội giai đoạn 2007 -2012
Đơn vị:%
Nguồn: Điều tra Lao động - Việc làm, Tổng cục Thống kê
15
- Tỷ số việc làm trên dân số của Hà Nội thấp hơn tương đối so với
cả nước;
- Tỷ lệ lao động làm công ăn lương ở Hà Nội cao hơn đáng kể so với
tỷ lệ làm công ăn lương chung của cả nước; ở thành thị chủ yếu tập trung ở
nhóm lao động làm công ăn lương trong khi đó, ở nông thôn lại chủ yếu tập
trung nhóm lao động tự làm; nữ giới vẫn là đối tượng làm những công việc
mang tính chất không bền vững và dễ bị tổn thương hơn nam giới.
- So với cơ cấu việc làm chia theo ngành kinh tế của cả nước, Hà Nội
có sự khác biệt đáng kể: Tỷ trọng lao động làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp lại thấp nhất trong cơ cấu 3 ngành kinh tế; nam giới tập trung làm
việc cao ở nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ trong khi nữ giới lại tập
trung làm việc ở nhóm ngành nông nghiệp và dịch vụ; tỷ trọng lao động làm
việc trong 3 ngành không có sự khác biệt lớn ở nông thôn thì ở thành thị
khoảng cách đó lại khá lớn.
Biểu số 2. Cơ cấu lao động có việc làm của Hà Nội chia theo vị thế công việc,
giới tính, khu vực thành thị - nông thôn giai đoạn 2010-2012
Đơn vị:%
Năm Chia theo
Cơ cấu lao động có việc làm chia theo vị thế công việc
Làm công ăn lương
Chủ sử dụng lao động
Tự làm
Làm gia đình không được
hưởng lương Khác
2007
Chung 54,3 10,0 26,0 9,0 0,7
Nam 59,2 12,2 22,2 5,7 0,7
Nữ 49,2 7,6 30,0 12,4 0,8
Thành thị 62,6 10,3 20,6 6,0 0,6
Nông thôn 41,0 9,5 34,7 13,9 1,0
2010
Chung 46,7 5,0 33,4 14,8 0,2
Nam 53,3 6,8 32,9 6,7 0,2
Nữ 40,2 3,2 33,8 22,8 0,1
Thành thị 66,4 6,8 19,7 6,9 0,2
Nông thôn 34,9 3,9 41,5 19,5 0,2
2011 Chung 47,2 4,4 34,3 13,9 0,1
Nam 54,1 6,3 32,0 7,5 0,1
16
Năm Chia theo
Cơ cấu lao động có việc làm chia theo vị thế công việc
Làm công ăn lương
Chủ sử dụng lao động
Tự làm
Làm gia đình không được
hưởng lương Khác
Nữ 40,2 2,4 36,7 20,6 0,1
Thành thị 63,7 6,7 21,7 7,7 0,1
Nông thôn 36,4 2,9 42,6 18,0 0,1
2012
Chung 45,4 3,7 34,1 16,6 0,1
Nam 51,8 5,2 32,8 10,1 0,1
Nữ 54,3 10,0 26,0 9,0 0,7
Thành thị 59,2 12,2 22,2 5,7 0,7
Nông thôn 49,2 7,6 30,0 12,4 0,8
Nguồn: Điều tra Lao động - Việc làm, Tổng cục Thống kê
- Xét vấn đề thất nghiệp giai đoạn 2007-2012, tỷ lệ thất nghiệp ở Hà
Nội luôn cao so với cả nước; tỷ lệ thất nghiệp nam giới cao hơn so với nữ
giới và tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị luôn cao hơn nông thôn.
Biểu số 3. Cơ cấu lao động của Hà Nội chia theo nhóm ngành kinh tế, giới tính,
khu vực thành thị - nông thôn giai đoạn 2007-2012
Đơn vị: %
Năm Chia theo nhóm ngành kinh tế (%)
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
2007 13,2 29,9 56,9
2010 23,3 31,4 45,3
2011 25,2 28,1 46,7
2012 25,0 27,8 47,2
Nguồn: Điều tra Lao động - Việc làm, Tổng cục Thống kê
- Ở Hà Nội, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên luôn ở mức cao so với tỷ lệ
thất nghiệp chung; xét theo khu vực nông thôn - thành thị, Hà Nội có tỷ lệ
thất nghiệp thanh niên ở thành thị gấp gần 5 lần so với ở nông thôn.
- So với tỷ lệ thiếu việc làm chung của cả nước thì ở Hà Nội tỷ lệ thiếu
việc làm thấp hơn. Đây là một điều dễ hiểu, bởi lẽ Hà Nội là một trong những
tỉnh, thành phố có phần dân cư sống tập trung nhiều ở khu vực thành thị.
17
Bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động áp dụng cho Hải Dương
- Giai đoạn 2007 - 2012, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của Hải
Dương có xu hướng tăng lên, đến năm 2011 tỷ lệ này lại giảm xuống và
tăng trở lại vào năm 2012;
- So với chỉ số chung của cả nước và Hà Nội, tỷ số việc làm trên dân
số của Hải Dương cao hơn. Xét theo khu vực thành thị - nông thôn, tỷ số
việc làm trên dân số ở nông thôn cao hơn tương đối so với thành thị;
Biểu đồ 3. Tỷ lệ tham gia Lực lượng lao động và tỷ số việc làm trên
dân số của Hải Dương giai đoạn 2007-2012
Đơn vị:%
Nguồn: Điều tra Lao động - Việc làm, Tổng cục Thống kê
Biểu số 4. Cơ cấu việc làm của Hải Dương chia theo vị thế công việc, giới tính,
khu vực thành thị - nông thôn giai đoạn 2007-2012
Đơn vị:%
Năm Chia theo
Cơ cấu việc làm chia theo vị thế công việc
Làm công ăn lương
Chủ sử dụng lao
động Tự làm
Làm gia đình không được
hưởng lương Khác
2007
Chung 31,3 17,8 60,4 6,4 0,2
Nam 40,1 30,2 51,0 5,7 0,2
Nữ 23,2 6,3 69,0 7,1 0,1
Thành thị 42,3 42,8 49,5 3,7 0,3
Nông thôn 29,4 13,5 62,2 6,8 0,1
18
Năm Chia theo
Cơ cấu việc làm chia theo vị thế công việc
Làm công ăn lương
Chủ sử dụng lao
động Tự làm
Làm gia đình không được
hưởng lương Khác
2010
Chung 36,8 2,8 48,3 12,0 0,1
Nam 45,6 4,6 43,3 6,3 0,1
Nữ 28,4 1,0 53,1 17,5 0,1
Thành thị 53,1 4,0 34,5 8,3 0,1
Nông thôn 33,7 2,5 51,0 12,7 0,1
2011
Chung 44,5 0,8 45,3 9,4 0,0
Nam 54,7 1,4 38,1 5,8 0,0
Nữ 34,6 0,2 52,4 12,8 0,0
Thành thị 49,8 1,3 41,3 7,6 0,0
Nông thôn 43,2 0,7 46,3 9,8 0,0
2012
Chung 37,3 2,6 51,4 16,2 0,0
Nam 44,8 4,2 46,1 10,1 0,0
Nữ 30,2 1,2 56,2 23,1 0,0
Thành thị 45,6 4,0 45,4 11,5 0,0
Nông thôn 35,2 2,3 52,9 17,3 0,0
Nguồn: Điều tra Lao động - Việc làm, Tổng cục Thống kê
- Giai đoạn 2007-2012, ở thành thị, lao động tập trung cao nhất ở
nhóm lao động làm công ăn lương, trong khi đó ở nông thôn, lao động tập
trung cao nhất ở nhóm lao động tự làm; Nữ giới vẫn là đối tượng làm những
công việc mang tính chất không bền vững và dễ bị tổn thương hơn nam giới.
- Tỷ trọng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp cũng cao
nhất trong 3 ngành kinh tế. Nữ giới tập trung nhiều nhất ở nhóm ngành nông
nghiệp trong khi nam giới lại làm việc nhiều trong ngành công nghiệp, dịch
vụ. Xét theo khu vực nông thôn - thành thị, ở nông thôn, lao động làm việc
tập trung cao nhất ở nhóm ngành nông nghiệp còn ở thành thị lao động lại
tập trung nhiều nhất ở nhóm ngành dịch vụ và công nghiệp.
- Giai đoạn 2007-2012, tỷ lệ thất nghiệp của Hải Dương thấp hơn so
với Hà Nội và cả nước. Xét theo khu vực nông thôn - thành thị, tỷ lệ thất
nghiệp thanh niên thành thị gấp gần 5 lần so với nông thôn.
19
- So với tỷ lệ thiếu việc làm của cả nước thì ở Hải Dương tỷ lệ thiếu
việc làm cao hơn. Đây cũng là điều dễ giải thích vì Hải Dương vẫn là tỉnh
có lượng dân cư và lao động tập trung nhiều ở khu vực nông thôn.
Biểu số 5. Cơ cấu việc làm của Hải Dương chia theo nhóm ngành kinh tế, giới tính,
khu vực thành thị - nông thôn giai đoạn 2007-2012
Đơn vị:%
Năm
Chia theo nhóm ngành kinh tế
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
2007 46,8 30,2 23,0
2010 45,6 31,1 23,3
2011 38,7 39,3 22,1
2012 44,0 30,9 25,0
Nguồn: Điều tra Lao động - Việc làm, Tổng cục Thống kê
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Chỉ tiêu thị trường lao động có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong
đánh giá thị trường lao động mà còn trong đời sống kinh tế - xã hội, đặc
biệt giúp đánh giá xu hướng thị trường lao động trong khoảng thời gian
nghiên cứu. Chỉ tiêu thị trường lao động không những áp dụng trong phạm
vi quốc gia mà còn áp dụng cấp vùng, tỉnh. Chỉ số vừa đo lường biến động
các chỉ tiêu thị trường lao động theo thời gian, đồng thời kiểm định lại
được ý nghĩa kinh tế - xã hội của các chỉ tiêu này trong thực tế.
- Ưu điểm: Tính toán chỉ số tương đối đơn giản bởi chỉ số tổng hợp
được cấu thành từ hai yếu tố từ phía cung lao động và cầu lao động.
- Nhược điểm: Xây dựng chỉ tiêu thị trường lao động để xác định xu
hướng thị trường lao động chỉ thực hiện được khi có kết quả của các chỉ tiêu
trên. Do đó, để sử dụng phương pháp này dự báo xu hướng thị trường lao
động cần tiến hành thêm dự báo các yếu tố cấu thành nên chỉ số tổng hợp.
Vậy cần kết hợp các phương pháp dự báo khác để dự báo thị trường lao động.
20
CHƯƠNG III
KHUYẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP ÁP DỤNG BỘ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
I. CÁC GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN BỘ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
1. Phương hướng hoàn thiện
(1) Nâng cao chất lượng và độ tin cậy của số liệu thu thập;
(2) Thông tin thị trường lao động phải được cập nhật, xử lý kịp thời;
thông tin thống kê lao động được thu thập một cách định kỳ, thường xuyên
hơn;
(3) Phân tích và giải thích các hiện tượng trên thị trường lao động
trên cơ sở chỉ tiêu thông tin thống kê đảm bảo tính hội nhập, so sánh; đồng
thời phản ánh từ bản chất của thị trường lao động Việt Nam;
(4) Thiết lập một quy trình phổ biến số liệu thống kê công khai,
minh bạch;
(5) Thường xuyên đào tạo nâng cao năng lực thu thập số liệu thị trường
lao động cho cán bộ làm công tác thống kê lao động ở các cấp, các ngành;
(6) Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thu thập và xử lý số
liệu thống kê lao động cũng như giữa hệ thống thống kê lao động với các hệ
thống thống kê khác như kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, nông
nghiệp, v.v... để tránh mâu thuẫn số liệu từ các nguồn thống kê này;
(7) Hoàn thiện bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động và triển khai
thực hiện có hiệu quả;
(8) Áp dụng bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động một cách đồng bộ;
(9) Thường xuyên bổ sung, hoàn thiện các chỉ tiêu thị trường lao
động phù hợp với thực tế điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam;
(10) Trong quá trình hoàn thiện và áp dụng bộ chỉ tiêu đánh giá thị
trường lao động cần đảm bảo yếu tố nhân lực.
2. Bổ sung các chỉ tiêu mới
Hệ thống chỉ tiêu TTLĐ của Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện và mở
rộng với các chỉ tiêu để phản ánh một cách toàn diện và đầy đủ hơn về thị
trường lao động Việt Nam, đó là các chỉ tiêu liên quan đến quan hệ lao động
21
hài hòa, việc làm bền vững, trước mắt cần nghiên cứu, xây dựng bổ sung
thêm các chỉ tiêu về những vấn đề sau:
- Chỉ tiêu về thỏa ước lao động tập thể;
- Chỉ tiêu liên quan đến các chính sách an sinh xã hội...
3. Một số đề xuất và khuyến nghị
3.1. Đề xuất phương hướng sử dụng chỉ tiêu thị trường lao động
- Để tính toán chỉ số xu hướng việc làm trên dân số cần tính các chỉ
tiêu thành phần như: tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, tỷ số việc làm trên
dân số, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm... cần tính toán dựa trên nguồn
số liệu quốc gia về Điều tra lao động - việc làm hàng năm cụ thể ở đây là số
liệu Điều tra lao động - việc làm của Tổng cục Thống kê.
- Để có thể sử dụng chỉ số này dự báo thị trường lao động ngắn hạn
và dài hạn cần bổ sung phương hướng dự báo các yếu tố thành phần là dự
báo thông tin thị trường lao động.
3.2. Khuyến nghị về nguồn số liệu phục vụ việc đo lường
và đánh giá
Hiện nay ở nước ta có nhiều cuộc điều tra quy mô cả nước có thể sử
dụng để tính toán chỉ số xu hướng việc làm như: Điều tra lao động - việc
làm hàng năm của tổng cục Thống kê, Điều tra cung - cầu lao động của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng Điều tra dân số...
II. CÁC GIẢI PHÁP VỀ CUNG CẤP SỐ LIỆU ĐẦU VÀO CHO TÍNH TOÁN BỘ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Trên cơ sở đánh giá các nguồn thông tin hiện có liên quan đến số liệu
thống kê về thị trường lao động, các giải pháp sau đây về nguồn cung cấp
số liệu đầu vào cho tính toán bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động khả
dĩ có thể sử dụng:
- Khai thác kết quả của các cuộc điều tra thống kê dân số, lao động;
- Lồng ghép thêm nội dung các cuộc điều tra chọn mẫu trong các
cuộc điều tra toàn bộ;
- Bổ sung câu hỏi về lao động vào các cuộc điều tra chọn mẫu về dân
số, lao động để ước lượng các chỉ tiêu cần thiết;
- Định kỳ tổ chức các cuộc điều tra dân số, lao động;
22
- Khai thác thông tin thống kê có sẵn;
- Tổ chức thêm các cuộc điều tra riêng để bổ sung thông tin cần thiết;
- Thiết lập mạng lưới thông tin nội bộ từ cấp huyện trở lên để cập
nhật thông tin theo báo cáo hành chính.
III. GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG BỘ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG
LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1. Chính sách của nhà nước
- Thị trường lao động ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của việc áp
dụng các chỉ tiêu tính toán được. Các chính sách hỗ trợ cho thị trường lao
động hiện nay vẫn còn hạn chế, chưa đẩy mạnh triệt để toàn diện được đến
đối tượng cần hỗ trợ...
- Hành lang pháp lý là một công cụ giúp các cơ quan chức năng quản
lý thị trường lao động một cách rõ ràng, giúp thị trường hoạt động đúng
hướng. Việc điều chỉnh hành lang pháp lý cần được thúc đẩy ngày một
hoàn thiện, giúp bắt kịp tốc độ phát triển của thị trường.
2. Các nhân tố từ phía cơ quan áp dụng
- Nhân lực là yếu tố ảnh hưởng lớn và tiên quyết đến việc áp dụng
bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động. Cần thường xuyên đào tạo, đào
tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác thị trường lao động;
- Công nghệ kỹ thuật là một trong những yếu tố cần thiết trong thời
đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cần tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong xử lý và truyền tải dữ liệu một cách nhanh chóng kịp thời
và chính xác;
- Thống nhất về khái niệm, cách tính và nguồn dữ liệu đầu vào cho
bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động;
- Cần có một bộ máy quản lý hiệu quả việc áp dụng tính toán bộ chỉ
tiêu, giúp các khâu áp dụng linh hoạt, tránh tình trạng chưa thống nhất
trong việc áp dụng các chỉ tiêu thị trường lao động.
23
3. Các nhân tố từ nền kinh tế nói chung và thị trường lao động nói riêng
- Tình hình kinh tế - xã hội nước ta ba tháng đầu năm 2013 đạt được
một số kết quả nhất định, tuy nhiên còn rất nhiều khó khăn, thách thức mà
nền kinh tế - xã hội nước ta phải đối mặt trực tiếp ảnh hưởng và dẫn đến
những thay đổi, biến động trong thị trường lao động. Do đó, việc áp dụng
bộ chỉ tiêu để đánh giá thị trường lao động trở nên khó khăn hơn.
- Trình độ nhận thức hiểu biết của người dân ảnh hưởng trực tiếp đến
nguồn số liệu điều tra và việc áp dụng bộ chỉ tiêu vào việc điều tra thu thập
số liệu trong việc trả lời phỏng vấn, cung cấp số liệu;
- Sự hợp tác giữa người được điều tra và điều tra viên đóng một vai
trò rất lớn trong việc đưa ra kết quả chính xác cho các cuộc điều tra. Điều
này bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như: Thời gian điều tra, khoảng cách
địa lý, Các câu hỏi có phần nhạy cảm...
IV. ĐIỀU KIỆN VÀ LỘ TRÌNH THỰC HIỆN
- Điều kiện áp dụng thử bộ chỉ tiêu thị trường lao động:
+ Định hướng và quyết tâm của những người đứng đầu trong ban xây
dựng bộ chỉ tiêu;
+ Thành viên trong ban xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá;
+ Chuyên gia tư vấn;
+ Trình độ công nghệ, thiết bị;
+ Giám sát và quản lý chất lượng.
- Lộ trình thực hiện:
Lộ trình thực hiện gồm 10 bước như sau:
Bước 1: Bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao động được duyệt để áp dụng
Bước 2: Lập kế hoạch áp dụng thử
Bước 3: Phê duyệt
Bước 4: Thông báo cho các đơn vị, thành viên trong ban thực hiện
triển khai
24
Bước 5: Chuẩn bị tiến hành áp dụng thử
Bước 6: Tiến hành áp dụng thử
Bước 7: Tổng hợp kết quả đánh giá áp dụng thử
Bước 8: Báo cáo
Bước 9: Kiểm tra
Bước 10: Đánh giá lại bộ chỉ tiêu thị trường lao động
KẾT LUẬN
Việc lựa chọn các chỉ tiêu đưa vào bộ chỉ tiêu đánh giá thị trường lao
động cần phải được tính toán kỹ lưỡng từ khâu số liệu đầu vào đến khả năng
ứng dụng của các chỉ tiêu trong phân tích thị trường lao động. Đối với phạm
vi áp dụng, trước hết ở cấp quốc gia việc áp dụng với các chỉ tiêu có nhiều
thuận lợi hơn ở nhiều mặt, với việc áp dụng đến cấp tỉnh có thể gặp những
vướng mắc và phát sinh nhất định. Do đó, khi áp dụng bộ chỉ tiêu đánh giá
thị trường lao động cần được cân nhắc cẩn thận, kỹ lưỡng hơn.
Để có được một bộ chỉ tiêu hoàn chỉnh và có tính ứng dụng cao trong
thực tế, trước hết phải đánh giá được mức độ phát triển của thị trường lao
động ở từng phạm vi. Thị trường lao động ở Việt Nam đang trong quá
trình phát triển và chuyển đổi từ hệ thống tổ chức lao động tập trung sang
cơ chế thị trường, cần có thời gian để tạo lập những tính chất của nền kinh
tế thị trường. Xây dựng thị trường lao động tự do là yếu tố quan trọng nhất
cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng là điều
kiện để tăng trưởng có hiệu quả cho nền kinh tế. Bộ chỉ tiêu đánh giá thị
trường lao động Việt Nam được xây dựng là cần thiết nhằm nắm bắt, đánh
giá tốt hơn về tình hình thị trường lao động.
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài còn hạn chế mà bộ chỉ tiêu đánh
giá thị trường lao động là vấn đề còn nhiều phức tạp, mới mẻ, cùng với sự
hạn chế về mặt thời gian nên trong quá trình thực hiện không thể tránh
khỏi hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp để nhóm
tác giả có thể bổ sung, hoàn thiện đề tài được tốt hơn.
25
THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT DẠY NGHỀ
VÀ KIẾN NGHỊ CÁC NỘI DUNG CẦN SỬA ĐỔI,
BỔ SUNG VÀO LUẬT DẠY NGHỀ
MÃ SỐ: CB2013-04-06
Cơ quan chủ trì đề tài: Tổng cục Dạy nghề
Chủ nhiệm đề tài: TS. Vũ Xuân Hùng
Thư ký: ThS. Nguyễn Thanh Mai
CHƯƠNG I
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LUẬT DẠY NGHỀ
I. THỰC TRẠNG LUẬT DẠY NGHỀ VÀ CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN
THI HÀNH
1. Thực trạng chỉ đạo triển khai thi hành Luật Dạy nghề
Theo báo cáo của 52 bộ, ngành, địa phương và tập đoàn thì ngay sau
khi Luật Dạy nghề có hiệu lực thi hành, các bộ, ngành, địa phương đều
chuẩn bị kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực của bộ, ngành, địa phương mình
theo quy định của Luật Dạy nghề.
Tuy nhiên trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thi hành Luật Dạy nghề
vẫn còn một số những tồn tại, hạn chế nhất định. Còn một số bộ, ngành, địa
phương vẫn chưa nhận thức đúng mức về vai trò của dạy nghề trong việc
đào tạo nhân lực kỹ thuật là một trong những nhân tố quyết định thành công
và phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
2. Thực trạng tuyên truyền, phổ biến Luật Dạy nghề
Theo báo cáo của 52 bộ, ngành, địa phương và tập đoàn, ngay trong
cuối năm 2007, các bộ, ngành, địa phương đều đã tổ chức quán triệt đến cán
bộ quản lý, chuyên viên về việc thực hiện triển khai thi hành Luật Dạy nghề,
xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến Luật Dạy nghề. Các CSDN, các
cơ sở giáo dục có tham gia dạy nghề cũng đã thực hiện việc tuyên truyền,
phổ biến Luật Dạy nghề ngay sau khi Luật được công bố, thông qua các hình
thức như nói chuyện chuyên đề, lồng ghép trong các buổi học pháp luật.
26
Mặc dù Luật Dạy nghề đã được tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng
rãi nhưng thực tế cho thấy công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Dạy nghề
vẫn còn những hạn chế nhất định. Đánh giá về vấn đề này, có 211/227 cán
bộ quản lý; 53/58 giáo viên dạy nghề; 45/52 cán bộ doanh nghiệp cho rằng
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn rất hạn chế và hạn chế.
3. Thực trạng thanh tra, kiểm tra việc thi hành Luật Dạy nghề
Theo báo cáo của 52 bộ, ngành, địa phương và tập đoàn, công tác kiểm tra thực hiện Luật Dạy nghề cũng được các bộ, ngành, địa phương thực hiện định kỳ hàng năm, đảm bảo cho việc thực hiện dạy nghề tại bộ, ngành, địa phương được triển khai theo đúng quy định của Luật Dạy nghề. Qua thanh tra, kiểm tra đã kịp thời chấn chỉnh, tư vấn, hướng dẫn các đơn vị thực hiện đúng các quy định của pháp luật về dạy nghề.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thanh tra, kiểm tra việc thi
hành Luật Dạy nghề vẫn còn những hạn chế, bất cập. Khi được hỏi ý kiến về
công tác thanh tra, kiểm tra tại địa phương, CSDN, có 68/337 người cho
rằng tốt; 247/337 người cho rằng trung bình; 22/337 người cho rằng yếu.
4. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Dạy nghề
4.1. Tình hình ban hành các văn bản thi hành
Tính đến 30/10/2013, đã có 152 văn bản quy phạm pháp luật về dạy
nghề được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để hướng dẫn
triển khai thực hiện Luật Dạy nghề, trong đó có 11 văn bản do Chính phủ
ban hành, 138 văn bản do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
và 3 văn bản liên tịch của các Bộ. Về nội dung văn bản: Có 70 văn bản quy
định và hướng dẫn về các lĩnh vực của hoạt động dạy nghề, và 77 văn bản
quy định chương trình khung cho 206 nghề đào tạo; 05 văn bản quy định
môn học chung.
4.2. Đánh giá chung
Một số lượng khá lớn văn bản đã được ban hành (152 văn bản), kịp
thời hướng dẫn triển khai trên các lĩnh vực chủ yếu của hệ thống dạy nghề
3 cấp trình độ theo quy định của Luật Dạy nghề. Tuy nhiên, bên cạnh kết
quả nêu trên, việc ban hành các văn bản hướng dẫn vẫn còn những hạn chế,
bất cập.
27
II. THỰC TRẠNG THI HÀNH LUẬT DẠY NGHỀ
1. Về mạng lưới và quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề
a) Kết quả triển khai
Theo thống kê của Tổng cục Dạy nghề, tính đến 31/12/2012 cả nước
có 155 trường CĐN (trong đó có 34 trường ngoài công lập), 304 trường
TCN (trong đó có 99 trường ngoài công lập); 868 trung tâm dạy nghề (trong
đó có 327 trung tâm ngoài công lập) và hơn 1000 cơ sở khác (các cơ sở giáo
dục - đào tạo, doanh nghiệp...) tham gia dạy nghề, tăng 1,5 lần so với năm
2006 (phụ lục 2). Nếu tính cả các cơ sở khác có dạy nghề (bao gồm đại học,
cao đẳng, trung tâm khác có dạy nghề) thì mạng lưới CSDN cả nước có
1975 cơ sở, trong đó CSDN công lập chiếm 67,2%
b) Đánh giá quy định của Luật hiện hành
Luật Dạy nghề hiện hành chưa có quy định về quy hoạch mạng lưới
CSDN, trong khi đây là vấn đề quan trọng. Kết quả khảo sát ý kiến về quy
hoạch phát triển mạng lưới CSDN thời gian qua đối với 337 người cho thấy:
Có 74 người (chiếm 22%) cho rằng quy hoạch mạng lưới CSDN tốt; 215
người (chiếm 63,8%) đánh giá khá; 37 người (chiếm 11%) đánh giá trung
bình; và có 11 người (chiếm 3,2%) đánh giá việc quy hoạch CSDN kém.
2. Về loại hình sở hữu cơ sở dạy nghề
a) Kết quả thực hiện
Như đã trình bày ở trên, trong tổng số 1327 CSDN có: 861 CSDN
công lập(1) (chiếm 64,9%), trong số CSDN công lập có 40 trường nghề
thuộc doanh nghiệp nhà nước (chiếm 4,6% tổng số CSDN công lập); 466
CSDN tư thục (chiếm 35,1%).
b) Đánh giá quy định hiện hành
Theo quy định của Luật Dạy nghề hiện hành CSDN công lập phải đảm
bảo đủ 3 tiêu chí: (1) Do Nhà nước thành lập; (2) Do Nhà nước đầu tư, xây
(1)
Trong Đề tài này CSDN thuộc doanh nghiệp Nhà nước được tính vào CSDN
công lập
28
dựng cơ sở vật chất; (3) Do Nhà nước đảm bảo kinh phí cho các nhiệm vụ
chi thường xuyên. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định CSDN là công lập
hay tư thục hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt đối với các CSDN
thuộc doanh nghiệp nhà nước.
Đánh giá về vấn đề này, hầu hết các ý kiến (84,5%) cho rằng đây là
bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung để CSDN thuộc doanh nghiệp nhà nước
phát huy thế mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa dạy nghề và doanh nghiệp.
3. Về quy mô, cơ cấu nghề đào tạo, trình độ đào tạo
a) Kết quả thực hiện
Quy mô tuyển sinh học nghề năm 2012 đạt hơn 1,49 triệu học sinh,
sinh viên, trong đó CĐN là 84.151 người; TCN là 129.189 người; SCN là
909.265 người và dạy nghề dưới 3 tháng là 369.974 người so với năm 2006
tăng khoảng 1,2 lần. Danh mục nghề đào tạo đã được xây dựng dựa trên nhu
cầu của thị trường lao động. Đến tháng 5/2012 đã có danh mục nghề của
386 nghề đào tạo ở trình độ cao đẳng, 462 nghề đào tạo ở trình độ trung cấp.
Kết quả khảo sát, thống kê cho thấy, quy mô, cơ cấu nghề đào tạo còn bất
hợp lý. Các nghề đào tạo vẫn tập trung chủ yếu ở các nghề phổ biến, các
nghề đòi hỏi đầu tư thấp.
b) Đánh giá quy định hiện hành
Theo quy định của Luật Dạy nghề hiện hành, dạy nghề có 3 trình độ là
SCN, TCN, CĐN, chưa đáp ứng yêu cầu nhân lực trình độ cao cho nền kinh
tế. Khảo sát về vấn đề này, có 79,3% ý kiến của cán bộ quản lý, 80,8% giáo
viên và 86,2% cán bộ doanh nghiệp cho rằng quy định về trình độ hiện nay
là bất cập, tạo ra sự thiếu hụt lao động kỹ thuật ở trình độ cao.
4. Về chương trình dạy nghề
a) Kết quả thực hiện
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành
có liên quan tổ chức biên soạn, phê duyệt, ban hành được 195 bộ chương
trình khung trình độ CĐN, TCN liên thông giữa các trình độ đào tạo nghề.
b) Đánh giá về quy định hiện hành
Luật Dạy nghề hiện hành quy định, các CSDN tự xây dựng chương
trình của mình trên cơ sở chương trình khung do Bộ Lao động - Thương
29
binh và Xã hội ban hành. Theo góp ý của nhiều chuyên gia (chiếm 84,8%),
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần phải tổ chức xây dựng, ban hành
các chương trình trọng điểm quốc gia, sử dụng các chương trình khu vực và
quốc tế mà không cần ban hành chương trình khung cho các nghề này.
5. Về đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy nghề
a) Kết quả thực hiện
Trên cơ sở các quy định của Luật Dạy nghề và các văn bản hướng dẫn
về giáo viên dạy nghề, trong những năm qua, đội ngũ giáo viên dạy nghề
tăng khá nhanh về số lượng và chất lượng cũng dần được nâng cao để đáp
ứng yêu cầu dạy nghề cả 3 trình độ đào tạo.
Hiện nay cả nước có 39.260 giáo viên dạy nghề tại các trường CĐN,
TCN và trung tâm dạy nghề, (trong đó có: 14.277 giáo viên tại các trường
CĐN, 10.874 giáo viên tại các trường TCN và 14.109 giáo viên tại các trung
tâm dạy nghề) và có gần 16.000 giáo viên thuộc các cơ sở khác có tham gia
dạy nghề, tăng 1,7 lần so với năm 2006.
Chất lượng của đội ngũ giáo viên dần được bảo đảm (tại các trường
CĐN, tỷ lệ giáo viên có trình độ tiến sĩ/thạc sĩ là 21,1%; đại học chiếm
63,4%, cao đẳng là 5,5% và trung cấp là 2,7%. Tỷ lệ tương ứng tại các
trường TCN là 6,1%; 53,9%;10,4% và 8,1%; tỷ lệ giáo viên đã qua đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề của các trường CĐN (đạt chuẩn
nghiệp vụ sư phạm) chiếm 82,62%, của các trường TCN chiếm 65,95%, của
các trung tâm dạy nghề là 51,71%; tại trường CĐN, tỷ lệ giáo viên bậc 4
hoặc tương đương là 19,06%, bậc 5 hoặc tương đương là 10,68%, bậc 6
hoặc tương đương là 5,02%, bậc 7 hoặc tương đương là 2,03%, nghệ nhân
chỉ có 0,04%. Tỷ lệ này ở trường TCN tương ứng là: 13,5%; 7,59%; 2,29%;
3,11% và 0,32%. Hầu hết giáo viên dạy nghề tận tụy với nghề, có phẩm
chất, đạo đức tốt, tích cực tham gia hội giảng, hội thi các cấp và các hoạt
động chuyên môn. Một số giáo viên được phong tặng danh hiệu Nhà giáo
nhân dân, Nhà giáo ưu tú và các giải thưởng cao quý khác, hàng ngàn giáo
viên được công nhận giáo viên dạy giỏi các cấp.
b) Đánh giá về những quy định hiện hành
Mặc dù cũng đạt được nhiều kết quả khả quan như trên, nhưng quy
định về giáo viên dạy nghề trong luật dạy nghề hiện hành còn khá nhiều bất
30
cập. Luật hiện hành không quy định rõ giữa nhà giáo dạy môn chung và nhà
giáo dạy nghề trong CSDN; không quy định trình độ kỹ năng nghề của giáo
viên dạy nghề; thiếu những cơ chế để đánh giá, phân loại, giáo viên hàng
năm; thiếu chính sách để thu hút giáo viên dạy nghề; thiếu những chính sách
tôn vinh v.v...
6. Về cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề
a) Kết quả thực hiện
Công tác chuẩn hóa, hiện đại hóa trang thiết bị dạy nghề đã được quan
tâm bằng việc ban hành các quy định về danh mục thiết bị tối thiểu cho các
nghề đào tạo. Đến nay đã ban hành được 9 danh mục thiết bị tối thiểu cho 9
nghề trình độ trung cấp và 9 nghề trình độ cao đẳng.
b) Đánh giá quy định hiện hành
Tuy đã đạt được một số kết quả trên, xong trong quy định của Luật
hiện hành không có quy định nào về cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề, một
trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo chất lượng dạy nghề. Đánh
giá sự bất cập về cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề: 83,5% ý kiến của cán bộ
quản lý, giáo viên và doanh nghiệp cho rằng rất bất cập; 14,2% cho rằng bất
cập; chỉ có 2,3% cho rằng không bất cập.
7. Về kiểm định chất lượng dạy nghề
a) Kết quả thực hiện
Tính đến 31/12/2012 đã kiểm định được 143 CSDN, trong đó: 75
trường CĐN, 41 trường TCN, 27 trung tâm dạy nghề; đã tổ chức đào tạo
được 737 kiểm định viên chất lượng dạy nghề và 2.321 cán bộ tự kiểm định
chất lượng dạy nghề.
b) Đánh giá quy định hiện hành
Luật hiện hành chỉ quy định việc kiểm định chất lượng dạy nghề đối
với CSDN nhưng chưa quy định việc kiểm định từng chương trình đào tạo;
chưa có tổ chức kiểm định độc lập, bên cạnh của Nhà nước. Đánh giá về
quy định kiểm định chất lượng dạy nghề: 62,3% ý kiến của cán bộ quản lý,
giáo viên và doanh nghiệp cho rằng rất bất cập; 34,2% cho rằng bất cập.
31
8. Về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia
a) Kết quả thực hiện
Xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho 148 nghề và đã ban
hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho 122 nghề; tổ chức biên soạn đề
thi đánh giá kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho 35
nghề, đã ban hành 19 nghề v.v...
b) Đánh giá quy định hiện hành
Theo quy định của Luật Việc làm vừa được Quốc hội Khóa XIII, kỳ
họp thứ 6 thông qua, chương này sẽ bị bãi bỏ khi Luật Việc làm có hiệu lực
thi hành.
9. Về thực hiện quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp
a) Kết quả thực hiện
Theo thống kê, hiện nay cả nước có khoảng 355 CSDN thuộc các doanh
nghiệp ở các thành phần kinh tế, bao gồm: hơn 100 trường TCN, CĐN (trong
đó có 47,57% trường ngoài công lập); còn lại khoảng 250 CSDN (trong đó có
67% ngoài công lập) và hàng trăm CSDN khác tham gia dạy nghề ngắn hạn.
Tuy nhiên, ngoài việc thành lập CSDN tại doanh nghiệp (chỉ có các doanh
nghiệp nhà nước), việc tham gia hoạt động dạy nghề của doanh nghiệp còn rất
hạn chế do thiếu những cơ chế lợi ích và thiếu những chế tài.
b) Đánh giá quy định hiện hành
Điều 55, 56 của Luật Dạy nghề hiện hành có quy định về quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hoạt động dạy nghề. Tuy nhiên, đánh giá về
những quy định này nhiều ý kiến, nhất là ý kiến của doanh nghiệp cho rằng
không thể thực hiện được, vì quy định chung chung, thiếu cơ chế lợi ích bảo
đảm cho doanh nghiệp tham gia dạy nghề, đây là yếu tố mấu chốt. Kết quả
khảo sát ý kiến về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hoạt động dạy
nghề cho thấy: Có 219/227 cán bộ quản lý (chiếm 96,48%); 53/58 giáo viên
(chiếm 91,38%); 50/52 cán bộ doanh nghiệp và chuyên gia (chiếm 96,15%)
cho rằng bất cập và rất bất cập, cần phải sửa, đổi, bổ sung vào Luật Dạy nghề
10. Về hợp tác, đầu tư với nước ngoài
a) Kết quả thực hiện
Từ năm 2007 đến nay, việc hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực
dạy nghề chủ yếu được thực hiện thông qua các Dự án ODA với nước ngoài.
32
b) Đánh giá quy định hiện hành
Việc liên kết đào tạo, mở văn phòng đại diện, công nhận lẫn nhau về
văn bằng, chứng chỉ nghề không thể thực hiện được. Đánh giá về vấn đề
này, có 94,72% cán bộ quản lý (215/227 người); 91,39% giáo viên (53/58
người); 78,83% cán bộ doanh nghiệp (41/52 người) cho rằng rất bất cập.
11. Một số kết quả khác
Bên cạnh các kết quả nêu trên, sau 5 năm thi hành Luật Dạy nghề,
công tác dạy nghề còn đạt được một số kết quả như: Công tác xã hội hoá
dạy nghề đạt được kết quả bước đầu; dạy nghề đã góp phần bước đầu vào
phân luồng học sinh sau trung học cơ sở vào học nghề; dạy nghề cho lao
động nông thôn đã bước đầu được chú trọng; đã có một số cơ chế chính sách
tạo cơ hội học nghề cho người học nghề; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
về dạy nghề từ Trung ương đến địa phương đã được tăng cường; nguồn lực
đầu tư cho dạy nghề được đa dạng hóa v.v...
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những ưu điểm
Qua tổng kết 5 năm thi hành, có thể khẳng định Luật Dạy nghề đã
thực sự đi vào thực tiễn, mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ trong phát
triển nhân lực cho quốc gia. Các quy định của Luật Dạy nghề đã điều chỉnh
hầu hết các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dạy nghề. Cùng với các
văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Dạy nghề đã tạo nên một hệ thống pháp
luật về dạy nghề tương đối đồng bộ, thống nhất, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của dạy nghề.
2. Những hạn chế, yếu kém
Một số quy định của Luật Dạy nghề chưa tạo được cơ chế linh hoạt,
phù hợp với tính đa dạng, phong phú trong dạy nghề, một số quy định của
Luật tính khả thi chưa cao do gặp phải nhiều khó khăn trong thực tiễn triển
khai hoặc do bản thân quy định không sát với thực tế; một số quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực đào tạo nghề đã và đang tồn tại trong thực tiễn
nhưng chưa được Luật điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng chưa cụ thể;
một số quy định của Luật chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ
thống các văn bản luật khác có liên quan được ban hành trong thời gian qua;
chất lượng đào tạo nghề mặc dù đã ngày càng được nâng cao nhưng vẫn
33
chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động; cơ cấu đào tạo theo
nghề và trình độ đào tạo chưa hợp lý, chưa gắn bó hữu cơ với nhu cầu nhân
lực của từng ngành, từng địa phương; các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy
nghề còn bất cập; chưa thiết lập được mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh
nghiệp với CSDN; chưa có chính sách đủ mạnh để tạo động lực thu hút
người dạy nghề và người học nghề v.v...
Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề là yêu
cầu cần thiết, khách quan để giải quyết những hạn chế, bất cập từ những quy
định của Luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ thống nhất cho dạy nghề
phát triển, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 (Khóa
XI) đã đề ra.
CHƯƠNG II
KIẾN NGHỊ CÁC NỘI DUNG CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG VÀO LUẬT DẠY NGHỀ
I. QUAN ĐIỂM SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT DẠY NGHỀ
1. Bối cảnh sửa đổi Luật Dạy nghề
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề diễn ra trong bối cảnh
sự phát triển của khoa học công nghệ, xu thế hội nhập, quá trình quốc tế hoá
sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và phân công lao động diễn ra ngày
càng sâu rộng. Đảng và Nhà nước đã có chủ trương “đổi mới căn bản, toàn
diện” giáo dục, trong đó có đào tạo nghề, tạo điều kiện cho dạy nghề phát triển.
Trong bối cảnh chung nêu trên, nhiều thách thức đang đặt ra đối với
phát triển dạy nghề như: Chất lượng của lao động nước ta còn thấp; thị
trường lao động trong nước và quốc tế đòi hỏi người lao động phải đạt được
chuẩn nghề nghiệp; cơ cấu của các bậc học chưa hợp lý.
2. Quan điểm sửa đổi
(1) Tổng kết, đánh giá thực trạng đào tạo nghề và kết quả thực hiện
Luật dạy nghề, nhất là tổng kết kinh nghiệm, mô hình sáng tạo từ hoạt động
thực tiễn của các CSDN;
34
(2) Thực hiện thể chế hóa chủ trương của Đảng về phát triển dạy nghề
trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI);
(3) Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện dạy nghề theo hướng chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; thực hiện
gắn kết doanh nghiệp với dạy nghề;
(4) Bảo đảm tăng cường và tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về dạy nghề, đồng thời đảm bảo tính chủ động, sáng tạo, quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CSDN;
(5) Giải quyết những hạn chế, bất cập, góp phần đổi mới và phát triển
dạy nghề;
(6) Đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ với quy định của các bộ luật, các
luật hiện hành, phù hợp với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam
đã ký kết là thành viên;
(7) Hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới.
II. ĐỀ XUẤT KHUNG DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
1. Khung Luật Dạy nghề hiện hành
Luật Dạy nghề được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi
hành ngày 01/6/2007. Luật Dạy nghề có 11 chương với 92 điều.
2. Khung Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung
Đề tài đã xác định được 39 điều cần sửa đổi, 11 điều bổ sung vào Luật
Dạy nghề để Dự thảo Luật đảm bảo thể chế hóa những chủ trương đổi mới giáo
dục nói chung, dạy nghề nói riêng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, giải
quyết những hạn chế, bất cập từ những quy định của Luật hiện hành, hướng tới
hội nhập với các nước trong khu vực.
III. MỘT SỐ NỘI DUNG CỤ THỂ CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
1. Sửa đổi, bổ sung về cơ sở dạy nghề
1.1. Về quy hoạch mạng lưới
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Trong thời gian qua mạng lưới CSDN được mở rộng, số lượng CSDN
tăng. Tuy nhiên, việc phát triển mạng lưới CSDN chưa đảm bảo tính khoa
học, tính thực tiễn, dẫn đến mạng lưới CSDN phát triển thiếu tính bền vững,
35
nhiều CSDN được thành lập nhưng hoạt động không hiệu quả. Do vậy, cần
thiết phải có quy định về quy hoạch mạng lưới CSDN ngay từ Luật Dạy
nghề (Luật hiện hành chưa quy định).
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Quy định về: Nguyên tắc, nội dung, thẩm quyền quy hoạch mạng lưới
CSDN để đảm bảo phát triển mạng lưới CSDN có tính khoa học, theo kế
hoạch, đáp ứng sự phát triển của cả hệ thống dạy nghề.
1.2. Loại hình sở hữu của cơ sở dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Theo quy định của Luật Dạy nghề hiện hành thì có ba tiêu chí để xác
định CSDN công lập phải đảm bảo đủ 3 tiêu chí: (1) Do Nhà nước thành
lập; (2) Do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất; (3) Do Nhà nước đảm
bảo kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên. Tuy nhiên, trên thực tế
việc xác định CSDN là công lập hay tư thục hiện nay gặp rất nhiều khó
khăn, do hiện nay nhiều CSDN của Nhà nước cũng chỉ đáp ứng 2 tiêu chí.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất quy định CSDN công lập chỉ cần thỏa mãn 2 tiêu chí: 1)
Do Nhà nước thành lập; 2) Do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất là
đủ (quy định tương tự Luật Giáo dục đại học).
1.3. Cơ sở tham gia dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Luật Dạy nghề cho phép trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học được tham gia dạy nghề. Tuy nhiên thực tế cho thấy, bản thân các cơ sở giáo dục vẫn chưa đủ các điều kiện để đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chuyên nghiệp, đặc biệt là khối các trường đại học, nay lại tham gia đào tạo nghề, điều này dẫn đến hệ quả: Nguồn lực của các trường này vốn đã không đủ, nay lại bị chia sẻ sang hoạt động dạy nghề làm cho cả chất lượng đào tạo chuyên nghiệp lẫn chất lượng đào tạo nghề đều không đạt yêu cầu.
b) Đề xuất sửa đổi
Chỉ có cơ sở dạy nghề tham gia hoạt động dạy nghề. Bỏ các điều 15,
22 và 29 quy định về thẩm quyền dạy nghề của các CSDN và bổ sung
thêm 1 khoản tại Điều 50 quy định rõ nhiệm vụ dạy nghề của các CSDN ở
các trình độ.
36
1.4. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CSDN, Luật Dạy nghề viện
dẫn theo quy định tại các Điều 58, 59 và 60 của Luật Giáo dục, do vậy còn
chung chung, chưa cụ thể với các CSDN.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Bổ sung Điều 50a quy định cụ thể hơn về quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của CSDN trong các lĩnh vực: tổ chức và nhân sự, tài chính và tài
sản, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng dạy nghề
để đảm bảo CSDN thực sự là một chủ thể độc lập, tự chủ.
1.5. Cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Theo Khoản 2 Điều 52 Luật Dạy nghề, các CSDN có vốn đầu tư nước
ngoài sau khi có giấy phép đầu tư vẫn không thể thực hiện các hoạt động
dạy nghề vì không có quyết định thành lập (không quy định).
b) Đề xuất sửa đổi
Dự thảo đề xuất Bổ sung quy định cụ thể về thẩm quyền cho phép
thành lập CSDN có vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở pháp điển hóa quy
định trong Nghị định 73/2012/NĐ-CP về hợp tác đầu tư nước ngoài trong
lĩnh vực giáo dục.
1.6. Về lớp dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Lớp dạy nghề là một thực thể đang tồn tại, có mặt khắp các phố, ngõ,
ngách, thôn, xóm, sóc, bản, làng... từ thành phố đến nông thôn, từ vùng núi
đến vùng đồng bằng... nhưng Luật Dạy nghề không quy định.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất bổ sung thêm mục 1a, trong chương IV quy định về lớp
dạy nghề, quy định tổ chức, hoạt động và chính sách để thúc đẩy lớp dạy
nghề phát triển.
37
2. Sửa đổi, bổ sung về trình độ dạy nghề
2.1. Trình độ cao đẳng nghề nâng cao
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Luật Dạy nghề mới chỉ quy định 3 cấp trình độ dạy nghề (sơ cấp nghề,
trung cấp nghề và cao đẳng nghề), thiếu hẳn một cấp độ để người học có thể
hoàn thiện trình độ kỹ năng nghề cao, mà thực tiễn của sản xuất, dịch vụ đòi
hỏi (giáo dục đại học cũng chỉ đáp ứng được phần lý thuyết của nghề).
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất bổ sung thêm bậc cao đẳng nâng cao trong trình độ
CĐN để vừa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, vừa đảm bảo phù hợp với quy
định của Luật Giáo dục.
2.2. Tổ chức, quản lý dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Với quy định của Luật Dạy nghề, hoạt động dạy nghề được thực hiện
theo năm học (niên chế). Theo phương thức này, chất lượng đào tạo thường
thấp vì nội dung chương trình nặng nề, phương pháp dạy học áp đặt, người
học không có cơ hội để thể hiện năng lực bản thân, không có điều kiện để
đạt tới sự thành thục trong luyện tập.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức quản lý dạy nghề theo 2 phương thức: Theo niên chế và theo mô đun.
2.3. Mục tiêu dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Luật Dạy nghề mục tiêu dạy nghề chung (quy định tại Điều 4) và mục tiêu dạy nghề của các cấp trình độ (quy định tại các điều 10, 17 và 24) đều thể hiện rất chung chung, chưa hướng vào chuẩn đầu ra, do vậy, dẫn hướng cho việc xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình không đáp ứng được yêu cầu từ thực tiễn.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất mục tiêu dạy nghề hướng vào chuẩn đầu ra (tiêu chuẩn
kỹ năng nghề); cụ thể: có thể lượng hóa được và bám sát yêu cầu từ thực
tiễn, tương ứng với từng trình độ đào tạo là trình độ kỹ năng tương ứng.
38
2.4. Chương trình dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Bất cập trong quy định TTDN phải xây dựng chương trình, trong khi
không có khả năng; chương trình trình độ TCN, CĐN ở các nghề trọng điểm
phải theo chương trình khung.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Quy định để các TTDN được lựa chọn chương trình SCN; quy định
giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành chương trình dạy
nghề trình độ trung cấp và cao đẳng cho các nghề trọng điểm quốc gia, khu
vực và quốc tế.
2.5. Thời gian dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Bất cập trong quy định thời gian dạy nghề trình độ sơ cấp (từ 3 tháng
đến dưới 1 năm) không cụ thể số giờ thực học tối thiểu cho một khóa học;
thời gian học nghề là quá dài (3 đến 4 năm) cho đối tượng tốt nghiệp trung
học cơ sở ở trình độ trung cấp.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 11 quy định cụ thể thời gian của
trình độ SCN; rút ngắn thời gian đào tạo trình độ TCN đối với người tốt
nghiệp trung học cơ sở tại Điều 18 và quy định thời gian học theo phương
thức mô đun tại Điều 18 và Điều 25.
2.6. Giáo trình dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Việc cho phép các CSDN lựa chọn giáo trình từ giáo trình đã có làm
giáo trình cho cơ sở của mình đã được quy định trong khoản 2 Điều 35 Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất sửa đổi Điều 14, Điều 21 và Điều 28 theo hướng người
đứng đầu CSDN có thể tổ chức tự biên soạn hoặc có thể tổ chức lựa chọn.
39
2.7. Cấp văn bằng, chứng chỉ nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Dạy nghề nếu được thực hiện theo phương thức mô đun sẽ không cần
phải thi tốt nghiệp cuối khóa. Người học học đến đâu, được công nhận đến
đấy. Khi tích lũy đủ số mô đun quy định trong chương trình thì người học
được xét cấp bằng tốt nghiệp.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Sửa đổi bổ sung các Điều 16, 23 và 30 theo hướng người học theo
phương thức tích lũy mô đun không cần phải thi tốt nghiệp cuối khóa.
3. Sửa đổi, bổ sung về giáo viên dạy nghề
3.1. Giáo viên trong các cơ sở dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Quy định hiện hành chưa phân biệt nhà giáo dạy môn chung và dạy
nghề; chưa gọi là giảng viên đối với nhà giáo dạy ở trường CĐN, chưa quy
định chuẩn kỹ năng nghề của nhà giáo.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất bổ sung quy định về nhà giáo giảng dạy các môn học
chung; sửa đổi bổ sung nhà giáo dạy nghề phải đáp ứng điều kiện về chuẩn
kỹ năng nghề;
3.2. Về bồi dưỡng giáo viên dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Nhằm bảo đảm cho nhà giáo dạy nghề liên tục được cập nhật kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp, không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn
nghề, nhà giáo dạy nghề hàng năm phải được thực hành, thực tập nâng cao
trình độ nghề nghiệp tại các doanh nghiệp.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất quy định hàng năm nhà giáo phải có thời gian thực hành,
thực tập tại doanh nghiệp có ngành, nghề của nhà giáo đang giảng dạy.
40
3.3. Chính sách đối với giáo viên dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Điều 62 của Luật Dạy nghề về chính sách đối với giáo viên dạy nghề
còn quy định chung chung và viện dẫn theo quy định của Luật Giáo dục.
Đây thực sự là những rào cản trong việc phát triển đội ngũ nhà giáo dạy
nghề hiện nay đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất quy định cụ thể nhà giáo dạy nghề ngoài các chính sách
chung được hưởng hiện nay như chính sách tiền lương, phụ cấp khu vực,
phụ cấp thâm niên còn được hưởng phụ cấp dạy nghề, chính sách tôn vinh
và các chính sách khác, không viện dẫn vào Luật Giáo dục.
4. Sửa đổi, bổ sung quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp trong
dạy nghề và Quỹ hỗ trợ dạy nghề
4.1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Hiện nay các quy định trong Luật Dạy nghề còn chung chung, lẫn giữa
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp; thiếu chế tài gắn kết giữa doanh nghiệp
với dạy nghề, dẫn tới chưa gắn kết được; hiệu quả dạy nghề không cao.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất bổ sung quy định tại Điều 55 về quyền doanh nghiệp
được dạy nghề trình độ sơ cấp và dạy các chương trình dạy nghề thường
xuyên; một số loại chi phí quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 56 và Điều
57 được trừ để tính thu nhập chịu thuế để đảm bảo quyền lợi của doanh
nghiệp khi tham gia dạy nghề, đồng thời quy định chế tài trong trường hợp
doanh nghiệp không tham gia hoạt động dạy nghề.
4.2. Quỹ phát triển dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Điều 86 Luật Dạy nghề quy định Quỹ hỗ trợ học nghề được thành lập
dùng để hỗ trợ cho người học nghề. Tuy nhiên thực tế người học nghề hiện
nay đang được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước nên
41
không cần phải có một Quỹ riêng từ ngân sách để hỗ trợ người học. Chính
vì vậy, trong thời gian qua Quỹ này không được triển khai thực hiện trong
thực tế.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất thay quy định về Quỹ hỗ trợ học nghề bằng Quỹ phát
triển dạy nghề với đối tượng đóng và hưởng chủ yếu là các doanh nghiệp.
Quỹ không nhằm mục đích lợi nhuận và do đại diện của các doanh nghiệp
quản lý và sử dụng cho các hoạt động dạy nghề.
5. Sửa đổi, bổ sung về kiểm định chất lượng dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Như đã trình bày tại Chương 1, hoạt động kiểm định chất lượng dạy
nghề thời gian qua chỉ thực hiện đối với các cơ sở dạy nghề, chưa thực hiện
đối với chương trình dạy nghề; chỉ thực hiện bởi tổ chức kiểm định của nhà
nước, chưa có các tổ chức kiểm định độc lập.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 74 và Điều 75 để bổ sung việc kiểm
định chương trình và tổ chức kiểm định độc lập.
6. Sửa đổi, bổ sung về hợp tác quốc tế
6.1. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Hợp tác quốc tế về dạy nghề quy định tại Điều 87 Luật Dạy nghề
nhưng không quy định trực tiếp mà viện dẫn theo các Điều 108 và 109 của
Luật Giáo dục dẫn tới bất cập trong thẩm quyền công nhận văn bằng, chứng
chỉ nghề (do Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện).
6.2. Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất bổ sung một số nội dung hợp tác quốc tế về dạy nghề
trên cơ sở pháp điển hóa một số nội dung Nghị định 73/2012/NĐ-CP.
7. Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung khác
Bên cạnh các đề xuất chính nêu trên, Đề tài đã thực hiện đề xuất sửa
đổi, bổ sung các nội dung khác của Luật Dạy nghề (xem thêm Phụ lục 5).
42
III. KHẢO NGHIỆM TÍNH CẦN THIẾT, KHẢ THI CỦA CÁC ĐỀ XUẤT
Để đảm bảo tính khách quan, khoa học của những nội dung đề xuất
sửa đổi, bổ sung trong Luật, Đề tài đã tiến hành khảo sát lấy ý kiến trực tiếp
337 cán bộ quản lý dạy nghề, giáo viên dạy nghề, cán bộ doanh nghiệp và
chuyên gia thông qua các Hội thảo, Hội nghị, Tọa đàm tổ chức trong thời
gian từ 15/12/2012 đến 30/10/2013 (09 hội thảo) tại các vùng, miền, địa
phương trong cả nước về tính cấp thiết, tính khả thi của các nội dung đề
xuất. Về cơ bản các ý kiến đều cho rằng các nội dung đề xuất là cần thiết,
vừa giải quyết những bất cập trong thực tiễn, vừa thực hiện chủ trương đổi
mới căn bản toàn diện dạy nghề; nội dung đề xuất có tính khả thi cao.
IV. ĐIỀU KIỆN VÀ LỘ TRÌNH SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT DẠY NGHỀ
1. Điều kiện thực hiện
- Điều kiện pháp lý
- Điều kiện nhân lực
- Điều kiện về tài chính
2. Lộ trình thực hiện
Thực hiện theo Nghị quyết số 20/2011/QH13 về chương trình xây
dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, Nghị quyết số
45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2013; Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2014, và Quyết định số 207/QĐ-TTg ngày 17/02/2012
của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo Dự
án luật, pháp lệnh thuộc chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013.
KẾT LUẬN
Giáo dục đào tạo nói chung, dạy nghề nói riêng được coi là động lực
quan trọng nhất cho sự phát triển(2), một nhân tố quyết định để thực hiện
thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xác định tầm quan trọng
(2)
Kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành TW
khóa XI
43
của giáo dục, đào tạo, dạy nghề, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI đã ban hành nghị quyết về "Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế", trong đó xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục, đào tạo nói chung, dạy nghề nói riêng (3). Theo đó, sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Dạy nghề, hoàn thiện hệ thống pháp luật về dạy
nghề theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện dạy nghề là một trong những
giải pháp cơ bản, có tính cấp bách để thể chế hóa các chủ trương, đường lối
của Đảng về giáo dục, dạy nghề trong giai đoạn hiện nay.
Thực hiện Nghị quyết số 20/2011/QH13 về chương trình xây dựng
Luật, Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, Nghị quyết số
45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2013, Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2014 và Quyết định số 207/QĐ-TTg ngày 17/02/2012
của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo Dự
án luật, pháp lệnh thuộc chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang tích cực chuẩn bị cho việc xây
dựng Dự án Luật.
Với bối cảnh như vậy, Đề tài "Thực trạng thi hành pháp luật về dạy
nghề và kiến nghị các nội dung cần sửa đổi, bổ sung vào Luật Dạy nghề" có
ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Đề tài góp phần quan trọng vào việc
định hướng, chuẩn bị các cơ sở khoa học cho việc thực hiện Dự án Luật đã
được Chính phủ giao. Qua quá trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu, Đề
tài đã đạt được những mục tiêu nghiên cứu đề ra, cụ thể:
(1) Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về dạy nghề và thực hiện
pháp luật về dạy nghề ở Việt Nam trong những năm qua. Bằng các luận cứ
khoa học, Đề tài đã đưa ra những nhận định, đánh giá đầy đủ, cụ thể về thực
trạng Luật Dạy nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành; thực trạng thực
hiện Luật Dạy nghề, đánh giá về những kết quả đạt được, một số tồn tại, hạn
chế, nguyên nhân.
(3)
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành TW Đảng (khóa XI), ngày 4 tháng
11 năm 2013
44
(2) Trên cơ sở đó Đề tài đã đề xuất, kiến nghị những nội dung cần sửa
đổi, bổ sung vào Luật Dạy nghề góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về
dạy nghề cụ thể như:
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung về CSDN với 06 nội dung cơ bản bao
gồm: Quy hoạch mạng lưới CSDN; về loại hình CSDN; về cơ sở tham gia
dạy nghề; về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CSDN; về CSDN có
vốn đầu tư nước ngoài và về lớp dạy nghề.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung về trình độ dạy nghề với 07 nội dung cơ
bản như: Trình độ CĐN nâng cao; tổ chức quản lý dạy nghề; mục tiêu dạy
nghề; chương trình dạy nghề; thời gian dạy nghề; giáo trình dạy nghề và cấp
văn bằng, chứng chỉ dạy nghề.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung về giáo viên dạy nghề với 03 nội dung
như: Về các loại giáo viên trong CSDN; về sử dụng, tuyển dụng, bồi dưỡng
giáo viên dạy nghề và về chính sách đối với giáo viên dạy nghề.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung về quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp
trong dạy nghề và Quỹ hỗ trợ dạy nghề.
- Kiến nghị chính sách đối với CSDN tư thục; về hợp tác quốc tế và
một số kiến nghị khác.
Bên cạnh từng kiến nghị, đề xuất là những lý giải khoa học về sự cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung và được kiểm chứng, khảo nghiệm từ thực tiễn
thông qua việc lấy ý kiến góp ý của các đối tượng liên quan.
Với kết quả nghiên cứu như vậy, chắc chắn Đề tài sẽ góp phần quan
trọng vào việc chuẩn bị, phục vụ cho Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Dạy nghề sẽ trình Quốc hội vào cuối năm 2014./.
45
NGHIÊN CỨU, XÂY DỰNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ, BẢO VỆ
QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG DI CƯ VÙNG BIÊN
MÃ SỐ: CB2012-01-02
Cơ quan chủ trì đề tài: Cục Quản lý lao động
ngoài nước
Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Văn Thanh
Thư ký: ThS. Nguyễn Xuân Tạo
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LAO ĐỘNG
DI CƯ VÙNG BIÊN
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA KINH TẾ VÙNG BIÊN
1. Vị trí địa lý
Nằm trong bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam Á, Việt Nam
có đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km, phía Bắc tiếp giáp với Trung
Quốc, phía Tây và Tây Bắc tiếp giáp với Lào và phía Tây Nam tiếp giáp với
Campuchia. Hai mươi lăm (25) tỉnh của Việt Nam là các tỉnh có đường biên
giới, trong đó 7 tỉnh giáp với Trung Quốc, 10 tỉnh có đường biên giới với
Lào và 10 tỉnh có đường biên giới với Campuchia.
2. Vai trò kinh tế
Vùng biên giới của Việt Nam thích hợp hình thành và phát triển các
khu kinh tế cửa khẩu nhằm mục đích phát huy lợi thế về quan hệ kinh tế -
thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh hàng hoá, đầu tư, thương
mại, dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước từ nước ngoài vào nội địa
thông qua cơ chế chính sách ưu đãi tại các khu kinh tế cửa khẩu. Đây cũng
là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại của cả nước, có vai trò quyết định đối với môi trường sinh
thái của cả vùng Bắc Bộ; có tiềm năng, lợi thế phát triển nông nghiệp, lâm
46
nghiệp, thủy điện, khai khoáng, du lịch và kinh tế cửa khẩu. Tuy vậy, đây
vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất cả nước.
II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
VÙNG BIÊN
Tình trạng di cư lao động vùng biên ngày càng gia tăng là do tác động
của các yếu tố như: sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa
Việt Nam - Trung Quốc; thiếu việc làm (những lúc nông nhàn); hoặc không
tìm được việc làm trong nước; nhu cầu của người lao động muốn kiếm thêm
thu nhập để cải thiện đời sống gia đình; người lao động có mối quan hệ
thân, quen với họ hàng, anh em, bạn bè, người cùng làng; chính sách mở
cửa đường biên giới và khoảng cách về địa lý gần (người lao động có thể đi
về trong ngày) và sự mất cân bằng nghiêm trọng về giới ở các tỉnh của
Trung Quốc giáp ranh với Việt Nam.
III. CÁC KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ VỀ LAO ĐỘNG DI CƯ VÙNG BIÊN
1. Khái niệm quốc tế về di cư lao động và người lao động
vùng biên
Di cư lao động: là hiện tượng cá nhân hay một nhóm người (hoặc một
cộng đồng) di chuyển nơi cư trú từ đơn vị hành chính, lãnh thổ này tới một
đơn vị hành chính, lãnh thổ khác thông thường trong một khoảng thời gian
tương đối dài, gắn liền với việc tìm kiếm một điều kiện sống và một công
việc làm tốt hơn.
Lao động di cư: là thuật ngữ dùng để chỉ một người đã và sẽ tham gia
vào các hoạt động được trả lương tại một quốc gia mà người đó không phải
là công dân.
Về hình thức di cư: có hai hình thức di cư
- Di cư có tổ chức: là dạng di cư tiến hành theo chương trình, kế hoạch
của nhà nước như: xuất khẩu lao động, xây dựng khu kinh tế mới, di cư để
xây dựng công trình công cộng quy mô lớn...
- Di cư tự do: hình thức di cư tự phát, tự nguyện di chuyển đến nơi cư
trú mới của người dân và không bị coi là phạm pháp. Đối tượng của dạng di
47
cư này rất đa dạng: Người lớn tuổi, phụ nữ, trẻ em, nam giới, học vấn cao,
học vấn thấp, người có tay nghề, người không có nghề nghiệp... Có người
đến định cư lâu dài, có người đến chỉ nhằm mục tiêu kiếm sống một thời
gian nhân thời điểm nông nhàn, nhiều học sinh di cư để học nâng cao, vừa
học vừa làm.
- Di cư không an toàn: là những chuyến di cư trong đó người tham gia
di cư không thực hiện những yêu cầu tối thiểu vì vậy nguy cơ gặp rủi ro khá
cao và chính hiện tượng này đã tạo điều kiện cho nạn buôn người ngày càng
phát triển. Thực tế cho thấy nhiều người di cư đã biết rất rõ con đường của
mình không an toàn nhưng vẫn quyết định dấn thân và kết quả là thất bại, rơi
vào đường dây buôn bán người. Đối tượng này phần lớn là phụ nữ và trẻ em.
- Lao động vùng biên: là các công dân Việt Nam, nơi thường trú tại
Việt Nam nhưng định kỳ vượt biên sang Trung Quốc, Campuchia hoặc Lào
để làm các công việc mang tính chất thời vụ, làm các công việc được người
khác trả lương hoặc tự thuê.
Khái niệm lao động vùng biên được sử dụng trong nghiên cứu này bao
hàm cả bốn khái niệm “người lao động vùng biên”, “người lao động mùa
vụ”, “người lao động lưu động” và “người lao động tự thuê” được nêu trong
Công ước của Liên hợp quốc về bảo vệ quyền của tất cả người lao động di
cư và thành viên gia đình họ.
2. Khuôn khổ pháp lý quốc tế bảo vệ người lao động di cư
Quyền con người nói chung, quyền của người lao động di cư nói riêng
được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và trong các
Công ước của Liên Hiệp Quốc và Tổ chức lao động quốc tế ILO. Trong đó
quy định rõ lao động di cư được hưởng các quyền cơ bản của con người,
không bị phân biệt đối xử. Ngoài ra, người lao động di cư và các thành viên
gia đình họ còn được hưởng một số quyền đặc biệt: quyền đến và rời khỏi
một đất nước; quyền tự do hội họp và lập hội; quyền có công việc và các
điều kiện làm việc tương xứng; quyền được giáo dục và chăm sóc sức khỏe;
quyền được có cuộc sống gia đình.
48
3. Pháp luật Việt Nam liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người
lao động di cư
a) Trong lĩnh vực xuất nhập cảnh
- Hiến pháp Việt Nam năm 1992;
- Bộ Luật Hình sự năm 1999 (số 15/1999/QH10), Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ Luật Hình sự năm 1999 (số 37/2009/QH12);
- Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17 tháng 8 năm 2007 của Chính
phủ về việc xuất cảnh của công dân Việt Nam.
b) Trong lĩnh vực di cư lao động:
- Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng (Luật số 72/2006/QH11) được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông
qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2007 và các văn bản
hướng dẫn Luật này;
c) Trong lĩnh vực hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài
- Luật Hôn nhân và Gia đình ngày 9/6/2000; Nghị định số
68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày
21/07/2006 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
số 68/2002/NĐ-CP nói trên quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Hôn nhân gia đình và quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.
- Luật nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/03/2011
quy định chi tiết việc thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi.
- Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN ngày 18/07/2011 của Chủ tịch
nước về việc phê chuẩn Công ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế... và một loạt các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan.
c) Trong lĩnh vực phòng chống mua bán người và tội phạm liên quan
Hiến pháp; Luật Phòng chống mua bán người, Luật Hôn nhân và gia
đình; Bộ luật hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Bình đẳng giới; Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình; Luật Xử phạt vi phạm hành chính; Pháp lệnh
Phòng chống mại dâm; Pháp lệnh Xuất cảnh, nhập cảnh góp phần quan
trọng vào việc phòng ngừa, ngăn chặn, trừng trị tội phạm mua bán người.
49
4. Những thoả thuận về vùng biên giữa Việt Nam và Trung Quốc và thoả thuận tạm thời giữa các địa phương giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian qua
- “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” ký ngày 30 tháng
12 năm 1999;
- “Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ” ký ngày 25 tháng 12
năm 2000;
- “Hiệp ước về xác định giao điểm đường biên giới giữa nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” ký ngày 10 tháng 10 năm 2006;
- “Nghị định thư phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam
- Trung Quốc giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” năm 2009;
- Các văn kiện kiểm tra liên hợp có hiệu lực do hai Bên ký kết.
5. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam từ kinh nghiệm của Pakistan - Afganistan, Thái Lan, Malaysia và Indonesia
● Di cư lao động qua biên giới là tất yếu khách quan chịu ảnh hưởng
bởi cả 2 yếu tố cầu kéo và cung đẩy;
● Cần nghiên cứu sâu để đánh giá đúng vai trò, lợi ích và các hạn chế
của lao động di cư qua biên giới đối với bản thân họ và sự phát triển
vùng biên về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh... của cả nước
đi và nước đến;
● Nghiên cứu quan điểm và chính sách của chính phủ các nước đến đối
với lao động nhập cư và mức độ phụ thuộc vào lao động nhập cư
trình độ thấp của họ để xúc tiến đàm phán ký kết thỏa thuận quốc gia
về lao động;
● Giảm phí, đơn giản hóa thủ tục, hỗ trợ phát triển hệ thống dịch vụ để
tăng cường số lượng di cư lao động thông qua con đường chính thức
để được bảo đảm quyền lợi;
50
● Tăng cường thông tin tuyên truyền phổ biến pháp luật cho lao động
vùng biên giới để nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật và
khả năng tự bảo vệ của người lao động khi muốn di cư nhằm giảm
thiểu khả năng bị bóc lột và lạm dụng;
● Phối hợp với nước đến để thiết lập cơ chế khai báo, đăng ký khi
muốn di cư lao động để có thể quản lý thông tin về loại hình di cư
lao động này nhằm hỗ trợ và bảo vệ khi cần thiết.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG DI CƯ
VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
I. THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG DI CƯ VÙNG BIÊN
1. Đặc điểm vùng biên giới phía Bắc, điều kiện kinh tế - xã hội
của người lao động di cư tự do vùng biên
Vùng biên giới Việt - Trung có tổng diện tích đất tự nhiên 5.126.329 ha,
có tổng cộng 33 huyện. Trong đó, có 17 huyện nghèo theo Nghị quyết
30ª/2008/NQ-CP ngày 28/12/2008 của Chính phủ, các huyện còn lại cũng
có tỷ lệ hộ nghèo cao khoảng gần 50% là hộ nghèo (trừ 2 thành phố giáp
biên là TP. Móng Cái, TP. Lào Cai). Dân số các huyện giáp biên giới đa
phần là người dân tộc thiểu số, trình độ văn hoá thấp, chất lượng nguồn
nhân lực thấp, đa phần là lao động phổ thông.
Điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, điểm xuất phát thấp,
chậm phát triển so với các vùng khác trong cả nước.
2. Về thực trạng người lao động Việt Nam di cư lao động tại
biên giới phía Bắc
2.1. Đặc điểm của lao động di cư đường biên
Từ 2011 đến nay, hàng năm có hàng vạn lượt người lao động Việt Nam
sang lao động trái phép tại Trung Quốc thuộc 2 hình thức chính: Xuất nhập
cảnh trái phép sang Trung Quốc làm việc bất hợp pháp (đi qua các lối mòn,
51
cửa khẩu tiểu ngạch hoặc thậm chí vượt sông suối sang Trung Quốc, không
có giấy tờ xuất nhập cảnh) và Xuất nhập cảnh hợp pháp bằng giấy thông
hành hoặc chứng minh thư biên giới sang Trung Quốc làm việc ngắn hạn
trong ngày hoặc 2-3 ngày.
- Về thành phần di cư lao động: Thành phần người di cư qua biên giới
trong những năm gần đây đa dạng hơn nhiều so với thời kỳ trước, bao gồm
cả người dân địa phương sinh sống hai bên đường biên và nhiều dòng người
từ các tỉnh/thành phố khác trong cả nước; lao động phổ thông chiếm đa số,
chỉ có một số rất ít lao động có trình độ; lao động nữ chiếm khoảng 60%, nam
chiếm 40%; độ tuổi của người di cư lao động vùng biên khá đa dạng, các cơ hội
việc làm có thể đáp ứng nhu cầu của nhiều lứa tuổi khác nhau.
- Về thu nhập: Bình quân người lao động làm việc trái phép tại Trung
Quốc có mức thu nhập từ 200-300 nghìn VNĐ/ngày và khoảng 5-7 triệu
VNĐ/tháng. Cao hơn thu nhập của người lao động ở địa phương nơi đi từ
vài lần đến vài chục lần.
2.2. Nguyên nhân người lao động di cư lao động tự do sang
Trung Quốc
- Người dân sinh sống hai bên đường biên của Việt Nam và Trung
Quốc có quan hệ rất gần gũi, có thể họ cùng chung tiếng nói, cùng chung
đặc điểm văn hoá, thậm chí có quan hệ họ hàng thân tộc hoặc thường xuyên
qua lại giao lưu, trao đổi hàng hoá, văn hoá với nhau;
- Nhu cầu việc làm, thu nhập của người dân ở khu vực nông thôn và
miền núi, đặc biệt là vào những thời gian nông nhàn rất cao;
- Thu nhập cao hơn tại Trung Quốc;
- Nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp Trung Quốc, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các khu vực xa biên giới của Trung
Quốc (như Nam Ninh, Quảng Tây);
- Việc đi lại qua biên giới Việt - Trung khá dễ dàng, công việc lao
động giản đơn, mà hầu hết người lao động Việt Nam ở mọi lứa tuổi đều có
thể đáp ứng được.
52
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH VỀ LAO ĐỘNG DI CƯ
VÙNG BIÊN
Hệ thống chính sách pháp luật của Việt Nam về di cư đang dần được
hoàn thiện và đã có một số lĩnh vực đã tiếp cận được chuẩn mực quốc tế.
Tuy nhiên, vẫn còn rất thiếu các quy định chính sách đảm bảo các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam trong suốt quá trình di cư (trước
khi xuất cảnh - khi ở nước ngoài - khi hồi hương và tái hòa nhập). Quy định
liên quan đến các loại hình di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài còn
thiếu và phần lớn chưa được luật hoá, nằm rải rác trong các văn bản dưới
luật, nên còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, kém hiệu lực, hiệu quả, thậm chí
gây khó khăn cho công tác quản lý của cơ quan chức năng. Bên cạnh đó,
vẫn còn nhiều khoảng trống trong hệ thống pháp luật và chính sách, trong
hợp tác song phương, khu vực và quốc tế khiến cho di cư diễn ra không an
toàn và công dân Việt Nam vẫn còn gặp nhiều rủi ro khi lao động, học tập,
sinh sống và cư trú ở nước ngoài.
III. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG VÙNG BIÊN TRONG
THỜI GIAN QUA
Thông qua hệ thống chính sách, với sự quan tâm đầu tư từ ngân
sách Trung ương, của ngân sách các địa phương, tài trợ của các tổ chức
quốc tế, cùng với sự nỗ lực cố gắng vươn lên của người dân đã góp phần
làm thay đổi đáng kể bộ mặt vùng dân tộc và miền núi, đời sống vật chất
và tinh thần đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng khó
khăn được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm; kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội được tăng cường đầu tư; lĩnh vực đào tạo nghề, tạo việc làm đạt
được nhiều kết quả tích cực... Tuy nhiên, hiện nay chưa có cơ quan, tổ
chức nào đứng ra nghiên cứu việc di cư lao động tự do giữa các tỉnh biên
giới, cũng chưa có chính sách, pháp lý cho người dân di cư qua biên giới.
Tình trạng dân di cư tự do sang Trung Quốc làm việc bất hợp pháp tiếp
tục có những diễn biến phức tạp ở một số vùng và một số địa phương,
đặc biệt là các xã, các huyện giáp biên giới.
53
CHƯƠNG III
KHUYẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT CƠ CHẾ QUẢN LÝ, BẢO VỆ
QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG DI CƯ VÙNG BIÊN
I. XU HƯỚNG TRONG THỜI GIAN TỚI VỀ DI CƯ LAO ĐỘNG VÙNG BIÊN
Việc người lao động Việt Nam tại các vùng biên giới sang Trung
Quốc làm việc bằng hình thức tự do là một thực tế khách quan mà hai nước
có chung đường biên giới cần chấp nhận và có giải pháp quản lý.
1. Khuyến nghị về mặt kinh tế - xã hội
- Đầu tư phát triển kinh tế xã hội, tạo việc làm và thu nhập cho người
lao động, đặc biệt là các tỉnh vùng biên giới;
- Tăng cường đưa người lao động các tỉnh, các huyện biên giới đi làm
việc ở nước ngoài;
- Thực hiện các biện pháp quản lý, hỗ trợ và tư vấn, bảo vệ quyền lợi
cho người lao động;
- Kết văn bản thoả thuận về lao động giữa hai chính phủ tạo hành lang
pháp lý cho việc đưa người Việt Nam sang Trung Quốc làm việc, đồng thời
tạo thuận lợi cho ta trong công tác bảo hộ quyền lợi và lợi ích chính đáng
của người lao động;
- Hướng dẫn các tỉnh biên giới với Trung Quốc đưa chương trình hợp
tác lao động vào chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội cấp địa
phương giữa hai tỉnh giáp biên.
2. Khuyến nghị về mặt an ninh quốc phòng
- Tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân ở khu
vực biên giới chấp hành tốt chủ trương đường lối của đảng, pháp luật của
nhà nước; quy chế biên giới; quy định về xuất nhập cảnh; cảnh giác phát
hiện tố giác tội phạm;
- Phối hợp chặt chẽ trong đấu tranh ngăn chặn, quản lý an ninh trật tự,
quản lý hộ tịch, hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng trên địa bàn;
54
- Tăng cường quản lý, kiểm soát chặt chẽ biên giới, cửa khẩu; đầu tư
trang bị và xây dựng lực lượng nòng cốt chuyên trách trong quản lý kiểm
soát xuất nhập cảnh và an ninh biên giới, cửa khẩu;
- Tăng cường phối hợp với các lực lượng phòng chống tội phạm, bảo
vệ biên giới của Trung Quốc trong tuần tra, kiểm soát biên giới; trao đổi
thông tin về tội phạm hoạt động hai bên giới, phối hợp điều tra, truy bắt, dẫn
giải, bàn giao tội phạm, trao trả nạn nhân bị buôn bán, công dân hai bên
nhập cảnh cư trú, hành nghề bất hợp pháp trên lãnh thổ bên kia.
3. Khuyến nghị của các địa phương
- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các xã, huyện biên giới lồng ghép các
chương trình, dự án ở địa phương, ưu tiên vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc
làm nhằm tạo việc làm tại chỗ cho người lao động ở các xã, huyện biên giới;
đào tạo nghề phù hợp cho người lao động nông thôn để đi làm việc tại các
doanh nghiệp trong tỉnh, trong nước và xuất khẩu lao động;
- Có biện pháp, cơ chế chính sách tạo điều kiện cho người lao động
đặc biệt là đối với các xã biên giới giáp Trung Quốc để ổn định kinh tế, tạo
việc làm và thu nhập cho người lao động;
- Sớm có văn bản hướng dẫn và cho chủ trương về quản lý lao động
tự do sang Trung Quốc làm việc, có quy định về quản lý lao động nhập cư
bằng thẻ thông hành hoặc thông qua du lịch đối với lao động Trung Quốc
sang Việt Nam làm việc;
- Chính phủ cần có văn bản hướng dẫn liên ngành: Công an, Biên
phòng, Ngoại giao, Lao động - Thương binh và Xã hội quy định về thủ tục,
các giấy tờ liên quan mà người lao động cần có để sang Trung Quốc làm
việc nhằm tạo thuận lợi cho người dân;
- Đầu tư, tăng cường năng lực các Trung tâm giới thiệu việc làm các
địa phương để tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động trên địa bàn,
đặc biệt là có đủ năng lực và hình thành được mạng lưới xuống các huyện,
xã biên giới để phối hợp với bộ đội biên phòng, lực lượng công an tuyên
truyền tư vấn việc làm, đồng thời cung cấp thông tin, hỗ trợ người dân
phòng ngừa, đối phó với những nguy cơ khi qua biên giới làm việc;
- Thiết lập đường dây nóng để kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh;
chỉ đạo các cơ quan liên quan tăng cường công tác quản lý, đơn giản hoá thủ
tục cấp giấy tờ xuất cảnh cho công dân các xã biên giới;
55
- Tăng cường công tác quản lý và bảo vệ quyền lợi đối với người dân
di cư vùng biên bằng các hình thức: Cấp thẻ lao động cho tất cả cư dân vùng
biên từ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động (nội dung gồm những thông tin
cơ bản về cá nhân và những chỉ dẫn cần thiết khi người lao động sang biên
giới tìm việc hoặc gặp rủi ro trong quá trình làm việc);
- Tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước để nâng cao nhận thức cho nhân dân, chấp hành
đúng quy định của pháp luật về xuất cảnh; kết hợp các biện pháp kiểm điểm,
giáo dục, răn đe người dân sang Trung Quốc làm việc trái phép;
- Các lực lượng chức năng tăng cường lực lượng kiểm tra tại các thôn,
xã giáp biên giới để nắm tình hình và vận động nhân dân, tăng cường tuần
tra kiểm soát tại các khu vực biên giới có người di cư lao động trái phép, kịp
thời phát hiện, xử lý những người vi phạm. Xử lý nghiêm khắc đối với
những trường hợp tổ chức đưa người lao động sang làm việc trái phép tại
Trung Quốc.
- Đàm phán với các huyện, thành phố của Trung Quốc có chung
đường biên giới với Việt Nam để thống nhất trao đổi thông tin và hỗ trợ
quản lý, bảo vệ quyền lợi lao động của địa phương di cư lao động tự do sang
Trung Quốc làm việc, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các cơ quan hữu quan
của Trung Quốc để đưa người Việt Nam sang làm việc hợp pháp tại Trung
Quốc, đồng thời có chính sách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với
người lao động.
II. ĐỀ XUẤT VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ, BẢO VỆ QUYỀN LỢI HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG DI CƯ VÙNG BIÊN
1. Quan điểm
Để có được một cơ chế, chính sách về quản lý, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người lao động di cư vùng biên giới một cách hợp lý cần thống
nhất các quan điểm, hướng tới việc lựa chọn các chính sách phù hợp.
Thứ nhất, di cư lao động là tất yếu trong quá trình phát triển và chịu
tác động của quy luật kinh tế; di cư lao động có những mặt tích cực và tiêu
cực. Vì vậy, các chính sách của Nhà nước phải hướng tới mục tiêu tăng
cường công tác quản lý Nhà nước về di cư lao động để phát huy triệt để mặt
tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của di cư lao động, đặc biệt là di cư lao
56
động tự do. Di cư lao động là một vấn đề lớn đòi hỏi phải có một hệ thống
chính sách, giải pháp đồng bộ, phải có sự phân công trách nhiệm cụ thể giữa
các bộ, ngành từ trung ương đến địa phương.
Thứ hai, nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, việc chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công
nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến sự biến động của dân số trên địa bàn nông
thôn và thành thị, dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu dân số giữa các khu vực lãnh
thổ và khu vực kinh tế. Ở các vùng nông thôn, nơi có gần 70% dân số cả
nước, trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, cơ sở hạ tầng thiếu thốn,
khan hiếm về việc làm phi nông nghiệp... tác động mạnh mẽ đến tính bền
vững của các vùng định cư và cuộc sống con người. Các khu vực kinh tế hiện
đại ở các vùng đô thị và những nơi có thu nhập cao (kể cả trong nước và nước
ngoài) ngày càng có sức thu hút mạnh dân cư ở vùng nông thôn, miền núi.
Thứ ba, nước ta còn ở trình độ phát triển thấp, lại mới chuyển đổi nền
kinh tế nên sự vận động của các thành tố thị trường cũng chưa hoàn toàn
theo quỹ đạo và phù hợp với quy luật. Nhà nước cần quản lý bằng cả kế
hoạch, sử dụng pháp luật, chính sách và định hướng điều hành. Những quan
điểm trên là cơ sở để xây dựng một số giải pháp nhằm giải quyết tình hình
dân di cư lao động tự do.
Thứ tư, di cư lao động tự do tại vùng biên là một vấn đề mang tính
khách quan và đang là vấn đề toàn cầu, không một quốc gia nào có thể đứng
ngoài hoặc tự mình giải quyết được vấn đề di cư lao động tự do, Việt Nam và
Trung Quốc cũng vậy. Điều cần làm là cần phải có những chính sách đặc thù
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội các huyện vùng biên, hỗ trợ người
dân các tỉnh giáp biên giới tự tạo việc làm, có thu nhập ổn định cuộc sống,
gắn bó với làng bản, đồng thời xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm
pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý bảo vệ người lao động di cư tự do. Xuất
phát từ mục đích và yêu cầu nêu trên, Ban chủ nhiệm đề tài đề xuất một số cơ
chế, chính sách và giải pháp nhằm khắc phục tình trạng trên như sau:
2. Cơ chế hợp tác quốc tế trong công tác quản lý, bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của người lao động di cư vùng biên
- Nghiên cứu đàm phán với Trung Quốc nhằm ký kết văn bản thoả
thuận về hợp tác lao động giữa hai chính phủ tạo hành lang pháp lý cho việc
đưa người Việt Nam sang Trung Quốc làm việc, đồng thời tạo thuận lợi cho
57
ta trong công tác bảo hộ quyền lợi và lợi ích chính đáng của người lao động
Việt Nam làm việc tại Trung Quốc.
- Tạo điều kiện để các tỉnh giáp biên đưa chương trình hợp tác lao
động vào chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội cấp địa phương giữa
hai tỉnh giáp biên, hai bên có thể có văn bản ghi nhớ về việc hợp tác và bảo
vệ quyền lợi lao động di cư tự do qua biên giới hai nước làm việc.
- Trước mắt, trước khi hai bên có Thoả thuận hoặc cơ chế hợp tác lao
động chính thức được ký kết, hai bên cần tiếp tục hợp tác phối hợp trong
công tác quản lý lao động tự do của mỗi bên sang lao động tại bên kia; xây
dựng cơ chế hợp tác xuất, nhập khẩu lao động và đề ra biện pháp hợp tác
quản lý thống nhất để các địa phương triển khai có hiệu quả nhằm giải quyết
tốt vấn đề lao động qua lại làm thuê thời vụ, ngắn hạn tại khu vực biên giới.
Đồng thời hai bên cùng tuân thủ nguyên tắc không xâm phạm người xuất
nhập cảnh trái phép và thực hiện trao trả người xuất nhập cảnh trái phép
bằng con đường ngoại giao để hạn chế tình trạng người xuất nhập cảnh,
người lao động trái phép bị xâm phạm về sức khoẻ, đảm bảo quyền lợi
chính đáng của người lao động.
- Tổ chức theo dõi việc thực hiện Thoả thuận sau khi hai bên đã ký
kết; thiết lập các diễn đàn vùng và diễn đàn quốc tế để quản lý và thúc đẩy
đối thoại giữa các nước.
3. Cơ chế quản lý và trách nhiệm của Chính phủ và các Bộ,
ngành ở trung ương
(1) Phân bố dân cư hợp lý giữa các vùng, từng bước nâng cao chất
lượng dân số, chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư, hạn chế việc
mở rộng chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp dân cư và các nhóm xã hội
khác nhau...". Trên cơ sở đó, cần thực hiện tốt những chính sách sau nhằm
ổn định dân di cư tự do:
- Chính sách đất đai: Tùy điều kiện quỹ đất từng vùng, Chính phủ cần
có hướng dẫn việc phân cấp cho chính quyền địa phương giao đất và cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho phù hợp (đất thổ cư, trồng cây
lương thực, thực phẩm và trồng rừng);
58
- Chính sách đầu tư: Nhà nước cần tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng theo
các dự án ổn định dân di cư, phù hợp với kế hoạch phát triển dân số của địa
phương. Trong thời kỳ 2011-2015, cần triển khai thực hiện có hiệu quả các
Chương trình mục tiêu quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Chính sách vay vốn: Thực hiện tốt chính sách cho vay vốn, hỗ trợ
dân di cư để ổn định đời sống và phát triển sản xuất. Hiện nay, các tỉnh
thuộc khu vực miền núi phía Bắc đã có một số ưu tiên nhất định, được đầu
tư thông qua một số các chương trình, dự án phát triển; người dân nghèo
được vay vốn phát triển kinh tế gia đình. Ngoài việc duy trì và tiếp tục đầu
tư, thực hiện tốt các chính sách cho vay vốn, cần tập trung hỗ trợ để dân di
cư ổn định cuộc sống, cung cấp các kiến thức, kĩ năng phát triển sản xuất,
chăn nuôi, chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng...
(2) Chỉ đạo các bộ, ngành có các giải pháp cụ thể thông qua các
chương trình, dự án để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào
các dân tộc ít người, thu hút các luồng di cư vào kế hoạch.
(3) Cơ chế phối hợp và trách nhiệm quản lý của các bộ, ngành
(i) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với các bộ,
ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, tham mưu trình Chính phủ, Quốc hội
ban hành các chính sách về dạy nghề, tạo việc làm cho người lao động, đặc
biệt là lao động các tỉnh biên giới phía bắc; tiếp tục chỉ việc triển khai các
chương trình dạy nghề, tạo việc làm cho người lao động như:
- Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương triển khai có hiệu quả Quyết
định số 52/2012/QĐ-TTg ngày 16/11/2012 về “Chính sách hỗ trợ giải quyết
việc làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.
- Tiếp tục phối hợp với các bộ ngành liên quan và các địa phương đẩy
mạnh công tác dạy nghề và tạo việc làm cho người lao động theo Quyết
định số 1956/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Đề án
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 và Quyết định số
1201/QĐ-TTg ngày 31/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương
trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề giai đoạn 2012-2015.
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày
29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ 62 huyện nghèo
đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn
59
2009-2020; nghiên cứu để chuẩn bị trình Thủ tướng Chính phủ mở rộng đối
tượng được thụ hưởng chính sách đến những lao động thuộc các xã nghèo,
bãi ngang, biên giới hải đảo, hộ cận nghèo, lao động diện chính sách xã hội
trong cả nước.
- Tiếp tục phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao
tăng cường công tác tuyên tuyền, phổ biến pháp luật, cung cấp thông tin liên
quan đến xuất, nhập cảnh qua biên giới; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm
soát và quản lý hoạt động xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu.
- Tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu xin ý kiến
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cho phép triển khai việc đưa lao động các
tỉnh biên giới sang làm việc tại Trung Quốc theo thoả thuận hợp tác lao
động giữa hai địa phương nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động, tạo thuận lợi cho các cơ quan chức năng trong công tác quản lý,
đảm bảo an ninh trật tự vùng biên giới.
(ii) Bộ Ngoại giao chủ trì phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội và các cơ quan liên quan nghiên cứu đàm phán với Trung Quốc
nhằm ký kết văn bản thoả thuận về hợp tác lao động giữa hai chính phủ tạo
hành lang pháp lý cho việc đưa người Việt Nam sang Trung Quốc làm việc,
đồng thời tạo thuận lợi cho ta trong công tác bảo hộ quyền lợi và lợi ích
chính đáng của người lao động Việt Nam làm việc tại Trung Quốc.
- Tiếp tục chỉ đạo các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại
Trung Quốc tích cực hỗ trợ bảo hộ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công
dân Việt Nam đang làm việc tại Trung Quốc, đồng thời can thiệp, thống nhất
với phía bạn về phương thức trao đổi cung cấp thông tin, trục xuất công dân
ta lao động trái phép tại Trung Quốc theo kênh thức nhằm giảm thiểu tình
trạng công dân ta bị đẩy đuổi về nước qua lối mòn, sông suối không được
đảm bảo an ninh, an toàn cho bản thân người lao động và an ninh biên giới.
(iii) Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công an
và Uỷ ban nhân dân 7 tỉnh biên giới phía bắc nghiên cứu xây dựng “Phương
án kiểm tra và hành động liên hợp ngăn chặn xuất nhập cảnh trái phép trên
khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc” để đàm phán, ký kết với phía
Trung Quốc và sớm đưa vào phối hợp triển khai thực hiện.
60
- Tiếp tục chỉ đạo Bộ Tư lệnh Biên phòng tăng cường công tác tuần
tra, kiểm soát biên giới, đồng thời phối hợp với công an và chính quyền địa
phương tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước để nâng cao nhận thức cho nhân dân, chấp hành
đúng quy định của pháp luật về xuất cảnh; kết hợp các biện pháp kiểm điểm,
giáo dục người dân sang Trung Quốc làm việc trái phép.
(iv) Bộ Công an chủ trì phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao
và các cơ quan liên quan nghiên cứu quy định đơn giản hoá thủ tục, quy
trình cấp giấy tờ đi lại, các giấy tờ liên quan và thủ tục xuất nhập cảnh qua
biên giới mà người lao động cần có để sang Trung Quốc làm việc nhằm tạo
thuận lợi cho người dân;
- Tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, địa phương tăng cường công
tác phối hợp trong đấu tranh ngăn chặn, quản lý an ninh trật tự, quản lý hộ
tịch, hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng trên địa bàn; tăng cường công tác tuyên truyền
giáo dục quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân ở khu vực biên giới chấp hành
tốt chủ trương đường lối của đảng, pháp luật của nhà nước; quy chế biên giới;
quy định về xuất nhập cảnh; cảnh giác phát hiện tố giác tội phạm.
- Tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trực thuộc trên cơ sở hợp tác các Hiệp
định về quản lý biên giới, cửa khẩu đã được ký kết giữa Việt Nam và Trung
Quốc, các thoả thuận phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm qua biên
giới giữa hai bên, tăng cường phối hợp với các lực lượng phòng chống tội
phạm, bảo vệ biên giới của Trung Quốc trong tuần tra, kiểm soát biên giới;
trao đổi thông tin về tội phạm hoạt động hai bên giới, phối hợp điều tra, truy
bắt, dẫn giải, bàn giao tội phạm, trao trả nạn nhân bị buôn bán, công dân hai
bên nhập cảnh cư trú, hành nghề bất hợp pháp trên lãnh thổ bên kia.
4. Cơ chế quản lý và trách nhiệm của chính quyền các địa phương
các cấp
- Cần thực hiện tốt Quyết định số 138/2000/QĐ-TTg về việc hợp nhất
dự án định canh định cư, dự án hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, chương
trình xây dựng Trung tâm cụm xã miền núi, vùng cao vào chương trình phát
triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa.
Các tỉnh miền núi phía Bắc cần thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia
xóa đói giảm nghèo, dạy nghề và việc làm theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP,
Quyết định 71/2009/QĐ-TTg, Quyết định 1201/QĐ-TTg năm 2012, Quyết
61
định 1956/2009/QĐ-TTg... trong đó đặc biệt là xây dựng sơ đồ tổng quan về
đất đai, dân số, lao động và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Về lâu dài phải có hệ thống đồng bộ các biện pháp tạo điều kiện cho
dân cư nâng cao đời sống vật chất, tinh thần để họ an tâm định cư và làm
việc tại quê nhà. Có kế hoạch hỗ trợ vốn vay và làm tốt công tác khuyến
nông, khuyến lâm, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, làm kinh tế vườn, rừng.
- Nắm chắc tình hình các địa bàn có số đông hộ dân cư có ý định di cư
lao động sang biên giới làm việc để có những giải pháp ngăn chặn hữu hiệu,
như tuyên truyền giải thích về chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản
lý đường biên; trợ giúp cần thiết trong sản xuất và đời sống, cho vay vốn từ
quỹ xóa đói giảm nghèo, hướng dẫn kỹ thuật, làm tốt công tác khuyến nông,
khuyến lâm, giúp họ phát triển sản xuất để sớm ổn định cuộc sống, duy trì
cuộc sống ở địa phương hoặc di cư có tổ chức.
- Tăng cường các hoạt động ở cấp địa phương để tổ chức cho người
dân di cư lao động có tổ chức, đăng ký cho những người di cư, theo dõi
giám sát các hợp đồng và cung cấp các dịch vụ cần thiết.
- Tổ chức rà soát và phân tích sâu các số liệu người lao động di cư tự
do sang Trung Quốc làm việc trong thời gian qua nhằm xác định các địa bàn
cụ thể để điều tra chuyên sâu.
- Phân cấp và giao UBND các huyện biên giới và các xã, thị trấn thuộc
các huyện biên giới có trách nhiệm theo dõi, quản lý và bảo vệ quyền lợi
cho người lao động tự do sang Trung Quốc làm việc, đồng thời giao chính
quyền cấp xã, thị trấn nắm tình hình lao động đi làm việc qua biên giới;
tuyên truyền, giải thích về chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý
đường biên, báo cáo UBND huyện trực tiếp xử lý các phát sinh nhỏ đối với
người lao động.
- Nghiên cứu, xem xét thành lập tại huyện bộ phận hỗ trợ, tư vấn lao
động sang Trung Quốc làm việc với sự tham gia của các cơ quan (Lao động,
Biên phòng, Công an và các tổ chức đoàn thể) có nhiệm vụ tuyên truyền,
cung cấp thông tin và hỗ trợ người lao động phòng ngừa, đối phó với những
nguy cơ khi qua biên giới làm việc. Đồng thời tuyên tuyền trang bị cho
người lao động di cư vùng biên những kiến thức, những thông tin có thể tự
bảo vệ mình trong thời gian làm việc ở vùng biên giới.
62
- Tăng cường phối hợp trong việc quản lý, xây dựng tuyến biên giới
hoà bình, hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc để đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cho người lao động, đồng thời quản lý được lao động
trên địa bàn; Đẩy mạnh việc đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ cơ sở cấp xã, thị
trấn giúp việc quản lý dân cư trên địa bàn nói chung và quản lý nguồn lao
động nói riêng có hiệu quả.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
- Các ngành, các cấp cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về công tác xuất nhập cảnh và quản lý biên
giới; các Bộ, ngành và các địa phương phải coi nhiệm vụ phát triển vùng biên
giới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, phải ưu tiên tập trung nguồn lực
cho đầu tư phát triển vùng biên giới phía bắc trong những năm tới;
- Tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP, Nghị quyết số 80/NQ-CP của Chính phủ về định hướng
giảm nghèo bền vững 2011-2020, Chương trình 135, Chương trình 135b,
Quyết định 1956/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, Quyết định
71/2009/QĐ-TTg về Hỗ trợ 62 huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động
góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020, Dự án “Hỗ trợ đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” vào Chương trình
mục tiêu quốc gia Việc làm và Dạy nghề giai đoạn 2011-2015, Quyết định
số 52/2012/QĐ-TTg ngày 16/11/2012 về “Chính sách hỗ trợ giải quyết việc
làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp”; các
chính sách hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất, chính sách hỗ trợ định canh
định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số du canh du cư, đặc biệt quan tâm vấn
đề nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực;
- Thực hiện chính sách hỗ trợ dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu
số nội trú, chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn; chính sách trợ
cấp xã hội đối với người dân tộc ít người ở vùng cao, vùng sâu và vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo học tại các trường công lập
hệ chính quy, dài hạn và tập trung, trong đó tập trung và ưu tiên nguồn lực
đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề cho các trường dạy nghề dân tộc,
miền núi; trường Cao đẳng nghề và Trung tâm dạy nghề công lập ở các
63
huyện miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi sinh sống;
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu sửa đổi Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg
ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ 62 huyện
nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2009-2020 theo hướng mở rộng đối tượng được thụ hưởng chính sách
đến những lao động thuộc các xã nghèo, bãi ngang, hải đảo, biên giới, hộ
cận nghèo, lao động diện chính sách xã hội trong cả nước để toàn bộ người
dân thuộc các huyện và các xã biên giới được thụ hưởng chính sách này;
- Tiếp tục huy động các nguồn lực đầu tư để thực hiện có hiệu quả
các chính sách dân tộc và miền núi, chính sách đối với người dân tại vùng
biên giới;
- Tập trung giải quyết công tác xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền
vững;
- Khẩn trương hoàn thành các đề án, chính sách đầu tư, hỗ trợ ổn định
dân cư đối với đồng bào dân tộc thiểu số di cư tự do; rà soát, điều chỉnh, đề
xuất các chính sách, chương trình, dự án đặc thù, phù hợp với điều kiện từng
vùng, miền, từng dân tộc hoặc nhóm dân tộc; đề án về tăng cường năng lực
thực hiện chính sách dân tộc cho cán bộ cơ sở; đồng thời nghiên cứu, đổi
mới cơ chế, biện pháp tổ chức thực hiện để nâng cao hiệu quả của chính
sách dân tộc;
- Thường xuyên thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, đánh giá tình
hình, kết quả thực hiện chương trình, dự án, chính sách cho đồng bào dân
tộc thiểu số ở tất cả các cấp, đặc biệt cấp cơ sở; có cơ chế khuyến khích
người dân tham gia các chương trình, dự án ở vùng dân tộc và miền núi;
- Thực hiện các biện pháp quản lý, hỗ trợ và tư vấn, bảo vệ quyền lợi
cho người lao động;
- Nghiên cứu khả năng đàm phán với Trung Quốc nhằm ký kết văn
bản thoả thuận về lao động giữa hai chính phủ tạo hành lang pháp lý cho
việc đưa người Việt Nam sang Trung Quốc làm việc, đồng thời tạo thuận lợi
cho ta trong công tác bảo hộ quyền lợi chính đáng của người lao động Việt
Nam làm việc tại Trung Quốc.
64
KẾT LUẬN
Di cư lao động tự do ở vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, trong
những năm qua xuất phát từ nhiều yếu tố. Quản lý lao động di cư tự do vì
mục tiêu phát triển và bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người lao
động di cư là nhu cầu tất yếu của mọi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Đây cũng chính là những yêu cầu đối với việc đổi mới chính sách, pháp
luật của mỗi quốc gia và thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia ở nhiều cấp
độ để có thể quản lý một cách hiệu quả quá trình di cư quốc tế nhằm mang
lại lợi ích cho tất cả những bên liên quan. Thông qua các biện pháp phát
triển kinh tế xã hội, việc làm để giảm nhu cầu dịch chuyển tự do của người lao
động cũng như các biện pháp quản lý và bảo vệ quyền lợi cho người lao động
dịch chuyển qua vùng biên, cũng như đảm bảo an ninh trật tự khu vực vùng
biên giới.
Trong những năm qua, chính sách pháp luật của Việt Nam về di cư
đang từng bước được hoàn thiện. Việc ban hành một số bộ Luật về đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài, Luật về phòng chống mua bán
người, nuôi con nuôi là cần thiết nhưng chưa đủ. Để có thể quản lý tốt vấn
đề di cư lao động nói chung và di cư lao động tự do vùng biên giới nói riêng
vì mục tiêu phát triển trong tình hình mới, thúc đẩy di cư hợp pháp, đảm
bảo di cư an toàn, phòng chống di cư trái phép, nạn buôn bán người và tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia liên quan, cần có kế hoạch triển khai, thực
hiện tốt các giải pháp cũng như cơ chế về quản lý người lao động được trình
bày ở trên.
Để thực hiện hiệu quả những công việc nêu trên, cần có chiến lược
quốc gia và hệ thống chính sách pháp luật toàn diện, nhất quán và minh
bạch về di cư lao động nói chung và di cư lao động vùng biên giới nói riêng
quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ chức năng hữu
quan cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của người di cư. Trong đó cần đặc biệt
chú trọng công tác đào tạo, giáo dục định hướng, chuẩn bị tốt kiến thức, kỹ
năng cho người di cư trước khi xuất cảnh nhằm nâng cao chất lượng của di
cư, tạo thuận lợi cho người di cư hòa nhập nhanh vào xã hội nước tiếp nhận,
nâng cao vị thế pháp lý của họ; xây dựng khung pháp lý và cơ chế hợp tác
song phương và đa phương để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người
di cư ra nước ngoài và sau khi hồi hương và đẩy mạnh công tác phòng
65
chống di cư trái phép, nạn buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ
em, nghiêm trị thích đáng tội phạm liên quan.
Trong khuôn khổ Đề tài “Nghiên cứu, xây dựng cơ chế quản lý, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động di cư vùng biên”, nhóm
nghiên cứu đã nêu rõ tổng quan về tình hình di cư lao động vùng biên; thực
trạng di cư lao động tại biên giới phía Bắc Việt Nam, các yếu tố ảnh hưởng
đến người lao động di cư tự do, những kinh nghiệm của một số nước trong
việc quản lý và bảo vệ quyền lợi của người lao động di cư tự do... tác động
tích cực và hạn chế của di cư lao động tự do vùng biên đối với phát triển
kinh tế xã hội, đối với hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam trong lĩnh
vực này. Trên cơ sở đó, Báo cáo đưa ra một số kiến nghị cụ thể về hoàn
thiện hệ thống chính sách pháp luật quốc gia về quản lý lao động di cư tự
do; các giải pháp đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng cơ sở hạ tầng; hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm và đẩy mạnh xuất khẩu
lao động tại các tỉnh biên giới, tổ chức nghiên cứu giải pháp quản lý, bảo vệ
quyền lợi của người lao động các tỉnh biên giới di cư lao động tự do sang
Trung Quốc làm việc, đồng thời khuyến nghị thúc đẩy việc đàm phán và việc
ký kết các Thỏa thuận cấp Chính phủ về hợp tác lao động giữa Việt Nam và
Trung Quốc để bảo vệ người lao động di cư vùng biên giới phía Bắc.
Tuy nhiên, việc quản lý bảo vệ quyền lợi của người lao động đi lao
động tự do sang Trung Quốc làm việc là một vấn đề lớn, liên quan đến
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực cần được đầu tư nghiên cứu toàn diện, lâu dài.
Trong điều kiện nghiên cứu hiện nay, Ban chủ nhiệm Đề tài chưa thể đi sâu
khai thác mọi khía cạnh của vấn đề mà chỉ dừng lại ở những nội dung lớn
mang tính gợi mở, có ý nghĩa phương pháp luận bước đầu để làm cơ sở cho
hướng nghiên cứu tiếp theo.
66
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CÁC MỨC ĐÓNG,
HƯỞNG VÀ CƠ CHẾ VẬN HÀNH QUỸ BỒI THƯỜNG
TẠI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP
PHÙ HỢP VỚI VIỆT NAM
MÃ SỐ: CB2012-01-03
Cơ quan chủ trì đề tài: Cục An toàn lao động
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Hà Tất Thắng
Thư ký: ThS. Bùi Đức Nhưỡng
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH MỨC ĐÓNG, MỨC HƯỞNG CỦA QUỸ BỒI THƯỜNG TAI NẠN LAO ĐỘNG
VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG TÀI LIỆU
Tai nạn lao động (occupational accidents): Tai nạn lao động là tai
nạn xảy ra do tác động bởi các yếu tố nguy hiểm, độc hại trong lao
động gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể
người lao động hoặc gây tử vong trong quá trình lao động gắn liền
với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.
Bệnh nghề nghiệp (Occupational diseases): là bệnh phát sinh do
điều kiện lao động có hại tác động tới người lao động.
Tổn thương nghề nghiệp (Employment Injury): là tai nạn lao
động (occupational accidents) và bệnh nghề nghiệp (Occupational
diseases).
Bồi thường (compensation) cho tổn thương nghề nghiệp: là các
chi phí chi trả trực tiếp hay gián tiếp cho người lao động bị tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp.
Hệ thống bồi thường tổn thương nghề nghiệp (employment
injury insurance/compensation scheme) là hệ thống tổ chức được
67
lập ra để đảm bảo thực hiện việc bồi thường trên. Do hạt nhân của
hệ thống này là Quỹ bồi thường tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, nên hệ thống này còn được hiểu là hệ thống tổ chức hoạt
động của Quỹ bồi thường tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Mức đóng (Contribution rate) là tỷ lệ đóng của doanh nghiệp, cơ sở
vào quỹ bồi thường tai nạn lao động, được tính theo % tổng
quỹ lương.
Mức hưởng (Benefits) là tổng hợp các chế độ bồi thường cho
người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hỗ trợ áp dụng giải
pháp phòng ngừa TNLĐ, BNN.
II. CĂN CỨ HÌNH THÀNH QUỸ BỒI THƯỜNG TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP
1. Nhu cầu khách quan phải thực hiện chế độ bồi thường tai nạn
lao động - bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
Trong quá trình lao động có thể xẩy ra những rủi ro bất thường ngoài
ý muốn của con người. Trong các rủi ro bất thường đó, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp là loại rủi ro đặc trưng vì nó thường gây ra thiệt hại lớn về
tài sản, làm suy giảm sức khỏe và khả năng lao động của một hoặc nhiều
người. Khi chưa có hệ thống Bồi thường tổn thương nghề nghiệp, người sử
dụng lao động thường thực hiện trách nhiệm đền bù của mình bằng cách dựa
vào các hình thức bảo hiểm thương mại hoặc tự chịu rủi ro.
2. Yêu cầu phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
trước những tổn thất lớn về mặt kinh tế, xã hội trong quá trình
công nghiệp hoá
Các số liệu thống kê tại Cộng đồng Châu Âu cho thấy, trong số 115
triệu người lao động của Cộng đồng Châu Âu đã có hơn 10 triệu người bị tai
nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp hàng năm. Tại Mỹ, mỗi ngày có
khoảng 9.000 người bị thương tật do tai nạn lao động và 153 người chết do
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thiệt hại kinh tế hàng năm do tai nạn lao
động xảy ra trong công nghiệp là 190 tỉ đô la Mỹ.
68
3. Nhu cầu chia sẻ rủi ro
Các hoạt động lao động, sản xuất tạo ra của cải, vật chất cho xã hội,
mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Vì vậy, cần một sự chia sẻ rủi ro bao
gồm cả người sử dụng lao động và người lao động.
4. Nhu cầu quản lý trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Các chính phủ đều có quan điểm cần bảo vệ, tránh để người lao động
bị tổn thương trong quá trình lao động, đồng thời cần bảo vệ, giảm bớt
những rủi ro cho người sử dụng lao động trong công việc kinh doanh của
họ, giúp phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
III. CÁC CHỈ TIÊU XÁC ĐỊNH CÁC MỨC HƯỞNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
Các mức hưởng BHXH nói chung và tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp nói riêng phụ thuộc vào 5 yếu tố sau:
+ Tình trạng sức khoẻ, thương tật thông qua giám định y khoa.
+ Ngành nghề công tác của người lao động.
+ Thời gian công tác và tiền lương của người lao động.
+ Mức đóng góp BHXH và thời gian đóng góp.
+ Tuổi thọ bình quân của mỗi quốc gia.
+ Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước qua từng thời kỳ.
1. Loại tai nạn, bệnh tật được hưởng bồi thường
a) Phân nhóm tai nạn, bệnh nghề nghiệp được hưởng bồi thường
Tai nạn lao động có các thuộc tính cơ bản sau:
- Thứ nhất, đó là tai nạn xảy ra bất ngờ;
- Thứ hai, tai nạn lao động phải gắn với quá trình làm việc của người
lao động, trong một khoảng thời gian và không gian cụ thể (nghĩa là được
quy định chính xác ở đâu và khi nào);
- Thứ ba, tai nạn này phải để lại hậu quả hoặc là chết người hoặc làm
tổn thương, hoặc hủy hoại chức năng hoạt động bình thường của một bộ
phận nào đó của cơ thể người lao động;
69
- Thứ tư, người bị nạn sau khi ổn định thương tật thì đa số có chiều
hướng phục hồi tốt dần lên nhất là những người lao động trẻ tuổi;
- Thứ năm, cách phục hồi chức năng cho người bị tai nạn lao động
tương tự như các tai nạn gây tổn thương khác trong cộng đồng.
Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của
nghề nghiệp tác động đối với người lao động, với những tính chất cơ bản sau:
- Thứ nhất, chỉ xảy ra ở những nơi xác định có môi trường gây bệnh
nghề nghiệp;
- Thứ hai, đối với các trường hợp bị mắc các bệnh nghề nghiệp thì
thời gian nhiễm bệnh thường tương đối lâu và dần dần;
- Thứ ba, độ tuổi bình quân bị nhiễm bệnh cao hơn nên thời gian
hưởng chế độ không dài như đối với các trường hợp bị tai nạn lao động;
- Thứ tư, việc điều trị bệnh nghề nghiệp khác bệnh thông thường khác
trong cộng đồng dân cư;
b) Phân nhóm nguyên nhân gây ra tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp để xác định mức bồi thường
Có nhiều nguyên nhân gây tai nạn, song có một số nhóm chủ yếu sau đây:
- Nguyên nhân xuất phát từ người sử dụng lao động;
- Nguyên nhân từ người lao động bị nạn;
- Không xác định được người gây tai nạn;
- Nguyên nhân hỗn hợp: bao gồm cả người sử dụng lao động, người
lao động; hoặc nhiều người lao động khác nhau.
2. Các hạng mục chi phí bồi thường cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
a) Dịch vụ y tế/Chi phí y tế;
b) Tiền lương trong thời gian điều trị;
c) Giám định khả năng lao động;
d) Bồi thường thương tật;
70
đ) Trợ cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình;
e) Trợ cấp phục vụ;
g) Dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau khi điều trị thương tật, bệnh tật;
h) Phục hồi chức năng lao động;
i) Mai táng phí: áp dụng khi người lao động bị chết do tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp;
k) Tiền hỗ trợ thân nhân người bị nạn.
3. Các chi phí liên quan đến đầu tư phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe người lao động
a) Phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Hỗ trợ chi phí đào tạo, tập huấn phòng ngừa tai nạn lao động trong
các ngành, nghề có nguy cơ cao;
- Hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng khoa học, kỹ thuật nhằm ngăn chặn tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;
- Đầu tư trang thiết bị, xây dựng mới hoặc nâng cấp cơ sở chẩn đoán,
giám định bệnh nghề nghiệp; cơ sở tư vấn đánh giá rủi ro phòng ngừa tai
nạn, sự cố trong lao động;
- Hỗ trợ cho vay ưu đãi cho các doanh nghiệp áp dụng các giải pháp
phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, cải thiện môi trường lao động.
b) Đầu tư chăm sóc sức khỏe người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Đó là các khoản đầu tư trang thiết bị, xây dựng mới hoặc nâng cấp cơ
sở nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ phục hồi chức năng lao động.
IV. CÁC CHỈ TIÊU XÁC ĐỊNH MỨC ĐÓNG VÀO QUỸ
1. Những căn cứ và yêu cầu cơ bản trong xác định mối tương quan mức đóng - hưởng
a) Phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội
Mức đóng tối thiểu phải đáp ứng mức hưởng và chi phí quản lý vận
hành quỹ.
71
Đ ≥ CH + CVH
Đ: Tổng mức đóng của các doanh nghiệp, đơn vị ngành I, Đ = ∑ Đi;
CH: Tổng mức hưởng của người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
CH = ∑ Ci
CVH: Các chi phí vận hành, quản lý Quỹ.
b) Có thể xem xét đến cơ sở sinh học
Chính sách chế độ TNLĐ được xây dựng và tổ chức thực hiện cũng
phải căn cứ vào cơ sở sinh học, vì giới tính của người lao động cũng ảnh
hưởng rất lớn đến tỷ lệ gặp rủi ro TNLĐ.
c) Điều kiện lịch sử
Bất kỳ chế độ bồi thường và trợ cấp tai nạn lao động của một quốc
gia nào cũng có đặc trưng rõ nét qua từng thời kỳ phát triển lịch sử của quốc
gia đó.
2. Chỉ tiêu xác định mức đóng
a) Đáp ứng nhu cầu dự phòng chi trả ở mức cơ bản.
Đ ≥ ĐTT
b) Đảm bảo chia sẻ rủi ro, góp phần ổn định sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cơ sở.
Đ ≤ ĐTĐ
c) Thay đổi theo mức độ rủi ro của ngành nghề.
Những ngành nghề có môi trường làm việc và điều kiện lao động
thường hay xảy ra tai nạn lao động và dễ có nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp
thì cần có mức đóng cao hơn.
d) Thay đổi theo tình hình thực tế tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp của từng doanh nghiệp.
Tình hình thực tế tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp là cơ sở xác
định mức tăng hay giảm hàng năm của từng doanh nghiệp cụ thể trong ngành.
Mức đóng của doanh nghiệp ngành i sẽ là:
ĐTT(N) ≤ Đ(i) = ĐKĐ(N) + ĐT(i) - ĐG(i) ≤ ĐTĐ(N)
72
ĐTT(N): Mức đóng tối thiểu ngành;
Đ(i): Mức đóng doanh nghiệp i trong ngành;
ĐKĐ(N): Mức đóng khởi điểm của ngành;
ĐT(i): Mức đóng tăng do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của
riêng doanh nghiệp i (ví dụ năm đó tần suất tai nạn cứ vượt qua ngưỡng
trung bình 1 phần nghìn thì đóng tăng thêm 0,2% liên tiếp 3 năm);
ĐG(i): Mức giảm do giảm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của
riêng doanh nghiệp i (ví dụ liên tiếp 03 năm tần suất tai nạn lao động giảm
trung bình là 5% thì đóng giảm thêm 0,2%);
ĐTĐ(N): Mức đóng tối đa của ngành.
V. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VẬN HÀNH QUỸ BỒI THƯỜNG
TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP
1. Nhóm nhân tố chủ quan
a) Mô hình cơ cấu tổ chức của quỹ
Tùy theo mô hình của quỹ mà kết cấu các bộ phận có thể gồm:
- Bộ phận quản lý quỹ;
- Bộ phận điều tra, xác minh lại tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- Bộ phận thực hiện các công việc cung cấp dịch vụ y tế liên quan tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Bộ phận phụ trách đầu tư.
b) Bộ máy nhân sự
- Năng lực của đội ngũ nhân viên trực tiếp làm nhiệm vụ trong từng
bộ phận;
- Năng lực quản lý điều hành quỹ;
c) Trình độ phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng của
tiến bộ khoa học kỹ thuật
2. Nhóm nhân tố khách quan
a) Môi trường pháp lý
73
b) Môi trường kinh tế
c) Yếu tố xã hội: Thể hiện qua trình độ nhận thức, sự hiểu biết của
đối tượng tham gia quỹ
CHƯƠNG II
CƠ SỞ THỰC TIỄN XÂY DỰNG MỨC ĐÓNG, HƯỞNG CỦA QUỸ BỒI THƯỜNG TAI NẠN LAO ĐỘNG
I. THỰC TRẠNG MỨC ĐÓNG, HƯỞNG VÀ TỔ CHỨC BỒI THƯỜNG,
TRỢ CẤP TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Bảng 1. Bồi thường, trợ cấp TNLĐ, BNN tại Việt Nam
STT Quy định
Bộ Luật Lao động
Chương ATVSLĐ
Chương BHXH & Luật Bảo hiểm xã hội
I Đối tượng đóng Người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động
II Nguồn chi trả Người sử dụng lao động
Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (Quỹ BHXH) chi trả
III Các khoản người lao động được hưởng Bồi thường Trợ cấp
1 Chi phí y tế trong thời gian điều trị X
2 Chi phí tiền lương trong thời gian điều trị
X
3 Chi phí giám định khả năng lao động X X
4 Bồi thường, trợ cấp bằng tiền cho nạn nhân hoặc thân nhân
X X
5 Trợ cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt; dụng cụ chỉnh hình
X
6 Trợ cấp phục vụ X
7 Dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau khi điều trị thương tật, bệnh tật
X
8 Phục hồi chức năng lao động X
9 Trợ cấp một lần khi chết do TNLĐ, BNN (tiền tuất) và mai táng phí
Quỹ hưu trí và tử tuất
74
1. Mức đóng, hưởng và tổ chức trợ cấp tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp từ Quỹ bảo hiểm xã hội
1.1. Quy định hiện hành về mức đóng, hưởng từ bảo hiểm xã hội
- Mức đóng: Căn cứ theo Khoản b Điều 92 Luật Bảo hiểm xã hội thì
mức đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội cho tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
là do người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công đóng
BHXH của người lao động.
- Mức hưởng (hay các chế độ hưởng) bao gồm:
a) Đối tượng áp dụng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
b) Người lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các
điều kiện quy định tại điều 39 Luật BHXH;
c) Người lao động được giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng
lao động sẽ được trợ cấp một khoản tiền theo tỷ lệ suy giảm khả năng lao
động với 02 loại (Trợ cấp một lần và trợ cấp hàng tháng);
d) Trường hợp thương tật hoặc bệnh tật tái phát, người lao động được
đi giám định lại mức suy giảm khả năng lao động thì thời điểm hưởng trợ cấp
mới được tính từ tháng có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa;
e) Cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình;
f) Trợ cấp phục vụ;
g) Trợ cấp một lần khi chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
h) Dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau khi điều trị thương tật, bệnh tật;
i) Tuất (được phân thành 02 loại hưởng trợ cấp: trợ cấp tuất hằng
tháng, trợ cấp tuất một lần.
1.2. Thực trạng tổ chức trợ cấp từ cơ quan bảo hiểm xã hội
Bảng 2. Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ quỹ bảo hiểm xã hội
TT 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
1 Số người tham gia BHXH (triệu người)
6,75 8,18 8,53 8,81 9,44 10,08 10,43
2 Số người bị TNLĐ và bệnh nghề nghiệp phát sinh trong năm
5.852 5.886 6.368 6.462 7.253 6.467 5.871
a Số người bị tai nạn lao động
5.161 5.144 5.465 5.542 6.288 5.699 5.298
75
TT 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
b Số người bị bệnh nghề nghiệp phát sinh trong năm
691 742 903 920 965 768 573
3 Số nhận chi trả trợ cấp hàng tháng (cộng dồn)
33.168 35.218 37.337 39.520 41.305
4 Thu (tỷ đồng) 1.191 1.466 1850 2.255
5 Chi (tỷ đồng) cho người bị tai nạn lao động về bệnh nghề nghiệp
131 179 219 246
6 Tỷ lệ chi - thu (%) 11 12.2 11.84 10.9
2. Tổ chức bồi thường tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp từ người sử dụng lao động
2.1. Quy định của pháp luật
a) Bồi thường, trợ cấp từ người sử dụng lao động
(1) Tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp theo quy định làm suy
giảm khả năng lao động từ 5% trở lên hoặc bị chết thì được bồi thường.
(2) BNN là bệnh phát sinh do các yếu tố điều kiện lao động có hại của
nghề nghiệp tác động tới người lao động theo danh mục BNN do Bộ Y tế
ban hành.
(3) Mức bồi thường:
- Mức bồi thường tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp theo quy định
tại khoản b nêu trên được tính như sau:
+ Ít nhất bằng 30 tháng tiền lương và phụ cầp lương (nếu có) đối với
người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc bị
chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
+ Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) đối với
người bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10% sau đó nếu bị
suy giảm khả năng lao động từ trên 10% đến dưới 81% thì cứ tăng
thêm 1% cộng thêm 0,4 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có).
b) Chế độ trợ cấp
(1) Người lao động bị TNLĐ trong một số trường hợp thì được trợ cấp:
(2) Mức trợ cấp:
76
Mức trợ cấp tai nạn lao động được tính như sau:
+ Ít nhất bằng 12 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) đối với
người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc
chết do tai nạn lao động;
+ Ít nhất bằng 0,6 tháng tiền lương và phụ cấp tiền lương (nếu có) đối
với người bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%, nếu bị suy
giảm khả năng lao động từ trên 10% đến dưới 81% thì bẳng 40% mức
bồi thường tương ứng ở cùng tỷ lệ suy giảm khả năng lao động (hoặc
tra theo bảng tính tại Thông tư).
c) Hồ sơ và thủ tục
NSDLĐ có trách nhiệm lập hồ sơ đối với người bị TNLĐ, BNN.
2.2. Kết quả tổ chức bồi thường, trợ cấp về tai nạn lao động
Bảng 3. Tai nạn lao động theo thống kê từ báo cáo doanh nghiệp
TT Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Bình quân
1. Số vụ TNLĐ 5951 5836 6250 5125 5896 6777 5972
2. Số vụ TNLĐ chết người 505 508 507 554 504 552 521
3. Số người bị TNLĐ 6337 6047 6421 5307 6154 6967 6205
4. Số người chết vì TNLĐ 621 573 550 601 574 606 587
5
Tổn thất do tai nạn lao động (từ bồi thường và trợ cấp) tỷ đồng
48,04 194 39,4 133,6 298 82,6 132.6
Bình quân 1 người bị nạn (triệu đồng) 7,58 32,08 6,13 25,17 48,42 11.85 21.87
6 Thiệt hại tài sản (tỷ đồng) 10,9 3,50 2,7 3,900 5,85 11 6,3
Bình quân 1 người (triệu đồng) 1,73 0,58 0,42 0,73 0,95 1.57 0.99
7 Tổng thiệt hại (triệu đồng) 59 197,5 42,1 137,5 303,8 93,6 138,9
Bình quân 1 người (triệu đồng) 9,31 32,66 6,55 25,91 49,37 13,43 22,87
Bảng 4. Chi phí thực tế cho tai nạn lao động từ số liệu điều tra
(Số liệu điều tra 6 năm 2006-2011 của Bộ LĐTBXH)
ĐVT: 1.000 đồng
TT Chỉ tiêu 2006-2008 2009-2011 Bình quân
a b d đ e
I Chi phí bình quân (ngàn đồng) 37.218 41.349 39.284
1 Chi phí y tế 5.739 10.990 8.365
2 Tiền lương 1.843 3.173 2.508
77
TT Chỉ tiêu 2006-2008 2009-2011 Bình quân
3 Số tiền bồi thường, trợ cấp 6.186 15.230 10.708
4 Chi phí khác (tổng số) 23.450 11.956 17.703
a Chi phí như bảo hiểm xã hội (Khi doanh nghiệp không đóng BHXH cho nạn nhân)
204 331 268
b Tiền ma chay, giỗ tết 425 2.763 1.594
c Chi phí cho điều tra, xử lý tai nạn lao động
263 417 340
d Thiệt hại về tài sản do tai nạn lao động
595 182 389
đ Thiệt hại do ngừng sản xuất 173 3.925 2.049
e Các khoản chi khác cho tai nạn (chi phí cho người phục vụ nạn nhân, xe đưa đón…)
683 1.516 1.100
II Tổng chi phí đối với nhóm điều tra (tỷ đồng)
31,6 42,9 37,2
III Tổng chi phí cho TNLĐ do thương tật trên 5% (quy đổi cho cả nước) tỷ đồng
622 691 656
2.3. Bồi thường bệnh nghề nghiệp
Bảng 5. Tình hình Bệnh nghề nghiệp qua các giai đoạn 1976-2011
TT Thời gian Tổng số khám TS phát hiện bệnh TS giám định
1 1976-1980 2060 2060 2060
2 1981-1985 1657 1657 1657
3 1986-1990 1188 1188 1188
4 1991-1995 2152 2152 2152
5 1996-2000 58474 6996 4914
6 2001-2005 236187 28782 7606
7 2006 - 2010 346132 15036 4808
8 2011 60.598 3.557 813
78
II. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CÁC MÔ HÌNH BỒI THƯỜNG, TRỢ CẤP
TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
1. Các công ước quốc tế liên quan đến bồi thường, trợ cấp
cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Công ước số 121 về Trợ cấp TNLĐ năm 1964; Công ước số 130 về
Chăm sóc y tế và chế độ trợ cấp ốm đau, năm 1969; Công ước số 102 về
Quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, năm 1952 và Công ước số 159 về Tái
thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật, năm 1983.
2. Một số mô hình Quỹ Bồi thường tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp trên thế giới
a) Mô hình của Trung Quốc
Cơ cấu tổ chức hành chính gồm 3 cơ quan độc lập về tổ chức nhưng
liên thống trong các hoạt động:
+ Cơ quan điều hành
+ Cơ quan giám định khả năng lao động
+ Cơ quan bảo hiểm tổn thương nghề nghiệp
Tất cả được đặt dưới sự điều hành thống nhất của Cục Bồi thường tổn
thương nghề nghiệp thuộc Bộ Lao động và An sinh xã hội Trung Quốc.
Tài chính:
Nguồn thu của Quỹ từ đóng của các doanh nghiệp thành viên, dựa trên
tổng quỹ lương. Người lao động không phải đóng vào Quỹ này.
Tỷ lệ đóng góp khác nhau tùy theo mức độ rủi ro của doanh nghiệp,
dao động từ 0,5% đến 2% tổng quỹ lương.
b) Mô hình của Cộng hòa Liên bang Đức
- Mô hình tổ chức của Quỹ Bồi thường TNLĐ, BNN: Quỹ Bảo hiểm
TNLĐ, BNN được tổ chức theo hiệp hội ngành nghề (ngành và liên ngành).
- Nguồn kinh phí hình thành Quỹ: Quỹ được xây dựng bằng tiền
đóng góp của người sử dụng lao động.
79
- Cơ quan quản lý Quỹ: Tổ chức bảo hiểm tai nạn của hiệp hội
ngành nghề
- Đối tượng điều chỉnh: Tất cả những người lao động làm việc trong
các cơ sở sản xuất, kinh doanh.
c) Mô hình của Thái Lan và Philippin
- Mô hình tổ chức của Quỹ: Quỹ bồi thường TNLĐ, BNN Quốc gia
nằm trong hệ thống bảo hiểm xã hội và được quản lý bởi Nhà nước thông
qua Uỷ ban bồi thường TNLĐ, BNN.
- Nguồn hình thành quỹ: Do người sử dụng lao động đóng góp tương
đương 0,2 - 2% quỹ tiền lương hàng tháng của người lao động (từ 0,2 đến 2%).
- Đối tượng điều chỉnh: Tất cả những người lao động được thuê
mướn làm việc thường xuyên, làm việc tạm thời, làm việc thay thế, làm việc
theo mùa vụ hay theo từng công việc cụ thể có hợp đồng hoặc không có hợp
đồng trong các cơ sở sản xuất có sử dụng từ 10 người lao động trở lên.
- Cơ quan quản lý Quỹ là Uỷ ban bồi thường: Chủ tịch Uỷ ban là Bộ
trưởng Bộ Lao động; Các thành viên của Uỷ ban là Tổng giám đốc Bảo
hiểm xã hội, Chủ tịch Uỷ ban chăm sóc y tế, đại diện của người lao động và
người sử dụng lao động.
d) Mô hình của Singapore
- Mô hình tổ chức của Quỹ: Người sử dụng lao động thực hiện việc
bồi thường TNLĐ thông qua việc mua bảo hiểm TNLĐ cho người lao động
tại các công ty bảo hiểm theo tỷ lệ % lương của người lao động. Công ty Bảo
hiểm sẽ bồi thường cho người bị TNLĐ, BNN thay cho người sử dụng lao
động. Các công ty bảo hiểm này được sự bảo trợ của Nhà nước trong việc giải
quyết bồi thường TNLĐ. Việc thực hiện bồi thường TNLĐ được điều chỉnh
bởi Luật Bồi thường TNLĐ và Uỷ ban bồi thường TNLĐ. Luật bắt buộc mọi
người sử dụng lao động phải mua bảo hiểm TNLĐ cho người lao động.
đ) Mô hình của Hàn Quốc
- Mô hình tổ chức của Quỹ Bồi thường TNLĐ, BNN: Bảo hiểm
TNLĐ, BNN bắt buộc tất cả các công việc và nơi làm việc có sử dụng người
lao động; quỹ có sự bảo trợ của Nhà nước; hoạt động trên nguyên tắc tự
quản về tài chính, tổ chức và hoạt động phi lợi nhuận.
80
- Nguồn kinh phí hình thành Quỹ: Quỹ được xây dựng bằng tiền
đóng góp của người sử dụng lao động, dao động theo tỷ lệ từ 0,6% (tín
dụng, kỹ thuật dịch vụ đến 34% (khai thác than) tổng thu nhập doanh
nghiệp, bình quân là 1,7%.
- Cơ quan quản lý Quỹ: Ủy ban quản lý, Bộ trưởng Bộ Lao động làm
chủ tịch.
- Đối tượng điều chỉnh: Tất cả những người lao động làm việc trong các
cơ sở sản xuất, kinh doanh tư nhân và nhà nước, kể cả lao động bất hợp pháp;
ngoại trừ một số trường hợp sau đây: người lao động động tự chủ, tự tạo việc
làm, lao động giúp việc gia đình; người lao động trong các cơ sở thuộc ngành
nông nghiệp, thuỷ sản, khai thác gỗ sử dụng dưới 5 người lao động.
e) Mô hình của Malaysia, Indonesia
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những mặt đạt được
- Người sử dụng lao động quan tâm hơn đến việc tăng cường các biện
pháp phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- Với các đơn vị có khả năng về tài chính có thể giải quyết kịp thời
chế độ cho người bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp ;
- Hầu hết những khoản chi trả lớn và dài hạn do cơ quan bảo hiểm xã
hội đảm bảo đã góp phần chia sẻ rủi ro và trách nhiệm xã hội.
2. Những mặt tồn tại
- Quỹ BHXH cũng do NSDLĐ đóng thì còn tồn dư rất nhiều, nên tính
chất chia sẻ rủi ro là chưa cao;
- Dù đều do người sử dụng lao động đóng, nhưng có 2 nguồn chi trả,
cần 02 bộ hồ sơ để giải quyết theo thủ tục bồi thường, trợ cấp khác nhau,
nên ít nhiều làm tăng thủ tục hành chính;
- Khi có tai nạn, người sử dụng lao động phải tập trung nhiều thời gian
vào việc xác định, giải quyết cùng với các đoàn thanh tra an toàn, vệ sinh
lao động nên giảm thời gian cho tập trung vào nhiệm vụ chính của đơn vị;
81
- Mức đóng BHXH là như nhau (1% tổng quỹ tiền lương, tiền công)
trong khi nguy cơ xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là khác nhau
nên ít nhiều có sự chưa cân đối giữa đóng và hưởng ở các nhóm ngành,
nghề kinh tế;
- Chế độ phục hồi chức năng lao động được rất ít người sử dụng quan
tâm thực hiện đầy đủ; chi phí y tế từ bảo hiểm y tế chưa chia sẻ chi phí y tế
cho những người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chưa quy định việc
đào tạo lại người bị tai nạn lao động phù hợp với sức khỏe;
- Dù quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (trong quỹ
BHXH) tồn dư khá nhiều, tỷ lệ chi/thu khoảng 11%, nhưng do chưa có cơ
chế tái đầu tư để phòng ngừa tai nạn lao động nên chưa hỗ trợ hiệu quả
trong việc phòng ngừa tai nạn lao động ngay tại nguồn;
- Người sử dụng lao động chỉ báo cáo các vụ tai nạn gây suy giảm khả
năng lao động từ 5%, do được trợ cấp từ BHXH, những vụ tai nạn lao động
nhẹ khác thì không báo cáo; bên cạnh đó, đối với vụ tai nạn chết người, việc
trợ cấp từ BHXH quá ít so với khoản chi phí do NSDLĐ bỏ ra, thủ tục điều
tra, khai báo cũng rườm ra, do đó nhiều vụ TNLĐ chết người bị che dấu.
3. Nguyên nhân và bài học
a) Nguyên nhân
- Quy định của luật pháp: Pháp luật hiện hành quy định chế độ bồi
thường và trợ cấp từ 02 đối tượng khác nhau, mặc dù nguồn hình thành đều
do người sử dụng lao động đóng; không quy định việc chi trả chi phí bẻo
hiểm y tế cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong bảo hiểm y tế
(Điều 23 - không chi trả bảo hiểm y tế đối với khám chữa bệnh, phục hồi
chức năng đối với bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động); không quy định việc
tái đầu tư phòng ngừa, trích một phần nguồn thu phục vụ chi phí quản lý quỹ;
- Điều kiện kinh tế xã hội của đất nước : Việc quy định 02 hình thức
phù hợp với một giai đoạn nhất định của nền kinh tế (tập trung, bao cấp),
trình độ, ý thức của người sử dụng lao động trong việc bảo vệ người lao
động chưa cao; nên cần gắn trách nhiệm vật chất của người sử dụng lao
82
động với việc cải thiện điều kiện lao động, phòng ngừa tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp.
b) Bài học về mô hình quỹ bồi thường các nước
Việc bồi thường tai nạn lao động được thực hiện thống nhất từ 01
nguồn, theo các mô hình sau:
Mô hình 1: Việc bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được
thực hiện từ Quỹ bồi thường TNLĐ, BNN dưới sự điều hành của Chính phủ
(như ở Thái Lan, Trung Quốc...);
Mô hình 2: Việc bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được
thực hiện từ các Quỹ bồi thường TNLĐ, BNN dưới sự điều hành các Hiệp
hội, tổ chức phi chính phủ, theo từng nhóm ngành, nghề (như ở Đức).
Mô hình 3: Người sử dụng lao động phải mua bảo hiểm tai nạn cho
người lao động (tương tự như bảo hiểm thân thể của nước ta) tại các công ty
bảo hiểm thương mại theo các mức tùy thuộc độ rủi ro ngành, nghề. Các
công ty bảo hiểm này sẽ chi trả tiền bồi thường.
c) Một số trở ngại cho quá trình hình thành Quỹ bồi thường tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam
- Quỹ sẽ gặp trở ngại về mặt tâm lý do người sử dụng lao động không
muốn có thêm khoản đóng góp và chưa sẵn sàng tham gia mặc dù là có lợi.
- Phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp quan trọng hơn việc
chi trả giải quyết hậu quả.
- Chưa tiến hành thử nghiệm một mô hình nào để đánh giá hiệu quả
hoạt động thành công hay thất bại của mô hình quỹ, làm cơ sở thuyết phục
cho phép thành lập quỹ.
- Để đảm bảo cho sự vận hành có hiệu quả và đúng mục đích, bên
cạnh việc xác lập các cơ chế tài chính cần phải xây dựng được một đội ngũ
cán bộ am hiểu về đầu tư, đào tạo, để triển khai các hoạt động cải thiện điều
kiện lao động, phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
83
CHƯƠNG III
KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP VÀ LỘ TRÌNH THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM
I. QUAN ĐIỂM HÌNH THÀNH QUỸ BỒI THƯỜNG TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP
1. Quan điểm
+ Phải là một chính sách văn minh, tạo sự công bằng hơn đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
+ Người sử dụng lao động có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp vào quỹ (không thu từ NLĐ).
+ Phù hợp và thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của quốc gia.
2. Mục tiêu
+ Tạo ra lưới đỡ an sinh xã hội, đảm bảo sự ổn định về thu nhập và chăm sóc y tế hợp lý nhanh;
+ Chia sẻ gánh nặng tài chính của doanh nghiệp và xã hội;
+ Khuyến khích sự quan tâm tối đa của người sử dụng lao động đối với việc cải thiện điều kiện lao động, phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;
+ Làm giảm khoản chi phí trả cho luật sư và người làm chứng cũng như thời gian xét xử, có mặt ở toà án;
+ Thúc đẩy việc tìm ra nguyên nhân của tai nạn lao động;
+ Chủ động thực hiện những hoạt động phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
3. Nguyên tắc
Việc xây dựng Quỹ trên cơ sở nguyên tắc sau:
+ Tối ưu bộ máy và các chi phí hành chính;
+ Đảm bảo tính kế thừa và phù hợp quy định quốc gia, thông lệ quốc tế;
+ Đảm bảo sự tham gia đầy đủ của tổ chức;
+ Thiết kế mức đóng phù;
+ Thiết kế mức hưởng hợp lý;
+ Có cơ chế đầu tư hiệu;
84
+ Được điều chỉnh kịp thời để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội.
II. XÂY DỰNG MỨC HƯỞNG, MỨC ĐÓNG ĐỐI VỚI MỘT SỐ NGHỀ
1. Đối tượng được hưởng
- Tai nạn lao động
- Bệnh nghề nghiệp
2. Xác định nguyên nhân để tính mức bồi thường
3. Những hạng mục chi phí trực tiếp bồi thường cho người bị nạn
Quỹ thực hiện các khoản chi trả trực tiếp cho người lao động bị nạn
hoặc thân nhân của họ được nêu chi tiết tại bảng 7 dưới đây.
Bảng 6. Các hạng mục chi phí trực tiếp liên quan tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp
TT Hạng mục chi phí Nguồn bồi thường, chi trả
1 Sơ cứu, cấp cứu tại nơi làm việc Người sử dụng lao động chi trả
2 Dịch vụ y tế/Chi phí y tế
Quỹ chi trả
3 Tiền lương trong thời gian điều trị
4 Giám định khả năng lao động
5 Bồi thường thương tật
6 Trợ cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình
7 Trợ cấp phục vụ
8 Dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau khi điều trị
9 Phục hồi chức năng lao động
10 Mai táng phí
11 Tiền hỗ trợ thân nhân người bị nạn
12 Các chi phí, thiệt hại khác
Tiền ma chay, giỗ tết Không quy định do ai bồi thường
Chi phí cho điều tra, xử lý tai nạn lao động Người sử dụng lao động chi trả
Quỹ chi trả một phần khi điều tra lại
Thiệt hại về tài sản do tai nạn lao động Người sử dụng lao động chi trả (hoặc do cơ quan BH thương mại chi trả, nếu mua bảo hiểm)
Thiệt hại do ngừng sản xuất Người sử dụng lao động tự chịu
85
4. Xác định mức hưởng
a) Dịch vụ y tế/chi phí y tế;
b) Khoản chi phí tiền lương trong thời gian điều trị;
c) Giám định khả năng lao động;
d) Bồi thường thương tật;
(1) Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì
được hưởng bồi thường một lần theo mức lương đóng bảo hiểm xã hội .
(2) Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì
được hưởng một khoản trợ cấp 1 lần và 1 khoản trợ cấp hàng tháng.
Bảng 7. Mức bồi thường thương tật
TT
Mức suy giảm khả năng lao động (%)
Quy định hiện hành Đề xuất
Mức bồi thường ít nhất từ NSDLĐ
(tháng tiền lương)
Mức chi trả từ cơ quan
BHXH (tháng tiền lương tối thiểu)
Mức chi trả
bổ sung từ BHXH
(tháng tiền lương tối thiểu)
Mức bồi thường
đề xuất
(tháng tiền lương)
(Db) (Bb) (Bbs) (Hb)
1 5 1,50 5
Bbs= 0,5+0,3(Nbh-1)
= 0,2 + 0,3Nbh
Nbh: Số năm đóng bảo hiểm xã hội.
Hb=8+1(K-5%)*100
+ 0,2 + 0,3Nbh
=3,2+100K+0,3 Nbh
- K là mức suy giảm khả năng lao động (%)
- Nbh: Số năm đóng bảo hiểm xã hội.
2 6 1,50 5,5
3 7 1,50 6
4 8 1,50 6,5
5 9 1,50 7
6 10 1,50 7,5
7 11 1,90 8
8 12 2,30 8,5
9 13 2,70 9
10 14 3,10 9,5
11 15 3,50 10
12 16 3,90 10,5
13 17 4,30 11
14 18 4,70 11,5
15 19 5,10 12
86
TT
Mức suy giảm khả năng lao động (%)
Quy định hiện hành Đề xuất
Mức bồi thường ít nhất từ NSDLĐ
(tháng tiền lương)
Mức chi trả từ cơ quan
BHXH (tháng tiền lương tối thiểu)
Mức chi trả
bổ sung từ BHXH
(tháng tiền lương tối thiểu)
Mức bồi thường
đề xuất
(tháng tiền lương)
16 20 5,50 12,5
17 21 5,90 13
18 22 6,30 13,5
19 23 6,70 14
20 24 7,10 14,5
21 25 7,50 15
22 26 7,90 15,5
23 27 8,30 16
24 28 8,70 16,5
25 29 9,10 17
26 30 9,50 17,5
27 31 9,90 hàng tháng
30%
Bbs=0,5%+0,3%(Nbh-1)
Hb = Db + Hbht
Db = 24+ (K- 31%) x 100
= 100K - 7
Hbht = 30% + 2%(K-31%)x100 + 0,5%+ 0,3% (Nbh-1)
= 2K - 33,8% + 0,3%.Nbh
28 32 10,30 32%
29 33 10,70 34%
30 34 11,10 36%
31 35 11,50 38%
32 36 11,90 40%
33 37 12,30 42%
34 38 12,70 44%
35 39 13,10 46%
36 40 13,50 48%
37 41 13,90 50%
38 42 14,30 52%
39 43 14,70 54%
40 44 15,10 56%
41 45 15,50 58%
42 46 15,90 60%
43 47 16,30 62%
44 48 16,70 64%
45 49 17,10 66%
46 50 17,50 68%
87
TT
Mức suy giảm khả năng lao động (%)
Quy định hiện hành Đề xuất
Mức bồi thường ít nhất từ NSDLĐ
(tháng tiền lương)
Mức chi trả từ cơ quan
BHXH (tháng tiền lương tối thiểu)
Mức chi trả
bổ sung từ BHXH
(tháng tiền lương tối thiểu)
Mức bồi thường
đề xuất
(tháng tiền lương)
47 51 17,90 70%
48 52 18,30 72%
49 53 18,70 74%
50 54 19,10 76%
51 55 19,50 78%
52 56 19,90 80%
53 57 20,30 82%
54 58 20,70 84%
55 59 21,10 86%
56 60 21,50 88%
57 61 21,90 90%
58 62 22,30 92%
59 63 22,70 94%
60 64 23,10 96%
61 65 23,50 98%
62 66 23,90 100%
63 67 24,30 102%
64 68 24,70 104%
65 69 25,10 106%
66 70 25,50 108%
67 71 25,90 110%
68 72 26,30 112%
69 73 26,70 114%
70 74 27,10 116%
71 75 27,50 118%
72 76 27,90 120%
73 77 28,30 122%
74 78 28,70 124%
75 79 29,10 126%
76 80 29,50 128%
77 81 30,00 130%
78 82 30,00 132%
88
TT
Mức suy giảm khả năng lao động (%)
Quy định hiện hành Đề xuất
Mức bồi thường ít nhất từ NSDLĐ
(tháng tiền lương)
Mức chi trả từ cơ quan
BHXH (tháng tiền lương tối thiểu)
Mức chi trả
bổ sung từ BHXH
(tháng tiền lương tối thiểu)
Mức bồi thường
đề xuất
(tháng tiền lương)
79 83 30,00 134%
80 84 30,00 136%
81 85 30,00 138%
82 86 30,00 140%
83 87 30,00 142%
84 88 30,00 144%
85 89 30,00 146%
86 90 30,00 148%
87 91 30,00 150%
88 92 30,00 152%
89 93 30,00 154%
90 94 30,00 156%
91 95 30,00 158%
92 96 30,00 160%
93 97 30,00 162%
94 98 30,00 164%
95 99 30,00 166%
96 100 30,00 168%
đ) Cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình;
e) Trợ cấp phục vụ;
g) Dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau khi điều trị thương tật, bệnh tật
h) Phục hồi chức năng lao động;
i ) Trợ cấp mai táng: mười tháng lương tối thiểu chung;
k) Tuất hàng tháng;
m) Tuất một lần.
89
5. Cơ chế vận hành quỹ và các chi phí liên quan đến vận hành
5.1. Một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý quỹ
- Về tài chính, do quỹ tồn tại và hoạt động tương đối độc lập, nên cơ chế thu, chi của quỹ phải luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để bảo đảm quyền lợi cho người tham gia quỹ.
- Phải bảo đảm quyền lợi của người lao động tương ứng với nghĩa vụ đóng góp của họ.
- Hoạt động của quỹ không mang tính chất kinh doanh mà mang tính chất của quỹ tương hỗ bảo hiểm.
- Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế tạo và sử dụng quỹ phải trên cơ sở thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước.
5.2. Các bộ phận trong quản lý quỹ
a) Bộ phận quản lý quỹ (thực hiện hoạt động thu, chi của quỹ): hệ thống này theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương với 3 cấp:
+ Ở Trung ương là cơ quan BHXH Việt Nam;
+ Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là các BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
+ Ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là các BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
b) Bộ phận thực hiện các công việc cung cấp dịch vụ y tế;
c) Bộ phận điều tra, xác minh tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
d) Bộ phận phụ trách đầu tư.
5.3. Nguồn hình thành và sử dụng quỹ
a) Nguồn hình thành
- Người sử dụng lao động đóng.
- Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ.
- Hỗ trợ của Nhà nước.
- Các nguồn thu hợp pháp khác.
b) Sử dụng quỹ
90
- Trả các chế độ cho người lao động theo quy định khoản 2 của Chương III này.
- Chi phí quản lý.
- Đầu tư không sinh lợi nhằm phòng ngừa tai nạn không được vượt quá 15% tổng thu vào quỹ trong năm.
- Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ nguồn tiền nhàn rỗi.
6. Xác định mức đóng vào quỹ
6.1. Chỉ tiêu xác định mức đóng
a) Mức đóng tối thiểu phải đáp ứng mức hưởng và chi phí quản lý vận hành quỹ
Đ ≥ CH + C VH
Đ: Tổng mức đóng của các doanh nghiệp, đơn vị Đ=∑ Đi
CH: Tổng mức hưởng của người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
CH = ∑ Ci
CVH: Các chi phí vận hành, quản lý Quỹ
b) Đáp ứng nhu cầu dự phòng chi trả ở mức cơ bản: Đ ≥ Đmin
c) Đảm bảo chia sẻ rủi ro, góp phần ổn định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cơ sở: Đ ≤ Đmax
d) Thay đổi theo mức độ rủi ro của ngành nghề
đ) Thay đổi theo tình hình thực tế tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của từng doanh nghiệp
Di = f (rủi ro, tần suất tai nạn lao động, tỷ lệ mắc mới bệnh nghề
nghiệp...)
CH + CVH ≤ Đmin(N) ≤ Đ(i) = ĐKĐ(N) + ĐT (i) - ĐG (i) ≤ Đmax(N) ≤ KN(DN)
6.2. Thiết kế các mức đóng theo các nhóm ngành kinh tế
Việc thiết kế các mức đóng cần xuất phát từ thực tế chi phí cho tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp của doanh nghiệp. Kết quả điều tra năm 2012
của Cục An toàn lao động đối với 2.000 doanh nghiệp như sau:
91
92
93
94
III. KHUYẾN NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP VÀ LỘ TRÌNH THỰC HIỆN
1. Cơ chế chính sách
- Sửa đổi quy định của Luật bảo hiểm xã hội về nội dung quỹ bảo
hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc xây dựng quy định về bồi
thường và trợ cấp trong Luật An toàn - vệ sinh lao động
- Xây dựng cơ chế khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp vào quỹ;
- Phát huy đồng bộ các hệ thống giám sát, đánh giá việc thực hiện quỹ;
- Cụ thể cơ chế đầu tư tài chính để có thể tham gia đầu tư tài chính
theo phương thức an toàn, ít rủi ro nhất và trong thị trường;
- Đẩy mạnh lồng ghép các hoạt động của quỹ.
2. Nguồn lực
- Sử dụng hệ thống nhân viên và bộ máy đang có trong BHXH Việt Nam.
- Cần tăng cường cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin vào
công tác quản lý.
- Đào tạo nguồn nhân lực đủ năng lực
- Về tài lực, cần chuyển toàn bộ kết dư quỹ bảo hiểm tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp trong quỹ BHXH (1,25 nghìn tỷ đồng) là số dư đầu kỳ
của quỹ phục vụ cho dự phòng; nhà nước không cần bổ sung thêm kinh phí.
3. Nâng cao nhận thức các bên liên quan
4. Khắc phục rủi ro và phòng ngừa
4.1. Những rủi ro trong vận hành quỹ
a) Mức thu không đủ bù chi xét từ quy định thu, chi;
b) Mất cân đối thu chi xuất phát từ rủi ro do chính sách;
c) Mất cân đối thu chi do thiếu cơ chế đầu tư hiệu quả.
Bảng 11. Tính toán sơ bộ cân bằng quỹ
ĐVT: tỷ đồng
TT Nội dung Thành tiền
1 Thu hiện hành từ quỹ BHXH(tỷ đồng) 1700
2 Chi hiện hành 1544/1131
90%/66%
a Chi từ BHXH hiện hành (tỷ đồng) cho người bị tai nạn lao động về bệnh nghề nghiệp (bình quân 2007- 2010)
193
95
TT Nội dung Thành tiền
b Chi quản lý (mức tối đa bẳng 20% chi phí quản lý ngành BHXH năm 2012) 662
c Chi phí bồi thường thương tật từ 5% trở lên (39,2 triệu đồng x 6.205 trường hợp) 243
c1 Chi phí NSDLĐ về tai nạn lao động (mức tối đa trên cả nước) 656
d Chi phí cho bệnh nghề nghiệp (37,2 triệu đồng x881 trường hợp) 33
3 Chi phí theo thiết kế 1222/809
72%; 47%
a Bồi thường và trợ cấp từ BHXH (= 2a + 2c + 2d) 882/469
b Hỗ trợ chi phí quản lý (5% tổng thu) 85
c Chi phí đầu tư không sinh lợi (tối đa 15%) 255
4 Chi = thu 1700
a TNLĐ và bệnh tật giả định đến 34.690 trường hợp / năm 1360
b Hỗ trợ chi phí quản lý (5% tổng thu) 85
c Chi phí đầu tư không sinh lợi (tối đa 15%) 255
4.2. Khắc phục rủi ro và phòng ngừa
a) Quỹ này phải do nhà nước lập ra và bảo trợ;
b) Các chính sách đảm bảo an toàn và tăng trưởng quỹ cũng cần
thống nhất như quỹ BHXH;
c) Cần xây dựng phương thức tính toán một cách có căn cứ khoa học
sỗ ngân quỹ tối đa có thể dùng để đầu tư tài chính, thời hạn cần thiết và an
toàn cho đầu tư.
5. Về điều kiện và lộ trình thực hiện
a) Giai đoạn 2013-2015: Xây dựng hành lang pháp lý
- Sửa Luật BHXH hoặc đưa nội dung hình thành quỹ vào Luật An
toàn - vệ sinh lao động. Tiến trình xây dựng phù hợp và tuân thủ theo tiến
trình sửa Luật BHXH, xây dựng Luật An toàn - vệ sinh lao động.
- Tiến hành các hoạt động tuyên truyền để các cấp, các ngành, doanh
nghiệp, người lao động quan tâm và ủng hộ quỹ
b) Giai đoạn 2016-2020: Triển khai thực hiện ban đầu
c) Giai đoạn sau 2012 - Đánh giá và hoàn thiện quỹ
96
ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC
NGHỀ NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
MÃ SỐ: CB2012-01-07 Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Nghiên cứu Khoa học dạy nghề Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Mạc Văn Tiến Thư ký: ThS. Phạm Xuân Thu
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục là tập hợp các cơ sở giáo dục, các chương trình
giáo dục với các trình độ được sắp xếp theo một trật tự nhất định và hình
thức đào tạo khác nhau, nhằm cung cấp giáo dục cho dân cư của quốc gia.
1.2. Giáo dục nghề nghiệp
GDNN là một phân hệ trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đào tạo
ra những người lao động tương lai, có kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp ở trình độ dưới đại học, có thể thực hiện được các công việc với các
mức độ phức tạp, mức độ khó trung bình với các công nghệ khác nhau, phù
hợp với ngành, nghề ở các cấp trình độ khác nhau, trực tiếp làm ra sản phẩm
hàng hóa hoặc dịch vụ.
1.3. Đổi mới căn bản giáo dục nghề nghiệp
“Đổi mới căn bản GDNN là đổi mới những vấn đề cốt lõi nhất, những
khâu then chốt nhất, chi phối toàn bộ quá trình phát triển GDNN, nhằm
nâng cao chất lượng của cả hệ thống GDNN”. Những vấn đề cốt lõi nhất của
GDNN cần phải đổi mới, theo chúng tôi là:
97
1) Đổi mới về tư duy, nhận thức về GDNN;
2) Đổi mới cấu trúc tiểu hệ thống GDNN;
3) Đổi mới mục tiêu GDNN;
4) Đổi mới quá trình, nội dung và phương pháp đào tạo;
5) Đổi mới cơ chế quản lý GDNN.
1.4. Đổi mới toàn diện giáo dục nghề nghiệp
“Đổi mới một cách đồng bộ tất cả những lĩnh vực của hệ thống
GDNN từ cơ chế quản lý đến các hoạt động của hệ thống GDNN, trên cơ sở
các nội dung của đổi mới căn bản GDNN”.
Theo đó, đổi mới toàn diện GDNN là đổi mới về tất cả các mặt, các
yếu tố cấu thành hệ thống và các quá trình đào tạo như:
- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống GDNN
- Đổi mới ở tất cả các cấp trình độ, hình thức đào tạo
- Đổi mới đồng bộ về nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo
- Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
dạy nghề; đổi mới và nâng cao chế độ đãi ngộ, tôn vinh gắn liền với nâng
cao chế độ trách nhiệm xã hội của các nhà giáo.
- Đổi mới và nâng cao cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở giáo dục,
đào tạo (bao gồm các trường TCCN và các CSDN).
- Đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục đào tạo.
- Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo.
- Đẩy mạnh xã họi hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập.
2. Các quan điểm, cách tiếp cận về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nghề nghiệp
2.1. Các quan điểm về giáo dục nghề nghiệp
Như đã nêu, hiện có 3 quan niệm khác nhau về GDNN:
- Với quan niệm toàn bộ các trình độ đào tạo sau phổ thông trung học,
nghĩa là từ sau đại học trở xuống đều được hiểu là GDNN.
98
- Với quan niệm GDNN bao gồm các trình độ đào tạo dưới đại học, có
thể hiểu: GDNN theo hướng “thực hành” là chủ yếu còn giáo dục đại học
theo hướng “hàn lâm” là chủ yếu, nhất là đối với những ngành học nghiên
cứu cơ bản.
- Với quan niệm GDNN gồm TCCN và dạy nghề, GDNN còn đồng
nghĩa với “giáo dục chuyên nghiệp” hoặc “giáo dục thực nghiệp”. Ở Việt
Nam, giáo dục chuyên nghiệp gắn với các trường kỹ nghệ thực hành EPP
(école Practique Professionnelle) có từ thời Pháp thuộc.
2.2. Sự cần thiết phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nghề nghiệp
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nói chung và GDNN nói riêng
xuất phát từ:
- Thực tế những yếu kém, những tồn tại “cốt lõi” của giáo dục Việt Nam;
- Từ những đòi hỏi của đất nước trong giai đoạn mới - giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;
- Đòi hỏi của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về giáo dục
2.3. Khung lý thuyết và cách tiếp cận về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nghề nghiệp
Đề tài nghiên cứu theo cách tiếp cận sau:
Nội dung đổi mới:
- Tư duy nhận thức - Mục tiêu - Nội dung, phương
pháp - Cơ chế quản lý
Các nhóm
giải pháp Yêu cầu nhân lực của nền kinh tế,
của TTLĐ
Đổi mới căn bản, toàn diện
GDNN
Yêu cầu nhân lực
của nền kinh tế,
của TTLĐ
Thực trạng
GDNN
99
3. Xu hướng phát triển giáo dục nghề nghiệp và sự cần thiết khách quan đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nghề nghiệp
Đổi mới GDNN nói riêng và giáo dục Việt Nam nói chung nằm trong
trào lưu chung của giáo dục thế giới. Nhìn tổng thể giáo dục thế giới đã trải qua
4 “cuộc” đổi thay lớn, có thể coi là các cuộc đổi mới hoặc cải cách giáo dục.
Qua xu hướng giáo dục nói chung và GDNN nói riêng của thế giới,
cho thấy, mọi sự đổi mới, mọi cải cách đều do nhu cầu của thực tế sản xuất,
sự thay đổi của khoa học và công nghệ. Giáo dục Việt Nam nói chung và
GDNN nói riêng, dù có chậm về mặt thời gian, nhưng cũng không nằm
ngoài xu hướng chung của thế giới. Vì vậy, đổi mới GDNN là nhu cầu
khách quan của xã hội phát triển, phù hợp với xu hướng chung của thế giới
ngày nay.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước thời gian qua về phát triển GDNN
Ngay từ khi thực hiện đường lối Đổi mới, Đảng ta đã coi phát triển
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu và đầu tư cho giáo dục - đào tạo
là đầu tư cho phát triển. Quan điểm, định hướng này có sự nhất quán và
được bổ sung, phát triển trong các kỳ Đại hội Đảng và được thể chế hóa
trong các văn bản pháp luật có liên quan. Có thể thấy điều này qua các thời
kỳ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như sau:
- Thời kỳ 1986 đến 1990
- Thời kỳ 1990 đến 1995
- Thời kỳ 1996 đến 2000
- Giai đoạn 2000 đến 2005
- Giai đoạn 2005 đến 2010
- Giai đoạn 2010 đến nay
Những chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong thời
gian qua cho thấy tính nhất quán về tư duy về vai trò của giáo dục - đào tạo,
trong đó có GDNN và chỉ ra những định hướng phát triển GDNN. Những
quan điểm, định hướng này, về cơ bản, đã được thể chế hóa trong các văn
100
bản Luật có liên quan, như Luật Giáo dục (2005), Luật Dạy nghề (2006) và
mới đây là Bộ Luật Lao động (2012).
2. Thực trạng giáo dục nghề nghiệp và vấn đề đặt ra
2.1. Khái quát những thành tựu chung của nền giáo dục Việt Nam
(1) Mạng lưới và quy mô giáo dục phát triển nhanh, đáp ứng nhu
cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân, góp phần nâng cao trình độ
đào tạo, trình độ nghề nghiệp của người lao động.
(2) Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ
(3) Chất lượng giáo dục và đào tạo có được nâng lên, góp phần đáp
ứng yêu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Chất lượng đào tạo của Việt Nam đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu
của các doanh nghiệp. Đa số học sinh, sinh viên tốt nghiệp có việc làm. Tỷ
lệ sinh viên ra trường có việc làm ngay đối với trường công lập là khoảng
70%(4).
Năng lực ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin của thanh, thiếu niên
những năm gần đây có chuyển biến tích cực. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp
cận tri thức của học sinh, sinh viên được nâng cao. Chất lượng đào tạo một số
ngành nghề được cải thiện, bước đầu đáp ứng nhu cầu của TTLĐ.
(4) Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực. Nhiều
chính sách, cơ chế phát triển giáo dục và đào tạo được ban hành. Cơ chế tài
chính trong giáo dục từng bước được đổi mới. Phân cấp quản lý giáo dục và
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục được tăng cường.
Công tác thanh tra, kiểm tra được chú trọng hơn. Cải cách hành chính được
đẩy mạnh. Công khai, dân chủ đang là một tiền đề quan trọng đổi mới quản
lý giáo dục. Bước đầu hình thành tổ chức chuyên trách về kiểm định chất
lượng(5). Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi .
(4)
http://www.khoahocphothong.com.vn/news/detail/15736/45-nghin-ty-tin-dung-
cho-hoc-sinh-sinh-vien (5)
Đã thành lập: Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục năm 2003; 63
Phòng khảo thí và quản lý chất lượng giáo dục các sở giáo dục và đào tạo, các
101
(5) Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số
lượng, trình độ đào tạo được nâng lên, khắc phục từng bước sự bất hợp lý
về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục và phát triển các cấp học, các
ngành nghề đào tạo. Tình trạng thiếu hụt giáo viên ở vùng khó khăn, vùng
xa, thiếu giáo viên một số môn học đặc thù đã được khắc phục một bước.
Tỷ lệ nhà giáo đạt trình độ đào tạo chuẩn và trên chuẩn được nâng cao(6).
Trong giai đoạn 2001-2012, tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại học
ngày càng được nâng cao, tăng nhanh nhất là ở các trường cao đẳng(7).
(6) Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả quan trọng.
Nhận thức của Đảng, Nhà nước và toàn dân về giáo dục ngày càng sâu
sắc và toàn diện hơn.
Hàng năm Nhà nước vẫn dành 20% tổng chi ngân sách cho giáo dục,
tập trung ưu tiên đầu tư cho giáo dục phổ cập, giáo dục vùng khó khăn và
đối tượng chính sách. Hiện nay, tổng số nguồn vốn ngoài ngân sách khoảng
25-30% tổng vốn đầu tư cho giáo dục.
Giáo dục ngoài công lập phát triển, đặc biệt là ở GDNN và giáo dục
đại học. Ở năm học 2011-2012, tỷ lệ học sinh, sinh viên theo học tại các cơ
sở giáo dục ngoài công lập là: tiểu học 0,6%, THCS 0,6%, THPT 9,1%;
TCCN 26,7%; cao đẳng 18,8% và đại học 13,1%8.
Huy động ngày càng nhiều sự quan tâm của các tổ chức chính trị - xã
hội, các thành phần kinh tế và các chủ thể khác cho sự nghiệp phát triển
giáo dục. Loại hình cơ sở giáo dục, hình thức đào tạo được đa dạng hóa.
Cùng với giáo dục chính quy, giáo dục không chính quy ngày càng phát
triển, tạo cơ hội học tập suốt đời, nâng cao trình độ dân trí, cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
trung tâm khảo thí và đảm bảo chất lượng ở các trường TCCN và dạy nghề, trung
tâm đảm bảo chất lượng ở 156 trường đại học, 145 trường cao đẳng năm 2012. (6)
Theo báo cáo thống kê của Bộ GD&ĐT năm 2012. (7)
Thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo. (8)
. Thống kê của Bộ GD&ĐT.
102
2.2. Tổng quan thực trạng cơ chế, chính sách về GDNN
Nhiều cơ chế, chính sách cho hệ thống giáo dục quốc dân đã bao gồm
đối với GDNN. Tuy nhiên, trực tiếp hoặc ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với
GDNN là các Luật như : Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi năm 2009), Luật Dạy
nghề (2006) và Luật Giáo dục đại học (2012). Trong các Luật này, đều quy
định GDNN là phân hệ của hệ thống giáo dục quốc dân. Theo Luật giáo
dục, GDNN gồm có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Trong Luật dạy
nghề lại quy định cụ thể hơn là dạy nghề gồm có sơ cấp nghề, trung cấp
nghề và cao đẳng nghề.
Riêng đối với dạy nghề, ngoài các Luật nêu trên, có một số nội dung
được điều chỉnh trong Bộ Luật Lao động. Tính đến 30/5/2012, đã có 142
văn bản quy phạm pháp luật về dạy nghề được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành để hướng dẫn triển khai thực hiện Luật Dạy nghề,
trong đó:
- Về thẩm quyền ban hành: Có 9 văn bản do Chính phủ ban hành (4
Nghị định, 5 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ), 130 văn bản do Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội ban hành và 3 văn bản liên tịch của các Bộ.
- Về nội dung văn bản được ban hành: Có 62 văn bản quy định và
hướng dẫn về các lĩnh vực của hoạt động dạy nghề, (trong đó có 48 văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành và 14 văn bản quy phạm pháp luật đã được
sửa đổi, bổ sung, thay thế) và 75 văn bản quy định chương trình khung cho
195 nghề đào tạo; 05 văn bản quy định môn học chung, cụ thể:
Đánh giá kết quả đạt được
- Những ưu điểm
Đến nay, một số lượng khá lớn văn bản đã được ban hành (142 văn
bản), kịp thời hướng dẫn triển khai trên các lĩnh vực chủ yếu của hệ thống
dạy nghề 3 cấp trình độ theo quy định của Luật Dạy nghề. Hầu hết các quy
định của Luật Dạy nghề giao cho Chính phủ (tại Điều 92 Luật Dạy nghề) và
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (tại 17 điều của Luật Dạy nghề) quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành đều đã có văn bản hướng dẫn thi hành
(chỉ còn Điều 86 quy định về Quỹ hỗ trợ học nghề chưa có văn bản hướng
dẫn thi hành). Nhờ đó, hệ thống dạy nghề mới với 3 trình độ đào tạo (sơ cấp
103
nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề) đã được hình thành và đang vận hành
đúng theo quy định của Luật.
- Một số hạn chế
+ Luật Dạy nghề quy định về nhiều vấn đề mới trong đào tạo nói
chung và dạy nghề nói riêng, trong đó có nhiều nội dung phức tạp cần phải
có thời gian nghiên cứu, thử nghiệm sau đó mới hướng dẫn áp dụng rộng
rãi. Tuy nhiên, khi Luật Dạy nghề có hiệu lực thi hành, đòi hỏi phải có ngay
các văn bản hướng dẫn thực hiện. Chính điều đó đã tạo ra sức ép về tiến độ
thời gian soạn thảo, ban hành các văn bản hướng dẫn.
+ Luật Dạy nghề giao Chính phủ quy định cụ thể việc thành lập, quản
lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ học nghề (Điều 86), nhưng đến nay chưa có văn
bản hướng dẫn thi hành.
+ Mặc dù hầu hết những nội dung cơ bản của Luật Dạy nghề đều đã có
văn bản hướng dẫn thi hành nhưng vẫn còn một số vấn đề Luật Dạy nghề mới
chỉ quy định mang tính nguyên tắc chung, cần phải có văn bản hướng dẫn
mới có thể triển khai thực hiện trong thực tiễn, việc không có văn bản hướng
dẫn thi hành đã hạn chế hiệu quả thi hành Luật Dạy nghề trong thực tế.
Mục tiêu tổng quát phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020
Đến năm 2020, dạy nghề đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao
động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề và trình độ đào tạo; chất lượng
đào tạo của một số nghề đạt trình độ các nước phát triển trong khu vực
ASEAN và trên thế giới; hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; phổ cập nghề cho người lao động,
góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập, giảm
nghèo vững chắc, bảo đảm an sinh xã hội. Để đạt được các mục tiêu chiến
lược, cần thực hiện đồng bộ 9 giải pháp, đó là:
a) Đổi mới quản lý nhà nước về dạy nghề
b) Phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề
c) Xây dựng khung trình độ nghề quốc gia
d) Phát triển chương trình, giáo trình
đ) Tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề
104
e) Kiểm soát, bảo đảm chất lượng dạy nghề: Kiểm định chất lượng
dạy nghề và Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia
g) Gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động và sự tham gia của
doanh nghiệp
h) Nâng cao nhận thức về phát triển dạy nghề
i) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về dạy nghề
Trong đó giải pháp “Đổi mới quản lý nhà nước về dạy nghề” và giải
pháp “Phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề”
là hai giải pháp đột phá; giải pháp “Xây dựng khung trình độ nghề quốc gia”
là giải pháp trọng tâm.
Để cụ thể hóa Chiến lược phát triển dạy nghề, ngày 31/8/2012, Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và
dạy nghề (Quyết định số 1201/QĐ-TTg) giai đoạn 2012-2015.
Ngoài các cơ chế, chính sách có tính điều chỉnh tổng thể đến phát triển
dạy nghề, trong thời gian gần đây, các cơ quan có thẩm quyền còn ban hành
một số cơ chế, chính sách trong tưng lĩnh vực, từng hoạt động hoặc từng
nhóm đối tượng cụ thể nào đó, chẳng hạn: Chính sách dạy nghề đối với học
sinh dân tộc thiểu số nội trú; chính sách dạy nghề đối với thanh niên; chính
sách hỗ trợ dạy nghề đối với phụ nữ; chính sách dạy nghề đối với bộ đội
xuất ngũ; chính sách dạy nghề đối với lao động xuất khẩu….
2.3. Thực trạng giáo dục nghề nghiệp và những vấn đề cốt lõi
cần đổi mới
2.3.1. Thực trạng GDNN
a) Về quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN
Sau hơn 6 năm thi hành Luật Dạy nghề, mạng lưới CSDN được phát
triển rộng khắp ở 63 tỉnh, thành phố, trên 600 huyện, quận, thị xã, các khu
công nghiệp, khu chế xuất, làng nghề. Mạng lưới CSDN mở rộng, phân bố ở
các ngành kinh tế, địa phương, vùng, miền. Tính đến 31/12/2012 trên cả
nước có tổng số 1327 CSDN. Ngoài ra còn có hơn 700 cơ sở giáo dục đào
tạo (trong đó có 34 trường đại học và 111 trường cao đẳng) khác tham gia
dạy nghề. Trong tổng số 1327 CSDN có 155 trường CĐN, 305 trường TCN
105
và 867 TTDN. CSDN công lập chiếm 64,9% và CSDN tư thục chiếm
35,1%. Số CSDN tăng gần 1,4 lần so với năm 2007 - sau khi Luật Dạy nghề
có hiệu lực.
Đối với hệ giáo dục TCCN, các cơ sở giáo dục TCNN cũng đã có sự
phát triển: năm 1999 có 245 trường TCCN đến năm 2012 có 295(9) trường,
trong đó công lập là 198 ngoài công lập là 97 (chưa tính một số trường đại
học, cao đẳng cũng có đào tạo TCCN). Số trường TCCN tăng không nhiều
do hàng năm một số trường TCCN được nâng cấp lên cao đẳng.
Như vậy, mạng lưới các cơ sở GDNN khá lớn và phân bổ ở các vùng
miền, địa phương trong cả nước. Tuy nhiên có một thực tế, do thuộc hai
ngành quản lý, nên mỗi ngành lại quy hoạch theo yêu cầu riêng của mình,
dẫn tới tình trạng, ở cùng một tỉnh có thể có hai loại trường trung cấp
(TCCN và TCN) và hai loại trường cao đẳng (cao đẳng và CĐN) và có thể
cùng đào tạo một nghề. Đây là sự lãng phí về nguồn lực của các đơn vị cung
cấp dịch vụ.
b) Về quy mô và cơ cấu nghề đào tạo
Quy mô tuyển sinh học nghề năm 2011 đạt hơn 1,77 triệu học sinh,
sinh viên, tăng khoảng 1,3 lần so với năm 2006. Từ năm 2007 đến hết năm
2011 đã tuyển mới được gần 1,35 triệu người học CĐN, TCN, và hơn 6,85
triệu người học SCN và dạy nghề thường xuyên (dưới 3 tháng); nâng tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề năm 2010 đạt 30%.
Vì nhiều lý do, tuyển sinh học nghề năm 2012 bị giảm xuống, đạt
khoảng 1,493 triệu người, trong đó: TCN, CĐN khoảng 213,2 ngàn người;
SCN và dạy nghề thường xuyên dưới 03 tháng khoảng 1.280,2 ngàn người
(trong đó khoảng 485 ngàn LĐNT được đào tạo theo chính sách của Quyết
định 1956)
Đối với hệ TCCN, năm 1998 mạng lưới các trường TCCN tuyển vào
84.053 học sinh, đến năm 2006, số lượng tuyển sinh là 334.975, tăng 2,98
lần, tuy nhiên số lượng chỉ tăng nhanh bắt đầu từ năm 2003. Nếu tính trong
giai đoạn 2001 - 2010, quy mô đào tạo TCCN tăng 2,69 lần, Hầu hết các
trường TCCN đều tuyển sinh 2 hệ: TCCN và đào tạo nghề. Một điều đáng
(9)
Báo cáo Thực trạng giáo dục Việt Nam, Bộ GD-ĐT, 2013
106
lưu ý là phần lớn (97%)(10)số học sinh tuyển vào TCCN có trình độ văn hoá
THPT. Số học sinh THCS vào TCCN chiếm tỷ lệ rất thấp.
Các nghề đào tạo được mở dần theo nhu cầu thực tế của các doanh
nghiệp, từng bước phù hợp với sự phát triển các ngành nghề trong sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ. Danh mục nghề đào tạo đã được xây dựng dựa trên nhu
cầu của TTLĐ. Đến tháng 5/2012 đã có danh mục nghề của 386 nghề đào
tạo ở trình độ cao đẳng, 462 nghề đào tạo ở trình độ trung cấp. Đã triển khai
đào tạo nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp và dạy nghề cho nông dân gắn
với việc làm và tạo việc làm.
Ngày 06 tháng 6 năm 2013 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã
ban hành Quyết định số 854/QĐ-LĐTBXH phê duyệt nghề trọng điểm và
trường được lựa chọn nghề trọng điểm giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng
đến năm 2020. Trong danh mục 112 nghề trọng điểm đã được phê duyệt có
26 nghề trọng điểm quốc tế, 30 trường trọng điểm khu vực ASEAN, 100
nghề trọng điểm quốc giađược đầu tư đồng bộ các điều kiện về chương
trình, giáo trình, cơ sở vật chất, thiết bị và giáo viên để tổ chức đào tạo.
c) Về chương trình đào tạo
5 năm qua Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành 03 văn
bản quy phạm pháp luật về danh mục nghề đào tạo (Quyết định
37/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 16/4/2008, Thông tư số 17/2010/TT-
BLĐTBXH ngày 4/6/2010 thay thế Quyết định 37/2008/QĐ-BLĐTBXH,
Thông tư số 11/2012/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2012) và 01 văn bản quy
định chương trình khung trình độ TCN, chương trình khung trình độ CĐN
(Quyết định số 58/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 26/5/2008) làm cơ sở để các
CSDN phát triển các chương trình dạy nghề.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ, ngành
có liên quan tổ chức biên soạn, phê duyệt, ban hành được 195 bộ chương
trình khung trình độ CĐN, TCN liên thông giữa các trình độ đào tạo nghề.
Các chương trình khung được ban hành đã gắn với yêu cầu của sản xuất
kinh doanh, được thiết kế đảm bảo liên thông giữa các cấp trình độ đào tạo,
làm cơ sở cho các CSDN xây dựng chương trình dạy nghề chi tiết của đơn (10)
GS.TSKH. Nguyễn Minh Đường - GDNN Việt Nam trên con đừơng phát triển
và Hội nhập
107
vị mình. Việc xây dựng chương trình dạy nghề đã được đổi mới theo
phương pháp tiên tiến của thế giới (phân tích nghề DACUM) với sự tham
gia của doanh nghiệp. Chương trình dạy nghề được xây dựng xuất phát từ
thực tiễn sản xuất; trên cơ sở phân tích nhiệm vụ, công việc của người lao
động, thiết kế các mô đun đào tạo tích hợp giữa lý thuyết và thực hành thay
thế cho chương trình dạy nghề theo môn học được xây dựng tách rời giữa lý
thuyết và thực hành.
Thực hiện quyết định số 826/QĐ-BLĐTBXH (đã được thay thế bằng
quyết định 854/QĐ-BLĐTBXH), năm 2012 đã xây dựng, thẩm định, ban
hành chương trình dạy nghề trình độ TCN, CĐN đối với 14 nghề trọng điểm
quốc gia.
Ngày 28/2/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số
371/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Chuyển giao các bộ chương trình; đào tạo,
bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; đào tạo thí điểm các nghề
trọng điểm quốc tế, khu vực ASEAN giai đoạn 2012 - 2015. Theo mục tiêu
của đề án, đến hết năm 2014 hoàn thành việc chuyển giao các bộ chương
trình của 34 nghề trọng điểm thuộc 26 trường chất lượng cao.
Ngoài ra, Bộ đã tiến hành xây dựng chương trình tiếng Anh theo
chuẩn TOEIC và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho giáo viên các trường TCN,
trường CĐN tổ chức triển khai giảng dạy tiếng Anh theo chuẩn TOEIC từ
năm 2009; xây dựng được 96 chương trình SCN để đào tạo nghề cho lao
động nông thôn.
Đối với TCCN, trên cơ sở chương trình khung TCCN đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2001, một số ngành, địa phương đã đầu
tư hoàn thiện và đổi mới chương trình đào tạo TCCN theo hướng tinh giản
lý thuyết, tăng kỹ năng thực hành, cập nhật tiến bộ khoa học công nghệ mới.
Kết quả khảo sát cho thấy một tỷ lệ khá lớn cán bộ quản lý doanh nghiệp
cho rằng sự phù hợp mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo trong các
trường TCCN chỉ đạt ở mức độ thấp và tương đối thấp(11).
(11)
GS.TSKH. Nguyễn Minh Đường - GDNN Việt Nam trên con đường phát triển
và Hội nhập
108
d) Về đội ngũ giáo viên, giảng viên
Trong thời gian qua đã có một số cơ chế, chính sách được ban hành,
như: Nghị định 43/2008/NĐ-CP ngày 08/04/2008 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều 62 và Điều 72 Luật Dạy nghề về chính
sách cho giáo viên dạy nghề; Thông tư số 09/2008/TT-BLĐTBXH ngày
27/6/2008 hướng dẫn chế độ làm việc của giáo viên dạy nghề; Quyết định
57/2008/QĐ-LĐTBXH ngày 26/5/2008 về sử dụng, đào tạo bồi dưỡng giáo
viên dạy nghề, Thông tư số 30/2010/TT-BLĐTBXH ngày 29/9/2010 quy
định chuẩn giáo viên, giảng viên dạy nghề v.v...
Đội ngũ giáo viên dạy nghề được chuẩn bị theo các cấp độ: Giáo viên
dạy nghề các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia; giáo viên dạy nghề các nghề
trọng điểm cấp độ quốc tế và khu vực ASEAN.
Theo mục tiêu của Đề án “Chuyển giao các bộ chương trình; đào tạo,
bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; đào tạo thí điểm các nghề
trọng điểm cấp độ khu vực ASEAN, quốc tế” giai đoạn 2012-2015 (ban
hành kèm theo quyết định số 371/QĐ-TTg ngày 28/2/2013): Đến năm 2015
đào tạo, bồi dưỡng 1.400 giáo viên ở nước ngoài; 300 cán bộ quản lý dạy
nghề thuộc 26 trường chất lượng cao ở nước ngoài theo Dự án hợp tác với
Mỹ (Chương trình HEEAP).
Cho đến nay, cả nước có 33.270 giáo viên dạy nghề tại các trường
CĐN, TCN và TTDN, (trong đó có: 12.444 giáo viên tại các trường CĐN,
11.514 giáo viên tại các trường TCN và 9.312 giáo viên tại các TTDN) và
có gần 16.000 giáo viên thuộc các cơ sở khác có tham gia dạy nghề, tăng 1,6
lần so với năm 2006.
Không chỉ có đội ngũ giáo viên dạy nghề trong các CSDN, cơ sở giáo
dục và cơ sở khác có dạy nghề còn hàng ngàn người dạy nghề ở các lớp dạy
nghề thuộc doanh nghiệp, làng nghề, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ trong các chương trình, đề án về dạy nghề như Đề án Đào tạo nghề
cho lao động nông thôn đến năm 2020 v.v…
- Về chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề
+ Về trình độ chuyên môn: Tại các trường CĐN, tỷ lệ giáo viên có
trình độ đại học trở lên chiếm 69,42%, cao đẳng là 15,29% và công nhân kỹ
109
thuật, nghệ nhân là 15,29%. Tỷ lệ tương ứng tại các trường TCN là 48,96%,
23,84% và 27,2%; tại các TTDN là 30,27%, 23,27% và 46,46%.
Đối với hệ TCCN, trình độ chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ giáo viên
cao hơn so với các trường TCN của hệ dạy nghề (96,5% có trình độ từ cao
đẳng, đại học trở lên, trong đó trình độ thạc sỹ, tiến sỹ chiếm 26,2% - năm
2012).
+ Về nghiệp vụ sư phạm dạy nghề: Tỷ lệ giáo viên đã qua đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề của các trường CĐN chiếm 81,19%,
của các trường TCN chiếm 72,68%, của các TTDN là 50,49%.
+ Về kỹ năng nghề: Khoảng 65% số giáo viên trong các trường CĐN,
trường TCN và TTDN có trình độ kỹ năng nghề, là giáo viên dạy thực hành,
trong đó có khoảng 41% dạy cả lý thuyết và thực hành.
+ Trình độ ngoại ngữ: 66,88% giáo viên dạy nghề có trình độ tiếng
Anh từ A trở lên, trong đó trình độ C và cử nhân là 13,86%. Số giáo viên
dạy nghề có trình độ ngoại ngữ khác từ A trở lên chiếm gần 3%.
+ Trình độ tin học: 71,34% giáo viên dạy nghề có trình độ tin học từ
A trở lên, trong đó trình độ C và cử nhân chiếm 12,82%.
+ Phẩm chất, đạo đức: Hầu hết giáo viên dạy nghề tận tụy với nghề,
có phẩm chất, đạo đức tốt, tích cực tham gia hội giảng, hội thi các cấp và
các hoạt động chuyên môn. Một số giáo viên được phong tặng danh hiệu
Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú và các giải thưởng cao quý khác, hàng
ngàn giáo viên được công nhận giáo viên dạy giỏi các cấp.
- Về công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề
Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề được quan tâm nhiều
trong thời gian gần đây, đặc biệt sau khi Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội ra Quyết định số 826/QĐ-LĐTBXH ngày 07/07/2011.
Trong thời gian qua, đã xây dựng 138 chương trình, tài liệu bồi dưỡng
kỹ năng giảng dạy theo chương trình khung cho giáo viên dạy trình độ
CĐN, TCN; 51 chương trình, tài liệu bồi dưỡng công nghệ mới; 28 chương
trình, tài liệu bồi dưỡng kỹ năng nghề cho giáo viên dạy trình độ CĐN,
TCN; 06 chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm tiếp cận trình
độ quốc tế của City&Guilds...
110
Hiện nay, đang thực hiện việc chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy các
nghề trọng điểm cấp độ quốc gia về trình độ đào tạo, kỹ năng và sư phạm
nghề; chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ khu vực
và quốc tế về kỹ năng nghề và năng lực sư phạm của các nước tiên tiến
trong khu vực ASEAN và các nước phát triển trên thế giới, phấn đấu 100%
số giáo viên này phải đạt chuẩn của các nước tương ứng vào năm 2014.
đ) Về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học
Từ năm 2007 đến nay, các CSDN ngày càng được quan tâm đầu tư
nâng cấp cơ sở vật chất thiết bị dạy nghề từ nhiều nguồn: Nguồn ngân sách
nhà nước, Chương trình mục tiêu, vốn ODA, đầu tư của doanh nghiệp và
các nguồn khác.
Một số trường, trung tâm đã được trang bị đồng bộ, hiện đại ở một số
nghề, nhất là những trường, TTDN được thụ hưởng các dự án ODA và
chương trình mục tiêu quốc gia. Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn
2006 - 2010 tiếp tục ưu tiên hỗ trợ đầu tư 03 trường CĐN để trở thành
trường tiếp cận trình độ dạy nghề tiên tiến của các nước trong khu vực Đông
Nam Á; 59 trường CĐN, trường TCN được đầu tư trọng điểm; 48 trường
CĐN, trường TCN khó khăn được đầu tư tập trung; 25 trường CĐN, TCN
được hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị để đảm bảo thực hiện nhiệm
vụ dạy nghề cho học sinh dân tộc thiểu số nội trú; 246 TTDN được hỗ trợ
đầu tư tập trung.
Các trường được lựa chọn nghề trọng điểm có trách nhiệm thực hiện
quyết định số 854/QĐ-BLĐTBXH ngày 06 tháng 6 năm 2013 về việc Phê
duyệt nghề trọng điểm và trường được lựa chọn nghề trọng điểm giai đoạn
2011-2015 và định hướng đến năm 2020.
Ngoài việc đầu tư, mua sắm, phong trào tự làm thiết bị dạy nghề của
các CSDN đã bổ sung nhiều thiết bị cho giảng dạy và thực hành.
Công tác chuẩn hóa, hiện đại hóa trang thiết bị dạy nghề đã được quan
tâm bằng việc ban hành các quy định về danh mục thiết bị tối thiểu cho các
nghề đào tạo. Đến nay đã ban hành được 9 danh mục thiết bị tối thiểu cho 9
nghề trình độ trung cấp và 9 nghề trình độ cao đẳng.
111
e) Về kiểm định chất lượng đào tạo
Từ năm 2008, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành 04
văn bản quy phạm pháp luật quy định về hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm
định chất lượng TTDN, trường TCN, trường CĐN; quy định về kiểm định
viên chất lượng dạy nghề; quy định về quy trình kiểm định chất lượng dạy
nghề... tạo hành lang pháp lý đồng bộ để triển khai thực hiện hoạt động
kiểm định chất lượng dạy nghề.
Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn nói trên, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội đã thực hiện kiểm định chất lượng dạy nghề được 112
CSDN, trong đó: 59 trường CĐN, 32 trường TCN, 21 TTDN.
Từ năm 2008 đến nay đã tổ chức đào tạo được 472 kiểm định viên
chất lượng dạy nghề và 1.511 cán bộ tự kiểm định chất lượng dạy nghề
(trong đó có 33 kiểm định viên được đào tạo theo chương trình của Mỹ và
do chuyên gia Mỹ trực tiếp giảng dạy).
f) Về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia
Ngay sau khi Luật Dạy nghề có hiệu lực thi hành, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội đã ban hành Quyết định số 09/2008/QĐ-
BLĐTBXH, quy định nguyên tắc, quy trình xây dựng và ban hành tiêu
chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, khung trình độ kỹ năng nghề quốc gia mới
gồm 5 bậc (với cấu trúc phù hợp với các nước EU, Malaysia, Trung Quốc,...
có khả năng so sánh và công nhận lẫn nhau trong tương lai); ban hành Quyết
định số 69/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 30/12/2008 quy định tổ chức và quản
lý việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia.
Bên cạnh đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với
các Bộ, ngành có liên quan và một số Hội nghề nghiệp:
- Xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho 148 nghề và đã ban
hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho 122 nghề;
- Tổ chức biên soạn đề thi đánh giá kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn kỹ
năng nghề quốc gia cho 35 nghề, đã ban hành 19 nghề;
- Tổ chức các lớp đào tạo đánh giá viên kỹ năng nghề quốc gia cho
253 chuyên gia của 9 nghề và chính thức cấp thẻ đánh giá viên kỹ năng
nghề quốc gia cho 93 người;
112
- Phối hợp với một số tập đoàn kinh tế để hình thành các trung tâm
đánh giá kỹ năng nghề; đã công nhận 04 trung tâm đánh giá kỹ năng nghề
quốc gia để có thể tổ chức đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia
cho 10 nghề;
- Thí điểm đánh giá theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho 350
người tham dự của 05 nghề ở bậc 2 trình độ kỹ năng nghề.
g) Về chất lượng đào tạo
Các cơ sở GDNN đã có những chuyển biến nhất định từ đào tạo theo
hướng “cung” sang đào tạo đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và TTLĐ,
đặc biệt là các trường CĐN. Các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề
được quan tâm đầu tư do vậy chất lượng dạy nghề có bước chuyển biến tích
cực; một số nghề đã đào tạo tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới như nghề
Hàn đạt 6G, nghề công nghệ thông tin, điện tử, du lịch, dầu khí, viễn
thông...
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có những khảo sát, đánh giá một cách
khách quan và đầy đủ về chất lượng đào tạo của hệ GDNN.
Năm 2005, Tổng cục dạy nghề, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
khảo sát các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Đồng Nai, Bình Dương và Thành
phố Hồ Chí Minh, nhận thấy một tỷ lệ khoảng 30% số học sinh sau khi tốt
nghiệp chưa có khả năng làm việc được ngay mà phải có một thời gian ít
nhất là 6 tháng được đào tạo bổ túc tại các doanh nghiệp.
Khảo sát qua 30 hội chợ việc làm được tổ chức năm 2008, cho thấy dù
nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo là khá lớn song số người đáp ứng
yêu cầu các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp. Tại hội chợ, các doanh
nghiệp có nhận định đối với học sinh sau khi tốt nghiệp về làm việc như
sau: Nắm vững kiến thức cơ bản khoảng 40%; Nắm vững kỹ thuật thực tế
công việc 12%; Khả năng thích nghi thực tế 12%; Thái độ cầu tiến bộ 10%;
Tác phong năng động 7%; Có kỹ thuật cao 4%; Có ý thức trách nhiệm 4%;
Dám nghĩ, dám làm 3%.
Theo kết quả một cuộc khảo sát của Ngân hàng Thế giới: khoảng 50%
các công ty trong lĩnh vực may mặc, hóa chất đánh giá lao động được đào
tạo không đáp ứng nhu cầu của mình. Một số doanh nghiệp phần mềm phải
đào tạo lại ít nhất 1 năm cho khoảng 80% - 90% sinh viên tốt nghiệp mới
113
được tuyển dụng. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu hụt lao động trầm trọng vẫn
diễn ra ở các ngành dệt may, da giày, gỗ, du lịch, đóng tàu.
Kết quả điều tra khảo sát năm 2008 của Tổng cục dạy nghề tại 143
doanh nghiệp có sử dụng lao động cho thấy, đánh giá của doanh nghiệp về
khả năng đáp ứng TTLĐ của học sinh TCCN còn thấp, tới 60,7% chỉ đạt từ
trung bình trở xuống, tốt là 15,4% và khá 24,9%. Trong đó, chỉ số đánh giá
năng lực, khả năng ngoại ngữ và thực hành của học sinh TCCN là thấp nhất.
Một khảo sát khác về những ý kiến đánh giá của các doanh nghiệp năm
2008 thì khoảng 1/3 số học sinh có năng lực và kiến thức có thể làm việc
được ngay, hơn 60% cần phải bổ túc thêm tay nghề; số học sinh yếu kém
không đáp ứng được yêu cầu chiếm khoảng từ 8-15%, còn lại là trung bình.
Lý do chưa hài lòng là: 58% cho rằng thiếu kinh nghiệm và kỹ năng
nghề nghiệp; 15% cho rằng thiếu sự hiểu biết về kinh tế và điều kiện kinh
doanh; 20% cho rằng kém ngoại ngữ; số còn lại là thiếu hiểu biết về pháp
luật và văn hoá ứng xử, thiếu tinh thần trách nhiệm.
Về hiệu quả dạy nghề: theo báo cáo của Tổng cục dạy nghề, số học sinh
học nghề sau khi tốt nghiệp có 60% - 70% tìm được việc làm ngay, 90% học
sinh được dạy nghề trong các doanh nghiệp có việc làm. Tuy nhiên tỷ lệ học
sinh tìm được việc làm ngay còn tuỳ thuộc vào ngành nghề (những nghề kĩ
thuật khả năng tìm việc làm thường cao hơn đối với những ngành nghề khác)
và vùng miền (những vùng có điều kiện kinh tế phát triển và những vùng tập
trung các khu công nghiệp), vì vậy số chưa có việc làm vẫn tập trung ở một số
ngành không phù hợp với những ngành nghề ở các doanh nghiệp.
Năm 2010 qua báo cáo của 55/70 trường CĐN về kỳ thi tốt nghiệp
CĐN khoá I, có 18.008 sinh viên đỗ tốt nghiệp chiếm 92,6%. Kết quả thi tốt
nghiệp đã phản ánh đúng chất lượng đào tạo, bước đầu khẳng định việc đào
tạo trình độ CĐN đáp ứng được yêu cầu về chất lượng lao động của doanh
nghiệp và xã hội. Tỷ lệ sinh viên có việc làm ngay sau tốt nghiệp đạt
80,39%. Ngay tại kỳ thi đã có gần 800 doanh nghiệp đến theo dõi và ký hợp
đồng tuyển dụng với sinh viên ngay khi tốt nghiệp. Tiền lương của sinh viên
sau tốt nghiệp mức lương cao nhất là từ 4,5 - 5,0 triệu đồng/tháng, mức
lương thấp nhất không dưới 1,8 triệu đồng/tháng, có một số em đã được trả
với mức 300 USD/tháng.
114
Đối với TCCN, theo đánh giá chủ quan của các cơ sở đào tạo, chất
lượng đào tạo TCCN được thể hiện qua kết quả học tập như sau:
Bảng 7. Xếp loại đạo đức và học tập của học sinh TCCN
Xếp loại Xuất sắc Tốt Khá Trung bình Yếu Kém
Đạo đức 11,86% 22,75% 30,07% 32,91% 1,96% 0,45%
Học tập 1,25% 7,87% 38.95% 41,96% 7,28% 2,69%
Nguồn: Bộ GD&ĐT
h) Về hoạt động dạy nghề ở các doanh nghiệp
Số lượng người lao động được đào tạo tại các doanh nghiệp cũng
không ngừng tăng lên, năm 2011 là gần 100.000 người và xu thế này ngày
càng tăng. Trong những năm gần đây, hầu hết các tổng công ty, tập đoàn
kinh tế mạnh đều có trường dạy nghề riêng, chẳng hạn như Tập đoàn Công
nghiệp Tàu thủy Việt Nam (VINASHIN) có 13 cơ sở đào tạo nghề, hàng
năm cung ứng khoảng 7.000 công nhân kỹ thuật. Hai trường dạy nghề của
Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (LILAMA) hàng năm cũng tuyển từ 3.000
- 4.000 học viên để đào tạo lao động có trình độ cao đẳng và trung cấp cung
ứng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, số lượng các CSDN trong doanh
nghiệp còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu của bản thân doanh nghiệp.
Qua điều tra của Tổng cục Dạy nghề, khoảng 40% số doanh nghiệp có
nhu cầu đã liên kết đào tạo với các CSDN. Trong đó, số doanh nghiệp có hợp
đồng đào tạo với các trường chiếm 37,1%; các doanh nghiệp nhận hướng dẫn
học sinh, sinh viên thực tập tại doanh nghiệp là 28,6%; doanh nghiệp gửi lao
động đến trường để nâng cao kiến thức nghề chiếm khoảng 40%.
Đến nay cả nước đã có 150 CSDN ở các doanh nghiệp. Nhiều trường
thuộc doanh nghiệp có qui mô tuyển sinh khá lớn trường cao đẳng thuộc
Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam qui mô khoảng 15 nghìn học sinh.
Khoảng 40% doanh nghiệp gửi người lao động đến trường dạy nghề
để bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kĩ năng; 37,1% doanh nghiệp có hợp đồng
đào tạo với các trường; 28,6% số doanh nghiệp nhận hướng dẫn học sinh,
sinh viên thực tập có 6% số doanh nghiệp nhận bồi dưỡng kĩ năng thực hành
nghề cho giáo viên dạy nghề. Một số công nhân bậc cao nhận là giáo viên
kiêm nhiệm tại các CSDN (loại hình này chiếm 5,7% số doanh nghiệp).
115
* Đánh giá chung về thực trạng công tác GDNN
Những mặt được
- Công tác đào tạo nghề nói riêng và GDNN đã được thực hiện theo
các quan điểm chỉ đạo của Đảng và thu được những kết quả quan trọng, nhất
là công tác dạy nghề cho nông dân; dạy nghề phục vụ cho một số ngành
công nghệ cao.
- GDNN nước ta tiếp tục được phát triển về quy mô, chất lượng đào
tạo được nâng cao thông qua các điều kiện đảm bảo chất lượng đã luôn
được quan tâm đầu tư phát triển.
- Hệ thống GDNN trong cả nước đã chuyển mạnh đào tạo từ hướng
cung sang hướng cầu, đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhân lực kỹ thuật của doanh
nghiệp và TTLĐ.
- Bước đầu đã có sự gắn kết hơn giữa CSDN và doanh nghiệp trong
hoạt động dạy nghề.
- Kinh phí đầu tư cho công tác GDNN tăng mạnh, thông qua các
chương trình mục tiêu quốc gia và đang phát huy hiệu quả.
- Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn tuy mới được triển khai,
nhưng đã khẳng định tính đúng đắn chủ trương của Đảng về phát triển nông
nghiệp, nông dân và nông thôn.
Những bất cập và yếu kém
a) Quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo nói chung và GDNN nói
riêng còn nhiều yếu kém, là nguyên nhân của nhiều yếu kém khác.
b) Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương đúng nhưng triển khai chưa tốt.
c) Chất lượng đào tạo nghề nhìn chung thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu của doanh nghiệp và của TTLĐ về kỹ năng cứng (kỹ năng nghề) và kỹ
năng mềm (tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo nhóm, an toàn
lao động…).
d) Hệ thống các cơ sở GDNN nhìn chung chưa đủ năng lực để đào tạo
nghề đáp ứng yêu cầu của người dân.
đ) Mạng lưới cơ sở GDNN tuy đã phát triển nhưng chủ yếu tập trung
ở đô thị.
116
e) Các điều kiện đảm bảo chất lượng còn hạn chế và không đồng bộ
đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả đào tạo.
f) Chưa có hệ thống tin dự báo nhu cầu lao động của xã hội vì vậy khó
có thể điều tiết hài hoà cung - cầu lực lượng lao động qua đào tạo.
g) Sự phối hợp giữa doanh nghiệp và CSDN còn lỏng lẻo.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
- Nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các cơ quan chức
năng về vị trí, vai trò của công tác dạy nghề chưa đầy đủ, trong một thời
gian dài người lao động ít được dạy nghề để chuyển đổi nghề, nhất là trong
điều kiện nông dân ngày càng thiếu đất sản xuất.
- Một số chủ trương chính sách chưa đủ sức hấp dẫn để người dân
hăng hái và yên tâm học nghề. Mức chi phí hỗ trợ người dân học nghề là
quá thấp. Việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
chưa được tiến hành đồng bộ, thống nhất; chưa có giải pháp gắn cơ sở đào
tạo nghề với các cơ sở sử dụng lao động.
- Công tác thông tin, tuyên truyền, tư vấn hướng nghiệp dạy nghề
chưa đủ mạnh.
- Nhà nước chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp
trong việc dạy nghề tạo việc làm cho người lao động sau khi học nghề.
- Việc đầu tư và quản lí ngân sách đối với công tác dạy nghề thiếu linh
hoạt, còn mang nặng cơ chế xin cho, áp đặt, chưa tạo sự chủ động cho người
dân lựa chọn ngành nghề cần đào tạo phù hợp với khả năng và hoàn cảnh.
- Công tác dự báo chưa tốt; việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn
nhân lực thiếu tính khoa học, chưa bảo đảm cung ứng tốt nguồn lao động
cho các ngành, các khu vực kinh tế, các địa phương.
- TTLĐ ở nước ta chưa phát triển nên sự điều tiết lao động còn mang
tính tự phát.
- Nhiều chương trình đào tạo nghề chưa phù hợp với thực tiễn sản
xuất kinh doanh, chưa thích ứng với nhu cầu về ngành nghề ở các vùng
miền và thiếu tính linh hoạt.
117
- Quản lí nhà nước đối với công tác dạy nghề còn phân tán thiếu sự
phối hợp giữa các bộ, sở, ngành, các cơ sở đào tạo; phương pháp quản lí vẫn
còn mang nặng tính quan liêu bao cấp, ôm đồm. Ngành nghề ở nhiều cơ sở
đào tạo chồng chéo kém hiệu quả.
- Các cơ sở đào tạo ngại đổi mới chương trình và phương pháp đào
tạo, chương trình giáo dục hướng nghiệp dạy nghề chưa có tính liên thông,
chưa thực sự đáp ứng về chất lượng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp;
chưa tạo điều kiện cho người học.
- Không phân luồng được học sinh sau THCS.
2.3.2. Một số vấn đề cốt lõi cần đổi mới
Từ những thực trạng GDNN Việt Nam và yêu cầu của giai đoạn
CNH-HĐH và Hội nhập quốc tế, có thể thấy những vần đề cốt lõi của
GDNN cần phải đổi mới, đó là:
a) Việt Nam cần xây dựng một hệ thống GDNN với triết lý mới và
cách thực hiện bằng những chính sách cụ thể, đó là tạo ra một hệ thống
GDNN mở, dân chủ, đại chúng, thực hiện tốt chức năng phân tầng thứ bậc
kỹ năng tay nghề một cách rõ ràng từ SCN, TCN, CĐN và nghề trình độ
cao. Một hệ thống GDNN phát triển rõ theo hướng ứng dụng đảm báo đáp
ứng nhu cầu của doanh nghiệp, TTLĐ và nhu cầu học suốt đời của người
dân. Tất cả các cơ sở GDNN phải đáp ứng được các điều kiện đảm bảo chất
lượng tối thiểu, có quan tâm phân tầng theo chất lượng, nhằm tạo điều kiện
tiếp cận giáo dục dạy nghề cho tất cả mọi người có nhu cầu học tập trên lãnh
thổ Việt Nam.
b) Phân cấp quản lý hệ thống GDNN triệt để và đổi mới căn bản quản
lý nhà nước về GDNN; tách bạch giữa quản lý nhà nước và quản trị nhà
trường. Chuyển từ Nhà nước kiểm soát sang nhà nước giám sát các hoạt
động đào tạo... Các cơ sở GDNN phải được tăng quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm xã hội.
c) Thực hiện xã hội hóa GDNN, chuyển trách nhiệm của nhà nước
sang trách nhiệm của cơ sở GDNN và doanh nghiệp, nhưng không thương
118
mại hoá GDNN trong tất cả các cấp bậc, trình độ đào tạo của hệ thống.
Khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển mạnh các cơ sở GDNN ngoài
công lập không vì lợi nhuận.
d) Phát triển cân đối giữa các trình độ đào tạo nghề; các nghề đào tạo
trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp và TTLĐ. Xây dựng một số các cơ sở
GDNN có chất lượng chất lượng cao để tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho
nền kinh tế.
đ) Mở rộng hội nhập quốc tế về GDNN thông qua các chương trình
hợp tác giao lưu song phương và đa phương ở các cấp trung ương, địa
phương và cơ sở đào tạo. Tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để các cơ
sở GDNN nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài hợp tác hoặ mở cơ sở
GDNN chất lượng cao ở Việt Nam.
3. Xu hướng phát triển giáo dục nghề nghiệp trong nền kinh tế
thị trường và hội nhập
a. Xu thế đổi mới mục tiêu giáo dục:
Mục tiêu giáo dục của các nước được đổi mới từ học để biết đến học
để lao động và trở thành người lao động.
b. Xu thế gắn kết văn hóa phổ thông với GDNN và hướng nghiệp
- Hướng thứ nhất, giáo dục phổ thông (hàn lâm) và hướng nghiệp.
- Hướng thứ hai là, “kỹ thuật tổng hợp hóa giáo dục phổ thông” tức là
người ta đưa vào giáo dục phổ thông những kiến thức về thế giới nghề
nghiệp và những yếu tố nghề nghiệp khác. Những yếu tố này không hẳn là
những kỹ năng, kỹ xảo của một nghề nào mà là những kiến thức kỹ thuật cơ
sở để từ đó học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức nghề nghiệp trong tương lai.
- Hướng thứ ba là “Dạy nghề hóa THPT” tức là ngoài những trường
nghề hiện có tuyển học sinh sau THCS và sau THPT vào học, người ta còn
đưa những kiến thức văn hóa phổ thông vào chương trình đào tạo nghề mà
trước kia không có để hình thành loại trường dạy nghề mới: trường dạy
nghề trung học hay còn gọi là trường trung học nghề.
119
c) Xu thế phân luồng và liên thông trong hệ thống giáo dục quốc dân
Để đáp ứng yêu cầu tự do chọn nghề của giáo dục hướng nghiệp
người ta tạo ra sự phân luồng và liên thông sau THCS và sau THPT. Ở đây
người ta thiết kế chương trình liên thông dọc từ THCS qua THPT lên đại
học. Ngoài ra người ta còn tạo ra liên thông ngang sau cấp THCS: từ THPT
bình thường sang THPT tổng hợp sang trung học nghề và ngược lại. Sự
phân luồng và liên thông như thế sẽ làm cho hệ thống giáo dục quốc dân
mềm dẻo, linh hoạt.
4. Kinh nghiệm phát triển giáo dục nghề nghiệp của một số
nước và những bài học cho Việt Nam
- Kinh nghiệm phát triển GDNN của Trung Quốc
- Kinh nghiệm phát triển GDNN của Nhật Bản
- Kinh nghiệm phát triển GDNN của Hàn Quốc
- Kinh nghiệm phát triển GDNN của Cộng hòa Liên bang Đức
- Kinh nghiệm phát triển GDNN của Australia
- Kinh nghiệm phát triển GDNN của Malaysia
- Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Hệ thống GDNN phải đảm bảo truyền thống và giữ gìn bản sắc dân
tộc, đồng thời phải là một hệ thống giáo dục dạy nghề mở (khai phóng), đa
dạng, tiên tiến, hiện đại, phân tầng trình độ và chất lượng, thích ứng cơ chế
thị trường và hội nhập quốc tế. Một hệ thống GDNN đáp ứng yêu cầu về
nhân lực (quy mô và cơ cấu) để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời thỏa
mãn nhu cầu học tập suốt đời của người dân. Hệ thống GDNN phải được
nhà nước quản lý giám sát chặt chẽ trên cơ sở cơ sở GDNN có quyền tự chủ
và tính trách nhiệm xã hội cao.
Từ kinh nghiệm các nước, để xây dựng một hệ thống GDNN ở nước
ta trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cần nghiên cứu xem xét
một số nguyên tắc cơ bản như sau:
120
Nguyên tắc 1: Đảm bảo nguyên tắc tự do, dân chủ, bình đẳng; mọi
người đều được học và ai cũng có thể được tiếp cận với các dịch vụ đào tạo
theo nhu cầu và năng lực của mình.
Nguyên tắc 2: Hệ thống GDNN phải thực hiện được mục tiêu đào tạo
nhân lực kỹ thuật, trong đó đào tạo nhân lực có kỹ năng nghề nghiệp cao giữ
vị trí quan trọng. GDNN phải đi trước một bước trong việc chuẩn bị nhân
lực cho phát triển kinh tế - xã hội trong sự cân đối về quy mô, chất lượng và
hiệu quả.
Nguyên tắc 3: Hệ thống GDNN nghề phải đa dạng (loại hình trường,
lớp; phương thức học tập; ngành nghề, thang bậc trình độ kỹ năng nghề
nghiệp), liên thông (dọc, ngang, trong, ngoài...), mềm dẻo (kết hợp niên chế
và học chế học phần, tín chỉ), đảm bảo đầy đủ tính dân chủ, công bằng
hướng đến người học và tạo điều kiện học tập cho tất cả mọi người.
Nguyên tắc 4: Hệ thống GDNN là hệ thống mở; mở với mọi người
(nền giáo dục dạy nghề đại chúng); mở với thực tiễn phát triển đất nước
(đầu tư cho GDNN là đầu tư cho phát triển với hiệu quả cao).
Nguyên tắc 5: Xây dựng hệ thống GDNN đảm bảo năng lực cạnh
tranh nội bộ giữa các cơ sở GDNN trong hệ thống, cạnh tranh giữa với
GDNN khu vực và quốc tế trong bối cảnh tự do di chuyển lao động và
hướng tới công nhận kỹ năng nghề giữa các nước trọng khu vực ASEAN.
Nguyên tắc 6: Hệ thống GDNN từng bước cạnh tranh và hội nhập
quốc tế, đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại, truyền thống dân tộc phù hợp với
điều kiện Việt Nam.
Nguyên tắc 7: Mỗi người đi học dù ở bất cứ nghề nào, thuộc trình độ
đào tạo nào cũng phải được học tập theo năng lực cao nhất của mình để đưa
trình độ nghề của bản thân lên mức độ cao hơn.
Nguyên tắc 8: Hệ thống giáo dục dạy nghề được đề xuất phải có tính
khả thi, mặc dù nếu có phải chấp nhận có sự xáo trộn “cục bộ” trong ổn định
tương đối của toàn hệ thống.
121
CHƯƠNG II
QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC
NGHỀ NGHIỆP Ở VIỆT NAM
I. BỐI CẢNH VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
NGHỀ NGHIỆP
1. Bối cảnh quốc tế
- Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về giáo dục đào tạo đã trở thành xu
thế tất yếu.
- Khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, đòi hỏi GDNN phải
nhanh chóng thích ứng.
2. Bối cảnh trong nước
2.1. Thuận lợi
- Đất nước ổn định về chính trị với những thành tựu phát triển kinh tế
- xã hội trong 10 năm qua, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020
cùng với Chiến lược và Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 -
2020 là những tiền đề cơ bản để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục Việt Nam.
- Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm, chăm lo phát triển
giáo dục và đào tạo.
- Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh làm biến đổi sâu
sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để đổi mới cơ
bản, toàn diện nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đổi
mới quản lý giáo dục và xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại đáp
ứng nhu cầu của xã hội và cá nhân người học.
- Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục đang diễn ra ở quy
mô toàn cầu tạo cơ hội thuận lợi để nước ta tiếp cận với các xu thế mới, tri
thức mới, những mô hình giáo dục và quản lý giáo dục hiện đại và tranh thủ
các nguồn lực bên ngoài để phát triển giáo dục.
122
- Giáo dục trên thế giới đang diễn ra những xu hướng mới: xây dựng
xã hội học tập cùng với các điều kiện đảm bảo học tập suốt đời; đại chúng
hóa, đa dạng hóa, toàn cầu hóa, hội nhập và hợp tác cùng với cạnh tranh
quốc tế về giáo dục.
2.2. Khó khăn
- Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, đặt ra nhiệm vụ nặng nề và
thách thức lớn đối với sự phát triển giáo dục và đào tạo.
- Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, sự phát triển không
đều giữa các địa phương ngày càng rõ rệt sẽ có thể dẫn đến sự gia tăng thiếu
bình đẳng trong tiếp cận giáo dục và khoảng cách chất lượng giáo dục giữa
các đối tượng người học và các vùng miền.
- Tư duy bao cấp, sức ỳ trong nhận thức, tác phong quan liêu trong
hành động về giáo dục của nhiều cấp, nhiều ngành, của nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục cũng như của người dân còn lớn, không theo kịp sự phát
triển nhanh của kinh tế, xã hội và khoa học công nghệ.
- Khoảng cách phát triển về kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ,
giáo dục và đào tạo giữa nước ta và các nước tiên tiến trong khu vực, trên
thế giới có xu hướng gia tăng.
- Thị trường lao động nước ta đang trong quá trình phát triển và mối
quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường diễn ra chưa theo đúng quy
luật (cung thật, cung ảo, cầu thật, cầu ảo…), đã, đang và sẽ tác động không
nhỏ đến các hoạt động GDNN.
- Tâm lý, nhận thức của người dân, của thanh niên về học nghề và lựa
chọn nghề nghiệp vẫn đang là rào cản thu hút học sinh vào học hệ GDNN.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới căn bản và toàn diện GDNN
- Nền kinh tế thị trường;
- Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại;
- Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
- Xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện đại và sự hội nhập quốc tế.
123
II. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU
1. Quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục - đào tạo nói chung
Đại hội XI của Đảng xác định "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong
đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý là khâu then chốt..."(3)(12).
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn
đề lớn, cốt lõi để nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hướng vào giải quyết những vấn
đề lớn, cấp thiết, cốt lõi để từ đó tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ về chất
lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân.
Đổi mới nhằm chuyển quá trình giáo dục: 1) từ chủ yếu dạy chữ sang
kết hợp hài hòa dạy người, dạy chữ và dạy nghề; 2) từ chủ yếu nặng về đối
phó với thi cử sang học để biết, để sống và làm việc có hiệu quả; 3) từ chủ
yếu đào tạo theo khả năng của các cơ sở giáo dục sang đào tạo đáp ứng nhu
cầu xã hội, TTLĐ và nhu cầu của người học.
Đổi mới phải đảm bảo tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, các giải
pháp đồng bộ, khả thi, có cơ sở khoa học. Đổi mới không né tránh những
vấn đề khó như đổi mới tư duy giáo dục, các cơ chế, chính sách và các điều
kiện đảm bảo chất lượng giáo dục,...
Đổi mới căn bản và toàn diện không có nghĩa là làm lại tất cả, từ đầu
mà cần xem xét chấn chỉnh những lệch lạc, củng cố những kết quả đã đạt
được, phát triển những nhân tố mới tích cực; đổi mới có trọng tâm, trọng
điểm, có lộ trình phù hợp với thực tế đất nước, địa phương. Những hạn chế,
thách thức của giáo dục phải được nhận thức sâu sắc, có giải pháp hữu hiệu
và lộ trình để khắc phục, vượt qua.
Do đó, cần tiếp tục thực hiện các quan điểm của Đảng về giáo dục và
đào tạo đến nay vẫn còn nguyên giá trị: Giáo dục và đào tạo là quốc sách
(12)
(3) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr 130-131
124
hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên trước; giáo
dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và toàn dân; mục tiêu của giáo
dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; giáo dục phải
gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học - công nghệ; đa dạng
hóa các loại hình giáo dục; học đi đôi với hành, giáo dục của nhà trường gắn
liền với giáo dục của gia đình và của xã hội; thực hiện công bằng trong giáo
dục; ưu tiên phát triển giáo dục vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và các đối tượng diện chính sách…
Trong bối cảnh đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập quốc tế, trước thực
trạng nền giáo dục hiện nay, việc đổi mới giáo dục và đào tạo cần quán triệt
thêm một số quan điểm sau(13):
1. Giáo dục giữ vai trò quyết định thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, cần được ưu tiên trong các chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; ưu tiên đầu tư về tài chính và nhân
lực. Quan điểm này nhằm thực hiện chủ trương giáo dục là quốc sách hàng
đầu, đầu tư giáo dục là đầu tư phát triển.
2. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu chú trọng kiến thức sang
tập trung phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Quan điểm
này nhằm thực hiện đúng mục tiêu cốt lõi của giáo dục và quán triệt phương
châm “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”.
3. Chuyển mô hình phát triển giáo dục hiện nay chủ yếu theo quy mô,
số lượng sang phát triển vừa lấy trọng tâm là nâng cao chất lượng, hiệu quả,
vừa chú ý quy mô, số lượng; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa. Quan điểm
này đảm bảo sự phát triển giáo dục phù hợp với mô hình phát triển kinh tế -
xã hội đất nước từ chiều rộng sang chiều sâu, phù hợp quy luật phát triển
khách quan.
4. Chuyển hệ thống giáo dục "đóng", cứng nhắc, thiếu tính liên thông
hiện nay sang hệ thống giáo dục "mở", linh hoạt, đẩy mạnh phân luồng sau
THCS, bảo đảm liên thông giữa các cấp học, trình độ và giữa các phương
thức đào tạo; hình thành cơ chế học tập suốt đời gắn với xây dựng xã hội
học tập; thực hiện xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Quan điểm
(13)
Dự thảo Nghị quyết của BCH TƯ về “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
Việt Nam…”
125
này đảm bảo thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục, sử dụng lợi thế
của công nghệ thông tin, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người học.
5. Phát triển giáo dục phù hợp với cơ chế thị trường, bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển hài hòa, bình đẳng, hỗ trợ lẫn nhau giữa
giáo dục công lập và ngoài công lập, giáo dục các vùng, miền. Quan điểm này
đảm bảo khai thác được tối đa các điều kiện, nguồn lực cho phát triển giáo
dục - đào tạo trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế; xử lý hiệu quả mối quan hệ công - tư trong đầu tư phát triển.
6. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào
tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập để phát
triển đất nước. Việc hội nhập phải trên cơ sở giữ gìn bản sắc văn hóa và
độc lập dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát triển bền vững
giáo dục nước nhà. Quan điểm này nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong
quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.
2. Quan điểm về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
nghề nghiệp
Từ những quan điểm, định hướng chung về giáo dục và đào tạo có thể
nêu một số quan điểm đổi mới căn bản và toàn diện GDNN trong giai đoạn
mới:
a) Phát triển GDNN là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của các cấp,
các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
b) Học nghề là quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động để nâng cao
kỹ năng nghề nghiệp, tạo cơ hội có việc làm bền vững, tăng thu nhập và
nâng cao chất lượng cuộc sống.
c) Gắn đào tạo nghề nghiệp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng vùng, từng ngành, từng địa phương;
mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào tạo, ưu tiên
đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực đối với một số ngành nghề mũi nhọn và
một số ngành nghề giải quyết nhiều lao động và xuất khẩu lao động; Đa
dạng các hình thức dạy nghề phù hợp với nghề đào tạo và điều kiện tự
nhiên, tập quán người lao động ở từng vùng, miền; có chính sách khuyến
khích đào tạo nghề ở các doanh nghiệp và các làng nghề.
126
d) Đổi mới và phát triển GDNN theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu
quả đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tham gia học nghề phù
hợp với trình độ học vấn, điều kiện kinh tế và nhu cầu học nghề của mình.
3. Định hướng phát triển giáo dục nghề nghiệp
- Trước hết phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa tư duy về đào tạo nhân lực.
- (14)Đổi mới và phát triển GDNN theo hướng cầu của TTLĐ, gắn với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng vùng, từng địa
phương và gắng với giải quyết nhu cầu việc làm của người lao động ở trong
nước và nhu cầu xuất khẩu lao động.
- Đổi mới và phát triển GDNN theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa
một cách toàn diện, đồng bộ từ mục tiêu đến nội dung chương trình, phương
pháp đào tạo, phương pháp đánh giá kết quả học tập và các điều kiện đảm
bảo chất lượng đào tạo khác; thực hiện sự công nhận, liên thông lẫn nhau
giữa các trình độ đào tạo trong GDNN và giữa GDNN với các phân hệ giáo
dục khác cũng như với các nước trong khu vực và quốc tế.
- Lựa chọn lĩnh vực ưu tiên, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tiên tiến
của các nước, tạo bước đột phá trong GDNN; thực hiện việc liên kết, liên
thông và hội nhập trên mọi phương diện trong GDNN và tăng cường sử
dụng hiệu quả người tốt nghiệp ở trong nước và ở nước ngoài.
- Đổi mới và phát triển GDNN theo hướng đa dạng hóa cơ sở GDNN,
ngành nghề đào tạo, trình độ đào tạo, phương thức đào tạo… đảm bảo cơ
cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo hợp lí, phù hợp với cơ cấu lao động
và cơ cấu phát triển của nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phát triển GDNN theo hướng xã hội hóa, đẩy mạnh đào tạo tại doanh
nghiệp; Nhà nước ban hành cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi để các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội, nhất là các doanh nghiệp,
hiệp hội nghề nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tham gia phát
triển GDNN, thường xuyên tìm thêm các nguồn thu cùng với việc tăng tỉ lệ
ngân sách chi cho GDNN; đồng thời quản lý tốt nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn kinh phí có được.
(14)
Phan Văn Nhân, GDNN trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, NXB
Đại học sư phạm, 2009
127
- Bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề thường
xuyên và suốt đời cho mọi người, góp phần xây dựng xã hội học tập ở Việt
Nam trong những thập niên tới.
4. Mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện GDNN
Văn kiện trình Hội nghị Trung ương VIII ( khóa XI) về đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục Việt Nam đề đề ra mục tiêu chung là:
Tạo chuyển biến căn bản về chất lượng và hiệu quả giáo dục; khắc
phục cơ bản các yếu kém kéo dài. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục
Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và hội nhập quốc tế.
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, yêu gia đình, yêu
Tổ quốc; có hiểu biết và kỹ năng cơ bản, khả năng sáng tạo để làm chủ bản
thân, sống tốt và làm việc hiệu quả - thực học, thực nghiệp; phát triển tốt
nhất tiềm năng của mỗi cá nhân; đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất
nước.
Xây dựng nền giáo dục mở, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt, có cơ cấu và
phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các
điều kiện nâng cao chất lượng. Hệ thống giáo dục được chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc.
Đối với GDNN, mục tiêu đề ra là: Tập trung đào tạo nhân lực có kiến
thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục
nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp
theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ
thuật của doanh nghiệp, thị trường lao động trong nước và xuất khẩu.
III. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GDNN
1. Đổi mới về thể chế, chính sách
Trước hết làm rõ và phân luồng trong hệ thống giáo dục – đào tạo,
hình thành hai luồng “hàn lâm” và luồng “thực hành”. Theo đó, ngay từ sau
trung học cơ sở, học sinh đã có thể phân luồng hoặc là vào luồng “hàn lâm”
(số nhiều) và luồng “thực hành” (số ít); việc phân luồng này diễn ra mạnh
mẽ sau THPT và luồng “thực hành” sẽ thu hút nhiều học sinh hơn. Như vậy,
cần phải điều chỉnh, sửa đổi các luật có liên quan, trước hết là Luật dạy
128
nghề, Luật giáo dục, trong đó cần làm rõ cơ cấu hệ thống, làm rõ trách
nhiệm quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
trách nhiệm của doanh nghiệp. Tiếp theo, cần điều chỉnh, bổ sung các cơ
chế, chính sách về tự chủ đối với các cơ sở GDNN, theo hướng Nghị quyết
TW 8 (Nghị quyết số 29-NQ/TW đã chỉ ra là trao quyền cho cơ sở GDNN,
gắn với tự chịu trách nhiệm).
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách về GDNN:
+ Có chính sách đãi ngộ, thu hút giáo viên dạy nghề.
+ Đổi mới chính sách tài chính về GDNN: có chính sách thu học phí
phân biệt theo nghề và trình độ đào tạo; thực hiện cơ chế đặt hàng đào tạo
cho các cơ sở GDNN, không phân biệt hình thức sở hữu. Ngân sách nhà
nước tập trung đầu tư cho những cơ sở GDNN chất lượng cao, các nghề
trọng điểm, các vùng khó khăn, vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa; phát
triển chương trình; đào tạo nghề cho lao động nông thôn; đào tạo nghề cho
các đối tượng chính sách, nhóm yếu thế trong xã hội và phổ cập nghề cho
người lao động. Có cơ chế, chính sách thu hút nguồn lực trong và ngoài
nước để phát triển dạy nghề.
+ Có chính sách đối với người lao động qua đào tạo nghề; chính sách
đào tạo liên thông, hỗ trợ người học nghề (ưu tiên đối tượng chính sách,
người dân tộc thiểu số, người khuyết tật và những người thuộc nhóm “yếu
thế” khác); chính sách đối với một số nghề đặc thù, nghề xã hội có nhu cầu
nhưng khó thu hút học sinh vào học nghề.
- Đa dạng hoá các phương thức đào tạo. Xây dựng các chương trình
đào tạo theo mô đun và học chế tín chỉ, cho phép người học được công nhận
và tích lũy kết quả học tập để có thể học liên thông theo các phương thức,
các trình độ đào tạo khác nhau.
- Đẩy mạnh đào tạo nghề, bồi dưỡng năng lực, kỹ năng nghề tại cơ sở
sản xuất, kinh doanh.
- Xây dựng cơ chế để doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động tham gia
xây dựng, đánh giá, điều chỉnh chương trình đào tạo, hướng dẫn thực hành,
thực tập và đánh giá năng lực người học.
129
2. Đổi mới cơ cấu GDNN
Chuyển hệ thống GDNN khép kín thành hệ thống giáo dục mở, linh
hoạt, liên thông giữa các thành tố của hệ thống và liên thông với môi trường
bên ngoài hệ thống giáo dục.
Đổi mới cơ cấu GDNN được đổi mới trên cơ sở xây dựng khung trình
độ quốc gia, tiêu chuẩn kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với bối cảnh đất nước
và xu thế các nước trong khu vực và trên thế giới; đồng thời trên cơ sở
những điều chỉnh trong hai luật là Luật Giáo dục và Luật Dạy nghề. Theo
đó, cần thống nhất hệ thống GDNN gồm ba cấp trình độ là sơ cấp, trung cấp
và cao đẳng. Theo đó, những lĩnh vực, ngành nghề nào có tính công nghệ,
thực hành sẽ được xếp vào hệ Trung cấp nghề và cao đẳng nghề; không tồn
tại hệ trung cấp chuyên nghiệp. Có thể hình thành loại cao đẳng nghề hai
năm hoặc ba năm tùy theo “đầu vào” và nghề đào tạo. Như vậy trong hệ
thống GDNN mới sẽ gồm 3 trình độ đào tạo là:
i) Trình độ đào tạo nghề ngắn hạn dưới 1 năm;
ii) Trình độ trung cấp nghề (1 đến 2 năm);
iii) Trình độ cao đẳng nghề (2 đến 3 năm).
3. Đổi mới hoạt động đào tạo
Chuyển chương trình GDNN từ chủ yếu nhằm trang bị kiến thức sang
mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực người học. Đa dạng hóa nội dung
giáo dục nghề nghiệp theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình
thành năng lực nghề nghiệp cho người học.
Trên cơ sở phân cấp quản lý, các cơ sở GDNN tự chịu trách nhiệm về
các hoạt động đào tạo và chịu sự đánh giá định kỳ của các cơ quan kiểm
định chất lượng của nhà nước.
Nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục phải
chú trọng đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào việc giải
quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn; hạn chế yêu cầu ghi nhớ máy
móc, “học tủ”; đánh giá được sự tiến bộ về phẩm chất và năng lực của người
học; phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học và đánh giá cuối
130
kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy và tự đánh giá của người học;
đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, của xã hội. Đổi mới
phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp đối với GDNN trên cơ sở
đánh giá năng lực thực hiện, kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, có
sự tham gia của doanh nghiệp hoặc đại diện sử dụng lao động;
4. Đổi mới quản lý GDNN
- Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về GDNN theo hướng phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, gắn với trách nhiệm và tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra; đảm bảo sự giám sát của cơ quan nhà
nước và các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân.
- Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về GDNN
các cấp. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong dạy và
học nghề. Các cơ quan quản lý GDNN địa phương được chủ động quyết
định hoặc tham gia trực tiếp về quản lý nhân sự, tài chính cùng với quản lý
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của GDNN.
- Coi trọng quản lý chất lượng đầu ra, quản lý quá trình đào tạo và
chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng. Xây dựng hệ thống kiểm định
độc lập về chất lượng GDNN.
- Có cơ chế để cơ sở GDNN là một chủ thể độc lập, tự chủ; người
đứng đầu cơ sở GDNN phải được đào tạo về quản lý giáo dục và phải tự
chịu trách nhiệm trước pháp luật, chịu sự giám sát của các chủ thể trong nhà
trường, của Nhà nước và của xã hội đối với cơ sở GDNN; đồng thời tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý các cấp.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý
GDNN; xây dựng cơ sở dữ liệu về GDNN.
- Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN theo nghề lĩnh vực, theo vùng,
địa phương; chú trọng phân bố các trường chất lượng cao ở các vùng kinh tế
động lực; ưu tiên thành lập mới cơ sở GDNN ngoài công lập; khuyến khích
hợp tác và thành lập các cơ sở GDNN có vốn đầu tư nước ngoài. Có một số
cơ sở GDNN chuyên biệt đối với người khuyết tật, dạy nghề đối với người
dân tộc thiểu số.
131
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
Nâng cao nhận thức về GDNN
- Các cấp uỷ Đảng, chính quyền phải quán triệt tinh thần Nghị quyết
của Đại hội Đảng XI về vai trò, vị trí của GDNN trong phát triển nguồn
nhân lực và trong chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực của đất nước
thời kỳ 2011 - 2020 để chỉ đạo xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực của
Bộ, ngành địa phương và tổ chức thực hiện.
- Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hội nghề
nghiệp cẩn tổ chức quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về phát triển giáo dục đào tạo, trong đó có GDNN giai đoạn 2011 -2020 và
tuyên truyền, tư vấn, hướng nghiệp đoàn viên, hội viên của tổ chức mình
thực hiện. Bên cạnh đó, cần phải hình thành thang giá trị nghề nghiệp trong
xã hội.
- Tăng cường công tác tư vấn, hướng nghiệp trong nhà trường; hình
thành các bộ phận chuyên trách làm công tác tư vấn, hướng nghiệp cho
người học nghề.
1. Các giải pháp đổi mới cấu trúc hệ thống
Đề xuất điều chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng
GDNN là một phân hệ trong hệ thống giáo dục quốc dân, trên cơ sở hợp
nhất (có điều chỉnh) trung cấp và TCN thành GDNN và với tên gọi mới có
thể là giáo dục nghề (VET).
Đồng thời với việc sáp nhập, cần hình thành hai luồng giáo dục - đào
tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân sau THCS, đó là luồng giáo dục “hàn
lâm” (Academical Stream) và luồng giáo dục “thực hành” (practical Stream)
hay công nghệ (technological Stream). Luồng hàn lâm bắt đầu từ một phần
từ trung học cơ sở (THCS) và nối tiếp ở các bậc học cao hơn đến đại học,
sau đại học để đào tạo lao động trình độ cao, có năng lực nghiên cứu khoa
học trong các lĩnh vực khoa học cơ bản và khoa học xã hội và nhân văn.
Luồng thực hành bắt đầu phân luồng từ THCS và/hoặc THPT với các loại
hình đa dạng, đào tạo từ trình độ thấp lên trình độ cao tới đại học và sau đại
học công nghệ. Luồng thực hành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu đào tạo
quốc dân và giáo dục nghề nằm trong luồng này để đào tạo nhân lực trực
tiếp sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực (kỹ thuật và công nghệ hoặc có
132
tính ứng dụng, thực hành) của nền kinh tế quốc dân. Với việc hình thành hai
luồng này, giáo dục nghề thuộc luồng thực hành gồm 3 trình độ đào tạo:
- Trình độ đào tạo SCN (mới) dưới 1 năm thay cho trình độ SCN của
Luật giáo dục (từ 3 tháng đến dưới 1 năm);
- Trình độ đào tạo trung cấp, trên cơ sở hợp nhất TCCN và TCN;
- Trình độ CĐN như quy định của Luật Dạy nghề.
Tương thích với các trình độ đào tạo nêu trên có 3 loại cơ sở GDNN là
trung tâm GDNN; trường trung cấp và trường cao đẳng.
Với sự đổi mới cơ cấu hệ thống này, các chương trình đã ban hành,
đang được thực hiện (bao gồm cả TCNN và cao đẳng) phải điều chỉnh theo
hướng chủ yếu là thực hành và thiết kế theo môđun.
Về tên gọi, như đã nêu ở chương I, để phù hợp với tên gọi quốc tế khi
Việt Nam hội nhập và công nhận kỹ năng nghề giữa các nước, có thể gọi
GDNN là giáo dục kỹ thuật và dạy nghề (TVET) hoặc giáo dục nghề (VET).
2. Các giải pháp đổi mới hoạt động đào tạo
- Tuyển sinh và đánh giá kết quả đào tạo
Đổi mới quá trình tuyển sinh, đánh giá kết quả học tập và tốt nghiệp,
theo hướng có nhiều kỳ tuyển sinh; người học được học theo mô đun và
đánh giá kết quả ngay, không tổ chức kỳ thi cuối khóa. Khi học hết mô đun
cuối cùng là được cấp bằng/chứng chỉ tùy theo bậc học và trình độ. Việc
đánh giá kỹ năng nghề của người học được thực hiện đối với từng mô đun
và có sự tham gia của đại diện doanh nghiệp đối với các nghề tương thích.
- Nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo
+ Phát triển chương trình đào tạo phù hợp với công nghệ sản xuất hiện
đại theo hướng mở, mềm dẻo thích hợp với các cấp và trình độ đào tạo; áp
dụng một số chương trình đào tạo của các nước tiên tiến trong khu vực và
thế giới phù hợp với yêu cầu kinh tế - xã hội của Việt Nam. Các trường xây
dựng chương trình, giáo trình đáp ứng khung chương trình và tiêu chuẩn kỹ
năng nghề. Thống nhất khung chương trình GDNN cả 3 cấp trình độ trong
toàn quốc theo trình độ chuẩn quốc gia; tạo điều kiện để các trường tự chủ
một phần chương trình, giáo trình phù hợp với yêu cầu nguồn nhân lực địa
phương, cơ sở sử dụng.
133
+ Đổi mới phương pháp đào tạo, “lấy người học là trung tâm”, phát
huy năng lực sáng tạo của người học, hướng tới hình thành năng lực thực
hiện cho người học; giáo viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng. Ứng dụng
rộng rãi công nghệ thông tin trong đào tạo; phát triển đào tạo qua mạng.
+ Thực hiện việc kiểm định chất lượng cơ sở đào tạo và chương trình
đào tạo theo những tiêu chuẩn của các nước tiên tiến.
- Đổi mới cách đánh giá gắn kết giữa đào tạo và việc làm
+ Xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ giữa GDNN với thị trường lao
động ở các cấp;
+ Xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia đáp ứng yêu cầu của
TTLĐ. Xây dựng ngân hành đề thi, thiết lập hệ thống thông tin quản lý. Các
trường cần phát triển các đơn vị quan hệ doanh nghiệp để nắm bắt nhu cầu
của các doanh nghiệp;
+ Xây dựng mạng lưới các trung tâm đánh giá và kiểm định chất
lượng, kỹ năng nghề, tổ chức đánh giá và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
người được tham gia dự đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề.
+ Doanh nghiệp có trách nhiệm chính trong việc đào tạo nghề cho
doanh nghiệp của mình; có trách nhiệm đóng góp vào quỹ hỗ trợ học nghề;
đồng thời trực tiếp tham gia vào các hoạt động đào tạo.
+ Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin về nhu cầu việc
làm và các chế độ cho người lao động cho các cơ sở GDNN; đồng thời
thường xuyên có thông tin phản hồi cho cơ sở GDNN về mức độ hài lòng
đối với “sản phẩm” đào tạo của cơ sở GDNN.
3. Giải pháp đổi mới quản lý GDNN theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và Hội nhập quốc tế
a) Chuẩn hoá GDNN
Chuẩn hoá ở đây được thực hiện trên cơ sở các chuẩn của khung trình độ
quốc gia/khung trình độ nghề quốc gia (hướng tới chuẩn đầu ra). Do đó phải
thực hiện chuẩn hóa toàn diện về đội ngũ giáo viên, nội dung, chương trình, cơ
sở vật chất - trang thiết bị đào tạo; đồng thời chuẩn hoá quản lý đào tạo.
134
b) Hiện đại hoá GDNN
- Thành tựu của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin và
truyền thông từ cuối thế kỷ XX và những năm gần đây đã tạo ra cơ hội lớn
cho tiến trình hiện đại hoá nền giáo dục nói chung trong đó có GDNN.
- Hiện đại hoá GDNN nước ta trên cơ sở triết lý đã nêu trên: nhân bản
- dân tộc và khai phóng, hàm nghĩa phát huy truyền thống giáo dục Việt
Nam với tiếp thu nội dung, hình thức, phương thức giáo dục mới, tiên tiến,
hiện đại, mang lại sức sống mới cho nền GDNN Việt Nam.
- GDNN Việt Nam hiện nay đang tích cực và chủ động khắc phục
những mâu thuẫn và thách thức trong quá trình hiện đại hoá. Đó là những
mâu thuẫn, thách thức giữa quy mô và chất lượng, giữa cung và cầu nhân
lực qua đào tạo nghề nghiêp; giữa cá thể và toàn thể; giữa hợp tác và cạnh
tranh; giữa thị trường và phúc lợi giáo dục; giữa cục bộ và toàn cầu; giữa lâu
dài và trước mắt...
c) Phát triển GDNN theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa
Phát triển GDNN theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, trong đó trọng
tâm là xây dựng khung trình độ nghề quốc gia làm bộ công cụ, hệ thống
đánh giá năng lực nghề của người lao động sau đào tạo. Các chương trình
đào tạo được thiết kế trên cơ sở khung trình độ nghề quốc gia, từ đó xây
dựng các tiêu chuẩn trong lĩnh vực GDNN như tiêu chuẩn kỹ năng nghề;
tiêu chuẩn giáo viên dạy nghề; tiêu chuẩn về cơ sở vật chất, thiết bị, trường
học, xưởng thực hành; ban hành danh mục thiết bị dạy nghề chuẩn theo cấp
trình độ đào tạo và nghề đào tạo. Đồng thời, tiếp tục nâng cao chất lượng
đào tạo, với các điểm chủ yếu như:
+ Hình thành các trường nghề chất lượng cao được tập trung đầu tư
đồng bộ, hiện đại từ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên, chương
trình, phương pháp đào tạo.
+ Hình thành các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế
trong các trường nghề, để tập trung đầu tư theo nghề.
+ Tập trung đầu tư phát triển đội ngũ giảng viên cao đẳng, giáo viên
trung cấp có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề tương đương trình độ
khu vực và thế giới; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý GDNN.
Đây là một trong những giải pháp có tính đột phá để nâng cao chất lượng
đào tạo.
135
d) Tách bạch công tác quản lý nhà nước về GDNN với công việc
quản trị của cơ sở GDNN.
- Quản lý nhà nước tập trung vào việc xây dựng chiến lược, chính
sách, khung pháp lý; xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển GDNN; chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực
hiện chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển GDNN; không làm thay
công việc quản trị của cơ sở GDNN. Đẩy mạnh phân cấp đi đôi với tăng
cường kỷ cương trong quản lý, hoàn thiện các thể chế quản lý, nâng cao
năng lực của bộ máy quản lý GDNN các cấp và kiểm tra, giám sát, xử lý
nghiêm minh, kịp thời các sai phạm.
- Tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về GDNN cho các Bộ,
ngành và các địa phương, nâng cao trách nhiệm và phát huy tính tích cực,
năng động, sáng tạo của các cấp, các ngành;
- Tăng cường vai trò giám sát của cộng đồng, của các đoàn thể, đặc
biệt là các hội nghề nghiệp đối với hoạt động GDNN.
đ) Thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về GDNN (mới) như đã nêu
trên.
Theo chúng tôi, trong giai đoạn hiện nay và với kinh nghiệm quản lý
đã đạt được, GDNN nên giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
quản lý là phù hợp hơn cả.
e) Đổi mới quản trị cơ sở GDNN theo hướng phát huy dân chủ, tăng
cường vai trò của Hội đồng trường.
f) Tăng cường quản lý quá trình đào tạo và chất lượng đầu ra trên cơ
sở xây dựng các chuẩn, đồng thời chuẩn hóa các điều kiện đảm bảo chất
lượng đào tạo. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng đào tạo.
Công khai hóa và xây dựng cơ chế chia sẻ các thông tin về hoạt động đào
tạo, kể cả các kết quả “đầu ra” của đào tạo, việc làm của học sinh, sinh viên.
Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động đào tạo của cơ sở
GDNN (đánh giá giáo viên, chương trình đào tạo, các hoạt động quản lý của
nhà trường, các dịch vụ hỗ trợ cho học sinh, sinh viên…); nhà giáo tham gia
đánh giá cán bộ quản lý; cán bộ quản lý cấp dưới tham gia đánh giá cán bộ
quản lý cấp trên; cơ sở giáo dục tham gia đánh giá cơ quan quản lý nhà
136
nước về GDNN. Đánh giá, đo lường được mức độ hài lòng của người dân
đối với sự phục vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về GDNN và của các
cơ sở GDNN.
g) Phát triển hệ thống thông tin quản lý GDNN, gắn kết giữa cơ sở
GDNN với doanh nghiệp và TTLĐ. Tăng cường công tác dự báo về nhu cầu
nguồn nhân lực của xã hội theo từng nhóm ngành, nghề, trình độ. Đẩy mạnh
ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý GDNN.
4. Đẩy mạnh xã hội hoá và dân chủ hoá trong hoạt động GDNN
a) Xã hội hoá hoạt động GDNN
“Xã hội hoá giáo dục” là chủ trương nhất quán của Đảng để đẩy
mạnh phát triển giáo dục ở nước ta và để thực hiện nguyên lý giáo dục của
Đảng, đó là gắn nhà trường, gắn giáo dục với xã hội, giáo dục luôn đáp ứng
nhu cầu xã hội.
Đẩy mạnh xã hội hoá, đa dạng nguồn lực cho phát triển GDNN bao
gồm, nhà nước, doanh nghiệp, người học, các nhà đầu tư trong và ngoài
nước, trong đó nguồn ngân sách nhà nước là quan trọng. Nhà nước có chính
sách hỗ trợ về vốn, đất đai, thuế đối với các cơ sở GDNN ngoài công lập.
b) Dân chủ hoá nền giáo dục
Cần nâng cao trách nhiệm pháp lý trong giáo dục giữa các cơ quan
quản lý về giáo dục và những người tham gia hoạt động giáo dục trong thực
hiện quyền dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong giáo dục,
xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, minh bạch và trong sáng.
Cần tăng cường vai trò của của các hiệp hội về giáo dục để có những giám
sát, những phản biện xã hội đối với chính sách và cách điều hành, quản lý
GDNN nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp và tạo được tổng lực mạnh
mẽ cho phát triển sự nghiệp GDNN.
c) Xã hội hóa và dân chủ hóa trong hoạt động GDNN
Xã hội hóa và dân chủ hóa trong hoạt động GDNN bao gồm các nhiệm
vụ sau:
+ Phát triển các cơ sở GDNN ngoài công lập (chiếm 30% - 40%).Có
cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp thành lập trường nghề,
137
TTDN; liên kết với trường nghề trong đào tạo và giải quyết việc làm; nhận
học sinh, sinh viên của nhà trường đến doanh nghiệp thực hành, thực tập.
Xây dựng các mô hình, hình thức và phương thức hợp tác, gắn kết giữa
doanh nghiệp và cơ sở đào tạo. Phát triển mạnh các CSDN tại doanh nghiệp
để đào tạo nghề cho lao động của doanh nghiệp và cho xã hội; khuyến khích
phát triển dạy nghề tại dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp.
+ Huy động doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo
nghề, như: xây dựng mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy nghề; xây dựng
danh mục nghề, tiêu chuẩn nghề; tham gia giảng dạy và đánh giá kỹ năng
nghề cho người lao động.
+ Đa dạng hóa nguồn lực: Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư
cho phát triển GDNN. Thu hút các nguồn lực quốc tế trong GDNN; đồng
thời, huy động các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước,
người học để phát triển GDNN.
+ Đa dạng hóa các hình thức, loại hình đào tạo (chính quy, thường
xuyên, dạy nghề tại doanh nghiệp, tại làng nghề…) với các chương trình,
các khóa đào tạo phù hợp; coi trọng việc mở rộng hình thức đào tạo theo
hợp đồng, đặt hàng giữa cơ sở GDNN với doanh nghiệp sử dụng lao động;
đáp ứng nhu cầu học nghề của mọi người, đặc biệt là lao động nông thôn,
hướng tới phổ cập nghề cho lao động thanh niên.
+ Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về GDNN theo hướng phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, gắn với trách nhiệm và tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra; bảo đảm sự giám sát của cơ quan nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Có cơ chế để cơ sở
GDNN là một chủ thể độc lập, tự chủ; người đứng đầu cơ sở GDNN tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật và phải được đào tạo về quản lý đào tạo. Thực
hiện cơ chế dân chủ trong nhà trường, tăng cường vai trò của hội đồng
trường trong các định hướng hoạt động đào tạo của cơ sở GDNN.
5. Hội nhập quốc tế về giáo dục nghề nghiệp
Hội nhập quốc tế về GDNN với những hướng chủ yếu sau:
- Mở rộng hợp tác quốc tế để trao đổi và học tập kinh nghiệm của các
nước trong phát triển GDNN. Tăng cường hợp tác quốc tế về GDNN, lựa
138
chọn những nước thành công trong phát triển GDNN ở khu vực ASEAN và
châu Á, EU và Bắc Mỹ làm các đối tác chiến lược trong lĩnh vực GDNN.
- Hợp tác với các nước ASEAN để tiến tới công nhận kỹ năng nghề
giữa các nước, hướng tới Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
- Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học về GDNN, nghiên cứu,
ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ GDNN tiên tiến để nâng cao
chất lượng đào tạo nghề. Tích cực tham gia các hoạt động quốc tế về
GDNN.
- Khuyến khích các cơ sở GDNN trong nước mở rộng hợp tác, liên kết
đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài.
- Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
phát triển cơ sở GDNN chất lượng cao tại Việt Nam.
6. Những điều kiện để thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện
GDNN
a) Điều kiện về thể chế
b) Điều kiện về cơ sở vật chất
c) Điều kiện về nguồn nhân lực
d) Lộ trình thực hiện
Giai đoạn 2014-2015
- Bổ sung hoàn thiện thể chế, chính sách về GDNN, trong đó có sửa
Luật dạy nghề, Luật giáo dục.
- Ban hành mã số chức danh nghề nghiệp riêng cho viên chức là giáo
viên GDNN; tiêu chuẩn nghiệp vụ các chức danh nghề nghiệp của giáo viên
GDNN.
- Tổ chức đào tạo, chuẩn hóa giáo viên GDNN.
- Bổ sung mã số chức danh nghề nghiệp riêng cho giáo viên, giảng
viên dạy nghề thuộc cơ sở công lập vào bảng lương của Nghị định số
204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối
với cán bộ công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
139
- Tổ chức đào tạo ở nước ngoài cho 1.400 giáo viên dạy các nghề
trọng điểm quốc tế, khu vực nhằm đạt chuẩn giáo viên của các nước tiên
tiến trong khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu dạy các chương trình được
chuyển giao;
- Đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình nước ngoài, nhưng tổ chức
trong nước có sự tham gia giảng dạy của chuyên gia nước ngoài đối với các
chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm quốc tế.
- Hoàn thiện các cơ chế, chính sách về tự chủ của các cơ sở GDNN.
- Phát triển chương trình đào tạo. Chuyển giao các bộ chương trình
cho các nghề trọng điểm cấp độ khu vực ASEAN và quốc tế.
- Rà soát, hoàn thiện danh mục thiết bị dạy nghề, chuyển giao từ nước
ngoài cho để áp dụng trong các trường nghề.
- Ban hành danh mục thiết bị dạy nghề trình độ CĐN, TCN.
- Ban hành định mức tiêu hao vật tư trong dạy nghề trình độ CĐN, TCN
- Thành lập các Hội đồng kỹ năng nghề để rà soát, cập nhật, điều
chỉnh tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho khoảng 173 nghề đã xây dựng từ
trước năm 2012 đảm bảo phù hợp với khung trình độ kỹ năng nghề quốc gia
và hài hòa với tiêu chuẩn kỹ năng nghề của các nước ASEAN vào năm 2015.
- Xây dựng cơ chế chính sách để thu hút các doanh nghiệp tham gia
vào lĩnh vực đào tạo nghề nghiệp.
Giai đoạn 2016-2020
- Ban hành các cơ chế, chính sách phát triển dạy nghề hướng tới đáp
ứng nhân lực của một nước công nghiệp, trong đó có xây dựng Luật riêng
về hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia. Xây dựng
TCKNNQG cho các nghề chưa có tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia.
- Đào tạo, bồi dưỡng phát triển đội ngũ giáo viên
a) Đối với giáo viên dạy các nghề trọng điểm quốc tế và khu vực
ASEAN, tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình nước ngoài. Kết hợp
đào tạo ở nước ngoài và đào tạo trong nước, trong đó đào tạo trong nước do
các giáo viên hạt nhân đã được đào tạo ở nước ngoài thực hiện là chủ yếu.
140
b) Đối với giáo viên dạy các nghề trọng điểm quốc gia và các nghề
khác, tuyển những người đạt chuẩn về trình độ đào tạo và kỹ năng nghề để
đào tạo nghiệp vụ sư phạm dạy nghề để trở thành giáo viên dạy nghề.
- Rà soát, hoàn thiện, chỉnh sửa danh mục thiết bị dạy nghề chuyển
giao từ nước ngoài cho 70 nghề trọng điểm cấp độ khu vực ASEAN và 35
nghề trọng điểm cấp độ quốc tế.
- Ban hành mới và chỉnh sửa danh mục thiết bị dạy nghề trình độ
CĐN, TCN cho 460 nghề.
- Ban hành mới và chỉnh sửa định mức tiêu hao vật tư trong dạy nghề
cho 400 nghề.
- Ban hành mới và chỉnh sửa tiêu chuẩn cơ sở vật chất cho 120 nghề.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài “Đổi mới căn bản và toàn diện
GDNN trong giai đoạn mới” đã hoàn thành được những nhiệm vụ sau:
- Đã phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới căn bản và
toàn diện GDNN trong tổng thể đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt
Nam. Đề tài đã xây dựng khung lý thuyết từ cách tiếp cận hệ thống, trên có
sở (i) nhận rõ những tồn tại của GDNN; (ii) những yêu cầu của đât nước
trong thời kỳ mới và (iii) xu hướng cũng như tác động/ảnh hưởng của
GDNN thế giới đòi hỏi GDNN Việt Nam phải đổi mới.
- Đề tài đã làm rõ các khái niệm căn bản, toàn diện và nội dung đổi
mới căn bản toàn diện GDNN.
- Đã phân tích thực trạng GDNN, tìm ra được những yếu kém, tồn tại
và những vấn đề cốt lõi cần phải đổi mới trong thời gian tới.
- Tổng hợp các xu hướng giáo dục nói chung và GDNN của các nước
và những ảnh hưởng tới GDNN của nước ta.
141
- Trên cơ sở những định hướng, chủ trưởng của Đảng và Nhà nước về
phát triển giáo dục - đào tạo nói chung, đề tài đã nêu những định hướng phát
triển GDNN trong thời gian tới và đã phân tích, đề xuất 8 giải pháp đổi mới
căn bản và toàn diện GDNN Việt Nam trong thời gian tới.
Những nghiên cứu, đề xuất này của đề tài đã được cung cấp cho Ban
soạn thảo đề án Căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo Việt Nam chuẩn bị
các luận cứ cho Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành trung ương (Khóa XI).
II. KIẾN NGHỊ
Đổi mới căn bản và toàn diện GDNN Việt Nam là vấn đề rất lớn và
rất phức tạp, trong khuôn khổ nghiên cứu và với mục tiêu ban đầu là cung
cấp các luận cứ để phục vụ cho Hội nghị Trung ương, nên đề tài mới chỉ
dừng lại ở những vấn đề cốt lõi. Cần có những nghiên cứu sâu, trên cơ sở
đề án tổng thể phát triển GDNN Việt Nam sau khi Trung ương có Nghị
quyết về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam.
142
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT BẢO VỆ, CHĂM SÓC
VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM
MÃ SỐ: CB2012-02-07
Cơ quan chủ trì đề tài: Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Hải Hữu
Thư ký: CN. Nguyễn Thị Nga
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT
BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM, THUẬT NGỮ
Hiện nay có khá nhiều khái niệm, thuật ngữ liên quan đến trẻ em và
công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhưng ít có tài liệu hệ thống
hóa nó một cách bài bản. Trong đề tài này Ban Chủ nhiệm đề tài đề cập đến
một số khái niệm, thuật ngữ rất cơ bản liên quan đến trẻ em và công tác bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Những khái niệm, thuật ngữ này được
khuyến nghị đưa vào Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi
trong thời gian tới.
(i) Trẻ em: Theo quy định tại Điều 1 của Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em ban hành năm 2004 thì trẻ em được quy định là công dân
Việt Nam dưới 16 tuổi. Theo Quy định của Công ước của Liên hợp quốc về
Quyền trẻ em thì trẻ em được xác định là những người dưới 18 tuổi.
Tuy vậy, Công ước cũng ghi nhận việc các quốc gia thành viên có thể
xác định độ tuổi trẻ em thấp hơn so với độ tuổi quy định của Công ước để
phù hợp với hoàn cảnh của các quốc gia.
143
(ii) Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh không bình
thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ
bản và hoà nhập với gia đình, cộng đồng.
Theo quy định tại Điều 40 của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em hiện hành thì có 10 nhóm trẻ em được xếp vào nhóm trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt, bao gồm: trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ
rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ
em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc
với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em
bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật.
Tuy vậy, trên thực tế cũng còn một bộ phận trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn vẫn chưa được xếp vào nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc đặc biệt, ví dụ
trẻ em bị buôn bán, bắt cóc, trẻ em bị bạo lực gia đình, trẻ em sống trong
các gia đình quá nghèo, trẻ em bị ngược đãi, sao nhãng…
(iii) Trẻ em dễ bị tổn thương hoặc trẻ em có nguy cơ: Thuật ngữ này
chỉ những trẻ em tuy chưa thuộc nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo
quy định của pháp luật hiện hành, nhưng hoàn cảnh sống của trẻ em cũng
như môi trường sống của trẻ em tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ rủi ro, thậm chí
nguy cơ rủi ro rất cao bị tổn hại về thể chất, tinh thần hoặc nguy cơ cao rơi
vào hoàn cảnh đặc biệt.
Trẻ em dễ bị tổn thương bao gồm các nhóm trẻ em sau:
- Trẻ em thuộc các hộ gia đình nghèo (chuẩn nghèo theo quy định của
Chính phủ trong từng thời kỳ);
- Trẻ em sống trong các gia đình có vấn đề xã hội, vấn nạn xã hội, bao
gồm cả trẻ em tự kỷ (cha mẹ ly hôn, ly thân, bạo lực gia đình, gia đình có
người bị nhiễm HIV/AIDS, nghiện rượu, cờ bạc chuyên nghiệp…);
- Trẻ em sống trong các gia đình có người mắc tệ nạn xã hội (gia đình
có người nghiện ma túy, mại dâm);
- Trẻ em sống trong gia đình có người vi phạm pháp luật đang trong
thời kỳ thi hành án phạt tù;
144
- Trẻ em đang trong độ tuổi đi học nhưng chưa hoàn thành phổ cập
giáo dục hệ 9 năm theo quy định hiện hành của Nhà nước, đã bỏ học vì lý
do liên quan đến kinh tế của gia đình hoặc học lực kém, dẫn đến chán học,
bỏ học;
- Trẻ em không được sống cùng cha mẹ đẻ từ 6 tháng trở lên do hoàn
cảnh của gia đình cha, mẹ phải xa con vì sinh kế (di cư tạm thời ra các đô
thị hoặc nước ngoài);
Trẻ em tự kỷ: là một thuật ngữ chỉ những trẻ em có những đặc điểm
hành vi tâm lý và xã hội như sau:
- Trẻ em không hoặc ít quan tâm đến thế giới xung quanh;
- Chỉ chú trọng và thu mình trong thế giới riêng (thường thể hiện qua
mối quan tâm sâu sắc và duy nhất đối với một sở thích - như một màu sắc,
đếm thứ tự của đồ vật);
- Có thể sẽ trở nên ức chế, bức xúc nếu không được theo đuổi sở thích này;
- Chậm học nói và sử dụng ngôn ngữ để diễn tả các ý tưởng của mình;
- Thường không muốn hoặc không thích tiếp xúc với người khác;
- Không ý thức được hoặc quan tâm tới nhu cầu của người khác;
- Không có khả năng hoặc không muốn cho hoặc nhận tình cảm của
người khác;
- Thiếu những khả năng cơ bản nhất trong việc tự đảm bảo an toàn cho
bản thân xuất phát từ việc không ý thức được hoặc không quan tâm đến thế
giới xung quanh;
- Không có khả năng phân biệt người quen và người lạ.
Tính dễ bị tổn thương: là một thuật ngữ thường được sử dụng trong
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; tính dễ bị tổn thương muốn đề cập đến
hoàn cảnh sống của trẻ có thể dẫn trẻ đến tình trạng bị tổn thương và đề cập
đến các yếu tố trong môi trường sống của trẻ có thể biến trẻ thành đối tượng
của sự bị tổn thương. Đối với trường hợp trẻ bị xâm hại, ngược đãi, tính dễ
tổn thương liên quan đến các nhân tố: trẻ em; người chăm sóc trẻ; thủ phạm
không phải là người chăm sóc; môi trường chăm sóc xung quanh trẻ.
145
Đánh giá sự dễ tổn thương và mối quan hệ của nó với các nhân tố tạo
nên “khả năng đề kháng - hồi phục” trong môi trường sống của trẻ em là
một phần then chốt trong công tác đánh giá nguy cơ.
(iv) Chăm sóc thay thế: là trường hợp các gia đình, cá nhân hoặc tổ
chức nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hoặc hoàn
cảnh khó khăn éo le khác, trong một khoảng thời gian dài và được pháp luật
thừa nhận.
(v) Cơ sở trợ giúp trẻ em: là tổ chức được thành lập để bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Tuy vậy trên thực tiễn cũng đã xuất hiện khá nhiều tổ chức được hình
thành để chăm sóc, nuôi dưỡng những đối tượng xã hội có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn trong đó có cả trẻ em, người già, người khuyết tật và được gọi
là cơ sở bảo trợ xã hội theo quy định hiện hành của Chính phủ.
(vi) Trẻ em bị bỏ rơi: là tình trạng trẻ em bị cha mẹ, người có trách
nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc, xuất phát từ hành vi có chủ định hay không
chủ định, không bắt đầu hoặc tiếp tục đáp ứng cho sáu nhu cầu chăm sóc
của trẻ (thể chất, tâm lý, tình cảm, nhận thức, đạo đức và xã hội).
Việc bỏ rơi có thể xảy ra ngay sau khi sinh, khi người mẹ rời bệnh
viện và bỏ lại trẻ hoặc khi một hoặc cả hai người cha mẹ, người chăm sóc
bỏ nhà đi.
Trẻ càng lớn và có nhận thức rõ ràng hơn về thế giới xung quanh thì tác
động tâm lý của việc bị bỏ rơi đối với trẻ càng lớn. Việc bị bỏ rơi có thể sẽ
khiến trẻ cảm thấy rối loạn, đau buồn và sợ hãi, điều này có thể tác động đến
mối quan hệ gắn bó lâu dài, khiến trẻ có cái nhìn tiêu cực về bản thân, các kỹ
năng xã hội kém, học kém và khó khăn trong việc tin tưởng người khác.
(vii) Trẻ em lang thang hay còn gọi là trẻ em đường phố: là trẻ em rời
bỏ gia đình, tự kiếm sống trên đường phố, nơi kiếm sống và nơi cư trú
thường không ổn định; cũng có một số trường hợp trẻ em cùng với gia đình
đi lang thang; trong nhiều trường hợp trẻ em lang thang kiếm sống cũng
đồng thời là lao động trẻ em.
(viii) Lao động trẻ em: trẻ em phải làm những công việc trong điều
kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, lao động trong điều kiện bị cưỡng bức,
146
bóc lột sức lao động hoặc làm quá nhiều thời gian so với độ tuổi của trẻ em;
việc lao động này gây ảnh hưởng tới việc phát triển về thể chất, tâm lý, tình
cảm, nhận thức, đạo đức và xã hội của trẻ em.
Bên cạnh thuật ngữ lao động trẻ em còn một thuật ngữ khác có liên
quan đó là trẻ em tham gia hoạt động kinh tế, thuật ngữ này chỉ việc trẻ em
tham gia các hoạt động giúp đỡ cha, mẹ, gia đình có liên quan đến việc tạo
thu nhập và các hoạt động này không cản trở việc học tập, phát triển bình
thường của trẻ em. Đối với một quốc gia còn nghèo thì việc trẻ em tham gia
một số hoạt động giúp đỡ cha mẹ, gia đình tạo thu nhập để bảo đảm cuộc
sống của chính gia đình họ là việc làm hết sức bình thường; việc tham gia
các hoạt động giúp đỡ cha, mẹ, gia đình tạo thu nhập còn có tác dụng tích
cực đến việc phát triển cả về thể chất, tình cảm, nhận thức của trẻ em; ở khía
cạnh này thì cần khuyến khích trẻ em các hoạt động lao động phù hợp với
lứa tuổi trẻ em.
Bộ luật Lao động còn quy định: Người sử dụng lao động chỉ được sử
dụng người từ đủ 13 đến dưới 15 tuổi làm những công việc nhẹ theo danh
mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định; thời gian làm việc
của người dưới 15 tuổi không được quá 4 giờ một ngày và 20 giờ trong một
tuần và không được sử dụng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm; thời gian
làm việc của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không được quá 8 giờ một
ngày và 40 giờ trong tuần(15).
Việc phân biệt lao động trẻ em với trẻ em tham gia hoạt động kinh tế
phụ thuộc vào 3 nhóm yếu tố (i) độ tuổi, (ii) thời gian làm việc,(iii) tính chất
công việc; đối với nhóm trẻ em từ 13 tuổi trở xuống thì chưa có quy định
thời gian làm việc là bao nhiêu giờ trong một ngày và trong một tuần.
(ix) Cán bộ công tác xã hội là những người được đào tạo chuyên môn
về công tác xã hội để họ có khả năng cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho
các cá nhân, gia đình và cộng đồng trong việc giải quyết các vấn đề của cá
nhân, gia đình và cộng đồng. Cán bộ xã hội được đào tạo các kỹ năng thực
hành công tác xã hội để làm việc với cá nhân, gia đình và các cộng đồng để,
giúp các cá nhân có vấn đề xã hội khắc phục những khó khăn về tâm lý, tình
(15)
Điều 163, điều 164 Bộ luật Lao động năm 2012
147
cảm và thể chất; giúp các gia đình và cộng đồng thay đổi nhận thức và hành
vi để tự giải quyết những vấn đề xã hội của gia đình hoặc của cộng đồng.
Cán bộ xã hội sử dụng một loạt các phương pháp can thiệp như làm
việc với cá nhân, làm việc nhóm, làm việc với gia đình, làm việc với cộng
đồng, nghiên cứu xã hội và xây dựng chính sách xã hội để hỗ trợ và tạo ra
sự thay đổi. Cán bộ xã hội còn đảm nhiệm nhiều vai trò khác nhau như làm
nhà tư vấn, người hỗ trợ, người tuyên truyền, người trung gian và người tạo
điều kiện.
Trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em, cán bộ xã hội đóng vai trò hết sức quan
trọng trong việc đáp ứng các nhu cầu chăm sóc, đảm bảo sự an toàn của trẻ.
Cán bộ xã hội là người cung cấp dịch vụ trực tiếp, xây dựng và tổ chức thiết
kế dịch vụ cho trẻ em, các gia đình và xây dựng chính sách để bảo vệ trẻ em.
(x) Bảo vệ trẻ em: Cách hiểu chung nhất bảo vệ trẻ em là đảm bảo cho
trẻ được sống trong môi trường an toàn, thân thiện, lành mạnh; trong môi
trường đó trẻ em không phải lang thang kiếm sống; không phải lao động
trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; không phải làm việc xa gia
đình; không bị xâm hại, ngược đãi, bạo lực, sao nhãng, không bị buôn bán,
bắt cóc hay bỏ rơi; không vi phạm pháp luật.
Ở một khía cạnh khác bảo vệ trẻ em là một thuật ngữ đề cập đến trách
nhiệm của cả cha mẹ, người chăm sóc, cộng đồng và hệ thống dịch vụ của
Chính phủ và phi chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ để đảm bảo mọi trẻ
em trong xã hội đều được đáp ứng sáu nhu cầu chăm sóc về thể chất, tình
cảm, tâm lý, nhận thức, xã hội và đạo đức.
Ở cấp độ chung, bảo vệ trẻ em là trách nhiệm của mọi công dân trong
một xã hội đối với việc bảo vệ sự an toàn và chăm sóc trẻ em; những hành
động giúp đỡ trẻ em khi một trẻ em có nguy cơ bị tổn hại hoặc đang bị tổn
hại và loại trừ những yếu tố trong môi trường chăm sóc có thể gây tổn hại
cho trẻ.
Ở cấp độ cụ thể hơn, bảo vệ trẻ em đề cập đến những dịch vụ được
cung cấp bởi các cơ quan Nhà nước và các tổ chức phi chính phủ; những
dịch vụ này trực tiếp hướng tới việc giúp đỡ cho các gia đình và cộng đồng
để thực hiện việc chăm sóc trẻ em, đồng thời trực tiếp can thiệp khi trẻ em
148
bị tổn hại hoặc có nguy cơ bị tổn hại và cung cấp dịch vụ can thiệp được
thiết kế để kiểm soát thay đổi và hỗ trợ cho môi trường chăm sóc trẻ trong
việc đáp ứng các nhu cầu chăm sóc của trẻ.
Dịch vụ bảo vệ trẻ em có năm trách nhiệm chính:
- Phòng ngừa, ngăn chặn tổn hại xảy ra đối với trẻ;
- Giảm thiểu hoặc loại trừ những yếu tố dẫn đến việc trẻ em bị tổn hại;
- Trợ giúp, phục hồi cho những trẻ em đã bị tổn hại;
- Hỗ trợ gia đình và cộng đồng trong việc chăm sóc cho trẻ em;
- Trợ giúp phục hồi cho các gia đình và cộng đồng có trẻ em đã hoặc
có nguy cơ bị tổn hại.
Bóc lột trẻ em là việc người lớn sử dụng sức lao động của trẻ em hoặc
sự tham gia của trẻ em hoặc cả hai để đạt được lợi nhuận cho bản thân. Lợi
nhuận này có thể là tiền bạc hoặc là quyền lực và vị thế mà người lớn có
được thông qua sự tham gia vào việc sử dụng trẻ em.
Hai hình thức bóc lột trẻ em phổ biến nhất là (i) bóc lột sức lao động
và (ii) bóc lột tình dục vì mục đích thương mại.
Sao nhãng đối với trẻ em: Theo quan niệm của Tổ chức Y tế Thế giới
thì sao nhãng “là sự thiếu chú ý hoặc thiếu sự quan tâm của người chăm sóc
trong việc cung cấp các nguồn lực sẵn có cho sự phát triển toàn diện của trẻ
về: dinh dưỡng, sức khỏe, học vấn, phát triển tình cảm, chỗ ở và các điều
kiện sống an toàn hoặc gây nên những tổn hại cho sự phát triển về sức khỏe,
thể chất, tinh thần, đạo đức hay xã hội. Thuật ngữ này còn bao gồm cả việc
không thực hiện được việc giám sát và bảo vệ trẻ khỏi tổn thương trong mức
tối đa có thể”.
Khi đề cập đến thuật này cần chú ý một điều quan trọng rằng sao
nhãng là một khía cạnh rất khó đánh giá trong nội hàm thuật ngữ bảo vệ trẻ
em vì mối liên quan chặt chẽ của nó với nghèo đói. Các chuẩn mực kinh tế-
xã hội của một gia đình hoặc của một cộng đồng. Điều quan trọng là khi
đánh giá về hiện tượng sao nhãng, cần đặt nó vào bối cảnh kinh tế - xã hội
rộng hơn ngoài phạm vi gia đình.
149
Xâm hại trẻ em: chỉ các hành vi gây tổn hại cho trẻ em về mặt thân
thể, tâm lý, tình cảm, và tình dục.
Xâm hại thân thể theo quan niệm của Tổ chức Y tế Thế giới “Xâm hại
thân thể trẻ em là hành vi có khả năng hoặc gây tổn thương đến thân thể của
trẻ do một hoạt động tương tác hoặc do thiếu hoạt động tương tác; điều này
ở một mức độ nào đó nằm trong tầm kiểm soát của bố mẹ hay người có
trách nhiệm, quyền lực hay được tin tưởng. Những sự việc này có thể chỉ
diễn ra một lần hay lặp đi lặp lại. Ví dụ những hành vi bạo lực trẻ em bao
gồm tát, đánh đập bằng tay hay đồ vật, đấm, đá, đẩy và cấu.
Xâm hại về mặt tâm lý là những tổn thương hoặc làm giảm mức độ
nhận thức của trẻ về cái tôi của bản thân (xác định con người mình), giá trị
con người và ý thức về năng lực bản thân (niềm tin về khả năng hành động
của bản thân). Xâm hại tâm lý bao gồm các tác động tiêu cực đối với ý thức
về cái tôi, giá trị và năng lực cá nhân.
Xâm hại về mặt tình cảm là việc không đáp ứng các nhu cầu về yêu
thương, quan tâm chăm sóc, an ủi của trẻ trong một khoảng thời gian kéo
dài và lặp lại. Những trẻ em bị xâm hại về mặt tình cảm thường không được
đáp lại về mặt tình cảm, cảm xúc khi các em có nhu cầu, hoặc được đáp lại
nhu cầu tình cảm nhưng những đáp ứng đó không phù hợp. Một ví dụ về
xâm hại tình cảm là người cha, mẹ luôn luôn phớt lờ khi trẻ đang khóc và
cần được an ủi, vỗ về.
Xâm hại tình dục là sự dính líu vào các hoạt động tình dục của trẻ em
mà bản thân trẻ không nhận thức thấu đáo, hoặc đồng ý mà không am hiểu
hết, hoặc chưa phát triển đến mức độ phù hợp để đưa ra sự đồng thuận, hoặc
là những hành vi vi phạm những chuẩn mực xã hội trên phương diện luật
pháp hay xã hội. Định nghĩa này còn bao gồm cả việc dụ dỗ hay cưỡng ép
trẻ em tham gia vào các hoạt động tình dục bất hợp pháp; bóc lột lao động
tình dục hay những hành vi tình dục bất hợp pháp khác và sử dụng trẻ em
vào việc xây dựng các ấn phẩm văn hóa phẩm đồi trụy”.
(xi) Cản trở việc học tập của trẻ em: là việc cha mẹ, người giám hộ
không đảm bảo được việc cho trẻ em đi học hay nó còn thể hiện qua việc
không tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em học tập như mua dụng cụ học tập,
hay sắp xếp để trẻ có thể đi đến trường.
150
Cản trở việc học tập của trẻ em thường xảy ra khi gia đình và cộng
đồng không coi việc học của trẻ em là cần thiết, hoặc cho rằng chỉ cần học
đến một độ tuổi hoặc một bậc học nhất định là đủ. Việc cản trở học tập của
trẻ em cũng có thể là do phân biệt giới tính ở những cộng đồng mà đa số
người trong cộng đồng ấy cho rằng trẻ em gái không cần đi học.
Cản trở việc học tập của trẻ em cũng có thể xảy ra khi gia đình và cộng
đồng cần sử dụng sức lao động của trẻ em thường xuyên hay khi vào mùa vụ.
(xii) Lợi ích tốt nhất cho trẻ em là một nguyên tắc trong Công ước của
Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em và cũng là một nguyên tắc trong việc cung
cấp dịch vụ công tác xã hội dành cho trẻ em. Nguyên tắc này đặt trẻ em và
nhu cầu của trẻ vào vị trí trung tâm trong mọi quyết định có liên quan đến
trẻ cũng như mối quan hệ của trẻ đối với gia đình, người chăm sóc, cộng
đồng và xã hội.
(xiii) Không phân biệt đối xử với trẻ em: Đó cũng là một nguyên tắc
trong quá trình xây dựng Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; trẻ em,
không phân biệt gái, trai, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con
nuôi, con riêng, con chung; không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần, địa vị xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc người giám hộ, đều
được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền theo quy định
của pháp luật.
(xiv) Tôn trọng quyền trẻ em: Đó cũng là một nguyên tắc được quy
định trong Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, các quyền của trẻ
em phải được tôn trọng và thực hiện. Mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ
em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của trẻ em đều bị nghiêm trị
theo quy định của pháp luật.
(xv) Chăm sóc trẻ em: là nói đến trách nhiệm của cha, mẹ, người
chăm sóc trẻ cần đáp ứng đầy đủ sáu nhu cầu của trẻ, để đảm bảo cho trẻ
phát triển bình thường trong suốt quá trình phát triển; các nhu cầu của trẻ
bao gồm nhu cầu chăm sóc về thể chất, tâm lý, tình cảm, nhận thức, xã hội
và đạo đức. Các nhu cầu chăm sóc của trẻ có thể được đáp ứng theo rất
nhiều cách khác nhau. Đồng thời, tiêu chuẩn trong việc đáp ứng nhu cầu
chăm sóc của trẻ em cũng rất khác nhau, phụ thuộc vào những nguồn lực và
khả năng kinh tế xã hội mà gia đình có được. Điều quan trọng là tất cả các
151
nhu cầu chăm sóc của trẻ cần được đáp ứng đầy đủ để trẻ em có thể phát
triển bình thường.
Nhu cầu chăm sóc về thể chất là nhu cầu được đáp ứng về ăn uống
bảo đảm dinh dưỡng, chỗ ở, quần áo, an toàn thân thể, khám và chữa bệnh,
chăm sóc sức khỏe.
Nhu cầu chăm sóc về tâm l ý là nhu cầu xây dựng được ý thức phù hợp
và toàn diện về con người, giá trị và khả năng hành động của bản thân.
Nhu cầu chăm sóc về tình cảm là nhu cầu được gắn bó, được quan tâm
bởi người chăm sóc. Nhu cầu chăm sóc về tình cảm là nhu cầu chăm sóc
chính đối với trẻ em. Khi được gắn bó ổn định với người chăm sóc và được
nhận tình cảm yêu thương từ người chăm sóc, lúc đó trẻ nhận được các tình
cảm, cảm xúc tích cực. Những tình cảm, cảm xúc tích cực khiến trẻ quan
tâm đến người khác và xây dựng những mối quan hệ tình cảm tích cực với
những người xung quanh. Nếu được yêu thương, trẻ cũng sẽ học được cách
yêu thương, biết quý trọng nhu cầu tình cảm của người khác. Những trẻ
không có được mối quan hệ gắn bó ổn định và tích cực đối với người chăm
sóc chính thì trẻ có nguy cơ rơi vào tình trạng không muốn gắn bó tình cảm
với bất kỳ ai hoặc tìm kiếm gắn bó tình cảm một cách không phù hợp ở
những người khác.
Nhu cầu chăm sóc về nhận thức là nhu cầu phát triển kiến thức và kỹ
năng. Chăm sóc về nhận thức là khuyến khích và hỗ trợ cho khả năng học
hỏi của trẻ, tạo cho trẻ những cơ hội học tập thông qua trường lớp và gia
đình để có thể học hỏi được những kiến thức và hiểu biết mới. Chăm sóc về
nhận thức cho trẻ cần tùy theo khả năng nhận thức học hỏi của từng cá nhân
trẻ; Người chăm sóc có trách nhiệm khuyến khích trẻ tạo dựng một quan
điểm tích cực và yêu thích việc học tập.
Nhu cầu chăm sóc về mặt xã hội là nhu cầu được học cách giao tiếp,
tương tác với những người trong gia đình, cộng đồng và xã hội, góp phần
vào sự phát triển lành mạnh của cả cộng đồng. Chăm sóc về mặt xã hội bao
gồm việc giáo dục trẻ và minh họa qua ví dụ cách thức để giao tiếp với
người khác và thể hiện được sự tôn trọng và đúng mực. Đồng thời, cần giáo
152
dục cho trẻ ý thức được rằng có những thời điểm trẻ cần phải cân đối nhu
cầu của mình với nhu cầu của gia đình, cộng đồng và xã hội.
Nhu cầu chăm sóc về mặt đạo đức là nhu cầu của mọi trẻ em được
giáo dục về những quy tắc xử sự trong xã hội, về những hành vi được coi là
đúng hoặc sai. Người chăm sóc có trách nhiệm giáo dục trẻ em về những
quy tắc và quy định về đạo đức của xã hội, đồng thời minh họa cho trẻ em
thấy những điển hình về tư cách và thái độ tốt. Người chăm sóc đồng thời
chịu trách nhiệm giám sát hành vi và thái độ của trẻ, và giáo dục trẻ những
khi trẻ có hành vi không phù hợp.
II. KHUÔN KHỔ LUẬT PHÁP, CHÍNH SÁCH
Quyền trẻ em được quy định trong nhiều Luật (22), chính sách (hơn
60) khác nhau: Hiến pháp; Luật BVCS&GDTE; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố
tụng Dân sự; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật Giáo dục; Luật
Hôn nhân và Gia đình; Luật Bảo hiểm y tế; Luật Chăm sóc sức khỏe ND;
Luật Khám chữa bệnh; Bộ luật Lao động; Luật phòng, chống bạo lực gia
đình; Luật phòng, chống HIV/AIDs; Luật phòng, chống buôn bán người; Luật
Thanh niên; Luật Nuôi con nuôi; Luật Quốc tịch; Luật Người khuyết tật; Luật
Đất đai; Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, Pháp lệnh xử phạt hành chính...
III. YÊU CẦU MỚI VỀ BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM
Bảo vệ trẻ em khỏi bị xâm hại, bạo lực, bóc lột, ngược đãi, sao nhãng,
lao động trong điều kiện tồi tệ, lang thang, vi phạm pháp luật; Giảm thiểu trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em dễ bị tổn thương; tăng tỷ lệ được chăm sóc;
Bảo đảm cho trẻ em có mức sống đầy đủ; Nâng cao chất lượng chăm
sóc trẻ em; giảm thiểu suy dinh dưỡng, tỷ suất chết, tử vong do tai nạn
thương tích và tai nạn thương tích, nhất là nhóm nghèo, dân tộc thiểu số;
Cải thiện điều kiện giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục; giảm
thiểu bất bình đẳng về tiếp cận giáo dục; xóa nghèo về giáo dục cho trẻ em
dân tộc thiểu số, trẻ em cư trú ở vùng miền núi;
Cải thiện điều kiện vui chơi giải trí cho trẻ em và thúc đẩy quyền
tham gia của trẻ em ở mọi vùng miền, nhất là nhóm trẻ em dân tộc, trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em dưới 6 tuổi.
153
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG LUẬT BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM VÀ VIỆC THỰC HIỆN LUẬT
I. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH QUAN TRỌNG LIÊN QUAN ĐẾN THỰC HIỆN LUẬT
Từ những năm 1991 Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; sau khi Luật
ra đời Chính phủ cũng đã ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện
một số điều của Luật.
Trong khoảng thời gian 1991-2000, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
cũng ban hành một số văn bản để thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em ban hành năm 1991, như Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật; Chỉ thị số 03/2000/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về xây dựng điểm vui chơi giải trí dành cho trẻ em . Bộ Chính trị
(Khóa VIII) ban hành Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28 tháng 6 năm 2000 về
“Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng cơ sở đối với công tác bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em”; Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành
chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 1991-2000, ...
Từ năm 2001 trở lại đây, đặc biệt là sau khi Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em sửa đổi được ban hành vào tháng 6 năm 2004, thì Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành cũng đã ban hành một
loạt các đạo luật và văn bản dưới luật để triển khai Luật Bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em theo thẩm quyền, cụ thể như sau:
(i) Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2005 của
Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em, sau này được thay thế bởi Nghị định số 71/2011/NĐ-CP
ngày 22/8/2011 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
(ii) Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 3/10/2006 của Chính phủ Quy
định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em, sau này được sửa đổi
bằng Nghị định số 91/2011/NĐ-CP ngày 17/10/2011 của Chính phủ Quy
định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
154
(iii) Quyết định số 23/2001/QĐ-TTg ngày 26/2/2001 của Thủ tướng
chính phủ về việc phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em
Việt Nam giai đoạn 2001-2010; tiếp sau đó là Quyết định số 1555/QĐ-TTg
ngày 17/10/2012 của Thủ tướng chính phủ về việc Phê duyệt Chương trình
hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020;
(iv) Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg ngày 12/2/2004 của Thủ tướng
chính phủ về việc phê duyệt chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng
trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động
nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010.
Chương trình này sau được nâng cấp thành chương trình quốc gia bảo vệ trẻ
em được ban hành bởi Quyết định số 267/QĐ-TTg, ngày 22/2/2011 của Thủ
tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn
2011-2015;
(v) Quyết định số 84/2009/QĐ-TTg ngày 04/6/2009 của Thủ tướng
chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020;
(vi) Quyết định số 37/2010/QĐ-TTg ngày 22/4/2010 của Thủ tướng
chính phủ về việc Quy định tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em;
(vii) Chỉ thị số 1408/CT-TTg ngày 01/9/2009 của Thủ tướng chính
phủ về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em;
(viii) Quyết định số 589/QĐ-BLĐTBXH ngày 11/5/2009 của Bộ
trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc phê duyệt kế hoạch
phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em giai đoạn 2009-2010 của ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội;
(ix) Quyết định số 548/QĐ-BLĐTBXH ngày 06/5/2011 của Bộ
trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban hành Tiêu chí
ngôi nhà an toàn phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ em;
(x) Thông tư số 87/2008/TT- BTC ngày 08/10/2008 của Bộ Tài chính
về việc Hướng dẫn quản lý và sử dụng Quỹ Bảo trợ trẻ em;
(xi) Thông tư liên tịch số 86/2008/TTLT- BTC-BLĐTBXH ngày
06/10/2008 của Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Hướng dẫn quản lý và sử dụng nguồn kinh phí thực hiện Quyết định số
155
19/2004/QĐ-TTg ngày 12/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ
em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều
kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010;
(xii) Thông tư số 22/2010/TT-BLĐTBXH ngày 12/8/2010 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội về việc quy định trình tự, thủ tục đánh
giá và công nhận xã, phường phù hợp với trẻ em;
(xiii) Thông tư số 23/2010/TT-BLĐTBXH ngày 16/8/2010 của Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội về việc quy định quy trình can thiệp, trợ
giúp trẻ em bị bạo lực, bị xâm hại tình dục;
(xiv) Thông tư liên tịch số 181/2011/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày
15/12/2011 của Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Chương trình Quốc gia
bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015;
(xv) Gần đây nhất là Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới;
(xi) Nghị định số 67/2007/NĐ- CP và Nghị định 13/2010/NĐ-CP của
Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội;
(xiii) Quyết định số 62/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách miễn giảm học phí cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em
nghèo, trẻ em là con người có công;
(xiv) Luật Bảo hiểm y tế năm 2009, trong đó có trẻ em dưới 6 tuổi,
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế
(BHYT), trẻ em con hộ cận nghèo được hỗ trợ 50% kinh phí mua thẻ BHYT
(xv) Luật Giáo dục 2005 và sửa đổi bổ sung một số điều thông qua
ngày 4/12/2009 và Nghị định số 49/2010/NĐ-CP;
(xvi) Chương trình quốc gia về phòng chống suy dinh dưỡng;
(xvii) Luật Nuôi con nuôi được Quốc hội thông qua ngày 28/6/2010
và nhiều văn bản quy phạm khác có liên quan đến BVCS&GD trẻ em.
Các Đạo Luật và văn bản quy phạm dưới luật nêu trên đã thể hiện việc
tăng cường quản lý nhà nước và tạo hành lang pháp lý cũng như tạo môi
156
trường hành chính thuận lợi cho việc thúc đẩy thực hiện Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, bảo đảm quyền trẻ em ngày một tốt hơn.
II. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN
a) Những hạn chế, yếu kém
Hoạt động của các chương trình y tế về chăm sóc sức khỏe trẻ em
chưa đạt hiệu quả mong muốn. Các cơ sở khám, chữa bệnh, nhất là tuyến
huyện tuy được nâng cấp, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Đa số các cơ sở
khám, chữa bệnh dự phòng đều thiếu cán bộ nhi khoa, đặc biệt ở tuyến tỉnh
và huyện. Mạng lưới y tế học đường chưa được củng cố, nhất là các trường
ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Kiến thức về chăm sóc sức khoẻ trẻ em ở
nhà trường còn thiếu. Ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa, miền núi, dân tộc thiểu
số, tỷ suất trẻ em chết ở các độ tuổi cao hơn nhiều so với bình quân chung
cả nước. Có sự khác biệt về suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giữa các
vùng sinh thái và giữa các tỉnh, thành phố. Tai nạn thương tích trẻ em xảy ra
do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là tai nạn giao thông, đuối nước và ngộ độc;
hàng năm vẫn còn khoảng 15.000 trẻ em bị tử vong do tai nạn thương tích.
Chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho trẻ em tại tuyến cơ sở chưa đáp
ứng được nhu cầu. Hàng năm còn khoảng 10-20% trẻ em dưới 6 tuổi chưa
nhận được thẻ bảo hiểm y tế(16). Việc tiêm chủng phòng ngừa bại liệt cho trẻ
em chỉ đạt 68,1%, tiêm phòng ho gà, bạch hầu, uốn ván chỉ đạt 73%, tiêm
phòng sởi đạt 84,2%, tiêm phòng viêm gan B chỉ đạt 53,3%, phòng ngừa
uốn ván sơ sinh đạt khoảng 77,5%(17).
Công tác giáo dục trẻ em còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ trẻ em bỏ học ở
một số khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc vẫn chưa giảm,
nguyên nhân chính là do học lực kém, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, điều
kiện trường, lớp ở xa nơi cư trú. Vẫn còn khoảng cách về chất lượng giáo
dục giữa thành thị và nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ
nhập học và hoàn thành bậc học của một số nhóm đối tượng (trẻ em khuyết
tật, trẻ vùng dân tộc thiểu số...) còn thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung. Trẻ
em dân tộc thiểu số vẫn còn gặp rào cản về ngôn ngữ khi mới bắt đầu tới
trường ở cấp tiểu học. Tỷ lệ huy động trẻ em mầm non đến lớp không đồng
(16)
Nguồn Cục bảo vệ, chăm sóc trẻ em, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (17)
Nguồn Điều tra MICS 2011- GSO
157
đều giữa các vùng, miền và còn thấp. Các kỹ năng sống cho trẻ em ít được
giảng dạy trong nhà trường.
Công tác bảo vệ trẻ em còn nhiều khó khăn. Một số nhóm đối tượng
trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, éo le chưa được đưa vào Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em như: trẻ em bị bạo lực, trẻ em bị tai nạn thương tích,
trẻ em bị sang chấn tâm lý từ các vụ bố mẹ ly hôn, trẻ em di cư, trẻ bị bắt
cóc, buôn bán, trẻ em sống trong các hộ nghèo. Truyền thông giáo dục về kỹ
năng sống, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ em còn chưa được nhiều. Trẻ em
chưa có nhiều kỹ năng để tự bảo vệ mình trước các nguy cơ bị tổn hại. Tình
trạng đăng ký khai sinh cho trẻ em là người đồng bào dân tộc thiểu số vẫn
còn chậm so với quy định, nhiều trẻ khi đi học mới làm thủ tục khai sinh.
Hệ thống tư pháp thân thiện với trẻ em bước đầu được xây dựng nhưng chưa
được thực hành rộng rãi.
Điều kiện vui chơi giải trí lành mạnh cho trẻ em còn rất thiếu, đặc biệt
trẻ em ở vùng nông thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn chưa tiếp
cận nhiều với các hoạt động vui chơi, giải trí. Chất lượng các chương trình
truyền hình, phát thanh, sách truyền trong nước dành cho trẻ em của cao,
nên chưa thu hút được sự quan tâm của trẻ em;
Nguồn lực bố trí trực tiếp cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc trẻ em còn
thấp ở cả cấp Trung ương và địa phương, điều này ảnh hưởng đến chất
lượng và hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và dẫn đến sau 10 năm
thực hiện Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn
2001-2010, khoảng một phần ba chỉ tiêu của Chương trình đề ra không đạt
được. Đến nay vẫn chưa có dòng Ngân sách riêng dành cho trẻ em hay bảo
vệ, chăm sóc trẻ em, do vậy rất khó thống kê được ngân sách dành cho trẻ
em hay cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
b) Nguyên nhân
* Nguyên nhân khách quan:
Phát triển kinh tế thị trường và hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế
khu vực, thế giới là một xu hướng tất yếu của các quốc gia đang phát triển,
trong đó có nước ta, điều này là cơ hội tốt cho sự phát triển kinh tế ở nước
ta, song về mặt xã hội cũng để lại những thách thức không nhỏ.Tác động
158
của kinh tế thị trường với hệ lụy là phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng về
cơ hội phát triển ngày càng có xu hướng gia tăng đã ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống của nhân dân, đến việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức lớn và có nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới và điều này
có thể dẫn tới ảnh hưởng nhất định trong việc huy động nguồn lực của nhà
nước, cộng đồng xã hội cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Công nghệ thông tin, kỹ thuật số phát triển nhanh chóng và đã có tới 6
triệu thuê bao di động ở nước ta cộng với hàng triệu máy vi tính(18), trong đó
trẻ em chiếm một số lượng không nhỏ, đặc biệt là việc tiếp cận mạng
Internet đã mạng lại những lợi ích thiết thực cho việc học tập và phát triển
nhận thức của trẻ em, song nó cũng để lại hệ lụy cho trẻ em về mặt đạo đức
và nhân cách.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên
về việc triển khai thực hiện Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chưa
đầy đủ nên chưa lãnh đạo, chỉ đạo công tác này đúng mức. Sự tham gia,
phối hợp của các đoàn thể, gia đình, nhà trường và xã hội chưa chặt chẽ.
Nhận thức của gia đình, cộng đồng và xã hội về quyền trẻ em, đặc biệt
quyền được bảo vệ, quyền được tham gia chưa đầy đủ dẫn đến tình trạng
ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc lột và buôn bán trẻ em ngày càng phức tạp,
có những vụ nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
- Việc ban hành các chính sách bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em
theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chưa kịp thời, và chậm sửa
đổi bổ sung, sửa đổi, nhất là khi tình hình kinh tế suy giảm, chỉ số giá cả
tăng cao, đời sống của nhân dân, đặc biệt là những người nghèo, người thu
nhập thấp gặp nhiều khó khăn; Bên cạnh đó là việc các cơ quan quản lý nhà
nước thiếu các giải pháp hữu hiệu trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhất là đối với trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ
em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em lao động trong điều kiện
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và trẻ em khuyết tật…
(18)
Báo cáo Thanh thiếu niên Việt Nam với tiếp cận mạng Internet 2012 UNICEF
159
- Việc chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc của các các cấp uỷ, chính
quyền trong việc triển khai thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em chưa thường xuyên, chưa kịp thời; việc tổ đánh giá việc thực hiện Luật
theo định kỳ chưa được thực hiện quan tâm đúng mức.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở cấp cơ sở
không ổn định, thiếu và yếu về năng lực chuyên môn, còn kiêm nhiệm nhiều
việc, lại chưa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên. Chế độ, chính sách
đối với cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em còn nhiều bất cập nên
không thu hút được cán bộ có chuyên môn, tâm huyết với công việc.
- Đầu tư kinh phí cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em có tăng nhưng
chưa tương xứng với điều kiện kinh tế - xã hội. Nhiều chương trình, đề án
về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở cấp quốc gia và cấp địa phương
tuy được Thủ tướng chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê
duyệt, nhưng cũng không được bố trí kinh phí một cách hợp lý để thực hiện.
Cũng có một số chương trình được bố trí kinh phí những nguồn kinh phí bố
trí chưa tương xứng với mục tiêu đề ra;
- Tổ chức thực hiện các quyền của trẻ em cũng như các chính sách,
chương trình vì trẻ em chưa tốt. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá và
thanh tra của cơ quan nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa được
thường xuyên. Chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu tin cậy về thực hiện quyền trẻ
em và các mục tiêu vì trẻ em.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ BỨC XÚC ĐẶT RA VỀ BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM
Trong báo cáo đánh giá tổng kết việc thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em cũng như báo cáo thực hiện Chỉ thị số 55-CT/TW, Chương
trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001-2010 đã chỉ rõ, còn nhiều
vấn đề hạn chế liên quan đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Trong
số những hạn chế ấy có vấn đề trở thành bức xúc trong dư luận xã hội cần
được quan tâm giải quyết, những vấn đề bức xúc ấy bao gồm:
(i) Môi trường sống tiềm ẩn nhiêu nguy cơ rủi ro dẫn đến sự tổn
thương cho trẻ em trong đó có tình trạng ngược đãi, bạo lực, xâm hại tình
dục, buôn bán, bắt cóc trẻ em, tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em
phải lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
160
(ii) Cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường dẫn đến phân hóa
giàu nghèo, phân tầng xã hội, và sự bất bình đẳng về cơ hội phát triển cũng
như tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, điển hình là tiếp cận với các dịch vụ
y tế, dịch vụ giáo dục giữa nhóm trẻ em nghèo, với trẻ em trong các gia đình
khá giả, giầu có và giữa trẻ em cư trú tại khu vực miền núi, vùng sâu, vùng
xa với trẻ em vùng thành thị; Mặt khác chất lượng dịch vụ giáo dục và y tế
cũng làm nhiều người dân chưa hài lòng.
Có sự bất bình đẳng lớn về tiếp cận và thụ hưởng chất lượng các dịch
vụ xã hội cơ bản cũng như cơ hội phát triển giữa nhóm trẻ em nghèo và
không nghèo; giữa trẻ em dân tộc thiểu số với trẻ em là người kinh và người
hoa như:
- Tỷ suất tử vong trẻ dưới 1 tuổi nhóm nghèo nhất cao gấp hơn 2 lần
nhóm không nghèo (23/1000 so với 11/1000);
- Tỷ suất tử vong trẻ dưới 1 tuổi nhóm dân tộc thiểu số cao gấp 3 lần
nhóm người kinh và hoa (30/1000 so với 10/1000);
- Tỷ suất tử vong trẻ dưới 5 tuổi nhóm nghèo nhất cao gấp 2,3 lần
nhóm không nghèo (28/1000 so với 12/1000);
- Tỷ suất tử vong trẻ dưới 5 tuổi nhóm dân tộc thiểu số cao gấp 3,25
lần nhóm trẻ em người kinh và hoa (39/1000 so với 12/1000);
- Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi thể nhẹ cân của nhóm
nghèo cao gấp 2,2 lần nhóm không nghèo (22/100 so với 10/100);
- Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi thể nhẹ cân của nhóm dân
tộc thiểu số cao gấp 2,08 lần nhóm kinh và hoa (40,9/100 so với 19,6/100);
- Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh nhóm dân tộc thiểu số
chỉ chiếm già một nửa nhóm người kinh và hoa (44,2% so với 77,9%);
- Tỷ lệ trẻ em không đi học trung học nhóm trẻ em dân tộc cao gấp
hơn 2 lần nhóm trẻ kinh và hòa (34,4% so với 16,3%);
- Tuy chưa có số liệu định lượng về sự khác biệt chất lượng dịch vụ giáo dục, y tế, nhà ở, vui chơi giải trí, cơ sở hạ tầng giữa trẻ em dân tộc thiểu số với trẻ em người kinh và người hoa, giữa trẻ em nông thôn miền núi với trẻ em vùng đô thị, song bằng các kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy có sự chệnh lệch đáng kể.
161
(iii) Tình trạng thiếu sân chơi cho trẻ em và chất lượng các hoạt động vui chơi, giải trí dành cho trẻ em cũng là vấn đề bất cập, được nhiều Đại biểu Quốc hội và người dân quan tâm, nhưng chưa được giải quyết một cách thỏa đáng trong nhiều năm nay.
Trong mấy năm gần đây đã có nhiều ý kiến của trẻ em tại Diễn đàn trẻ em cấp quốc gia và cấp tỉnh (năm 2009 và năm 2011) cũng như ý kiến chất vấn của nhiều đại biểu Quốc hội, ý kiến chất vấn của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội (sau khi đi giám sát việc thực hiện quyền vui chơi giải trí của trẻ em) về tình trạng thiếu sân chơi cho trẻ em nói chung, đặc biệt là không bảo đảm điểm vui chơi giải trí ở cấp xã. Số lượng nhà văn hóa cấp huyện hoặc trung tâm vui chơi giải trí cấp huyện và điểm vui chơi giải trí cấp xã dành cho trẻ em gần như không có tăng nên, thậm chí còn giảm đi vì một số xã, phường thấy rằng hoạt động chưa hiệu quả nên đã lấy đất đó chuyển sang mục đích khác như làm điểm cho thuê kinh doanh, làm trụ sở tuần tra nhân dân; có nơi thì điểm vui chơi giải trí biến thành bãi có hoang (Móng Cái là một ví dụ), vì cơ sở vật chất xuống cấp, không được đầu tư kinh phí nâng cấp sửa chữa, duy tu bảo dưỡng, và kinh phí cho cán bộ quản lý, hướng dẫn vui chơi giải trí của trẻ em.
CHƯƠNG III
KHUYẾN NGHỊ MỘT SỐ NỘI DUNG CẦN SỬA ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
I. TIÊU CHÍ SỬA ĐỔI LUẬT
- Xác định rõ trách nhiệm của gia đình, nhà nước và cộng đồng trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
- Thể hiện được tinh thần xã hội hóa;
- Tôn trọng các nguyên tắc, quy định trong các Công ước, Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn hoặc tham gia (như: CRC; ILO/102/136/182; Công ước Lahay...);
- Đáp ứng tính tiên tiến, tính dân tộc và khả thi.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN, SỬA ĐỔI
- Lấy trẻ em làm trung tâm, vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em;
- Tiếp cận dựa vào quyền con người và trẻ em là đối tượng được ưu tiên hơn;
162
- Tiếp cận tổng thể, toàn diện và hệ thống;
- Tiếp cận đa ngành và đa cấp.
III. NHỮNG NỘI DUNG LUẬT CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
- Vấn đề chung nhất: Luật hiện tại là dạng luật khung, chưa cụ thể,
thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em, nên khó thực hiện
- Tên Luật còn dài và chưa bao quát;
- Định nghĩa về trẻ em còn giới hạn về độ tuổi, quốc tịch;
- Các quyền của trẻ em chưa đầy đủ, nhưng lại chưa có điều nào
khẳng định trẻ em sống trên lãnh thổ Việt Nam có đầy đủ các quyền theo
quy định của Công ước CRC;
- Một số khái niệm, thuật ngữ mới chưa được bổ sung cập nhật;
- Cách tiếp cận mới về bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng chưa được quy
định trong Luật;
- Quan niệm và quy định về bảo vệ trẻ em, dịch vụ bảo vệ trẻ em chưa
đầy đủ;
- Quan niệm và quy định về chăm sóc thay thế chưa ngang tầm với
tình hình thực tế;
- Một số trẻ em dễ bị tổn thương hoặc có nguy cơ bị tổn thương cũng
chưa được đưa vào Luật và có biện pháp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục;
- Thiếu các quy định biện pháp đảm bảo quyền tham gia;
- Thiếu các quy định cần thiết về cơ chế phối hợp liên ngành, trách
nhiệm của các bộ, ngành và trách nhiệm của cơ quan đầu mối;
- Quy định về trách nhiệm các tổ chức đoàn thể, hội có liên quan đến
trẻ em chưa rõ.
IV. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CỦA ĐỀ TÀI
1. Khuyến nghị chung
- Qua nghiên cứu, đề tài khuyến nghị sửa đổi Luật Bảo vệ chăm sóc và
giáo dục trẻ em thay cho việc sửa đổi, bổ sung một số điều; Lựa chọn mô
163
hình luật quy định về quyền với nội dung mở rộng; quy định cụ thể hơn biện
pháp bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em vì:
- Có nhiều nội dung cần sửa đổi; quy định mới;
- Kết cấu chương cũng thay đổi vì liên quan đến quy định về 3 nội
dung lớn: (i) bảo vệ trẻ em, (ii) chăm sóc thay thế và (iii) tư pháp thân thiện
với trẻ em.
2. Khuyến nghị nội dung cụ thể
- Tên Luật sửa thành Luật Trẻ em, vừa gọn vừa bao quát và vừa phù
hợp với thông lệ đặt tên cho một đạo luật.
- Định nghĩa về trẻ em: Trẻ em là người dưới 18 tuổi, bỏ từ công dân
Việt Nam và nâng độ tuổi từ dưới 16 lên dưới 18.
- Sửa lại định nghĩa về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (Điều 3) thay cụm
từ không đủ điều kiện bằng cụm từ các em cần sự trợ giúp của gia đình, nhà
nước, cộng đồng xã hội.
- Sửa thuật ngữ gia đình chăm sóc thay thế ( Điều 3).
- Bổ sung một số thuật ngữ mới như: (i) Trẻ em dễ bị tổn thương với 6
nhóm trẻ cụ thể; (ii) Lao động trẻ em gắn với hình thức lao động tồi tệ; (iii)
Bảo vệ trẻ em; (iv) Dịch vụ bảo vệ trẻ em; (v) Chăm sóc trẻ em; (vi) Sao
nhãng trẻ em; (vii) Xâm hại trẻ em và một số thuật ngữ khác…
- Các vấn đề liên quan đến quyền và bổn phận của trẻ em:
+ Hình thành một chương về bảo vệ trẻ em, quy định cụ thể các biện
pháp bảo đảm thực hiện quyền bảo vệ;
+ Khẳng định trẻ em có đầy đủ các quyền theo CRC.
- Hình thành một chương về chăm sóc thay thế với các quy định cụ thể
về đối tượng trẻ em được nhận chăm sóc thay thế, tiêu chuẩn đối tượng nhận
chăm sóc thay thế, các hình thức chắm sóc thay thế…
- Hình thành một chương về tư pháp thân thiện với trẻ em.
164
- Hình thành một chương về các biện pháp bảo đảm quyền tham gia
của trẻ em, trong đó có Diễn đàn trẻ em.
- Sửa đổi, bổ sung các điều từ 51-58 và đưa vào chương bảo vệ trẻ em,
bảo đảm sự bình đẳng về mặt trợ giúp xã hội giữa trẻ em trong cơ cơ sở công
lập và ngoài công lập (Điều 51); khắc phục các quy định mang tính chung
chung (Điều 52- 58);
- Sửa đổi nội dung liên quan đến trách nhiệm của các bộ, ngành cho
phù hợp với cải cách bộ máy năm 2007 và cụ thể hơn; Quy định rõ hơn về
cơ chế phối hợp liên ngành; hình thành ủy ban quốc gia vì trẻ em.
- Quy định cụ thể hơn về Quỹ bảo trợ trẻ em các cấp, đặc biệt là mục
tiêu, tôn chỉ, chức năng, nhiệm vụ, điều kiện thành lập, cơ chế hoạt động, tổ
chức bộ máy.
- Quy định về Hội Bảo vệ quyền trẻ em (loại hình tổ chức, mục tiêu,
tôn chỉ, chức năng, nhiệm vụ, điều kiện thành lập, cơ chế hoạt động và cơ
chế phối hợp với các cơ quan nhà nước có liên quan).
- Ngày trẻ em Việt Nam (ngày rằm trung thu).
KẾT LUẬN * Về lý luận:
Đề tài đã góp phần bổ sung hoàn thiện hệ thống lý luận về bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập.
* Về ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu Đề tài có giá trị ứng dụng cao trong quản lý nhà
nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em và có thể áp dụng kết quả nghiên cứu phục
vụ cho nhiệm vụ chính trị của cơ quan vào việc sửa đổi, bổ sung pháp luật
về bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
165
NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP, CƠ CHẾ ĐÁNH GIÁ,
GIÁM SÁT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở CÁC CẤP
MÃ SỐ: CB2012-02-08
Cơ quan chủ trì đề tài: Vụ Bình đẳng giới
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Vũ Ngọc Thủy
Thư ký: ThS. Nguyễn Thị Thu Hà
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP VÀ CƠ CHẾ ĐÁNH GIÁ, GIÁM SÁT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
I. CƠ SỞ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP, CƠ CHẾ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở CÁC CẤP
1. Cơ sở chính trị, pháp lý
Thực hiện bình đẳng giới là xu thế tất yếu trên thế giới. Ở Việt Nam,
bình đẳng giới và tăng quyền năng cho phụ nữ là mục tiêu lớn mà Đảng và
Nhà nước Việt Nam đặt ra ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
và những ngày đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau
nhiều lần sửa đổi Hiến pháp, tư tưởng về bình đẳng giới luôn được bổ sung
và hoàn thiện trong các bản Hiến pháp tiếp theo (năm 1959, năm 1980 và
năm 1992): Phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới về mọi mặt chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Đảng về
công tác phụ nữ và bình đẳng giới được thực hiện xuyên suốt trong các nghị
quyết Đại hội Đảng, các nghị quyết và chỉ thị của Trung ương Đảng, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư về công tác quần chúng, công tác vận động phụ nữ,
công tác cán bộ nữ.
Bên cạnh đó, là một quốc gia thành viên của 8 công ước quốc tế cơ
bản về quyền con người trong đó có Công ước CEDAW, Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn coi việc thúc đẩy địa vị bình đẳng cho phụ nữ là mục tiêu
quan trọng và cơ bản trong các chiến lược, chương trình phát triển kinh tế,
xã hội. Sau khi trở thành thành viên của Công ước về xóa bỏ mọi hình thức
166
phân biệt đối xử với phụ nữ, Việt Nam đã hưởng ứng thực hiện các chương
trình do Liên Hiệp Quốc phát động, trong đó có chương trình “Thập kỷ của
Liên Hiệp Quốc về phụ nữ”.
2. Về cơ chế bộ máy thực thi bình đẳng giới
Ngày 25-12-2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 186/2007/
NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội; Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 4-2-
2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nghị định số 14/2008/NĐ-CP quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong đó Chính phủ đã giao cho ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
bình đẳng giới.
Để giúp Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về bình đẳng giới, Chính phủ đã cho thành lập
Vụ Bình đẳng giới.
Cùng với việc xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ thực hiện bình đẳng
giới, ngày 22-8-2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
114/2008/QĐ-TTg về việc kiện toàn Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ
nữ Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội làm Chủ
tịch Ủy ban và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực
của Ủy ban để đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước về
bình đẳng giới với tổ chức phối hợp liên ngành vì sự tiến bộ của phụ nữ, tạo
điều kiện thuận lợi cho Ủy ban triển khai các nhiệm vụ được giao.
Thực hiện Thông tư liên tịch số 10/2008/TTLT- BLĐTBXH - BNV
ngày 10-7-2008 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Nội vụ về
việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và nhiệm vụ
quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp xã về lao động, người có công
và xã hội, trong đó có nhiệm vụ hướng dẫn và tổ chức thực hiện chính sách,
chương trình, dự án, kế hoạch về bình đẳng giới; hướng dẫn việc lồng ghép
các chương trình về bình đẳng giới trong việc xây dựng và thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; tổ chức thực hiện các biện
167
pháp thúc đẩy bình đẳng giới phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa
phương. Đến nay có 11/63(19) Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã
thành lập Phòng Bình đẳng giới, trong đó có 5 tỉnh, thành phố đã thành lập
Phòng Bình đẳng giới riêng biệt (Bình Dương, Đồng Nai, Sóc Trăng, Thành
phố Hồ Chí Minh và Hậu Giang); có 6 tỉnh, thành thành lập Phòng Bình
đẳng giới ghép với bộ phận chuyên môn khác (thành phố Cần Thơ, tỉnh Hà
Nam, thành phố Hải Phòng, Phú Yên, Nghệ An và Lào Cai). Thành phố Hồ
Chí Minh có 2 định biên làm công tác bình đẳng giới ở cấp quận; Thành phố
Hồ Chí Minh và Sóc Trăng có 1/2 định biên cán bộ cấp xã làm công tác
bình đẳng giới.
Thực hiện Quyết định số 1855/QĐ-TTg ngày 11-11-2009 của Thủ
tướng Chính phủ về việc thành lập, kiện toàn Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ
ở Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, đến nay, 62/63 tỉnh, thành phố đã
kiện toàn Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ và chuyển giao cơ quan thường trực
về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Bên cạnh đó, các Ban Vì sự tiến
bộ phụ nữ được thành lập theo Chỉ thị 27/CT-TTg ngày 15-7-2004 của
Chính phủ về tăng cường hoạt động vì sự tiến bộ phụ nữ ở các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương và các văn bản hướng dẫn trước đây vẫn đang duy trì
tốt các hoạt động đã góp phần không nhỏ vào việc triển khai thực hiện Luật
Bình đẳng giới.
3. Cơ sở thực tiễn
Trong thời gian từ 1997-2010, Việt Nam đã tích cực triển khai Kế
hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 1997 và Chiến
lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010.
Luật Bình đẳng giới ra đời năm 2006 và có hiệu lực từ năm 2007 tăng
cường công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới; đảm bảo lồng ghép giới
trong hoạch định và thực hiện chính sách, kế hoạch và chương trình phát
triển kinh tế - xã hội; đảm bảo thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ,
ngành và địa phương; phát huy vai trò của các tổ chức trong việc thực hiện
và theo dõi giám sát việc thực hiện bình đẳng giới.
(19)
Số liệu cập nhật đến ngày 30-10-2010.
168
Để cụ thể mục tiêu bình đẳng giới cho từng giai đoạn, Chính phủ mới
đây đã ban hành các văn bản: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới cho
giai đoạn 2011-2020; Chương trình quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn
2011-2015; Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia; Bộ chỉ tiêu thống kê phát
triển giới quốc gia.
II. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
1. Khái niệm đánh giá, giám sát
a) Khái niệm đánh giá(20)
Đánh giá là nhận định có phân tích nêu lên kết quả của chương
trình/chính sách/dự án trong đó nhấn mạnh độ tin cậy và tính hữu ích của
những phát hiện, là một quá trình thu thập thông tin, phân tích và từ đó đưa
ra phán xét dựa trên cơ sở những thông tin đó.
b) Khái niệm giám sát
So với khái niệm giám sát do cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung
ương (Quốc hội) và địa phương (Hội đồng nhân dân) coi giám sát là hành vi
độc lập nằm bên ngoài hệ thống và được luật định thì khái niệm giám sát do
cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương thực hiện chính là
việc liên tục thu thập và phân tích thông tin để đánh giá tiến độ thực hiện
các mục tiêu của chương trình/chính sách/dự án do mình đề ra hoặc tổ chức
thực hiện. Giám sát giúp ta biết các hoạt động của chương trình/chính
sách/dự án có được thực hiện đúng theo kế hoạch hay không.
c) Phân biệt theo dõi, giám sát, đánh giá, kiểm tra và thanh tra
- Giống nhau
- Khác nhau
2. Khái niệm cơ chế giám sát, đánh giá
Khái niệm cơ chế
Theo Từ điển Tiếng Việt21 “cơ chế” là “cách thức theo đó một quá
trình thực hiện”. Tương tự như vậy, các tác giả của cuốn Đại từ điển Tiếng
(20)
Chính phủ Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Cẩm nang theo dõi và đánh giá. (21)
. Trung tâm từ điển học: Từ điển Tiếng Việt , Nxb.Đà Nẵng, 1998.
169
Việt cho rằng, cơ chế là cách thức sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ
sở theo đó mà thực hiện.
3. Một số khái niệm về bình đẳng giới
Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy định một số khái niệm có liên quan như:
- Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối
quan hệ xã hội.
- Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
- Hoạt động bình đẳng giới là hoạt động do cơ quan, tổ chức, gia đình,
cá nhân thực hiện nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới.
4. Khái niệm đánh giá, giám sát bình đẳng giới
Đánh giá, giám sát bình đẳng giới thực chất là đánh giá, giám sát triển
khai thực hiện 7 mục tiêu quốc gia bình đẳng giới đã được nêu trong Chiến
lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và 5 dự án thuộc
Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015.
5. Khái niệm về các cấp thực hiện việc giám sát, đánh giá
Khái niệm về các cấp thực hiện việc giám sát, đánh giá nêu trong Đề
tài này được hiểu gồm 3 cấp như sau:
- Cấp quốc gia;
- Cấp Bộ/ban/ngành; tỉnh/thành phố;
- Cấp huyện/quận.
III. CƠ SỞ XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP, CƠ CHẾ ĐÁNH GIÁ, GIÁM SÁT
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở CÁC CẤP
1. Các nguyên tắc/ yêu cầu trong xây dựng cơ chế giám sát,
đánh giá về bình đẳng giới
Thứ nhất, cơ chế giám sát đánh giá phải đơn giản, dễ hiểu, dễ vận
hành. Phải đảm bảo rằng có thể thực hiện được ở các huyện, xã vùng sâu
vùng xa.
170
Thứ hai, cơ chế giám sát đánh giá phải xây dựng trên cơ sở tận dụng
tối đa các hệ thống hiện hành ở các cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã). Việc
này đảm bảo tính thực thi, đảm bảo có thể vận hành trong thực tiễn. Mặt
khác, cũng giúp tiết kiệm các nguồn lực nếu phải xây dựng và vận hành một
hệ thống mới, độc lập hoàn toàn với các hệ thống khác đang vận hành trong
thực tiễn.
Thứ ba, quá trình xây dựng phải có sự tham gia của các bên liên quan
và đảm bảo sự đồng thuận, cam kết thực hiện.
Thứ tư, cơ chế giám sát đánh giá này phải được các cấp có thẩm quyền
phê duyệt chính thức để đảm bảo hiệu lực thực hiện trong thực tiễn.
Thứ năm, xây dựng cơ chế giám sát đánh giá phải bao gồm cả 2 yếu tố
cơ bản là: (i) Thiết kế hệ thống giám sát, đánh giá; (ii) Vận hành hệ thống
giám sát, đánh giá.
2. Phương pháp luận và phương pháp giám sát, đánh giá thực
hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới
a) Các mô hình giám sát, đánh giá
- Mô hình giám sát, đánh giá có sử dụng nhóm đối chứng
Trong mô hình này thiết kế đánh giá thực hiện với một nhóm can thiệp
và một nhóm chứng. Nhóm chứng càng giống với nhóm can thiệp càng tốt
(đặc điểm cá nhân, địa dư, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội, điều kiện làm
việc, cơ sở phương tiện kỹ thuật, chuyên môn v.v...), nhóm chứng không có
hoạt động can thiệp.
Mô hình đánh giá trước và sau can thiệp không có nhóm chứng
Trước khi triển khai chương trình/chính sách/dự án, cần thực hiện điều
tra cơ bản ban đầu. Các thông tin thu được là cơ sở để xây dựng mục tiêu
của kế hoạch hay chương trình can thiệp. Sau khi thực hiện các hoạt động
can thiệp tiến hành điều tra lại với các nội dung và phương pháp như điều
tra cơ bản ban đầu, kết quả của cuộc điều tra này được so sánh với kết quả
điều tra ban đầu. Những kết quả thay đổi giữa hai cuộc điều tra thường được
coi là kết quả của chương trình can thiệp. Tuy nhiên người đánh giá cần
171
thận trọng và có lý giải để loại trừ các nguyên nhân khác khi kết luận những
thay đổi là do hoạt động can thiệp, trên thực tế có thể có những thay đổi là
do kết quả của các yếu tố khác chứ không phải là do hoạt động can thiệp
đưa lại.
b) Các phương pháp giám sát, đánh giá
- Phương pháp đánh giá dựa vào bằng chứng. Sự kết hợp giữa kinh
nghiệm chuyên môn với những bằng chứng từ các nghiên cứu một cách hệ
thống. Cần cân bằng giữa những đánh giá bằng kinh nghiệm chuyên môn
với những bằng chứng nghiên cứu có cơ sở, đáng tin cậy.
- Phương pháp đánh giá tiếp cận khung logic. Sử dụng công cụ phân
tích vấn đề, phân tích các cơ quan tham gia, phát triển tháp mục tiêu và lựa
chọn chiến lược thực hiện phù hợp. Phương pháp này giúp xác định các yếu
tố chiến lược (đầu vào, đầu ra, mục đích, mục tiêu) và những mối quan hệ
nhân quả của chúng, cũng như những giả định về môi trường bên ngoài (các
rủi ro) có khả năng ảnh hưởng đến thành công hay thất bại; do đó sẽ tạo điều
kiện cho việc lập kế hoạch, thực thi và đánh giá một chương trình/chính
sách/dự án. (IFAD 2002)
- Phương pháp sử dụng hệ thống thông tin quản lý. Công cụ cho phép
nhập, đối chiếu và tổ chức các dữ liệu theo dõi, đánh giá một cách hệ thống
để có thể cung cấp các dữ liệu chọn lọc và báo cáo cho cấp quản lý, hỗ trợ
theo dõi và giám sát công tác tổ chức, các nguồn lực, hoạt động và kết quả
của dự án.
- Phương pháp đo lường mức độ đạt được mục tiêu là phương pháp có
sự tham gia của người dân, thích hợp để theo dõi những thay đổi về chất
lượng trong các chương trình/chính sách/dự án.
c) Phương pháp thu thập thông tin phục vụ giám sát, đánh giá
Phương pháp thu thập thông tin định lượng. Dùng các phương pháp
và công cụ thu thập thông tin để có được kết quả dưới dạng các con số định
lượng về hoạt động của các chương trình/dự án. Từ các con số có thể đưa ra
các khuyến nghị để cải thiện tình hình.
Phương pháp thu thập thông tin định tính. Đây là phương pháp nhằm
xác định các yếu tố ảnh hưởng và nguyên nhân sâu xa của vấn đề đằng sau
các con số từ kết quả đánh giá định lượng thu được và tìm ra thái độ, mong
172
muốn, nguyện vọng của các nhóm đối tượng liên quan. Đánh giá định tính
còn giúp tìm ra các giải pháp có thể thực hiện để cải thiện tình hình. Đánh
giá định tính có thể là bước thăm dò cho nghiên cứu đánh giá định lượng
hoặc bổ sung cho phương pháp đánh giá định lượng, kiểm tra lại các thông
tin còn chưa rõ.
3. Giám sát, đánh giá có trách nhiệm giới
- Hoạt động theo dõi, giám sát có trách nhiệm giới cho biết tình hình
hoạch định và thực hiện chính sách trong việc
- Nội dung theo dõi có trách nhiệm giới: Theo dõi nên được tiến hành
từ hai khía cạnh khác nhau:
Theo dõi những tiến bộ đã đạt được nhằm thực hiện mục tiêu chính
sách/chương trình/dự án (chúng ta đã đạt được mục tiêu hay chưa?);
Theo dõi quá trình thực hiện (chúng ta đã thực hiện mục tiêu như
thế nào?).
- Theo dõi quá trình thực hiện sẽ:
Giúp ta xác định những vấn đề và bất cập xuất hiện trong quá trình
thực hiện và cần được giải quyết ngay;
Giúp cải thiện các biện pháp tiếp theo;
Ghi nhận các trở ngại đối với công tác lồng ghép giới để sau này khắc
phục trong các chính sách/chương trình/dự án tương lai.
- Một số vấn đề cần được xem xét khi theo dõi quá trình thực hiện:
- Nam giới và phụ nữ có được tôn trọng và bình đẳng trong quá trình
ra quyết định, thực hiện và theo dõi, giám sát hay không?
- Những người tham gia thực hiện chính sách/chương trình/dự án có
thường xuyên được khuyến khích để duy trì quan điểm giới không (được tạo
cơ hội cập nhật kiến thức và kỹ năng giới, thảo luận các vấn đề giới trong
môi trường không có định kiến)?
Đánh giá có trách nhiệm giới là việc áp dụng các phương pháp mang
tính hệ thống nhằm xác định xem chính sách có đạt được các mục tiêu đã đề
ra hay không và đem lại những tác động nào, nhưng quan trọng không kém
là nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện các biện
pháp chính sách trong tương lai...
173
Nội dung đánh giá có trách nhiệm giới: Có bốn nội dung đánh giá
chính như sau:
- Đánh giá các yếu tố đầu vào (các yếu tố đầu vào được phân bổ công
bằng như thế nào, xét theo khía cạnh phân bổ nguồn lực cho nam giới và
phụ nữ ?);
- Đánh giá kết quả đầu ra (đã đạt được các mục tiêu đề ra hay chưa?);
- Đánh giá kết quả dài hạn (mục tiêu phát triển đã đạt được đến mức
độ nào?);
- Đánh giá quá trình (các kết quả đầu ra và kết quả dài hạn được thực
hiện như thế nào?).
4. Xây dựng kế hoạch giám sát, đánh giá
a) Xây dựng kế hoạch giám sát cần xác định rõ 5 vấn đề:
(i) Mục đích và phạm vi giám sát (giám sát cái gì?) Để xác định mục
đích và phạm vi giám sát, cần hiểu rõ các thông tin về:
- Tổng quan về dự án, mục tiêu, mục đích, kết quả và cơ sở, lý do thiết
kế hệ thống giám sát;
- Hệ thống giám sát sẽ trợ giúp cho hoạt động quản lý và đáp ứng các
yêu cầu báo cáo và nhu cầu thông tin của các đối tượng liên quan như
thế nào?
- Tổng kết tất cả các kinh nghiệm giám sát được thực hiện với các cơ
quan tham gia chính;
- Thảo luận về phạm vi tham gia, cân bằng giữa phương pháp định
tính và phương pháp định lượng, các yêu cầu về nguồn lực và trọng tâm dự
kiến của hệ thống giám sát.
(ii) Sử dụng phương pháp gì (giám sát như thế nào?)
Để lựa chọn phương pháp giám sát phù hợp, cần làm rõ những thông
tin sau: Vấn đề cần giám sát? Chỉ báo thể hiện của vấn đề như thế nào? Đo
lường chỉ số đó như thế nào? Báo cáo kết quả như thế nào?
(iii) Ai chịu trách nhiệm thực hiện (ai giám sát?)
174
Trong kế hoạch giám sát cần thể hiện tên và vị trí của người được
phân công giám sát. Việc thể hiện như vậy có hai hiệu quả: Thứ nhất, gắn
người được phân công với các hoạt động cụ thể để tiến hành và chịu trách
nhiệm; Thứ hai, người tiến hành giám sát biết được mình phải làm gì, làm
như thế nào và khi nào.
(iv) Thời gian, tần suất giám sát, báo cáo kết quả giám sát (giám sát
khi nào?)
Khi đã xác định được mục tiêu giám sát sẽ xác định thời gian giám sát
cho các mục tiêu giám sát đó. Cần chú ý việc xác định thời gian giám sát
phải phù hợp với khung thời gian chung của dự án/chính sách/chương trình.
(v) Kinh phí thực hiện giám sát?
Có kinh phí cho hoạt động giám sát hay không. Nếu có thì cần ước
tính kinh phí giám sát, tốt nhất là ước tính theo các hoạt động giám sát và
hậu cần như phương tiện.
b) Xây dựng kế hoạch đánh giá
Xây dựng kế hoạch đánh giá thực chất là chi tiết hóa 5 vấn đề, đó là (i)
Mục tiêu, nội dung đánh giá - chúng ta muốn biết điều gì?; (ii) Phương pháp
đánh giá - chúng ta biết điều đó như thế nào; (iii) Tổ chức đánh giá - làm thế
nào để có được các dữ liệu cần thiết; (iv) Kinh phí đánh giá; (v) Kế hoạch
sử dụng thông tin đánh giá.
5. Xây dựng khung giám sát, đánh giá
Sau khi đã xác định được mục tiêu giám sát, đánh giá thì bước quan
trọng tiếp theo là phải sắp xếp được các mục tiêu, nội dung cần giám sát,
đánh giá đó tương ứng với các phương pháp cụ thể mà dự kiến sử dụng để
thu thập thông tin làm rõ mục tiêu, nội dung cần giám sát, đánh giá. Việc
sắp xếp này sẽ tạo ra một khung giám sát, đánh giá.
6. Xây dựng khung logic trong kế hoạch giám sát, đánh giá
Khung logic là công cụ để thao tác, diễn giải “các vấn đề” thành các
chỉ báo cụ thể, có thể đo, đếm được, đồng thời xác định rõ “các vấn đề” đó
đạt được như thế nào cũng như các giả định để thực hiện được các vấn đề
đó. Khung logic cũng làm rõ mối quan hệ giữa mục tiêu của dự án với các
hoạt động thiết kế dự án.
175
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP, CƠ CHẾ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ BÌNH ĐẲNG GIỚI CÁC CẤP
I. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP, CƠ CHẾ GIÁM SÁT,
ĐÁNH GIÁ VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI THỜI ĐIỂM TRƯỚC KHI CÓ LUẬT
BÌNH ĐẲNG GIỚI
1. Thực trạng về phương pháp, cơ chế giám sát bình đẳng giới tại Việt Nam thời kỳ 1997-2007
Trong giai đoạn này, do hệ thống pháp luật về bình đẳng giới chưa được
hoàn thiện, UBQG và Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ chỉ là tổ chức phối hợp
liên ngành (UBQG có Văn phòng giúp việc gồm 14 cán bộ chuyên trách; các
ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ hầu hết là kiêm nhiệm, cử cán bộ đầu mối theo
dõi, tham mưu hoạt động VSTBPN) nên chưa xây dựng được cơ chế giám sát
các mục tiêu vì sự tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới thống nhất trong cả nước;
hệ thống giám sát chưa hình thành và vận hành thống nhất mà chỉ là các hoạt
động giám sát riêng lẻ do các cơ quan/tổ chức thực hiện.
Hoạt động chủ yếu của UBQG và các ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ
thời kỳ này là triển khai hoạt động kiểm tra theo định kỳ hàng năm:
- Cấp Trung ương: Hàng năm, lập kế hoạch tổ chức khoảng 10 đoàn
kiểm tra, thành phần là các thành viên của Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ
của phụ nữ Việt Nam. Thông thường, đoàn kiểm tra gồm Bộ Kế hoạch -
Đầu tư, Bộ Tài chính, Hội Phụ nữ, Văn phòng UBQG và một số Bộ, ngành
liên quan như Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ,... Trưởng
đoàn do một đồng chí thành viên UBQG là đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành
liên quan đảm nhiệm.
- Cấp tỉnh/thành, quận/huyện, xã/phường,... cũng có thể tiến hành xây
dựng kế hoạch kiểm tra hàng năm phù hợp với điều kiện, năng lực thực tế
của địa phương.
Địa bàn kiểm tra lựa chọn theo 2 tiêu chí: (i) Lựa chọn luân phiên
trong hơn 40 Bộ, ngành đã thành lập Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ và các
tỉnh/thành phố; (ii) Lựa chọn cơ quan/tỉnh/thành phố đang có vấn đề/vướng
mắc cần tập trung chỉ đạo, giải quyết.
176
Nội dung kiểm tra được chuẩn bị trước (bảng kiểm), tập trung kiểm tra
tiến trình (tiến độ) thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ chiến lược, kế
hoạch hành động vì sự tiến bộ phụ nữ của cơ quan/đơn vị về số lượng và
chất lượng. Đề xuất khuyến nghị, điều chỉnh kịp thời để đảm bảo các hoạt
động thực hiện đúng kế hoạch phê duyệt.
Hình thức thực hiện:
- Tổ chức các cuộc họp và các chuyến công tác định kỳ;
- Hệ thống báo cáo hàng quý, 6 tháng và hàng năm do các Ban Vì sự
tiến bộ phụ nữ các cấp chuẩn bị, gửi lên cấp trên tổng hợp.
Hoạt động giám sát của UBQG và các ban Vì sự tiến bộ phụ nữ: hoạt
động giám sát của UBQG và các Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ chủ yếu
thông qua phương pháp giám sát trực tiếp: Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ cấp
trên giám sát hoạt động của các Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ cấp dưới, từ khâu
lập kế hoạch đến triển khai thực hiện. Việc giám sát được thực hiện chủ yếu
theo hình thức báo cáo định kỳ. Bên cạnh đó, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ cấp
trên cũng tổ chức một số đoàn giám sát tại một số đơn vị cấp dưới, thông
thường giám sát luân phiên các đơn vị cấp dưới.
- Giám sát nội bộ: Thông thường do lãnh đạo/thường trực Ban Vì sự
tiến bộ phụ nữ của cơ quan/tổ chức trực tiếp thực hiện giám sát các hoạt
động vì sự tiến bộ phụ nữ trong phạm vi cơ quan/tổ chức mình;
- Giám sát chuyên biệt (chuyên sâu) theo từng vấn đề/chủ đề cụ thể.
Thông thường, qua giám sát trực tiếp và giám sát nội bộ phát hiện những
vấn đề, những khó khăn, tồn tại mà cấp cơ sở không đủ khả năng tự giải
quyết. Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ cấp trên có trách nhiệm rà soát, xem xét
từng vấn đề tồn tại đó, nếu cần thiết phải tổ chức những đoàn giám sát
chuyên sâu về một vài chủ đề/vấn đề nhằm tìm ra nguyên nhân và biện pháp
giải quyết, tháo gỡ vấn đề.
- Nguồn lực thực hiện hoạt động giám sát về bình đẳng giới các cấp
Nhìn chung, nguồn kinh phí giành cho hoạt động giám sát về bình đẳng
giới từ: (i) Ngân sách của tỉnh/TP/cơ quan/tổ chức giành cho hoạt động bình
đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ; (ii) Hỗ trợ của các chương trình/dự án trong
nước và quốc tế cho hoạt động bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ.
177
- Cán bộ giám sát thường là thành viên ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các
cấp. Cá biệt, một số nơi được các chương trình/dự án hỗ trợ kỹ thuật có thể
được chuyên gia giám sát độc lập hỗ trợ.
Thành tựu:
- Mặc dù thời kỳ này chưa xây dựng cơ chế giám sát các mục tiêu vì
sự tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới thống nhất, tuy nhiên ban Vì sự tiến bộ
phụ nữ các cấp đã chủ động thực hiện nhiệm vụ giám sát, coi đó là công cụ
hỗ trợ quản lý triển khai thực hiện chiến lược/kế hoạch hành động vì sự tiến
bộ phụ nữ;
- Việc xây dựng kế hoạch giám sát hàng năm, lựa chọn địa bàn/lĩnh
vực/vấn đề giám sát, phương pháp giám sát, nội dung giám sát được lựa
chọn tối ưu, phù hợp với nguồn lực/năng lực thực tế giành cho công tác này;
- Hệ thống ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp đã rất nỗ lực, chủ động,
sáng tạo trong triển khai thực hiện công tác giám sát, huy động đa dạng
nguồn lực giành cho hoạt động này (kể cả nguồn lực quốc tế).
Hạn chế:
- Vì chưa có cơ chế giám sát nên các cơ quan/tổ chức, địa phương gặp
nhiều khó khăn trong tổ chức triển khai hoạt động này.
- Hệ thống giám sát các cấp chưa hình thành rõ nét, đặc biệt là ở
cấp xã, huyện; chưa phân công trách nhiệm rõ ràng cụ thể; vận hành hệ
thống chưa rõ ràng, chưa thống nhất. Chưa có hệ thống chỉ tiêu giám sát
thống nhất.
- Một số ban Vì sự tiến bộ phụ nữ hạn chế về năng lực giám sát nên
khá lúng túng trong xây dựng mục tiêu, nội dung, lựa chọn phương pháp
giám sát. Hầu hết cán bộ chưa được trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để
thực hiện nhiệm vụ giám sát.
- Một số nơi hoạt động giám sát còn nặng về hình thức, đôi khi còn
lẫn lộn giám sát với hoạt động kiểm tra, thanh tra,…
- Nguồn lực thực tế giành cho hoạt động giám sát rất hạn chế.
178
2. Thực trạng về phương pháp, cơ chế đánh giá việc thực hiện
bình đẳng giới tại Việt Nam thời kỳ 1997-2007
Cơ chế đánh giá: Chưa xây dựng cơ chế đánh giá các mục tiêu vì sự
tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới thống nhất trong cả nước. Hệ thống đánh
giá chưa hình thành và vận hành thống nhất, chỉ có những hoạt động đánh
giá riêng lẻ do các cơ quan/tổ chức thực hiện.
Phương pháp đánh giá: Thông thường sử dụng mô hình đánh giá
trước và sau khi can thiệp kết hợp các phương pháp đánh giá dựa vào bằng
chứng, phương pháp đo lường mức độ đạt được mục tiêu.
Nguồn lực thực hiện:
- Ngân sách cấp Trung ương và địa phương có bố trí kinh phí cho hoạt
động sơ kết, tổng kết thực hiện công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ
nữ. Tuy nhiên kinh phí cho hoạt động đánh giá lại chưa được quan tâm.
- Trong quá trình triển khai Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ
đến năm 2010, một số cơ quan/tổ chức trong và ngoài nước đã thực hiện
một vài hoạt động đánh giá độc lập về thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới
và vì sự tiến bộ phụ nữ bằng ngân sách riêng.
Thực trạng các hoạt động đánh giá trong khuôn khổ Kế hoạch hành
động vì sự tiến bộ phụ nữ đến năm 2010 như sau:
- Đánh giá độc lập trong khuôn khổ Dự án VIE 01-015-01 Giới và
Chính sách công(22), đã tiến hành đánh giá đầu kỳ (2001) và đánh giá giữa
kỳ (2005). Tuy nhiên, do quy mô của các đánh giá độc lập hạn chế nên chỉ
có thể sử dụng kết quả đánh giá trong giới hạn, phạm vi nhất định. Đánh giá
này sử dụng phương pháp dựa vào bằng chứng, kết hợp giữa kinh nghiệm
của chuyên gia trong lĩnh vực bình đẳng giới và kết quả khảo sát định tính
và định lượng tại một số địa bàn. Đồng thời, cũng sử dụng phương pháp đo
lường mức độ đạt được một số mục tiêu, chỉ tiêu về bình đẳng giới trong kỳ.
(22)
Dự án VIE 01-015-01: Giới trong chính sách công trong khuôn khổ hợp tác
giữa Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ, Chương trình phát triển của Liên hợp
quốc tại Việt Nam (UNDP) và Chính phủ Hà Lan thực hiện.
179
- Đánh giá giữa kỳ, cuối kỳ do các Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp
thực hiện. Các đánh giá này thường sử dụng mô hình đánh giá trước - sau và
phương pháp đo lường mức độ đạt được mục tiêu để đánh giá những thay
đổi về chất và lượng các mục tiêu, chỉ tiêu vì sự tiến bộ phụ nữ và bình đẳng
giới trong thời kỳ. Căn cứ vào kết quả đánh giá của Ban Vì sự tiến bộ phụ
nữ các cấp, Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ sẽ tổng hợp kết quả đánh
giá trong phạm vi toàn quốc.
Nguồn thông tin, số liệu phục vụ đánh giá dựa vào:
- Số liệu từ hệ thống thông tin quản lý như hệ thống báo cáo, số liệu
thu thập theo cấp hành chính (cơ sở, huyện, tỉnh, trung ương);
- Số liệu từ hệ thống thống kê hiện hành (địa phương, Trung ương): sử
dụng một số chỉ tiêu sẵn có trong lĩnh vực như: lãnh đạo quản lý; lao động -
việc làm; y tế; giáo dục,…;
- Số liệu khảo sát, điều tra chuyên đề do các cơ quan, tổ chức thực
hiện theo từng chủ đề như: lãnh đạo, quản lý; lao động - việc làm - thu nhập.
Ưu điểm:
- Tận dụng đa dạng nguồn lực cho công tác đánh giá;
- Các kết quả đánh giá độc lập mang tính khách quan, có độ tin cậy
cao do sử dụng phương pháp, kỹ thuật, công cụ đánh giá chuyên nghiệp;
- Sử dụng hệ thống hành chính từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở, cung
cấp thông tin chuyên sâu theo từng lĩnh vực;
- Sử dụng thông tin, dữ liệu, số liệu từ các nguồn sẵn có, giúp tiết
kiệm nguồn lực (chi phí, con người) cho việc thu thập số liệu, tư liệu phục
vụ đánh giá.
Nhược điểm:
- Chưa xây dựng cơ chế đánh giá chung. Hệ thống đánh giá cũng như
vận hành chưa thống nhất, cả theo thời gian và không gian. Chưa có hệ
thống chỉ tiêu đánh giá các mục tiêu vì sự tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới
thống nhất trong cả nước;
- Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác đánh giá chưa
hiệu quả;
180
- Khó thu thập tư liệu, số liệu có tách biệt giới phục vụ công tác đánh
giá. Một số cơ quan không thể cung cấp các số liệu có tách biệt giới một
cách có hệ thống và cập nhật;
- Thời kỳ này chưa có quy định và chế tài cụ thể về việc cung cấp số
liệu phục vụ giám sát, đánh giá các mục tiêu vì sự tiến bộ phụ nữ và bình
đẳng giới (thời kỳ này chưa ban hành Luật Bình đẳng giới);
- Do hệ thống đánh giá không đồng nhất nên khó tổng hợp số liệu
phục vụ công tác đánh giá trong phạm vi toàn quốc.
II. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP, CƠ CHẾ ĐÁNH GIÁ, GIÁM
SÁT BÌNH ĐẲNG GIỚI KỂ TỪ KHI CÓ LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI ĐẾN NAY
1. Thực trạng thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới
ở Việt Nam hiện nay
Mặc dù các cấp, các ngành, các địa phương đã và đang thực hiện khá
nghiêm túc trách nhiệm của mình đối với công tác bình đẳng giới, bước đầu
đạt những thành tựu nêu trên, tuy nhiên, bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại ở
nhiều lĩnh vực, khác biệt ở các vùng miền và phần lớn nghiêng về phía phụ
nữ. Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế do: 1) Luật Bình đẳng giới mang tính
lồng ghép cao, công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới mang tính đa
ngành, cần có sự phối hợp cao và chặt chẽ giữa các bên liên quan, do đó
trong quá trình triển khai còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc. 2) Tư tưởng
định kiến giới còn tồn tại khá phổ biến trong nhân dân, kể cả trong một bộ
phận cán bộ, công chức. 3) Việc xây dựng và ban hành một số văn bản quy
phạm pháp luật về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ còn chậm, nên
đã ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng triển khai, thực hiện Luật Bình đẳng
giới. 4) Đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới mới được hình thành,
nên còn rất thiếu về số lượng và hạn chế về kiến thức giới, kỹ năng lồng
ghép giới, đặc biệt ở địa phương, cơ sở. Đặc biệt rất thiếu các chuyên gia có
kiến thức, kỹ năng lồng ghép giới trong các ngành chuyên môn. 5) Kinh phí
cho công tác bình đẳng giới còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. 6)
Công tác thống kê, thông tin báo cáo còn rất nhiều khó khăn do chưa hình
thành được hệ thống cơ sở dữ liệu có lồng ghép giới trên các lĩnh vực của
ngành; việc chấp hành chế độ báo cáo chưa nghiêm, chưa kịp thời.
181
2. Thực trạng về phương pháp, cơ chế giám sát bình đẳng giới
tại Việt Nam kể từ khi có Luật Bình đẳng giới đến nay
- Cơ chế giám sát: Ở cấp quốc gia, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội có trách nhiệm giám sát việc triển khai thực hiện các mục tiêu quốc gia
về bình đẳng giới được đề cập tại Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và
giám sát việc thực hiện các dự án nêu trong Chương trình quốc gia về bình
đẳng giới. Tuy nhiên, do giới là vấn đề mới và mang tính liên ngành nên
việc giám trên thực tế gặp khá nhiều khó khăn. Hệ thống Ban Vì sự tiến bộ
phụ nữ các cấp tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong triển khai thực hiện
công tác giám sát, cho hoạt động này.
- Phương pháp giám sát: Sử dụng phương pháp giám sát trực tiếp,
giám sát nội bộ và giám sát theo chuyên đề. Hàng năm, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, Ủy ban quốc gia và các Bộ, ngành, địa phương xây
dựng kế hoạch giám sát việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới
trong phạm vi lĩnh vực, thẩm quyền được phân công.
- Nguồn lực: Kinh phí chi cho hoạt động giám sát chủ yếu được lấy từ
nguồn kinh phí chi cho Chương trình quốc gia về bình đẳng giới và nguồn
ngân sách chi cho hoạt động kiểm tra của hệ thống tổ chức liên ngành vì sự
tiến bộ của phụ nữ từ Trung ương tới cơ sở.
3. Thực trạng về phương pháp, cơ chế đánh giá bình đẳng giới tại Việt Nam kể từ khi có Luật Bình đẳng giới đến nay
- Cơ chế đánh giá: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách
nhiệm đánh giá hàng năm và theo định kỳ về tình hình thực hiện bình đẳng
giới trong phạm vi cả nước; hàng năm xây dựng báo cáo việc thực hiện mục
tiêu quốc gia về bình đẳng giới trên phạm vi toàn quốc trình Chính phủ phê
duyệt để báo cáo Quốc hội.
- Phương pháp đánh giá: Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội đã giúp Chính phủ xây dựng 05 báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu
quốc gia về bình đẳng giới theo quy định tại Điều 25 Luật Bình đẳng giới.
Đến nay đã có 04 báo cáo được Chính phủ phê duyệt gửi báo cáo Quốc hội
về tình hình thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới các năm 2008,
2009, 2010, 2011, 2012. Tuy nhiên, giai đoạn trước khi các mục tiêu này
được xác định cụ thể tại Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới thì các báo
cáo trên được Quốc hội cho phép xây dựng báo cáo đánh giá tình hình thực
182
hiện Luật Bình đẳng giới. Năm 2012, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
cũng đã thực hiện đánh giá 5 năm tình hình thực hiện Luật Bình đẳng giới.
- Nguồn lực thực hiện: Từ nguồn ngân sách bố trí cho hoạt động sơ
kết, tổng kết thực hiện công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ song
còn hạn chế. Năm 2012, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được bố trí
45 triệu cho hoạt động đánh giá 5 năm thực hiện Luật Bình đẳng giới.
Không có nguồn kinh phí nào chi cho hoạt động đánh giá hàng năm tình
hình thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Thực trạng các hoạt động đánh giá trong khuôn khổ Chiến lược quốc
gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Chương trình quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015 như sau:
- Đánh giá đầu kỳ và cuối kỳ, đã tiến hành đánh giá đầu kỳ (2010) vào
dịp tổng kết tình hình thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2001-2010 và trước khi xây dựng Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2011-2015. Tuy nhiên, do quy mô của các đánh giá còn hạn
chế nên chỉ có thể sử dụng kết quả đánh giá trong phạm vi nhất định.
4. Thực trạng hệ thống chỉ tiêu phục vụ công tác giám sát, đánh
giá bình đẳng giới ở Việt Nam
4.1. Quy định pháp lý về hệ thống chỉ tiêu về bình đẳng giới
quốc gia
Luật Bình đẳng giới quy định, các cơ quan quản lý nhà nước về bình
đẳng giới có trách nhiệm phối hợp với nhau để thực hiện công tác thống kê,
thông tin, báo cáo về bình đẳng giới, gồm(23):
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bình đẳng giới;
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được Chính phủ phân công
chủ trì chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện;
- Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực
hiện;
(23)
Luật Bình đẳng giới, Điều 9.
183
- Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng
giới (cụ thể là công tác thống kê, thông tin, báo cáo về bình đẳng giới) trong
phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia ban hành theo Quyết định số
43/2010/QĐ-TTg ngày 2-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ. Hệ thống chỉ
tiêu này đảm bảo cung cấp một số số liệu cần thiết về bình đẳng giới, tuy
nhiên còn thiếu một số chỉ tiêu chuyên sâu trong 8 lĩnh vực bình đẳng giới.
Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 56/2011/QĐ-TTg ngày 14-10-
2011, ban hành Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới quốc gia.
Quan hệ của Bộ chỉ tiêu phát triển giới quốc gia với hệ thống chỉ tiêu khác
Quan hệ với hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia(24): có 62 chỉ tiêu của
Bộ chỉ tiêu phát triển giới quốc gia thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc
gia. Hầu hết các chỉ tiêu này được giữ nguyên, một số chỉ tiêu được bổ sung
thêm phân tổ theo giới và dân tộc để phục vụ cho công tác đánh giá, nghiên
cứu sâu hơn về lĩnh vực bình đẳng giới. Bên cạnh đó, bộ chỉ tiêu phát triển
giới quốc gia còn có thêm 45 chỉ tiêu mới, ba chỉ tiêu tổng hợp là chỉ số phát
triển giới, chỉ số vai trò phụ nữ và chỉ số khoảng cách giới.
Quan hệ với Luật Bình đẳng giới, Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới(25): Các chỉ tiêu thuộc Bộ chỉ tiêu phát triển giới quốc gia bao gồm:
Các chỉ tiêu thuộc 8 lĩnh vực bình đẳng giới trong Luật Bình đẳng giới;
Toàn bộ 22 chỉ tiêu thuộc 7 mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình
đẳng giới.
Quy định về trách nhiệm của các Bộ/cơ quan trong việc thu thập,
phân tích và ban hành số liệu của Bộ chỉ tiêu phát triển giới quốc gia
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê): 32 chỉ tiêu;
Bộ Y tế: 19 chỉ tiêu;
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: 9 chỉ tiêu;
(24)
Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, ban hành theo Quyết định số 43/2010/QĐ-
TTg ngày 2-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ. (25)
Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24-12-2010 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020.
184
Bộ Giáo dục và Đào tạo: 8 chỉ tiêu;
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: 7 chỉ tiêu;
Bộ Nội vụ: 5 chỉ tiêu;
Bộ Khoa học và Công nghệ: 4 chỉ tiêu;
Các bộ, cơ quan khác: 21 chỉ tiêu.
(Bộ, cơ quan khác gồm: Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông,
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Ủy ban Dân tộc, Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Văn
phòng Quốc hội, Cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội,
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án Nhân dân tối cao, Bảo
hiểm xã hội Việt Nam).
Quy trình các bộ/cơ quan triển khai thực hiện thu thập và cung cấp số
liệu theo các chỉ tiêu được giao
- Đối với các bộ/cơ quan đã ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê của
ngành/lĩnh vực: Phải rà soát, so sánh hệ thống chỉ tiêu thống kê đã ban hành
với các chỉ tiêu được giao (trong số 105 chỉ tiêu của Bộ chỉ tiêu phát triển
giới quốc gia) chỉ tiêu thống kê phát triển giới bổ sung các chỉ tiêu thống kê
còn thiếu, điều chỉnh các chỉ tiêu thống kê có thay đổi.
- Đối với các Bộ/cơ quan chưa ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê
của ngành/lĩnh vực: Căn cứ Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và Bộ chỉ
tiêu phát triển giới quốc gia để xây dựng và ban hành Hệ thống chỉ tiêu
thống kê thuộc Bộ, ngành, lĩnh vực quản lý.
- Các Bộ/cơ quan đều rà soát và xây dựng chế độ báo cáo, chương
trình điều tra để thu thập số liệu cung cấp cho Tổng cục Thống kê tổng hợp.
4.2. Thực trạng thu thập thông tin và báo cáo các chỉ tiêu giám
sát, đánh giá bình đẳng giới trong giai đoạn đến năm 2012
a) Các chỉ số tổng hợp
Những chỉ tiêu tổng hợp đã được triển khai trong thực tế từ nhiều năm
trước, do các tổ chức quốc tế hoặc Tổng cục Thống kê thực hiện. Việc tính
toán trong thực tế gặp khá nhiều khó khăn do nhiều số liệu phục vụ tính toán
không đầy đủ, không cập nhật.
185
Từ năm 2012, Tổng cục Thống kê đã chính thức được giao tính toán
và công bố chỉ tiêu tổng hợp với chu kỳ 2 năm/lần.
b) Nhóm các chỉ tiêu trong 11 lĩnh vực có liên quan đến các mục tiêu
quốc gia về bình đẳng giới: Tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh; Tỷ suất chết
của người mẹ trong thời gian thai sản, ...
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ CÁC MỤC TIÊU
QUỐC GIA VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI THỜI KỲ TRƯỚC 2012
- Thứ nhất, cần thiết phải xây dựng cơ chế giám sát việc thực hiện các
mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới trong giai đoạn đầu triển khai Chiến
lược quốc gia Bình đẳng giới 2011-2020. Trong cơ chế giám sát phải quy
định rõ thiết kế hệ thống giám sát từ cấp Trung ương đến địa phương và
cách thức vận hành hệ thống này.
- Thứ hai, để đảm bảo vận hành cơ chế giám sát trong thực tiễn, cần (i)
Phân công trách nhiệm giám sát phải rõ ràng, cụ thể, bằng văn bản hành chính
do cấp có thẩm quyền ban hành. Bên cạnh đó, cần có chế tài xử phạt nghiêm
minh trong trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ giám sát, làm ảnh hưởng
đến kết quả, hiệu quả triển khai các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; (ii)
Phải bố trí đủ nguồn kinh phí giành riêng cho hoạt động giám sát; (iii) Các cơ
quan, đơn vị, cá nhân được giao nhiệm vụ giám sát phải được trang bị đầy đủ
các kiến thức, kỹ năng giám sát trong lĩnh vực bình đẳng giới.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP VÀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở CÁC CẤP
I. NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP, CƠ CHẾ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở CÁC CẤP
- Tuân thủ những quy định của luật pháp Việt Nam, công ước quốc tế
mà Việt Nam đã tham gia ký kết, phê chuẩn (Hiến pháp, Luật Thống kê, Bộ
Luật Lao động, Luật Bình đẳng giới,... Công ước CEDAW);
- Cơ chế giám sát, đánh giá phải lựa chọn sử dụng phương pháp và
công cụ phù hợp, đảm bảo các cấp đều có khả năng áp dụng;
186
- Các chỉ số giám sát, đánh giá cần sử dụng tối đa các chỉ tiêu của “Hệ
thống chỉ tiêu thống kê quốc gia”(26) và Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới
quốc gia; cần đảm bảo tính so sánh trong phạm vi quốc gia và quốc tế;
- Để tiết kiệm nguồn lực, cần tận dụng tối đa hệ thống giám sát đánh
giá về bình đẳng giới các cấp hiện hành cũng như sử dụng bộ máy bình đẳng
giới và vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp.
II. ĐỊNH DẠNG ĐƯỢC CẤU TRÚC CỦA CƠ CHẾ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI CÁC CẤP
Để việc giám sát, đánh giá bình đẳng giới ở các cấp phát huy được
hiệu quả, khắc phục được các tồn tại, vướng mắc hiện nay đòi hỏi chúng ta
cần phải định dạng, xây dựng được cấu trúc của cơ chế thực hiện giám sát,
đánh giá và quy định một cách cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của chúng.
Theo đó, hệ thống giám sát, đánh giá thực hiện các mục tiêu quốc gia về
bình đẳng giới cần được xây dựng theo 3 cấp:
- Cấp quốc gia: Với vai trò là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về bình đẳng giới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội (Vụ Bình đẳng giới) là cơ quan chủ trì giám sát, đánh giá việc thực hiện
các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới ở cấp độ quốc gia;
- Cấp bộ/ngành, tỉnh/ thành phố trực thuộc Trung ương: Hiện tại, theo
quy định của Luật Bình đẳng giới và các văn bản hướng dẫn thi hành thì tại
các Bộ, ngành, tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đều có bộ phận tham
mưu lĩnh vực bình đẳng giới hoặc vì sự tiến bộ phụ nữ. Vì vậy, đơn vị giám
sát, đánh giá cần đặt ở các cơ quan này.
- Cấp quận/huyện, đơn vị trực thuộc bộ/ngành: Cũng tương tự như đối
với cấp bộ, ngành, cấp tỉnh, đơn vị giám sát, đánh giá cấp huyện/quận, đơn vị
trực thuộc bộ/ngành cần được đặt tại bộ phận phụ trách lĩnh vực bình đẳng
giới hoặc vì sự tiến bộ phụ nữ với ít nhất một đến hai công chức đảm nhiệm.
Mô tả về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị trong hệ thống giám sát,
đánh giá các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới:
(26)
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Quyết định số 43/2010/QĐ-TTg ngày
2-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia.
187
Chức năng: Thu thập, quản lý và báo cáo số liệu về các hoạt động
bình đẳng giới trong khuôn khổ triển khai Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2011-2020, Chương trình quốc gia Bình đẳng giới giai đoạn
2011-2015 và KHHĐBĐG giai đoạn 2011-2015 của các bộ/ngành và tỉnh/
thành phố trực thuộc Trung ương.
Nhiệm vụ:
a) Cấp quốc gia (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Vụ Bình
đẳng giới)
- Xây dựng và quản lý hệ thống giám sát, đánh giá các mục tiêu quốc
gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 của quốc gia;
- Hình thành nhóm hỗ trợ kỹ thuật cho hệ thống giám sát, đánh giá cấp
Trung ương, tỉnh/ thành phố và huyện/quận;
- Chỉ đạo các đơn vị trong hệ thống giám sát, đánh giá và phối hợp với
các đơn vị có liên quan thu thập, phân tích, tổng hợp số liệu giám sát, đánh
giá các hoạt động trong khuôn khổ triển khai các hoạt động thuộc Chiến
lược và Chương trình quốc gia bình đẳng giới trong phạm vi toàn quốc;
- Là đầu mối xây dựng kế hoạch giám sát, đánh giá về bình đẳng giới;
hướng dẫn các đơn vị trong hệ thống triển khai hoạt động giám sát, đánh giá
ở các cấp;
- Tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện hoạt động giám
sát, đánh giá trên phạm vi toàn quốc;
- Thực hiện các nghiên cứu đánh giá ở cấp quốc gia và sửa đổi bổ
sung hoàn thiện hệ thống giám sát, đánh giá các cấp (bao gồm cả việc bổ
sung các chỉ số giám sát, đánh giá cho phù hợp với thực tế);
- Chủ trì và phối hợp với các đơn vị có liên quan trong việc xây dựng
các đề án hợp tác quốc tế, các nghiên cứu khoa học; và đào tạo cho hệ thống
giám sát, đánh giá các cấp trong phạm vi cả nước;
- Là cơ quan duy nhất được công bố các dữ liệu về giám sát, đánh giá
các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 cấp quốc gia.
188
b) Đơn vị giám sát đánh giá cấp bộ/ngành và tỉnh/ thành phố
- Xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai hoạt động giám sát, đánh giá
của Bộ/ngành hoặc tỉnh/ thành phố, bao gồm việc thu thập số liệu chính xác,
phân tích số liệu, báo cáo kịp thời và đề xuất các khuyến nghị sửa đổi bổ
sung cho cấp quốc gia;
- Hướng dẫn nghiệp vụ, tổ chức kiểm tra đánh giá, tổng hợp kết quả
giám sát, đánh giá trong phạm vi Bộ/ngành hoặc tỉnh/ thành phố.
c) Đơn vị giám sát, đánh giá cấp huyện
- Thực hiện thu thập số liệu, phân tích, tổng hợp, quản lý toàn bộ số
liệu giám sát, đánh giá ở cấp huyện/quận và định kỳ báo cáo kết quả cho cấp
tỉnh/ thành phố.
d) Nhóm kỹ thuật quốc gia
- Thực hiện hỗ trợ kỹ thuật cho đơn vị giám sát, đánh giá cấp quốc gia
và đơn vị giám sát cấp Bộ/ban/ngành và tỉnh/ thành phố khi cần thiết, đảm
bảo hỗ trợ kịp thời và có chất lượng.
đ) Các tổ chức quốc tế
- Thực hiện hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho hoạt động nghiên cứu,
khảo sát, đánh giá đầu kỳ, giữa kỳ và cuối kỳ;
- Hỗ trợ nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ của các đơn vị giám
sát, đánh giá các cấp.
III. CẦN TỔ CHỨC TỐT VIỆC THỰC HIỆN BÁO CÁO HOẠT ĐỘNG BÌNH
ĐẲNG GIỚI ĐỊNH KỲ CÁC CẤP VÀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP, QUẢN LÝ
VÀ SỬ DỤNG SỐ LIỆU GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ CÁC CẤP
1. Tổ chức tốt việc thực hiện báo cáo hoạt động bình đẳng giới định kỳ các cấp
Báo cáo những chỉ số đầu vào và đầu ra của Chiến lược và Chương
trình quốc gia về bình đẳng giới, KHHĐBĐG của các đơn vị trong kỳ thực
hiện. Báo cáo này bao gồm phụ lục biểu số liệu về các chỉ số kèm theo.
Từng cấp thực hiện thu thập, tổng hợp số liệu từ tất cả các nguồn và
báo cáo định kỳ.
189
Tần suất báo cáo: hàng năm, giữa kỳ, cuối kỳ.
Thực hiện: tất cả các đơn vị giám sát các cấp đều phải thực hiện báo
cáo này.
2. Tổ chức tốt hoạt động thu thập, quản lý và sử dụng số liệu giám sát, đánh giá các cấp
Hoạt động thu thập, quản lý và sử dụng số liệu giám sát, đánh giá các
cấp cần được thực hiện đúng như biểu thị trong sơ đồ 2.
IV. CẦN XÁC ĐỊNH ĐƯỢC CÁC NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ CÁC CẤP
1. Hoạt động giám sát
- Mục tiêu: Đảm bảo các hoạt động triển khai các mục tiêu quốc gia
bình đẳng giới được thực hiện đúng kế hoạch; đảm bảo đầu ra của Chiến
lược, Chương trình quốc gia bình đẳng giới, KHHĐBĐG của các Bộ/ngành,
tỉnh/ thành phố đúng như mục tiêu, kế hoạch đặt ra.
- Nội dung giám sát: (i) Giám sát các hoạt động trong khuôn khổ
Chiến lược, chương trình quốc gia bình đẳng giới, KHHĐBĐG của các
Bộ/ngành, tỉnh/ thành phố nhằm thực hiện các mục tiêu quốc gia bình đẳng
giới giai đoạn 2011-2020. Cụ thể đối với từng hoạt động cần giám sát tiến
độ thực hiện, thủ tục thực hiện, thời gian thực hiện, người thực hiện, kết quả
thực hiện; (ii) Giám sát đầu ra (out-puts): số lượng và chất lượng của các
đầu ra so với thiết kế và kế hoạch thực hiện.
- Đơn vị thực hiện: tất cả các đơn vị giám sát - đánh giá ở các cấp đều
thực hiện.
- Thời gian thực hiện: thường xuyên, hàng năm, giữa kỳ, cuối kỳ.
- Phương pháp giám sát: bao gồm giám sát chuyên biệt (chuyên sâu)
và giám sát lồng ghép.
- Nguồn số liệu phục vụ giám sát: (i) Số liệu từ Báo cáo hoạt động
định kỳ của các cấp (mục a); (ii) Số liệu từ các chương trình điều tra thống
kê tổ chức hàng năm, 2 năm/lần, 5 năm/lần do Tổng cục Thống kê thực hiện
như điều tra dân số và nhà ở; điều tra việc làm và thất nghiệp; điều tra mức
sống hộ gia đình; điều tra nông nghiệp nông thôn và thủy sản; điều tra
190
doanh nghiệp; điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp;… (iii) Số liệu
từ các nghiên cứu, điều tra chuyên đề do các cơ quan quản lý, cơ quan
nghiên cứu, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể thực hiện; (iv) Số liệu từ
các nguồn khác (nếu có).
- Kinh phí giám sát: (i) Từ nguồn kinh phí kiểm tra, giám sát, đánh giá
của Chương trình quốc gia bình đẳng giới, KHHĐBĐG của các bộ/ngành và
tỉnh/ thành phố; (ii) Kinh phí hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức trong và ngoài
nước.
- Hệ thống chỉ số giám sát và báo cáo giám sát:
Hệ thống chỉ số giám sát và mẫu báo cáo giám sát sẽ hỗ trợ cho triển
khai thực hiện hoạt động giám sát ở các cấp. Hệ thống chỉ số và mẫu báo
cáo giám sát phải được xây dựng và ban hành từ giai đọan đầu và thực hiện
thống nhất ở các cấp trong phạm vi tòan quốc. Hệ thống các chỉ số giám sát
ở phần dưới và mẫu báo cáo giám sát ở phụ lục 1)
2. Hoạt động đánh giá
Mục tiêu: Xem xét tính hiệu quả, sự phù hợp, tác động và tính bền
vững của các mục tiêu quốc gia bình đẳng giới trong khuôn khổ Chiến lược
và Chương trình quốc gia về bình đẳng giới, KHHĐBĐG của các Bộ/ngành
và tỉnh/ thành phố.
- Nội dung đánh giá: (i) Đánh giá đầu kỳ về tính phù hợp của các mục
tiêu quốc gia bình đẳng giới; (ii) Đánh giá giữa kỳ (3 năm, 5 năm) về tính
phù hợp, hiệu quả thực hiện các hoạt động triển khai mục tiêu quốc gia bình
đẳng giới, đánh giá hiệu suất sử dụng các nguồn lực thực hiện; (iii) Đánh giá
cuối kỳ về tính hiệu quả và bền vững của Chiến lược, chương trình quốc gia
bình đẳng giới, KHHĐBĐG của các Bộ/ngành, tỉnh/ thành phố.
- Đơn vị thực hiện: Các đơn vị giám sát, đánh giá cấp Trung ương
(cấp 1) và cấp Bộ/ngành, tỉnh/ thành phố (cấp 2) thực hiện các hoạt động
đánh giá.
- Thời gian thực hiện: đầu kỳ, giữa kỳ, cuối kỳ.
- Phương pháp đánh giá: Kết hợp đánh giá nội bộ, đánh giá của
chuyên gia độc lập từ bên ngoài và đánh giá có sự tham gia.
191
- Nguồn số liệu phục vụ đánh giá: (i) Số liệu từ Báo cáo hoạt động
định kỳ của các cấp (mục a); (ii) Số liệu từ các chương trình điều tra thống
kê tổ chức hàng năm, 2 năm/lần, 5 năm/lần do Tổng cục Thống kê thực hiện
như điều tra dân số và nhà ở; điều tra việc làm và thất nghiệp; điều tra mức
sống hộ gia đình; điều tra nông nghiệp nông thôn và thủy sản; điều tra
doanh nghiệp; điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp;… (iii) Số liệu
từ các nghiên cứu, điều tra chuyên đề do các cơ quan quản lý, cơ quan
nghiên cứu, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể thực hiện; (iv) Số liệu từ
các nguồn khác (nếu có).
- Kinh phí đánh giá: (i) Từ nguồn kinh phí kiểm tra, giám sát, đánh
giá của Chương trình quốc gia bình đẳng giới, KHHĐBĐG của các
bộ/ngành và tỉnh/ thành phố; (ii) Kinh phí hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức.
V. XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CÁC CHỈ SỐ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ CÁC
MỤC TIÊU QUỐC GIA BÌNH ĐẲNG GIỚI GIAI ĐOẠN 2011-2020
1. Nhóm chỉ số giám sát đầu vào
* Nhóm chỉ số đánh giá thực trạng tình hình xây dựng và triển khai
KHHĐBĐG của các bộ/ngành và tỉnh/ thành phố
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và
Chương trình quốc gia bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015 là định hướng
quan trọng cho hoạt động về bình đẳng giới ở Việt Nam. Theo đó, mỗi
Bộ/ngành và tỉnh/ thành phố có trách nhiệm xây dựng và triển khai
KHHĐBĐG của Bộ/ngành hoặc tỉnh/ thành phố.
Chúng ta cần biết tình hình, tiến độ xây dựng và triển khai
KHHĐBĐG của các Bộ/ngành và tỉnh/ thành phố dựa trên kế hoạch và chỉ
tiêu thực hiện.
* Nhóm chỉ số giám sát ngân sách chi tiêu hàng năm cho triển khai
Chương trình quốc gia bình đẳng giới, KHHĐBĐG của Bộ/ngành và tỉnh/
thành phố
Chúng ta cần biết tổng ngân sách đã chi tiêu hàng năm cho triển khai
Chương trình quốc gia bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015 nói chung và
KHHĐBĐG của bộ/ngành hoặc tỉnh/ thành phố nói riêng. Bên cạnh đó, cần
biết năng lực và hiệu quả sử dụng nguồn ngân sách đó.
192
* Nhóm chỉ số giám sát tình hình nguồn nhân lực tại Trung ương (cấp
1) và cấp bộ/ngành, tỉnh/ thành phố cho triển khai Chương trình quốc gia
bình đẳng giới, KHHĐBĐG của Bộ/ngành và tỉnh/ thành phố
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng trong việc triển khai Chiến lược
và chương trình quốc gia BĐG cũng như KHHĐBĐG của các bộ/ngành và
tỉnh/ thành phố.
Việc đảm bảo năng lực hệ thống bộ máy các cấp là yếu tố quan trọng,
dựa trên 2 yếu tố chính (i) Đảm bảo số lượng nhân lực cần thiết; (ii) Đảm
bảo chất lượng nhân lực thông qua đào tạo cán bộ.
2. Nhóm chỉ số đánh giá tác động tới các mục tiêu quốc gia bình
đẳng giới giai đoạn 2011-2020 các cấp
Nhóm chỉ số này sử dụng các chỉ tiêu từ Hệ thống chỉ tiêu thống kê
quốc gia”(27) và Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới quốc gia. Mọi chỉ tiêu
đều sử dụng khái niệm, nội hàm, công thức tính và hệ thống thu thập số liệu
của Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới quốc gia.
VI. ÁP DỤNG THỬ NGHIỆM GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VÀ
TRIỂN KHAI KHHĐBĐG CỦA BỘ/NGÀNH VÀ TỈNH/THÀNH PHỐ
Giám sát tình hình xây dựng và triển khai KHHĐBĐG của 01 tỉnh/
thành phố
- Đơn vị thực hiện: đơn vị giám sát cấp Trung ương (cấp 1) tổng hợp từ
báo cáo hàng năm của đơn vị giám sát Bộ/ngành và tỉnh/thành phố (cấp 2).
- Thời gian thực hiện: tháng 12 hàng năm.
- Phương pháp: lồng ghép theo hình thức giám sát nội bộ.
- Nguồn số liệu phục vụ giám sát: báo cáo hoạt động định kỳ của các
đơn vị giám sát Bộ/ngành và tỉnh/thành phố (cấp 2)
Một số nhận xét từ kết quả giám sát:
- Vẫn còn hơn 10 địa phương chưa phê duyệt KHHĐ về BĐG và kế
hoạch triển khai Chương trình quốc gia về bình đẳng giới theo tiến độ đề ra.
(27)
Nước CHXHCN Việt Nam: Quyết định số 43/2010/QĐ-TTg ngày 2-6-2010 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia.
193
- Số lượng cán bộ làm công tác bình đẳng giới còn hạn chế, trung bình
mỗi địa phương có 2 cán bộ và chủ yếu kiêm nhiệm.
- Các địa phương chưa quan tâm bố trí kinh phí cho công tác bình
đẳng giới nói chung và kinh phí triển khai chương trình quốc gia về bình
đẳng giới nói riêng.
VII. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP, CƠ CHẾ
GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ CÁC CẤP
1. Công tác chỉ đạo thực hiện
Vụ Bình đẳng giới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hình thành
Nhóm kỹ thuật giám sát, đánh giá quốc gia; nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện
“Cơ chế giám sát, đánh giá các mục tiêu quốc gia bình đẳng giới giai đoạn
2011-2020” trình Bộ phê duyệt gửi các Bộ, ngành, địa phương thực hiện.
Dựa vào căn cứ này, các bộ/ban/ngành và tỉnh/thành phố xây dựng kế
hoạch giám sát, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới trong
phạm vi Bộ/ngành và tỉnh/thành phố trong thời kỳ 2011-2020; đồng thời ra
quyết định thành lập đơn vị giám sát các cấp với đầy đủ các nguồn lực cần
thiết (nhân lực, ngân sách,...).
2. Hỗ trợ kỹ thuật triển khai hoạt động giám sát, đánh giá các cấp
Thông qua cơ chế Nhóm kỹ thuật giám sát đánh giá quốc gia triển
khai xây dựng các tài liệu hướng dẫn triển khai thực hiện giám sát đánh giá
các mục tiêu bình đẳng giới cho các cấp (cấp 1, cấp 2 và cấp 3) gồm: (i)
Cẩm nang hướng dẫn triển khai cơ chế giám sát, đánh giá các mục tiêu quốc
gia bình đẳng giới, (ii) Tài liệu hướng dẫn kỹ thuật về phương pháp, công cụ
giám sát đánh giá.
Tổ chức đào tạo, tập huấn kỹ thuật cho các đơn vị giám sát, đánh giá
cấp 1 và 2 về: (i) Toàn bộ hệ thống văn bản pháp lý có liên quan; (ii) Cung
cấp kiến thức và kỹ năng cơ bản về giám sát, đánh giá; (iii) Tập huấn sử
dụng cẩm nang hướng dẫn triển khai thực hiện và tài liệu kỹ thuật.
Thông qua cơ chế Nhóm kỹ thuật giám sát đánh giá quốc gia để tư
vấn, hỗ trợ giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai
giám sát đánh giá.
194
3. Nâng cao nhận thức cho cán bộ các cấp về giám sát đánh giá
các mục tiêu quốc gia bình đẳng giới
Các đơn vị giám sát đánh giá các cấp tổ chức hoạt động tuyên truyền,
nâng cao nhận thức của lãnh đạo và cán bộ về sự cần thiết phải xây dựng và
vận hành cơ chế giám sát, đánh giá cũng như vai trò và lợi ích khi thực hiện.
4. Đảm bảo kinh phí cho triển khai giám sát đánh giá
Các đơn vị giám sát cấp trung ương, các đơn vị giám sát Bộ/ngành và
tỉnh/thành phố cần đảm bảo ngân sách đầy đủ, kịp thời cho triển khai hoạt
động giám sát, đánh giá.
Ngân sách giành cho hoạt động giám sát, đánh giá nên chiếm tối thiểu
5% tổng ngân sách của chương trình/dự án bình đẳng giới.
5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong xây dựng và triển khai cơ chế
giám sát đánh giá các mục tiêu quốc gia bình đẳng giới các cấp
Đẩy mạnh hợp tác song phương, đa phương để thu hút hỗ trợ kỹ thuật
và tài chính cho xây dựng và triển khai cơ chế giám sát, đánh giá các cấp.
KẾT LUẬN Thực hiện thành công đề tài “Nghiên cứu phương pháp, cơ chế đánh
giá, giám sát bình đẳng giới các cấp” có ý nghĩa quan trọng đối với công
tác thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Đề tài đã đưa ra các nội
dung và các giải pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm giúp cho công tác giám
sát, đánh giá các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới ở các cấp được thống
nhất, nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Từ đó, các cơ quan hoạt động
trong lĩnh vực bình đẳng giới có cơ sở điều chỉnh, đề xuất cấp có thẩm
quyền xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các chương trình, chính
sách, pháp luật về bình đẳng giới một cách phù hợp với tình hình thực tiễn,
phát huy hiệu quả, đạt yêu cầu đã đề ra.
Để có thể triển khai cơ chế giám sát, đánh giá các mục tiêu quốc gia
về bình đẳng giới trong thực tiễn, Nhóm thực hiện đề tài có các kiến nghị cụ
thể như sau:
195
Thứ nhất, cơ chế giám sát, đánh giá phải được cấp có thẩm quyền phê
duyệt, ban hành chính thức để thực hiện một cách thống nhất, đồng bộ ở tất
cả các cấp.
Thứ hai, trong quá trình triển khai thực hiện nhất thiết phải có sự chỉ
đạo sát sao của lãnh đạo bộ/ngành và tỉnh/thành phố để việc giám sát, đánh
giá được thực chất, nghiêm túc và có hiệu quả.
Thứ ba, cần xây dựng bộ tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, cẩm nang hướng
dẫn triển khai thực hiện cơ chế giám sát, đánh giá các cấp.
Thứ tư, cần tập huấn cho cán bộ tham gia hệ thống giám sát, đánh giá các
cấp có đủ kiến thức, kỹ năng, thái độ để thực hiện nhiệm vụ giám sát, đánh giá.
Thứ năm, cần thành lập bộ phận/nhóm hỗ trợ kỹ thuật giám sát, đánh
giá ở cấp Trung ương. Nhiệm vụ của bộ phận này là hướng dẫn kỹ thuật và
hỗ trợ các cấp giám sát, đánh giá giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong
quá trình triển khai thực hiện;
Thứ sáu, các cấp đánh giá cần phải quan tâm bố trí ngân sách đầy đủ,
kịp thời cho hoạt động giám sát, đánh giá.
196
GIÀ HÓA DÂN SỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC LÀM
VÀ AN SINH XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2015-2020
MÃ SỐ: CB2012-02-09
Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Khoa học LĐ&XH
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Trịnh Thu Nga
Thư ký: Ths. Nguyễn Thị Hạnh
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
GIÀ HÓA DÂN SỐ VÀ VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG - VIỆC LÀM
VÀ AN SINH XÃ HỘI
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Khái niệm cơ cấu dân số tuổi và biến đổi nhân khẩu học
- Cơ cấu dân số tuổi (hay gọi là cơ cấu dân số theo nhóm tuổi) là tỷ
trọng dân số ở từng độ tuổi so với tổng số dân (UNPFA, 2010).
Công thức tính như sau: ij
ij
j
PT = x100
P
I : Độ tuổi/ nhóm tuổi/khoảng tuổi; j: thời điểm/năm;
Pj : Tổng dân số ở thời điểm j;
Pij : Tổng số dân thuộc nhóm tuổi i ở thời điểm j;
Tij : Tỷ lệ dân số thuộc nhóm tuổi i trong tổng dân số ở thời điểm j.
Trong khoa học về dân số, cơ cấu dân số tuổi thường được chia thành 3
nhóm chính: (i) dân số trẻ (bao gồm trẻ em và vị thành niên); (ii) dân số
trưởng thành; (iii) Dân số cao tuổi. Độ tuổi của mỗi nhóm dân số này có sự
khác nhau giữa các quốc gia. Báo cáo này sử dụng qui định của Luật Người
cao tuổi(28) quy định những người từ 60 tuổi trở lên được coi là người cao
tuổi.
(28)
Luật người cao tuổi được Quốc hội thông qua ngày 23/11/2009
197
- Biến đổi cơ cấu dân số tuổi hay biến đổi nhân khẩu học: là sự thay
đổi về tỷ trọng dân số ở từng độ tuổi/nhóm tuổi trong tổng dân số. Biến đổi
nhân khẩu học tùy theo từng thời kỳ phát triển dân số, có thể theo 1 hoặc 2
trong 3 xu thế sau: tỷ lệ dân số trẻ tăng lên (trẻ hóa), tỷ lệ dân số trong tuổi
lao động tăng lên (dân số vàng), tỷ lệ người cao tuổi tăng lên (già hóa/già).
- Biến đổi cơ cấu dân số tuổi theo hướng già hóa: là quá trình cơ cấu
tuổi dân số thay đổi theo xu hướng tỷ lệ người già/người cao tuổi trong tổng
dân số ngày càng tăng lên.
2. Khái niệm già hóa dân số và dân số già
- Già hóa dân số hay còn gọi là giai đoạn “dân số đang già”: khi tỷ lệ
người từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 7%-13,9% tổng dân số hoặc tỷ lệ người từ
60 tuổi trở lên chiếm từ 10%- 9,9% tổng dân số (UNFPA, 2010).
- Dân số già hay còn gọi là giai đoạn “dân số đã già” khi dân số từ 65
tuổi trở lên chiếm từ 14% tổng dân số trở lên hoặc tỷ lệ người từ 60 tuổi trở
lên chiếm từ 20% tổng dân số trở lên (UNFPA, 2010).
3. Các khái niệm khác
- Mức sinh: tốc độ và mức độ của mức sinh này có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với tăng trưởng dân số (tăng trưởng dương hoặc tăng trưởng
âm) và cơ cấu tuổi trong tương lai.
- Tỷ số phụ thuộc dân số: tỷ số phụ thuộc dân số biểu thị số người
ngoài tuổi lao động (trẻ em và người cao tuổi) so với 100 người trong tuổi
lao động (UNFPA, 2010).
- Cơ cấu dân số vàng: biến đổi cơ cấu tuổi dân số làm thay đổi tỷ
trọng của các nhóm dân số. Khi tỷ số phụ thuộc dân số nhỏ hơn 50, nghĩa là
cứ hơn 2 người trong tuổi lao động mới phải “gánh” một người phụ thuộc,
dân số đi vào thời kỳ “cơ cấu vàng”.
- Tỷ lệ thay thế: tỷ lệ thay thế hay còn gọi là tỷ lệ hưởng là tỷ lệ của mức
hưởng hưu trí so với mức lương được dùng làm cơ sở để tính mức lương.
198
II. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIẾN ĐỔI NHÂN KHẨU HỌC
VÀ GIÀ HÓA DÂN SỐ
1. Thuyết quá độ dân số
Thuyết “quá độ dân số” nghiên cứu và lý giải vấn đề phát triển dân số
thông qua việc xem xét mức sinh, mức chết để hình thành một quy luật với
ba giai đoạn cơ bản.
Giai đoạn 1: đây là giai đoạn mà tỷ suất sinh và tỷ suất chết đều khá
cao, mức sinh cao hơn một chút so với mức chết nên gia tăng dân số tự
nhiên chậm, dân số tương đối ổn định.
Giai đoạn 2: đặc trưng của giai đoạn này là tỷ lệ chết giảm, tuổi thọ
trung bình tăng nhanh, trong khi đó tỷ lệ sinh lại không giảm tương ứng. Kết
quả là dân số tăng nhanh, tạo ra giai đoạn “bùng nổ dân số”.
Giai đoạn 3: tuổi thọ trung bình ngày càng tăng lên, tỷ lệ sinh giảm
dần. Đến cuối giai đoạn này, tỷ lệ chết đều thấp và cân bằng mức gia tăng tự
nhiên dân số khoảng 1%, dân số ổn định.
2. Ý nghĩa của biến đổi nhân khẩu học
Biến đổi cơ cấu tuổi dân số sẽ có tác động lớn đến quá trình phân bổ
nguồn lực, mức độ tăng trưởng, phát triển và sự ổn định về chính trị, xã hội
của mỗi nước. Khi có sự thay đổi về tỷ trọng dân số ở từng độ tuổi trong
tổng dân số sẽ có những thay đổi về sản xuất, tiêu dùng và do đó tác động
tới tăng trưởng kinh tế. Một quốc gia có dân số trẻ với tỷ lệ trẻ em cao thì
đất nước sẽ cần nhiều nguồn lực hơn để chi tiêu cho giáo dục, y tế và nuôi
dưỡng. Trong khi đó, một quốc gia có tỷ lệ dân số trong tuổi làm việc lớn
thì đất nước có được cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhờ nguồn nhân
lực dồi dào, tiết kiệm và đầu tư cao và hệ thống tài chính vững vàng hơn.
Đặc biệt, nếu một quốc gia có tỷ lệ người cao tuổi ngày càng tăng thì đất
nước phải chi tiêu ngày càng nhiều hơn cho chăm sóc y tế, tiêu dùng tăng và
các vấn đề về an sinh xã hội cần được giải quyết thỏa đáng.
199
III. KHUNG LÝ THUYẾT ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA GIÀ HÓA DÂN SỐ ĐẾN VIỆC LÀM VÀ AN SINH XÃ HỘI
1. Các giả định nghiên cứu và các chỉ tiêu đo lường
a) Giả định nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, do hạn chế về thời gian, nhóm nghiên cứu sử
dụng phương án tăng trưởng dân số trung bình giai đoạn 2009 – 2049 của
Tổng cục thống kê để làm căn cứ điều chỉnh, dự báo về lao động – việc làm
và an sinh xã hội.
Dự báo quy mô và cơ cấu đối tượng người cao tuổi đặc thù được căn
cứ theo chủ trương chính sách bảo trợ xã hội cho người cao tuổi và ưu đãi
dành cho NCC và xu hướng biến động của nhóm đối tượng trong giai đoạn
2009-2012.
b) Các chỉ tiêu đo lường
- Nhóm chỉ tiêu đầu vào: (i) Chỉ tiêu về già hóa dân số: tỷ lệ người cao
tuổi, tỷ lệ phụ thuộc; (ii) Chỉ tiêu vĩ mô khác: Tổng thu nhập quốc dân
(GDP), vốn đầu tư; thu nhập bình quân đầu người.
- Nhóm chỉ tiêu đầu ra: (i) Chỉ tiêu về lao động – việc làm: tỷ lệ tham
gia LLLĐ, quy mô và trình độ CMKT của LLLĐ; Việc làm trong các
ngành, nghề, khu vực kinh tế; năng suất lao động và tiền lương; (ii) Chỉ tiêu
về an sinh xã hội: tỷ lệ người hưởng hưu trí, chi phí lương hưu, tỷ lệ và số
lượng người cao tuổi sống phụ thuộc; chi phí chăm sóc người cao tuổi; đầu
tư cho y tế và giáo dục;...).
2. Khung phân tích ảnh hưởng già hóa dân số tới việc làm và an sinh xã hội
Nghiên cứu đã kết hợp khung phân tích tác động của biến đổi dân số
tuổi đến tăng trưởng kinh tế và ASXH theo một nghiên cứu của Thái Lan và
khung lý thuyết về mối quan hệ dân số - lao động và việc làm, Tổng cục
Dân số và Quỹ Dân số Liên hợp quốc (2011) và có điều chỉnh cho phù hợp
với mục tiêu và đối tượng nghiên cứu để hình thành Khung phân tích mô tả
ảnh hưởng của già hóa dân số tới việc làm và an sinh xã hội (Hình 2). Các
cấu phần và mối quan hệ của các nhân tố của khung phân tích sẽ được trình
bày trong mục 3.3 sau đây.
200
201
3. Ảnh hưởng của già hóa dân số tới việc làm và an sinh xã hội
a) Ảnh hưởng của già hóa dân số đến việc làm
Theo khung phân tích trên cho thấy, già hóa dân số sẽ tác động đến
việc làm ở tất cả các khía cạnh, bao gồm: chất lượng, số lượng, cơ cấu, phân
bố việc làm và năng suất lao động. Già hóa dân số tác động đến việc làm
thông qua 2 kênh: (i) cung lao động và (ii) cầu lao động.
Trong giai đoạn đầu của quá trình già hóa dân số, tình trạng dư thừa
lao động và LLLĐ già hóa sẽ gây ra tình trạng biến đổi cơ cấu việc làm của
nền kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng việc làm của NCT, tăng tỷ trọng việc
làm khu vực phi chính thức và việc làm bán thời gian; NSLĐ nói chung và
thu nhập của lao động cao tuổi giảm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Bên cạnh đó,
việc làm trong một số ngành kinh tế sẽ có những thay đổi lớn, đặc biệt việc
làm trong các ngành y tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, du lịch, giáo dục - đào
tạo nhân lực sẽ gia tăng, trong khi việc làm trong các ngành sản suất hàng
tiêu dùng sẽ giảm; (ii) Trong giai đoạn sau, tình trạng thiếu hụt lao động và
già hóa LLLĐ sẽ làm giảm tình trạng thất nghiệp song cũng gây ra một số
vấn đề như suy giảm quy mô việc làm và năng suất lao động, do đó ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
b) Ảnh hưởng của già hóa dân số đến an sinh xã hội
Già hóa dân số tác động đến an sinh xã hội ở các khía cạnh: (i) ảnh
hưởng đến thu nhập và tích lũy thấp của người già; (ii) ảnh hưởng đến hệ
thống hưu trí; (iii) gia tăng nhu cầu chăm sóc người cao tuổi; (iv) nguy cơ
dễ bị tổn thương của người cao tuổi.
4. Phương pháp đo lường mối quan hệ giữa già hóa dân số
và vấn đề việc làm, an sinh xã hội
a) Tác động của già hóa dân số đến việc làm
Tác động của già hóa dân số đến việc làm được xem xét thông qua các
kênh nguồn lao động, tăng trưởng và cơ hội việc làm của lao động cao tuổi
trong bối cảnh già hóa dân số và năng suất lao động, cụ thể:
● Quan hệ giữa già hóa dân số- nguồn lao động:
Dân số trong độ tuổi lao động WA=f*P. Trong đó WA là dân số trong
độ tuổi lao động; f là tỷ lệ dân số trong độ tuổi; P là tổng dân số.
202
● Già hóa dân số và việc làm thông qua tăng trưởng
Sử dụng lý thuyết tăng trưởng Tân Cổ điển để ước lượng tác động của
biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến tăng trưởng kinh tế với hàm sản xuất
Cobb-Douglas: LAKY (1)
Trong đó Y là sản lượng (GDP thực tế), các đầu vào là vốn (K) và lao
động (L), A là tham số phản ánh trình độ công nghệ, và là những tham
số phản ánh độ co giãn của sản lượng theo vốn và lao động tương ứng.
Với N là tổng dân số, phương trình (1) có thể được viết lại như sau:
)/( NLNAKY (2)
Lấy logarit hai vế phương trình (2) ta có:
NLNKALnY /lnlnlnln (3)
Để xem xét quá trình biến đổi cơ cấu tuổi dân số ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế như thế nào, nghiên cứu sử dụng dạng hàm trên trong đó tỷ lệ
dân số trong tuổi lao động (từ 15 đến 60 tuổi - aw) được sử dụng làm biến
đại điện cho tỷ lệ lao động so với dân số (L/N).
Khi đó, hàm sản xuất thực nghiệm để ước lượng sẽ có dạng cụ thể là:
eawbNbKbaYLn lnlnln 321 (4)
Trong đó, a là hằng số phản ánh sự thay đổi của biến phụ thuộc không
được giải thích bởi các biến độc lập trong mô hình; còn các hệ số b1, b2, b3 lần
lượt là các hệ số co giãn của GDP thực tế theo các biến độc lập trong mô hình.
Xem xét tiếp theo là ảnh hưởng của tăng trưởng đến việc làm
LnL = c1 + c2LnGDP + c3LnK + c4Lnwage (5)
● Khả năng có việc làm của người cao tuổi
Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy xác suất dạng Probit, đây là một
hàm phi tuyến cho phép xác định mức độ tác động của các yếu tố Xi tới xác
suất suất hiện của hiện tượng khi X đã xảy ra... Trong mô hình xác định khả
năng có việc làm, hàm Probit bao gồm vế trái là biến phụ thuộc có các giá
trị 0 nếu người lao động ở tuổi thứ i có việc làm và nhận giá trị là 1 nếu
người lao động ở tuổi thứ i không có việc làm.
203
Giả định là Y nhận giá trị là 1 hoặc là 0 tùy thuộc vào mức độ đáp ứng
I của người lao động được xác định bởi các biến độc lập, mức độ đáp ứng
càng lớn thì khả năng có việc làm càng lớn hay xác suất để Y=1 càng lớn.
Giả sử mức độ đáp ứng dụng của I được xác định như sau: I = 1
+2X2i (Với X2i là các biến độc lập). Khi đó tồn tại một mức giới hạn độ
thỏa dụng I* để:
Y= 1 nếu I > I*; Y= 0 nếu I< I*;
Y= 1 nếu người lao động ở độ tuổi thứ i có việc làm; Y= 0 nếu
ngược lại;
Do I* không quan sát đượo I* không quan sát làm; Y= 0 nếu đó u là
không quan sát làm; Y= 0 nếu nggiá đó Ii* = 1 +2X2i + ui
● Già hóa dân số và năng suất lao động:
Năng suất lao động là chỉ tiêu dẫn suất tính bằng cách chia 2 vế của
hàm sản xuất Cobb-Douglas (1) cho lao động L ta có được hàm năng suất
lao động yt : y =Y/L =A Lα-1 Kβ
b) Tác động của già hóa dân số và an sinh xã hội
Dựa theo Mason và Lee (2007) có thể ước lượng lợi tức dân số như sau:
Y Y WA
N WA N (1)
Trong đó, Y là thu nhập quốc dân, N là tổng dân số, WA là dân số
trong độ tuổi lao động.
Từ (1), tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người (Y/N) có thể được
ước lượng như sau: / / /Y N Y WA WA Ng g g (2)
Theo Mason (2004), tỷ số hỗ trợ tính theo tuổi a vào năm t được ước
lượng như sau:
,
,
WA t a P a t
N t a P a t
(3) (Tính tổng theo tuổi a)
Trong đó α(a) là năng suất lao động trung bình của một người tại tuổi
a; β(a) là mức tiêu dùng trung bình của một người tại tuổi a; P(a,t) là tổng
204
dân số trong độ tuổi a tại thời điểm t. Biểu thức ∑α(a)P(a,t) cho biết tổng
thu nhập thực tế (effective producers), trong khi biểu thức ∑β(a)P(a,t) cho
biết tổng tiêu dùng thực tế (effective consumers).
IV. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ TÁC ĐỘNG CỦA GIÀ HÓA DÂN SỐ ĐẾN
VIỆC LÀM VÀ ASXH VÀ CÁC PHẢN ỨNG CHÍNH SÁCH
1. Nhật Bản (là nước phát triển có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới)
Nhật Bản là nước bắt đầu già hóa dân số từ những năm 1970. Đến
năm 2010, Nhật Bản bước vào giai đoạn có dân số "rất già" với tỷ lệ người
từ 60 tuổi trở lên là 30,5% và tỷ lệ người trên 65 tuổi chiếm 20,6%. Già hóa
dân số ở Nhật Bản khiến lực lượng lao động giảm mạnh. Để giảm thiểu tác
động tiêu cực của già hóa dân số tới việc làm, Chính phủ Nhật Bản đã thực
hiện các chính sách: (i) Để người lao động cao tuổi tiếp tục làm việc nếu
như họ có nhu cầu; (ii) Tăng cường các chính sách khuyến khích phụ nữ
làm việc; (iii) Giảm tỷ lệ lệ thất nghiệp trá hình bằng cách tăng năng suất lao
động; (iv) Khuyến khích lao động nước ngoài đến làm việc.
Bên cạnh đó, để giảm những tác động tiêu cực của già hóa dân số đến
ASXH, Nhật Bản đã thực hiện các chính sách: Thứ nhất, mở rộng độ bao
phủ của hệ thống hưu trí: từ năm 1985, Nhà nước đã thực hiện cải cách sâu
rộng hệ thống hưu trí gồm 2 tầng: tầng 1 là chương trình hưu trí cơ bản và
tầng 2 là chương trình hưu trí dành cho người lao động-bổ sung thêm lợi ích
so với tầng 1. Quỹ hưu trí hoạt động dựa vào đóng góp bắt buộc của người
dân từ năm 20 tuổi cho đến tuổi nghỉ hưu hiện nay là 65. Chương trình hưu
trí hoạt động dựa vào cơ chế thu đến đâu chi đến đó (pay as you go). Hiện
nay, hệ thống hưu trí của Nhật Bản đã có 70 triệu người tham gia- chiếm
80% dân số; Thứ hai, tăng mức đóng bảo hiểm xã hội: mức đóng góp vào hệ
thống hưu trí và chăm sóc sức khỏe là 17% tổng số lương vào năm 1996,
năm 2010 là 26% và tăng lên 30% vào năm 2025. Về bảo hiểm y tế, mức
đóng của người lao động là 7,8% năm 1996, tăng lên 10,0% năm 2010 và
đến năm 11,5% năm 2025. Người bệnh phải thanh toán 30% tổng chi phí,
phần còn lại là do nhà nước chi trả. Tổng chi cho hệ thống chăm sóc y tế
chiếm 8% GDP, là một con số đáng kể- tuy rằng tỷ lệ này là thấp so với các
nước OECD. Trong đó, 50% là cho đối tượng từ 65 tuổi trở lên và tỷ lệ này
sẽ tăng lên 65% vào năm 2025.
205
2. Trung Quốc
Trung Quốc đã bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2000 với tỷ
lệ người già từ 60 tuổi trở lên chạm ngưỡng 10% tăng lên 12% năm 2010 và
14,3% năm 2012.
Trong thời gian qua, Chính phủ Trung Quốc đã có những điều chỉnh
chính sách nhằm đáp ứng những thách thức về già hóa ở khía cạnh TTLĐ,
bao gồm: Thứ nhất, nới lỏng chính sách dân số. Việc nới lỏng chính sách
một con sẽ cho phép tăng dần quy mô tương đối của dân số trong độ tuổi lao
động, so với dân số già. Ngoài ra, nới lỏng như vậy có thể có hiệu quả trong
việc đảo ngược tỷ lệ chênh lệch nam nữ trong dân số Trung Quốc. Thứ hai,
Chính phủ thực hiện các chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
thông qua phổ cập trung học; mở rộng cơ hội học các trường trung cấp
nghề, cao đẳng nghề và cả đại học cho thanh niên đặc biệt là thanh niên
nông thôn; khuyến khích mở các lớp đào tạo lại nhằm nâng cao kỹ năng lao
động, giảm các rào cản của lao động di cư nhằm khuyến khích NLĐ đến các
khu vực có nhiều việc làm… Thứ ba, chú ý đến việc nâng cao năng suất lao
động bằng cách đầu tư nhiều hơn cho giáo dục và đào tạo nghề, và điều đó
sẽ giúp làm giảm tác động của già hóa dân số đến LLLĐ.
Về tác động của già hóa dân số đến an sinh xã hội, Chính phủ Trung
Quốc cũng đã và đang tích cực đưa ra những hành động cụ thể như sau: (i)
Tiếp tục mở rộng độ bao phủ của hệ thống hưu trí. Trung Quốc đã thực hiện
bảo hiểm hưu trí tự nguyện cho NLĐ thuộc khu vực phi chính thức đang
làm việc cho các doanh nghiệp, NLĐ tự làm và lao động trong khu vực
nông nghiệp ở cả nông thôn và thành thị, theo 2 chương trình: Chương trình
bảo hiểm hưu trí thành thị và chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn.
Chương trình bảo hiểm hưu trí cho người lao động ở khu vực thành thị bao
gồm 3 trụ cột chính: Hưu trí cơ bản (đóng góp vào quỹ hưu trí chung); tài
khoản cá nhân (đóng vào tài khoản cá nhân) và hưu trí bổ sung của cá nhân.
Trong khi đó, chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn được thiết kế dựa
trên đóng góp của cá nhân, hỗ trợ của tập thể và trợ giúp của Chính phủ. Dự
tính đến năm 2014 sẽ áp dụng trên toàn quốc, có thể bao phủ tới 80% dân số
cả nước; (ii) Ban hành các chính sách chăm sóc người cao tuổi.
206
3. Thái Lan
Hiện nay, dân số Thái Lan vào khoảng 62 triệu người và cũng đang
bước vào quá trình già hóa dân số với 13.1% dân số trên 60 tuổi. Để đối phó
với những thách thức mà thời kỳ già hóa dân số mang lại, Chính phủ Thái
Lan đã ban hành một số chính sách cụ thể: Thứ nhất, chú trọng xây dựng
các thể chế và chương trình cho người cao tuổi như: Chương trình hành
động quốc gia về NCT và các chính sách khác về y tế, giáo dục, việc làm,
văn hóa (năm 1986) và đã thành lập Ủy ban quốc gia về người cao tuổi
(năm 1999). Thứ hai, cải tổ và hoàn thiện hệ thống hưu trí theo mô hình ba
trụ cột (đa tầng) cùng tồn tại và vận hành song song, bao gồm: (i) Chương
trình bảo hiểm xã hội; (ii) Chương trình hưu trí Chính phủ; (iii) Chương
trình hưu trí tự nguyện. Thứ ba, Chính phủ đã thành lập Quỹ Người cao tuổi
nhằm trợ giúp những người cao tuổi yếu thế. Chính sách này đã mở rộng độ
bao phủ của chế độ trợ cấp lên đến 76% tổng số người cao tuổi nghèo. Thứ
tư, ban hành Đề án chăm sóc sức khỏe toàn dân, trong đó ưu tiên chăm sóc
sức khỏe cho người cao tuổi: người cao tuổi khi đi khám bệnh tại các bệnh
viện, cơ sở y tế được miễn phí chi phí khám bệnh. Thứ năm, thực hiện tư
vấn nghề nghiệp, giáo dục đào tạo cho người cao tuổi nhằm tạo cơ hội cho
những người có khả năng và nhu cầu tiếp tục được làm việc, điều đó sẽ tận
dụng được kinh nghiệm của họ cũng như tiết kiệm được một khoản chi phí
dành cho đào tạo. Thứ sáu, các hoạt động khác, bao gồm: tăng cường an
ninh thu nhập tuổi già, tư vấn và chăm sóc sức khỏe miễn phí cho NCT…
4. Bài học kinh nghiệm
Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống lý thuyết và kinh nghiệm của các nước
trong việc đối phó với thách thức từ già hóa dân số, có thể rút ra một số bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam sau đây: (i) Chính phủ đầu tư vào vốn con
người nhằm tăng năng suất lao động và thúc đẩy tạo việc làm cho lao động có
kỹ năng thấp; (ii) Giảm thuế giá trị gia tăng cho các dịch vụ sử dụng nhiều lao
động -giải pháp này sẽ giúp giảm giá dịch vụ nói chung và dịch vụ cho người
cao tuổi nói riêng (hỗ trợ mua sắm, giúp việc gia đình, chăm sóc người
bệnh…) và đồng thời giúp giảm thất nghiệp; (iii) các nhà hoạch định chính
sách cần nghiên cứu việc kéo dài thêm thời gian lao động (tăng tuổi nghỉ
hưu); (iv) Chính phủ cần thiết lập các thể chế phù hợp, thích ứng nhanh với
cấu trúc tuổi mới nhằm ứng phó với các vấn đề như trợ giúp xã hội cũng như
phân phối nguồn lực; coi trọng và đẩy mạnh mở rộng độ bao phủ hệ thống
207
hưu trí thông qua việc đa dạng hóa các hình thức hưu trí bổ sung nhằm tạo ra
sự đa tầng trong hệ thống bảo hiểm hưu trí; đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá
các dịch vụ y tế, tiến tới một hệ thống gắn lợi ích của cá nhân với khả năng
đóng góp của người đó; (v) các chính sách cần chú trọng đến việc thúc đẩy sự
thay đổi về mặt nhận thức của xã hội đối với người già và hỗ trợ già hóa tích
cực (học tập suốt đời, kết nối mạng lưới và các hoạt động của các hiệp hội
người hưu trí, việc làm tình nguyện cho người già,…).
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI NHÂN KHẨU HỌC
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN LAO ĐỘNG - VIỆC LÀM
VÀ AN SINH XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1999-2012
I. THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI NHÂN KHẨU HỌC VÀ SỰ THAY ĐỔI VỀ LAO
ĐỘNG, VIỆC LÀM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ASXH TRONG THỜI GIAN QUA
1. Chuyển đổi nhân khẩu học theo hướng già hóa dân số của
Việt Nam
Việt Nam hiện đang trải qua thời kỳ chuyển đổi nhân khẩu học với tốc
độ khá nhanh, đã chuyển từ mức chết và mức sinh cao xuống mức chết và
mức sinh thấp. Sự chuyển đổi nhân khẩu học khiến Việt Nam đứng trước
những thách thức của thời kỳ già hóa dân số, quá trình này chính thức bắt
đầu từ năm 2011. Biểu hiện chính của thời kỳ chuyển đổi nhân khẩu học
theo hướng già hóa dân số của Việt Nam trong thời gian qua là mức sinh
giảm, mức chết giảm và tuổi thọ bình quân tăng lên, cụ thể như sau:
Mức sinh giảm: Tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm từ 2,3 vào năm 1999
xuống còn 1,69 vào năm 2012(29). Giai đoạn 1999 – 2005, TFR tăng giảm
không ổn định và cao hơn mức sinh thay thế30; giai đoạn 2006-2011, TFR
(29)
Tổng cục thống kê, Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình
1/4/2011. Những kết quả chủ yếu (30)
Mức sinh thay thế là mức sinh mà trung bình một phụ nữ trong toàn bộ cuộc
đời sinh đẻ của mình sinh đủ số con gái để thay thế mình thực hiện chức năng
sinh đẻ, duy trì nòi giống.Tổng tỷ suất sinh (ký hiệu TFR - Total Fertility Rate) trong
khoảng 2,1 con được coi là mức sinh thay thế.
208
giảm đều từ 2,3 xuống còn 1,99; đến năm 2012, tăng nhẹ lên 2,05, tuy nhiên
TFR đã ở dưới mức sinh thay thế từ năm 2006.
Mức chết giảm: Mức chết giảm được thể hiện rõ nét nhất qua chỉ tiêu
tỷ suất chết thô(31). Trong giai đoạn từ năm 1999-2008, tỷ suất chết thô
(CDR) của Việt Nam khá ổn định, giảm và duy trì trong một khoảng thời
gian khá dài từ 5,7 người trên 1000 dân, xuống 5,4 người trên 1000 dân vào
năm 2003, từ đó duy trì ở mức 5,3 người/ 1000 dân từ năm 2004 đến 2008.
Bắt đầu từ năm 2009 đến năm 2012, CDR tăng trở lại đạt mốc 6,8 người
trên 1000 dân. Theo Tổng cục Thống kê(32), tỷ lệ người già gia tăng nhanh
trong những năm gần đây là một trong những nguyên nhân cơ bản góp phần
làm tăng tỷ lệ chết.
Tuổi thọ bình quân tăng: Trong vòng hơn 10 năm qua, tuổi thọ bình
quân đã tăng thêm khoảng 4,5 tuổi, từ 68,6 tuổi năm 1999 lên 73 tuổi năm
2012, đứng thứ 58/177 nước.
Tuổi trung vị của dân số Việt Nam cũng tăng nhanh, từ 23,2 tuổi năm
1999 tuổi lên 27,2 tuổi năm 2009 và 29,1 năm 2012. Đến năm 2005, tuổi
trung vị là 25,5 tuổi đánh dấu thời điểm Việt Nam chấm dứt giai đoạn “dân
số trẻ”.
Sự gia tăng dân số, sự suy giảm tỷ suất sinh cũng như tỷ suất chết
cùng với sự gia tăng tuổi thọ bình quân đã dẫn tới sự thay đổi về cấu trúc
tuổi của dân số. Trong những thập kỷ qua, cơ cấu tuổi dân số Việt Nam biến
động mạnh theo hướng: tỷ lệ trẻ em (0 - 14 tuổi) ngày càng giảm; tỷ lệ dân
số trưởng thành (15-59 tuổi) tăng lên và tỷ lệ người cao tuổi từ 60 tuổi trở
lên cũng tăng nhanh. Trong giai đoạn 1999-2012, tỷ trọng dân số ở độ tuổi
dưới 15 giảm dần từ 33% năm 1999 xuống còn 22,06% năm 2012. Tỷ trọng
dân số trong độ tuổi lao động từ 15 đến dưới 60 tuổi tăng nhanh từ 58,9%
năm 1999 lên 67,51 năm 2012. Với cơ cấu dân số này, Việt Nam đã bước
(31)
Tỷ suất chết thô CDR cho biết trung bình cứ 1000 người có bao nhiêu người
chết trong một giai đoạn xác định, thường là hàng năm hoặc 12 tháng trước mốc
thời gian tiến hành khảo sát. (32)
Tổng cục Thống kê (2011): Mức sinh và mức chết ở Việt Nam - Thực trạng, xu
hướng và những khác biệt.
209
vào giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”(33) từ năm 2007. Tỷ lệ người cao tuổi từ
60 tuổi trở lên đã tăng từ 7,1% năm 1999 lên 9% năm 2009 và có xu hướng
tăng nhanh trong những năm gần đây: tăng mạnh từ 9,4% năm 2010 lên
10,1% năm 2011 và 10,4 năm 2012. Trong đó, tỷ lệ người già từ 65 tuổi trở
lên cũng tăng khá nhanh từ 5,8% năm 1999 lên 6,4% năm 2009 và chạm
ngưỡng già hóa 7% năm 2011, 7,21% năm 2012.
2. Vấn đề lao động - việc làm trong bối cảnh chuyển đổi nhân khẩu học theo hướng già hóa dân số
a) Lực lượng lao động
Nguồn lao động của Việt Nam (dân số từ 15 tuổi trở lên) vẫn tiếp tục
tăng trưởng, tuy nhiên tốc độ tăng đã giảm dần. Trong hơn 10 năm qua
(1999-2012), dân số Việt Nam đã tăng từ 76,6 triệu người năm 1999 lên
88,78 triệu người năm 2012. Trong đó, dân số 15 tuổi trở lên đạt 68,2 triệu
người vào năm 2012. Tốc độ tăng dân số 15 tuổi trở lên đạt mức trung bình
mức trung bình 2,27%/năm giai đoạn 1999 - 2009, tuy nhiên giai đoạn 2010
– 2012, tốc độ tăng này giảm xuống mức 1,94%/năm. Đáng lưu ý là dân số
cao tuổi đang có xu hướng gia tăng rõ rệt và là nhân tố khá quan trọng góp
phần làm tăng quy mô LLLĐ. Đến năm 2012, dân số cao tuổi của Việt Nam
đạt 9,056 triệu người. Giai đoạn 1999-2009, số NCT tăng bình quân 154
ngàn người/năm. Con số này đã tăng gấp 3 lần, bình quân 522 ngàn
người/năm giai đoạn 2010-2012.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nhóm lao động cao tuổi tăng
nhanh: giai đoạn 1999-2012, tỷ lệ tham gia LLLĐ của nhóm dân số 15 tuổi
trở lên có xu hướng tăng nhẹ từ 73,49% năm 1999 lên 76,76% năm 2012,
trong khi, tỷ lệ tham gia LLLĐ của nhóm lao động cao tuổi (từ 60 tuổi trở
lên) có xu hướng tăng mạnh - xét trong cả giai đoạn từ 25,46% năm 1999
lên 44,94% năm 2012. Lý do chính để người cao tuổi tiếp tục tham gia vào
(33)
Việt Nam đã bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” vào khoảng năm 2007 (khi
tỷ số phụ thuộc chung xuống dưới 50%). Thời kỳ cơ cấu dân số được cho là
“vàng” khi tỷ số phụ thuộc hay phần trăm dân số giữa nhóm dưới 15 tuổi và từ 65
tuổi trở lên tính trên 100 người trong nhóm từ 15 đến 64 tuổi giảm xuống dưới
50%, nghĩa là hai người trong tuổi lao động mới phải "cõng" một hoặc dưới một
người phụ thuộc.
210
thị trường lao động là nhu cầu về thu nhập cộng với sức khỏe cho phép và
kinh nghiệm làm việc.
Lực lượng lao động tăng nhanh ở nhóm lao động cao tuổi và giảm ở
nhóm lao động trẻ: Giai đoạn 1999-2012, lực lượng lao động tăng với tốc
độ bình quân 2,24%/năm, đạt 52,35 triệu người vào năm 2012. Trong khi
LLLĐ trẻ giảm nhẹ 0,07%/năm, LLLĐ trung niên tăng với tốc độ
3,07%/năm trong cùng giai đoạn thì LLLĐ cao tuổi tăng nhanh với tốc độ
bình quân 6,3%/năm, đưa quy mô LLLĐ cao tuổi lên gần 4 triệu người vào
năm 2012, cao gần gấp 2 lần so với năm 1999. Theo đó, cơ cấu LLLĐ theo
nhóm tuổi cũng có sự thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng LLLĐ trẻ và tăng
tỷ trong LLLĐ trung niên và lao động cao tuổi.
Lực lượng lao động đang già hóa: Tuổi bình quân của lực lượng lao
động đã tăng từ 39,26 tuổi năm 2009 lên 40 tuổi năm 2011 và 40,86 tuổi
năm 2012. Bên cạnh đó, tuổi trung vị cũng tăng từ 37 tuổi năm 2009 lên 38
tuổi năm 2011 và 39 tuổi năm 2012.
Chất lượng của LLLĐ nước ta vẫn còn thấp, đặc biệt là của LLLĐ cao
tuổi: đến năm 2012, LLLĐ có chuyên môn kỹ thuật được đào tạo chính quy
mới chỉ chiếm gần 18,6% tổng LLLĐ. Trong đó, tỷ lệ này ở nhóm tuổi trẻ
đạt cao nhất là 20,36%, ở nhóm tuổi trung niên là 16,24% và thấp nhất ở
nhóm cao tuổi (8,45%). Năm 2012, cả nước có khoảng 3,816 triệu người
cao tuổi (60+) đang tham gia trong LLLĐ chỉ có 322,348 lao động có
chuyên môn kỹ thuật (có chứng chỉ, bằng cấp), chiếm 8% LLLĐ cao tuổi từ
60 trở lên. Nhóm lao động cao tuổi có trình độ rất thấp, đồng nghĩa với bất
lợi khi duy trì việc làm trên thị trường lao động sau tuổi nghỉ hưu.
b) Việc làm
Quy mô việc làm vẫn tiếp tục tăng về số lượng, song tốc độ tăng đã
giảm dần: Trong giai đoạn 1999-2012, tăng trưởng việc làm với tốc độ bình
quân 2,51%/năm, tuy nhiên có xu hướng chậm lại trong những năm gần đây:
giảm từ 3,08% năm 2010 xuống còn 2,39% năm 2011 và 1,51% năm 2012.
Việc làm của nhóm lao động cao tuổi tăng nhanh về số lượng và tỷ lệ
trong cơ cấu việc làm: đến 2012, cả nước có 3,8 triệu lao động cao tuổi đang
làm việc trong nền kinh tế, bằng 2,7 lần so với năm 1999. Trong giai đoạn
1999-2012, việc làm của nhóm lao động cao tuổi tăng với tốc độ rất cao,
211
bình quân 9,24%/năm, gấp 3 lần tốc độ chung trong cùng giai đoạn
(2,51%/năm). Trong khi đó, tăng trưởng việc làm của nhóm lao động trung
niên chỉ đạt 2,94% và tăng trưởng việc làm của nhóm thanh niên rất thấp,
0,62%/năm. Kết quả là, trong cơ cấu việc làm của nền kinh tế giai đoạn
1999-2012, tỷ trọng việc làm của nhóm lao động trẻ có xu hướng giảm
nhanh, trong khi tỷ lệ lao động đang làm việc ở độ tuổi trung niên và người
cao tuổi tăng lên.
Hầu hết lao động cao tuổi làm việc trong khu vực kinh tế phi chính
thức: đến năm 2012, gần 90% lao động cao tuổi làm việc trong khu vực kinh
tế phi chính thức. Giai đoạn 2010-2012, lao động cao tuổi làm việc trong
khu vực này tiếp tục tăng lên cả về số lượng và tỷ trọng, tăng bình quân 287
ngàn người/năm (trong khi chỉ tăng 50 ngàn người/năm ở khu vực kinh tế
chính thức), đưa tỷ trọng lao động cao tuổi trong tổng số việc làm của khu
vực này từ 9,04% năm 2010 lên 10,49% năm 2012.
Theo nhóm ngành kinh tế, hầu hết lao động cao tuổi làm việc trong
ngành Nông-lâm-thủy sản. Năm 2012, trong tổng số lao động cao tuổi đang
làm việc có 2,74 triệu lao động đang làm việc trong ngành Nông-lâm
nghiệp-thủy sản, chiếm 73%; 783 ngàn lao động đang làm việc trong ngành
dịch vụ, chiếm 20,8%; 243 ngàn lao động đang làm việc trong ngành công
nghiệp, chiếm 6,5%. Xét trong giai đoạn 2010-2012, số lượng lao động cao
tuổi làm việc trong ngành này vẫn tăng bình quân 227 ngàn/năm, đưa tỷ
trọng lao động cao tuổi trong tổng số việc làm của khu vực này từ 9,55%
năm 2010 lên 11,21% năm 2012.
Người lao động cao tuổi chủ yếu là lao động giản đơn. Năm 2012, số
lao động cao tuổi là lao động giản đơn chiếm 53,35%. Trong giai đoạn
2010-2012, tỷ lệ lao động giản đơn trong nhóm lao động cao tuổi đã tăng từ
50,57% lên đến 53,35%. Trong khi đó, trong nhóm lao động trẻ tỷ lệ này
gần như không tăng, và nhóm lao động trưởng thành tỷ lệ này đã giảm.
Một xu hướng đáng quan tâm ở lao động cao tuổi, đó là sự gia tăng
trong nhóm nghề lãnh đạo trong các ngành, các cấp và nhóm nghề nhân viên
văn phòng và dịch vụ. Trong giai đoạn 2010-2012, tỷ lệ lao động cao tuổi
làm việc trong nhóm nghề lãnh đạo trong các ngành, các cấp đã tăng từ
0,46% lên 0,59% và nhóm nghề nhân viên văn phòng và dịch vụ đã tăng từ
35,45% lên 16,26%. Điều này cũng phản ánh thực tế hiện nay trong việc tận
dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong xã hội, mặc dù đã đến tuổi nghỉ
212
hưu, nhưng các doanh nghiệp, các tổ chức vẫn có nhu cầu đối với đội ngũ
lao động này trong hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm đem lại
hiệu quả cao trong doanh nghiệp.
Phần lớn người lao động cao tuổi tự tạo việc làm: đến năm 2012, số
lao động cao tuổi tự tạo việc làm chiếm 76% tổng số lao động cao tuổi đang
làm việc, trong khi tỷ lệ tương ứng của nhóm lao động trung niên là 52% và
của nhóm lao động thanh niên chỉ là 19,82%. Bên cạnh đó, lao động cao
tuổi làm công ăn lương chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng số lao động cao tuổi
đang làm việc, chỉ khoảng 7,9%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ tương ứng của
nhóm lao động thanh niên (48,3%) và lao động trung niên (gần 32%).
Về thời gian làm việc:
Theo số liệu điều tra lao động-việc làm năm 2012, thời gian làm việc
bình quân trong ngày của 1 lao động là 6,9 giờ/ngày. Trong đó, nhóm lao
động cao tuổi có thời gian làm việc rất thấp, 2,8 giờ/ngày, chỉ bằng 33% và
50% thời gian làm việc tương ứng của lao động trung niên và lao động
thanh niên. Tương tự, thời gian làm việc theo tháng bình quân của một
người lao động là 21,3 ngày, trong đó thời gian làm việc của lao động cao
tuổi cũng rất thấp, chỉ bằng 42% và 65% thời gian tương ứng của lao động
trung niên và lao động thanh niên.
Theo giới tính, trong nhóm lao động cao tuổi, thời gian làm việc của
phụ nữ là 2,4 giờ/ngày và 10 ngày/tháng, chỉ bằng 67% và 79% thời gian
làm việc của nam giới.
Theo trình độ CMKT của nhóm lao động cao tuổi, những lao động có
trình độ cao như cao đẳng - đại học trở lên có thời gian làm việc thấp nhất,
bình quân một lao động làm việc 6,8 ngày/tháng, trong khi thời gian làm
việc tương ứng là 13,8 ngày/tháng của nhóm qua đào tạo nghề; 11,4
ngày/tháng của nhóm lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp; 11,2
ngày/tháng ở nhóm lao động chưa qua đào tạo. Nhìn chung, lao động nữ cao
tuổi có xu hướng làm việc ít hơn lao động nam cao tuổi ở mọi cấp trình độ.
Tiền lương của người lao động:
Theo số liệu điều tra lao động việc làm, năm 2012 tiền lương tháng
bình quân một lao động là 3,4 triệu đồng/tháng. Xét theo nhóm tuổi, tiền
lương của nhóm lao động cao tuổi ở mức thấp nhất (2,1 triệu đồng/tháng),
213
chỉ bằng 58% và 70% tiền lương tương ứng của nhóm trung niên (3,6 triệu
đồng/tháng) và nhóm thanh niên (3 triệu đồng/tháng).
Thất nghiệp:
Năm 2012, cả nước có 925,6 nghìn người thất nghiệp, trong đó có 633
nghìn người là thanh niên, 346 nghìn là người trung niên và 6 nghìn là
người cao tuổi. Trong cả giai đoạn 1999-2012, tỷ lệ thất nghiệp chung thấp
và giao động nhẹ, cao nhất là 2,6% vào năm 2009 và 2010 (là 2 năm chịu
ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng kinh tế toàn cầu) và có xu hướng giảm
dần trong những năm gần đây, xuống mức thấp nhất 1,77% vào năm 2012.
Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp của lao động cao tuổi rất thấp là 0.15% trong
năm 2012.
3. Biến đổi cơ cấu tuổi dân số theo hướng già hóa và các vấn đề
an sinh xã hội
a) Thực trạng dân số cao tuổi trong bối cảnh già hóa dân số
Phần lớn dân số cao tuổi sống ở khu vực nông thôn. Theo thống kê,
năm 2012 cả nước có 9,056 triệu người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên), trong đó
có 6,377 triệu người cao tuổi ở khu vực nông thôn (chiếm trên 70% ). Trong
giai đoạn 2009-2012, người cao tuổi ở khu vực nông thôn, mặc dù đã giảm
nhẹ về tỷ lệ trong cơ cấu dân số thành thị - nông thôn (từ 72,5% xuống còn
70,4%), nhưng vẫn tiếp tục tăng về số lượng với tốc độ bình quân
4,67%/năm.
Số phụ nữ cao tuổi tiếp tục tăng nhanh và chiếm đa số trong tổng số
người cao tuổi của cả nước. Đến năm 2012, cả nước có khoảng 5,6 triệu
người cao tuổi là phụ nữ, chiếm 62,1% tổng số người cao tuổi. Trong giai
đoạn 2009-2012, số phụ nữ cao tuổi tăng nhanh với tốc độ 7,14%/năm, đã
làm cho tỷ lệ phụ nữ cao tuổi trong tổng số người cao tuổi cũng tăng từ
59,6% lên 62,1%.
Nhóm dân số từ 80 tuổi trở lên vẫn tiếp tục tăng về số lượng. Nhóm
dân số này, mặc dù đã giảm về tỷ lệ trong tổng số người cao tuổi, từ 17,5%
năm 2009 xuống còn 15,2% năm 2012, song vẫn tiếp tục tăng nhẹ về số
lượng với tốc độ 0,54%/năm trong cùng giai đoạn và đạt 1,373 triệu người
vào năm 2012.
214
Tỷ lệ người cao tuổi sống với con cháu ngày càng giảm. Năm 1997 tỷ
lệ người cao tuổi sống với con cái là 74,48% và giảm xuống còn 60.51%
vào năm 2012. Tỷ lệ người cao tuổi sống cô đơn ngày càng tăng, từ 4,93%
năm 1997 lên 9,07% năm 2010 cho thấy gánh nặng xã hội ngày càng tăng
lên, trách nhiệm của con cháu đối với bố mẹ, người già giảm đi.
Nhìn chung, đời sống của phần lớn người cao tuổi Việt Nam còn
nhiều khó khăn. Theo số liệu thống kê của Cục bảo trợ xã hội năm 2012 cho
thấy, vẫn còn 27% số người cao tuổi sống trong các hộ nghèo; 6% số người
cao tuổi ở nhà tạm; 25% có sức khỏe kém, 23,45% gặp khó khăn trong sinh
hoạt hàng ngày (trong đó 90,67% cần người khác hỗ trợ).
b) Độ bao phủ của các chính sách xã hội
Năm 2012, nước ta có khoảng 9,056 triệu người cao tuổi, trong đó
khoảng 4,6 triệu người được hưởng chính sách xã hội, bao gồm: hơn 2 triệu
người hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng (chiếm
22,7% trong tổng số người cao tuổi); 1,4 triệu người có công hưởng trợ cấp
ưu đãi hàng tháng (chiếm 15,5% trong tổng số người cao tuổi); gần 1,2 triệu
người hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng (chiếm 12,9% trong tổng số
người cao tuổi). Trong giai đoạn 2009 – 2012, người cao tuổi được hưởng
chính sách xã hội tăng khá nhanh với tốc độ bình quân 10,3%/năm. Trong
đó, người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng tăng nhanh nhất
đạt 11,22%/năm, tiếp đến là người già hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng
(11,15%) và người có công hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng (8,42%). Tuy
nhiên, gần một nửa (4,4 triệu người) số người cao tuổi chưa được hưởng
bất cứ chế độ trợ cấp hàng tháng nào từ các chính sách xã hội của Nhà
nước vẫn còn là một thách thức. Phần lớn các đối tượng này là phụ nữ và ở
khu vực nông thôn. Họ không có lương hưu, không được hưởng trợ cấp xã
hội, phải tiếp tục làm việc để kiếm sống hoặc sống bằng nguồn hỗ trợ của
con cháu và gia đình.
c) Hệ thống hưu trí
Theo thống kê từ BHXH Việt Nam cho thấy số người hưởng lương hưu
từ Quỹ BHXH tăng nhanh theo thời gian, từ 719,855 ngàn người năm 2009 lên
đến 987,235 ngàn người năm 2012, tốc độ tăng bình quân 11%/năm (tương ứng
tăng thêm 90 ngàn người/năm). Trên thực tế, số người nhận số hưu mới bình
quân mỗi năm là khoảng 105 ngàn người trong cùng giai đoạn.
215
Hiện số người đóng BHXH cho một người hưởng lương hưu ngày
càng giảm. Năm 1996 có 217 người đóng BHXH cho 1 người hưởng lương
hưu, thì năm 2000 giảm xuống còn 34 người, năm 2007 còn 14 người, năm
2009 còn 11 người và đến 2010 chỉ có 10,7 người, năm 2012 chỉ còn 9
người. Như vậy, con số ngày càng tụt dần dự báo sự tiềm ẩn nguy cơ khó có
thể bảo đảm chi trả trong tương lai.
Sự mất cân đối trong quỹ hưu trí cũng thể hiện rõ khi chỉ sau ít năm
nữa khi số lượng người nghỉ hưu lên đến 4-5 triệu người (hiện nay là 1 triệu
người), BHXH sẽ không có khả năng chi trả và ngân sách sẽ phải bù quá
lớn. Đây là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Chế độ hưu trí
hiện tại được đánh giá còn nhiều bất cập, thể hiện ở tuổi về hưu tương đối
sớm (bình quân 51 tuổi đối với nữ và 53 tuổi đối với nam). Đặc biệt là đối
với nữ giới và một bộ phận người lao động được phép về hưu trước tuổi quy
định trong khi tuổi thọ trung bình hiện nay được nâng cao và tỷ lệ sinh giảm
rõ rệt. Với nhóm công chức nhà nước và người làm công tại các doanh
nghiệp tư nhân, do cách tính lương hưu khác biệt với nhóm làm việc trong
khu vực nhà nước nên nảy sinh sự mất cân đối về lợi ích. Do vậy, các
chuyên gia dự báo nguy cơ quỹ hưu trí sẽ bắt đầu thâm hụt từ năm 2020 và
sẽ hoàn toàn cạn kiệt vào năm 2029.
Theo đánh giá của Tổ chức Lao động quốc tế ILO, cần thiết phải tăng
dần tuổi nghỉ hưu để cân đối tài chính giữa nguồn thu và chi cho quỹ. Đồng
thời cần thiết phải sửa đổi cách tính lương hưu để giảm tỷ lệ chi trả. Sự kết
hợp giữa tăng tuổi về hưu và thay đổi cách tính lương hưu sẽ giúp tăng tính
bền vững của quỹ hưu trí trong dài hạn.
d) Phúc lợi xã hội và chăm sóc người cao tuổi
Chi phí phúc lợi xã hội chăm sóc người già
So với mức sống tối thiểu về lương thực thực phẩm, mức chuẩn trợ
cấp xã hội hàng tháng thấp hơn nhiều. Năm 2008, mức chuẩn trợ cấp xã hội
hàng tháng mới đáp ứng được 44,3% mức tiêu dùng tối thiểu về lương thực
thực phẩm, con số này giảm còn 40% vào năm 2011 và chỉ còn 34,1% vào
năm 2012. Do hạn chế về ngân sách nên mức độ bao phủ và mức hưởng của
chính sách còn thấp. Mức chuẩn trợ cấp hiện hành thấp, chỉ bằng 21% mức
sống tối thiểu và bằng 34% mức sống tối thiểu về lương thực thực phẩm. Vì
216
vậy, chưa đáp ứng nhu cầu cho sinh hoạt hàng ngày của một bộ phận người
cao tuổi(34).
Hệ thống dịch vụ chăm sóc người cao tuổi
Đến nay, cả nước có trên 432 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có 182 cơ
sở công lập; các cơ sở bảo trợ xã hội đang nuôi dưỡng, chăm sóc tập trung
41.423 đối tượng bảo trợ xã hội. Trong đó có 30.207 đối tượng đang được
nuôi dưỡng, chăm sóc tại cơ sở bảo trợ xã hội công lập, 11.216 đối tượng
đang được nuôi dưỡng, chăm sóc tại cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập.
Hệ thống mạng lưới chăm sóc người cao tuổi ở nước ta hiện còn thiếu
về số lượng, hạn chế về chất lượng, chưa đủ khả năng đáp ứng được nhu
cầu(35). Hiện nay, (2012) mới chỉ có khoảng 180 cơ sở có chăm sóc người cao
tuổi (trong đó có 79 cơ sở công lập), chiếm 42% tổng số cơ sở BTXH của cả
nước. Phần lớn các cơ sở bảo trợ xã hội có chăm sóc người cao tuổi hiện nay
đều đang nhận nuôi dưỡng người tàn tật, trẻ mồ côi, bị bỏ rơi; chỉ có khoảng
15 cơ sở chăm sóc dành riêng cho người cao tuổi (chiếm 8,3% tổng số cơ sở
bảo trợ xã hội có chăm sóc người cao tuổi). Các cơ sở bảo trợ xã hội ngoài
công lập chủ yếu do các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng tại địa phương thành
lập, số lượng cơ sở tư nhân thành lập để tiếp nhận, nuôi dưỡng người cao tuổi
hiện chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 3,5% số cơ sở có chăm sóc người cao tuổi).
Ngoài ra, các cơ sở chăm sóc hiện nay chỉ mới chăm lo được khía cạnh về đời
sống; còn các hoạt động văn hóa, tinh thần và quan trọng nhất là việc chăm
sóc sức khỏe cho người cao tuổi thì gần như chưa có.
Các trung tâm bảo trợ xã hội còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động
nuôi dưỡng, chăm sóc đối tượng nói chung và người cao tuổi nói riêng.
Theo quy định của Nhà nước mức trợ cấp tối thiểu cho đối tượng được nuôi
dưỡng, chăm sóc tại các cơ sở bảo trợ xã hội là 360.000đ/người/tháng.
Trong tình hình lạm phát, giá cả thị trường leo thang, mức trợ cấp xã hội
quá thấp khiến các trung tâm bảo trợ xã hội gặp rất nhiều khó khăn trong
hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc đối tượng; chưa đảm bảo được ổn định đời (34)
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (3/2012), Báo cáo kết quả thực hiện
chính sách bảo trợ xã hội: 32% đối tượng và 55% cán bộ được hỏi cho rằng mức
trợ cấp như hiện tại là quá thấp. (35)
Bộ xây dựng (2012), Dự thảo Đề án thí điểm xây dựng cơ sở chăm sóc người
cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa
217
sống đối tượng. Để bảo đảm từng bước nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi
dưỡng đối tượng, các địa phương đã đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa huy
động nguồn lực và khuyến khích tư nhân thành lập cơ sở bảo trợ xã hội để
chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội, nhằm từng bước giảm bớt gánh nặng
ngân sách nhà nước.
Hiện nay, Bộ Xây dựng đã trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị phê
duyệt “Đề án thí điểm xây dựng cơ sở chăm sóc người cao tuổi cô đơn không
nơi nương tựa”. Theo đó, có 3 mô hình chăm sóc NCT cô đơn không nơi
nương tựa được đề xuất: Một là mô hình cơ sở chăm sóc NCT công lập dành
cho NCT cô đơn không nơi nương tựa thuộc diện chính sách, có hoàn cảnh
kinh tế khó khăn, mất khả năng tự chăm sóc do ngân sách nhà nước bảo đảm
toàn bộ kinh phí hoạt động. Hai là mô hình cơ sở chăm sóc NCT ngoài công
lập dành cho NCT cô đơn không nơi nương tựa có điều kiện kinh tế, có nhu
cầu được trông nom, giúp đỡ trong sinh hoạt và khám chữa bệnh tự nguyện
đóng góp các khoản phí để được hưởng các dịch vụ chăm sóc thường xuyên.
Loại hình cơ sở này cũng đón nhận NCT cô đơn không nơi nương tựa thuộc
diện chính sách, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, mất khả năng tự mình chăm
sóc được nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân nhận nuôi dưỡng và chi trả các
khoản phí theo dịch vụ chăm sóc. Ba là mô hình nhà chăm sóc NCT tại cộng
đồng. Theo đó, người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa tự nguyện tìm đến
với nhau để cùng chung sống, sinh hoạt hoặc do các tổ chức, cá nhân vận
động để thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng tập trung gắn với cộng đồng.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ kinh phí, đồng thời vận động các tổ chức, cá
nhân tham gia đóng góp, hỗ trợ kinh phí để xây dựng mới, sửa chữa cải tạo
nhà ở, các hạng mục công trình phục vụ cho sinh hoạt (nếu có yêu cầu) và vận
hành nhà chăm sóc theo nhóm tại cộng đồng.
Chi tiêu cho y tế:
Tổng chi cho y tế năm 2010 của Việt Nam chiếm khoảng 7% GDP.
Trong đó, chi tiêu từ ngân sách nhà nước chiếm 3% GDP, phần còn lại là
chi tiêu tư cho y tế, chủ yếu là các khoản chi từ tiền túi người bệnh. Như
vậy, chi công chỉ chiếm khoảng 43% tổng chi y tế, là một tỷ lệ thấp so với
các nước có thu nhập thấp và trung bình trên thế giới. Các khoản chi từ
tiền túi người bệnh chiếm hơn 50% tổng chi cho y tế năm 2010, và đây là
một trong những nguyên nhân chính gây ra chi phí ‘thảm họa’.
218
Năm 2010 tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 60% dân số và đến tháng 6/2012 là
63%. Đa số người lao động thuộc khu vực kinh tế phi chính thức hoặc người
dân sống ở nông thôn thường chưa tham gia BHYT.
II. PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CHUYỂN ĐỔI NHÂN KHẨU HỌC ĐẾN LAO ĐỘNG - VIỆC LÀM VÀ AN SINH XÃ HỘI
1. Tác động của chuyển đổi nhân khẩu học theo hướng già hóa dân số đến lao động - việc làm
Có tác động tích cực của chuyển đổi cơ cấu dân số tuổi tới tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam: sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất
(OLS) để ước lượng quan hệ giữa biến đổi cơ cấu dân số tuổi đến tăng
trưởng kinh tế. Giả định các yếu tố khác trong mô hình cố định, kết quả ước
lượng cho thấy: (i) khi tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng thêm 1% thì
tăng trưởng kinh tế sẽ tăng thêm 2,78%; (ii) khi tốc độ tăng tổng dân số
tăng thêm 1% thì tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ giảm 1,99%; (iii) tăng 1%
vốn đầu tư sẽ làm GDP tăng thêm 0,4%. Kết quả này khẳng định biến đổi
cơ cấu dân số giúp tăng tiết kiệm là một kênh gián tiếp quan trọng có tác
động tích cực tới tăng trưởng kinh tế.
Có tác động tích cực của biến đổi dân số đến thu nhập bình quân đầu
người, tuy nhiên tác động này chậm dần và có thể chuyển hướng tác động
tiêu cực nếu không có biện pháp can thiệp nâng cao năng suất lao động. Giai
đoạn 1979-1989, lao động tăng nhanh, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế
hàng năm tới 2,65% nhưng dân số cũng tăng mạnh tới 2,1% nên đóng góp
của dân số nói chung chỉ còn 0,55%. Giai đoạn 1989-1999, tốc độ tăng lao
động hàng năm đã bắt đầu giảm, tuy nhiên tốc độ tăng dân số giảm nhanh
hơn nên dân số đã đóng góp cho tăng trưởng kinh tế 0.83%/năm. Giai đoạn
1999-2009, tốc độ tăng lao động hàng năm tiếp tục giảm, tuy nhiên vẫn cao
ở mức 2,29% nhưng tốc độ tăng dân số giảm mạnh, chỉ còn 1,1% nên dân số
đã đóng góp cho tăng trưởng kinh tế tới 1,19%/năm. Đây là mức đóng góp
lớn nhất trong quá khứ cũng như trong tương lai. Giai đoạn 2009-2012 tác
động có xu hướng giảm dần. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào năng suất
lao động. Do đó, về dài hạn, nâng cao năng suất lao động là giải pháp quyết
định cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
219
Tác động của biến đổi cơ cấu tuổi đến năng suất lao động: Cả nhóm
lao động từ 15-59 và nhóm 60+ đều đóng vai trò tích cực tới NSLĐ chung,
do những năm qua mô hình kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng theo chiều rộng,
lao động là một nhân tố quan trong tạo ra tăng trưởng. Kết quả ước lượng
cho thấy tác động tích cực của lao động tới NSLĐ, tuy nhiên tác động này
giảm dần theo nhóm tuổi, lao động từ 15-59 tuổi có quan hệ mạnh đến tăng
năng suất lao động, bình quân nhóm này tăng 1% thì năng suất lao động
tăng thêm 1,86%. Khi lao động từ 60 tuổi trở lên tăng 1% thì NSLĐ chỉ tăng
thêm khoảng 0,05%.
Tác động của biến đổi cơ cấu tuổi đến khả năng có việc làm: Nghiên
cứu ước lượng ảnh hưởng của cơ cấu dân số tuổi tới khả năng có việc làm
dựa trên số liệu VHLSS (Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam). Kết quả
ước lượng cho thấy: Khả năng có việc làm của người lao động nói chung
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như số lượng doanh nghiệp/dự án tạo việc làm
trên địa bàn, giao thông đi lại trên địa bàn, cũng như trình độ, kỹ năng, kinh
nghiệm của người lao động. Đặc biệt, kết quả ước lượng mô hình cho thấy
tuổi của người lao động cũng là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng có việc làm.
Hệ số tác động của biến dấn số từ 15 đến 59 tuổi là 0,45 cao hơn so với hệ
số tác động của biến dân số từ 60 tuổi trở lên (0,26). Cho thấy khả năng có
việc làm của người lao động có xu hướng giảm khi tuổi càng cao. Tuy
nhiên, kết quả tính toán cũng cho thấy, lao động cao tuổi có trình độ cao thì
khả năng có việc làm càng dễ.
2. Mối quan hệ giữa già hóa dân số và vấn đề an sinh xã hội
Quá trình già hoá dân số diễn ra từ từ và chúng ta sẽ gặp phải những
thách thức nảy sinh từ mối quan hệ giữa quy mô dân số già ngày càng tăng,
quy mô dân số lao động giảm dần tạo thêm áp lực cho quốc gia và người lao
động khi phải cân đối nguồn lực cho tiết kiệm bảo hiểm tuổi già thông qua
hệ thống an sinh xã hội.
Vấn đề chi tiêu y tế của người cao tuổi:
Tuổi càng cao thì mức chi cho y tế càng cao, tuy nhiên, đến 1 ngưỡng
tuổi thì chi tiêu cho y tế không tăng nữa (ngưỡng tuổi đó là 79 tuổi);
220
Tỷ số giới tính nữ/nam tăng lên theo tuổi ở Việt Nam cũng là xu
hướng chung trên thế giới. Nguyên nhân có thể lý giải cho xu hướng này là
nam giới cao tuổi thường có tỷ suất chết cao hơn nữ giới cao tuổi ở cùng
nhóm tuổi, do nam giới có một số thói quen như uống rượu, hút thuốc và
không đi khám bệnh thường xuyên. Nguyên nhân không đi khám chữa bệnh
thường xuyên giải thích vì sao những cụ ông có mức chi tiêu cho y tế thấp
hơn cụ bà khoảng 6,3%;
Trình độ học vấn thường gắn với mức thu nhập và sự nhận thức về
việc đi khám chữa bệnh. Kết quả ước lượng cho thấy những cụ có trình độ
học vấn cao hơn có mức chi tiêu cho y tế cao hơn;
Kết quả ước lượng cho thấy, những cụ già sống 1 mình có mức chi
tiêu cho y tế thấp hơn những cụ sống cùng với gia đình khoảng 103,5%.
Ngoài ra, những cụ có thu nhập cao hơn thì mức chi tiêu cho y tế cao hơn
mặc dù không nhiều.
Theo số liệu thống kê người cao tuổi sống chủ yếu ở khu vực nông
thôn (69%). Khu vực sống phản ánh khả năng và tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, người cao tuổi ở khu vực nông thôn khả năng tiếp cận
thường thấp hơn những người sống ở khu vực thành thị đây là một nguyên
nhân khiến cho một bộ phận không nhỏ người cao tuổi sống ở nông thôn
không được điều trị, chăm sóc đầy đủ ngay cả khi phát hiện ra bệnh tật. Kết
quả ước lượng cho thấy, người cao tuổi sống ở khu vực thành thị mức chi
tiêu cho y tế cao hơn người cao tuổi sống ở khu vực nông thôn 17%.
Biến đổi cơ cấu dân số tuổi làm thay đổi cơ cấu người già, và tác
động trực tiếp đến một số khoản chi an sinh xã hội đối với người già:
Cùng với hệ thống chăm sóc sức khỏe ngày một cải thiện, đời sống
tinh thần của người cao tuổi được nâng cao, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế xã hội. Mặc dù biến đổi cơ cấu dân số tuổi đang theo xu tăng
số người cao tuổi, nhưng nhin chung tỷ lệ chi an sinh xã hội cho người già
trong tổng GDP có xu hướng giảm trong giai đoạn 2010-2012 (tỷ lệ này
năm 2010 và 2012 lần lượt là 1,87% và 1,09%), điều này phần nào phản ánh
mặc dù dân số từ 60 tuổi trở lên tăng và luôn cần đến hệ thống ASXH của
Chính phủ nhưng dường như một bộ phận NCT có xu hướng từ lo cho bản
thân về tinh thần, sức khỏe và kinh tế.
221
CHƯƠNG III
XU HƯỚNG TÁC ĐỘNG CỦA GIÀ HÓA DÂN SỐ ĐẾN LAO ĐỘNG-VIỆC LÀM VÀ AN SINH XÃ HỘI
GIAI ĐOẠN 2015-2020 VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
I. XU HƯỚNG TÁC ĐỘNG CỦA GIÀ HÓA DÂN SỐ ĐẾN LAO ĐỘNG- VIỆC LÀM VÀ AN SINH XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2015-2020
1. Xác định giai đoạn già hóa dân số ở Việt Nam
Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (2012), Việt Nam đã
chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 (sớm hơn sáu
năm so với dự báo(36) khi tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên đạt 10.1% và đồng
thời tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên là 7%.
Theo dự báo của Quỹ dân số thế giới (UNFPA 2012), thời gian quá độ
từ già hóa dân số sang dân số già của Việt Nam khoảng 24 năm. Theo đó,
giai đoạn già hóa dân số của Việt nam sẽ kéo dài từ năm 2011 đến năm
2034. Việt Nam sẽ chính thức bước vào thời kỳ dân số già từ năm 2035, khi
tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên của Việt nam đạt 20% (hay tỷ lệ dân số từ 65
tuổi trở lên đạt 14%).
Xét riêng trong giai đoạn 2015-2020, Việt Nam sẽ đang ở trong giai
đoạn đầu của quá trình già hóa dân số với tỷ trọng dân số cao tuổi tăng khá
nhanh, từ 10,4% năm 2013 lên đến 10,9% năm 2015 và 12,6% năm 2020.
Trong giai đoạn này, dân số cao tuổi đạt 10 triệu người năm 2015 và tăng
lên 12,15 triệu người năm 2020, với tốc độ tăng 4,01%/năm
2. Xu hướng tác động của già hóa dân số đến lao động - việc làm giai đoạn 2015-2020
● Nguồn lao động
Theo kết quả dự báo, dân số cả nước sẽ đạt 91,583 triệu người vào
năm 2015 và 96,179 triệu người vào năm 2020, tăng với tốc độ bình quân
1%/năm giai đoạn 2015 -2020 (chậm hơn so với giai đoạn trước 1999-2012:
1,15%). Trong đó, dân số cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) sẽ tăng nhanh, từ 10
(36)
Sau cuộc tổng điều tra dân số năm 2009, các nhà khoa học đã dự báo đến năm
2017 Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn già hóa dân số.
222
triệu người năm 2015 lên 12,717 triệu người năm 2020, với tốc độ bình
quân 4,8%/năm. Kết quả là, tỷ trọng dân số cao tuổi sẽ tăng từ 10,9% năm
2015 lên 13,2% năm 2020, trong khi tỷ trọng dân số trẻ và dân số trong độ
tuổi lao động giảm tương ứng từ 21,4% xuống còn 19,8% và từ 68.2%
xuống còn 67%.
● Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và lực lượng lao động
Tỷ lệ tham gia LLLĐ của dân số từ 15 tuổi trở lên ngày càng tăng, từ
78% năm 2015 lên 79,6% năm 2020. Đó là do, sự tăng mạnh trong tỷ lệ
tham gia LLLĐ của nhóm dân số cao tuổi, từ 51,3% năm 2015 lên 58,7%
năm 2020. Như vậy, đến năm 2020 sẽ có gần 60% dân số cao tuổi tham gia
lao động.
Lực lượng lao động nước ta năm 2015 đạt 55,383 triệu người và sẽ
tăng lên 60,55 triệu người năm 2020, tăng trưởng với tốc độ chậm hơn so
với giai đoạn 1999-2012 (1,8%/năm so với 2,5%/năm). Trong đó, lực lượng
lao động cao tuổi tăng nhanh với tốc độ 9,1%/năm trong giai đoạn 2015-
2020, đạt 7,922 triệu người vào năm 2020. Tỷ trọng lao động cao tuổi trong
tổng LLLĐ tăng khá nhanh từ 9,3% lên năm 2015 lên 13,1% năm 2020. Lực
lượng lao động gia tăng cả về số lượng cũng như tỷ lệ là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thời gian quá độ từ già hóa dân số sang dân số
già nhanh sẽ khiến cho Việt Nam phải đối mặt nhanh với tình trạng thiếu lao
động và không đủ người để cung cấp các dịch vụ cho người già và trẻ em.
Ngoài ra, chất lượng lao động thấp tiếp tục là “điểm nghẽn” trong phát triển
việc làm an ninh linh hoạt trong những năm tới. Đặc biệt, lao động cao tuổi
với trên 90% LLLĐ cao tuổi chưa qua đào tạo sẽ là những đối tượng yếu thế
trên thị trường lao động.
● Việc làm
Theo dự báo, số lao động có việc làm sẽ đạt 54,284 triệu người năm
2015 và 59,291 triệu người năm 2020, tốc độ tăng bình quân 1,78%/năm.
Dự báo người cao tuổi vẫn tiếp tục tham gia làm việc sau khi nghỉ hưu,
đến năm 2015 đạt 5,1 triệu người tăng lên đến 7,89 triệu người năm 2020,
chiếm tỷ lệ ngày càng tăng trong cơ cấu việc làm của nền kinh tế, tương
ứng 9,4% năm 2015 và 13,3% năm 2020. Tốc độ tăng việc làm của lao
động cao tuổi tương đương với tốc độ tăng LLLĐ cao tuổi (9,1%/năm giai
đoạn 2015-2020).
223
Về cơ hội, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa tạo điều kiện thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn, giai đoạn 2015-
2020 mỗi năm sẽ tiếp tục chuyển 817 nghìn lao động ra khỏi khu vực nông
nghiệp. Ngành dịch vụ sẽ phát triển mạnh với lượng hút mỗi năm 989 nghìn
người, lớn hơn 1,5 lần lượng hút của ngành công nghiệp.
Về thách thức, già hóa dân số đặt ra những thách thức đối với chính
sách thị trường lao động, đặc biệt là đào tạo và bố trí việc làm cho lao động
cao tuổi. Bên cạnh đó, tăng trưởng việc làm chậm hơn so với tăng trưởng
LLLĐ sẽ làm tỷ lệ thất nghiệp tăng nhẹ, từ 2% năm 2015 lên 2,1% năm
2020. Tình trạng này xảy ra trong LLLĐ ở nhóm người cao tuổi (tỷ lệ thất
nghiệp tăng từ 0,2% năm 2015 lên đến 0,4% năm 2020) và nhóm thanh niên
(tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3,8% năm 2015 lên đến 5,3% năm 2020).
● Xu hướng tác động của già hóa tới tăng trưởng kinh tế: xu hướng
già hóa dân số cùng với việc tăng chậm dần của dân số trong độ tuổi đã tác
động tới tăng trưởng kinh tế theo hướng chậm dần.
● Xu hướng tác động của già hóa dân số đến thu nhập bình quân đầu
người: quá trình già hóa dân số tác động làm thu nhập bình quân đầu người
có xu hướng giảm dần. Như vậy để cải thiện được thu nhập bình quân quốc
dân thì cần có biện pháp nâng cao năng suất lao động toàn xã hội.
3. Dự báo xu hướng tác động của già hóa dân số đến an sinh xã hội giai đoạn 2015-2020
Quá trình biến đổi dân số đã giúp Việt Nam có thể hưởng lợi từ lợi tức
về dân số, và chính sự gia tăng về thu nhập đã bù đắp lại phần nào những
khoản chi cho ASXH, đối tượng cụ thể là chăm sóc trẻ em, người cao tuổi,..
Từ kết quả dự báo dân số theo tuổi, dự báo về GDP, nghiên cứu xác định
được nhóm đối tượng hưởng từ các chương trình ASXH như các chương
trình của trẻ em (tiền ăn trưa, chi phí học tập,...); các chương trình của người
cao tuổi (hưu trí, trợ giúp thường xuyên cho người cao tuổi...).
Việc giảm tỷ lệ sinh cùng với tăng trưởng kinh tế đã giúp Chính phủ
có thể đầu tư nguồn lực vào phát triển thế hệ trẻ. Mặc dù số trẻ em giảm
theo xu hướng biến đổi dân số nhưng tổng chi có xu hướng tăng, cho thấy
có sự đầu tư cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên do tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn
2013-2020 được ổn định nên mặc dù tổng chi cho trẻ em tăng nhưng tỷ
trong trong GDP không tăng.
224
Tổng chi và tỷ trọng chi trong tổng GDP có xu hướng giảm, chủ yếu
là do đối tượng hưởng lương hưu thuộc nhóm nghỉ hưu trước năm 1996
giảm. Mặt khác kinh tế tăng trưởng đã tạo điều kiện thuận lời đảm bảo
ASXH đối với NCT.
II. CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
1. Các phát hiện chính
a) Già hóa dân số tác động đến lao động - việc làm
- Quá trình già hóa dân số của Việt Nam sẽ diễn ra nhanh chóng trong
khoảng 24 năm (từ năm 2011 đến 2035) nếu tiếp tục duy trì mức sinh thấp,
dưới mức sinh thay thế như hiện nay. Do đó, để làm chậm quá trình già hóa
dân số cần xem xét điều chỉnh mức sinh hợp lý trong thời gian tới.
- Giai đoạn 2015 – 2020 là thuộc giai đoạn đầu của tiến trình già hóa
dân số với tỷ lệ người cao tuổi đạt 10,9% năm 2015 và tăng lên 12,6% năm
2020, cũng là thời kỳ của cơ cấu dân số vàng của Việt Nam. Việc tận dụng
được cơ hội “dân số vàng” sẽ rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội
nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của già hóa dân số.
- LLLĐ già hóa nhanh và chất lượng lao động thấp sẽ làm cho đóng
góp của LLLĐ vào tăng trưởng kinh tế giảm và NSLĐ cũng giảm.
- Xét về tổng thể, trong giai đoạn 2015-2020, già hóa dân số chưa có
tác động rõ rệt lên cơ cấu việc làm của nền kinh tế. Lao động đang làm việc
trong khu vực phi chính thức và khu vực nông nghiệp mặc dù vẫn tăng nhẹ
về số lượng song vẫn tiếp tục giảm về tỷ trọng trong tổng số lao động có
việc làm.
- Giai đoạn 2015-2020, tỷ lệ thất nghiệp sẽ gia tăng trong cả ba nhóm
lao động thanh niên, trung niên và cao tuổi. Do đó, cần có các chính sách hỗ
trợ và tạo việc làm cho lao động cao tuổi nhằm hạn chế tình trạng thất
nghiệp hay làm giảm sự tham gia của lao động cao tuổi vào các công việc dễ
bị tổn thương.
b) Già hóa dân số tác động đến an sinh xã hội
- Người cao tuổi vẫn sống chủ yếu ở khu vực nông thôn - đây là khu
vực kinh tế có năng suất thấp và thiếu sự bảo trợ xã hội; Số phụ nữ cao tuổi
tiếp tục tăng và chiếm đa số trong tổng số người cao tuổi của cả nước; nhóm
225
dân số từ 80 tuổi trở lên vẫn tiếp tục tăng; số người cao tuổi sống cô đơn
tăng khá nhanh.
- Đời sống của người cao tuổi còn nhiều khó khăn, trong khi vẫn còn
gần 50% số người cao tuổi chưa được hưởng bất cứ chế độ chính sách xã
hội nào.
- Các nhóm yếu thế (người nghèo, người dân tộc thiểu số, người cao
tuổi ở khu vực nông thôn) có độ bao phủ của BHXH rất thấp.
- Nguy cơ mất cân đối quỹ khi số người hưởng hưu trí tăng nhanh
(11%/năm). Trong khi đó, số người đóng cho 1 người hưởng sẽ ngày càng
giảm. Ngoài ra, chế độ hưu trí con tồn tại nhiều bất cập thể hiện ở tuổi về
hưu sớm.
- Nhu cầu chăm sóc y tế ngày càng tăng khi số lượng người già tăng
và xu hướng bệnh tật cũng thay đổi từ các bệnh lây nhiễm sang không lây
nhiễm và mãn tính.
- Dịch vụ hỗ trợ và chăm sóc người cao tuổi ở nước ta hiện nay còn yếu
và thiếu, mới chỉ tập trung ở khu vực thành thị. Trong khi nhận thức và vai trò
của cộng đồng và gia đình trong chăm sóc người cao tuổi còn hạn chế.
2. Khuyến nghị chính sách
a) Xây dựng và phát triển các nguyên tắc già hóa tích cực
- Thúc đẩy sự tiếp cận toàn diện trong chính sách phát triển nguồn nhân
lực, bao gồm sự tổ chức việc làm phù hợp, tạo điều kiện về thời gian làm việc
linh hoạt, đảm bảo quản lý tốt sức khỏe nghề nghiệp và tạo ra môi trường làm
việc khỏe mạnh, trong suốt vòng đời và cho người cao tuổi nói riêng.
- Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kỹ năng và vốn con người cho tất cả
người lao động trong suốt quá trình làm việc; và tăng tỷ lệ tham gia của lao
động cao tuổi trong giáo dục, đào tạo, nhằm duy trì năng suất lao động,
nhằm tăng sự chuyển đổi và cập nhật các kỹ năng của lao động cao tuổi
nhằm đáp ứng các nhu cầu về tổ chức và công nghệ.
- Cung cấp các hướng dẫn nghề nghiệp, như các dịch vụ tư vấn cá
nhân và giới thiệu việc làm, trong suốt cuộc đời nghề nghiệp, để giữ lại và
khôi phục lao động cao tuổi, và trợ giúp người thất nghiệp trở lại làm việc
trong bối cảnh dư thừa lao động;
226
- Điều chỉnh và hiện đại hóa các hệ thống bảo hiểm và bảo trợ xã hội
để tạo ra công việc và những khoản trợ cấp chi trả cho lao động cao tuổi gần
tuổi nghỉ hưu, quan tâm đến tác động của giá lao động trên việc làm của
người lao động cao tuổi, chú ý đến các kế hoạch cải cách hưu trí quốc gia
theo hướng làm việc lâu hơn.
b) Chính sách dân số và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Chủ động điều chỉnh, kiểm soát mức sinh sao cho hợp lý nhất, thực
hiện phương án “mức sinh thấp hợp lý” nhằm kéo dài thời kỳ già hóa dân số.
- Chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân nhằm nâng cao
chất lượng nguồn lực và đảm bảo có một tuổi già khỏe mạnh trong tương lai.
- Phối hợp thực hiện chính sách dân số với chính sách tạo việc làm
nhằm giảm bớt tình trạng người già cô đơn, người già sống trong gia đình
"khuyết thế hệ".
c) Chính sách lao động - việc làm
* Nhóm chính sách lao động - việc làm chung
Thứ nhất, tăng cường cải cách TTLĐ trong quá trình phát triển dựa
trên các định hướng và nguyên tắc già hóa tích cực, trong đó cần lưu ý đặc
biệt về triển vọng giới liên quan đến các nhu cầu của nhóm lao động nữ cao
tuổi là nhóm dễ bị tổn thương trên TTLĐ; đảm bảo rằng việc đấu tranh
chống lại phân biệt đối xử về tuổi tác cần được lồng ghép đầy đủ vào tất cả
các chương trình và chính sách việc làm liên quan.
Thứ hai, tạo việc làm đầy đủ, ổn định và nâng cao thu nhập cho nhóm
đối tượng là lao động nông thôn, lao động làm trong ngành nông-lâm-ngư
nghiệp và lao động trong khu vực phi chính thức.
Thứ ba, nâng cao năng suất lao động và tạo việc làm bền vững cho
nhóm lao động hiện đang làm việc.
Thứ tư, tận dụng tốt cơ hội “dân số vàng”(37), giải quyết việc làm và
thu nhập cho người lao động, hạn chế thất nghiệp... sẽ giúp Việt Nam có
được một dân số già có thu nhập cao và sức khỏe tốt trong tương lai.
(37)
Cơ cấu dân số “vàng” ở Việt Nam_GS.TS. Nguyễn Đình Cử, ThS. Hà Tuấn
Anh_ Viện Dân số và các vấn đề XH, ĐH Kinh tế quốc dân, 2011
227
Cuối cùng, tăng cường công tác giám sát và dự báo sự thiếu hụt về kỹ
năng và LLLĐ trong một số ngành/khu vực của nền kinh tế do nhu cầu của
dân số già hóa, đặc biệt trong khu vực dịch vụ cá nhân và chăm sóc sức
khỏe. Trên cơ sở đó, xây dựng và phát triển thông tin thị trường lao động và
các công cụ hướng dẫn thông qua các dịch vụ việc làm.
* Chính sách lao động - việc làm cho người cao tuổi
Thứ nhất, trong phát triển các chương trình cải cách việc làm quốc gia
phải chú trọng đến nhu cầu tăng tỷ lệ lao động cao tuổi, bao gồm cả sự quan
tâm hợp lý đến các nhóm lao động nữ cao tuổi; sử dụng các công cụ và
chương trình sẵn có để tăng cường sự tham gia cho lao động cao tuổi trong
TTLĐ; hỗ trợ vai trò của các tổ chức công và các đối tác khác để có thể đưa
ra các hướng dẫn, trợ giúp hiệu quả và phù hợp, đáp ứng nhu cầu cá nhân
bao gồm cả những lao động cao tuổi, do các dịch vụ việc làm, tư nhân và
phi lợi nhuận cung cấp.
Thứ hai, quan tâm đến công tác đào tạo để chuyển đổi nghề nghiệp
cho lao động trung niên và cao tuổi, đặc biệt người cao tuổi sống ở khu vực
nông thôn hoặc những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội thấp, người cao
tuổi là nữ... Cần tiến hành các dự án về giáo dục nhằm động viên và nâng
cao kiến thức, kỹ năng cho NCT.
Thứ ba, tạo việc làm phù hợp cho NCT, cụ thể: (i) Đối với NCT có
nghề: cần có chính sách thu hút, khuyến khích hỗ trợ NCT có khả năng tham
gia làm việc tạo thu nhập, trước hết là ở đô thị, ở khu vực kinh tế hộ, để tận
dụng kinh nghiệm, kỹ năng của NCT; (ii) Đối với NCT ở khu vực nông thôn
với thu nhập bấp bênh: đẩy mạnh nghiên cứu các hình thức hoạt động kinh tế
cho NCT, trước hết là các hoạt động kinh tế phù hợp nhằm tăng thu nhập ở
nông thôn; xây dựng và triển khai chính sách BHXH cho nông dân; khuyến
khích nông dân “lo cho tuổi già từ khi còn trẻ”, tích cực tham gia BHXH khi
hình thức BH này được triển khai; (iii) Đối với NCT không có nghề, không
tham gia hoạt động kinh tế: khuyến khích những người này làm những việc
có ích cho gia đình và cộng đồng như chăm sóc cháu, giúp con cái làm công
việc gia đình để con có thời gian làm việc, công tác, …
Thứ tư, chú trọng cải thiện việc làm cho NCT thông qua việc phát hiện
các thực tiễn tốt trong các doanh nghiệp, cũng như xem xét các chiến lược
228
phát triển kỹ năng cho phép lao động cao tuổi duy trì năng suất. Bên cạnh
đó, khuyến khích các tổ chức thanh tra lao động thúc đẩy các biện pháp
ngăn ngừa và hướng dẫn, giám sát vấn đề sức khỏe và an toàn nghề nghiệp
để duy trì khả năng làm việc của lao động cao tuổi.
Cuối cùng, xem xét tăng tuổi làm việc cho người lao động, nhất là với
những người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao nhằm tận dụng kinh
nghiệm, kiến thức, kỹ năng của họ, góp phần nâng cao đời sống và duy trì
hoạt động chân tay và trí óc của người cao tuổi.
d) Nhóm chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi
* Tăng cường mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm xã hội và cải cách
hệ thống hưu trí
- Nâng cao tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội trong toàn dân để đảm bảo
khi về già được hưởng các chế độ liên quan tới bảo hiểm xã hội. . Trong đó,
cần đa dạng hóa các hình thức hưu trí bổ sung, đặc biệt đẩy mạnh hình thức
bảo hiểm nhân thọ nhằm tạo ra sự đa tầng trong hệ thống bảo hiểm hưu trí
của Việt Nam để toàn dân được tham gia, đảm bảo công bằng cho toàn dân
và đảm bảo cho một thế hệ NCT được hưởng các chế độ từ BHXH;
- Cải cách hệ thống hưu trí, tăng tuổi nghỉ hưu và điều chỉnh công
thức tính lương hưu.
* Mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm y tế
- Mở rộng tỷ lệ bao phủ về bảo hiểm y tế đến với tất cả người dân, đặc
biệt, tạo điều kiện để 100% người cao tuổi Việt Nam được tham gia bảo
hiểm y tế.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm y tế, cụ thể là đảm bảo chất
lượng khám chữa bệnh giữa những người sử dụng dịch vụ bảo hiểm y tế với
không sử dụng bảo hiểm y tế.
- Đẩy nhanh tiến độ triển khai chính sách BHYT cho người cao tuổi,
nhất là ở tuyến cơ sở với kinh phí thấp nên cơ sở vật chất nghèo nàn, hầu
như không có cán bộ chuyên ngành lão khoa và sự tham gia rất hạn chế của
các dịch vụ y tế tư nhân tại các địa phương.
229
* Tăng cường và phát triển dịch vụ chăm sóc người cao tuổi
- Phát triển và mở rộng các trung tâm, dịch vụ chăm sóc người cao
tuổi về cả số lượng và cơ sở vật chất; Khuyến khích phát triển các trung
tâm, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tư nhân. Kết hợp chăm sóc người già
tại cộng đồng và chăm sóc tại nhà với chăm sóc tại cơ sở theo yêu cầu.
- Tăng cường quản lý và kiếm soát các bệnh mãn tính lão khoa với
mục đích tăng số năm sống khỏe mạnh. Dần dần phát triển và quản lý một
mạng lưới thống nhất các cán bộ xã hội, các nhà cung cấp chăm sóc lão
khoa và các viện dưỡng lão dựa trên nhu cầu và điều kiện thực tế của từng
địa phương.
- Nâng cao năng lực, kỹ năng cho cán bộ, nhân viên y tế nuôi dưỡng,
chăm sóc người cao tuổi thông qua các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn, có
thể mời các chuyên gia ở các nước có trình độ phát triển cao, có hệ thống
ASXH cho người già tốt về giảng dạy, tập huấn.
- Có chính sách tư vấn, hỗ trợ NCT trong công tác tự chăm sóc sức
khỏe và tham gia các hoạt động xã hội. Giáo dục ý thức mỗi cá nhân về việc
“lo cho tuổi già từ khi còn trẻ”.
* Về bảo trợ xã hội
Xem xét thay đổi, điều chỉnh lại cách thức xác định đối tượng thụ
hưởng trợ cấp xã hội nhằm đảm bảo trợ cấp đúng và đủ cho các đối tượng,
đặc biệt là NCT; Có cơ chế quản lý, giám sát đối với bộ phận xét duyệt trợ
cấp xã hội cho NCT; Nghiên cứu và ban hành lại chính sách liên quan tới
mức thụ hưởng trợ cấp xã hội cho NCT đảm bảo công bằng giữa các vùng,
các khu vực, địa phương; Xem xét lại các chính sách trợ cấp cho người cao
tuổi, có thể hợp nhất lại một chính sách nhưng đảm bảo giúp người cao tuổi
cải thiện được cuộc sống; Định kỳ kiểm tra công tác trợ cấp xã hội cho NCT
và có những thay đổi, điều chỉnh phù hợp với thực tế phát sinh.
e) Nhóm giải pháp chính sách nhằm nâng cao sức khỏe thể chất và
tinh thần cho người cao tuổi
- Nhà nước, gia đình và cộng đồng cần quan tâm cải thiện đời sống vật
chất của NCT. Đồng thời quan tâm, chăm sóc hơn về đời sống tinh thần cho
NCT. Đặc biệt, phân vùng các đối tượng theo các tiêu chí về độ tuổi, về khu
230
vực, về dân tộc, về trình độ để có cách ứng xử phù hợp hơn, mang lại hiệu
quả trong việc nâng cao sức khỏe tinh thần cho người cao tuổi. Đồng thời,
tiến tới mức độ đồng đều hóa về mặt thể chất và tinh thần của người cao tuổi
trong cả nước.
- Đa dạng hóa việc tổ chức cuộc sống cho NCT như: ở cùng con cháu,
ở trại dưỡng lão, trại gửi già, kết hợp các hình thức …
- Trong chính sách đối với NCT cần đặc biệt chú ý đến phụ nữ, nhất là
phụ nữ đơn côi, nuôi con chưa trưởng thành; cần tuyên truyền để chuyển đổi
quan niệm khắt khe của xã hội đối với việc «tái giá» của tuổi già.
- Nhân rộng mô hình tổ chức Hội NCT với các hoạt động tích cực
như: Hội NCT phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp giúp NCT
nâng cấp nhà tạm; tổ chức mừng thọ, chúc thọ vào dịp đầu xuân, ngày Quốc
tế người cao tuổi; chăm lo tang lễ NCT từ trần; xây dựng “Câu lạc bộ ông
bà cháu”; Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao; các
câu lạc bộ nghệ thuật, thơ ca, thể dục, dưỡng sinh, tham quan…
f) Nâng cao nhận thức của cộng đồng và xã hội về giá trị của già hóa
dân số và sự đóng góp quan trọng của người cao tuổi
- Giáo dục xã hội, con cháu ghi ơn và kính trọng NCT, cha mẹ, ông bà...
- Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức về giá trị của già hóa
dân số và sự đóng góp quan trọng của người cao tuổi đối với toàn xã hội.
231
HỆ THỐNG CÁC VẤN ĐỀ PHÁT SINH
TRONG ĐƠN THƯ, KHIẾU NẠI VỀ LAO ĐỘNG -
XÃ HỘI VÀ KHUYẾN NGHỊ CÁC ĐỊNH HƯỚNG
CẦN NGHIÊN CỨU GIẢI QUYẾT
MÃ SỐ: CB2012-02-11
Đơn vị chủ trì đề tài: Thanh tra Bộ
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Tiến Tùng
Thư ký: CN. Lê Thị Bảo Phương
CHƯƠNG I
HỆ THỐNG HÓA CÁC VẤN ĐỀ PHÁT SINH TRONG
ĐƠN THƯ KHIẾU NẠI VỀ LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Đề tài đã nêu 11 khái niệm cơ bản liên quan đến quá trình giải quyết
khiếu nại như: khái niệm về khiếu nại; người khiếu nại; cơ quan, tổ chức có
quyền khiếu nại; người bị khiếu nại; người giải quyết khiếu nại; người có
quyền, nghĩa vụ liên quan; quyết định hành chính; hành vi hành chính; quyết
định kỷ luật; giải quyết khiếu nại và khái niệm về rút khiếu nại. Ngoài ra,
một số khái niệm trong giải quyết khiếu nại về lao động và một số dạng
khiếu nại các quyết định, hành vi hành chính phổ biến cũng được đề cập
như: về lao động; về dạy nghề; về người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng; về việc thực hiện chính sách ưu đãi Người có
công với cách mạng; về bảo hiểm xã về bảo trợ xã hội, bảo vệ và chăm sóc
trẻ em, phòng chống tệ nạn xã hội, bình đẳng giới.
II. THỰC TRẠNG ĐƠN THƯ KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ LAO ĐỘNG
1. Thực trạng đơn thư khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực chính sách lao động
1.1. Những quy định về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực chính sách lao động
232
1.1.1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại:
- Người sử dụng lao động;
- Thanh tra viên lao động;
- Chánh thanh tra Sở;
- Chánh thanh tra Bộ.
1.1.2. Trình tự giải quyết khiếu nại:
Trình tự giải quyết khiếu nại được tóm tắt dưới dạng sơ đồ sau:
1.2. Thực trạng đơn thư khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực chính sách lao động
1.2.1. Số liệu đơn thư khiếu nại
Tổng hợp đơn thư khiếu nại về thực hiện chính sách lao động theo
một số nội dung được quy định trong Bộ luật Lao động tại Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội từ năm 2009 đến năm 2011 là 195 đơn (trong đó
năm 2009 là 93 đơn, năm 2010 là 56 đơn và năm 2011 là 46 đơn) với các
nội dung khiếu nại về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất; về hợp đồng
lao động; về tiền lương chiếm tỉ lệ lớn (83%) tổng số các vụ khiếu nại.
Tổng hợp đơn thư khiếu nại về thực hiện chính sách lao động được
Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tại 02 địa phương được
khảo sát: số lượng đơn thư giảm dần qua từng năm (điều này cho thấy quyền
lợi của người lao động được đảm bảo ngày càng tốt hơn), cụ thể:
- Tại tỉnh Ninh Bình: tổng số 50 đơn, trong đó năm 2009 là 19 đơn,
năm 2010 là 17 đơn và năm 2011 là 14 đơn.
233
- Tại tỉnh Bắc Ninh: tổng số 29 đơn, trong đó năm 2009 là 13 đơn,
năm 2010 là 11 đơn và năm 2011 là 05 đơn.
Tổng hợp đơn thư khiếu nại về thực hiện chính sách lao động được
Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh thành phố trên
toàn quốc thực hiện từ năm 2009 đến 2011 là 4.908 đơn (năm 2009: 1.655
đơn, năm 2010: 1.798 đơn, năm 2011: 1.455 đơn), trong đó đơn thuộc thẩm
quyền giải quyết là 1.341 đơn (năm 2009: 716 đơn, năm 2010: 355 đơn,
năm 2011: 270 đơn).
1.2.2. Một số nội dung khiếu nại chủ yếu về thực hiện chính sách
lao động
- Về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất: Trong 3 năm (2009-2011)
có 83 đơn khiếu nại về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất (chiếm 43%
tổng số đơn gửi về Thanh tra Bộ).
- Về tiền lương: Trong 3 năm (2009-2011) có 45 đơn khiếu nại về tiền
lương (chiếm 23% tổng số đơn gửi về Thanh tra Bộ).
- Về hợp đồng lao động: Trong 3 năm (2009-2011) có 35 đơn khiếu
nại về lĩnh vực này (chiếm 18% tổng số đơn gửi về Thanh tra Bộ).
- Các nội dung về công đoàn; giải quyết tranh chấp lao động; lao động
làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; người nước ngoài
lao động tại Việt Nam; về lao động là người cao tuổi; về lao động là người
tàn tật; về những quy định đối với lao động nữ, lao động chưa thành niên; về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tuy có phát sinh khiếu nại nhưng không
thường xuyên.
2. Thực trạng đơn thư khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng
Hiện nay, cả nước có trên 170 doanh nghiệp được Bộ cấp giấy phép,
hàng năm đưa được khoảng 8 vạn lao động đi làm việc ở nước ngoài, góp
phần vào sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo của đất nước, giải quyết công ăn việc
làm cho nhiều lao động. Bên cạnh đó, cũng còn một số doanh nghiệp thiếu
trách nhiệm, vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người lao
động, buộc người dân phải sử dụng đến quyền khiếu nại để nhờ cơ quan quản
lý nhà nước bảo vệ quyền lợi cho mình và tổ chức, cá nhân khác.
234
2.1. Những quy định về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng
2.1.1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại
- Trong nước:
+ Cấp Trung ương: Cục Quản lý lao động ngoài nước thuộc Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội.
+ Cấp địa phương: Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Ở nước ngoài: đơn thư khiếu nại của người lao động đang làm việc ở
nước ngoài do các Ban Quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài (trực thuộc Cơ
quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước sở tại) tiếp nhận và giải quyết.
Hiện nay đang có 8 Ban Quản lý lao động Việt Nam tại các nước:
Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Cộng hoà Séc, Qatar, Ảrập Xê
Út, UAE.
2.1.2. Trình tự giải quyết khiếu nại
Theo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng thì "việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong việc đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được thực hiện
theo quy định của pháp luật". Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay chưa có văn
bản riêng quy định giải quyết khiếu nại về lĩnh vực này mà chỉ giải quyết
theo kinh nghiệm, thông lệ; không áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại vì
cơ quan bị khiếu nại không phải là cơ quan hành chính nhà nước, người có
thẩm quyền thuộc cơ quan hành chính nhà nước.
2.2. Thực trạng đơn thư khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng
2.2.1. Số liệu đơn thư khiếu nại
Theo số liệu thống kê (2009-2011), Cục Quản lý lao động ngoài nước đã tiếp nhận 1.128 đơn thư (trong đó, năm 2009: 521 đơn, năm 2010: 315 đơn và năm 2011: 292 đơn). Đơn khiếu nại về lĩnh vực này có xu hướng giảm dần qua các năm. Lý do là những năm gần đây, kinh tế quốc tế bị khủng hoảng, việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài bị ảnh hưởng (số lượng lao động đi làm việc giảm) nên khiếu nại ít phát sinh. Đơn khiếu nại
235
phát sinh chủ yếu vẫn là thị trường Malaysia là thị trường có nhiều biến động, thu nhập không cao.
2.2.2. Nội dung chủ yếu của đơn thư khiếu nại
- Người lao động về nước trước hạn không do lỗi của mình, doanh nghiệp cố tình gây khó khăn trong việc thanh lý hợp đồng (chiếm khoảng 50% tổng số đơn thư).
- Việc làm của người lao động ở nước ngoài không đúng như thông báo, hợp đồng của doanh nghiệp trước khi xuất cảnh; mức lương làm ở nước ngoài thấp hơn so với thông báo trước khi đi của doanh nghiệp (chiếm khoảng 20% tổng số đơn thư).
- Doanh nghiệp thu tiền dịch vụ, ký quỹ, môi giới của người lao động cao hơn quy định (chiếm khoảng 15% tổng số đơn thư).
- Doanh nghiệp xuất khẩu lao động thu tiền dịch vụ, ký quỹ, môi giới của người lao động quá 6 tháng nhưng không thể xuất cảnh được vì không xin được visa hoặc hợp đồng cung ứng lao động bị hủy do phía đối tác nước ngoài (chiếm khoảng 5% tổng số đơn thư).
- Doanh nghiệp thiếu trách nhiệm trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động ở nước ngoài khi bị tai nạn lao động, tử nạn, chậm trễ trong việc hỗ trợ người lao động hưởng chế độ bảo hiểm trong quá trình làm việc ở nước ngoài (chiếm khoảng 3% tổng số đơn thư).
- Tổ chức, cá nhân không có giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động nhưng vẫn thu tiền của người lao động, không đưa họ ra nước ngoài được nhưng cũng không trả lại tiền cho người lao động (chiếm khoảng 3% tổng số đơn thư).
- Khi làm việc ở nước ngoài, bị chủ sử dụng lao động đối xử tàn nhẫn,
sinh hoạt ăn ở không đảm bảo (đặc biệt đối với lao động giúp việc gia đình
ở Ả Rập Xê Út). Nội dung này chiếm khoảng 2% tổng số đơn thư.
- Trong thời gian làm việc ở nước ngoài, bị chủ sử dụng lao động nợ
lương (chiếm khoảng 2% tổng số đơn thư).
3. Thực trạng đơn thư khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực dạy nghề
Tính đến tháng 12 năm 2011 cả nước có 136 trường cao đẳng nghề
(34 trường ngoài công lập), 307 trường trung cấp nghề (99 trường ngoài
236
công lập), 849 trung tâm dạy nghề (324 trung tâm ngoài công lập) và hơn
1.000 cơ sở khác tham gia dạy nghề; với tổng số 3.270 giáo viên dạy nghề
tại các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề và gần
16.000 giáo viên thuộc các cơ sở khác có tham gia dạy nghề.
3.1. Thẩm quyền và trình tự giải quyết khiếu nại
Hiện nay, Nhà nước ta chưa có văn bản riêng quy định giải quyết
khiếu nại về lĩnh vực Dạy nghề, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại về lĩnh vực này đã và đang giải quyết theo kinh nghiệm. Tương tự như
việc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đưa lao động Việt Nam đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng, việc giải quyết khiếu nại về lĩnh
vực Dạy nghề cũng không thể áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại vì cơ
quan bị khiếu nại không phải là cơ quan hành chính nhà nước, người có
thẩm quyền thuộc cơ quan hành chính nhà nước.
3.2. Thực trạng đơn thư khiếu nại và giải quyết khiếu nại về dạy nghề
3.2.1. Khiếu nại của cơ sở dạy nghề
Từ năm 2009 dến 2011, khiếu nại của các cơ sở dạy nghề tập trung
vào các nội dung sau:
- Khiếu nại việc giải quyết khiếu nại về lao động trong lĩnh vực dạy
nghề tại doanh nghiệp hoạt động dạy nghề: 10 đơn, chiếm 35,7%;
- Khiếu nại về việc các doanh nghiệp hoạt động nghề không được tổ
chức dạy nghề cho người lao động để làm việc cho doanh nghiệp; không
được Nhà nước hỗ trợ khi tiếp nhận người tàn tật, khuyết tật vào học nghề
và làm việc cho doanh nghiệp: 09 đơn, chiếm 32,1%;
- Khiếu nại về việc các doanh nghiệp hoạt động nghề đã được kiểm
định chất lượng nếu đạt yêu cầu nhưng không được cấp giấy chứng nhận đạt
tiêu chuẩn kiểm định chất lượng dạy nghề: 04 đơn, chiếm 14,3%;
- Khiếu nại về việc các doanh nghiệp hoạt động nghề không được
thành lập cơ sở nghề khi đã có đủ điều kiện: 03 đơn, chiếm 10,7%;
- Khiếu nại về việc bị đình chỉ hoạt động dạy nghề của cơ sở dạy
nghề: 02 đơn, chiếm 7,2%.
237
3.2.2. Khiếu nại của người học nghề
Từ năm 2009 đến 2011, khiếu nại của người học nghề tập trung vào
các nội dung sau:
- Không được ký Hợp đồng học nghề bằng văn bản: 21 đơn, chiếm
37,5%;
- Không được tuyển sinh vào học nghề khi có đủ điều kiện theo quy
định: 17 đơn, chiếm 30,4%;
- Không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nội dung đã
được cam kết trong hợp đồng học nghề: 12 đơn, chiếm 21,4%;
- Không được hưởng chính sách học bổng và trợ cấp xã hội: 05 đơn,
chiếm 8,9%;
- Khiếu nại về việc người tàn tật, khuyết tật học nghề thuộc hộ nghèo
không được miễn học phí, không được cấp học bổng và hỗ trợ ăn, ở, đi lại
theo quy định của pháp luật: 01 đơn, chiếm 1,8%.
III. THỰC TRẠNG ĐƠN THƯ KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ LĨNH VỰC XÃ HỘI
1. Trong lĩnh vực người có công
1.1. Tình hình đơn, thư về chính sách ưu đãi người có công với cách mạng trong những năm gần đây
Tình hình đơn thư khiếu nại, kiến nghị về lĩnh vực người có công với
cách mạng mà Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã nhận và xử lý từ
năm 2009 đến năm 2011 có chiều hướng giảm theo từng năm (năm 2009:
4493 đơn; năm 2010: 3273 đơn, năm 2011: 3050 đơn). Như vậy, số lượng
đơn thư giảm từ 10-30% so với năm trước. Tuy nhiên, nội dung vụ việc lại
có tính chất, mức độ gay gắt, phức tạp hơn (phần lớn là các vụ việc phát
sinh trước đây đã được các cấp chính quyền giải quyết nhiều lần, với nhiều
biện pháp khác nhau nhưng không dứt điểm).
Đơn thư khiếu nại về chính sách người có công với cách mạng thường
chiếm lệ trung bình từ 5% đến 10% so với tổng số đơn thư hàng năm mà
Thanh tra Bộ nhận được. Nội dung chủ yếu là khiếu nại về chế độ thương
binh, người hưởng chính sách như thương binh (chiếm 40,68%); khiếu nại
238
về chế độ đối với liệt sĩ và thân nhân liệt sĩ (chiếm 26,23%); khiếu nại về
người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học (chiếm 13,84%).
Không những tại Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội mà ngay ở
các địa phương (Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố)
nội dung thư đơn liên quan đến lĩnh vực người có công cũng đã giảm. Nội
dung thư đơn chủ yếu là đơn đề nghị và hỏi chính sách.
Khảo sát tại hai tỉnh Bắc Ninh và Ninh Bình trong 3 năm 2009-2011 chỉ
có 01 vụ giải quyết khiếu nại về lĩnh vực người có công thuộc thẩm quyền
của Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (tỉnh Ninh Bình).
1.2. Một số nội dung khiếu nại chủ yếu
1.2.1. Khiếu nại về chế độ chính sách đối với thương binh, người
hưởng chính sách như thương binh
Nội dung khiếu nại này chủ yếu tập trung về việc xác nhận đối tượng
hưởng chính sách như thương binh theo khoản 1, Điều 25, Nghị định số
28/CP ngày 28/4/1995 và Thông tư số 22/LĐTBXH-TT ngày 19/8/1995 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Nguyên nhân chủ yếu: do các quy định về thủ tục hồ sơ đơn giản,
không có điều kiện ràng buộc đối với người làm chứng, cộng thêm sự thiếu
trách nhiệm trong xác nhận hồ sơ của một số Hội đồng chính sách cấp xã.
Mặt khác, các quy định việc xác lập hồ sơ theo phương thức hai người làm
chứng đã bộc lộ kẽ hở.
1.2.2. Khiếu nại về chế độ chính sách đối với liệt sĩ và gia đình liệt sĩ
Nội dung này thường liên quan đến việc xác nhận liệt sĩ đối với các
trường hợp hoạt động ở cơ sở thời kỳ chống thực dân Pháp, không có giấy
tờ gốc mà việc xác nhận chỉ dựa trên cơ sở chứng nhận của người giao
nhiệm vụ trực tiếp khi hoạt động hoặc người làm chứng hoạt động cùng thời
kỳ hoặc việc giải quyết của cơ quan có thẩm quyền về việc truy lĩnh trợ cấp
tuất đối với thân nhân liệt sĩ.
Nguyên nhân dẫn đến khiếu nại nội dung này hầu hết đều xuất phát từ
đơn tố cáo của công dân về việc người được suy tôn liệt sĩ không tham gia
hoạt động cách mạng, chỉ là người dân bình thường hoặc việc thiếu trách
nhiệm trong quản lý của các cơ quan chuyên môn địa phương nên có trường
239
hợp đã được suy tôn liệt sĩ và được Thủ tướng Chính phủ cấp Bằng Tổ quốc
ghi công sau khi hy sinh nhưng gia đình liệt sĩ chưa giải quyết chính sách,
nay tiếp tục xác lập hồ sơ đề nghị suy tôn liệt sĩ.
- Khiếu nại liên quan đến việc giải quyết truy lĩnh trợ cấp tuất đối với
thân nhân liệt sĩ. Nội dung vụ việc thường không phức tạp nhưng các cơ
quan chức năng đã không kịp thời xử lý, để vụ việc khiếu nại kéo dài, thời
điểm xảy ra sự việc đã quá lâu, quyền lợi chính trị và kinh tế của gia đình
liệt sĩ không được đảm bảo. Nếu giải quyết theo hướng áp dụng mức trợ cấp
theo từng thời điểm áp dụng chính sách để tính truy lĩnh trợ cấp thì quá thiệt
thòi, không thỏa mãn được quyền lợi của đối tượng thụ hưởng. Nếu giải
quyết theo hướng yêu cầu các cơ quan chuyên môn phối hợp để xây dựng
phương án chi trả trợ cấp đối với gia đình liệt sĩ theo mức tại thời điểm quy
định hiện hành (phương án này dễ được đối tượng chấp nhận, không tái
khiếu) thì không có cơ sở pháp lý để thực hiện.
1.2.3. Khiếu nại liên quan đến chính sách đối với người hoạt động
kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học
Đối tượng được xác lập hồ sơ và hưởng chế độ chất độc hóa học từ
thời điểm theo quy định tại Quyết định số 26/2000/QĐ-TTg và Quyết định
số 120/2004/QĐ-TTg (khi đó đối tượng này thuộc nhóm đối tượng bảo trợ
xã hội). Sau khi Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29 tháng 6
năm 2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về ưu đãi người có công với
cách mạng đang có hiệu lực thi hành, theo đó là các văn bản hướng dẫn như:
Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ và
Thông tư số 07/2006/TT-BLĐTBXH ngày 26 tháng 7 năm 2006 của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội. Ngày 28/9/2007, Cục Thương binh liệt sĩ và
Người có công (nay là Cục Người có công) ban hành Công văn số
1058/TBLSNCC về việc hướng dẫn thực hiện chế độ ưu đãi người hoạt
động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học trên cơ sở khoản 4, phần III
Thông tư số 07/2006/TT-BLĐTBXH của Bộ là rà soát tất cả các hồ sơ đã
được giải quyết theo Quyết định số 26, Quyết định số 120 của Thủ tướng
theo các tiêu chí mới của Nghị định 54 và Thông tư số 07. Một số địa
phương đã nghiêm túc thực hiện Công văn này nên đã phải loại bỏ số lượng
rất lớn đối tượng đã được hưởng trợ cấp do bị nhiễm chất độc hóa học, gây
bất bình trong nhân dân, làm xáo trộn những chính sách đã thực hiện từ
240
nhiều năm trước. Chính vì vậy, khi bị cắt chế độ, các đối tượng này đã đồng
loạt gửi đơn khiếu nại đến các cấp từ địa phương đến Trung ương.
Hoặc khiếu nại liên quan đến việc xác định dị dạng, dị tật của con
người họat động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học: Pháp lệnh số
26/2005/PL-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội được ban hành
từ ngày 29 tháng 6 năm 2005, theo đó có quy định con dị dạng, dị tật của
người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học được hưởng chế độ
theo các mức tùy thuộc vào mức độ suy giảm khả năng lao động.
Nguyên nhân là do cơ quan chuyên môn tham mưu cho Bộ ban hành
chính sách mà thiếu kiến thức thực tiễn, không khảo sát thực tế, không tổng
hợp tiếp thu ý kiến phản ánh của các địa phương và tham vấn pháp luật của
cơ quan có thẩm quyền sẽ dẫn đến tình trạng chính sách ban hành không
phù hợp với thực tiễn, gây xáo trộn tình hình chính trị - xã hội ở địa phương,
gây lãng phí lớn cho xã hội vì phải làm đi, làm lại một vấn đề đã có sự ổn
định (rà soát, ban hành quyết định cắt chế độ rồi lại phải ban hành quyết
định phục hồi chế độ). Hơn nữa, hiện nay Nhà nước vẫn chưa có văn bản
hướng dẫn về danh mục các dị dạng, dị tật được xem xét giải quyết chế độ
nên mỗi địa phương thực hiện theo cách hiểu của mình đã dẫn đên tình trạng
đơn thư phản ánh, kiến nghị, khiếu nại về việc một chính sách nhưng mỗi
địa phương thực hiện khác nhau.
2. Về chính sách xã hội khác
2.1. Tình hình đơn, thư về chính sách xã hội trong những năm gần đây
Trong thời gian qua (2009-2011), số đơn thư về bảo hiểm xã hội và
các chính sách xã hội khác mà thanh tra ngành Lao động-Thương binh và
Xã hội phải xử lý là khá lớn, trong đó số đơn thư về lĩnh vực bảo hiểm xã
hội chiếm số lượng lớn trong tổng số đơn thư về chính sách xã hội. Số đơn
thư hỏi, kiến nghị về chính sách là chủ yếu, chiếm 60,9% (2.040/3.350), tiếp
đến là khiếu nại (chiếm 32,6%) và ít nhất là đơn thư tố cáo.
Trong khi đó, năm 2009, số lượng đơn thư đến Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là 7.906 đơn; năm 2010, số lượng đơn thư là 6.268 đơn; năm 2011, số lượng là 5.955 đơn. Toàn bộ số đơn thư (100%) đã được bộ phận “một cửa” phân loại, xử lý chuyển các đơn vị xem xét theo thẩm quyền. Trong đó: Đơn đề nghị về chính sách bảo hiểm xã hội thường chiếm từ 10,28% đến 11% so với tổng số đơn thư hàng năm mà Thanh tra Bộ nhận
241
được. Nội dung chủ yếu đề nghị về chế độ hưu trí (chiếm 54,5%); tiếp đến về việc được hưởng lại chế độ mất sức lao động và kiến nghị chính sách đối với những người đã được giải quyết chế độ theo Quyết định 176/HĐBT đến nay là quá thiệt thòi (chiếm 24,5%).
Khảo sát tại hai tỉnh Bắc Ninh và Ninh Bình, số lượng đơn thư về lĩnh
vực xã hội qua các năm ít. Đơn thư đến các Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội chủ yếu là đơn đề nghị và hỏi chính sách.
Đối với các chính sách xã hội khác là bảo trợ xã hội, bình đẳng giới,
bảo vệ và chăm sóc trẻ em, phòng chống tệ nạn xã hội thì nội dung chủ yếu
tập trung vào chính sách đối với hộ nghèo (chiếm 35,42%) và chế độ đối với
người tàn tật (chiếm 16,7%).
2.2. Những nội dung khiếu nại chủ yếu
2.2.1. Liên quan đến giải quyết chế độ theo Quyết định số 176-HĐBT
ngày 09/10/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (gọi tắt là chế độ 176)
Tại nhiều địa phương, quá trình giải quyết theo chế độ 176 không thực
hiện đúng quy trình, thủ tục; do vậy đến nay vẫn phát sinh nhiều vụ khiếu
nại liên quan đến chế độ 176. Việc giải quyết dứt điểm các vụ khiếu nại về
chế độ 176 gặp khó khăn do thời gian diễn ra đã lâu, công ty cũ không còn
và những cán bộ có trách nhiệm đã nghỉ hưu; những tài liệu, hồ sơ, bằng
chứng không được lưu giữ.
2.2.2. Liên quan đến việc truy thu, truy đóng và cấp sổ bảo hiểm xã hội
Nội dung này thường liên quan đến việc xác nhận thời gian làm việc
để làm cơ sở tính hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên việc truy thu,
truy đóng và cấp sổ bảo hiểm xã hội trong nhiều trường hợp không do lỗi
của người lao động mà do các cơ quan chức năng đã thực hiện không đúng
trách nhiệm của mình hoặc cố tình làm sai, dẫn đến quá trình giải quyết bảo
hiểm xã hội gặp những ý kiến trái chiều, không đi đến sự thống nhất.
2.2.3. Về việc tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội
Quá trình giải quyết đơn thư của các cơ quan chức năng không kịp
thời dẫn đến tình trạng công dân khiếu nại kéo dài, đi từ nội dung khiếu nại
này sang nội dung khiếu nại khác.
242
2.2.4. Về đề nghị truy lĩnh lương hưu và tiền tử tuất
Đối với nội dung vụ việc này, trong nhiều trường hợp, cho đến nay
vẫn không có văn bản pháp luật nào điều chỉnh. Do vậy, việc giải quyết cần
có sự tham gia ý kiến của các cơ quan, đơn vị có liên quan và vận dụng các
chính sách để giải quyết hợp lý hợp tình.
2.2.5. Về mất sức lao động
Các văn bản quy định về hưởng chế độ mất sức lao động có nhiều thay
đổi qua từng giai đoạn khác nhau. Do vậy, các đối tượng hưởng chế độ này
cũng thường xuyên được “lọc” lại. Mỗi lần thay đổi về chính sách tạo ra sự
không ổn định về đối tượng và thường dẫn đến quá trình thắc mắc, khiếu
nại, ngay cả khi việc cắt chế độ mất sức lao động là đúng quy định nhưng do
chưa hiểu biết về chính sách bảo hiểm xã hội nên đã có nhiều trường hợp
khiếu nại không đúng.
2.2.6. Về cách tính tiền lương hưởng chế độ
Về nội dung này, công dân thường khiếu nại cơ quan bảo hiểm xã hội
chưa tính bình quân tiền lương tháng theo 5 năm liền kề trước khi chuyển
ngành và chưa tính hưởng chế độ trợ cấp một lần theo thời gian tăng thêm
do quy đổi.
IV. NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH NHỮNG KHIẾU NẠI VỀ LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
1. Từ cơ chế, chính sách pháp luật
1.1. Quy định của pháp luật về giải quyết đơn thư khiếu nại nói chung
1.1.1. Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, được sửa đổi, bổ sung năm
2004 và năm 2005, bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu
cầu thực tiễn đặt ra, đó là:
- Cơ chế giải quyết khiếu nại chưa đảm bảo đầy đủ tính khách quan,
công khai, dân chủ trong quá trình giải quyết.
- Việc khởi kiện của người dân tại Toà án còn bị hạn chế.
- Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại chưa cụ thể, rõ ràng, thời hạn
giải quyết dài, chưa tạo thuận lợi cho công dân.
- Chưa đề cao vai trò của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội và của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại.
243
- Hiệu lực thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại chưa cao;
thiếu chế tài trong việc thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực
pháp luật.
- Một số văn bản pháp luật chuyên ngành có quy định về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại hoặc văn bản pháp luật có liên quan còn có sự mâu
thuẫn, chồng chéo, chưa tạo được thống nhất trong các quy định về khiếu
nại, giải quyết khiếu nại.
1.1.2. Luật Khiếu nại năm 2011 được ban hành đã khắc phục được
những hạn chế, bất cập nêu trên của Luật Khiếu nại năm 1998 đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2004 và năm 2005. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
Luật Khiếu nại năm 2011 vẫn có một số bất cập sau:
- Một số văn bản pháp luật chuyên ngành có quy định về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại, như Luật Đất đai năm 2003... chưa được sửa đổi, bổ
sung để thống nhất về quy trình giải quyết theo Luật Khiếu nại năm 2011.
- Người dân chưa có thói quen thực hiện quyền khiếu nại bằng con
đường tư pháp;
- Luật Khiếu nại đã bổ sung quy định mới về trường hợp nhiều người
khiếu nại về cùng một nội dung. Theo đó, trong trường hợp nhiều người
khiếu nại về cùng một nội dung thì phải cử đại diện để trình bày khi có yêu
cầu của người giải quyết khiếu nại. Nhưng trong thực tế, người dân vẫn tổ
chức kéo đông người đến các cơ quan với suy nghĩ là gây áp lực và để cơ
quan giải quyết nhanh hơn.
- Cơ chế giải quyết khiếu nại đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn
khép kín, chưa đảm bảo tính khách quan, dân chủ.
- Bên cạnh đó, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại cũng chưa đảm
bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch, chưa tạo ra một cơ chế tranh tụng
bình đẳng trong quá trình giải quyết.
1.2. Quy định của pháp luật về lĩnh vực lao động
1.2.1. Pháp luật về chính sách lao động
Bộ luật Lao động được ban hành vào năm 1994, có hiệu lực từ ngày
01/01/1995 sửa đổi, bổ sung 03 lần vào các năm 2002, 2006 và 2007. Qua
03 lần sửa đổi, bổ sung vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa phù
hợp, chưa thống nhất và chưa thực sự đi vào thực tiễn, như:
244
- Một số quy định của Bộ luật Lao động chưa thể hiện rõ sự bình đẳng
của các bên trong quan hệ lao động, chưa bình đẳng giữa các loại hình
doanh nghiệp.
- Xuất hiện sự chưa đồng bộ giữa các quy định Bộ luật và các văn bản
hướng dẫn; một số văn bản được hướng dẫn chậm nên thiếu đồng bộ; một
số nội dung của văn bản hướng dẫn còn chồng chéo, mâu thuẫn với quy
định của Bộ luật.
- Một số quy định của Bộ luật Lao động không phù hợp với hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật.
1.2.2. Pháp luật về đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài
Hệ thống pháp luật về đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn
ở nước ngoài tuy được chú trọng, phát triển hơn so với những năm trước
nhưng vẫn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ. Do đó việc tổng kết thi hành và đề
xuất sửa đổi bổ sung Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay gắn với chương trình cải
cách thủ tục hành chính và việc thực hiện các cam kết quốc tế về lao động di
cư, đáp ứng cho việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật mới phát sinh, nhằm
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2.3. Pháp luật về dạy nghề
- Luật Dạy nghề quy định nhiều vấn đề mới trong đào tạo nói chung
và dạy nghề nói riêng, trong đó có nhiều nội dung phức tạp cần phải có thời
gian nghiên cứu, thử nghiệm sau đó mới hướng dẫn áp dụng rộng rãi. Tuy
nhiên, khi Luật Dạy nghề có hiệu lực thi hành, đòi hỏi phải có ngay các văn
bản hướng dẫn thực hiện, do đó không thể tránh khỏi những hạn chế nhất
định ở một số văn bản;
- Hầu hết các nội dung cơ bản của Luật Dạy nghề đều có văn bản
hướng dẫn thi hành, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số vấn đề Luật Dạy
nghề chỉ quy định mang tính nguyên tắc chung, cần phải có văn bản hướng
dẫn mới có thể triển khai thực hiện trong thực tiễn.
1.3. Quy định của pháp luật về lĩnh vực xã hội
1.3.1. Về chính sách ưu đãi Người có công
Việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng
là một vấn đề có tính chất lịch sử, những đóng góp của họ cho đất nước đã
245
diễn ra cách đây nhiều thập kỷ và trong điều kiện chiến tranh, vì vậy việc
xác nhận người có công đã gặp không ít khó khăn và không thể trách khỏi
những thiếu sót, thiếu công bằng. Hơn nữa, do hệ thống pháp luật chưa đầy
đủ, đồng bộ và hay thay đổi, thiếu tính ổn định, như:
- Công văn số 548/CS ngày 25/8/2000 của Cục Chính sách thuộc
Tổng cục chính trị, Bộ Quốc phòng “bổ sung việc thực hiện Thông tư liên
tịch số 16/1998” được coi là văn bản quy phạm pháp luật để giải quyết chế
độ chính sách sách cho quân nhân đã phục viên có 2 người làm chứng.
- Việc quy định 2 người làm chứng ở một số Thông tư (Thông tư số
16/1999/TTLT-BLĐTBXH-TWĐTNCSHCM, Thông tư số 27/1999/TT-
BLĐTBXH) và ở Công văn 548/CS này là giải quyết được nhiều trường
hợp thương binh bị mất các giấy tờ gốc, tránh thiệt thòi cho người có công.
Tuy nhiên, những văn bản này lại có hạn chế rất căn bản đó là thiếu chặt
chẽ, dễ bị đối tượng lợi dụng làm hồ sơ giả.
- Công văn số 1058/TBLSNCC ngày 28/9/2007 của Cục Thương binh
liệt sĩ và Người có công (nay là Cục Người có công) hướng dẫn thực hiện
chế độ ưu đãi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học trên
cơ sở khoản 4, phần III Thông tư số 07/2006/TT-BLĐTBXH ngày
27/6/2006 của Bộ là rà soát tất cả các hồ sơ đã được giải quyết theo Quyết
định số 26, Quyết định số 120 của Thủ tướng theo các tiêu chí mới của Nghị
định 54 và Thông tư số 07. Xét về thực tế nếu thực hiện nghiêm Công văn
này thì đối tượng đã được hưởng trợ cấp do bị nhiễm chất độc hóa học phải
loại bỏ với số lượng rất lớn, gây bất bình trong nhân dân, làm xáo trộn
những chính sách đã thực hiện. Vì vậy, nhiều địa phương chưa thực hiện
theo tinh thần hướng dẫn của Công văn này. Sau đó Bộ đã có văn bản số
1932/LĐTBXH-NCC-CS ngày 08/6/2009 khắc phục, nhưng lại thiếu đồng
bộ với các văn bản hiện hành tại thời điểm đó.
Ngoài ra, hệ thống văn bản về ưu đãi người có công với cách mạng
hiện nay cũng nhiều mâu thuẫn, không thống nhất, chưa cụ thể rõ ràng hoặc
không còn phù hợp với thực tế, như:
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chưa có văn bản hướng dẫn
cụ thể về điều kiện xác nhận liệt sỹ quy định tại Điều 3 Nghị định số
54/2006/NĐ-CP ngày 26/5/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng.
246
- Thông tư số 08/2009/TT-BLĐTBXH và Công văn số 1932/LĐTBXH-
NCC-CS không thống nhất về cách thức giải quyết và thời điểm hưởng lại
trợ cấp đối với các trường hợp bị dừng trợ cấp, dẫn đến tình trạng ở các địa
phương thực hiện rà soát khác nhau.
- Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20 tháng 02 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Y tế ban hành Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan
đến phơi nhiễm với chất độc hoá học/dioxin: chưa quy định rõ bệnh, tật nào
thì áp dụng cho cả đối tượng trực tiếp và gián tiếp; bệnh, tật nào áp dụng
cho đối tượng trực tiếp và bệnh, tật, dị dạng, dị tật bẩm sinh (cụ thể) nào áp
dụng cho đối tượng gián tiếp.
- Theo quy định về hồ sơ để giải quyết chính sách việc xác định vùng,
miền theo Thông tư số 07/2006/TT-BLĐTBXH ngày 26/7/2006. Tuy nhiên,
quy định về “các giấy chứng nhận khác”, “giấy tờ khác liên quan đến hoạt
động ở chiến trường” trong Thông tư trên là những giấy tờ nào? là vấn đề
mà các địa phương còn có ý kiến hiểu và vận dụng khác nhau.
1.3.2. Về chính sách xã hội khác
- Pháp luật trong lĩnh vực xã hội có tính lịch sử, thường xuyên thay
đổi, nội dung phức tạp.
- Một số quy định trong các văn bản pháp luật còn bất cập, chưa nhất
quán, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn, thiếu công bằng và tính khả thi.
- Ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm và nhiều lỗ hổng, thậm
chí chồng chéo.
2. Từ tổ chức thực hiện chính sách pháp luật
Bên cạnh việc ban hành các chính sách không phù hợp, chưa rõ ràng
dẫn đến phát sinh những khiếu nại thì khâu tổ chức thực hiện chính sách của
các cơ quan chức năng cũng là nguyên nhân dẫn đến phát sinh khiếu nại.
2.1. Nguyên nhân chủ quan
- Việc tổ chức thực hiện chính sách thiếu nhất quán, sai quy trình,
thiếu thủ tục, không đồng bộ...
- Việc tổ chức thực hiện chính sách chưa đảm bảo tính công khai,
minh bạch.
247
- Việc giám sát thực hiện chính sách pháp luật của các cơ quan chức
năng chưa được thực hiện thường xuyên.
2.2. Nguyên nhân khách quan
Thiếu sự phối hợp trong việc tổ chức thực hiện giữa các cơ quan chức
năng nên khi áp dụng văn bản pháp luật có nhiều vướng mắc, hạn chế. Như
về chính sách bảo hiểm xã hội và người có công được thiết lập hồ sơ từ tài
liệu nhiều ngành chuyển lại nên có khi làm không đúng, không rõ.... Khi có
khiếu nại phải thẩm tra xác minh nhiều (thậm chí có nội dung khiếu nại của
ngành khác nhưng nếu không xác minh không giải quyết được trong tổng thể
nội dung đơn khiếu nại mà vai trò của cơ quan quản lý nhà nước xem xét).
Trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng, khó khăn, nhiều doanh nghiệp bị
thua lỗ nên hạn chế việc thực hiện các chính sách pháp luật có lợi cho người
lao động dẫn đến phát sinh khiếu nại.
3. Từ tổ chức thực hiện khiếu nại, giải quyết khiếu nại
3.1. Người khiếu nại
Nguyên nhân chủ yếu hiện nay dẫn đến số lượng đơn thư khiếu nại
ngày càng gia tăng là do nhận thức của người khiếu nại viết đơn còn hạn
chế, không hiểu hoặc hiểu chưa đúng hoặc chưa đầy đủ về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục giải quyết đơn thư khiếu nại quy định tại các văn bản về pháp luật
khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành, nhưng cũng có trường
hợp công dân có ý thức về pháp luật nhưng cố tình không hiểu, không tuân
thủ vì lợi ích cá nhân.
3.2. Người giải quyết khiếu nại
3.2.1. Các cơ quan được giao giải quyết khiếu nại chưa thực hiện
đúng trách nhiệm
- Có tình trạng còn đùn đẩy trách nhiệm;
- Giải quyết khiếu nại lần đầu của cơ quan cấp dưới không theo đúng
trình tự quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại nên đã làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi hợp pháp của công dân, tổ chức;
- Không tổ chức đối thoại trước khi ban hành quyết định giải quyết.
248
- Nội dung quyết định giải quyết khiếu nại không theo đúng quy định
của pháp luật.
- Nhiều quyết định giải quyết khiếu nại các cơ quan nhà nước
không tuyên truyền về quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án. Do vậy,
đây cũng chính là nguyên nhân làm cho người khiếu nại gửi đơn thư tràn
lan, vượt cấp.
3.2.2. Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình giải
quyết vụ việc
Các vụ khiếu nại, tố cáo này khi giải quyết liên quan đến nhiều cấp,
nhiều ngành, nhiều cơ quan, đơn vị, do người lao động trong quá trình công
tác thuyên chuyển nhiều nơi (khác cơ quan, khác địa bàn), hơn nữa thời
điểm hiện tại cơ quan, đơn vị đó không còn tồn tại, những người có trách
nhiệm đều không còn nên gây khó khăn trong việc xác minh, kết luận và
kiến nghị xử lý.
Những vụ khiếu nại đến thẩm quyền giải quyết, nhưng do yêu cầu cơ
sở cung cấp hồ sơ, nên từ khi nhận đơn, thu thập thông tin, xây dựng
chương trình, kế hoạch đến khi tổ chức thanh tra bị chậm so với quy định.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại về chính sách xã hội phải chú
trọng đến yếu tố “thấu tình đạt lý", tuy nhiên nhiều khi không đạt được sự
đồng thuận của các cơ quan, địa phương có liên quan.
3.2.3. Do đội ngũ cán bộ được giao giải quyết khiếu nại còn ít về
lực lượng và hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ
Với số lượng đơn thư khiếu nại về lao động, người có công và xã hội
lớn, do vậy để giải quyết được nhanh, gọn các vụ khiếu nại này đòi hỏi một
số lượng lớn cán bộ, trong khi Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội thiếu về số lượng và yếu về chất lượng nên chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ.
Một bộ phận cán bộ được giao nhiệm vụ giải quyết khiếu nại còn có
thái độ chưa đúng mực, chưa chú ý lắng nghe người khiếu nại trình bày sự
việc, bên cạnh đó, do chưa được tập huấn, đào tạo chuyên sâu, nên còn lúng
túng, giải quyết sai trước nhiều vấn đề người khiếu nại đặt ra.
Riêng đối với lĩnh vực chính sách lao động còn có thêm nguyên nhân:
249
- Sự tuân thủ pháp luật của người sử dụng lao động còn hạn chế, vi
phạm quyền và lợi ích của người lao động dẫn đến khiếu nại.
- Hoạt động của tổ chức công đoàn còn hạn chế hoặc chưa thành lập
công đoàn cơ sở; cán bộ làm công tác công đoàn cơ sở không chuyên trách
vừa thiếu, vừa yếu, chưa được đào tạo về nghiệp vụ.
V. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG VIỆC HỆ
THỐNG HÓA CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT ĐƠN THƯ KHIẾU NẠI
Từ năm 1999, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ứng dụng
khoa học công nghệ vào công tác quản lý đơn thư; trong đó có phần xử lý
đơn thư khiếu nại. Với số lượng đơn thư đến Bộ trung bình hơn 6000
đơn/năm nên việc ứng dụng khoa học công nghệ là rất cần thiết. Tuy nhiên
việc ứng dụng khoa học công nghệ trong việc xử lý đơn thư, giải quyết
khiếu nại vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Cụ thể:
1. Phạm vi ứng dụng
Hiện tại việc ứng dụng khoa học công nghệ trong việc xử lý đơn thư
giải quyết khiếu nại mới chỉ ứng dụng tại bộ phận một cửa tiếp nhận, xử lý
đơn thư giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội (gọi tắt là bộ phận “một cửa”). Các đơn vị thuộc Bộ
và các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội việc trang bị các thiết bị khoa
học công nghệ còn ít, lạc hậu, vẫn chưa có phần mềm ứng dụng xử lý đơn
thư, giải quyết khiếu nại. Ngay tại bộ phận “một cửa” các trang thiết bị khoa
học ứng dụng công nghệ còn thiếu.
2. Trang thiết bị khoa học công nghệ
Tại bộ phận “một cửa” đã trang bị được 05 máy tính có kết nối
internet và mạng LAN. Tuy nhiên, các máy tính hiện nay đã cũ, lạc hậu (có
máy được trang bị từ năm 2003), cấu hình thấp không đáp ứng được cho
việc xử lý đơn thư giải quyết khiếu nại. Ngoài ra còn bố trí 3 máy in, nhưng
chưa có máy scan phục vụ cho việc scan văn bản kết quả xử lý đơn thư, giải
quyết khiếu nại.
Tại các đơn vị thuộc Bộ và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các
tỉnh, thành phố cũng đã bố trí đủ máy tính kết nối mạng cho các cán bộ làm
công tác xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại.
250
3. Ứng dụng phần mềm xử lý đơn thư
Hiện nay trong Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội nói chung,
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội nói riêng chưa có phần mềm ứng
dụng xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại chung cho các đơn vị trong Bộ
cũng như trong toàn Ngành. Do đó việc quản lý thư đơn, theo dõi kết quả xử
lý hiệu quả còn thấp. Các vụ khiếu nại sau khi được giải quyết không được
thông báo trên trạng mạng điện tử theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG II
KHUYẾN NGHỊ CÁC ĐỊNH HƯỚNG CẦN NGHIÊN CỨU GIẢI QUYẾT
I. VỀ CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
1. Xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh việc khiếu nại, tố cáo cho từng lĩnh vực chuyên môn riêng biệt, cụ thể:
- Thay thế Nghị định số 04/2005/NĐ-CP ngày 11/01/2005 của Chính
phủ Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ
Luật Lao động về khiếu nại, tố cáo về lao động.
- Ban hành mới Nghị định giải quyết khiếu nại về dạy nghề.
- Ban hành mới Nghị định giải quyết khiếu nại về đưa lao động đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
2. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế những quy định hoặc văn
bản pháp luật không còn phù hợp; sớm ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành để các địa phương tổ chức thực hiện kịp thời
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung những văn bản chuyên ngành có quy định
về khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
- Đề nghị sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật (Bộ
luật Lao động sửa đổi, bổ sung) để hướng dẫn thực hiện.
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Dạy nghề, Luật Người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành.
251
- Đề nghị sớm sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật về lĩnh vực
người có công với cách mạng. Các cơ quan được giao tham mưu cần kịp
thời ban hành những văn bản hướng dẫn khi đã có Nghị định, Quyết định
của Chính phủ; đồng thời các văn bản đã ban hành cần phải đồng bộ, lôgic
phù hợp với thực tế và đúng thẩm quyền.
- Đối với lĩnh vực bảo trợ xã hội cần hệ thống hóa lại các văn bản, để
các văn bản không có tình trạng chồng chéo; đẩy nhanh tiến độ ban hành
văn bản hướng dẫn thi hành như văn bản hướng dẫn Luật Người cao tuổi,
Luật Người khuyết tật.
3. Bổ sung các văn bản pháp luật đối với những hành vi chưa
được quy định hoặc quy định không thống nhất.
- Các quy định về điều kiện và mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội;
- Các vấn đề về tai nạn giao thông được coi là tai nạn lao động;
- Có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong lĩnh vực bảo
hiểm xã hội giữa cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan Bảo
hiểm xã hội, cơ quan Thuế;
- Đơn vị sử dụng lao động không nên giữ lại 2% quỹ tiền lương, tiền
công đóng bảo hiểm xã hội của đơn vị để chi trả cho người lao động đủ điều
kiện hưởng chế độ ốm đau, thai sản;
- Nghiên cứu lại cơ quan đầu mối thu bảo hiểm xã hội;
- Tăng mức xử phạt vi phạt hành chính đối với những hành vi trong
lĩnh vực bảo hiểm xã hội, tăng tỷ lệ lãi suất chậm nộp cao bằng hoặc hơn lãi
suất ngân hàng;
- Đưa hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội vào tội danh được quy định
tại Bộ luật Hình sự.
II. VỀ VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
1. Các cơ quan chức năng khi tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật phải đúng quy định, đảm bảo tính thống nhất, tính hệ
thống và rõ ràng
2. Đảm bảo tính công khai và minh bạch
252
3. Có cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật một cách
chặt chẽ
4. Có chế tài xử phạt đối với những cơ quan, tổ chức, cá nhân cố tình
thực hiện trái pháp luật, gây hậu quả đến người dân, cơ quan, tổ chức.
III. VỀ VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
1. Đối với người khiếu nại
- Tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền chính sách,
pháp luật lao động - xã hội để các tổ chức, cá nhân có hiểu biết cơ bản về
nội dung của của từng lĩnh vực này.
- Chú trọng tuyên truyền pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói chung;
pháp luật về khiếu nại, tố cáo chuyên ngành, đặc biệt là việc xác định thẩm
quyền giải quyết, trình tự, thủ tục tiến hành khiếu nại; quyền khiếu nại thông
qua khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án ở bất kỳ giai đoạn nào nào trong
quá trình giải quyết khiếu nại.
- Tăng cường mối quan hệ giữa các đoàn thể với người khiếu nại để
giải thích, vận động, thuyết phục người khiếu nại thực hiện theo nội dung
giải quyết khiếu nại đã được các cơ quan chức năng giải quyết đúng.
- Xử lý đơn vượt cấp cần thực hiện theo quy định, hạn chế chuyển đơn
đến cơ quan giải quyết không đúng thẩm quyền.
2. Người giải quyết khiếu nại
2.1. Tăng cường trách nhiệm, thực hiện đúng quy định của pháp
luật về giải quyết khiếu nại
- Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan được giao giải quyết khiếu
nại.
- Tuân thủ thủ tục, trình tự giải quyết khiếu nại được quy định đối với
từng lĩnh vực.
- Tổ chức tốt đối thoại khi giải quyết khiếu nại theo đúng trình tự, thủ
tục quy định của pháp luật, bảo đảm dân chủ, công khai.
253
2.2. Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan trong quá trình giải quyết khiếu nại
- Để xác minh hồ sơ, thu thập chứng cứ, tài liệu đối với một vụ việc,
đặc biệt khiếu nại về bảo hiểm xã hội, người có công cần có sự tham gia xác
nhận, làm chứng của rất nhiều ngành, nhiều cơ quan, đơn vị.
- Đối tượng khiếu nại về lao động - xã hội thường là những đối tượng
chính sách, hoàn cảnh khó khăn nên quá trình giải quyết các cơ quan cần
chú trọng yếu tố “thấu tình đạt lý”;
- Đặc biệt trong quá trình giải quyết khiếu nại cần có sự thống nhất
cao về quan điểm xử lý của các cơ quan, tổ chức có liên quan.
2.3. Nâng cao chất lượng và số lượng cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại
- Tăng cường bổ sung biên chế và năng lực cho đội ngũ cán bộ, thanh tra
viên được giao giải quyết khiếu nại về lao động – người có công và xã hội;
- Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; coi công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên
của Bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; gắn với công tác phòng, chống
tham nhũng, cải cách hành chính và chỉnh đốn, xây dựng Đảng.
- Tổ chức tốt công tác tiếp công dân, triển khai thực hiện đầy đủ, đúng
tiến độ Đề án Đổi mới công tác tiếp công dân được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 858/QĐ-TTg ngày 14 tháng 6 năm 2010.
2.4. Những vấn đề khác
- Tổ chức thi hành nghiêm túc, triệt để các quyết định giải quyết khiếu
nại đã có hiệu lực pháp luật;
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Thủ trưởng
cơ quan hành chính cấp dưới trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo;
- Xử lý nghiêm những cá nhân, tổ chức đã được các cấp giải quyết
khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật nhưng cố tình gửi đơn thư vượt
cấp nhằm mục đích gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ
quan nhà nước.
254
Từ kết quả hệ thống các nội dung khiếu nại về lao động, người có
công và xã hội, Thanh tra Bộ chủ trì phối hợp với các cơ quan, đơn vị chức
năng (Trung tâm Thông tin, Cục An toàn lao động, Cục Người có công, Cục
Quản lý lao động ngoài nước, Vụ Bảo hiểm xã hội...) xây dựng trình tự, thủ
tục cách thức giải quyết khiếu nại đối với từng nội dung bằng phần mềm và
chuyển giao kết quả để các địa phương thực hiện.
IV. ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG HỆ THỐNG HÓA CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT ĐƠN THƯ KHIẾU NẠI
1. Trang thiết bị khoa học công nghệ
- Mỗi đơn vị được trang bị máy tính chủ có cấu hình đáp ứng được
công tác xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại.
- Thay thế và nâng cấp các máy tính có cấu hình thấp để đảm bảo vận
hành tốt phần mềm xử lý đơn thư khi nối mạng hệ thống.
- Trang bị máy scan để quét văn bản các kết quả xử lý đơn thư, giải
quyết khiếu nại phục vụ cho việc tra cứu kết quả.
- Trang bị máy photo tại bộ phận “một cửa” để sao gửi các kết quả xử
lý, giải quyết.
2. Xây dựng hệ thống phần mềm ứng dụng xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại
Xây dựng được phần mềm triển khai với hệ thống cơ sở dữ liệu cài đặt
tại Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Các cấp khác (các đơn vị thuộc
Bộ, các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội) sẽ sử dụng chung cơ sở dữ
liệu với Bộ, việc trao đổi thông tin được thực hiện thông thông qua trao đổi
tự động trên hệ thống mạng (Cpnet, WAN). Hệ thống cơ sở dữ liệu sẽ đáp
ứng những ưu điểm sau:
- Cơ sở phần mềm sẽ liệt kê được các vấn đề phát sinh khiếu nại, cách
thức giải quyết khiếu nại đối với từng vấn đề đó, giúp cho hệ thống tổ chức
toàn Ngành dễ tra cứu, thực hiện;
- Đơn thư sẽ tập trung về một đầu mối;
- Khắc phục tình trạng đơn thư trùng lắp;
- Quản lý toàn bộ hồ sơ vụ khiếu nại;
255
- Có thể khai thác được các văn bản pháp quy lâu năm nhưng cần thiết
dùng cho việc giải quyết các vụ khiếu nại vì nhiều vụ khiếu nại phải áp dụng
phương án giải quyết tại thời kỳ đó.
- Khắc phục được tình trạng đơn thư đến nhưng không được giải
quyết;
- Đảm bảo tính chính xác của các số liệu báo cáo;
- Hỗ trợ cho việc điều hành trực tuyến.
3. Triển khai hệ thống ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác xử lý đơn thư khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Viện
Khoa học Lao động - Xã hội và Trung tâm Thông tin của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội công bố những nội dung liên quan đến khiếu nại về
lao động - người có công và xã hội, cách thức giải quyết khiếu nại đưa lên
trang mạng của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để đáp ứng việc công
khai minh bạch trong việc giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật
Khiếu nại, giúp cho các địa phương trong công tác giải quyết khiếu nại về
lĩnh vực Ngành quản lý dễ thực hiện.
Các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội khai thác nội dung, ứng
dụng phần mềm xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại tại trang mạng của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội để sử dụng, thống nhất cách thức, thuận
lợi trong công tác báo cáo.
4. Điều kiện và lộ trình ứng dụng tin học trong công tác xử lý đơn thư khiếu nại và giải quyết khiếu nại
- Để việc ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác xử lý đơn thư
và giải quyết khiếu nại đạt hiệu quả cần phải đảm bảo các điều kiện sau:
+ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành văn bản quy định về
việc triển khai, hướng dẫn sử dụng phần mềm xử lý đơn thư khiếu nại và giải
quyết khiếu nại ở cơ quan Bộ và các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
+ Các cán bộ làm công tác xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại cần học
tập, trau dồi kỹ năng sử dụng và làm chủ công nghệ thông tin để đáp ứng
yêu cầu công việc và tiếp nhận thông tin qua các hình thức mới.
256
+ Đảm bảo nguồn kinh phí cho hoạt động ứng dụng khoa học công
nghệ trong công tác này trong quá trình xây dựng và triển khai, áp dụng tại
Bộ và các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
- Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác xử lý đơn thư
khiếu nại, giải quyết khiếu nại được thực hiện theo lộ trình như sau:
+ Giai đoạn 2013-1015: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây
dựng và hoàn thiện đưa vào ứng dụng tại Bộ về phần mềm xử lý đơn thư
khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
+ Giai đoạn 2015-2017: Triển khai ứng dụng phần mềm xử lý đơn thư
khiếu nại và giải quyết khiếu nại tại các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
KẾT LUẬN 1. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại là một nội dung xảy ra ở bất kỳ
hình thái kinh tế - xã hội nào. Giải quyết khiếu nại là nhiệm vụ quan trọng
trong hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, góp phần ổn
định và đảm bảo công bằng trong xã hội. Trên cơ sở giải quyết đơn thư
khiếu nại sẽ giúp cho việc sửa đổi, ban hành các văn bản, chính sách sao cho
phù hợp với thực tiễn.
2. Số lượng đơn thư khiếu nại trong lĩnh vực lao động, người có công
và xã hội ở nước ta hiện nay chỉ đứng thứ hai sau Ngành Tài nguyên - Môi
trường, đòi hỏi những người làm công tác giải quyết khiếu nại trong Ngành
Lao động - Thương binh và Xã hội cũng như các cấp có thẩm quyền ngoài
việc phải hiểu biết về quy định của pháp luật về khiếu nại, giải quyết khiếu
nại đối với mỗi lĩnh vực (về thẩm quyền giải quyết, trình tự thủ tục, cách
thức giải quyết…) còn cần nắm vững các văn bản chính sách của từng thời
kỳ (thời kỳ nào áp dụng văn bản thời kỳ đó) trên cơ sở thực tiễn để xem xét
giải quyết thấu tình đạt lý.
3. Qua nghiên cứu, đề tài đã thống kê được 56 vấn đề thường xảy ra
khiếu nại, trong đó có: 06 vấn đề thuộc lĩnh vực chính sách lao động; 23 vấn
đề thuộc lĩnh vực dạy nghề; 08 vấn đề thuộc lĩnh vực đưa lao động Việt
Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; 10 vấn đề thuộc lĩnh vực người
257
có công; 06 vấn đề thuộc lĩnh vực bảo hiểm xã hội và 03 vấn đề thuộc lĩnh
vực xã hội khác.
4. Đề tài đã khẳng định: Các nội dung khiếu nại về lĩnh vực người có
công, bình đẳng giới được giải quyết theo trình tự giải quyết của Luật Khiếu
nại; các nội dung khiếu nại về lĩnh vực chính sách lao động đã được giải
quyết theo trình tự giải quyết khiếu nại quy định tại Nghị định 04/2005/NĐ-
CP ngày 11/01/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Bộ Luật Lao động về khiếu nại, tố cáo về lao động; các nội
dung khiếu nại về lĩnh vực bảo hiểm xã hội đã được giải quyết theo trình tự
giải quyết khiếu nại quy định tại Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày
22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội
về bảo hiểm xã hội bắt buộc; các lĩnh vực còn lại (dạy nghề, đưa lao động
Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, phòng chống tệ nạn xã hội)
chưa có quy định về trình tự, thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhưng lại
không thể áp dụng Luật Khiếu nại vì các quyết định đó không phải là quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước,
người có thẩm quyền thuộc cơ quan hành chính nhà nước.
5. Qua nghiên cứu, phân tích, đề tài đã đưa ra 17 nhóm nguyên nhân
phát sinh các khiếu nại về lao động, người có công và xã hội, trong đó 10
nhóm nguyên nhân là do cơ chế chính sách; 2 nhóm nguyên nhân do cách
thức tổ chức thực hiện chính sách pháp luật; 5 nhóm nguyên nhân do tổ
chức thực hiện giải quyết khiếu nại.
6. Trên cơ sở các nhóm nguyên nhân phát sinh khiếu nại đề tài đã
khuyến nghị:
Một là, cần xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định còn thiếu
trong giải quyết khiếu nại về lao động, người có công và xã hội. Rút kinh
nghiệm trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn chính sách không rõ
ràng hợp lý là nguyên nhân gây ra các khiếu nại kéo dài.
Hai là, các cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại phải phân định rõ
về thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại về nội dung lao động - xã
hội trên cơ sở phân tích nội dung đơn và tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo về
nghiệp vụ xử lý đơn thư giải quyết khiếu nại giúp cho việc giải quyết khiếu
nại theo đúng pháp luật đảm bảo thống nhất ý kiến từ địa phương đến trung
ương.
258
Ba là, việc xây dựng các tiêu chí cụ thể để xây dựng phần mềm tin
học xử lý đơn thư giải quyết khiếu nại ứng dụng cho việc quản lý thống nhất
từ trung ương đến địa phương. Trên trạng mạng của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội (http://www.molisa.gov.vn) phải xây dựng cơ sở dữ liệu,
phần mềm xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại. Phần mềm này sẽ liệt kê tất
cả các vấn đề phát sinh khiếu nại, cách thức, trình tự xử lý đối với từng vấn
đề đố để mọi tổ chức, cá nhân có thể dễ dàng áp dụng.
Bốn là, để giải quyết tốt các khiếu nại phát sinh từ cơ sở giảm tải việc
khiếu nại vượt cấp, kéo dài, góp phần ổn định trật tự xã hội thì xây dựng
việc chương trình tuyên truyền hệ thống pháp luật về lĩnh vực quản lý của
Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và những quy định về việc giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực này.
Làm tốt các khuyến nghị trên, chắc chắn việc giải quyết khiếu nại về
lao động, người có công và xã hội ở nước ta sẽ được thực hiện thông suốt từ
Trung ương đến địa phương, góp phần xây dựng một xã hội Việt Nam hòa
bình, ổn định, dân chủ và phát triển.
259
CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP
TRONG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGUỒN LAO ĐỘNG
MÃ SỐ: CT2011-01-04
Cơ quan chủ trì đề tài: Vụ Lao động - Tiền lương
Chủ nhiệm đề tài: CN. Lê Xuân Thành
Thư ký: ThS. Tống Văn Lai
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG
VÀ THU NHẬP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA NGUỒN LAO ĐỘNG
I. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Khái niệm về nguồn lao động (NLĐ)
- Có thể hiểu nguồn nhân lực (NNL) là tổng thể những tiềm năng của
con người (trước hết và cơ bản nhất là tiềm năng lao động) của một quốc gia
(một vùng lãnh thổ) có trong một thời điểm nhất định (có thể tính cho 1
năm, 5 năm, 10 năm) phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển.
- Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động thực tế có
tham gia lao động (đang có việc làm) và những người chưa có việc làm (thất
nghiệp) nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động về mặt số
lượng là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động
và đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm việc làm. Còn về mặt chất
lượng, NLĐ là khả năng tham gia lao động một cách hiệu quả, là tổng hòa
năng lực xã hội (độ tuổi, thể lực; trí lực, nhất là trình độ học vấn, trình độ và
kỹ năng nghề nghiệp, thâm niên; tâm lực) và tính năng động xã hội của
người lao động (khả năng thích ứng, vốn xã hội, truyền thống gia đình, văn
hóa, cơ chế, chính sách...). Như vậy, NLĐ có phạm vi hẹp hơn NNL.
260
2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh nguồn lao động
Cạnh tranh NLĐ là sự chiếm thị phần NLĐ trên thị trường, trước hết
là thị trường lao động, để người lao động có việc làm tốt hơn và người sử
dụng lao động có NLĐ đủ về số lượng và với chất lượng cao hơn, đáp ứng
yêu cầu của sản xuất, kinh doanh.
Năng lực canh tranh NLĐ của một cá nhân, của quốc gia, địa phương,
ngành hoặc của doanh nghiệp (gọi chung là chủ thể) là sự thể hiện thực lực
(sức mạnh) và lợi thế so sánh về NLĐ của chủ thể so với thực lực và lợi thế
NLĐ của đối thủ cạnh tranh trên thị trường, nhất là thị trường lao động.
II. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGUỒN LAO ĐỘNG
1. Nhóm yếu tố từ phía người lao động
- Các yếu tố phản ánh phẩm chất về sức khỏe thể lực, thần kinh tâm lý
của người lao động.
- Các yếu tố phản ánh phẩm chất về trình độ học vấn (dân trí) của
người LĐ.
- Các yếu tố phản ánh phẩm chất về năng lực chuyên môn kỹ thuật,
nhất là về kỹ năng nghề nghiệp, của người lao động.
- Các yếu tố phản ánh phẩm chất về văn hoá nghề nghiệp của người
lao động.
- Các yếu tố phản ánh phẩm chất về năng lực thích ứng và năng động
của người lao động
2. Nhóm yếu tố từ phía người sử dụng lao động
- Đào tạo NLĐ đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tiếp cận công nghệ mới
- Chính sách tiền lương cạnh tranh, linh hoạt và gắn với năng suất lao
động của doanh nghiệp
- Yếu tố văn hóa an toàn trong doanh nghiệp
- Các Nhóm yếu tố thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
- Các yếu tố đảm bảo an sinh xã hội cho mọi người lao động trong
doanh nghiệp.
261
3. Nhóm yếu tố từ phía chính sách của nhà nước
- Thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng tạo khuôn khổ pháp lý tác động đến phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh NLĐ phù hợp với kinh tế thị trường và nền kinh tế.
- Xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nâng cao năng lực đào tạo và dạy nghề, chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn, cho bộ đội xuất ngũ, cho xuất khẩu lao động, cho người khuyết tật... nhằm nâng cao chất lượng NLĐ theo các phẩm chất đảm bảo khả năng cạnh tranh của NLĐ.
- Quản lý các cơ sở sự nghiệp cung cấp dịch vụ lĩnh vực đào tạo, dạy nghề.
- Nhóm yếu tố theo dõi, phân tích, nắm bắt sự biến động của thị trường lao động và sự đáp ứng nhu cầu của thị trường về lao động .
- Hỗ trợ phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của NLĐ. Sự tác động và hỗ trợ của Nhà nước, đặc biệt là sự hỗ trợ của Nhà nước hướng vào các điều kiện và môi trường thuận lợi để đào tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh của NLĐ là rất quan trọng, như là giá đỡ trong kinh tế thị trường.
- Các yếu tố về thanh tra, kiểm tra thực hiện chính sách, luật pháp đào tạo, dạy nghề để nâng cao năng lực cạnh tranh của NLĐ. Trong đó, thiết lập hệ thống thanh tra Nhà nước; tăng cường kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội.
4. Nhóm yếu tố từ môi trường quan hệ lao động
Trong kinh tế thị trường môi trường quan hệ lao động lành mạnh liên quan chặt chẽ và tác động mạnh đến năng lực cạnh tranh của NLĐ.
III. VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGUỒN LAO ĐỘNG
Trong kinh tế thị trường, tiền lương, thu nhập (giá cả sức lao động) là một trong những yếu tố, cấu phần quan trọng và không tách rời của thị trường lao động, có vai trò to lớn tạo động lực đối với cả người lao động và người sử dụng lao động trong việc thúc đẩy phát triển năng lực cạnh tranh của NLĐ thông qua những chức năng vốn có của nó. Theo lý thuyết kinh tế thị trường, tiền lương, thu nhập có các chức năng cơ bản sau: Tiền lương là thước đo giá trị của lao động; duy trì và tái sản xuất sức lao động; kích thích lao động; thúc đẩy chuyển dịch và phân bố nguồn nhân lực hợp lý; kích thích phát triển nguồn nhân lực; chức năng xã hội của tiền lương.
262
Nhận rõ vai trò, chức năng của tiền lương, trên cơ sở đó để xây dựng
và hoạch định chính sách tiền lương phù hợp nhằm phát huy tốt vai trò của
tiền lương trong kinh tế thị trường.
IV. CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
VÀ CÁC YẾU TỐ NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGUỒN LAO ĐỘNG
Chính sách tiền lương là một trong những nội dung quan trọng của thể chế kinh tế thị trường, đồng thời cũng góp phần quan trọng phát triển năng lực cạnh tranh NLĐ do bản chất lợi ích, vai trò đòn bẩy, kích thích và tạo động lực của nó. Hoàn thiện chính sách tiền lương sẽ góp phần to lớn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta và phát triển năng lực cạnh tranh của NLĐ. Tiền lương trả cho người lao động phải tương xứng với sự đóng góp của lao động phụ thuộc vào năng suất lao động của từng cá nhân (hay thành tích của từng cá nhân). Đây là vấn đề có tính chất nguyên tắc, là chuẩn mực cao nhất của chính sách tiền lương trong khu vực thị trường (doanh nghiệp).
Trong chính sách tiền lương khu vực thị trường, Nhà nước không can thiệp trực tiếp mà thông qua hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý để các bên thỏa thuận về tiền lương.
Các yếu tố của chính sách tiền lương: Tiền lương tối thiểu; Quan hệ
tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa; Cơ chế tiền lương...
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP
TRONG VIỆC KÍCH THÍCH, NÂNG CAO VÀ PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGUỒN LAO ĐỘNG
I. VỀ CHÍNH SÁCH VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Về tiền lương tối thiểu
Theo quy định của Bộ luật Lao động 1994 có 3 loại tiền lương tối
thiểu: Mức lương tối thiểu chung và vùng do Chính phủ quy định, (mức
lương tối thiểu ngành áp dụng thí điểm theo thỏa thuận ngành đối với dệt
may, cao su).
263
+ Mức lương tối thiểu chung làm cơ sở để: Tính các mức lương trong
thang bảng lương để trả cho cán bộ, công chức, người lao động hưởng lương
từ ngân sách nhà nước; Tính các mức lương trong thang bảng lương làm cơ
sở đóng, hưởng các chế độ BHXH, BHTN, BHYT; Tính mức trợ cấp đối
với NLĐ dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra được dùng
làm căn cứ điều chỉnh lương hưu, trợ cấp ưu đãi người có công, các chế độ
trợ cấp xã hội khác (khoảng trên 20 chế độ).
+ Mức lương tối thiểu vùng chỉ áp dụng đối với khu vực doanh
nghiệp, được dùng làm cơ sở: Là mức lương thấp nhất làm cơ sở để DN và
NLĐ thỏa thuận tiền lương trả cho NLĐ. Là căn cứ để tính các mức lương
trong thang lương, bảng lương, phụ cấp lương, tính các mức lương ghi trong
HĐLĐ và các chế độ khác đối với NLĐ.
- Phương pháp xác định mức lương tối thiểu từ năm 1993 đến nay được
dựa trên 4 phương pháp: Dựa vào nhu cầu tối thiểu của người lao động; dựa
vào điều tra tiền lương trên thị trường; dựa trên khả năng của nền kinh tế
(GDP) và quỹ tiêu dùng cá nhân dân cư; theo tốc độ trượt giá sinh hoạt so với
kỳ gốc của mức lương tối thiểu. Trong 4 phương pháp thì phương pháp xác
định từ nhu cầu tối thiểu cho kết quả cao nhất; phương pháp từ trượt giá sinh
hoạt cho kết quả thấp nhất. Do khả năng ngân sách, qua các lần điều chỉnh
Chính phủ thường chọn kết quả xác định theo tốc độ trượt giá sinh hoạt và có
tính một phần cải thiện theo mức tăng trưởng kinh tế để thực hiện.
Nhìn chung mức lương tối thiệu được điều chỉnh tăng dần, phù hợp
với khả năng chi trả của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp dân doanh có
quy mô nhỏ và vừa, góp phần ổn định quan hệ lao động trong doanh nghiệp;
Thực hiện thống nhất, không phân biệt mức lương tối thiểu giữa các loại
hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, mức lương tối thiểu còn thấp, chưa bảo đảm
nhu cầu tối thiểu của người lao động (Theo tính toán, mức lương tối thiểu
hiện nay mới đạt từ 58,1% đến 63,5% nhu cầu tối thiểu của người lao động),
trong điều kiện năng lực thỏa thuận còn bất cập, sức ép việc làm lớn, nhiều
doanh nghiệp vẫn bám vào mức lương tối thiểu để trả lương, làm cho đời
sống của người lao động khó khăn; Chưa quy định mức lương tối thiểu theo
giờ đối với các công việc không trọn thời gian, dẫn đến thiệt thòi cho số lao
động làm việc bán thời gian đang chiếm tỷ lệ khá lớn.
264
2. Về thang lương, bảng lương
2.1. Đối với doanh nghiệp nhà nước
Dựa trên quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa (1 - 2,34 - 9,1),
Chính phủ quy định 2 thang lương và 18 bảng lương theo chức danh nghề,
công việc đối với người lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh, chuyên
môn, nghiệp vụ; 2 bảng lương chức vụ theo 6 hạng gắn với quy mô về vốn,
lao động, đầu mối quản lý và hiệu quả kinh doanh đối với viên chức quản lý
doanh nghiệp. Doanh nghiệp căn cứ vào nghề, công việc, chức vụ để xếp
lương làm cơ sở đóng hưởng hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và thực hiện chế độ
khác đối với người lao động và các viên chức quản lý theo quy định của
pháp luật. Hình thành được hệ thống thang lương, bảng lương tương đối
đồng bộ để doanh nghiệp xếp lương, trả lương, bảo đảm sự thống nhất
tương đối giữa các nhóm chức danh nghề, công việc trong doanh nghiệp và
giữa các doanh nghiệp. Nhược điểm là tiền lương được khuyến khích theo
thâm niên, không đảm bảo nguyên tắc bằng lương, bằng việc, không kích
thích nâng cao năng lực công tác, chất lượng công việc.
2.2. Đối với doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp FDI
Chính phủ quy định các nguyên tắc chung để doanh nghiệp tự xây
dựng thang lương, bảng lương, bao gồm: Thang lương, bảng lương được
xây dựng theo chức danh, vị trí công việc; Số bậc của thang lương, bảng
lương; Khoảng cách của bậc lương liền kề; Mức lương bậc 1; Mức lương
thấp nhất; Mức lương của nghề, công việc độc hại, nguy hiểm; Khi xây
dựng phải tham khảo ý kiến của Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc BCH
công đoàn lâm thời và công bố công khai trong doanh nghiệp.
Căn cứ các nguyên tắc do Chính phủ quy định, doanh nghiệp tự xây
dựng thang lương, bảng lương phù hợp với điều kiện cụ thể và đăng ký với
cơ quan quản lý lao động địa phương trước khi áp dụng trong doanh nghiệp.
Các nguyên tắc xây dựng thang bảng lương do Nhà nước quy định trong
thời gian đầu đã góp phần bảo đảm tốt hơn quyền lợi cho người lao động;
doanh nghiệp tự chủ xây dựng thang bảng lương theo vị trí công việc, bảo
đảm sự linh hoạt phù hợp với tổ chức lao động của doanh nghiệp.
Thực tế các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp FDI đã bước
đầu quan tâm đến việc xây dựng thang, bảng lương và đăng ký với cơ quan
265
lao động theo quy định. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều doanh nghiệp không xây
dựng và đăng ký hoặc xây dựng mang tính đối phó với cơ quan quản lý nhà
nước về lao động và tìm cách giảm tiền đóng BHXH, trợ cấp cho người lao
động (có trường hợp tiền lương chỉ chiếm 40-50% thu nhập), gây thiệt hại
cho Nhà nước, thiệt thòi cho người lao động nhất là khi nghỉ hưu hưởng
mức lương thấp.
3. Về phân phối trả công lao động
3.1. Trong doanh nghiệp Nhà nước
a) Đối với người lao động
Tiền lương thực tế được hưởng theo đơn giá tiền lương do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền thẩm định/phê duyệt căn cứ vào các điều kiện
quy định gắn với năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh và
không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định.
Tiền lương của người lao động đã bước đầu gắn với năng suất lao động,
hiệu quả kinh doanh, đời sống được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, chính sách tiền lương trong các doanh nghiệp nhà nước
hiện nay có một số bất cập:
- Tiền lương chưa xác định trên cơ sở các vị trí công việc theo nguyên
tắc thị trường (vẫn xác định theo thang bảng lương do Nhà nước ban hành);
Chưa thực sự gắn với năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh (do các chỉ
tiêu sản xuất kinh doanh đều do doanh nghiệp xác định), một số doanh
nghiệp được hưởng tiền lương rất cao (gấp 2-3 lần so với mặt bằng chung),
nhưng không hẳn do năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh tạo ra
mà do lợi thế, tạo chênh lệch lớn về tiền lương giữa các doanh nghiệp nhà
nước.
- Các doanh nghiệp chủ yếu lựa chọn xây dựng đơn giá tiền lương
theo doanh thu hoặc tổng thu trừ tổng chi phí chưa có lương hoặc theo sản
phẩm; chưa có doanh nghiệp xây dựng đơn giá theo giá trị gia tăng, do vậy
năng suất lao động cũng được tính theo chỉ tiêu tính đơn giá tiền lương bị
ảnh hưởng lớn bởi yếu tố giá cả, tính trùng đã không phản ánh đúng năng
suất lao động thực của người lao động tạo ra.
266
- Có tình trạng doanh nghiệp tìm cách đẩy tiền lương tăng thông qua
việc đẩy định mức lao động, hệ số cấp bậc công việc, hạ chỉ tiêu sản xuất
kinh doanh kế hoạch thấp hơn khả năng thực tế.
- Quản trị doanh nghiệp về lao động kết quả còn rất hạn chế, tổ chức
sắp xếp lao động chưa khoa học, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, tuyển
dụng lao động dư thừa dẫn đến dôi dư Nhà nước phải giải quyết, trả lương
bình quân, chưa theo kết quả công việc, chưa khuyến khích lao động giỏi.
- Việc quản lý, giám sát của chủ sở hữu còn lúng túng, kém hiệu quả.
Một số cơ quan chủ sở hữu chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm (chủ yếu
kiểm soát ở kế hoạch, còn thực hiện để doanh nghiệp tự xác định), thanh tra,
kiểm tra của cơ quan quản lý Nhà nước chưa thường xuyên, dẫn đến một số
doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định của Nhà nước, nhưng không
được phát hiện, xử lý kịp thời.
Về phân phối tiền lương: Các doanh nghiệp đều xây dựng quy chế
phân phối tiền lương bảo đảm các quy định của Chính phủ để trả lương cho
người lao động. Tuy nhiên, nhiều đơn vị phân phối vẫn mang tính bình
quân, cụ thể:
- Đa số doanh nghiệp vẫn phân phối dựa chủ yếu vào thâm niên theo
hệ số lương của thang, bảng lương do Nhà nước quy định có tính một phần
theo hiệu quả công việc (độ giãn cách tiền lương giữa người có tiền lương
cao nhất và thấp nhất chỉ 4 - 5 lần); một số doanh nghiệp dựa một phần nhỏ
theo thang, bảng lương do Nhà nước quy định, còn lại theo hiệu quả công
việc thì độ giãn cách khoảng 6 – 7 lần; một số ít doanh nghiệp phân phối
hoàn toàn theo vị trí, hiệu quả công việc (thang, bảng lương do Nhà nước
quy định chỉ dùng để tính bảo hiểm xã hội) thì mức độ giãn cách tiền lương
từ 10 - 12 lần.
- Theo quy định, Nhà nước cho phép và khuyến khích doanh nghiệp
trả lương cao đối với người có tài năng, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật
cao (không hạn chế tối đa), tuy nhiên trên thực tế doanh nghiệp chưa thực
hiện tốt (theo kết quả điều tra tiền lương, thu nhập hàng năm cho thấy,
doanh nghiệp nhà nước trả lương cho lao động có trình độ chuyên môn thấp
cao hơn khoảng 15 - 25%, nhưng trả cho lao động có trình độ chuyên môn,
kỹ thuật cao, quản lý giỏi chỉ bằng 45 - 50% so với doanh nghiệp FDI).
267
b) Đối với viên chức quản lý
Quỹ tiền lương của viên chức quản lý được xác định theo năm trên cơ
sở nền tiền lương của người lao động, theo nguyên tắc tốc độ tăng tiền
lương của viên chức quản lý không cao hơn tốc độ tăng tiền lương của
người lao động.
Qũy tiền thưởng được xác định theo nhiệm kỳ (nhiệm kỳ của chủ tịch
HĐQT/HĐTV) gắn với hiệu quả kinh doanh.
Cơ chế quản lý tiền lương được xác định phù hợp với từng loại hình
doanh nghiệp, trong đó Nhà nước quy định các tiêu chí, điều kiện về nộp
ngân sách, năng suất lao động, lợi nhuận và giao quyền chủ động cho doanh
nghiệp trong việc xác định tiền lương và trả lương cho người lao động gắn
với năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc; tách riêng quỹ lương của
thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc với quỹ lương của
người lao động.
Căn cứ vào quy định của Nhà nước, doanh nghiệp đã chủ động triển
khai thực hiện. Tiền lương, tiền thưởng của viên chức quản lý bước đầu gắn
với hiệu quả, kết quả điều hành doanh nghiệp, từng bước tiếp cận dần với
tiền lương của các chức danh quản lý trên thị trường. Theo số liệu tổng hợp,
tiền lương bình quân của viên chức quản lý năm 2011 khoảng 25-30 triệu
đồng/tháng. Riêng 32 công ty mẹ trong Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty
91/TTg, tiền lương bình quân khoảng 40 triệu đồng/tháng, một số công ty có
lợi thế hưởng mức lương 60-70 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, trên thực tế còn
tồn tại nhiều hạn chế:
- Tiền lương, tiền thưởng chưa thực sự gắn với hiệu quả sử dụng vốn.
Kết quả đánh giá về quản lý, điều hành còn có sự chênh lệch lớn tiền lương,
tiền thưởng giữa công ty có lợi thế (hưởng mức lương 60-70 triệu
đồng/tháng) và công ty không có lợi thế (hưởng bằng lương chế độ 5-9 triệu
đồng/tháng), giữa viên chức quản lý doanh nghiệp với khu vực hành chính,
giữa viên chức quản lý và người lao động trong công ty.
- Một số doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định, trích một phần
quỹ tiền lương của người lao động để bổ sung vào quỹ tiền lương của viên
chức quản lý, hoặc gộp vào quỹ tiền lương của người lao động để phân phối,
trong khi việc kiểm tra, kiểm soát của chủ sở hữu chưa đầy đủ, thường
268
xuyên (chủ sở hữu mới phê duyệt quỹ lương kế hoạch, còn quỹ lương thực
hiện để doanh nghiệp tự xác định) dẫn đến tiền lương thực tế của viên chức
quản lý cao hơn mức kế hoạch được chủ sở hữu phê duyệt.
3.2. Đối với doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp FDI
Căn cứ vào mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, mức tiền
lương của các doanh nghiệp trên thị trường, doanh nghiệp xác định nhu cầu
lao động theo từng vị trí, chức danh công việc, xây dựng các mức lương
trong thang lương, bảng lương làm cơ sở để thương lượng, thỏa thuận với
người lao động. Doanh nghiệp quyết định tiền lương trả cho người lao động
trên cơ sở hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể gắn với năng suất
và kết quả lao động của người lao động.
Cơ chế quản lý tiền lương do Nhà nước quy định theo cơ chế thị
trường, bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp trong xác định tiền lương
và trả lương cho người lao động theo nguyên tắc thỏa thuận; doanh nghiệp
thực hiện tốt quản trị, sử dụng lao động hiệu quả, năng suất lao động cao,
xác định tiền lương và trả lương theo vị trí, chức danh công việc gắn với
năng suất, hiệu quả công việc và việc thực hiện nội quy, kỷ luật lao động;
trả lương tương xứng với chất lượng lao động đã khuyến khích và thu hút
được người giỏi, người tài.
Trong cơ chế tiền lương bước đầu đã có sự thỏa thuận, thương lượng
giữa người lao động và doanh nghiệp về công việc và tiền lương theo
nguyên tắc thị trường. Tuy nhiên, việc thỏa thuận vẫn chủ yếu đối với lao
động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, còn những lao động khác thì
tiền lương chủ yếu do doanh nghiệp ấn định, người lao động thường chấp
nhận mức lương thấp. Theo kết quả điều tra hàng năm của Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội cho thấy, tiền lương bình quân của người lao động
trong các doanh nghiệp luôn ổn định và tăng lên.
Tính riêng theo loại lao động thì các doanh nghiệp thường trả lương
cho lao động trực tiếp sản xuất rất thấp (bằng khoảng 60 - 70% mức bình
quân chung); trả lương cho lao động chuyên môn, nghiệp vụ bằng 2 - 3 lần
so với lao động trực tiếp sản xuất. Đối với viên chức quản lý, tiền lương
được trả rất khác nhau tùy theo quy mô doanh nghiệp, chức danh đảm nhận,
trong đó tiền lương của viên chức quản lý thường cao hơn 20 - 30 lần so với
269
mức tiền lương thấp nhất trong doanh nghiệp, một số trường hợp cao gấp 60
- 70 lần.
Trong bối cảnh sức ép việc làm còn lớn, năng lực thương lượng, thỏa
thuận tiền lương của người lao động, Ban chấp hành công đoàn trong doanh
nghiệp hạn chế, dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp (nhất là ở doanh
nghiệp thuộc ngành dệt may, giày da, lắp ráp điện tử...) ép tiền lương của
người lao động sát với mức lương tối thiểu hoặc cao hơn không đáng kể so
với mức lương tối thiểu hoặc dùng mức lương tối thiểu để trả cho lao động
có trình độ, kỹ thuật, cộng thêm mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định
còn thấp, chi phí sinh hoạt tăng, đời sống của người lao động khó khăn.
4. Quan hệ tiền lương giữa các vị trí, chức danh công việc gắn với trình độ và cấp độ đào tạo thuộc một số lĩnh vực trong các doanh nghiệp
Theo kết quả điều tra 1.700 doanh nghiệp về tình hình thực hiện một
số nội dung của Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội và lao động, tiền
lương trong các loại hình doanh nghiệp năm 2011 cho thấy, việc trả lương
cho người lao động khác nhau theo trình độ đào tạo và loại hình doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước:
Tiền lương được trả theo các cấp độ đào tạo (cấp độ đào tạo cao hơn
thì được trả lương cao hơn): chưa qua đào tạo, sơ cấp và trung cấp, cao
đẳng, đại học.
Doanh nghiệp nhà nước trả lương thấp nhất cho lao động có trình độ
chuyên môn thấp, lao động giản đơn cao hơn so với doanh nghiệp FDI
khoảng 10%, cao hơn doanh nghiệp dân doanh khoảng 20%, nhưng trả
lương cao nhất cho lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, quản lý
giỏi chỉ bằng 43,7% so với doanh nghiệp FDI.
Tiền lương, thu nhập bình quân có sự chênh lệch khá lớn giữa các
nhóm nghề, công việc, cụ thể: Viên chức quản lý có tiền lương, thu nhập
cao nhất tiếp theo là Viên chức chuyên môn nghiệp vụ, Công nhân trực tiếp
sản xuất kinh doanh, cuối cùng là nhóm nhân viên thừa hành, phục vụ.Trong
cùng nhóm nghề, công việc tiền lương thu nhập bình quân cũng có sự khác
biệt, trong nhóm viên chức quản lý thì hoạt động trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm có mức cao nhất là 13,22 triệu đồng/tháng năm 2010
270
và 15,978 triệu đồng/tháng năm 2011, ngành thủy sản có mức lương thu
nhập thấp nhất (6,358 triệu đồng/tháng năm 2010; 6,790 triệu đồng/tháng
năm 2011). Công nhân trực tiếp sản xuất kinh doanh thì có mức lương
tương đương nhau bình quân khoảng gần 3 triệu/người riêng công nhân mỏ,
hầm lò rất cao gấp khoảng 3 lần mức chung (8,608 triệu đồng/người năm
2010 và 10,065 triệu đồng/người/tháng năm 2011) do tính chất đặc thù của
ngành.
II. ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH TIẾN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGUỒN LAO ĐỘNG
1. Những mặt được
1.1. Đối với doanh nghiệp Nhà nước
Chính sách tiền lương, thu nhập được gắn với năng suất lao động và
hiệu quả sản xuất, kinh doanh, từng bước đổi mới theo nguyên tắc thị trường
và hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp trong xác định
tiền lương và trả lương cho người lao động, được thể hiện ở một số nội dung
cụ thể như sau:
- Trong điều kiện mức lương tối thiểu còn thấp, Chính phủ cho phép
các doanh nghiệp áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm để tính đơn giá tiền
lương, tạo điều kiện để doanh nghiệp trả lương cho người lao động phù hợp
với giá tiền công trên thị trường;
- Hình thành được hệ thống thang lương, bảng lương tương đối đồng
bộ trong mối tương quan với khu vực hành chính sự nghiệp của nhà nước,
phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý doanh
nghiệp nhà nước theo xu hướng thị trường;
- Cơ chế quản lý tiền lương được thực hiện trên cơ sở giao quyền chủ
động cho doanh nghiệp trong việc xác định tiền lương và trả lương cho
người lao động gắn với năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc của mỗi
người, nhà nước quản lý tiền lương thông qua việc giám sát thực hiện chính
sách tiền lương của doanh nghiệp; tách riêng quỹ lương của thành viên Hội
đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc với quỹ lương của người lao động,
xác định theo năm, phân định rõ tiền lương, tiền thưởng của người quản lý,
điều hành doanh nghiệp gắn chặt hơn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh, kết
271
quả điều hành và thực hiện chức trách nhiệm vụ giao, từng bước tiếp cận với
tiền lương của các chức danh quản lý trên thị trường.
- Tiền lương đã trở thành động lực thúc đẩy người lao động tăng năng
suất lao động và hiệu quả làm việc; người lao động phấn đấu học tập nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề để có mức thu nhập ngày
càng cao.
1.2. Đối với doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp FDI
- Mức lương tối thiểu được điều chỉnh tăng dần, phù hợp với khả năng
chi trả của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp dân doanh có quy mô nhỏ và
vừa, góp phần ổn định quan hệ lao động trong doanh nghiệp; Thực hiện
thống nhất, không phân biệt mức lương tối thiểu giữa các loại hình doanh
nghiệp;
- Các nguyên tắc xây dựng thang, bảng lương do Nhà nước quy định
trong thời gian đầu đã góp phần bảo đảm tốt hơn quyền lợi cho người lao
động; bảo đảm quan hệ tiền lương giữa lao động giản đơn với lao động qua
đào tạo nghề; giữa lao động làm nghề, công việc trong điều kiện bình
thường với lao động làm nghề, công việc trong điều kiện nặng nhọc, độc
hại; doanh nghiệp tự chủ xây dựng thang, bảng lương theo vị trí công việc,
bảo đảm sự linh hoạt phù hợp với tổ chức lao động của doanh nghiệp, tính
chất phức tạp và trình độ tay nghề của người lao động trong mỗi doanh
nghiệp;
- Quản lý tiền lương theo cơ chế thị trường, bảo đảm quyền tự chủ của
doanh nghiệp trong xác định tiền lương và trả lương cho người lao động
theo nguyên tắc thỏa thuận; thông qua chính sách tiền lương và trả lương
của doanh nghiệp, xác định tiền lương và trả lương theo vị trí, chức danh
công việc gắn với năng suất, hiệu quả công việc đã khuyến khích và thu hút
được người lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, tay nghề cao.
2. Những tồn tại
2.1. Đối với doanh nghiệp Nhà nước
- Việc Nhà nước quy định thang lương, bảng lương áp dụng cho các
doanh nghiệp nhà nước nằm trong quan hệ tiền lương với khu vực hành
chính sự nghiệp của Nhà nước dẫn đến bội số tiền lương thấp (1 - 2,34 - 9,1),
272
quan hệ tiền lương còn bình quân giữa các chức danh ngành nghề, công
việc; khoảng cách bậc lương thấp, chưa bảo đảm đúng nguyên tắc lao động
kỹ thuật là bội số của lao động giản đơn; chưa khuyến khích được người lao
động học tập nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ, khuyến
khích thu hút được lao động có chuyên môn kỹ thuật giỏi, tay nghề cao;
- Việc nhà nước quy định thang lương, bảng lương áp dụng chung cho
hàng trăm chức danh nghề, công việc khác nhau; dồn nhiều chức danh nghề,
công việc vào cùng một thang lương dẫn đến không phản ánh đúng mức tính
chất phức tạp về kỹ thuật đối với từng nghề, công việc có tính chất phức tạp
khác nhau;
- Mức lương tối thiểu chung còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu tối
thiểu của người lao động nên Nhà nước vẫn phải quy định hệ số điều chỉnh
tăng thêm để tính tiền lương của người lao động; Thang lương, bảng lương
chưa là căn cứ để trả lương mà chủ yếu dùng để đóng hưởng bảo hiểm xã
hội, còn việc trả lương lại theo quy chế của doanh nghiệp, dẫn đến nhiều
doanh nghiệp tồn tại 2 hệ thống lương, trong đó tiền lương theo thang, bảng
lương của Nhà nước chỉ chiếm khoảng 30 - 40%, phần trả theo hiệu quả do
doanh nghiệp quy định chiếm từ 60 - 70%;
- Cơ chế quản lý tiền lương chưa phù hợp, một số doanh nghiệp lợi dụng
vào lợi thế kinh doanh, tính độc quyền để đẩy tiền lương lên cao; tiền lương
tăng chưa dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp như các doanh nghiệp thuộc ngành ngân hàng, tài chính, dầu
khí bình quân 17 - 18 triệu/tháng, cao gấp 2 - 3 lần bình quân chung;
- Tiền lương đối với viên chức quản lý doanh nghiệp còn nhiều bất
cập, quan hệ tiền lương chưa hợp lý, tiền lương thực tế của viên chức quản
lý quá cao so với khung Nhà nước quy định, chưa gắn với hiệu quả kinh
doanh và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người dẫn đến chênh lệch
lớn so với tiền lương của người lao động gây mất cân đối trong nội bộ đơn
vị và bức xúc trong dư luận xã hội;
- Quy chế phân phối tiền lương chưa thực hiện tốt nguyên tắc phân
phối công bằng, phù hợp với mức độ đóng góp của mỗi người, trả lương
chưa theo vị trí công việc dẫn tới lao động có trình độ thấp được trả cao hơn
chức danh tương đương trên thị trường, ngược lại lao động kỹ thuật cao lại
được trả thấp hơn so với thị trường; chính sách tiền lương chưa là động lực
273
để khuyến khích và thu hút lao động giỏi, lao động có trình độ chuyên môn,
kỹ thuật làm việc tại doanh nghiệp.
2.2. Đối với doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp FDI
- Mức lương tối thiểu còn thấp, chưa bảo đảm nhu cầu tối thiểu của
người lao động (tiền lương chưa đủ nhu cầu tối thiểu của người lao động),
trong điều kiện năng lực thỏa thuận còn bất cập, cung lao động nhiều hơn
cầu lao động, nhiều doanh nghiệp vẫn bám vào mức lương tối thiểu để trả
lương, làm ảnh hưởng đến giá trị lao động của các loại lao động khác, nhất
là lao động có tay nghề, lao động đã qua đào tạo, không khuyến khích được
người lao động học nghề, nâng cao trình độ tay nghề;
- Việc xây dựng thang lương, bảng lương ở nhiều doanh nghiệp chưa
bảo đảm các nguyên tắc do Nhà nước quy định; doanh nghiệp chưa thực sự
quan tâm đến thang lương, bảng lương, từ đó thiếu cơ sở để xác định thang
giá trị lao động của mỗi vị trí, chức danh công việc làm cơ sở để người lao
động thoả thuận tiền lương và phấn đấu thăng tiến về tiền lương; Nhiều
doanh nghiệp chia tiền lương ra làm nhiều cấu phần khác nhau, cấu trúc tiền
lương không hợp lý, thậm chí có nơi tỷ trọng tiền lương cơ bản thấp hơn các
khoản phụ cấp, trợ cấp làm ảnh hưởng đến quyền lợi lâu dài của người lao
động trong quá trình tham gia BHXH, vừa không khuyến khích được người
lao động tìm tòi sáng tạo trong quá trình làm việc;
- Các doanh nghiệp phần lớn áp dụng chính sách tiền lương theo thâm
niên, khung lương nhiều bậc, độ giãn cách giữa các bậc lương thấp, không
khuyến khích được người lao động học tập nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, tay nghề. Trong khi đó tiền lương giữa lao động quản lý, lao
động chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ chênh lệch quá lớn so với tiền lương
của công nhân trực tiếp sản xuất (từ 15- 20 lần, thậm chí có nơi chênh lệch
cả trăm lần) dẫn đến không khuyến khích công nhân học nghề;
- Đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa không xây dựng chính sách tiền
lương áp dụng cho doanh nghiệp, mà chỉ xây dựng một mức lương cho mỗi
chức danh, công việc, nhóm công việc làm cơ sở để ký hợp đồng lao động
và trả lương cho người lao động, hàng năm được điều chỉnh tiền lương theo
mức điều chỉnh tiền lương tối thiểu của Chính phủ. Do vậy người lao động
274
không biết con đường thăng tiến về tiền lương để có sự học hỏi phấn đấu
vươn lên;
- Trong bối cảnh năng lực thương lượng, thỏa thuận tiền lương của
người lao động, Ban chấp hành công đoàn trong doanh nghiệp hạn chế, dẫn
đến tình trạng một số doanh nghiệp áp đặt tiền lương cho người lao động,
không bảo đảm nguyên tắc tiền lương theo thị trường và hình thành tiền
lương theo giá cả sức lao động, tác động xấu đến năng lực cạnh tranh sức
lao động trên thị trường.
III. NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGUỒN LAO ĐỘNG
1.Tiền lương là giá cả sức lao động, là thước đo giá trị lao động của
mỗi người, chính sách tiền lương phản ánh đúng bản chất của tiền lương,
phát huy được vai trò, chức năng của tiền lương là động lực vô cùng quan
trọng để thúc đẩy năng lực cạnh tranh nguồn lao động.
2. Thực tế những năm qua, chính sách tiền lương của Việt Nam không
ngừng được cải cách và hoàn thiện. Nhất là từ khi chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của chính sách tiền lương
tối thiểu được khẳng định và từng bước được luật pháp hoá; đã hình thành cơ
chế thoả thuận về tiền lương giữa người lao động với người sử dụng lao động.
Tiền lương phụ thuộc vào giá trị lao động, người lao động căn cứ vào giá trị
lao động của mình để thương lượng tiền lương, giá trị lao động cao thì tiền
lương cao, giá trị lao động thấp thì tiền lương thấp, dựa trên mức tiền lương
sàn (mức lương tối thiểu) để làm cơ sở hai bên thoả thuận. Việc không ngừng
hoàn thiện chính sách tiền lương trong thời gian qua đã góp phần quan trọng
trong việc thúc đẩy năng lực cạnh tranh nguồn lao động, góp phần thúc đẩy,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động.
3. Chính sách tiền lương tối thiểu được điều chỉnh kịp thời, phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và trình độ phát triển của từng
loại hình doanh nghiệp; mức lương tối thiểu được điều chỉnh từng bước gắn
với mức sống tối thiểu của người lao động, phù hợp với mức tăng trưởng
của nền kinh tế và năng suất lao động xã hội; chính sách tiền lương tối thiểu
của doanh nghiệp được tách ra khỏi chính sách tiền lương chung của khu
275
vực Nhà nước, thực hiện thống nhất mức lương tối thiểu giữa các loại hình
doanh nghiệp vào năm 2011, từng bước đưa mức lương tối thiểu sát với
mức sống tối thiểu, làm tiền đề để xác định các mức tiền lương đối với các
loại lao động khác, nhất là lao động có chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề.
4. Từng bước đổi mới cơ chế chính sách tiền lương trong doanh
nghiệp nhà nước, giao quyền chủ động thực sự cho người sử dụng lao động
trong việc chọn hình thức trả lương, xây dựng tiêu chí và nguyên tắc làm
căn cứ để trả lương, bảo đảm tiền lương gắn với giá trị lao động và kết quả
lao động của mỗi người, khuyến khích người lao động không ngừng nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, thúc đẩy quá trình cạnh tranh
phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng nguồn lao động trong các
doanh nghiệp nhà nước.
5. Tuy nhiên chính sách tiền lương hiện nay vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn đặt ra, tiền lương tối thiểu chưa đáp ứng được mức sống
tối thiểu; cơ chế quản lý tiền lương chưa được đổi mới và hoàn thiện, nhất là
đối với doanh nghiệp nhà nước; nhiều doanh nghiệp chưa chú trọng đến việc
hoàn thiện quy chế phân phối tiền lương và trả công lao động, chưa quán
triệt đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động, xây dựng các tiêu chuẩn kỹ
thuật đối với các chức danh công việc làm cơ sở để trả lương. Từ những vấn
đề nêu trên làm cho tiền lương chưa trở thành động lực, là đòn bẩy thực sự
để khuyến khích người lao động học tập nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ
thuật, tay nghề, qua đó thúc đẩy quá trình cạnh tranh nguồn lao động trong
phạm vi từng doanh nghiệp, địa phương và trong phạm vi cả nước.
CHƯƠNG III
KHUYẾN NGHỊ ĐỔI MỚI, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỂ TĂNG
CƯỜNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGUỒN LAO ĐỘNG
I. BỐI CẢNH, YÊU CẦU TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGUỒN LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
Nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của quốc
gia. Với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo
276
hướng hiện đại, tăng cường năng lực cạnh tranh của nguồn lao động và có
nguồn nhân lực chất lượng cao là một yêu cầu cấp bách đang đặt ra.
Ở nước ta, hiện nay đang ở thời kỳ có tháp dân số vàng. Việt Nam có
nguồn nhân lực dồi dào. Năm 2012, tổng dân số khoảng 88,5 triệu người,
dân số trong độ tuổi lao động có khoảng 58 triệu người, chiếm khoảng
65,5% tổng dân số. Lực lượng lao động (dân số hoạt động kinh tế) là 53,1
triệu người, trong đó số lao động làm công ăn lương chiếm khoảng 35% lực
lượng lao động.
Dự báo quy mô dân số tiếp tục tăng, đạt 96,2 triệu người vào năm
2020. Tỷ lệ lao động làm công ăn lương năm 2015 và 2020 chiếm tương
ứng 37% và 45% trong tổng số lao động có việc làm. Cùng với sự phát triển
của thị trường lao động, bên cạnh số lao động làm việc thường xuyên, ổn
định, xuất hiện nhiều loại hình lao động bán thời gian, không trọn thời gian.
Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày
càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã
trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế đòi hỏi không thể tiếp tục duy trì
chính sách tiền lương thấp, mà phải có sự đổi mới phù hợp, tính đến các yếu
tố hội nhập, cạnh tranh nhằm đảm bảo việc làm, thu nhập cho người lao
động (nhất là lao động yếu thế), đồng thời tạo động lực tăng cường năng lực
cạnh tranh của nguồn lao động, ổn định và phát triển cho doanh nghiệp.
Để đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ
2011-2020 Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng
Chính phủ khẳng định “Phát huy tối đa nhân tố con người, bảo đảm điều
kiện để mọi người được phát triển toàn diện; tiếp tục hoàn thiện chính sách
tiền lương, tiền công; phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc
biệt coi trọng phát triển nhân lực chất lượng cao, đội ngũ cán bộ quản lý,
quản trị doanh nghiệp giỏi, thúc đẩy phát triển thị trường lao động;”.
277
II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI
MỚI CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP NHẰM TĂNG CƯỜNG
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGUỒN LAO ĐỘNG
1. Quan điểm đổi mới chính sách tiền lương, thu nhập
1.1. Tiền lương phải được trả đúng giá trị trên cơ sở tính đúng, tính đủ
chi phí lao động, có tính đến quan hệ cung cầu lao động, có sự quản lý của
Nhà nước; thực hiện cơ chế đối thoại, thương lượng, thỏa thuận tiền lương
giữa các bên trong quan hệ lao động dựa trên cơ sở quy định của luật pháp
nhằm bảo đảm tính công bằng trong phân phối tiền lương.
1.2. Chính sách tiền lương tối thiểu phải đảm bảo mức lương tối thiểu
đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động, phù hợp với mức tiền
công trên thị trường.
1.3. Nhà nước thực hiện đúng vai trò quản lý nhà nước về tiền lương,
thu nhập trên cơ sở chính sách tiền lương phải bảo vệ và khuyến khích
người lao động không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, trình độ tay nghề. Nhà nước ban hành các khung chính sách
về tiền lương như quan hệ tiền lương giữa các loại lao động; tiêu chí,
nguyên tắc để thực hiện phân phối tiền lương công bằng, cơ chế thương
lượng thoả thuận về tiền lương, bảo đảm người lao động được trả công
tương xứng với giá trị lao động họ bỏ ra và kết quả lao động của họ mang
lại, đó là động lực để thúc đẩy quá trình cạnh tranh nguồn nhân lực.
2. Mục tiêu đổi mới chính sách tiền lương, thu nhập
2.1. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương khu vực doanh nghiệp
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Tăng cường tính linh
hoạt của tiền lương trong khu vực sản xuất kinh doanh.
2.2. Tiền lương trở thành động lực, khuyến khích người lao động làm
việc có năng suất, hiệu quả, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, ổn định và phát triển quan hệ lao động hài hoà, tiến
bộ trong doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá
trình tái cấu trúc nền kinh tế, tái cấu trúc doanh nghiệp và hội nhập quốc tế.
3. Nguyên tắc đổi mới chính sách tiền lương, thu nhập
3.1. Chính sách tiền lương được đổi mới phù hợp với quá trình chuyển
đổi nền kinh tế và hội nhập, nhưng phải trên cơ sở quán triệt nguyên tắc
278
phân phối theo lao động, gắn tiền lương với năng suất, kết quả lao động của
người lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2. Mức lương tối thiểu do nhà nước ban hành được điều chỉnh linh
hoạt cho từng thời kỳ, mức lương tối thiểu phải bảo đảm nhu cầu sống tối
thiểu của người lao động; Các mức tiền lương trả cho người lao động được
hình thành thông qua thoả thuận phù hợp với chất lượng của mỗi loại lao
động và mặt bằng tiền công trên thị trường; Chính sách tiền lương của
doanh nghiệp do doanh nghiệp quyết định trên cơ sở có ý kiến của tổ chức
đại diện người lao động, bảo đảm quyền tự chủ trên cơ sở đó thúc đẩy quá
trình cạnh tranh nguồn nhân lực giữa các doanh nghiệp với nhau.
3.3. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp
nhà nước, xác định rõ vai trò của chủ sở hữu với vai trò chức năng quản lý
nhà nước đối với cơ quan quản lý nhà nước. Bảo đảm cho doanh nghiệp nhà
nước đủ sức và đủ năng lực cạnh tranh về lao động đối với các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Quản lý tiền lương đối với doanh
nghiệp nhà nước phải gắn với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp; tách bạch tiền lương của người lao động và tiền lương
của viên chức quản lý do Nhà nước bổ nhiệm.
4. Phương hướng đổi mới chính sách tiền lương, thu nhập
4.1. Xây dựng chính sách tiền lương tối thiểu bảo đảm mức lương tối
thiểu đáp ứng mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, đồng
thời thiết lập cơ chế điều hành tiền lương tối thiểu linh hoạt theo nguyên tắc
thị trường.
4.2. Hoàn thiện các nguyên tắc xây dựng hệ thống thang lương, bảng
lương, phụ cấp lương, bảo đảm quan hệ hợp lý giữa tiền lương của lao động
có chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề với tiền lương của lao động giản đơn,
giữa tiền lương của lao động làm công việc khó khăn, phức tạp, điều kiện
làm việc nặng nhọc, nguy hiểm với tiền lương của công việc trong điều kiện
bình thường và giao cho doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước) tự
xây dựng và quyết định hệ thống chính sách tiền lương để trả lương và thực
hiện các chế độ đối với người lao động phù hợp với mặt bằng tiền công trên
thị trường lao động.
279
4.3. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế thỏa thuận tiền lương thông qua việc rà
soát, hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn pháp luật lao động; quy định
cơ chế, quy trình thương lượng, thỏa thuận tiền lương theo quy định tại Bộ
luật Lao động (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua.
4.4. Đổi mới cơ chế quản lý, trả lương trong các doanh nghiệp nhà
nước trên cơ sở giao cho doanh nghiệp tự xác định tiền lương đối với người
lao động theo vị trí công việc gắn với năng suất, kết quả lao động và phù
hợp với tương quan tiền lương của các ngành nghề trên thị trường lao động.
4.5. Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, nâng cao kỹ năng thương
lượng của người lao động, cung cấp thông tin tiền lương để hỗ trợ thương
lượng, thỏa thuận tiền lương; phát triển, cải tiến phương thức hoạt động của
tổ chức công đoàn và nâng cao chất lượng đối với cán bộ công đoàn ở cơ sở.
4.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan quản
lý nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và nội bộ doanh nghiệp trong việc
thực hiện pháp luật lao động nói chung và tiền lương, thu nhập nói riêng.
III. NỘI DUNG ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP
1. Về chính sách của Nhà nước
1.1. Về tiền lương tối thiểu
- Đổi mới xác định và thực hiện mức lương tối thiểu theo phương
pháp dựa vào nhu cầu tối thiểu.
- Xây dựng lộ trình điều chỉnh mức lương tối thiểu cho phù hợp với
tình hình kinh tế đất nước để đảm bảo tiền lương tối thiểu đáp ứng nhu cầu
sống tối thiểu vào năm 2015 (Phương án 1) hoặc điều chỉnh mức lương tối
thiểu đạt nhu cầu sống tối thiểu vào năm 2017 (Phương án 2) tùy tình hình
thực tế của kinh tế đất nước.
- Nghiên cứu quy định mức lương tối thiểu giờ đối với những công
việc không trọn thời gian để bảo đảm rằng chính sách tiền lương tối thiểu
bao phủ tất cả các công việc, nhằm nâng cao độ linh hoạt cũng như sức cạnh
tranh của nguồn lao động trong xã hội.
+ Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, cung cấp thông tin thị
trường về lao động tiền lương để doanh nghiệp và người lao động tham
280
khảo khi ký kết hợp đồng lao động; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát
việc thực hiện.
- Nhà nước quy định khung pháp lý cơ bản để tăng cường cơ chế thoả
thuận về tiền lương với một số yêu cầu cụ thể đối với các doanh nghiệp, như:
+ Yêu cầu xây dựng và duy trì cơ chế đối thoại, thương lượng, thỏa
thuận về tiền lương giữa các bên trong quan hệ lao động. Định kỳ hàng năm
khi xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho năm sau có tính đến khả
năng tăng trưởng, quan hệ cung - cầu lao động (giá tiền công trên thị
trường), chỉ số giá.
+ Yêu cầu công bố thông tin, minh bạch các vấn đề liên quan trực tiếp
đến công việc, điều kiện làm việc, tiền lương, tiền thưởng .. làm cơ sở để
thoả thuận tiền lương với người lao động khi tuyển dụng, ký kết hợp đồng
lao động.
+ Yêu cầu doanh nghiệp tạo điều kiện để các tổ chức đại diện người lao
động được tham gia xây dựng chính sách liên quan đến người lao động nhằm
xây dựng mối quan hệ lao động lành mạnh, ổn định trong doanh nghiệp.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp nhà
nước:
+ Nhà nước quy định các nguyên tắc, điều kiện và giao cho doanh
nghiệp toàn quyền quyết định trả lương cho người lao động theo vị trí, chức
danh công việc (chống phân phối bình quân); gắn tiền lương với năng suất
lao động (trong đó năng suất lao động được tính theo giá trị mới tạo ra), bảo
đảm nguyên tắc mức tăng tiền lương thấp hơn mức tăng năng suất lao động;
thực hiện cơ chế quản lý tiền lương thông qua xác định, giám sát chặt chẽ
quỹ tiền lương thực hiện.
+ Tiếp tục tách riêng tiền lương, tiền thưởng của viên chức quản lý với
người lao động, xác định theo năm gắn với hiệu quả kinh doanh và hiệu quả
sử dụng vốn, có khống chế mức tối đa, giao cho doanh nghiệp xác định và
trình chủ sở hữu phê duyệt; Tách riêng tiền lương của đại diện chủ sở hữu
(Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên) và tiền lương của
bộ máy điều hành (Tổng giám đốc, giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Phó giám
đốc, kế toán trưởng); Tiếp tục thực hiện chủ trương thí điểm ký hợp đồng
281
thuê, trả lương theo thỏa thuận với Tổng giám đốc, Giám đốc để gắn quyền
lợi và trách nhiệm.
+ Tiếp tục đổi mới quản trị doanh nghiệp, như rà soát xây dựng các vị
trí công việc, kế hoạch lao động, tuyển dụng, sử dụng lao động và chịu trách
nhiệm về số lao động dôi dư, xây dựng tiêu chí đánh giá trả lương theo vị trí
công việc.
2. Chính sách của doanh nghiệp
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện chính sách trả
công theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp cần xây
dựng một cơ chế trả lương hợp lý, đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về tiền
lương như trả lương ngang nhau cho lao động có giá trị như nhau, đảm bảo
mối quan hệ hợp lý giữa tốc độ tăng tiền lương và tốc độ tăng năng suất lao
động, tiền lương giữa những người lao động trong doanh nghiệp, bảo đảm
tính cạnh tranh nhằm thu hút lao động. Các quyền tự chủ chủ yếu của doanh
nghiệp, bao gồm:
+ Xác định chi phí tiền lương, chi phí lao động hợp lý trong giá thành
sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Các khoản chi phí về lao động, tiền
lương vừa phải bảo đảm hợp lý để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm
dịch vụ, vừa bảo đảm yêu cầu thu hút và giữ chân người lao động tiếp tục
gắn bó làm việc cho doanh nghiệp.
+ Xác định các căn cứ trả tiền lương, mà trước hết là các quy định của
pháp luật lao động để xây dựng chính sách phân phối tiền lương cho phù hợp.
+ Xây dựng và hoàn thiện thang lương, bảng lương, định mức lao
động, hệ thống chức danh tiêu chuẩn đối với lao động quản lý, tiêu chuẩn
cấp bậc kỹ thuật công nhân, phương pháp tính năng suất lao động cá nhân.
+ Xác định kết cấu tiền lương và thu nhập làm căn cứ thoả thuận tiền
lương, trả lương, tiền thưởng cho người lao động phù hợp với điều kiện, đặc
điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Xây dựng quan hệ phân phối, hệ thống thước đo giá trị lao động,
quy chế trả lương, tiền thưởng (hệ thống trả lương) theo nguyên tắc phân
phối theo lao động.
282
+ Hình thành, hoàn thiện và duy trì cơ chế đối thoại, thương lượng,
thỏa thuận về tiền lương giữa các bên trong quan hệ lao động.
IV. GIẢI PHÁP VÀ LỘ TRÌNH THỰC HIỆN
1. Giải pháp
1.1. Khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn về tiền lương theo
quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, trong đó tập trung vào các nội
dung sau:
- Quy định các tiêu chí để xác định mức sống tối thiểu của người lao
động phù hợp với trình độ phát triển kinh tế trong từng thời kỳ và đối với
từng vùng để làm cơ sở tính toán xác định mức lương tối thiểu cho phù hợp;
- Quy định các nguyên tắc để xây dựng thang lương, bảng lương, phụ
cấp lương trong doanh nghiệp; các yếu tố và điều kiện làm căn cứ để trả
lương, bảo đảm nguyên tắc phân phối tiền lương công bằng;
- Quy định việc xây dựng quy chế trả lương trong doanh nghiệp bảo
đảm nguyên tắc phân phối công bằng, phù hợp với chất lượng lao động và
kết quả lao động của mỗi người.
1.2. Xây dựng và quyết định chính sách tiền lương và trả công lao động
của doanh nghiệp, trên cơ sở xây dựng hệ thống thang lương, bảng lương,
phụ cấp lương, tiêu chuẩn chức danh công việc, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật
để làm cơ sở thoả thuận tiền lương với người lao động; xây dựng quy chế trả
lương, trả thưởng; quy định các tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ hoàn
thành nhiệm vụ đối với từng chức danh, công việc làm cơ sở để trả lương.
1.3. Tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước trong việc thực
hiện chính sách tiền lương của doanh nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp trong
việc hình thành chính sách tiền lương, quy chế trả lương, trả thưởng; đẩy
mạnh việc thực hiện cơ chế thương lượng và thoả thuận về tiền lương, nâng
cao vai trò trách nhiệm của công đoàn cơ sở trong việc thương lượng, thoả
thuận tiền lương, bảo đảm tiền lương được trả tương ứng với kết quả lao
động của mỗi người;
283
2. Lộ trình thực hiện
2.1. Từ nay đến năm 2016 phấn đấu điều chỉnh mức lương tối thiểu
bằng mức sống tối thiểu của giai đoạn 2012-2020; từ năm 2017 đến
năm 2020, mức lương tối thiểu được điều chỉnh chủ yếu theo chỉ số giá cả
sinh hoạt;
- Sau năm 2020 tiến hành xác định lại mức sống tối thiểu của
giai đoạn 2020-2025 để làm cơ sở điều chỉnh mức lương tối thiểu cho giai
đoạn này;
2.2 .Từ tháng 5/2013 doanh nghiệp toàn quyền quyết định chính sách
tiền lương, trả cho người lao động theo quy định của Bộ luật Lao động năm
2012; đổi mới đồng bộ cơ chế quả lý tiền lương đối với doanh nghiệp 100%
vốn do Nhà nước làm chủ sở hữu.
KẾT LUẬN
Chính sách tiền lương có vai trò hết sức quan trọng đối với việc phát
triển thị trường lao động. Tiền lương là giá cả sức lao động, là một trong
những yếu tố quan trọng trong việc kết nối cung cầu lao động, khuyến khích
người lao động học nghề, nâng cao trình độ tay nghề nhằm nâng cao giá trị
của sức lao động. Việc xây dựng và ban hành một chính sách tiền lương
đúng đắn là động lực để thúc đẩy và khuyến khích người lao động không
ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp
vụ, tay nghề để nâng cao năng lực cạnh tranh của người lao động trong một
tập thể, một đơn vị và trong phạm vi toàn xã hội.
Việc quy định mức lương tối thiểu phải bảo đảm mức sống tối thiểu
của người lao động trong từng thời kỳ. Để có căn cứ điều chỉnh mức lương
tối thiểu phù hợp, Nhà nước sớm ban hành Luật Tiền lương tối thiểu, nhằm
luật pháp hoá các tiêu chí để xác định mức lương tối thiểu, nguyên tắc và cơ
chế điều chỉnh mức lương tối thiểu để mức lương tối thiểu đáp ứng được
nhu cầu sống tối thiểu của người lao động, đồng thời làm cơ sở để xác định
giá trị lao động của các loại lao động khác.
Đối với doanh nghiệp khi hoạch định chính sách tiền lương phải tuân
thủ các quy định của pháp luật; khi xây dựng thang lương, bảng lương phải
thực hiện đúng nguyên tắc do Chính phủ quy định. Chính sách tiền lương
284
phải đảm bảo công khai, minh bạch, thể hiện con đường thăng tiến về tiền
lương nhằm khuyến khích người lao động không ngừng học tập để nâng cao
trình độ tay nghề. Nhà nước tăng cường kiểm tra giám sát về tiền lương, bảo
đảm chính sách tiền lương của doanh nghiệp thực hiện một cách có hiệu quả
là động lực để thúc đẩy người lao động nâng cao giá trị sức lao động của
mình, thúc đẩy quá trình cạnh tranh phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao vai
trò trách nhiệm của công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp trong việc thương
lượng thoả thuận về chính sách tiền lương của doanh nghiệp; hỗ trợ, tư vấn
và cung cấp thông tin cho người lao động để họ có khả năng tự thương
lượng, thoả thuận về tiền lương, bảo đảm việc trả lương phù hợp với năng
lực, trình độ đào tạo và mức độ đóng góp của người lao động. Nhà nước có
trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu về tiền lương, tiền công trên thị trường
đối với từng chức danh, công việc, ngành nghề để làm cơ sở cho người lao
động thương lượng, thoả thuận về tiền lương; bảo đảm cơ chế chính sách
tiền lương được vận hành phù hợp với cơ chế thị trường, tiền lương phản
ánh đúng giá cả của lao động, là động lực để thúc đẩy người lao động nâng
cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề, thúc đẩy và nâng cao năng lực
cạnh tranh nguồn lao động trong từng đơn vị, doanh nghiệp và trong phạm
vi cả nước.
285
ĐỊNH HƯỚNG MỞ RỘNG ĐỘ BAO PHỦ
AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
MÃ SỐ: CT2011-02-01
Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Khoa học LĐ & XH
Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Thị Lan Hương
Thư ký: ThS. Đỗ Thị Thanh Huyền
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN KHOA HỌC VỀ AN SINH XÃ HỘI
VÀ MỞ RỘNG ĐỘ BAO PHỦ CỦA AN SINH XÃ HỘI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ AN SINH XÃ HỘI
1. Khái niệm về an sinh xã hội (ASXH)
Từ điển bách khoa Việt Nam toàn tập, Hà Nội, 1995 định nghĩa
ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với công dân thông qua các biện pháp
công cộng nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội (do
bị ngừng hoặc giảm thu nhập từ nguyên nhân ốm đau, thai sản tai nạn lao
động, thất nghiệp, tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi…), đồng thời
đảm bảo và chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Khái niệm
này đồng nhất với khái niệm ASXH của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã
được công bố.
Từ thực tiễn của nước ta và tham khảo kinh nghiệm của quốc tế, nhất
là quan điểm của Liên Hiệp Quốc về Quyền ASXH (1948) và Sàn ASXH
(2009), tại Nghị Quyết số 15 ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành TW Đảng
về một số Chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, quan niệm nội dung của
ASXH bao gồm sự bảo đảm cho người dân mức tối thiểu về thu nhập, tham
gia BHXH, trợ giúp cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bảo
đảm mọi người dân tiếp cận dịch vụ ở mức tối thiểu về giáo dục, y tế, nhà ở,
nước sạch và thông tin thông qua việc nâng cao năng lực tự an sinh của
người dân, hỗ trợ của Nhà nước, hoạt động của hệ thống bảo hiểm và đóng
góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân.
286
2. Các chính sách an sinh xã hội cơ bản
2.1. Nhóm chính sách thị trường lao động chủ động (nhóm chính
sách điều tiết thị trường lao động)
Trong khuôn khổ ASXH, các chính sách thị trường lao động (TTLĐ)
bao gồm các chính sách về việc làm, giáo dục, đào tạo, thông tin việc làm,
tín dụng... cho đối tượng đang có nhu cầu tìm việc, thường là người thất
nghiệp, thiếu việc làm và cả những người đang có nhu cầu tìm việc làm tốt
hơn; giải quyết các vấn đề của khu vực phi chính thức và lao động tự
làm(38), lao động nữ, lao động nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương khác(39).
Nguồn tài chính được lấy từ thuế và từ đóng góp khác.
2.2. Chính sách về bảo hiểm xã hội
Cấu phần này bao gồm: (i) bảo hiểm y tế, (ii) bảo hiểm tự nguyện, (iii)
bảo hiểm bắt buộc, (iii) bảo hiểm thất nghiệp, (iv) bảo hiểm nông nghiệp,
(v) bảo hiểm tai nạn/tử tuất,… Chính sách bảo hiểm tốt đóng vai trò tích cực
cho sự ổn định Kinh tế - xã hội, mang đến trạng thái an toàn về tinh thần,
giảm bớt sự lo âu trước rủi ro, bất trắc cho người được bảo hiểm; giảm sức
ép đối với hệ thống phúc lợi xã hội, hỗ trợ các hoạt động kinh doanh, thúc
đẩy các hoạt động thương mại phát triển.
2.3. Các chính sách về trợ giúp xã hội và hỗ trợ giảm nghèo
(an sinh xã hội không đóng góp)
An sinh xã hội không đóng góp (trợ giúp xã hội) bao gồm các chuyển
nhượng và các chương trình trợ cấp công cộng, thường được tài trợ từ thuế
chung theo nguyên tắc đoàn kết, nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu cho đối
tượng được nhận.
Sự trợ giúp bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật của nhà nước (lấy từ
nguồn thuế, không phải đóng góp của người nhận) thông qua 3 loại hình cơ
bản: hỗ trợ thu nhập, trợ cấp gia đình và dịch vụ xã hội. Các chính
sách/chương trình này thường nhắm vào những người sống trong nghèo
(38)
Bertranou và Saravia (2009) đã chỉ ra nhu cầu phát triển các chiến lược thích
hợp bảo vệ người lao động thất nghiệp và khu vực phi chính thức nhằm bảo đảm
cho họ thu nhập tối thiểu do đặc điểm việc làm và các mối quan hệ xã hội của họ. (39)
Theo ECLAC, 2010, các chính sách về thị trường lao động chủ động có vai trò
quan trọng giảm bất bình đẳng, tránh phân biệt đối xử và thúc đẩy sự tham gia của
phụ nữ và các nhóm yếu thế khác.
287
cùng cực, nghèo và dễ bị tổn thương, ngăn chặn sự suy giảm trong thu nhập
và năng lực tiêu dùng của những người trong tình huống dễ bị tổn thương;
kết nối và tạo điều kiện tiếp cận các chính sách, dịch vụ xã hội..
Các chương trình giảm nghèo là tập hợp các chính sách, biện pháp và
dự án nhằm thúc đẩy khả năng tiếp cận của người nghèo đến dịch vụ sản
xuất và dịch vụ xã hội.
2.4. Vai trò của Chính sách dịch vụ xã hội
Dịch vụ xã hội cơ bản được chia thành 4 loại chính:
- Dịch vụ đáp ứng những nhu cầu vật chất cơ bản: việc ăn uống, vệ
sinh, chăm sóc, nhà ở... mọi đối tượng yếu thế là trẻ em, người tàn tật mất khả
năng lao động đều phải được đáp ứng nhu cầu này để phát triển về thể lực.
- Dịch vụ y tế: bao gồm các hình thức khám chữa bệnh, điều dưỡng
phục hồi chức năng về thể chất cũng như tinh thần cho các đối tượng.
- Dịch vụ giáo dục: trường học, các lớp tập huấn, đào tạo kỹ năng
sống, các hình thức giáo dục hoà nhập, hội nhập và chuyên biệt...
- Dịch vụ về giải trí, tham gia và thông tin: đây là loại hình dịch vụ xã
hội rất quan trọng đối với các đối tượng thuộc nhóm đối tượng công tác xã
hội, hoạt động giải trí như văn nghệ, thể thao,... nâng cao sự tự tin, đẩy
mạnh hoà nhập tốt hơn với cộng đồng, nâng cao sự hiểu biết, kiến thức cho
đối tượng...
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỞ RỘNG ĐỘ BAO PHỦ CỦA AN SINH XÃ HỘI
1. Khái niệm về độ bao phủ của an sinh xã hội
Theo từ điển Larousse(40), độ bao phủ là “mức độ của một chính
sách/dịch vụ/hệ thống được cung cấp tới đối tượng hưởng lợi”.
ASXH, dù tiếp cận ở phạm vi hẹp (từng chính sách/chương trình) hay
rộng (cả hệ thống), đều nhằm hướng tới 2 mục tiêu cơ bản: bảo đảm cho
nhiều người dân được tham gia vào chính sách/hệ thống và mức độ bảo vệ
(mức độ hưởng lợi) được nâng cao, do vậy, độ bao phủ của ASXH có thể
định nghĩa như sau: mức độ hiệu quả thực hiện các chính sách và chương
(40)
http://www.larousse.com/en/dictionnaires/francais/couverture/20048
288
trình ASXH hoặc toàn bộ hệ thống ASXH do Nhà nước, các đối tác xã
hội và tư nhân thực hiện.
2. Các tiêu thức đo lường mức độ bao phủ của các chính sách an sinh xã hội
2.1. Tỷ lệ bao phủ theo chiều rộng
Tỷ lệ bao phủ ASXH theo chiều rộng được đo bằng tỷ lệ phần trăm
dân số thực tế được hưởng chính sách thực tế so với tổng dân số. Như trên
đã nêu, tỷ lệ bao phủ theo chiều rộng của hệ thống ASXH phụ thuộc vào tỷ
lệ bao phủ tiềm năng, chính sách và mức độ hiệu quả của chính sách, được
tính theo công thức sau:
Tỷ lệ bao phủ theo chiều rộng thực tế các chính sách ASXHi (%) =
x100% [H]iTæng sè ngêi thùc tÕ tham gia / thô hëng chÝnh s¸ch ASXH
Tæng d©n sè
Biến đổi công thức trên:
[A]iTæng sè ngêi thuéc diÖn ®iÒu chØnh cña chÝnh s¸ch ASXH
Tæng d©n sè x
x [B]i
i
Tæng sè ngêi thuéc diÖn ®iÒu chØnh cña chÝnh s¸ch ASXH
Tæng sè ngêi cã nhu cÇu tham gia chÝnh s¸ch ASXH x
x x100% [C]i
i
Sè ngêi thùc tÕ tham gia / thô hëng chÝnh s¸ch ASXH
Tæng sè ngêi thuéc diÖn ®iÒu chØnh c¸c chÝnh s¸ch ASXH
Trong đó:
A: Tỷ lệ bao phủ tiềm năng của chính sách ASXH, phản ánh mức độ
phát triển/quyền ASXH của người dân;
B: Tỷ lệ bao phủ theo luật định của chính sách ASXH phản ánh mức
độ đáp ứng của chính sách ASXH đối với nhu cầu của người dân;
C: Tỷ lệ bao phủ thực tế của chính sách ASXH phản ánh mức độ hiệu
quả của việc thực hiện chính sách ASXH.
289
2.2. Tỷ lệ bao phủ hiệu quả hay tỷ lệ bao phủ theo chiều sâu
- Tỷ lệ số người dân thỏa mãn nhu cầu khi tham gia chính sách ASXH
cụ thể.
- Mức độ/tỷ lệ thay thế thu nhập của các khoản chuyển nhượng và khả
năng cung ứng dịch vụ ASXH.
2.3. Nguồn lực đầu tư vào chương trình an sinh xã hội
Nguồn lực đầu tư vào chương trình có vai trò rất quan trọng trong việc
triển khai các chính sách ASXH, bao gồm các chỉ tiêu về tỷ lệ đầu tư về
ASXH trên GDP (không tính chi phí y tế). Chỉ tiêu này có thể tính chung
cho toàn bộ hệ thống ASXH và cho từng nhóm chính sách.
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG MỨC ĐỘ BAO PHỦ CỦA CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2013–2020
I. THỰC TRẠNG ĐỘ BAO PHỦ CỦA CHÍNH SÁCH BHXH (BẮT BUỘC VÀ TỰ NGUYỆN)
1. Độ bao phủ tiềm năng của chính sách bảo hiểm xã hội
Giai đoạn 2003-2012, tỷ lệ dân số tham gia lực lượng lao động so với
tổng dân số trong độ tuổi lao động luôn đạt mức cao và có xu hướng gia
tăng, từ 72% lên trên 76,7 trong cùng thời kỳ. Đây thực sự là thách thức lớn
cho BHXH, do nhu cầu tham gia lao động ngày càng cao của dân cư.
2. Độ bao phủ theo luật định của chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH)
Tỷ lệ bao phủ của chính sách BHXH so với dân số trong độ tuổi lao
động tăng chậm, từ 11,7% năm 2003 lên 13,4% năm 2006 (hay so với lực
lượng lao động: từ 16,3% lên 19,1% trong cùng thời kỳ). Tuy nhiên, từ khi
có Luật BHXH ban hành, từ năm 2007, với việc gia tăng tỷ lệ lao động làm
công ăn lương, số đối tượng bao phủ chính sách cũng đã tăng mạnh, từ trên
8,7 triệu người cuối năm 2006 lên đến trên 11,3 triệu người năm 2008. Tỷ lệ
bao phủ của chính sách BHXH so với dân số trong độ tuổi lao động đã tăng
lên đến 17,7% năm 2008 (hay khoảng 23,4% so với lực lượng lao động).
290
3. Độ bao phủ thực tế (theo chiều rộng)của chính sách bảo hiểm
xã hội
a) Về số người tham gia thực tế
Tổng số người tham gia BHXH tăng từ 4,726 triệu người năm 2003
lên 8,173 triệu người vào năm 2007 và đạt 10,4577 triệu người năm 2012,
tốc độ tăng cả thời kỳ đạt 9.85%, trong đó, phần lớn là người tham gia
BHXH bắt buộc.
b) Về mức độ tuân thủ
- Về BHXH bắt buộc: Mức độ tuân thủ BHXH bắt buộc nhìn chung
đang ở mức thấp. Thời kỳ 2003-2007, tỷ lệ tuân thủ trong khu vực chính
thức tăng từ 68,96% lên 75,28%, tuy nhiên, sau 2008, do biến động của kinh
tế và những khó khăn của doanh nghiệp, tỷ lệ tuân thủ đã giảm xuống còn
64,98%. Nghĩa là, còn khoảng 35% lao động hoặc trốn đóng BHXH hoặc
doanh nghiệp không đóng cho người lao động, chủ yếu là khu vực tư nhân.
- Về BHXH tự nguyện: Do tính hấp dẫn của BHXH tự nguyện đối với
lao động phi chính thức chưa cao, dẫn đến tỷ lệ tham gia còn thấp, khoảng
0.37% lao động trong khu vực phi chính thức.
c) Về mức độ bao phủ
So với lực lượng lao động, tỷ lệ bao phủ của BHXH thực tế khá thấp,
chỉ đạt 11,22% năm 2003, tăng lên 17,5% năm 2007 và tăng lên 20,2% vào
năm 2012, bao phủ khoảng 1/5 lực lượng lao động.
So với dân số từ 15 tuổi trở lên, tỷ lệ bao phủ của BHXH thực tế rất
thấp: chỉ có khoảng 8,08% năm 2003, tăng lên 12,91% năm 2007 và đạt
15,51% năm 2012, tức là mới bảo vệ cho khoảng 1/6 dân số trong độ tuổi
lao động.
4. Độ bao phủ thực tế (theo chiều sâu) của chính sách bảo hiểm
xã hội
a) Về số người được thụ hưởng chính sách hưu trí
Số lượng người được hưởng chính sách hưu trí (bao gổm cả số hưởng
từ NSNN trước 95, số tham gia BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện,
291
không bao gồm trợ cấp tuổi già cho những người từ 80+), tăng từ gần 1,59
triệu người năm 2007 lên gần 1,96 triệu người năm 2012.
So với số người từ trên 60+, tỷ lệ người trong nhóm tuổi này được
hưởng hưu còn chiếm tỷ lệ thấp, và thậm chí giảm đi một chút, từ 21,94%
năm 2007 lên 21,14% năm 2012 (do tác động của già hóa dân số, tỷ lệ
người già tăng nhanh), cho thấy những áp lực lớn về việc tăng tỷ lệ người
tham gia BHXH để có một tương lai tốt đẹp hơn.
b) Về mức trợ cấp hưu trí
Nhằm cải thiện điều kiện thu nhập cho người về hưu, Chính phủ đã 5
lần thực hiện điều chỉnh mức lương hưu và trợ cấp BHXH, nhờ vậy thời kỳ
2008-2011, mức hưu trí đạt 2,47 triệu đồng/người/tháng, tăng 1,43 lần so
với năm 2008 (1,73 triệu đồng/người/tháng) tăng 12,4%/năm.
Chênh lệch giữa tiền hưu bình quân và lương tối thiểu theo luật định có
xu hướng thấp dần, từ 2,7 lần (2008) xuống còn hơn 2,3 lần năm 2011 cho
thấy, mức hưu trí tăng thấp hơn so với mức tăng của tiền lương tối thiểu.
c) Về cân đối thu - chi quỹ BHXH
Về tổng thu BHXH: Giai đoạn 2008-2012, tổng thu BHXH tăng với
tốc độ 26,7%, đạt gần 78,5 ngìn tỷ đồng, trong đó: tổng thu BHXH bắt buộc
tăng gần 26,6%, đạt trên 78,1 nghìn tỷ đồng; tổng thu BHXH tự nguyện còn
chiếm vị trí khiếm tốn, mới đạt 351 tỷ đồng, song tăng với tốc độ khá
nhanh, 128%.
Về tổng chi BHXH: Giai đoạn 2008-2012, tổng chi BHXH tăng nhanh
hơn, với tốc độ 28,1%, đạt gần 59,8 ngìn tỷ đồng, trong đó: tổng chi BHXH
bắt buộc tăng trên 28%, đạt gần 59,8 nghìn tỷ đồng; tổng chi BHXH tự
nguyện tăng rất nhanh, 284%, với mức chi khoảng 55 tỷ đồng.
Về cơ cấu chi của quỹ BHXH: Nhìn chung, khoảng 80% chi cho hưu
trí và tử tuất. Điều này cho thấy, chính sách hưu trí có ảnh hưởng lớn đến độ
bền vững của quỹ.
Về cân đối thu - chi quỹ BHXH: Do chi tăng nhanh hơn thu, nên tỷ lệ
chi/thu càng gia tăng, từ khoảng 69% năm 2008 lên 76,2% vào năm 2012,
cho thấy nguy cơ bất ổn về quỹ rất lớn, trong đó: Quỹ BHXH bắt buộc có
xu hướng mất cân đối nhanh hơn, từ 69% năm 2008 lên đến 76,5% vào năm
2012.
292
Chi của Quỹ BHXH tự nguyện cũng tăng nhanh (so với thu), đạt
15,56% năm 2012;
Chi BHXH tự nguyện so với tổng thu vẫn còn an toàn, song cũng đã
gia tăng tỷ trọng rất nhanh, đạt gần 15,6% năm 2012.
II. THỰC TRẠNG ĐỘ BAO PHỦ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP (BH THẤT NGHIỆP)
1. Độ bao phủ tiềm năng của chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Chính sách BH thất nghiệp là chính sách thị trường lao động bị động
nhằm hỗ trợ người lao động khi bị mất việc làm có thể có khoản thu nhập
thay thế và các dịch vụ khác để nhanh chóng tái hòa nhập vào thị trường lao
động. Như vậy, độ bao phủ tiềm năng là toàn bộ những người làm công ăn
lương trong thị trường.
Trong thời gian qua, tỷ lệ người lao động làm công ăn lương đã tăng
lên nhanh chóng, tăng từ 21,4% năm 2003 lên 34% năm 2012.
2. Về độ bao phủ của chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Số liệu điều tra doanh nghiệp năm 2011 của TCTK cho thấy, có
khoảng 10 triệu lao động làm việc trong các doanh nghiệp có 10 LĐ trở lên
(chiếm 90% lao động trong các doanh nghiệp), cộng với 5 triệu lao động
làm việc trong khu vực hành chính sự nghiệp và như vậy đối tượng bao phủ
của luật BH thất nghiệp chỉ khoảng 15 triệu người, bằng 88% lao động làm
công ăn lương; So với lực lượng lao động, tỷ lệ bao phủ của chính sách BH
thất nghiệp chỉ đạt 30%.
3. Độ bao phủ thực tế (theo chiều rộng)
Số lượng lao động tham gia BH thất nghiệp đã tăng tương đối nhanh,
năm 2009 có 5,99 triệu người, và đến năm 2012 đạt 8,3 triệu người, tốc độ
tăng 1,99%/năm.
Tỷ lệ bao phủ thực tế về tham gia BH thất nghiệp so với tổng dân số
tham gia lực lượng lao động đạt 12,16% năm 2009 tăng lên 15,8% năm
2012; so với lao động làm công ăn lương tăng từ 37% lên trên 46,5%.
Đáng chú ý, do khủng hoảng kinh tế, số lượng lao động nhận trợ cấp
BH thất nghiệp (đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, bảo hiểm thất nghiệp)
293
tăng mạnh trong thời kỳ 2010-2012, từ 282,6 nghìn người lên 658,6 ngàn
người, tốc độ tăng 52,7%, trong đó, số hưởng bảo hiểm thất nghiệp tăng từ
156,8 ngàn người lên 405,6 ngàn người, tốc độ tăng cao hơn, khoảng
60,8%/năm.
III. THỰC TRẠNG ĐỘ BAO PHỦ CỦA CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ
1. Độ bao phủ tiềm năng của chính sách bảo hiểm y tế
Về nguyên tắc, bất kỳ cá nhân nào cũng đều có quyền và nhu cầu
được bảo đảm các quyền lợi về y tế, chăm sóc sức khỏe, chính vì vậy, độ
bao phủ tiềm năng của BHYT là 100% dân số tham gia BHYT.
2. Độ bao phủ theo luật định của bảo hiểm y tế (BHYT)
Từ năm 1998 đến nay, với việc áp dụng 2 loại hình BHYT gồm: i)
BHYT bắt buộc đối với các đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc;
và ii) BHYT tự nguyện, độ bao phủ theo luật định của BHYT đã đảm bảo
điều chỉnh đến mọi thành viên trong xã hội, đáp ứng được 100% nhu cầu về
BHYT của toàn bộ dân cư.
3. Độ bao phủ thực tế (theo chiều rộng) của chính sách bảo hiểm y tế
a) Về số lượng người dân tham gia
Giai đoạn 2005-2012, với những điều chỉnh của chính sách, số lượng
người tham gia BHYT đã tăng nhanh, từ 32,3 triệu người lên 59,3 triệu
người, tốc độ tăng rất cao, khoảng 9,5%/năm.
- Đối với BHYT bắt buộc: Số người tham gia BHYT bắt buộc tăng
14,3%/năm; Năm 2005, với 5 nhóm đối tượng thuộc diện điều chỉnh của
chính sách, số người tham gia BHYT đạt tổng số 23,1 triệu người; Giai đoạn
2006-2008, đối tượng chính sách đã điều chỉnh từ 5 nhóm lên 14 nhóm, số
người tham gia BHYT tăng lên, đạt 29,1 triệu người năm 2008, tăng 1,3 lần
so với năm 2005. Từ năm 2009 đến nay, điều chính đối tượng của chính
sách BHYT bắt buộc áp dụng cho 25 nhóm, đã tăng nhanh số người tham
gia, đạt 53,8 triệu người vào năm 2012.
- Đối với BHYT tự nguyện: Do đối tượng BHXH bắt buộc càng mở
rộng, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện có xu hướng giảm dần, bình
quân mỗi năm giảm 11,0%, tuy không đồng đều. Giai đoạn 2005–2009, số
lượng người tham gia có xu hướng tăng nhanh, từ 9,1 triệu người năm 2005
294
lên 15,3 triệu người (tốc độ tăng 17,8%/năm); sau đó giảm năm 2010 (chỉ
còn 2,9 triệu người năm 2010), tăng chậm trở lại trong các năm 2011-2012,
đạt 5,5 triệu vào năm 2012.
b) Về tỷ lệ bao phủ thực tế (số lượng người tham gia BHYT/tổng dân số)
Số lượng người tham gia BHYT trong tổng dân số đã tăng từ 38,8%
năm 2005 lên 66,8% năm 2012.
- Đối với BHYT bắt buộc: Năm 2005, với 5 nhóm đối tượng thuộc
diện điều chỉnh của chính sách, tỷ lệ bao phủ thực tế là 27,8%; giai đoạn
2006-2008, với 14 nhóm đối tượng, tỷ lệ bao phủ thực tế tăng lên 34,1%, và
từ năm 2009 đến nay, với 25 nhóm đối tượng, tỷ lệ bao phủ thực tế đã tăng
lên 60,6%.
- Đối với BHYT tự nguyện: Giai đoạn 2005-2009, tỷ lệ bao phủ của
BHXH tự nguyện có xu hướng tăng từ 11% lên (17,8%), tuy nhiên, sau năm
2009, do mở rộng đối tượng BHXH bắt buộc, số đối tượng tham gia BHXH
tự nguyện giảm mạnh, tỷ lệ bao phủ giảm còn 4,5%, và sau đó tăng nhẹ, đạt
6,2% vào năm 2012.
4. Độ bao phủ về hiệu quả (theo chiều sâu) của chính sách bảo hiểm y tế
a) Về mạng lưới y tế
Mạng lưới y tế ngày càng được mở rộng và xã hội hóa: năm 2012, có
12,5 nghìn cơ sở khám chữa bệnh ký hợp đồng khám chữa bệnh cho người
có thẻ BHYT, tăng 1,1 lần so với năm 2009 (11,7 nghìn cơ sở), tốc độ tăng
bình quân 5,4%/năm.
Theo hình thức, trong khi các bệnh viện nhà nước tăng chậm (1,3%
trong cùng thời kỳ), mạng mạng lưới trạm y tế xã/phường đảm nhiệm khám
chữa bệnh BHYT tăng nhanh (từ 9,45 nghìn lên 10,1 nghìn cơ sở, tốc độ
tăng 6,2%/năm) đã giúp cho người dân tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ cơ bản; chính sách xã hội hóa y tế được mở rộng, số
bệnh viện tư nhân đã tăng rất nhanh (21%/năm), góp phần giảm tải áp lực
cho bệnh viện công và đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của các tầng lớp
dân cư khác nhau.
295
b) Về số lượng người khám chữa bệnh
Cùng với sự gia tăng về số người tham gia BHYT và mạng lưới trạm y
tế xã khám chữa bệnh BHYT, số lượt người có thẻ BHYT đi khám chữa
bệnh ở các tuyến, đặc biệt ở tuyến xã và huyện đã tăng mạnh. Trong năm
2012 đã có 121,3 triệu lượt người, tăng 1,3 lần so với năm 2009 (92,1 triệu
lượt người), tốc độ tăng bình quân là 9,9%/năm;
Theo tuyến, tuyến y tế huyện có vai trò quan trọng, năm 2012 có 52,9
triệu lượt người (chiếm 43,6% tổng số người khám chữa bệnh); tiếp đó là
tuyến xã/phường, năm 2012 với 36,5 triệu lượt người (chiếm 30,1% tổng số
người khám chữa bệnh), đồng thời là tuyến có tỷ lệ người tăng cao nhất
(12,5%).
c) Về chi phí khám chữa bệnh
Chi phí khám chữa bệnh cho người tham gia BHYT năm 2010 đạt gần
18,9 nghìn tỷ đồng, tăng lên trên 23,3 nghìn tỷ đồng năm 2011. Mức chi phí
khám chữa bệnh bình quân/lượt khám chữa bệnh tăng từ 165,2 ngàn đồng
(2010) lên 192 ngàn đồng (2011), chủ yếu là từ các tuyến khác (chi phí
khám chữa bệnh tại tuyến xã/phường giảm nhẹ từ 32,6 ngàn đồng xuống
còn 32,38 ngàn đồng trong cùng thời kỳ)
d) Về cân đối thu - chi BHYT
Tỷ lệ chi/thu đầu thẻ giảm từ trên 74% năm 2010 lên gần 85% năm
2012. Quỹ BHYT tự nguyện có xu hướng kém bền vững khi mức chi vượt
xa mức thu, tỷ lệ chi/thu đầu thẻ giảm tăng từ 251% (2010) lên đến trên
596%, giảm xuống còn 308% năm 2012. Mức chi bình quân của 1 thẻ
BHYT bắt buộc thấp hơn mức thu, song tỷ lệ chi/thu cũng có xu hướng tăng
lên, từ trên 72,2% lên 75,6% trong cùng thời kỳ.
IV. THỰC TRẠNG ĐỘ BAO PHỦ CỦA CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƯỜNG XUYÊN
1. Độ bao phủ tiềm năng của chính sách TGXH thường xuyên
Các chính sách TGXH thường xuyên có vai trò rất quan trọng trong
việc hỗ trợ những người kém may mắn trong cuộc sống: Những rủi ro trong
đời sống có thể xảy ra bất cứ lúc nào và bất cứ với ai, do vậy, độ bao phủ
tiềm năng có thể là 100% dân số.
296
Tuy nhiên, về phương diện an sinh xã hội, các đối tượng cần phải
được bảo vệ thường xuyên trước hết là những người yếu thế: không có khả
năng tạo thu nhập, hoặc do quá trẻ, hoặc do quá già, hoặc trong độ tuổi lao
động những không có khả năng tạo thu nhập do không có việc làm, không
thể làm việc, người nghèo... chiếm khoảng 10% dân số.
2. Độ bao phủ theo luật định của chính sách trợ giúp thường xuyên
Thời kỳ 2000-2006, chính sách TGXH thường xuyên được áp dụng
đối với 4 nhóm đối tượng. Thời kỳ 2007-2009, đã tăng lên 9 nhóm đối
tượng hưởng TGXH thường xuyên, trong đó có quy định đối với một số
nhóm phải thuộc diện hộ nghèo. Từ năm 2010 đến nay, vẫn duy trì 9 nhóm
đối tượng hưởng lợi, tuy nhiên diện đối tượng hưởng lợi được mở rộng do
xóa bỏ quy định phải thuộc diện hộ nghèo đối với một số nhóm, điều chỉnh
giảm độ tuổi được nhận TGXH của người cao tuổi (theo quy định của Luật
người cao tuổi) và điều chỉnh điều kiện hưởng đối với người khuyết tật
(theo quy định của Luật Người khuyết tật).
Việc điều chỉnh chính sách đã tăng tỷ lệ đối tượng được chính sách
bao phủ so với đối tượng cần phải hỗ trợ tăng từ 39,3% năm 2000 lên gần
71% năm 2009.
3. Độ bao phủ thực tế (theo chiều rộng) của chính sách trợ giúp xã hội
Giai đoạn 2001-2006, với 4 nhóm TGXH thường xuyên, có tổng số
0,6 triệu người nhận trợ cấp xã hội thường xuyên, đạt tỷ lệ bao phủ thực tế
là 0,7%. Giai đoạn 2007-2009, với 9 nhóm TGXH thường xuyên, tổng số
đối tượng hưởng đã tăng mạnh, đến năm 2009 đạt 1,2 triệu người, đạt tỷ lệ
bao phủ thực tế 1,4%, tăng gấp 2 lần so với năm 2006. Từ năm 2010 đến
nay, do bỏ quy định phải thuộc hộ nghèo đối với người tàn tật và giảm độ
tuổi đối với người cao tuổi từ 85 xuống còn 80 tuổi, tổng số đối tượng
hưởng TCXH thường xuyên tăng lên 2,65 triệu người năm 2012, đạt tỷ lệ
bao phủ thực tế 3%.
4. Độ bao phủ về hiệu quả của chính sách trợ giúp xã hội
a) Về mức chuẩn trợ cấp thường xuyên
Mức chuẩn trợ cấp xã hội thường xuyên cho mỗi đối tượng thuộc diện
BTXH thời kỳ 2006-2012 được điều chỉnh tăng 3 lần, từ 65 nghìn
297
đồng/người/tháng (năm 2006) lên 180 nghìn đồng/người/tháng (áp dụng từ
năm 2010 đến nay).
So với mức lương tối thiểu, mức chuẩn trợ cấp xã hội thường xuyên
vẫn còn quá thấp, không thay đổi theo kịp xu hướng tăng của lương tối thiểu
(được điều chỉnh 5 lần, từ 450 nghìn đồng/tháng năm 2006 tăng lên 830
nghìn đồng/tháng năm 2011). Nhờ những điều chỉnh này mà sự chênh lệch
giữa mức chuẩn trợ cấp xã hội thường xuyên với mức lương tối thiểu đã
giảm từ 6,9 lần năm 2006 xuống còn 5,8 lần năm 2012.
b) Về hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội
Đến năm 2012 có tổng số 432 cơ sở bảo trợ xã hội (270 cơ sở công lập,
158 cơ sở dân lập) tổ chức nuôi dưỡng, chăm sóc thường xuyên khoảng 42
ngàn đối tượng xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không nơi nương tựa.
c) Ngân sách chi cho trợ cấp xã hội thường xuyên
Ngân sách đầu tư cho trợ giúp xã hội thường xuyên đã tăng mạnh, đạt
tốc độ tăng bình quân 52,6%/năm thời kỳ 2006-2012. Năm 2012, tổng kinh
phí chi TCXH thường xuyên đạt 8,74 nghìn tỷ đồng (chiếm 1,42% GDP),
cao hơn 20,3 lần so với năm 2006 (431 tỷ đồng, chiếm 0,1% GDP).
V. THỰC TRẠNG ĐỘ BAO PHỦ CỦA CHÍNH SÁCH THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG CHỦ ĐỘNG
1. Về độ bao phủ tiềm năng của chính sách thị trường lao động chủ động
Nhóm chính sách thị trường lao động hướng tới các rủi ro về lao động,
việc làm trong quá trình lao động, hướng tới can thiệp và bao phủ toàn bộ
lực lượng lao động nhằm mục tiêu bảo đảm cho mọi tầng lớp dân cư có
được việc làm, thu nhập và có được năng lực vật chất cần thiết để đối phó
tốt nhất với rủi ro. Như vậy, độ bao phủ tiềm năng của chính sách TTLĐ là
lực lượng lao động so với tổng dân số (tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
hoặc 100% LLLĐ.
2. Độ bao phủ theo luật định của chính sách TTLĐ chủ động
Thời kỳ 2001-2012, dân số nông thôn từ 15+ có xu hướng tăng nhẹ,
chỉ đạt 45,5 triệu năm 2012, tốc độ tăng 0,9%/năm; LLLĐ tăng chậm
298
(1,7%/năm), đạt 36,5 triệu người; tỷ lệ tham gia LLLĐ nông thôn tiếp tục
tăng nhẹ, đạt 80,15 năm 2020. Chuyển dịch cơ cấu lao động tiếp tục diễn ra,
mỗi năm giảm khoảng 0,14%, đặt ra nhu cầu phải có các chính sách đào tạo,
kết nối việc làm. Tỷ lệ LĐ không có CMKT cao (năm 2012 còn 55%) cho
thấy nhu cầu của lao động về đào tạo rất lớn.
3. Độ bao phủ thực tế (theo chiều rộng và chiều sâu) của chính
sách TTLĐ
a) Chính sách hỗ trợ tín dụng
Tổng dư nợ cho vay tín dụng đã tăng từ 10,3 nghìn tỷ đồng (2003) lên
88,1 nghìn tỷ đồng năm 2011, tốc độ tăng đạt 32,3%/năm. Kết quả, có 1,97
triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ vay vốn với
tổng dư nợ cho vay đạt 33,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8 lần so với năm 2009;
tổng dư nợ cho vay đối với hộ nghèo đạt 38,5 nghìn tỷ đồng và đối với hộ
sản xuất kinh doanh ở vùng khó khăn đạt 11 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2 lần so
với năm 2009.
b) Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Sau 3 năm thực hiện theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg, có khoảng
1,09 triệu lao động nông thôn được hỗ trợ đào tạo nghề, bình quân mỗi năm
có 0,36 triệu lao động được đào tạo. Năm 2012, tổng số lao động nông thôn
được hỗ trợ đào tạo nghề đạt 0,49 triệu người, tăng 1,9 lần so với năm 2010
(0,26 triệu người).
Tỷ lệ bao phủ thực tế của chính sách đối với nhóm lao động nông thôn
được hỗ trợ đào tạo nghề so với dân số nông thôn trong độ tuổi lao động
tăng từ 0,7% năm 2010 lên 1,2% năm 2012. So với kế hoạch đề ra (1 triệu
người/năm), tỷ lệ hiệu quả của chương trình mới đạt 26% năm 2010, tăng
lên đến 49% năm 2012.
Tổng kinh phí đầu tư cho công tác hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động
nông thôn theo Quyết định 1956/QĐ-TTg thời kỳ 2009-2012 đạt 4,78 nghìn
tỷ đồng, trong đó: 1,64 nghìn tỷ đồng cho hỗ trợ dạy nghề cho lao động
nông thôn, 2,93 nghìn tỷ đồng đầu tư cơ sở vật chất thiết bị dạy nghề và
0,25 nghìn tỷ đồng cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã.
299
Sau thời gian học nghề, số lượng lao động nông thôn có được việc làm
đạt 0,81 triệu người, chiếm 74,2% tổng số lao động được hỗ trợ học nghề.
c) Về phát triển thị trường lao động
Đến nay, đã có 150 trung tâm giới thiệu việc làm được thành lập, bình
quân mỗi năm tư vấn cho trên 603 nghìn lượt người tìm việc làm, giới thiệu và
cung ứng việc làm cho 230 nghìn người, dạy nghề cho trên 160 nghìn người(41).
Quỹ quốc gia về Việc làm đã trở thành “bà đỡ” kích cầu tạo việc làm
trong các cơ sở sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang trại,
làng nghề…), góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về việc làm; nhiều
mô hình tạo việc làm có hiệu quả, lồng ghép với các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương đã tăng cường cơ hội việc làm cho người
khuyết tật, người dân tộc thiểu số, lao động nữ, lao động vùng chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp..., hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu lao động
trong ngành nông nghiệp, nông thôn, nông thôn-đô thị. Kết quả, thời kỳ
2005-2012, mỗi năm Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm tạo việc làm cho
khoảng 350 nghìn lao động, trong đó lao động thanh niên chiếm 40%, tương
đương với 30% số việc làm mới.
d) Về chương trình hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài
Giai đoạn 2005-2012, số lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài có xu hướng tăng mạnh, bình quân mỗi năm có 81,1 nghìn người, tốc
độ tăng 1,57%, đạt 80,3 nghìn người năm 2012.
Về độ bao phủ, chính sách hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài mới khoảng 0,12% tổng dân số từ 15 tuổi trở lên và khoảng
0,15% trong độ tuổi lao động.
VI. THỰC TRẠNG ĐỘ BAO PHỦ CỦA CHÍNH SÁCH DỊCH VỤ XÃ HỘI (DVXH)
1. Độ bao phủ tiềm năng của chính sách dịch vụ xã hội
Về nguyên tắc, mỗi cá nhân đều có quyền và nhu cầu được thụ hưởng
các chính sách đảm bảo nhu cầu tối thiểu về y tế, giáo dục, nhà ở,... Như
vậy, độ bao phủ tiềm năng của DVXH cần đảm bảo 100% dân số.
(41)
Viện KHLĐXH - Báo cáo xây dựng Nghị quyết số 15 ngày 1/6/2012 của BCH
TW Đảng khóa XI, 2012
300
2. Độ bao phủ thực tế (theo chiều rộng và chiều sâu) của chính sách DVXH
a) Về chính sách bảo đảm y tế tối thiểu đối với người cao tuổi
Qua 4 lần điều chỉnh diện đối tượng áp dụng chính sách cấp thẻ
BHYT miễn phí từ năm 2002 đến nay, số lượng người cao tuổi được cấp thẻ
BHYT miễn phí tăng nhanh, đến năm 2009 đạt 373,7 nghìn người, tăng gấp
4 lần so với năm 2007 (104,6 nghìn người), đạt tốc độ tăng bình quân thời
kỳ 2007-2009 là 89%/năm.
Tỷ lệ bao phủ thực tế của chính sách bảo đảm y tế tối thiểu đối với
người cao tuổi (được đo bằng số lượng người cao tuổi được cấp thẻ BHYT
so với tổng dân số từ 60 tuổi trở lên) đến năm 2009 đạt 5%, tăng 3,8 điểm %
so với năm 2007.
Thời kỳ 2007-2009, số lượt người cao tuổi sử dụng thẻ BHYT cho
khám chữa bệnh đã tăng mạnh, đến năm 2009 đạt tổng số 596,8 nghìn lượt
người khám chữa bệnh, tăng 4,2 lần so với năm 2007 (141,4 nghìn lượt
người) và tốc độ tăng bình quân đạt 105,5%/năm. Tổng chi cho khám chữa
bệnh năm 2009 đạt 115,9 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2 lần so với năm 2006 và đạt
tốc độ tăng bình quân 148,5%/năm.
b) Chương trình bảo đảm y tế tối thiểu cho các nhóm đối tượng đặc
thù khác đã đạt được những kết quả đáng kể
Trong giai đoạn 2009-2012, tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi giảm từ
16‰ xuống 15,8‰; tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi, giảm từ 25,5‰
xuống 23,8‰; và tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân đã
giảm từ 17,5% xuống còn 16,3%; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi
thể thấp còi giảm từ 29,3% xuống 26,5%; năm 2012, tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi
được miễn dịch đầy đủ đạt 98,2%;
Tỷ lệ phụ nữ mang thai được khám thai từ 3 lần trở lên tăng từ 81,9%
lên 87,4%(42); Tuổi thọ trung bình của dân số Việt Nam đạt 73,2 tuổi.
Đến năm 2012, BHYT chiếm 68% dân số cả nước(43), trong đó Nhà
nước hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ cho khoảng 2/3 78% số người tham gia.
(42)
Bộ Y tế, Báo cáo tổng kết công tác y tế năm 2012.
301
c) Chính sách hỗ trợ bảo đảm giáo dục tối thiểu
Giai đoạn 2001-2010, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học tăng nhanh,
trong đó mẫu giáo 5 tuổi tăng từ 72% lên 98%, tiểu học từ 94% lên 97%,
THCS từ 70% lên 83%, PTTH từ 33% lên 50%;
Năm học 2012-2013, tỷ lệ huy động trẻ mầm non đến trường ở tất cả
các độ tuổi đều tăng so với năm học 2011-2012, trong đó trẻ nhà trẻ đạt tỷ lệ
23,0% (tăng 0,3%), trẻ mẫu giáo đạt tỉ lệ 86,5% (tăng 2,1%), riêng trẻ mẫu
giáo 5 tuổi đến trường đạt tỷ lệ 99,7% (tăng 1,1%), tỷ lệ trẻ được ăn bán trú
tại trường, lớp mầm non đạt 73,89% (tăng 3,01%).
Quy mô đào tạo nghề tăng 3,08 lần, trung cấp chuyên nghiệp tăng
2,69 lần, quy mô giáo dục đại học tăng 2,35 lần, tổng số sinh viên trên một
vạn dân đạt 250. Năm 2012, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 45%, trong
đó, lao động qua đào tạo nghề là 28%, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của
thị trường lao động; mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển nhanh chóng với 3
cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề), đến năm 2011
cả nước đã có 123 trường cao đẳng nghề, 303 trường trung cấp nghề.
Thực hiện Đề án xây dựng xã hội học tập và Đề án xóa mù chữ đến
năm 2020, năm học 2012-2013, cả nước có 67,5 nghìn trẻ khuyết tật theo
học cấp tiểu học tại 107 cơ sở giáo dục chuyên biệt và 11 Trung tâm giáo
dục trẻ khuyết tật.
d) Về bảo đảm nhà ở tối thiểu
Thực hiện Quyết định 134/2004/QĐ-TTg và Quyết định 198/2007/
QĐ-TTg, từ năm 2004 đến năm 2008 ngân sách trung ương đã bố trí 4.527
tỷ đồng để hỗ trợ nhà ở cho 370 nghìn hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo.
Thực hiện Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg, ngân sách trung ương đã bổ
sung tiếp trong 2 năm 2009 - 2010 là 400 tỷ đồng. Thực hiện Quyết định
167/2008/QĐ-TTg và Quyết định 67/2010/QĐ-TTg, đến hết năm 2011 đã
giải ngân 10.608 tỷ đồng hỗ trợ nhà ở cho 470 nghìn hộ, đạt 95,3% so với
(43)
. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, số thu BHYT năm 2003 là gần 2,03 nghìn
tỷ đồng.
302
dự kiến ban đầu (496.025 hộ) và 84,7% so với số hộ sau khi điều chỉnh bổ
sung theo Quyết định 67/2010/QĐ-TTg (557.800 hộ).
Thời kỳ 2002-2010, số hộ gia đình sống trong nhà kiên cố tăng từ
17,2% lên 49,2%. Trong 10 năm đã xoá nhà tạm cho khoảng 1 triệu hộ
nghèo. Số hộ gia đình phải sống trong nhà tạm giảm từ 24,6% xuống 5,6%
trong cùng thời kỳ, số hộ sống trong nhà thiếu kiến cố chỉ là 7,5%.
e) Về bảo đảm nước sạch và vệ sinh môi trường
Giai đoạn 2006-2010 đã cơ bản đạt được mục tiêu đề ra. Theo tổng
điều tra Nông nghiệp, nông thôn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, đến năm 2011 có 45,5% số xã có công trình cấp nước sạch sinh hoạt
tập trung; 18,3% số xã có xây hệ thống thoát nước thải chung 43,5% số xã
có tổ chức thu gom rác thải tập trung nhằm cải thiện vệ sinh môi trường. Tỷ
lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 80% năm 2010,
trung bình mỗi năm tăng 4,2%, có 8/63 tỉnh đã đạt được tỷ lệ trên 90%.
Tổng nguồn vốn huy động giai đoạn 2006-2010 đạt 20.700 tỷ đồng,
trong đó nguồn từ ngân sách nhà nước là 5.241 tỷ đồng cho xây dựng gần
1.600 công trình cấp nước tập trung tại các xã 135.
f) Về bảo đảm thông tin, truyền thông
Thông qua việc chương trình đảm bảo thông tin, truyền thông, nhà
nước đã cấp miễn phí 18 đầu báo, tạp chí và chuyên đề cho vùng dân tộc
thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn với tổng số lượng báo, tạp chí,
chuyên đề phát hành hàng năm trên 31 triệu tờ. Mạng thông tin viễn thông
đã cơ bản phủ khắp cả nước, 84,6% các xã đã được phủ sóng phát thanh
truyền hình. Nhiều đài trung ương và địa phương đã có chương trình phát
thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc.
Tỷ lệ hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam đạt 100%, tỷ lệ hộ xem
được đài truyền hình VN đạt 99,5%.
Ngân sách Trung ương đã chi 459 tỷ đồng trong giai đoạn 2006–2010
để thực hiện các hoạt động cung cấp báo chí, xây dựng các chương trình
truyền thong và cải thiện cơ sở hạ tầng thông tin, truyền thông cho các vùng
miền núi, dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn...
303
CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN, MỞ RỘNG ĐỘ BAO PHỦ
CỦA AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2013-2020
I. NGUYÊN TẮC MỞ RỘNG ĐỘ BAO PHỦ CỦA AN SINH XÃ HỘI GIAI
ĐOẠN 2013-2020
1. Đảm bảo quyền cơ bản của con người về an sinh xã hội
ASXH liên quan đến đảm bảo nhu cầu sống cơ bản của con người
(quyền con người), do vậy, phải hướng đến bao phủ mọi thành viên trong xã
hội (bao phủ toàn đân, nhất là đối với nhóm xã hội nghèo, yếu thế và dễ bị
tổn thương nhằm đảm bảo an toàn cuộc sống cho họ trong trường hợp rủi ro
làm suy giảm về kinh tế hoặc làm mất khả năng bảo đảm về kinh tế.
2. Bảo đảm công bằng về chính sách ASXH, hướng đến giảm
nghèo bền vững
Các chính sách ASXH là toàn dân, nhưng mỗi nhóm người dân lại có
hoàn cảnh, khả năng tiếp cận hệ thống ASXH khác nhau, do vậy, các chính
sách ASXH phải được thiết kế bảo đảm sự công bằng ngay trong các nhóm
đối tượng tham gia và được hưởng lợi, có những giải pháp thích hợp đối với
nhóm đối tượng đặc thù.
3. Bảo đảm công khai, minh bạch
Trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách ASXH phải
bảo đảm tính công khai, minh bạch về chính sách, chế độ, quyền lợi và trách
nhiệm của các chủ thể, của đối tượng ASXH. Điều này sẽ làm tăng nhận
thức, sự tin tưởng của người dân để tham gia vào hệ thống ASXH, bên cạnh
đó, tham gia giám sát thực hiện chính sách ASXH để bảo đảm đúng đối
tượng, tránh rò rỉ, gian lận, tiêu cực.
4. Bảo đảm bền vững về tài chính
Một trong những yêu cầu cơ bản để mở rộng ASXH đó là tăng cường
tiềm lực tài chính. Phát triển ASXH phải đồng thời thiết lập thể chế về tài
chính (huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả) cho phù hợp và phải bảo
đảm tính bền vững về tài chính. Nguồn lực chủ yếu của ASXH là từ ngân
sách Nhà nước và Nhà nước cần phải cam kết, chủ động bố trí nguồn lực
cho việc thực hiện các chính sách ASXH. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế
304
huy động nguồn lực từ các tổ chức kinh tế, đoàn thể xã hội, cá nhân, các tổ
chức phi chính phủ, nguồn lực từ hợp tác và hỗ trợ quốc tế.
5. Bảo đảm vai trò bảo trợ của Nhà nước đối với ASXH
ASXH liên quan đến khu vực công và trách nhiệm chính thuộc về Nhà
nước. Nhà nước phải bảo đảm cho mọi người dân có việc làm bền vững,
được tham gia hệ thống ASXH và hỗ trợ ở mức tối thiểu đối với người có
hoàn cảnh đặc biệt để bảo đảm rằng không một ai bị gạt ra bên lề xã hội
(không bị loại trừ xã hội).
6. Tiến hành các cải cách hành chính về ASXH và cải cách kinh tế xã hội khác
Việc xây dựng hệ thống ASXH bền vững đòi hỏi phải tiến hành các
cải cách hành chính để bảo đảm các chính sách được tuân thủ tốt hơn và
hiệu quả hơn, trong khi các cải cách kinh tế xã hội (đặc biệt là cải cách thị
trường tài chính) có tác động đến tạo môi trường tài chính để tiến hành các
cải cách chính sách ASXH (quỹ bảo hiểm xã hội…).
II. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN, MỞ RỘNG ĐỘ BAO PHỦ CỦA AN SINH XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2013-2020
1. Các giải pháp về chính sách
Chính sách thị trường lao động và việc làm
a. Căn cứ luật pháp
Bên cạnh việc thực hiện Bộ Luật Lao động (hiệu lực từ 1/5/2013), cần
thiếp tục hoàn thiện Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng, Luật Dạy nghề và các luật có liên quan khác; xây
dựng Luật Việc làm, Luật tiền lương tối thiểu trong nhiệm kỳ Quốc hội
khoá XIII.
b. Về bổ sung chính sách
Nghiên cứu thực hiện chính sách Việc làm công.
c. Về hoàn thiện chính sách
- Chính sách tín dụng
305
Cần nghiên cứu, rà soát các chính sách tín dụng ưu đãi hiện hành, làm
cơ sở để xây dựng một hệ thống chính sách tín dụng ưu đãi thống nhất, đơn
giản và có hiệu quả.
- Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề
Các chính sách này cần sửa đổi theo hướng: Giảm chồng chéo về đối
tượng, tăng mức hỗ trợ theo sát chi phí học nghề cho từng loại nghề; có
chính sách khuyến khích các cơ sở đào tạo nghề và giao viên dạy nghề; gắn
đào tạo nghề với tạo việc làm.
Nghiên cứu hình thành Chương trình mục tiêu phát triển doanh nghiệp
(đặc biệt là DN nhỏ và vừa ngoài quốc doanh) giai đoạn đến năm 2020. Tiếp
tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia dạy nghề và việc làm giai
đoạn 2011 - 2015.
Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động để đảm bảo mục tiêu
đến 2020, 50% người có nhu cầu tìm việc qua trung tâm, cần phải: Tăng
cường cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật cho các trung tâm dịch vụ việc làm
công, nhất là các trung tâm quốc gia và sàn giao dịch việc làm, theo quy
hoạch tổng thể được duyệt.
Chính sách bảo hiểm xã hội
a) Về khuôn khổ pháp luật
Tiếp tục hoàn thiện Luật BHXH hiện hành phù hợp với các yêu cầu
mới của thị trường lao động và ASXH.
b) Về bổ sung chính sách
Nghiên cứu chính sách hỗ trợ mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự
nguyện của khu vực nông thôn, khu vực phi kết cấu.
- Chính sách bảo hiểm hưu trí bổ sung
BH hưu trí bổ sung là hình thức BH hưu trí tự nguyện trên cơ sở thỏa
thuận giữa các bên tham gia nhằm tăng cường khả năng tự ASXH.
c) Về điều chỉnh, mở rộng diện bao phủ của các chính sách hiện hành
- Chính sách lương hưu xã hội
306
Lương hưu xã hội là khoản trợ cấp hàng tháng bằng tiền mặt và các
trợ giúp xã hội khác của Nhà nước, trước hết là BHYT, nhà ở...cho người
cao tuổi không có nguồn thu nhập ổn định (còn gọi là trợ cấp tuổi già). Mức
hưu trí xã hội được xác định trên cơ sở chuẩn nhu cầu mức sống tối thiểu và
độ tuổi của người già.
- Chính sách BHXH bắt buộc
Tăng cường chế tài, sử phạt các trường hợp không tuân thủ tham gia
BHXH bắt buộc.
- Chính sách BHXH tự nguyện
Tiếp tục hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện, nhằm tăng cường
khả năng tiếp cận của người lao động theo hướng: Linh hoạt mức đóng và
mức hưởng phù hợp với điều kiện và tính chất thu nhập của các nhóm lao
động khu vực phi chính thức; Cho phép giảm bớt thời gian hoặc mua thêm
thời gian tham gia còn thiếu đối với lao động nữ trên 40 tuổi và lao động
nam trên 45 tuổi tham gia BHXH ( theo quy định của Luật BHXH, người
lao động phải có đủ 20 năm đóng mới được hưởng BHXH); bảo đảm bình
đẳng về chính sách và chế độ giữa BHXH bắt buộc và tự nguyện để khuyến
khích người dân tham gia BHXH tự nguyện.
- Chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Trong thời gian tới, cần phải mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm
thất nghiệp cho toàn thể người lao động làm việc theo HĐLĐ, không phụ
thuộc vào quy mô doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cần phải tăng cường hiệu quả sử dụng BHTN, các qui
định về điều kiện hưởng, mức đóng, mức hưởng.. cần phải tiếp tục hoàn
thiện nhằm tăng cường hiệu quả của trợ cấp thất nghiệp, tránh trục lợi, lạm
dụng quĩ.
d) Về tăng cường hiệu quả của hệ thống BHXH
Phát triển hệ thống BHXH hiện đại, chuyên nghiệp, tiến tới thực hiện
quản l ý đối tượng của BHXH theo mã số cá nhân.
Hoàn thiện việc chi trả, theo dõi đối tượng BHXH, xóa bỏ yếu tố “hộ
khẩu” trong việc tổ chức tham gia đóng- hưởng BHXH.
307
Chính sách giảm nghèo bền vững
a) Về khuôn khổ pháp luật
Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Nghị quyết 30a, Nghị quyết 80
của Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, ưu tiên
người nghèo, là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã
an toàn khu, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo.
Rà soát các chính sách hiện hành, đơn giản chính sách, chống chồng
chéo về chính sách và đối tượng thực hiện; Tiếp cận nghèo đa chiều, xây
dựng gói chính sách tổng thể hỗ trợ hộ nghèo nhằm tăng cường tiếp cận của
các hộ nghèo các dịnh vụ xã hội cơ bản, nhất là giáo dục, y tế, nhà ở, nước
sách sinh hoạt...;
Tập trung hỗ trợ hộ nghèo tại các vùng đặc biệt khó khăn, vùng miền
núi, đồng bào dân tộc thiểu số.
b) Về hoàn thiện các chính sách hiện hành
- Đối với người nghèo có khả năng thoát nghèo
Tăng cường chính sách thị trường lao động tích cực thông qua chính
sách tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất, đa dạng hóa thu nhập, đào tạo nghề,
thông tin thị trường lao động; Kết hợp các chính sách hỗ trợ tiền mặt để bảo
đảm thu nhập tối thiểu, đủ điều kiện cho trẻ em học hành, được chăm sóc y
tế, chống suy dinh dưỡng.
- Đối với các hộ nghèo không có khả năng thoát nghèo
Chuyển sang hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên, kết hợp các chính
sách hỗ trợ tiền mặt đối với trẻ em để bảo đảm được học hành, được chăm
sóc y tế, chống suy dinh dưỡng.
Chính sách trợ giúp xã hội
a) Về khuôn khổ luật pháp
Sửa đổi bổ sung Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và Nghị định số
13/2009/NĐ-CP.
308
Rà soát lại diện hưởng chính sách, bảo đảm mọi người thuộc diện đều
được hưởng đầy đủ, kịp thời. Rà soát tổng thể các chính sách hỗ trợ hiện
hành, tiến tới xây dựng một gói trợ cấp chung cho các hộ gia đình, người
dân thuộc diện thụ hưởng.
Xây dựng mức sống tối thiểu để mở rộng diện bao phủ ASXH; hướng
tới bảo đảm cho mọi người dân khi có thu nhập dưới mức sống tối thiểu đều
nhận được TGXH. Mức trợ giúp được căn cứ vào mức thiếu hụt giữa thu
nhập hiện tại của đối tượng so với mức sống tối thiểu.
b) Về bổ sung chính sách
- Hình thành quĩ dự phòng trợ giúp đột xuất tại các địa phương
(cấp xã)
Mở rộng các hình thức hỗ trợ phi chính thức ở cộng đồng nhằm giúp
các địa phương bổ sung nguồn lực và hỗ trợ kịp thời khi bị rủi ro đột xuất
như thiên tai, dịch bệnh, tác động của khủng hoảng, cải cách kinh tế... Bổ
sung, sửa đổi Nghị định số 64/2008/NĐ-CP cho phép các thôn bản, làng xã
chủ động thành lập quỹ với sự đóng góp của người dân trên địa bàn và huy
động sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức, các cá nhân trong và ngoài
nước cũng như các đối tác xã hội khác.
- Xây dựng đồng bộ và toàn diện chính sách hỗ trợ trẻ em
Tích hợp các chính sách hỗ trợ trẻ em, kết hợp với chính sách giảm
nghèo để nâng cao điều kiện y tế, giáo dục cho trẻ em (được hỗ trợ tiền để
đi học theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP và các uu tiên khác).
c) Về sửa đổi chính sách hiện hành
- Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về Người cao tuổi
Giảm tuổi được nhận trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi không có
lương hưu/trợ cấp xã hội xuống còn 75 tuổi vào năm 2020);
- Tăng cường mô hình TGXH đối với người tàn tật, trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, người già cô đơn không nơi nương tựa dựa vào
cộng đồng;
- Tăng cường hiệu quả trợ giúp đột xuất
309
Bảo đảm người dân khi gặp rủi ro được hỗ trợ kịp thời để vượt qua
khó khăn, khôi phục sản xuất, việc làm, bảo đảm thu nhập, ổn định cuộc
sống. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương thức tổ chức thực hiện trợ
giúp đột xuất; huy động cộng đồng nhằm giúp các địa phương hỗ trợ kịp
thời người dân khắc phục rủi ro đột xuất.
- Phát triển nghề công tác xã hội, tăng cường dịch vụ xã hội thân
thiện đối với các nhóm dễ bị tổn thương.
Chính sách bảo đảm mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ bản cho
người dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh
khó khăn
a) Chính sách bảo đảm giáo dục tối thiểu
Nâng cao chất lượng phổ cập tiểu học và trung học cơ sở, nâng cao
chất lượng giáo dục phổ thông, dạy nghề và đào tạo đại học, cao đẳng.
Giảm chênh lệch về giáo dục cho người nghèo, dân tộc thiểu số và trẻ
em có hoàn cảnh khó khăn:
Mở rộng và tăng cường các chế độ hỗ trợ đi học đối với thanh, thiếu
niên con em hộ nghèo, người dân tộc thiểu số ở các huyện nghèo, xã nghèo,
thôn bản đặc biệt khó khăn.
Tăng quy mô số lượng học sinh trong các trường dân tộc nội trú, mở
rộng mô hình trường bán trú.
b) Chính sách bảo đảm y tế tối thiểu
- Tiếp tục hoàn thiện Luật BHYT để đạt được mục tiêu bao phủ toàn
dân, chính sách khuyến khích người dân, nhất là người dân có thu nhập từ
dưới trung bình trở xuống tham gia bảo hiểm y tế.
Đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, phổ biến và thực hiện Luật Bảo
hiểm y tế. Nâng cao nhận thức và ý thức của người dân tham gia BHYT, đặc
biệt chú trọng đối với nhóm người lao động trong khu vực phi chính thức,
người dân sinh sống ở khu vực nông thôn(44).
(44)
Theo Luật Bảo hiểm y tế hiện hành, khoảng 20% đối tượng thuộc khu vực
chính thức, 30% đối tượng được Nhà nước hỗ trợ toàn phần hoặc một phần phí
đóng BHYT. Những đối tượng này có nhiều cơ hội và điều kiện để tham gia BHYT;
310
- Đổi mới công tác quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế
Tiếp tục hoàn thiện mức đóng, hưởng BHYT để đảm bảo khả năng cân đối Quỹ BHYT. Tăng cường tiếp cận dịch vụ BHYT, chất lượng dịch vụ y tế đối với người hưởng dịch vụ BHYT.
Tiếp tục chính sách hỗ trợ mua BHYT cho người nghèo, cận nghèo và các đối tượng khác để mở rộng độ bao phủ của BHYT.
- Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu đối với bà mẹ và trẻ em
Cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản cho nhân dân, đặc biệt là phụ nữ mang thai và trẻ em ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Tăng tỷ lệ chi tiêu cho y tế trong tổng chi ngân sách Nhà nước
Lập quỹ hỗ trợ BHYT đối với người mắc bệnh nặng, bệnh hiểm nghèo phải điều trị dài ngày từ nhiều nguồn (hỗ trợ từ NSNN, đóng góp tự nguyền của cộng đồng, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân trong, ngoài nước...) và có sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
- Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả Chương trình phòng, chống lao quốc gia, giảm mạnh số người bị lao và chết vì lao, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam ra khỏi danh sách 20 nước bệnh lao nặng nhất thế giới.
c) Chính sách bảo đảm nhà ở tối thiểu
- Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Ưu tiên cải thiện điều kiện ở cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị, từng bước giải quyết nhu cầu về nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp, học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, trung học và dạy nghề.
Tiếp tục thực hiện chương trình xoá nhà tạm hiện hành và chương trình xóa nhà tạm cho 900 nghìn hộ nghèo bổ sung cho giai đoạn 2013-2020.
Đổi mới cơ chế hỗ trợ nhà ở cho người thu nhập thấp ở đô thị, hỗ trợ
để có giá thuê, giá mua hợp lý với các đối tượng.
tuy nhiên, sẽ khó thu hút được 50% số đối tượng còn lại (là lao động hộ gia đình,
lao động tự làm…) tham gia BHYT.
311
Tập trung khắc phục những khó khăn về đất đai, quy hoạch, vốn, thủ
tục, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh doanh tham gia thực hiện các dự án
phát triển nhà ở xã hội, có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư xây
dựng nhà ở tại các khu công nghiệp.
d) Chính sách bảo đảm nước sạch
- Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2012-2015 và các năm tiếp theo.
Cải thiện cơ bản tình hình sử dụng nước sạch của dân cư, đặc biệt là
dân nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu
nước sinh hoạt ở những vùng khó khăn, vùng núi cao, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, người dân ở miền núi, hải đảo, vùng ngập lũ, vùng bị nhiễm
mặn do nước biển dâng.
e) Chính sách bảo đảm thông tin
Đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Đưa thông tin về
cơ sở, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo giai đoạn 2012-
2015 và các năm sau.
Tăng cường thông tin truyền thông đến người dân nghèo, vùng nghèo,
vùng khó khăn. Khôi phục, củng cố và phát triển mạng lưới thông tin cơ sở
bảo đảm đưa thông tin nhanh chóng, phù hợp với các tầng lớp nhân dân,
nhất là với đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển
và hải đảo.
Về cung cấp dịch vụ ASXH
- Tăng cường xã hội hoá cung cấp dịch vụ ASXH với 3 nhóm cung
cấp chủ yếu gồm:
Nhóm các cơ sở cung cấp dịch vụ ASXH công do Nhà nước đầu tư và
chi thường xuyên từ ngân sách Nhà nước, đối tượng hưởng miễn phí nhưng
áp dụng cơ chế đơn vị sự nghiệp 100% ngân sách Nhà nước cấp và khoán
chi hành chính.
Nhóm các cơ sở cung cấp dịch vụ ASXH do Nhà nước và nhân dân
cùng làm. Nhà nước đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở và áp dụng cơ chế đơn
vị sự nghiệp tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có thu phí, hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận.
312
Nhóm các cơ sở cung cấp dịch vụ ASXH do tư nhân thực hiện theo cơ
chế thị trường, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Nhà nước quy định các điều
kiện thành lập và hoạt động, được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ.
Về chính sách đầu tư
Ngân sách TW tập trung đầu tư vào các cơ sở công lập trọng điểm, có
tính chất quốc gia; hỗ trợ địa phương đầu tư hạ tầng các cơ sở do địa
phương quản lý;
Khuyến khích các đối tác xã hội đầu tư phát triển các cơ sở cung cấp
dịch vụ ASXH tại cộng đồng; cho phép khu vực tư nhân đầu tư có điều kiện.
Về chính sách đất đai
Các cơ sở do Nhà nước hoặc Nhà nước và dân cùng làm được cấp đất
hoặc thuê đất dài hạn với giá ưu đãi để xây dựng cơ sở theo quy hoạch được
duyệt. Các cơ sở do tư nhân có thể được ưu tiên trong thuê hoặc mượn đất.
Về chính sách thuế
Các cơ sở do Nhà nước hoặc Nhà nước và nhân dân cùng làm được
miễn thuế hoặc giảm thuế theo chính sách hiện hành. Các cơ sở hoạt động
theo cơ chế thị trường được xét giảm thuế trong các trường hợp cần thiết.
2. Các giải pháp về cơ chế thực hiện
Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về ASXH
a) Quy hoạch, xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án ASXH
Phát triển ASXH và cung cấp các dịch vụ ASXH theo các Chương
trình mục tiêu quốc gia hoặc các Chương trình quốc gia (Chuơng trình mục
tiêu quốc gia về Dạy nghề và Việc làm; Chương trình mục tiêu quốc gia
giảm nghèo bền vững; Chương trình hành động phòng chống tệ nạn xã hội;
Các Chương trình quốc gia chăm sóc người cao tuổi, trẻ em, người khuyết
tật và các chương trình khác về ASXH.
b) Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiên các chính sách ASXH
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu, giám sát các kết quả và đánh giá tác động
của chương trình ASXH.
Bổ sung nhiệm vụ, củng cố hệ thống thanh tra về ASXH.
313
c) Hoàn thiện hệ thống tổ chức thực hiện nhiệm vụ ASXH
Trước mắt, cần xây dựng cơ chế hợp tác, phối hợp chặt chẽ giữa bộ
chủ trì với các bộ, ngành liên quan về thực hiện chính sách ASXH, tránh
chồng chéo, bỏ sót đối đượng và không công bằng.
Về lâu dài, giao quyền quản lý ASXH tổng thể cho Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội.
Tiếp tục phân cấp cho địa phương và cơ sở trong thực hiện chính
sách và cung cấp dịch vụ ASXH
Trao quyền chủ động, tự chủ và sáng tạo về các nhiệm vụ, nội dung
công việc, tổ chức bộ máy và nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính;
Thống nhất đầu mối thực hiện chính sách (ngành LĐTBXH), trọn gói
và duy nhất đối với hộ gia đình và cá nhân hưởng thụ (trong phạm vi tối đa)
Phát huy dân chủ, có sự tham gia, giám sát của người dân vào quá
trình thực hiện.
Phát huy vai trò tích cực của các đối tác xã hội tham gia phát triển
ASXH
Xây dựng khuôn khổ pháp luật và các giải pháp khuyến khích sự tham
gia của các tổ chức xã hội trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chương trình mục tiêu phát triển ASXH.
Tham gia giám sát, phản biện xã hội đối với các chủ chương, chính
sách, pháp luật về các lĩnh vực ASXH, bảo đảm các chính sách, chương
trình ASXH đúng đối tượng, đúng mục tiêu và đạt hiệu quả.
Hỗ trợ cộng đồng phát triển các chính sách, mô hình ASXH phù hợp
với nhu cầu của người dân và khả năng kinh phí;
Tham gia cung cấp dịch vụ công về ASXH và dịch vụ xã hội cơ bản,
hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, tự chủ và tự chịu trách nhiệm
Nâng cao năng lực tự an sinh của người dân và cộng đồng
Nâng cao năng lực và phát huy vai trò tự an sinh, nỗ lực vươn lên hòa
nhập tốt hơn vào cộng đồng để cùng phát triển của người dân và cộng đồng
Tăng cường thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của đối tượng
về ASXH và quyền ASXH, cũng như trách nhiệm của cá nhân và cộng
đồng; khơi dậy ý thức tự lực, nỗ lực vươn lên, tránh tự ty, thụ động vào sự
hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng.
314
3. Về năng lực tài chính
Nhu cầu chi an sinh xã hội
Giai đoạn 2013- 2020, bình quân mỗi năm chi khoảng 550 nghìn tỷ
đồng, bằng 10,5% GDP. Năm 2020, tổng chi cho ASXH đạt 920 nghìn tỷ
đồng, bằng khoảng 10,1% GDP.
Về huy động nguồn lực
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm ASXH. Giai đoạn
2012-2020, bình quân mỗi năm chi ngân sách nhà nước khoảng 235 nghìn
tỷ, bằng 43% tổng chi ASXH, bằng 13% tổng chi ngân sách nhà nước. Nhà
nước đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần các
nhóm yếu thế không có khả năng tham gia các chính sách ASXH theo
nguyên tắc đóng-hưởng (BHXH, BHYT...).
Theo thời gian, xã hội hóa huy động nguồn lực cho ASXH tăng dần
khiến tỷ trọng của nhà nước sẽ giảm đi. Năm 2020, ngân sách nhà nước chi
302 nghìn tỷ đồng, chiếm 32,8% tổng chi ASXH, bằng khoảng 10,7% tổng
chi ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, nhà nước cần tiếp tục tạo cơ chế huy động phần đóng
góp của tổ chức, cá nhân và các đối tác xã hội nhằm gắn kết giữa quyền lợi
và trách nhiệm, khả năng tự an sinh của người dân, tăng cường sự bền vững
tài chính của hệ thống an sinh xã hội.
Về phân bổ nguồn lực
Cơ cấu phân bổ nguồn lực ASXH sẽ tập trung cho 3 chính sách lớn, là
BHYT, trợ giúp xã hội và BHXH, phần chi cho chính sách TTLĐ và giám
sát truyền thông chiếm tỷ lệ nhỏ.
- Chính sách thị trường lao động: 3,61%;
- Chính sách bảo hiểm xã hội: 21,56%;
- Chính sách bảo hiểm y tế: 39,66%;
- Chính sách trợ giúp xã hội: 34,94%;
- Giám sát, đánh giá và truyền thông: 0,23%.
315
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHÍNH
SÁCH KHUYẾN KHÍCH THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỰ NGUYỆN ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NGHÈO, LAO ĐỘNG
LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ, NÔNG DÂN CÓ MỨC
THU NHẬP TỪ TRUNG BÌNH TRỞ XUỐNG
MÃ SỐ: CT2011-02-02
Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Khoa học LĐ & XH
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lưu Quang Tuấn
Thư ký: CN. Đinh Thị Vân
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH NGƯỜI DÂN THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
I. NỘI HÀM CỦA MỘT CHÍNH SÁCH BHXH KHUYẾN KHÍCH NGƯỜI DÂN TỰ NGUYỆN THAM GIA
Để người lao động tham gia chương trình thì sản phẩm của BHXH tự
nguyện phải được thiết kế sao cho sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người
lao động (khách hàng) và việc tổ chức triển khai (việc bán sản phẩm này
cho khách hàng) cũng là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của
chương trình. Nói cách khác, BHXH tự nguyện phải được coi như một một
dịch vụ tài chính hơn là một công việc hành chính và việc cung cấp dịch vụ
cũng phải coi người sử dụng dịch vụ là khách hàng và ở một mức độ nào đó
phải tuân thủ theo qui luật thị trường thì mới hiệu quả.
Để đưa ra và triển khai thành công một dịch vụ công mà ở đây là
BHXH tự nguyện, cần 4 yếu tố sau:
(1) Có thị trường hay có một lượng cầu đủ lớn về dịch vụ;
(2) Sản phẩm dịch vụ được thiết kế phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của
khách hàng;
(3) Tổ chức thực hiện hiệu quả;
316
(4) Có chiến lược tiếp thị xã hội phù hợp.
Để đảm bảo thành công thì tất cả các yếu tố phải được tổ chức tốt. Chỉ
thất bại tại một khâu nào đó cũng có thể làm cho chương trình thất bại.
Nhưng, nếu không xác định đúng thì sẽ không giải quyết được vấn đề. Công
tác hoạch định chính sách thường mắc hai lỗi là: (1) đưa ra chính sách duy ý
chí, không xem xét nhiều đến thị trường; và (2) quá tập trung vào vấn đề
đưa ra và sửa đổi chính sách nhưng lại ít tập trung vào vấn đề triển khai.
1. Thị trường
Thị trường là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong các yếu tố kể trên.
Trước khi đưa một sản phẩm mới vào một thị trường, điều đầu tiên cần biết
là có cầu về sản phẩm đó hay không, nói cách khác là có tồn tại một thị trường
về sản phẩm đó hay không. Đây là điều cơ bản nhưng chưa đủ bởi cầu thực
sự là lượng cầu có khả năng thanh toán. Vì vậy, trước hết cần đánh giá xem
có tồn tại một thị trường về BHXH tự nguyện hay không và trong đó cần
làm rõ giữa nhu cầu nói chung và cầu có khả năng thanh toán nói riêng.
Đối với vấn đề an sinh xã hội thì đạt được các mục tiêu xã hội là ưu
tiên hàng đầu nhưng vẫn phải chú ý đến công tác phát triển thị trường vì
BHXH tự nguyện bao gồm yếu tố tự do và nó đương nhiên cũng cần một số
người tham gia tối thiểu để đảm bảo hiệu suất kinh tế và qui luật số đông
trong bảo hiểm.
Có thị trường nhưng nếu trong thực tế thực hiện lại không thu hút được
khách hàng thì nguyên nhân có thể là do chính sách không phù hợp với nhu
cầu hoặc việc triển khai thực hiện chưa tốt hoặc cả 2 nguyên nhân trên.
2. Thiết kế sản phẩm phù hợp
BHXH tự nguyện sẽ càng hấp dẫn nếu người tham gia được hưởng
càng nhiều hay được hưởng với mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, với
nguyên tắc hoạt động của BHXH là có đóng thì mới có hưởng và đóng
nhiều hưởng nhiều thì việc nâng mức hưởng sẽ kéo theo tăng mức đóng. Do
vậy, công thức tính lương hưu phải đảm bảo nguyên tắc toán bảo hiểm. Nói
cách khác, các yếu tố cơ bản như số năm đóng, số năm hưởng, tỉ lệ tử vong,
lãi đầu tư cần được quan tâm đầy đủ khi thiết lập công thức tính toán.
317
Mô hình BHXH hoạt động theo nguyên tắc tọa thu tọa chi thường
không tính toán một cách đầy đủ các yếu tố kể trên. Do vậy, nếu tính không
chuẩn xác thì sẽ xảy ra hai trường hợp: tính thiếu và tính thừa. Hậu quả của
việc tính thiếu là quỹ sẽ mất khả năng thanh toán và dẫn đến sự đỗ vỡ
chương trình. Trường hợp tính thừa, tức là mức đóng góp quá cao so với
mức hưởng, kết quả cũng không tốt vì đây là một chính sách an sinh xã hội,
không phải là một hoạt động kinh doanh vì mục tiêu thu lời. Do vậy, cơ
quan thực hiện và cơ quan xây dựng chính sách cần tự kiểm duyệt và giám
sát để tránh không xảy ra trường hợp hoặc là tính thiếu hoặc là tính thừa.
3. Tổ chức thực hiện
Một sản phẩm dù được thiết kế tốt nhưng nếu tổ chức thực hiện lại
không hiệu quả thì cả chương trình sẽ không thành công. Một sản phẩm có
thể chưa hoàn hảo nhưng tổ chức thực hiện tốt cũng có thể cứu vãn được cả
chương trình. Trên thực tế, ít khi có ngay sản phẩm hoàn hảo từ ban đầu.
Phải trải qua một quá trình theo dõi phản hồi từ khách hàng, liên tục cải tiến
thì mới có sản phẩm tốt, chứ chưa nói đến hoàn hảo. Vì vậy, không thể kỳ
vọng có sản phẩm tốt ngay từ đầu. Ngay việc trả lời câu hỏi “tốt dựa trên
tiêu chí nào” cũng gây nhiều tranh cãi.
Liên quan đến trường hợp cụ thể của BHXH tự nguyện, nếu chỉ tập
trung vào sửa đổi chính sách, tức là điều chỉnh sản phẩm, thì chưa đủ mà
còn cần rà soát qui trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu suất hoạt động và chất
lượng dịch vụ hơn thay vì chỉ sửa đổi chính sách.
Chính sách cần có độ ổn định nhất định. Nếu thay đổi nhiều lần hoặc
trong thời gian ngắn quá, sẽ: (1) gây tác động tiêu cực đến qui trình hoạt
động vì cũng phải điều chỉnh theo; và (2) gây tâm lý không tốt đối với
khách hàng vì người mua hàng sẽ so sánh (người hài lòng thì ít, người bất
mãn thì nhiều).
Tổ chức thực hiện hiệu quả cần đạt hai mục tiêu: (1) mang lại dịch vụ
tốt, thuận lợi cho khách hàng; và (2) tiết kiệm chi phí cho cơ quan thực hiện.
Dịch vụ không tốt sẽ không lôi kéo được khách hàng tiềm năng và khó duy
trì những khách hàng đã tham gia. Trong trường hợp dịch vụ tốt mà chi phí
cao thì cũng có thể làm cho toàn bộ chương trình lỗ và sẽ sụp đổ.
318
Vấn đề khác liên quan đến tính khả thi kinh tế là tương quan giữa mức
hưởng và chi phí triển khai. Nếu các khoản chi phí này tính vào giá thành và
nó chiếm tỷ lệ cao trong tổng giá thành mà mức hưởng lại thấp (mất ý nghĩa
an sinh xã hội) thì sẽ không khả thi dưới góc độ kinh tế.
Vấn đề kỹ thuật khác là tỉ lệ hợp đồng. Sau khi đã ký hợp đồng, cơ
quan BHXH có thể dự tính người lao động sẽ tham gia suốt quá trình lao
động còn lại cho tới khi nghỉ hưu. Ta có thể ước tính dòng tiền trong một
khoảng thời gian. Dòng tiền này rất quan trọng đối với vấn đề quản lý tiền
mặt và kế hoạch đầu tư từ số dư quỹ. Nếu sau một thời gian ngắn, người lao
động hủy hợp đồng thì sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ kế hoạch dài hạn. Vì vậy,
phải tính đến tỉ lệ hủy hợp đồng và cũng quan trọng không kém là phải có
biện pháp hạn chế hủy hợp đồng.
4. Tiếp thị xã hội và bán hàng
Tác động của một vài yếu tố như xác định tỉ lệ phí, quản lý tỉ lệ hủy
hợp đồng, qui trình nghiệp vụ hiệu quả, v.v. như đã nêu trên không thể hiện
rõ nét về tác động đến việc bán được sản phẩm. Công tác tuyên truyền (nói
theo ngôn ngữ trong khu vực tư nhân là quảng cáo) lại có tác dụng ngay. Do
vậy, cần phải thông tin cụ thể đến đối tượng tiềm năng: các chế độ BHXH
tự nguyện, ai là đối tượng được tham gia hoặc chế độ phù hợp với ai, mang
lại quyền lợi gì, nếu muốn tham gia thì phải gặp cơ quan nào, địa chỉ ở đâu
và thuyết phục khác hàng tham gia chương trình.
Nếu mục đích của cơ quan xây dựng chính sách chỉ là mời chào một
chế độ (ai muốn tham gia thì tham gia) thì chỉ cần thông tin tuyên truyền là
đủ, cơ quan BHXH chỉ cần ngồi chờ khách hàng đến đăng ký.
Nếu muốn thu hút càng nhiều người tham gia càng tốt thì cơ quan
BHXH không thể ngồi thụ động chờ khách hàng đến đăng ký mà phải đi tìm
khách hàng và thuyết phục họ tham gia, làm cho chính sách khả thi hơn.
Công tác cung cấp dịch vụ (công tác bá hàng) đóng vai trò quan trọng
trong việc thu hút kháhc hàng tham gia (công tác bán hàng). Như vậy, vấn
đề đội ngũ bán hàng, đại lý, chiến lược bán hàng và chi hoa hồng cho lực
lượng bán hàng phải được tính đến. Nếu cơ quan BHXH không đủ nhân
viên, mạng lưới thì có thể hợp tác với một số tổ chức khác, ví dụ như đoàn
thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân, v.v... Trong trường hợp này, hợp tác
công-tư là một hình thức có thể xem xét.
319
5. Vai trò của Nhà nước
Do tính đặc thù của BHXH là phải đóng phí thì mới được hưởng khi
đến tuổi nghỉ hưu nên luôn có một bộ phận người lao động do thu nhập
thấp, nghèo và do vậy không đủ năng lực tài chính tham gia (nhu cầu không
có khả năng thanh toán), trong điều kiện mức phí qui định đóng BHXH
không thể quá thấp để đảm bảo mức lương hưu có ý nghĩa. Trong trường
hợp này, Nhà nước có thể hỗ trợ phí tham gia BHXH cho những lao động
thu nhập thấp, lao động nghèo có nhu cầu tham gia.
Tham gia BHXH là cả một quá trình diễn ra trong thời gian dài (nhiều
năm) chứ không phải là ngắn hạn (một năm) nên để đảm bảo tính ổn định và
bền vững trong hỗ trợ đối tượng tham gia, đòi hỏi Nhà nước phải có một
khoản ngân sách hỗ trợ hàng năm. Mức hỗ trợ để người lao động đủ khả
năng mua dịch vụ chỉ hợp lý nếu nó thấp hơn mức trợ cấp xã hội hàng tháng
cho người cao tuổi trong trường hợp không có lương hưu (còn gọi là trợ
giúp xã hội thường xuyên cho người cao tuổi).
II. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VỀ BHXH TỰ NGUYỆN
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
1.1. Tổng quan hệ thống BHXH của Trung Quốc
Hệ thống BHXH ra đời từ năm 1951 theo mô hình của Liên Xô cũ và
đã có hiều cải cách, điều chỉnh theo từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Hiện nay, Hệ thống BHXH của Trung Quốc đang trong giai đoạn chuyển
đổi từ hệ thống PAYG với mức hưởng được xác định trước sang hệ thống
hưu trí dựa trên 3 trụ cột:
(1) Hưu trí cơ bản: dựa trên nguyên tắc PAYG, trụ cột này chỉ do
người sử dụng lao động đóng với tỷ lệ 13% tổng chi tiền lương.
(2) Tài khoản cá nhân: quỹ này do nhà nước quản lý. Người lao động
phải đóng 4% (từ năm 2005 tăng lên 8%) trích từ tiền lương được nhận;
người sử dụng lao động phải đóng 7% (từ năm 2005 giảm xuống còn 3%)
tổng chi tiền lương.
(3) Hưu trí bổ sung: đóng góp mang tính cá nhân theo hình thức bảo
hiểm thương mại.
320
Tiền lương hưu cơ bản ở giai đoạn này được tính toán để đảm bảo
thay thế bằng mức 20% tiền lương trung bình của khu vực.
Luật Bảo hiểm Xã hội của Trung Quốc lần đầu tiên được ban hành và
có hiệu lực từ ngày 1/7/2011. Đây là khung khổ pháp luật BHXH toàn diện
đầu tiên của Trung Quốc, trong đó quy định người sử dụng lao động phải
đăng ký cả 5 chế độ BHXH cho người lao động, bao gồm chế độ hưu trí cơ
bản, bảo hiểm y tế cơ bản, bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm thất nghiệp
và chế độ thai sản.
Cùng với BHXH bắt buộc giành cho cán bộ, công chức và người lao
động khu vực chính thức, Trung Quốc đã thực hiện bảo hiểm hưu trí tự
nguyện cho người lao động thuộc khu vực phi chính thức đang làm việc cho
các doanh nghiệp, người lao động tự làm và lao động trong khu vực nông
nghiệp ở cả nông thôn và thành thị, theo 2 chương trình: Chương trình bảo
hiểm hưu trí thành thị và chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn.
Chương trình bảo hiểm hưu trí cho người lao động ở khu vực thành thị
được thiết kế tương tự như hệ thống BHXH chung, bao gồm 3 trụ cột chính:
Hưu trí cơ bản (đóng góp vào quỹ hưu trí chung); tài khoản cá nhân (đóng
vào tài khoản cá nhân) và hưu trí bổ sung của cá nhân. Trong khi đó,
chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn được thiết kế dựa trên đóng góp
của cá nhân, hỗ trợ của tập thể (đóng vào tài khoản cá nhân) và trợ giúp của
Chính phủ. Dưới đây trình bày về chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn
(tương tự như BHXH tự nguyện ở nước ta).
1.2. Chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn
a) Giai đoạn khởi đầu và mở rộng (1986-1998)
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 7 (1985-1990), Trung Quốc đặt ra
nhiệm vụ “cần nghiên cứu việc thiết lập hệ thống hưu trí nông thôn, tiến
hành và mở rộng dần dần chương trình thí điểm theo sự phát triển kinh tế”.
Năm 1991, Bộ Dân Chính chủ trì chương trình hưu trí nông thôn và thực
hiện chương trình thí điểm tại 5 huyện thuộc tỉnh Sơn Đông với các nguyên
tắc cơ bản cho chế độ hưu trí nông thôn như sau:
- Chương trình tự nguyện, được hình thành từ nguồn đóng góp cá
nhân, sự hỗ trợ của tập thể tại cấp thôn và chính sách ưu đãi của nhà nước.
321
- Đóng góp hàng tháng của cá nhân dao động từ 2 đến 20 NDT và tập
thể đóng góp 2 NDT.
- Nông dân cao tuổi được hưởng lương hưu cho đến khi chết.
- Số tiền đóng góp được gửi tại ngân hàng và đầu tư vào công trái
quốc gia; ngoài ra không được đầu tư trực tiếp.
- Sở Dân chính chịu trách nhiệm quản lý, chi phí quản lý được lấy từ
khoản đóng góp (ấn định là 3%).
Năm 1998 khi thực hiện cải cách hành chính, trách nhiệm về chương
trình hưu trí nông thôn được chuyển từ Bộ Dân chính sang Bộ Lao động và
An sinh xã hội (nay là Bộ Nguồn nhân lực và ASXH).
b) Giai đoạn thu hẹp và ngưng trệ (1999-2002)
Do lo ngại về hiệu quả, tính bền vững của chương trình hưu trí nông
thôn nên chương trình không thu hút thêm đối tượng trong những năm cuối
thập kỷ 90 của thế kỷ 20.
c) Giai đoạn khôi phục (2003-2009)
Từ sau Đại hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc cuối năm 2002, Trung
Quốc nêu quyết tâm thực hiện BHXH toàn quốc vào năm 2020. Từ năm
2003 đến 2009 các chương trình hưu trí nông thôn đã phát triển, tổng số 300
huyện tại 25 tỉnh đã thiết lập chương trình mới.
1.3. Chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn mới
Tháng 10/2009, Trung Quốc thí điểm chế độ bảo hiểm hưu trí nông
thôn mới với 4 nguyên tắc: (i) Đảm bảo mức sống cơ bản của người già ở
nông thôn; (ii) Độ bao phủ rộng; (iii) Cơ chế tài chính linh hoạt; (iv) Đảm
bảo tính bền vững lâu dài của quỹ.
a) Đối tượng áp dụng
Mọi người dân trên 16 tuổi, có hộ khẩu thường trú ở nông thôn đều có
quyền tham gia nếu chưa tham gia chương trình bảo hiểm hưu trí thành thị.
b) Nguồn quỹ
Quỹ được hình thành từ ba nguồn: đóng góp của cá nhân, hỗ trợ của
tập thể và trợ cấp của Chính phủ (trước đây hoàn toàn do người nông dân tự
chi trả và không có bất kỳ trợ cấp nào từ Chính phủ). Phí của cá nhân và tiền
hỗ trợ của tập thể đều được ghi vào tài khoản cá nhân, thuộc sở hữu cá nhân.
322
Theo quy định, nông dân nộp phí với 5 mức (100, 200, 300, 400 và
500 NDT), tối thiểu 100 NDT/năm. Địa phương có thể điều chỉnh mức đóng
tùy theo điều kiện kinh tế địa phương (như Bắc Kinh là hơn 2.000
NDT/năm). Đối với người nghèo, thu nhập quá thấp, không thể đóng bảo
hiểm thì địa phương có thể giảm xuống mức tối thiểu (100 NDT). Đối với
người khuyết tật, người mất sức lao động thì thấp hơn 100 NDT hoặc miễn.
Như vậy, kinh phí chương trình gồm: (i) trợ giúp của trung ương cho
phần đóng hưu trí cơ bản (100% cho vùng trung tâm và vùng miền Tây;
50% cho vùng miền Đông); (ii) đóng góp cá nhân (từ 100 đến 500
NDT/năm tùy theo lựa chọn của người lao động); (iii) một phần đóng góp
đối ứng từ chính quyền địa phương, tối thiểu là 30 NDT/năm; và (iv) trợ giá
của tập thể, khoản này không bắt buộc và không ấn định mức. Số đông
người tham gia đều lựa chọn mức 100 hoặc 500 NDT, một số tỉnh và huyện
duyên hải nông dân chọn mức cao hơn, lên đến 2.500 NDT.
c) Điều kiện hưởng
- 60 tuổi đối với cả nam và nữ, có thời gian đóng tối thiểu 15 năm.
- Những người đã quá 60 tuổi khi chương trình khởi động cũng có thể
được hưởng hưu cơ bản nếu con cái họ tham gia đóng góp.
- Những người khi đến 60 tuổi mà vẫn chưa đủ thời gian đóng góp 15
năm thì được đóng một lần cho đủ số tháng còn thiếu để có đủ thời gian
đóng góp cần thiết.
d) Mức hưởng
Người tham gia bảo hiểm sẽ được hưởng lương hưu gồm hai phần:
phần do Chính phủ đảm bảo và phần còn lại từ tài khoản của cá nhân.
- Phần do Chính phủ đảm bảo là 55 NDT/tháng và có thể được chính
quyền địa phương nâng lên tùy theo khả năng ngân sách của họ.
- Phần từ tài khoản cá nhân được tính bằng tổng số tồn tích trong tài
khoản tính đến khi hưởng lương hưu chia cho 139 tháng.
e) Tổ chức thực hiện
- Quản lý quỹ thực hiện tại cấp huyện. Văn phòng địa phương của Bộ
Nguồn nhân lực và An sinh xã hội thực hiện giám sát quỹ. Tất cả các chi phí
hành chính và vận hành chương trình được phân bổ từ ngân sách trung ương.
323
- Việc chi trả cho các đối tượng được hưởng thông qua hệ thống ngân
hàng hoặc tổ chức tín dụng ở xã. Trong trường hợp xã không có tổ chức tín
dụng, trưởng thôn có trách nhiệm lĩnh và chi trả cho đối tượng được hưởng.
g) Tỷ lệ bao phủ
Đến cuối 2010, có 50% tổng số huyện trên toàn quốc thực hiện bảo
hiểm hưu trí mới cho nông dân. Dự tính đến năm 2014 sẽ áp dụng trên toàn
quốc, có thể bao phủ tới 80% dân số cả nước.
Hiện nay mức hưởng trung bình là 1.320 NDT/năm, trong đó mức trợ
cấp tối thiểu của Nhà nước là 55 NDT/tháng, địa phương bổ sung tùy theo
điều kiện kinh tế của địa phương (ví dụ Bắc Kinh là 280 NDT/tháng).
1.4. Hạn chế
Hạn chế lớn nhất của chương trình hưu trí của Trung Quốc là chưa
giải quyết được vấn đề liên thông của quỹ khi người lao động đang tham gia
hệ thống hưu trí nông thôn, sau đó di chuyển sang làm việc và tham gia hệ
thống lương hưu của doanh nghiệp thành thị hoặc ngược lại.
Một trong những vấn đề đặt ra cho hệ thống BHXH của Trung Quốc
là hàng năm có hàng triệu lao động nhập cư từ nông thôn đổ về thành phố.
Do có 2 cách tính bảo hiểm hưu trí khác nhau giữa nông thôn và thành thị,
hệ thống BHXH hiện hành chưa cho phép người lao động có thể chuyển đổi
giữa 2 chương trình. Thí dụ, một người nông dân đã tham gia vào hệ thống
bảo hiểm hưu trí nông thôn 10 năm, sau đó di cư ra đô thị và ký hợp đồng
lao động với người sử dụng lao động thì sẽ thuộc diện tham gia bảo hiểm
hưu trí thành thị. Cách giải quyết hiện nay là thanh toán một lần cho phần
đóng góp vào chương trình hưu trí nông thôn và phải tham gia từ đầu vào hệ
thống hưu trí thành thị. Điều này có nghĩa là khoản tiền người nông dân
đóng góp vào quỹ hưu trí không có giá trị bảo hiểm. Cách giải quyết này
không những gây thiệt thòi cho người lao động mà còn ảnh hưởng đến chính
sách ASXH và tăng thêm áp lực cho định hướng xây dựng một hệ thống
BHXH thống nhất của Trung Quốc.
Ngoài ra, do có một tỷ lệ lớn lao động di cư mùa vụ, làm việc tại
thành phố vào mùa hè và mùa đông rồi quay trở lại nông thôn vào mùa xuân
để trồng trọt và mùa thu để thu hoạch cộng với xu thế đô thị hóa đang diễn
ra với tốc độ nhanh tại Trung Quốc, đã đặt ra yêu cầu cần phải thiết kế một
324
hệ thống ASXH tích hợp và hợp nhất, cho phép người lao động tham gia
BHXH ở bất cứ đâu, dù là thành thị hay nông thôn.
1.5. Định hướng cải cách hệ thống BHXH
Nhằm khắc phục những tồn tại của hệ thống BHXH hiện hành và mở
rộng độ bao phủ của BHXH toàn dân, Trung Quốc đã định hướng hợp nhất
chương trình bảo hiểm hưu trí ở 2 khu vực nông thôn và thành thị, thực hiện
mục tiêu “bảo đảm đời sống của người cao tuổi”:
- Tiếp tục mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm hưu trí;
- Xây dựng và triển khai thực hiện các biện pháp để lao động nhập cư
tham gia vào hệ thống bảo hiểm hưu trí;
- Cải thiện quỹ hưu trí;
- Nâng tuổi nghỉ hưu theo luật định ở thời điểm thích hợp;
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống tài khoản cá nhân;
- Nghiên cứu thiết lập cơ chế đầu tư quỹ bảo hiểm hưu trí đảm bảo
tính linh hoạt, hiệu quả và sự ổn định cho quỹ.
2. Bài học cho Việt Nam
- Hỗ trợ một phần mức đóng BHXH cho lao động có thu nhập thấp
(người nghèo, nông dân có thu nhập từ trung bình trở xuống...) nhằm
khuyến khích người dân tham gia BHXH, đảm bảo ASXH khi về già.
- Thí điểm chính sách con cái tham gia BHXH tự nguyện, bố mẹ được
hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng để vừa khuyến khích được người dân tham
gia BHXH và vừa đảm bảo một phần cuộc sống tự chủ cho người cao tuổi
ngay từ thời gian này.
- Nghiên cứu và thí điểm thực hiện chính sách hưu trí bổ sung ngoài
BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện nhằm gia tăng nguồn thu nhập cho
người lao động khi về già. Không nên phát triển một chính sách BHXH đơn
nhất mà cần phát triển đa dạng để người dân có nhiều nguồn thu nhập từ
nhiều chính sách, chương trình hưu trí khác nhau khi hết tuổi lao động.
- Đóng bù thời gian còn thiếu
Theo quy định của chính sách Trung Quốc, mọi người lao động đến tuổi nghỉ hưu theo luật định (60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với cán bộ nữ và 50 tuổi đối với nữ công nhân) nhưng có thời gian đóng góp vào quỹ
325
BHXH ít hơn 15 năm, có thể đóng bù số năm còn thiếu cho đủ 15 năm để nhận lương hưu hàng tháng. Quy định này thể hiện sự linh hoạt của chế độ bảo hiểm. Tuy vậy, trên thực tế ở một số địa phương như Thâm Quyến thì khi người lao động đến tuổi nghỉ hưu theo luật định mà thời gian tham gia BHXH chưa đủ 15 năm sẽ không được tiếp tục tham gia mà chỉ được nhận trợ cấp hưu trí một lần từ tài khoản hưu trí cá nhân.
- Về tổ chức thực hiện: Trung Quốc đã có sự phân cấp giữa trung ương và địa phương mạnh mẽ. Trung ương xác định khung pháp luật chung về ASXH, chỉ đạo thực hiện và cung cấp ngân sách, lập và duy trì quỹ rủi ro BHXH. Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm: (i) tổ chức thực hiện pháp luật về ASXH; (ii) xây dựng chính sách và pháp luật của địa phương để đảm bảo thực hiện ASXH của địa phương; (iii) thực hiện chính sách BHXH trên cơ sở có nguồn hỗ trợ ngân sách từ trung ương và từ ngân sách địa phương; (iv) chịu trách nhiệm thu, chi các chế độ bảo hiểm; (v) thành lập các cơ quan chuyên môn đảm bảo thực hiện chính sách và pháp luật về ASXH.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN CỦA LAO ĐỘNG CÓ MỨC THU NHẬP TỪ
TRUNG BÌNH TRỞ XUỐNG
I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA LAO ĐỘNG CÓ THU NHẬP TỪ TRUNG BÌNH TRỞ XUỐNG
1. Đặc điểm hộ gia đình có mức thu nhập từ trung bình trở xuống
1.1. Phân nhóm hộ gia đình
Do chưa có qui định chính thức ở mức thu nhập nào là trung bình nên
đề tài dựa vào 3 tiêu chí sau để xác định hộ gia đình thuộc nhóm có thu nhập
trung bình: (1) chuẩn nghèo hiện hành (400 nghìn đồng/người/tháng ở nông
thôn và 500 nghìn đồng/người/tháng ở thành thị); (2) chuẩn mức sống tối
thiểu do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đang dự thảo (mức sống tối
thiểu năm 2010 ở nông thôn từ 590 nghìn đồng đến 690 nghìn đồng/người/
tháng; ở thành thị từ 715 nghìn đồng đến 830 nghìn đồng/người/tháng); và
(3) ngũ phân vị thu nhập của hộ gia đình Việt Nam.
Hộ có thu nhập trung bình và hộ nghèo được xác định như sau:
326
- Do dự thảo về mức sống tối thiểu lớn hơn chuẩn nghèo hiện hành
nên hộ có thu nhập trung bình là hộ thỏa mãn điều kiện: mức thu nhập bình
quân của hộ thuộc nhóm này ít nhất lớn gấp hai lần mức sống tối thiểu (và
như vậy thì đương nhiên lớn hơn gấp hai lần chuẩn nghèo).
- Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân/người thấp hơn chuẩn nghèo
theo qui định của Chính phủ, 400 nghìn đồng/người/tháng ở nông thôn và
500 nghìn đồng/người/tháng ở thành thị.
Với tiêu chí trên, phân tích số liệu điều tra mức sống hộ gia đình 2010
cho kết quả như sau:
- Ở nông thôn, nhóm thứ ba của ngũ phân vị thuộc nhóm hộ gia đình
có thu nhập trung bình. Nhóm hộ này có thu nhập bình quân đạt 902 nghìn
đồng/người/tháng, trong đó lao động có mức thu nhập thấp nhất đạt 757
nghìn đồng/tháng còn lao động có mức thu nhập cao nhất đạt 1.055 nghìn
đồng/tháng. Số lao động có mức thu nhập trung bình trở xuống chiếm
62,9% tổng số lao động có việc làm tạo thu nhập ở nông thôn.
- Ở thành thị, nhóm thứ hai của ngũ phân vị thuộc nhóm hộ gia đình
có thu nhập trung bình. Nhóm hộ này có thu nhập bình quân đạt 1.268 nghìn
đồng/người/tháng, trong đó lao động có mức thu nhập thấp nhất đạt 1.045
nghìn đồng/tháng và cao nhất đạt 1.518 nghìn đồng/tháng. Số lao động có
mức thu nhập trung bình trở xuống chiếm 45,5% tổng số lao động có việc
làm tạo thu nhập ở thành thị.
- Mức thu nhập bình quân/người/tháng thuộc nhóm hộ gia đình có thu
nhập trung bình ở cả nông thôn và thành thị đều cao hơn mức tiền tương tối
thiểu (nay gọi là mức tiền lương cơ sở).
1.2. Cơ cấu thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình
Thị trường lao động Việt Nam chưa phát triển, lao động chủ yếu làm
trong nông nghiệp và tự làm phi nông nghiệp. Ước tính, gần 50% lực lượng
lao động làm nghề nông và khoảng 25% lực lượng lao động làm việc trong
khu vực phi kết cấu. Ở nông thôn, thu nhập từ nông nghiệp và tự làm phi
nông nghiệp chiếm 50,9% thu nhập của hộ trung bình và 64,1% thu nhập
của hộ nghèo; ở thành thị, các con số tương ứng là 40% và 49,5%.
327
Thu nhập từ phúc lợi xã hội và trợ giúp (lương hưu, quà biếu, trợ cấp xã
hội...) chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu thu nhập của hộ, nhất là ở nông thôn.
Hộ càng nghèo thì tỷ trọng này càng nhỏ. Ở nông thôn, thu nhập từ phúc lợi xã
hội và trợ giúp chỉ chiếm 1,5% thu nhập của hộ trung bình và 0,1% thu nhập
của hộ nghèo; ở thành thị, các con số tương ướng là 4,1% và 1,4%.
Về chi tiêu, cơ cấu chi tiêu của hộ phản ánh mức sống của hộ gia đình.
Hộ giàu hơn thì chi tiêu cho phi lương thực thực phẩm (LTTP) trong tổng
chi tiêu lớn hơn; ngược lại, hộ có thu nhập thấp hơn thì tỷ trọng chi tiêu cho
LTTP trong tổng chi tiêu lớn hơn. Ở nông thôn, chi tiêu cho phi LLTP của
hộ trên trung bình chiếm 60,2% tổng tiêu dùng của hộ, con số này của hộ
nghèo là 44,1%. Ở thành thị, chi tiêu cho phi LTTP của hộ trên trung bình
chiếm 70,8% tổng tiêu dùng của hộ, con số này của hộ nghèo là 52%.
Về tiết kiệm, khoảng 7,3 triệu hộ nông thôn có tiết kiệm, chiếm 47,1%
tổng số hộ nông thôn; ở thành thị, con số này là 2,6 triệu hộ, chiếm 38,4%
tổng số hộ thành thị. Tỷ lệ hộ có mức sống từ trung bình trở xuống có tiết
kiệm không cao, ở nông thôn chỉ 10,3% hộ nghèo và 35,3% hộ trung bình là
có tiết kiệm. Ở thành thị, tỷ lệ này còn thấp hơn, chỉ 7,1% hộ nghèo và
27,6% hộ trung bình là có tiết kiệm.
2. Đặc điểm lao động có mức thu nhập từ trung bình trở xuống
2.1. Trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật
Trình độ văn hóa là một trong các yếu tố quyết định tới chất lượng
việc làm và thu nhập của người lao động. Trình độ văn hóa của lao động
Việt Nam, nhất là ở khu vực nông thôn vẫn còn hạn chế nhất là hộ nghèo.
71,9% lao động nghèo nông thôn có trình độ từ tiểu học trở xuống. Trình độ
văn hóa của lao động thành thị tiến bộ hơn, nhưng ở nhóm hộ nghèo thành
thị thì tỷ lệ lao động có trình độ từ tiểu học trở xuống cũng cao (69,8%).
Về chuyên môn kỹ thuật (CMKT), 98,7% lao động thuộc nhóm hộ
nghèo, 94,2% lao động thuộc nhóm hộ trung bình và 79,9% lao động thuộc
nhóm hộ trên trung bình là không có bằng cấp CMKT. Thực trạng này ở
thành thị có tốt hơn nhưng tỷ lệ lao động không có bằng cấp CMKT cũng
rất cao ở cả nhóm hộ nghèo và hộ trung bình, 96,9% và 81,4% tương ứng.
328
Trình độ CMKT thấp là một trong những nguyên nhân chính của thu nhập
thấp và việc làm không ổn định, không an ninh.
2.2. Việc làm
Ở nông thôn, lao động chủ yếu làm nghề nông, kể cả lao động trong
các hộ trên trung bình. Hộ có thu nhập thấp hơn có tỷ lệ lao động làm nghề
nông cao hơn. Có 37,6% số lao động trong nhóm hộ trên trung bình, 45,2%
lao động trong nhóm hộ trung bình và 67,7% lao động trong nhóm hộ nghèo
làm nghề nông. Ngược lại, lao động thành thị chủ yếu làm việc với vị thế là
người làm công ăn lương. Tuy vậy, lao động làm nông lâm nghiệp và tự làm
phi nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao ở thành thị, nhất là nhóm hộ trung
bình trở xuống. Trong nhóm hộ trên trung bình, có 9,3% và 27,2% lao động
làm nông lâm nghiệp và tự làm phi nông nghiệp tương ứng. Ở nhóm hộ
trung bình, các con số là 21% và 25,9%; ở nhóm hộ nghèo, các con số này
còn cao hơn nữa, 43,8% và 13,3% tương ứng.
2.3. Thu nhập
Thu nhập bình quân của lao động thuộc diện tham gia BHXH tự
nguyện là 1.379 nghìn đồng/người/tháng năm 2010(45), trong đó, 65% có thu
nhập bình quân cao hơn mức tiền lương tối thiểu. Dưới góc độ tài chính, có
thể coi đây là nhóm người lao động có đủ năng lực tài chính tham gia
BHXH tự nguyện. Như vậy, có 35% số người lao động thuộc diện tham gia
BHXH tự nguyện có mức thu nhập dưới mức tối thiểu làm cơ sở tính mức
đóng BHXH tự nguyện. Thu nhập bình quân của họ chỉ bằng 69,1% mức
tiền lương tối thiểu tức là để tham gia BHXH tự nguyện, họ cần nhận được
một khoản hỗ trợ tài chính tương đương với 30,9% mức phí tối thiểu [theo
qui định] đóng BHXH tự nguyện. Với lao động là người dân tộc thiểu số,
75% số lao động là người dân tộc thiểu số không đủ khả năng tài chính tham
gia BHXH tự nguyện với mức thiếu bình quân là 36% mức đóng tối thiểu.
Người lao động ở độ tuổi trẻ hơn thì năng lực tài chính tham gia
BHXH tự nguyện thấp hơn, cụ thể: 45% số người lao động ở nhóm tuổi 15-
24 không đủ năng lực tài chính, giảm còn 40% ở nhóm tuổi từ 25-34 và
(45)
. Mức đóng tối thiểu theo quy định tại thời điểm này là 131,4 nghìn
đồng/người/tháng45, bằng 9,5% thu nhập bình quân của đối tượng.
329
25% ở nhóm tuổi 45-60. Ở tuổi trên 45, số đông người lao động có đủ năng
lực tài chính tham gia BHXH tự nguyện, nhưng với qui định hiện hành thì
họ không tham gia do không còn đủ thời gian đóng tối thiểu 20 năm vào
BHXH để được hưởng lương hưu khi đến tuổi nghỉ hưu.
II. THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG ĐANG THAM GIA BHXH TỰ NGUYỆN
Theo dự kiến thì sẽ có khoảng hơn 1 triệu người tham gia trong những
năm đầu thực hiện BHXH tự nguyện và qui mô sẽ tăng nhanh trong những
năm tiếp theo. Tuy vậy, thực tế thì số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện
rất ít. Đến cuối năm 2012, mới thu hút được 134 nghìn người tham gia.
Dưới đây, đề tài sử dụng số liệu từ một khảo sát mẫu ngẫu nhiên tại Hà Nội
và Hải Dương do đề tài thực hiện với qui mô mẫu là 520 người lao động
trong đó có 260 người lao động đang tham gia BHXH tự nguyện và 260
người chưa tham gia để tìm hiểu “vì sao BHXH tự nguyện không thu hút
được nhiều người lao động tham gia trong thời gian qua”.
1. Thực trạng việc làm, thu nhập của đối tượng tham gia BHXH tự nguyện
Về lý thuyết, kết quả của việc làm là thu nhập và vì thế nó là nhân tố
quan trọng tác động đến khả năng và quá trình tham gia BHXH. Kết quả
khảo sát cho thấy số đối tượng được phỏng vấn có việc làm chiếm 80,4%.
Đối tượng là lao động tự làm chiếm 81,6%, lao động là nông dân chỉ chiếm
18,4%. Thực tế này cho thấy nông dân - lực lượng chiếm 2/3 số đối tượng
thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện, tham gia vào hệ thống còn rất khiêm
tốn so với lao động tự làm. Mặt khác, có sự khác biệt về giới (tuy không quá
lớn) trong tham gia BHXH tự nguyện, 58,9% là nữ, 41,1% là nam.
Theo nhóm tuổi, số đối tượng trên 30 tuổi tham gia BHXH tự nguyện
chiếm gần 93% (riêng nhóm tuổi 30-40 chiếm 63,8%); đối tượng trên 40
tuổi chiếm tỷ trọng không nhỏ (28,4%), có thể là do số đông những người
này đã có thời gian tham gia BHXH bắt buộc trước đây nhưng chưa đủ số năm
tham gia theo qui định để được hưởng lương hưu khi đến tuổi nghỉ hưu.
Trong số đối tham gia BHXH tự nguyện nhưng lại không làm việc thì
chủ yếu là những người trước đó đã tham gia BHXH bắt buộc và có một tỷ lệ
nhất định lần đầu tham gia. Biểu đồ dưới đây minh họa quan hệ giữa đối
330
tượng lần đầu tham gia BHXH và đối tượng đã có thời gian tham gia BHXH
bắt buộc trước khi tham gia BHXH tự nguyện như hiện nay.
Trong số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện hiện đang có việc làm,
69,9% đối tượng tham gia làm trong ngành dịch vụ; số làm trong nông
nghiệp và công nghiệp thấp hơn nhiều, chỉ là 25,3% và 4,8% tương ứng.
Như vậy, lao động tự làm tham gia BHXH tự nguyện nhiều hơn nông dân.
Sử dụng ngưỡng thu nhập 1.055 nghìn đồng/người tháng ở nông thôn
và 1.518 nghìn đồng/người/tháng ở thành thị để phân nhóm hộ có thu nhập
trên trung bình và từ trung bình trở xuống, kết quả cho thấy 19,2% hộ có thu
nhập từ trung bình trở xuống thuộc mẫu khảo sát. Như vậy, cả hộ có thu
nhập trên trung bình và từ trung bình trở xuống đều tham gia BHXH tự
nguyện, trong đó chủ yếu là hộ có mức thu nhập trên trung bình. Hộ có thu
nhập dưới trung bình tham gia BHXH tự nguyện là hộ có thu nhập bình
quân/người/tháng lớn hơn mức tiền lương tối thiểu (lương cơ sở).
Thu nhập bình quân/người/tháng của hộ có thành viên tham gia mới là
trên 2,3 triệu đồng; của hộ có thành viên chuyển từ BHXH bắt buộc sang là
gần 2,5 triệu đồng. Hộ có thành viên tham gia BHXH tự nguyện mà hiện
tuổi trên 45 là hộ có mức thu nhập bình quân/người/tháng cao hơn so với
mức thu nhập bình quân chung/người/tháng của các hộ thuộc mẫu khảo sát.
Như vậy, tiềm lực kinh tế của những hộ có lao động trên tuổi 45 tốt hơn so
với hộ có lao động ở tuổi trẻ hơn. Đây là một trong những dấu hiệu để chính
sách BHXH tự nguyện cần hướng đến nhóm đối tượng này.
Thu nhập từ làm công ăn lương và từ hoạt động kinh doanh chiếm trên
95% tổng thu nhập của hộ (riêng thu nhập từ làm công ăn lương chiếm 50%
tổng thu nhập của hộ). Như vậy, thu nhập từ làm công ăn lương và từ sản
xuất kinh doanh đóng vai trò quan trọng đến sự tham gia BHXH tự nguyện
của hộ gia đình và dường như hộ có người làm công ăn lương (tham gia
BHXH bắt buộc) thì cũng dễ tham gia BHXH tự nguyện hơn.
2. Thực trạng tham gia BHXH tự nguyện
Số đông đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là những người trước
kia đã tham gia BHXH bắt buộc chuyển sang. Số đã tham gia BHXH bắt
buộc chuyển sang chiếm 64,6%, số tham gia mới chỉ chiếm 35,4%. Như
331
vậy, BHXH tự nguyện là chính sách đáp ứng tốt nhu cầu tham gia của
những lao động trước đây đã từng tham gia BHXH bắt buộc mà chưa đủ
điều kiện để được hưởng lương hưu.
Sau 5 năm triển khai BHXH tự nguyện, 58,1% đối tượng tham gia là
do biết thông tin về chính sách qua bạn bè, người thân; 20,4% đối tượng
tham gia là do biết thông tin qua chính quyền địa phương; chỉ 19,2% biết
thông tin qua phương tiện truyền thông đại chúng. Như vậy, vai trò của
truyền thông đại chúng trong quảng bá, tiếp thị xã hội về chính sách này còn
khiêm tốn.
Về mức đóng, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu đóng
ở khoảng 300-500 nghìn đồng/tháng. Với đối tượng tham gia mới, mức
đóng bình quân là 652 nghìn đồng/tháng cao nhất là 3 triệu đồng/tháng và
thấp nhất là 166 nghìn đồng/tháng (tương ứng với mức đóng 20% của mức
tiền lương 830 nghìn đồng). Tuy vậy, số đóng ở mức thấp nhất chỉ chiếm
16,3% số đối tượng tham gia mới, trong khi có 26,1% số đối tượng đóng
trên mức bình quân (652 nghìn đồng/tháng). Như vậy, đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện chủ yếu thuộc nhóm hộ khá giả và giàu có (nhóm ngũ
phân vị 4 và 5).
Đối tượng chuyển từ BHXH bắt buộc sang có mức đóng bình quân
cao hơn so với mức đóng của đối tượng tham gia mới, 687 nghìn
đồng/tháng so với 652 nghìn đồng/tháng, cao nhất là 3 triệu đồng/tháng,
thấp nhất là 210 nghìn đồng/tháng. Tuy vậy, số đối tượng đóng ở mức 210
nghìn đồng chỉ chiếm gần 6% số đối tượng chuyển từ BHXH bắt buộc sang,
trong khi có 30,9% số đối tượng đóng trên mức bình quân (687 nghìn
đồng/tháng). Như vậy, mức đóng BHXH tự nguyện của đối tượng chuyển từ
BHXH bắt buộc sang luôn ở mức trên mức tối thiểu theo qui định.
Về phương thức đóng, có tới 75% số đối tượng tham gia lựa chọn
phương thức đóng 6 tháng/lần; 24% lựa chọn đóng theo quí; số lựa chọn
phương thức đóng hàng tháng chiếm tỷ trọng không đáng kể. Như vậy, việc
qui định phương thức đóng BHXH tự nguyện linh hoạt hơn so với BHXH
bắt buộc là phù hợp với nhu cầu của đối tượng tham gia.
332
3. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của đối tượng đang tham gia BHXH tự nguyện
3.1. Về các qui định chính sách hiện hành
Khi đã quyết định tham gia BHXH tự nguyện, đương nhiên đối tượng
tham gia chấp nhận các qui định chính sách của BHXH tự nguyện, thể hiện
ở các căn cứ sau.
3.1.1. Về mức đóng
Trong số đối tượng khảo sát, có 98,9% cho rằng họ không gặp khó
khăn gì với mức đóng theo qui định. Cụ thể, 85% số đối tượng tham gia
khẳng định mức đóng như qui định hiện nay là hợp lý; thậm chí có 12% số
đối tượng cho rằng có thể đóng ở mức cao hơn.
3.1.2. Về phương thức đóng
Trong số đối tượng được khảo sát, 99,6% không gặp khó khăn đối với
phương thức đóng theo qui định. Việc cho phép đối tượng tham gia có thể
lựa chọn đóng hàng tháng, hàng quí, 6 tháng một lần đã tạo điều kiện để đối
tượng tham gia dễ dàng hơn so với trường hợp yêu cầu phải đóng hàng
tháng (như BHXH bắt buộc). Kết quả kháo sát cho thấy chỉ 1% số đối tượng
tham gia là chọn phương thức đóng hàng tháng. Như vậy, các qui định về
phương thức đóng hiện hành là phù hợp với đại đa số đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện.
3.1.3. Về thời gian đóng BHXH tự nguyện
Trong số đối tượng được khảo sát, 79% cho rằng qui định thời gian
đóng tối thiểu là 20 năm thì được hưởng lương hưu hàng tháng khi đối
tượng đến tuổi nghỉ hưu là phù hợp. Nhưng cũng có 21% số đối tượng
đang tham gia BHXH tự nguyện cho rằng qui định 20 năm là dài mà nên
cho phép đóng tối thiểu 15 năm là được hưởng lương hưu. Việc giảm số
năm đóng và tăng mức đóng cao hơn so với những người lựa chọn đóng
theo qui định 20 năm để đảm bảo số tiền đóng vào quỹ BHXH tự nguyện
của đối tượng lựa chọn đóng 15 năm tương đồng với số tiền đóng của đối
tượng lựa chọn đóng 20 năm thì sẽ thỏa mãn được nhu cầu của một bộ phận
người lao động.
333
3.2. Về tổ chức thực hiện
Xây dựng chính sách phù hợp với nhu cầu của đối tượng đã là một
thành công còn việc tổ chức cung cấp thông tin về chính sách và cung cấp
dịch vụ làm sao để đối tượng biết và tham gia sẽ quyết định mức độ thành
công của chương trình.
3.2.1. Hoạt động phổ biến, truyền thông chính sách đến đối tượng
Có 98,8% số đối tượng biết về chính sách BHXH tự nguyện qua các
kênh chính thống (chính quyền, bạn bè/người thân, phương tiện truyền
thông, các lớp tập huấn). Như vậy, công tác truyền thông về BHXH tự
nguyện đã đa dạng hóa các kênh truyền dẫn để tiếp cận đối tượng.
Tuy vậy, chỉ 20,4% và 19,2% số đối tượng tham gia biết chính sách
BHXH tự nguyện qua chính quyền địa phương và qua phương tiện truyền
thông. Một chính sách của Nhà nước được triển khai mà kênh phổ biến
thông tin về chính sách qua chính quyền, đoàn thể địa phương và phương
tiện truyền thông đến với đối tượng không bằng kênh thông tin qua bạn
bè/người thân (58,1% đối tượng biết chính sách này qua bạn bè/người thân)
cho thấy cần tăng cường vai trò của chính quyền, đoàn thể địa phương và
phương tiện truyền thông đại chúng trong công tác tổ chức truyền thông,
phổ biến chính sách.
3.2.2. Về thủ tục đăng ký tham gia
Thủ tục đăng ký tham gia BHXH tự nguyện được đối tượng tham gia
đánh giá là đơn giản, thuận tiện, không khó khăn.
3.2.3. Về địa điểm đóng phí BHXH tự nguyện
Hiện nay, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện đóng phí BHXH tại
cơ quan BHXH quận/huyện. Có 98% số đối tượng cho rằng không có khó
khăn gì khi đến đóng tại BHXH quận/huyện. Đối tượng tham gia cho rằng
với sự thông dụng của phương tiện giao thông, đường sá đi lại thuận lợi thì
thời gian và chi phí để đến các cơ quan BHXH quận/huyện là không lớn.
Kết quả này là do địa bàn khảo sát của đề tài là Hà Nội và Hải Dương, hai
địa phương thuộc vùng đồng bằng, kinh tế khá phát triển, giao thông đi lại
thuận tiện và cư dân sinh sống tập trung. Nếu khảo sát ở vùng sâu vùng xa,
giao thông chưa phát triển, cư dân sinh sống phân tán thì việc đóng BHXH ở
cơ quan BHXH huyện sẽ là một vấn đề đối với đối tượng tham gia BHXH
tự nguyện.
334
3.3. Về mức độ hấp dẫn của chính sách BHXH tự nguyện
Chỉ có 10,8% số đối tượng quyết định sẽ không tham gia BHXH tự
nguyện nữa (ở nhóm đối tượng tham giá mới, tỷ lệ này là 17,4%; ở nhóm
đối tượng từ BHXH bắt buộc chuyển sang, tỷ lệ này là 7,2%). Đây là một tỷ
lệ nhỏ, không đáng phải quan ngại. Trong số đối tượng không muốn tiếp tục
tham gia, 1/3 số đối tượng cho rằng chẳng phải vì lý do gì cụ thể mà đơn
giản là họ không có nhu cầu tham gia nữa. Điều này hàm ý rằng có một bộ
phận đối tượng có các kênh đầu tư hoặc tiết kiệm khác hấp dẫn hơn so với
việc tham gia BHXH tự nguyện. 2/3 số đối tượng còn lại trong số 10,8% số
đối tượng tham gia BHXH tự nguyện quyết định sẽ dừng tham gia là do thu
nhập bấp bênh, mức đóng phí cao, thời gian đóng dài, v.v.
III. THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG CHƯA THAM GIA BHXH TỰ NGUYỆN
1. Thực trạng việc làm, thu nhập
Khảo sát ngẫu nhiên 260 lao động không tham gia BHXH tự nguyện,
kết quả cho thấy:
- Theo ngành kinh tế: 56% lao động được khảo sát làm trong ngành
thương mại-dịch vụ, 32,2% trong công nghiệp-xây dựng và 11,8% làm trong
nông nghiệp (11,8%).
- Theo loại hình kinh tế: 67% lao động làm việc trong hộ sản xuất kinh
doanh, 22,3% làm việc trong khu vực tư nhân, 8,5% làm kinh tế cá thể, số còn
lại làm trong khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
- Theo vị thế làm việc: 51,9% là lao động tự làm, 21,5% làm công ăn
lương, 7,7% là chủ cơ sở và 18,8% là lao động hộ gia đình.
Về thu nhập, trên 60% nguồn thu của các hộ là từ hoạt động kinh tế
của hộ, gần 30% là từ làm công hưởng lương. Phân bố thu nhập bình
quân/người/tháng của các hộ được khảo sát dao động từ 600 ngàn đến 15
triệu đồng; mức trung bình là 2.800 ngàn đồng/người/tháng.
Sử dụng ngưỡng thu nhập bình quân/người/tháng để phân số hộ được
khảo sát thành nhóm hộ có mức thu nhập trên trung bình và nhóm hộ có
mức thu nhập từ trung bình trở xuống, kết quả khảo sát cho thấy chỉ 18,5%
hộ gia đình được khảo sát có thu nhập từ trung bình trở xuống.
335
Trong nhóm hộ có thu nhập từ trung bình trở xuống, thu nhập bình
quân của lao động thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện là 2,35 triệu
đồng/tháng, cao hơn nhiều so với mức tiền lương tối thiểu theo qui định.
Trong 3 ngành kinh tế, thu nhập bình quân của lao động trong nông nghiệp
thuộc nhóm hộ có thu nhập từ trung bình trở xuống là thấp nhất (trên 1,7
triệu đồng) nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mức lương tối thiểu. Các ngành
khác, mức thu nhập của lao động còn cao hơn nữa.
Theo thành phần kinh tế, mức thu nhập bình quân thấp nhất là của lao
động làm việc trong khu vực Nhà nước thuộc nhóm hộ có thu nhập từ trung
bình trở xuống, đạt 1,85 triệu đồng/tháng. Lao động làm trong các khu vực
kinh tế khác có mức thu nhập bình quân tháng cao hơn so với của lao động
làm trong khu vực kinh tế Nhà nước, kể cả thu nhập của lao động cá thể.
Theo vị thế việc làm, thu nhập thấp nhất là của lao động gia đình
thuộc nhóm hộ có thu nhập dưới trung bình, đạt gần 2 triệu đồng/tháng. Lao
động tự làm có thu nhập đạt gần 2,4 triệu đồng/tháng; với lao động làm
công ăn lương và chủ cơ sở, mức thu nhập còn cao hơn nữa.
Như vậy, thu nhập bình quân tháng thấp nhất của người lao động được
khảo sát thuộc nhóm hộ dưới trung bình đều cao hơn mức lương tối thiểu.
Tuy vậy, việc hộ gia đình có khả năng tích lũy hay không mới là yếu tố
quyết định năng lực tài chính trong việc tham gia BHXH của người lao động
nói riêng và hộ gia đình nói chung.
Số liệu khảo sát cho thấy hầu hết số hộ được khảo sát đều có mức thu
nhập lớn hơn chi tiêu. Cụ thể, 35% số hộ được khảo sát có mức thu nhập lớn
hơn chi tiêu từ 20% đến 50%; 11,2% số hộ có mức thu nhập lớn hơn 2 lần
so với chi tiêu của hộ. Những hộ còn lại có mức thu nhập lớn hơn chi tiêu
dưới 20%. Xét bình quân trong mẫu khảo sát thì mỗi hộ có mức thu nhập
lớn hơn chi tiêu là 27%, nói cách khác, trung bình mỗi hộ có thể tiết kiệm
được 27% thu nhập hàng tháng. Như vậy, tài chính không phải là vấn đề lớn
cản trở họ tham gia BHXH tự nguyện. Vậy tại sao họ không tham gia?
Tham gia BHXH tự nguyện là một trong nhiều cách thức mà hộ gia
đình có thể lựa chọn đối với phần thặng dư tài chính của hộ gia đình. Tuy
vậy, kết quả khảo sát cho thấy chỉ 4% số hộ gia đình được khảo sát lựa chọn
hình thức tham gia bảo hiểm (BHXH, bảo hiểm thương mại), trong khi 19%
336
lựa chọn gửi tiết kiệm và số còn lại thì sử dụng khoản thặng dư tài chính này
để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nhỏ để sinh lời hoặc tự cất trữ [dưới
dạng tiền mặt hoặc mua kim loại quý, v.v.] trong nhà.
Tỷ lệ thấp hộ gia đình lựa chọn hình thức tham gia bảo hiểm cho thấy
mức độ hưởng ứng của người dân về bảo hiểm nói chung và BHXH tự
nguyện nói riêng là chưa thực sự tích cực. Thực tế này hàm ý rằng người
dân chưa hiểu hết vai trò, tầm quan trọng của bảo hiểm nói chung và BHXH
trong đó có BHXH tự nguyện nói riêng. Do vậy, họ chưa thiết tha với
BHXH tự nguyện. Dưới góc độ khác, có thể kết luận rằng công tác tổ chức
thực hiện chính sách, trong đó có truyền thông, tiếp thị xã hội về BHXH tự
nguyện đến với người dân còn hạn chế.
2. Nhu cầu và khả năng tham gia BHXH tự nguyện
Có chính sách BHXH tự nguyện nhưng đối tượng mà chính sách
hướng tới lại không biết về nó thì khả năng thực hiện chính sách thành công
là rất thấp. Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ người lao động (chưa tham gia
BHXH tự nguyện) biết về chính sách BHXH tự nguyện là rất thấp. Lao
động có thu nhập thấp hơn thì tỷ lệ biết về chính sách cũng thấp hơn: chưa
đến 10% số lao động có thu nhập dưới 1,5 triệu đồng/tháng biết đến chính
sách BHXH tự nguyện và cũng chỉ có 30% trong số lao động có mức thu
nhập từ 2 triệu đồng/tháng trở lên biết chính sách BHXH tự nguyện.
Không biết chính sách BHXH tự nguyện đang được triển khai ở địa
phương nhưng khi điều tra viên giới thiệu chính sách và hỏi họ có mong
muốn tham gia không thì tỷ lệ đối tượng được khảo sát có mong muốn tham
gia khá cao, trên 51,9%. Số liệu khảo sát cho thấy 44% số lao động có thu
nhập dưới 1,5 triệu đồng có mong muốn tham gia. Thu nhập của người lao
động tăng thì nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện cũng tăng theo.
Do chính sách BHXH tự nguyện qui định thời gian đóng BHXH tối
thiểu là 20 năm với phương thức đóng hàng tháng, hàng quí hoặc 6 tháng 1
lần thì được hưởng lương hưu khi đến tuổi nghỉ hưu (theo qui định, nam có
thể tham gia đóng BHXH tự nguyện đến 65 tuổi, nữ đến 60 tuổi) nên những
lao động nam từ 45 tuổi trở lên, nữ từ 40 tuổi trở lên mới bắt đầu tham gia
thì không đủ điều kiện để được hưởng lương hưu hàng tháng. Đề tài phân
nhóm đối tượng được khảo sát thành 2 nhóm: nhóm A (gồm những lao động
337
nam dưới 45 tuổi và lao động nữ dưới 40 tuổi, số này chiếm 60,1% tổng số
đối tượng khảo sát) và nhóm B (gồm lao động nam 45 tuổi trở lên và nữ 40
tuổi trở lên, số này chiếm 39,9% tổng số đối tượng được khảo sát) để kiểm
nghiệm nguyện vọng tham gia BHXH tự nguyện của 2 nhóm đối tượng này.
Kết quả cho thấy, 49,4% số lao động trong nhóm A có mong muốn
tham gia BHXH tự nguyện còn ở nhóm B thì tỷ lệ này là 61,1%. Người lao
động ở tuổi trên 40 có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện cao hơn so với
lao động ít tuổi hơn.
Phân theo ngành kinh tế, 61,7% lao động ngành thương mại, dịch vụ
có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện; 40,5% lao động trong công nghiệp-
xây dựng có nhu cầu tham gia; 20,8% lao động trong nông nghiệp có nhu
cầu tham gia. Như vậy, đối tượng tiềm năng của BHXH tự nguyện hiện nay
là lao động tự làm trong khu vực phi kết cấu. Mặt khác, lao động làm công
ăn lương, lao động tự làm, chủ cơ sở sản xuất kinh doanh cũng có nhu cầu
tham gia BHXH tự nguyện ở mức cao.
Trong số 48,1% lao động không có nhu cầu tham gia BHXH tự
nguyện, lý do không tham gia rất đa dạng nhưng chủ yếu là vì khó khăn về
tài chính, chiếm 43,5% trong số đối tượng không có nhu cầu tham gia. Mặt
khác, còn có 28,3% trong số đối tượng không có nhu cầu tham gia trả lời
đơn giản rằng “họ không muốn tham gia”. Điều này một lần nữa cho thấy
công tác phổ biến chính sách đến đối tượng chưa đủ mạnh để người dân
quyết định tham gia BHXH tự nguyện.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy 16,2% đối tượng không có nhu cầu
tham gia BHXH tự nguyện là do họ chưa biết chính sách. Kết quả này một
lần nữa cho thấy công tác tuyên truyền, phố biến chính sách đến với người
dân đóng vai trò rất quan trọng chứ không chỉ là việc hoàn thiện các qui
định chính sách để hấp dẫn người dân tham gia.
3. Lượng hóa một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người lao động
Sử dụng thông tin thu thập được từ khảo sát mẫu ngẫu nhiên 260 đối
tượng hiện không tham gia BHXH tự nguyện và phân nhóm đối tượng này
thành 2 nhóm:
- Nhóm A là những lao động nam dưới 45 tuổi và nữ dưới 40 tuổi;
338
- Nhóm B là những lao động nam 45 tuổi trở lên và nữ 40 tuổi trở lên.
Kết quả hồi quy các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham gia BHXH tự
nguyện của người lao động cho thấy:
Độ tuổi có tác động đến nhu cầu tham gia của cả nhóm A và nhóm B.
Tỷ lệ người thuộc nhóm B có nhu cầu tham gia BHXH lớn hơn so với tỷ lệ
ở nhóm A nhưng biến tuổi lại có tác động ngược chiều đến hai nhóm đối
tượng này. Với nhóm A, tuổi càng cao thì xác suất người lao động tham gia
càng cao, còn ở nhóm B tuổi càng cao thì nhu cầu tham gia càng giảm. Với
nhóm A, cứ tăng 1 tuổi thì nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của lao động
tăng 8%, ngược lại với nhóm B cứ tăng 1 tuổi thì nhu cầu tham gia BHXH
tự nguyện của lao động lại giảm 32%.
Tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ càng cao thì nhu cầu tham gia BHXH
tự nguyện càng lớn, tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ tăng 1% thì nhu cầu
tham gia BHXH tự nguyện tăng 1,8%. Như vậy, gánh nặng phụ thuộc là một
trong những nguyên nhân dẫn đến người lao động lựa chọn BHXH tự nguyện
như là một trong nhưng phương thức phòng ngừa rủi ro cho bản thân.
Thu nhập bình quân của hộ tăng lên 1% thì nhu cầu tham gia bảo hiểm
tự nguyện của người lao động tăng lên 4,4 lần khi các yếu tố khác không đổi.
Ở nhóm B, nam giới có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện cao hơn
12,6 lần so với nữ giới. Điều này có thể là do mức độ hiểu biết của nam tốt
hơn nữ và vai trò trụ cột của nam giới trong hộ gia đình nhưng kết quả này
cũng có nghĩa là mức độ hiểu biết sâu sắc về BHXH ở người dân còn rất thấp
bởi nữ thì sống lâu hơn nam và nữ lại được hưởng lương hưu trước nam.
Trong nhóm A, người lao động có bằng chuyên môn kỹ thuật thì xác
suất tham gia BHXH tự nguyện của họ cao hơn 2,6 lần so với lao động
không có. Như vậy, công tác tổ chức thực hiện chính sách BHXH tự nguyện
cần chú ý nhiều hơn đến nhóm lao động có trình độ thuộc nhóm A.
Lao động làm trong ngành dịch vụ có xác suất tham gia cao hơn 3 lần
lao động làm trong ngành nông nghiệp. Như vậy, BHXH tự nguyện cần chú
ý hơn đến nhóm lao động làm nghề phi nông nghiệp, lao động trong khu
vực phi kết cấu.
339
Nhà ở cũng là yếu tố ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu tham gia BHXH tự
nguyện, người có nhà biệt thự, kiên cố thì nhu cầu tham gia BHXH tự
nguyện cao hơn 3 lần những lao động không có nhà biệt thự, kiên cố. Về
những tài sản khác trong gia đình, hộ có điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh có tác
động đến nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người lao động. Hộ sở
hữu máy điều hòa nhiệt độ hay tủ lạnh làm tăng nhu cầu tham gia BHXH tự
nguyện của người lao động (tương ứng với mức tăng 2 lần và 3 lần so với
hộ không sở hữu những đồ dùng này. Hộ gia đình có các khoản tiền gửi tiết
kiệm thì lao động trong gia đình có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện cao
hơn khoảng 2 lần so với lao động trong hộ không có khoản gửi tiết kiệm
nào. Như vậy, công tác tuyên truyền, vận động chính sách cần chú ý đến
nhóm đối tượng đã có các điều kiện sinh hoạt tương đối tốt và đầy đủ để gia
tăng độ bao phủ của BHXH tự nguyện.
Khoản tiền đầu tư kinh doanh tác động đến nhu cầu tham gia BHXH
tự nguyện có ý nghĩa thống kê với nhóm B. Hộ gia đình có lao động thuộc
nhóm B mà có những khoản đầu tư kinh doanh thì xác suất tham gia BHXH
tự nguyện của lao động trong hộ cao gấp 5 lần những hộ không đầu tư kinh
doanh. Như vậy, công tác tổ chức thực hiện chính sách BHXH tự nguyện
khi hướng tới nhóm B thì cần đặc biệt chú ý công tác tuyên truyền vận động
đối với các đối tượng thuộc nhóm B mà có hoạt động đầu tư sản xuất kinh
doanh. Cũng lưu ý rằng lao động thuộc nhóm A mà có hoạt động sản xuất
kinh doanh dường như do còn trẻ nên họ chưa coi BHXH tự nguyện là một
phương thức tiết kiệm/đầu tư cần được ưu tiên.
Hộ có tình trạng kinh tế khá trở lên có nhu cầu tham gia BHXH tự
nguyện cao hơn những hộ có kinh tế trung bình trở xuống. Người đã có gia
đình có xác suất tham gia bảo hiểm tự nguyện cao hơn người ly thân, ly hôn
và góa; người chưa có vợ/chồng thì xác suất tham gia thấp hơn.
4. Nguyên nhân hạn chế khả năng tham gia BHXH tự nguyện
Kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy nhu cầu và khả năng tham gia
BHXH tự nguyện của người dân là lớn. Tuy vậy, sau 5 năm thực hiện chính
sách BHXH tự nguyện, số đối tượng tham gia còn rất khiêm tốn. Thực tế
này là bởi các nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
340
- Công tác tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện chưa hiệu quả. BHXH
tự nguyện đã triển khai được 5 năm nhưng tỷ lệ đối tượng chưa tham gia
biết về chính sách này của Nhà nước còn rất thấp. Kết quả nghiên cứu cho
thấy chưa đến 10% số lao động có thu nhập dưới 1,5 triệu đồng/tháng biết
đến chính sách BHXH tự nguyện và cũng chỉ có 30% trong số lao động có
mức thu nhập từ 2 triệu đồng/tháng trở lên biết chính sách BHXH tự
nguyện. Mặt khác, vai trò của chính quyền, đoàn thể địa phương và hệ thống
thông tin đại chúng trong việc phổ biến, cung cấp thông tin về BHXH tự
nguyện đến đối tượng còn mờ nhạt. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong số
đối tượng đang tham gia BHXH tự nguyện thì tỷ lệ biết chính sách chủ yếu
là qua người thân, họ hàng (58,1%); số biết chính sách thông qua chính
quyền địa phương và phương tiện truyền thông chiếm tỷ trọng thấp hơn
nhiều, chỉ là 20,4% và 19,2% tương ứng. Không tiếp cận được thông tin,
không biết và không hiểu đầy đủ về nội dung chính sách là một trong nhưng
nguyên nhân quyết định thái độ và hành vi của đối tượng đối với chính sách
BHXH tự nguyện.
Ngoài ra, phỏng vấn sâu các cơ quan BHXH tỉnh và huyện cho thấy
các đơn vị này chưa có một chiến lược cụ thể trong công tác phổ biến chính
sách BHXH tự nguyện đến đối tượng thuộc diện tham gia. Không chỉ vậy,
cơ quan BHXH [tỉnh và huyện] cũng như chính quyền và đoàn thể địa
phương còn thụ động trong mục tiêu mở rộng độ bao phủ. Cả cấp tỉnh cũng
như huyện đều không nắm rõ số lượng và đặc điểm cụ thể của đối tượng
thuộc diện tham gia trên địa bàn.
- Với qui định hiện hành, lao động nữ trên 40 tuổi và lao động nam
trên 45 tuổi nếu mới bắt đầu tham gia BHXH thì sẽ không đủ điều kiện để
được hưởng lương hưu hàng tháng do không có đủ 20 năm đóng BHXH khi
đến tuổi nghỉ hưu. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối tượng thuộc nhóm này
chiếm gần 40% tổng số đối tượng thuộc diện tham gia trong khi nhu cầu
tham gia của nhóm đối tượng này cao hơn nhiều so với của nhóm đối tượng
ở tuổi trẻ hơn, 61,1% so với 49,4% (tuy vậy, ở nhóm đối tượng này, nhu cầu
tham gia giảm đi nhanh chóng khi tuổi tăng cao lên).
- Lao động thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu là nông dân
và lao động phi nông nghiệp trong khu vực phi kết cấu. Trình độ chuyên
môn kỹ thuật của họ thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của cả nước,
341
nhất là với nhóm lao động dưới 40 tuổi với nữ và dưới 45 tuổi với nam.
Trong khi đó, kết quả nghiên cứu cho thấy trình độ chuyên môn kỹ thuật
đóng vai trò rất quan trọng đối với nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của
nhóm lao động này. Như vậy, không có chuyên môn kỹ thuật là một hạn chế
(thường thì người không có chuyên môn kỹ thuật là người không có việc
làm tốt, không có thu nhập cao và ổn định) đối với người lao động trong
việc tham gia BHXH tự nguyện.
- Có thể do quan niệm về vai trò và vị thế giữa nam và nữ trong hộ là
khá khác nhau nên giới tính cũng đóng vai trò nhất định đối với nhu cầu
tham gia BHXH tự nguyện của đối tượng tuổi trên 45 với nam và trên 40
với nữ. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhóm đối tượng này, nam giới có
nhu cầu tham gia cao hơn nữ giới rất nhiều trong khi nữ lại sống thọ hơn
nam nên xét về cơ cấu thì ở chừng mục nào đó số lượng nữ sẽ nhiều hơn
nam trong khi nhu cầu tham gia lại thấp hơn nam.
- Nông dân, lao động làm nghề nông thường có thu nhập không ổn
định (bộ phận lao động này chiếm tỷ trong lớn trong tổng số đối tượng
thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện) nên nhu cầu tham gia BHXH tự
nguyện của nông dân, lao động trong nông nghiệp thấp hơn nhiều so với lao
động làm trong dịch vụ và công nghiệp-xây dựng.
- Hộ gia đình đã có những điều kiện sống tốt (nhà cửa, trang thiết bị
điều hòa, tủ lạnh, tiền gửi tiết kiệm…) thì có nhu cầu tham gia BHXH tự
nguyện cao hơn. Tuy vậy, nông dân, lao động phi nông nghiệp trong khu
vực phi kết cấu thường có điều kiện và mức sống thấp, do vậy nhu cầu tham
gia BHXH tự nguyện của họ không cao.
CHƯƠNG III
KHUYẾN NGHỊ MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH
LAO ĐỘNG CÓ MỨC THU NHẬP TỪ TRUNG BÌNH TRỞ
XUỐNG THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chính sách khuyến
khích lao động có thu nhập từ trung bình trở xuống tham gia BHXH tự
342
nguyện cho thấy việc xây dựng và ban hành chính sách BHXH tự nguyện là
đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu tham gia BHXH của số đông người lao
động không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Tuy vậy, để BHXH tự
nguyện thực sự trở thành chính sách khuyến khích người lao động tham gia,
cần tiếp tục hoàn thiện chính sách theo hướng sau đây:
I. CHO PHÉP ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH TỰ NGUYỆN ĐÓNG BÙ SỐ NĂM CÒN THIẾU ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
Cho phép người lao động được mua bù số năm còn thiếu. Việc điều
chỉnh này sẽ tạo điều kiện để lao động là nam giới trên 45 tuổi và nữ giới
trên 40 tuổi tham gia BHXH tự nguyện (nhóm B) được hưởng lương hưu
khi đến tuổi nghỉ hưu. Hoặc, cho phép người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu
mà vẫn chưa đáp ứng được điều kiện tối thiểu số năm đóng BHXH thì được
tiếp tục đóng cho đến khi đạt yêu cầu về thời gian đóng theo qui định. Điều
chỉnh này sẽ đáp ứng 61,1% số người lao động thuộc nhóm B và cũng đáp
ứng nguyện vọng của 21% số người lao động (được phỏng vấn) cho rằng
nên cho phép lựa chọn đóng 15 năm với mức đóng cao hơn thay vì chỉ có
một lựa chọn là đóng trong 20 năm.
II. CHO PHÉP ĐỐI TƯỢNG THAM GIA LỰA CHỌN PHƯƠNG THỨC ĐÓNG LINH HOẠT HƠN
Hiện nay, 75% số đối tượng tham gia lựa chọn phương thức đóng 6
tháng/lần, 24% số đối tượng tham gia đã lựa chọn phương thức đóng hàng
quí và chỉ 1% là chọn phương thức đóng hàng tháng. Như vậy, cùng với
việc điều chỉnh chính sách về thời gian tham gia đóng BHXH tự nguyện (có
thể lựa chọn đóng 15 năm và đóng bù số năm còn thiếu với mức đóng cao
hơn mức tối thiểu và đủ để đảm bảo tối thiểu cũng bằng lượng tiền đóng
trong trường hợp 20 năm), mở rộng thêm phương thức đóng hàng năm và 1
lần cho nhiều năm với mức phí đóng cao hơn mức tối thiểu hàng tháng,
hàng quí để thu hút và khuyến khích người lao động không có thu nhập ổn
định, người lao động nhất là người ở tuổi trên 40 với nữ và trên 45 với
nam có khả năng đóng 1 lần cho nhiều tháng, nhiều năm tham gia BHXH
tự nguyện.
343
III. NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ NGƯỜI LAO ĐỘNG THU NHẬP THẤP MỘT PHẦN PHÍ THAM GIA BHXH TỰ NGUYỆN
Các bằng chứng từ nghiên cứu này cho thấy:
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động cả nước ước tính là 48 triệu
người, trong đó có khoảng 33 triệu người thuộc diện tham gia BHXH tự
nguyện.
Cả nước có 35% số lao động thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện
không đủ năng lực tài chính tham gia BHXH tự nguyện, tương đương với
11,6 triệu người (35%*33 triệu người). Mỗi lao động này chỉ đủ khả năng
đóng BHXH tự nguyện với mức phí bằng 70% mức tối thiểu theo qui định.
Cả nước có trên 7 triệu lao động thuộc hộ nghèo, kể cả người dân tộc
thiểu số (trong số 11,6 triệu người nói trên). Nhóm lao động này hoàn toàn
không đủ năng lực tài chính tham gia BHXH tự nguyện. Nếu tham gia, ngân
sách nhà nước phải hỗ trợ toàn phần.
- Trường hợp 1: Giả định ngân sách nhà nước hỗ trợ toàn phần phí
tham gia BHXH tự nguyện cho 7 triệu lao động thuộc hộ nghèo và 30% phí
tham gia BHXH tự nguyện cho 4,6 triệu lao động thu nhập thấp nói trên
Mô phỏng cho năm 2011 ta thấy lượng ngân sách Nhà nước cần chi
cho hỗ trợ trong năm là:
- Chi cho 4,6 triệu lao động thu nhập thấp: 4,6 triệu người* 30% *
18% tiền lương tối thiểu * 12 tháng = 4,6 triệu người * 30% * 18% * 830
nghìn đồng * 12 tháng = 2 nghìn 474 tỷ đồng. Khoản này tương đương với
0,1% GDP và bằng 0,45% tổng chi ngân sách thường xuyên năm 2011(46).
- Chi hỗ trợ toàn phần lao động nghèo: 7 triệu người*100%*18% tiền
lương tối thiểu*12 tháng = 12 nghìn 550 tỷ đồng. Khoản này tương đương
với 0,5% GDP và bằng 2,3% tổng chi ngân sách thường xuyên năm 2011.
Khoản chi trên là một gánh nặng đối với ngân sách nhà nước. Khó khả
thi trong thực tiễn. Mặt khác, trong thực tế thực hiện thì không thể xảy ra
trường hợp tất cả 4,6 triệu người thu nhập thấp đều tham gia BHXH tự
nguyện với mức phí hỗ trợ 30%. Bài học từ hỗ trợ phí mua bảo hiểm y tế
(46)
Năm 2011, GDP cả nước đạt 2.535.008 tỷ đồng; chi ngân sách thường xuyên
là 546.081 tỷ đồng.
344
cho người cận nghèo cho thấy khi chính sách nhà nước hỗ trợ 50% phí mua
bảo hiểm y tế thì gần như không có hộ cận nghèo nào tham gia; khi mức hỗ
trợ này tăng tên 70% thì cũng chỉ có 10% hộ cận nghèo tham gia.
- Trường hợp 2: Nhà nước hỗ trợ 30% phí tham gia BHXH tự nguyện
ở mức tối thiểu cho người lao động thu nhập thấp (từ mức tiền lương tối
thiểu trở xuống) nếu tham gia BHXH tự nguyện và có 10% số đối tượng
tham gia (10%*4,6 triệu người = 460 nghìn người)
Mô phỏng cho năm 2011 ta thấy lượng ngân sách Nhà nước cần chi
cho hỗ trợ trong năm là: 460 nghìn người* 30% * 18% tiền lương tối thiểu *
12 tháng = 460 nghìn người * 30% * 18% * 830 nghìn đồng * 12 tháng =
247,4 tỷ đồng. Khoản này tương đương với 0,01% GDP và bằng 0,045%
tổng chi ngân sách thường xuyên năm 2011. Đây là một khoản chi không
quá lớn đối với ngân sách nhà nước.
- Trường hợp 3: Nhà nước hỗ trợ 30% phí tham gia BHXH tự nguyện
ở mức tối thiểu cho người lao động thu nhập thấp (từ mức tiền lương tối
thiểu trở xuống) nếu tham gia BHXH tự nguyện và trong tổng số đối tượng
tham gia BHXH tự nguyện thì số thuộc diện hỗ trợ chỉ chiếm 3%
Khảo sát mẫu ngẫu nhiên do nghiên cứu này thực hiện cho thấy người
lao động thuộc hộ trên trung bình và dưới trung bình đều tham gia BHXH tự
nguyện. Trong đó, có 3% số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện cho rằng
mức đóng hiện nay là cao. Do mức thu nhập bình quân/người/tháng phân
theo các nhóm hộ trên trung bình và từ trung bình trở xuống của các hộ gia
đình chưa tham gia BHXH tự nguyện cũng tương đồng với các nhóm hộ gia
đình hiện đang tham gia BHXH tự nguyện nên nghiên cứu này thể giả định
rằng luôn có 3% số đối tượng cần sự hỗ trợ về tài chính để họ đủ khả năng
đóng phí BHXH tự nguyện.
Theo Nghị quyết số 15/NQ-TW của Ban chấp hành Trung ương thì
chỉ tiêu đặt ra là đến năm 2015 có 700 nghìn người tham gia BHXH tự
nguyện, giả định số đối tượng cần hỗ trợ là 3% trong số này (như số liệu
phân tích trong nghiên cứu này) thì số đối tượng được Nhà nước hỗ trợ sẽ là
21 nghìn người (3%*700 nghìn người). Giả định tiền lương tối thiểu năm
2015 là 1500 nghìn đồng và giả định cả 21 nghìn người này tham gia từ đầu
năm 2015 thì ngân sách Nhà nước cần hỗ trợ là: 21 nghìn người*30%*
345
22%*1500 nghìn đồng*12 tháng = 24,5 tỷ đồng trong năm 2015, đây là một
lượng ngân sách không lớn vào năm 2015.
- Nhằm mở rộng độ bao phủ của BHXH, Trung Quốc đã thực hiện
chính sách con cái tham gia BHXH thì bố mẹ ở độ tuổi nghỉ hưu mà không
có lương hưu hoặc trợ cấp BHXH, được nhận chế độ trợ cấp hàng tháng cho
người cao tuổi. Đây là một giải pháp mà Việt Nam có thể cân nhắc trong
quá trình hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện nhằm thu hút người lao
động tham gia nếu tiếp tục thực hiện mô hình BHXH tọa thu tọa chi như
hiện nay (lấy số đóng của thế hệ đóng hiện nay để chi trả cho thế hệ trước).
Tuy vậy, giải pháp này sẽ tạo gánh nặng cho ngân sách nếu chúng ta chuyển
từ mô hình BHXH vận hành theo nguyên tắc tọa thu tọa chi sang tài khoản
tiết kiệm cá nhân.
Để hiện thực hóa các khuyến nghị nêu trên, cần tập trung thực hiện
một số giải pháp sau:
1. Điều kiện và lộ trình thực hiện giải pháp hoàn thiện chính sách
BHXH tự nguyện đã được luật hóa. Do vậy, hoàn thiện chính sách
BHXH tự nguyện phải gắn với kế hoạch sửa đổi Luật BHXH. Hiện nay,
Luật BHXH đang được sửa đổi và dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua vào
năm 2014. Đây là cơ hội tốt để những khuyến nghị chính sách về BHXH tự
nguyện của nghiên cứu này được sử dụng làm đầu vào cho công tác sửa đổi
Luật. Về cơ bản, những khuyến nghị về vấn đề đóng bù số năm đóng BHXH
tự nguyện còn thiếu và về phương thức đóng BHXH là các nội dung có thể
đưa vào sửa đổi Luật BHXH lần này mà không gây ra những xáo trộn gì đối
với những đối tượng đang tham gia đóng, đang hưởng BHXH cũng như
không tạo gánh nặng gì cho ngân sách nhà nước. Trong khí đó, những sửa
đổi này sẽ tạo điều kiện để nhiều đối tượng, nhất là những người lao động từ
40 tuổi trở lên với nữ và từ 45 tuổi trở lên với nam tham gia BHXH. Không
chỉ vậy, do số đông đối tượng của BHXH tự nguyện là nông dân, lao động
trong khu vực phi kết cấu, thu nhập không ổn định như lao động làm công
hưởng lương trong khu vực chính thức nên ngay cả những lao động dưới 40
tuổi với nữ và dưỡi 45 tuổi với nam cũng không chắc là sẽ đáp ứng đủ thời
gian tối thiểu 20 năm đóng BHXH tự nguyện khi đến tuổi nghỉ hưu nếu
không cho phép họ đóng bù số năm còn thiếu (đóng 1 lần cho 1 năm, 1 lần
cho nhiều năm).
346
Về hỗ trợ phí đóng BHXH tự nguyện cho lao động có thu nhập thấp
tham gia BHXH tự nguyện. Đây cũng là chủ trương của Đảng đã được
khẳng định trong Nghị quyết số 15/NQ-TW về một số vấn đề về chính sách
xã hội giai đoạn 2012-2020. Do vậy hàng năm Nhà nước cần chủ động dành
một khoản ngân sách tương đương với 0,01% GDP hay bằng 0,045% chi
ngân sách thường xuyên như đã ước tính ở trên để đảm bảo hỗ trợ 30% phí
tham gia BHXH tự nguyện ở mức tối thiểu cho người lao động thu nhập
thấp (từ mức tiền lương tối thiểu trở xuống) tham gia BHXH tự nguyện. Để
đảm bảo tính hiệu lực, nội dung về hỗ trợ người lao động thu nhập thấp một
phần phí tham gia BHXH tự nguyện cũng cần được trong Luật BHXH.
2. Giải pháp triển khai thực hiện chính sách
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, tiếp thị xã hội
để nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân về vai trò, nội dung của
chính sách BHXH tự nguyện. Các chương trình truyền thông phải đảm bảo
hướng trực tiếp đến đối tượng của BHXH tự nguyện; nâng cao vai trò của
các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức đoàn thể trong việc phổ biến và hỗ trợ
triển khai thực hiện chính sách.
Cơ quan BHXH địa phương (cấp huyện) cần thực hiện các khảo sát,
thu thập số liệu để xây dựng được cơ sở dữ liệu về đối tượng thuộc diện
tham gia BHXH tự nguyện của địa phương mình, gồm cả số đang tham gia,
đang hưởng chế độ và số thuộc diện tham gia nhưng chưa tham gia. Dựa
trên nhu cầu và khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động
trên địa bàn, xây dựng chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH tự
nguyện đưa vào các nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng
năm, 5 năm, 10 năm của địa phương...
Tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển đối tượng tham gia BHXH tự
nguyện một cách chủ động. Coi BHXH tự nguyện là sản phẩm/dịch vụ còn
người lao động là khách hàng. Hình thành mạng lưới thu và chi trả BHXH
tự nguyện đến cấp xã (kết hợp với các mạng lưới sẵn có khác như thu bảo
hiểm y tế chẳng hạn) để đảm bảo cung cấp sản phẩm/dịch vụ BHXH tự
nguyện đến người lao động một cách thuận tiện nhất, dễ tiếp cận nhất (nhất
là đối với các địa bàn giao thông không thuận lợi, chưa phát triển).
347
Có các hình thức biểu dương, khen thưởng đối với những địa phương
làm tốt chính sách BHXH tự nguyện đồng thời tổng kết, đánh giá, rút kinh
nghiệm, nhân rộng những cách làm hay trong thực hiện BHXH tự nguyện.
3. Đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển một hệ thống BHXH toàn diện
Các khuyến nghị và giải pháp thực hiện chính sách ở trên vẫn chỉ
dừng lại ở việc làm sao đạt được mục tiêu mở rộng độ bao phủ của BHXH [tự
nguyện], các chính sách BHXH bắt buộc và tự nguyện như vậy vẫn rời rạc,
không có sự liến kết, hỗ trợ lẫn nhau để đảm bảo cho BHXH phat huy hết vai
trò là xương sống của hệ thống ASXH. Do vậy, về lâu dài, cần có quyết tâm
chính trị mạnh mẽ hơn trong cải cách BHXH ở Việt Nam theo hướng phát
triển một hệ thống BHXH đa tầng có thể hỗ trợ lẫn nhau.
Về cơ bản, có thể xây dựng một hệ thống BHXH 3 tầng: Tầng BHXH
thứ nhất dựa vào ngân sách Nhà nước (nguồn thu từ thuế), đảm bảo cho mọi
người dân khi hết tuổi lao động, không còn khả năng lao động mà không có
nguồn thu nhâp nào khác thì được hưởng một mức lương hưu tối thiểu như
nhau (còn gọi là lương hưu xã hội), thường bằng khoảng 45% chuẩn nghèo.
Tầng BHXH thứ hai dựa trên nguồn thu từ sự bắt buộc mọi người lao động có
việc làm tạo thu nhập, phải tham gia với mức đóng đủ để đảm bảo khi đến
tuổi nghỉ hưu thì được hưởng mức lương hưu không thấp hơn mức tiền lương
tối thiểu (lương cơ sở). Tầng BHXH thứ ba dựa trên nguồn thu từ sự tham gia
tự nguyện của người lao động (đồng thời tham gia cả ở tầng 2 và thầng 3
này) để gia tăng mức lương hưu cho người lao động sau này nghỉ hưu.
348
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG VÀ CƠ HỘI TIẾP
CẬN DỊCH VỤ XÃ HỘI CỦA NHÓM NGƯỜI NGHÈO,
ĐỐI TƯỢNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG ĐẶC BIỆT TẠI CÁC
VÙNG SÂU VÙNG XA, VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
MÃ SỐ: CT 2011-02-03
Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Khoa học LĐ & XH
Chủ nhiệm đề tài: PGS. TS. Nguyễn Bá Ngọc
Thư ký: ThS. Đặng Đỗ Quyên
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG
TIẾP CẬN DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN CỦA NGƯỜI NGHÈO
TẠI VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
I. KHÁI NIỆM DỊCH VỤ XÃ HỘI VÀ DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN
1. Dịch vụ xã hội (DVXH)
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, quan niệm về DVXH (social
services) được hiểu là các dịch vụ để bảo đảm các giá trị, chuẩn mực có tính
xã hội. Từ cách tiếp cận đó, khái niệm DVXH được phát biểu như sau:
DVXH là hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho các thành viên
trong xã hội để nâng cao năng lực có việc làm và khả năng hội nhập xã hội
nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội được thừa nhận.
2. Dịch vụ xã hội cơ bản (DVXHCB)
DVXHCB được Liên Hiệp Quốc định nghĩa như sau: DVXHCB là các
hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng
những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống (UN - Africa Spending Less on Basic
Social Services).
349
Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển xã hội được tổ chức
tại Copenhagen 1995, khái niệm DVXHCB được Liên Hiệp Quốc đưa ra
bao gồm:
Giáo dục cơ bản: mầm non, tiểu học, xóa mù chữ cho người lớn;
Y tế cơ bản: bao gồm tất cả các dịch vụ ở: các trung tâm y tế
xã/phường; các phòng khám đa khoa khu vực; các bệnh viện và trung tâm y
tế quận. huyện; và chăm sóc sức khỏe ban đầu, gồm y tế dự phòng (phòng
dịch cho trẻ, chăm sóc sau khi sinh đẻ, giáo dục y tế) và các chương trình y
tế công cộng (sức khỏe bà mẹ và trẻ em, bệnh sốt rét, bệnh lao, thuốc và
dược liệu cơ bản, vệ sinh) và chương trình quốc gia về dinh dưỡng.
Dân số và kế hoạch hóa gia đình;
Các DVXH liên quan đến cứu trợ thiên tai;
Nước sạch và vệ sinh: các dự án nước sạch và vệ sinh nông thôn, các
dự án nước sạch và vệ sinh ở các khu vực ven đô.
Nghị quyết 15 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Khóa XI của
Đảng ngày 01 tháng 6 năm 2012 “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai
đoạn 2012-2020” đã xác định cụ thể một số DVXHCB cho người dân, bao
gồm: giáo dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu, nước sạch và vệ sinh
môi trường, và thông tin truyền thông: “…Bảo đảm mức tối thiểu về một số
DVXHCB cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó
khăn và đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS).
DVXHCB cung cấp cho người dân nhằm thực hiện các chức năng:
- Bảo đảm các nhu cầu cơ bản của người dân, bao gồm nhu cầu sống,
nhu cầu hội nhập xã hội và nhu cầu an sinh tại cộng đồng;
- Là chìa khóa để phát triển “vốn con người” hướng tới một lực lượng
dân số khỏe mạnh và có tri thức nhằm có được sự độc lập về kinh tế và chủ
động tham gia TTLĐ;
- Thực hiện công bằng, đảm bảo mọi người có được các điều kiện
cùng tham gia vào quá trình phát triển xã hội.
350
II. NGƯỜI NGHÈO, VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI NƯỚC TA VÀ NHU CẦU TIẾP CẬN DVXHCB
Vùng DTTS và miền núi bao gồm 51 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (19 tỉnh miền núi vùng cao (có đồng bào DTTS), 22 tỉnh miền núi (có
đồng bào DTTS) và 10 tỉnh đồng bằng (có đồng bào các DTTS sinh sống).
Hiện cả nước có 53 thành phần DTTS sinh sống trên địa bàn 51/63
tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở
năm 2009 đã công bố Việt Nam có 12.251.436 người DTTS, chiếm tỷ lệ
14,27% dân số cả nước và chiếm gần 18% dân số của vùng DTTS và miền
núi. Miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là 2 nơi có tỷ lệ người DTTS sinh
sống cao nhất, tương ứng là 54,26% ( Tây Bắc: 79,2%, Đông Bắc: 41,3%)
và 34,04% so với dân số của 2 vùng này.
Vùng DTTS và miền núi có những đặc thù rất khác biệt. Đặc điểm này
sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tình trạng nghèo đói của người dân.
- Điều kiện sản xuất khó khăn: Có điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu
khắc nghiệt, địa hình chủ yếu là núi cao hiểm trở, chia cắt phức tạp, tạo ra
các vùng dân cư cư trú phân tán, cách biệt, giao lưu đi lại khó khăn.
- Thiếu việc làm và việc làm năng suất thấp: Vùng DTTS và miền núi
chủ yếu là sản xuất nông lâm nghiệp, mang tính tự nhiên, tự cấp, tự túc là
phổ biến, sản xuất hàng hóa chưa thực sự phát triển.
- Cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém và không đáp ứng nhu cầu: Các
điều kiện về hạ tầng kinh tế, kỹ thuật còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng yêu
cầu sản xuất và đời sống: còn gần 3% các xã ĐBKK chưa có đường ô tô đến
trung tâm xã, hệ thống giao thông thôn bản chủ yếu là đường đất, dân sinh,
trong khi khoảng cách từ thôn, bản đến các trung tâm xã rất xa (có nơi hơn
50km); 5% số xã chưa có điện và 30% số hộ chưa được dùng điện lưới quốc
gia; hạ tầng thủy lợi, thông tin, liên lạc… còn nhiều khó khăn, bất cập.
- Thiếu vốn: Người nghèo không quá khó khăn trong việc tiếp cận
nguồn vốn. Tuy nhiên, các khoản vay thường không đủ đáp ứng nhu cầu và
ngắn hạn. Vì lý do này, các khoản vay thường không có lợi đối với những
người muốn mở rộng sản xuất. Người nghèo thường gặp khó khăn tiếp cận
nguồn tín dụng chính thức, và thường bị ép vay thông qua các kênh không
chính thức với lãi suất cao hơn.
351
- Giáo dục và trình độ lao động thấp: Một điểm đáng lưu ý của vùng
này là lực lượng lao động có trình độ học vấn và tay nghề thấp so với các
vùng khác. Đối với người nghèo, thiếu học hành không nhất thiết là nguyên
nhân trực tiếp gây ra nghèo, nhưng nghèo làm hạn chế cơ hội để họ có thể
tiếp cận với việc làm phi nông nghiệp trong khi việc làm nông nghiệp chỉ
theo mùa vụ và người nghèo thường có ít đất hoặc không có đất để sản xuất
nông nghiệp.
- Thiên tai: Vùng DTTS và MN thường hay bị thiên tai như lũ quét, lở
đất nên hay gặp rủi ro và tác động xấu đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
- Phong tục tập quán: Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa truyền thống
riêng biệt về phong tục, tập quán, lễ hội, trang phục và thuộc các nhóm ngôn
ngữ khác nhau (có 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau)... Vì vậy nó tác động và
hình thành nên đặc điểm tâm sinh lý, lối sống, ý thức tộc người… rất đặc
thù của từng dân tộc. Tuy nhiên do các dân tộc sống xen kẽ nhau, điều này
đã tạo ra sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau cả về văn hóa, và ngôn ngữ (theo
2 chiều hướng tích cực và tiêu cực), từ đó tạo nên sự đa dạng về văn hóa của
vùng. Bên cạnh những bản sắc giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của từng
dân tộc, từng cộng đồng, địa phương cũng tồn tại một số tập quán sản xuất,
đời sống còn mang tính lạc hậu, ít phù hợp và trở thành rào cản đối với sự
phát triển.
Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận DVXHCB của
người nghèo vùng DTTS và miền núi dựa trên mô hình trách nhiệm của các
nhóm chủ thể bao gồm:
- Cơ quan hoạch định chính sách;
- Cơ quan triển khai chính sách và đơn vị cung cấp dịch vụ (tương tác
với đối tượng);
- Đối tượng tham gia, tiếp cận và hưởng lợi.
III. PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TIẾP CẬN DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN CỦA NGƯỜI NGHÈO VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
1. Bản chất của việc nghiên cứu khả năng tiếp cận
Nội dung nghiên cứu của đề tài này gắn với vấn đề người nghèo ở
vùng DTTS và miền núi được tham gia và hưởng lợi từ hệ thống DVXHCB,
352
vì vậy phạm trù “tiếp cận” được sử dụng với ý nghĩa là việc người nghèo
biết, tham gia và nhận được các lợi ích từ các DVXHCB.
"Khả năng tiếp cận" được hiểu là sự thể hiện mức độ xảy ra việc một
chủ thể nắm bắt, tham gia và nhận được các lợi ích với những điều kiện
nhất định. Những điều kiện nhất định này là vốn vật chất hoặc phi vật chất
hoặc sự kết hợp của cả hai.
353
Các cách tiếp cận nghiên cứu bao gồm:
- Cách tiếp cận đầu tiên xuất phát từ phía cầu bao gồm nhu cầu, mong
muốn của người nghèo có được đáp ứng hay không và rào cản trong việc
tiếp cận DVXHCB của người nghèo. Trong tiếp cận DVXHCB này, các vấn
đề liên quan đến việc người dân có khả năng nắm bắt quyền, tham gia và
hưởng lợi từ hệ thống dịch vụ của nhà nước hay không là rất quan trọng, nó
không chỉ cho thấy chính sách và dịch vụ đã có hay chưa mà còn xem xét
tính phù hợp của chính sách và dịch vụ đó trong thực tiễn.
- Cách tiếp cận thứ hai xuất phát từ phía cung DVXHCB. Việc có hay không DVXHCB và chất lượng dịch vụ đó như thế nào ảnh hưởng rất lớn tới khả năng hưởng thụ DVXH của người nghèo.
- Cách tiếp cận tổng hợp xem xét khả năng tiếp cận DVXHCB ở cả phía cầu và cung. Việc người nghèo có được tiếp cận với chính sách, DVXH hay không chịu ảnh hưởng của yếu tố đầu vào hay các điều kiện mà ở đây là quan hệ giữa mức độ sẵn có của dịch vụ/lợi ích và các nhu cầu từ phía đối tượng. Chính vì vậy, nghiên cứu khả năng tiếp cận DVXHCB cung cấp những đánh giá về thực trạng quan hệ giữa các chủ thể trong lĩnh vực bảo đảm DVXHCB. Cũng từ đó, nghiên cứu khả năng tiếp cận cho phép xem xét những yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm hiệu quả thực hiện DVXHCB. Tóm lại, nghiên cứu về khả năng tiếp cận DVXHCB là việc nghiên cứu tất cả các yếu tố tác động đến việc người nghèo tham gia, thụ hưởng chính sách và các DVXHCB.
Với cách nhìn nhận đó, về bản chất - nghiên cứu khả năng tiếp cận DVXHCB sẽ cung cấp những phát hiện và gợi ý khách quan để điều chỉnh, đổi mới chính sách hoặc đưa ra các giải pháp thúc đẩy hiệu quả hoạt động của hệ thống cung cấp DVXHCB.
2. Nội dung nghiên cứu khả năng tiếp cận DVXHCB của người nghèo tại các vùng DTTS và miền núi
Các cách tiếp cận nghiên cứu bao gồm:
Cách tiếp cận xuất phát từ Cung DVXHCB: bao gồm các chương trình, chính sách DVXHCB cho nhóm người nghèo tại các vùng DTTS và miền núi; tổ chức thực hiện cung cấp dịch vụ;
Cách tiếp cận xuất phát từ Cầu DVXHCB: bao gồm đặc điểm của đối tượng; nhu cầu của đối tượng (người nghèo tại vùng DTTS và MN).
354
Nhóm chỉ tiêu để đánh giá khả năng tiếp cận DVXHCB của người
nghèo vùng DTTSMN bao gồm: Tỷ lệ bao phủ; Kết quả đạt được; Mức độ
đáp ứng.
3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá khả năng tiếp cận DVXHCB của người nghèo vùng DTTS và miền núi
Đề tài sẽ sử dụng ba nhóm chỉ tiêu để đánh giá khả năng tiếp cận
DVXHCB của người nghèo vùng DTTSMN:
Tỷ lệ bao phủ;
Kết quả đạt được;
Mức độ đáp ứng.
IV. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
a) Mô hình phát triển xã hội của các nước châu Âu
- Mô hình 1 (của các nước Bắc Âu gồm Thụy Điển, Phần Lan Đan
Mạch…): Nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong cung cấp DVXH. Mọi người
dân được hưởng các DVXH vụ này từ lúc ở thời kỳ thai nghén cho tới khi
chết. Mô hình này có mức độ bình đẳng cao, có nghĩa là phân phối thu nhập
tương đối công bằng thông qua việc áp dụng mức độ đánh thuế cao, giáo
dục miễn phí và cơ hội bình đẳng trong tiếp cận việc làm; đây là mô hình có
chi phí cao được bù đắp bởi mức thuế rất cao (50-51%);
- Mô hình 2 (của các nước Pháp, Đức, Bỉ..): Nhà nước giữ vai trò chủ
yếu trong cung cấp DVXH tuy nhiên cũng có sự phân cấp mạnh mẽ cho
chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội tham gia quản lý thực hiện;
mức độ bao phủ khá rộng tới các đối tượng dân chúng với mức chi trả khá
cao trong các chương trình BHXH;
- Mô hình 3 (của các nước Anh, Ireland...): khu vực tư nhân tham gia
mạnh mẽ vào cung cấp các DVXH; tập trung nhiều vào những người nghèo
và người yếu thế trong xã hội; mức độ cứu trợ này chỉ là mang tính chất tối
thiểu chứ không tràn lan, chồng chéo như ở nhiều nước Bắc Âu khác; mức
thuế đóng góp là 36%;
- Mô hình 4 (của các nước Nam Âu như Tây Ban Nha, Hy Lạp, Italia,
Bồ Đào Nha...): Các nguồn lực vẫn ưu tiên nhiều cho phát triển kinh tế,
355
nâng cao thu nhập và xây dựng cơ sở hạ tầng do vậy phúc lợi xã hội dừng ở
mức độ vừa phải, họ coi trọng quyền được làm việc và một phần ASXH, họ
tập trung cho người nghèo và đấu tranh chống đói nghèo; mức thuế đóng
góp là 42%.
b) Kinh nghiệm của các nước trong cung ứng dịch vụ công:
- Nếu nhà nước tự mình làm tất cả dịch vụ công, bỏ qua các nguồn lực khác, thì chẳng những gánh nặng ngân sách tăng lên, mà còn dẫn đến một nhà nước yếu và một xã hội kém phát triển. Do vậy cần đổi mới cung ứng dịch vụ công theo hướng: Nhà nước phối hợp với tổ chức xã hội và tư nhân thực hiện cung ứng dịch vụ công theo pháp luật và quy chế; cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công trong khu vực nhà nước theo kịp đà phát triển của khoa học và công nghệ...
- Khi nhà nước tạo ra một sân chơi bình đẳng sẽ tạo ra sức cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung cấp dịch vụ công. Nhờ đó, người tiêu dùng có được quyền tự do lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ.
c) Hỗ trợ tiền mặt có điều kiện trong y tế và giáo dục cho các hộ gia đình nhằm giảm nghèo, cải thiện kết quả phát triển con người, nâng cao vai trò và vị trí của phụ nữ trong gia đình (chương trình Bolsa Familia của Brazil, Progresa của Mexico...).
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN CỦA NGƯỜI NGHÈO TẠI VÙNG DÂN TỘC
THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
I. KHẢ NĂNG TIẾP CẬN CÁC CHÍNH SÁCH VÀ DỊCH VỤ VIỆC LÀM CỦA
NGƯỜI NGHÈO VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
1. Tổng quan chính sách và dịch vụ việc làm cho người nghèo vùng DTTS và miền núi
- Các chính sách hỗ trợ dạy nghề (gồm 11 chính sách được chia làm 4 nhóm chính: nhóm chính sách cử tuyển học nghề; nhóm chính sách đặt hàng đào tạo nghề; nhóm chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên dân tộc rất ít người thuộc hộ nghèo, học tại các trường nghề; nhóm chính sách hỗ trợ học nghề ngắn hạn;
356
- Các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc chương trình mục
tiêu quốc gia (CTMTQG) về việc làm và dạy nghề thông qua hoạt động vay
vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm, hỗ trợ phát triển thị trường
lao động (TTLĐ);
- Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động: Hỗ trợ khai thác, mở thị
trường tiếp nhận lao động; Hỗ trợ cấp bù chênh lệch lãi suất cho vay đối với
các đối tượng chính sách vay vốn đi làm việc ở nước ngoài; Hỗ trợ đào tạo
nghề, đào tạo định hướng, nâng cao chất lượng nguồn lao động.
2. Hệ thống cung cấp dịch vụ việc làm
Hệ thống cung cấp dịch vụ Việc làm cho người nghèo vùng DTTS và
miền núi (MN) bao gồm:
- Mạng lưới cơ sở dịch vụ việc làm đã phát triển với hai loại hình
Trung tâm giới thiệu việc làm (GTVL) Nhà nước, khoảng 130 trung tâm và
các doanh nghiệp dịch vụ việc làm tư nhân, trên 100 doanh nghiệp.
- Mạng lưới cơ sở dạy nghề do Tổng cục Dạy nghề quản lý có 136
trường CĐ nghề; 307 trường TCN; 849 trung tâm dạy nghề và hơn 1.000 cơ
sở dạy nghề khác, tăng 1,5 lần so với năm 2006. Tổng số giáo viên dạy nghề
ở trường CĐN, TCN, TTDN là 35.800 người, trong đó giáo viên dạy ở các
trường nghề là 24.200 người
- Mạng lưới Trung tâm Khuyến nông: đến nay tất cả 63 tỉnh, thành phố
trong cả nước đã có Trung tâm khuyến nông; có 567 Trạm khuyến nông cấp
huyện (trong tổng số 596 đơn vị cấp huyện, thị xã trong cả nước), đạt 95%.
Tổng số cán bộ khuyến nông cấp huyện tính đến thời điểm 31/12/2011 là
4.025 người, tăng 7% so với năm 2010; tổng số khuyến nông viên cơ sở cấp
xã trong cả nước là 11.232, vẫn còn 11 tỉnh chưa có mạng lưới khuyến nông
viên cấp xã; đã có 17/63 tỉnh có mạng lưới cộng tác viên thôn, bản với tổng số
17.587 người; có 780 CLBKN với tổng số hội viên gần 20.000 người.
- Ngân hàng CSXH của các hiện đã bao phủ từ tỉnh, đến các xã/
phường/thị trấn, tất cả các hộ nghèo trên địa bàn đều đã được tiếp cận được
với ngân hàng thông qua hình thức giao dịch trực tiếp tại xã, ngoài ra có hệ
thống các tổ tiết kiệm và vay vốn tại các thôn, buôn và tổ dân phố.
357
- Đơn vị hỗ trợ xuất khẩu lao động (XKLĐ): có 167 doanh nghiệp
hoạt động dịch vụ XKLĐ làm nhiệm vụ giới thiệu, đào tạo, thủ tục đi nước
ngoài, lo nơi định cư, giấy tờ, hợp đồng lao động,... cho người lao động.
3. Thực trạng khả năng tiếp cận chính sách và dịch vụ việc làm
- Chất lượng việc làm thấp: gần 80% lao động tự làm và lao động gia
đình không hưởng tiền lương; thu nhập của lao động ở vùng DTTSMN rất
thấp (vùng Tây Bắc chỉ bằng 53% của cả nước) là do chất lượng NNL thấp;
- Tỷ lệ người được tư vấn về việc làm và học nghề rất thấp; chưa đến
5% do hệ thống thông tin của TTLĐ còn nhiều yếu kém và hạn chế, chưa
mang tính hệ thống, bị chia cắt giữa các vùng, miền;
- Tỷ lệ hộ nhận được hỗ trợ dạy nghề còn thấp và có xu hướng tiếp tục
giảm qua các năm;
- Mức độ đáp ứng nhu cầu tín dụng của đối tượng khá cao: Có 50-55%
hộ nghèo vùng DTTS được vay vốn tín dụng ưu đãi;
- Nội dung các khóa tập huấn khuyến nông lâm ngư chưa gắn kết với nhu
cầu của đối tượng: 19% được hưởng lợi từ chính sách khuyến nông lâm ngư;
ngôn ngữ chủ yếu vẫn là tiếng Kinh, không phù hợp với nhiều vùng DTTS.
4. Các rào cản tiếp cận
- Chính sách hỗ trợ việc làm, đào tạo nghề còn chồng chéo, chưa bao
phủ hết đối tượng;
- Mạng lưới và năng lực các trung tâm dịch vụ cung cấp Việc làm, dạy
nghê còn hạn chế; công tác đào tạo nghề cho lao động nghèo, đặc biệt lao
động nông thôn theo Quyết định 1956 vẫn còn gặp nhiều khó khăn, ảnh
hưởng đến chất lượng dạy nghề: tỷ lệ hộ nhận được hỗ trợ dạy nghề còn
thấp và có xu hướng tiếp tục giảm qua các năm;
- Bản thân người lao động, đặc biệt là lao động trẻ, chưa nhận thức
được việc đào tạo nghề là một nhu cầu, một yếu tố cần thiết để đảm bảo
cuộc sống cho bản thân, cho gia đình nên chưa quan tâm đến việc học nghề.
Người dân nghèo, nhất là đồng bào DTTS vẫn còn tư tưởng "trông chờ, ỷ
lại" vào các chính sách hỗ trợ của Nhà nước nên chưa ý thức được hiệu quả
của việc học nghề...
358
II. KHẢ NĂNG TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ GIÁO DỤC CƠ BẢN CỦA NGƯỜI NGHÈO VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
1. Tổng quan chính sách hỗ trợ tiếp cận giáo dục cơ bản (GDCB) cho người nghèo vùng DTTS và miền núi
- Chính sách học bổng: học sinh, sinh viên là người DTTS, học viên là
thương binh, người tàn tật, người khuyết tật đang học trong các trường dạy
nghề dành cho thương binh, người tàn tật, người khuyết tật được nhận mức
học bổng hàng tháng là 80% lương tối thiểu (Quyết định số 82/2006/QĐ-
TTg ngày 14/04/2006 và Quyết định số 152/2007/QĐ-TTg ngày 14/09/2007
của Thủ tướng Chính phủ);
- Chính sách miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp:
Hình thức hỗ trợ Đối tượng Văn bản, chính sách
Miễn nộp học phí
Học sinh mà cha mẹ là gia đình nghèo, học sinh mồ côi cả cha mẹ không nơi nương tựa, học sinh tàn tật và có khó khăn về kinh tế
Quyết định số 70/1998/QĐ -TTg ngày 31/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ
Miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp,cấp sách giáo khoa và học phẩm
Học sinh THCS thuộc xã có điều kiện KT-XH khó khăn và ĐBKK
Nghị định số 88/2001/NĐ -CP ngày 22/11/2001 của Chính phủ
- Chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng đối với học sinh, sinh viên con
hộ nghèo (Quyết định số 1121/1997/QĐ-TTg ngày 23/12/1997 của Thủ
tướng Chính phủ) - hưởng mức trợ cấp xã hội là 100.000 đồng/tháng;
- Chính sách tín dụng ưu đãi đối với học sinh, sinh viên: học sinh, sinh
viên thuộc hộ nghèo và hộ có mức thu nhập bình quân đầu người tối đa bằng
150% mức thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo được vay vốn tối đa
là 1.000.000 đồng/tháng/HSSV với lãi suất ưu đãi 0,5%/tháng theo Quyết
định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín
dụng đối với học sinh, sinh viên.
- Chính sách ưu đãi đối với học sinh, sinh viên tại các vùng khó khăn,
vùng đồng bào DTTS: học sinh DTTS nghèo thuộc diện học ở trường dân
tộc nội trú nhưng học ở các trường công, bán công thì được cấp học bổng
bằng 50% số học bổng của học sinh nội trú; ưu tiên cử tuyển vào các trườg
đại học; tuyển dụng công chức, hỗ trợ nhà ở…
359
- Chính sách hỗ trợ tiền ăn đối với học sinh mẫu giáo và học sinh phổ
thông con hộ nghèo học bán trú tại các xã ĐBKK thuộc CT 135 mức
140.000 đ/tháng.
- Chính sách hỗ trợ tiền ăn trưa cho trẻ em 5 tuổi, ngân sách trung
ương sẽ hỗ trợ 100% nhu cầu kinh phí đối với các tỉnh chưa tự cân đối
được ngân sách;
- Các chính sách đầu tư cho hệ thống cung cấp dịch vụ GDCB.
2. Hệ thống cung cấp dịch vụ GDCB
2.1. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học:
Mạng lưới trường trung học đã phát triển đến các xã, huyện miền núi,
vùng dân tộc. 100% các tỉnh vùng DTTS và miền núi đã đạt chuẩn phổ cập
giáo dục THCS.
Đến hết năm 2011 cả nước vẫn còn 17,13% là phòng học mượn,
52,57% là phòng học bán kiến cố và phòng tạm (riêng các tỉnh Điện Biên là
53,35%, Sơn La là 46,55%, Lai Châu là 46,36%); còn hơn 15 ngàn thôn,
bản miền núi chưa có nhà trẻ.
Nhiều địa bàn vùng sâu vùng xa vẫn chưa có trường mầm non, theo
Bộ GD&ĐT, năm 2008 vẫn còn 1.640 xã vùng DTTS và miền núi chưa có
trường mầm non) hoặc không đủ phòng học cho trẻ học hai buổi một ngày,
thiếu đồ dùng, thiết bị. Rất nhiều lớp học không có bàn ghế, các em phải
ngồi xuống sàn nhà, chật như nêm cối, ngủ trưa cũng không có giường,
màn, trải chiếu xuống nền nhà, các em phải nằm trở đầu nhau... Hầu hết các
trường mầm non tại vùng DTTS và miền núi không tổ chức bữa ăn trưa cho
các cháu ở trường do không có đủ điều kiện về cơ sở vật chất (bếp, đội ngũ
cấp dưỡng, gia đình trẻ không có điều kiện kinh tế để đóng góp chi phí ăn
trưa...).
Trường tiểu học ở vùng DTTS và miền núi thường có nhiều điểm
trường, việc dạy học các điểm trường lẻ thường gặp nhiều khó khăn nên
chất lượng không đảm bảo.
Hệ thống các trường PTDT nội trú và PTDT bán trú liên tục phát triển
trong những năm qua nhưng quy mô không đồng đều, có nhiều trường phát
360
triển quy mô vượt quy định thì có trường lại chưa đạt. Ở một số địa phương
vùng miền núi phía Bắc hiện không đáp ứng được nhu cầu đào tạo trong khi
ở một số địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long thường chỉ có 1
trường PTDTNT ở trung tâm tỉnh nên rất ít học sinh vì đi học xa..
Do số lượng trường DTNT quá ít, mỗi tỉnh có 1 trường, qui mô lại quá
nhỏ nên không thể đáp ứng được nhu cầu học tập của các em Vì thế, từ
nhiều năm nay các địa phương mới có sáng kiến làm mô hình bán trú dân
nuôi, tức là Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo công tác giáo dục.
2.2. Về chương trình, sách giáo khoa
Ngôn ngữ được dạy hiện vẫn còn ít, năm học 2009-2010 cả nước duy
trì dạy 7 thứ tiếng dân tộc Chăm, Khmer, Êđê, Bahnar, Jrai, Hmông, Hoa
trong trường phổ thông tại 20 tỉnh trong 751 trường, 4.905 lớp cho 112.180
học sinh (thêm 2 tỉnh so với năm học 2008-2009).
Chương trình và nội dung trong sách giáo khoa hiện hành còn cao và
chưa phù hợp với học sinh vùng DTTS và miền núi, cụ thể: dung lượng một
số bài còn nhiều và nặng; chất lượng giáo trình chưa cao, việc tổ chức dạy
và học rất khó khăn do tính đồng nhất và dân tộc ở các lớp học không nhiều;
cách diễn đạt ở một số nội dung chưa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý,
trình độ tiếng Việt của học sinh tiểu học vùng dân tộc, chưa tạo được sự hấp
dẫn đối với các em. Việc dạy tiếng phổ thông ngay ở bậc học mầm non đòi
hỏi phải có giáo viên DTTS nhưng trong thực tế tỷ lệ giáo viên biết 2 thứ
tiếng rất ít.
2.3. Giáo viên và cán bộ quản lý
Mặc dù đã được quan tâm và hỗ trợ nhưng vẫn còn rất thiếu giáo viên
và cán bộ ở các vùng DTTS và miền núi. Theo số liệu thống kê, hiện tại cả
nước đang thiếu 27.697 giáo viên và cán bộ quản lý mầm non, trong đó các
tỉnh miền núi phía Bắc (15 tỉnh) và 5 tỉnh Tây Nguyên – là những tỉnh vùng
cao, có đông đồng bào DTTS có tỷ lệ giáo viên và cán bộ còn thiếu so với
nhu cầu rất lớn: chiếm 30% tổng số giáo viên và cán bộ đang thiếu của cả
nước, với tỷ lệ giáo viên và cán bộ còn thiếu so với tổng số là 14,1% và
15,6% tương ứng (cao hơn so với tỷ lệ chung của cả nước là 13%).
Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn giáo viên ở nhiều vùng DTTS và
miền núi còn hạn chế, đặc biệt giáo viên mới ra trường thiếu cơ bản kinh
361
nghiệm thực tế, giáo viên lớn tuổi khó thích ứng chương trình đổi mới. Cả
nước vẫn còn 8.210 giáo viên mầm non chưa đạt chuẩn, chiếm tỷ lệ 5,7%.
Nếu theo vùng kinh tế-xã hội thì tỷ lệ này đối với vùng miền núi phía Bắc là
7,5%; Tây Nguyên gần 8%; đồng bằng sông Cửu Long 9,2%. Chất lượng và
phương pháp giảng dạy của giáo viên vùng DTTS chưa đảm bảo cũng là
một trong những nguyên nhân khiến nhiều học sinh có kết quả học tập kém.
3. Thực trạng khả năng tiếp cận giáo dục cơ bản
3.1. Trình độ học vấn và mức độ tiếp cận GDCB
a) Trình độ học vấn
Vẫn còn tỷ lệ khá lớn người nghèo chưa được phổ cập giáo dục tiểu học. Ở khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, cứ 4 người ở độ tuổi 15 trở lên thì có 1 người bao giờ đến trường, cứ 2 người thì có 1 người chưa hoàn thành giáo dục tiểu học.
Theo số liệu Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2010, tỷ lệ người nghèo từ 15 tuổi trở lên không biết chữ ở miền núi phía Bắc là 26,3%, khu vực Tây Nguyên là 25,0% trong khi con số này của cả nước chỉ là 6,6%. Tỷ lệ người nghèo chưa học hết tiểu học cũng rất cao: miền núi phía Bắc là 22,5%, Tây Nguyên thậm chí còn cao hơn - 27,5%. Đối tượng chưa bao giờ đi học và không có bằng cấp chủ yếu rơi vào những người có độ tuổi cao (trên 40 tuổi).
Tỷ lệ người nghèo từ 15 tuổi trở lên có trình độ tiểu học cũng cao hơn so với số chung của cả nước (miền núi phía Bắc là 25,0% và Tây Nguyên là 26,4% trong khi cả nước là 21,9%).
b) Mức độ tiếp cận giáo dục mầm non
Theo số liệu từ ĐTMSHGĐ năm 2010, tỷ lệ đi học của trẻ 5 tuổi trong hộ nghèo MNPB là 59,8% và Tây Nguyên là 51,2% (điều này có nghĩa là cứ 2 trẻ 5 tuổi thì có 1 trẻ không đi học). Tỷ lệ này thấp hơn so với tỷ lệ chung cả nước (62,8%). Như vậy có thể cho thấy mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015 rất khó đạt được.
c) Mức độ tiếp cận giáo dục tiểu học
Thành tựu trong chính sách phổ cập giáo dục tiểu học bắt buộc trên
quy mô toàn quốc đã khiến cho tỷ lệ học sinh nghèo nhập học bậc tiểu học
đạt khá cao (91,7% ở miền núi phía Bắc và 84,4% ở khu vực Tây Nguyên).
362
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại khoảng cách giữa hộ nghèo và hộ không
nghèo, ở vùng DTTS và MN với tỷ lệ nghèo chung của cả nước. Tỷ lệ nhập
học tiểu học ở nhóm DTTS năm 2008 là 108,2% (cao hơn so với nhóm
Kinh/Hoa: 103,3% và cả nước: 104,1%), tỷ lệ nhập học THCS là 88% (thấp
hơn nhóm Kinh/Hoa: 97,4% và cả nước: 95,9%).
d) Mức độ tiếp cận giáo dục THCS
Theo số liệu của Bộ GD&ĐT, năm học 2010-2011 cả nước có 4,9
triệu học sinh THCS, trong đó có 776 nghìn học sinh DTTS (chiếm 15,6%).
Tỷ lệ nhập học ở bậc THCS cũng rất ấn tượng. Số liệu từ ĐTMSHGĐ cho
thấy khu vực MNPB và Tây Nguyên có 91,2 % trẻ em nghèo trong độ tuổi
từ 11 đến 15 đang đi học.
3.2. Tình trạng bỏ học và chi phí cho giáo dục cơ bản
a) Tình trạng bỏ học của trẻ em nghèo DTTS còn cao
Năm học 2009-2010, tỷ lệ học sinh bỏ học ở các vùng DTTS và miền
núi vẫn còn cao so với tỷ lệ chung toàn quốc, Vùng Tây Bắc tỷ lệ bỏ học là
0,94%, vùng Tây Nguyên 0,84% (tỷ lệ bỏ học chung của các nước là
0,51%). Theo báo cáo của Ủy ban dân tộc, tỷ lệ học sinh DTTS giảm dần ở
các cấp học cao hơn: số học sinh dân tộc ở tiểu học chiếm 17,85% học sinh
tiểu học cả nước, THCS chỉ còn 15,22%; đến cấp trung học phổ thông chỉ
còn 10,12%.
Có nhiều nguyên nhân khiến học sinh bỏ học, tuy nhiên, nguyên nhân
chính vẫn là do ý thức tự giác học tập của các em học sinh, của phụ huynh
còn hạn chế.
Trình độ học lực yếu, kém cũng là một trong những nguyên nhân
khiến các em học sinh nản học, không muốn đến trường, nhất là khi cuộc
vận động "hai không" hiện nay đang được thực hiện rất quyết liệt ở nhiều
địa phương.
b) Chi phí cho giáo dục
Số liệu từ Điều tra MSHGĐ năm 2010 cho thấy tổng chi phí cho giáo
dục của hộ nghèo khá thấp. Năm 2010, hộ nghèo khu vực miền núi phía Bắc
chi 544 nghìn đồng/hộ cho 1 người đi học (bằng 63% tổng chi cho 1 người
đi học của hộ nghèo cả nước và bằng 18% chi chung của các hộ trong cả
363
nước), Tây Nguyên chi 588 nghìn đồng/hộ (bằng 68,5% tổng chi cho 1
người đi học của hộ nghèo cả nước và bằng 20% của chung cả nước).
Về cơ cấu chi cho giáo dục chính quy, các khoản chi cho học phí của
hộ nghèo MNPB và Tây Nguyên chiếm tỷ lệ khá thấp (khoảng 8-10%) và
chỉ bằng ½ chi của hộ nghèo cả nước và bằng 1/3 của chung cả nước. Tuy
nhiên các khoản chi khác như lệ phí, bảo hiểm và các khoản chi không theo
quy định lại chiếm tỷ lệ khá lớn: 37% ở hộ nghèo MNPB và 17,5% ở hộ
nghèo Tây Nguyên.
Theo quy định, trẻ em thuộc hộ nghèo học mẫu giáo và phổ thông
được miễn hoặc giảm học phí. Tuy nhiên, tỷ lệ thụ hưởng không đồng đều,
vẫn còn học sinh chưa được hưởng. Đối với hộ nghèo vùng DTTS và MN,
học sinh bậc tiểu học được miễn giảm học phí lớn nhất: 99,1%, tiếp đến là
học sinh THCS (89,1%). Trẻ đi nhà trẻ, mẫu giáo được miễn giảm thấp hơn
cả: chỉ 81,7%.
4. Rào cản ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận
4.1. Rào cản về chính sách và triển khai thực hiện
- Hệ thống pháp luật và chính sách về giáo dục thiếu đồng bộ, chậm
được sửa đổi, bổ sung;
- Hiệu quả thực hiện chính sách chưa cao:
- Còn tồn tại nhiều yếu kém và bất cập trong chính sách giáo dục dân
tộc: một số chính sách chỉ mang tính giải quyết tình thế là chính.
- Chính sách phổ cập giáo dục chưa bao phủ đến nhóm trẻ dưới 5 tuổi.
4.2. Điều kiện kinh tế - xã hội- tự nhiên
- Tình trạng nghèo: khoảng cách nghèo vẫn còn rất lớn giữa người
nghèo DTTS với người Kinh, đặc biệt là người nghèo ở những vùng sâu,
vùng xa như miền núi phía Bắc, Tây Nguyên;
- Địa hình miền núi cách trở: Địa hình rộng và bị chia cắt bởi sông
suối và đồi núi ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là một trở ngại rất lớn
đối với việc đi học của trẻ. Trẻ em miền núi hầu hết phải tự đi bộ đến trường
với khoảng cách khá xa; nhiều trẻ phải lội sông suối, trèo núi… rất nguy
hiểm. Điều kiện khí hậu thời tiết ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên
364
thường khắc nghiệt, giá rét kéo dài, lũ quét, sạt lở đất thường xuyên… khiến
cho việc đi học của trẻ em gặp nhiều khó khăn và nguy hiểm;
- Thiếu trường lớp, cơ sở vật chất;
- Nhận thức và nhu cầu học tập của người nghèo, đồng bào DTTS thấp;
- Rào cản ngôn ngữ và nhu cầu giáo dục đặc thù cho người DTTS:
Hiện nay, các môn học trong trường đều được dạy bằng tiếng Việt, trong khi
đó kỹ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh DTTS còn rất kém. Việc chưa
thông thạo tiếng Việt thể hiện qua cách các em không nghe kịp được các
thày cô giảng hoặc nhiều em nghe nhưng không hiểu nghĩa của từ nên
không nhớ được kiến thức cô giáo dạy mình.
III. KHẢ NĂNG TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ Y TẾ CƠ BẢN CỦA NGƯỜI NGHÈO VÙNG DTTS VÀ MIỀN NÚI
1. Tổng quan các chính sách dịch vụ y tế cơ bản
Hệ thống chính sách dịch vụ y tế cơ bản đã cơ bản đáp ứng những nhu
cầu thực tế, đặc biệt đối với những khu vực còn nhiều khó khăn và người
nghèo nhằm thực hiện mục tiêu về sức khỏe toàn dân và các chương trình
phát triển kinh tế- xã hội nói chung, y tế với người nghèo nói riêng. Tuy
nhiên, từ chính sách đến thực tế vẫn còn những khoảng cách cần được khắc
phục, mấu chốt ở chỗ: nhận thức/hiểu biết của đối tượng thụ hưởng về chính
sách và cách vận dụng chính sách, bên cạnh đó là khả năng/năng lực triển
khai chính sách còn hạn chế cả về chủ quan lẫn khách quan (nguồn nhân lực
hạn chế về số lượng lẫn chất lượng, hạn chế nguồn vốn, hạn chế về cơ sở vật
chất, trang thiết bị, hạn chế về điều kiện đầu tư do địa hình phức tạp, do
phong tục tập quán…).
2. Hệ thống cung cấp dịch vụ
Hệ thống cung cấp dịch vụ y tế cơ bản bao gồm; BHYT hay KCB
miễn phí (theo quy định đã bảo đảm bao phủ 100% đối tượng là người
nghèo vùng DTTS và MN), cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế (100% các xã
đều có trạm y tế, y tế cụm xã); cán bộ y tế thôn bản và cấp xã (còn hạn chế
về số lượng và trình độ); mạng lưới y tế (từ thôn, bản, xã, huyện, tỉnh…) đã
ngày càng cải thiện nhưng nhiều nơi còn chưa bảo đảm cung cấp dịch vụ
cho người dân (y tế thôn bản mới chỉ làm công tác tuyên truyền và sơ cấp
cứu ban đầu).
365
3. Thực trạng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản
- BHYT đã bao phủ gần 100% người nghèo vùng DTTS: Tỷ lệ có
thẻ BHYT của người nghèo MNPB là 97% và người nghèo Tây Nguyên
là 95%;
- Ngoài việc KCB được miễn phí, người khám vẫn phải chi trả bằng
tiền túi, như chi phí đi lại, ăn uống, chi phí chữa bệnh nội trú, chi phí cho
người nhà chăm sóc… mà có thể vượt quá khả năng chi trả của người
nghèo/DTTS và có thể sẽ làm cho họ đã nghèo còn nghèo hơn. Có 12%
người nghèo MNPB và 19% người nghèo Tây Nguyên không có/không đủ
tiền chi trả các chi phi y tế;
- Ý thức bảo vệ sức khỏe, phòng bệnh, chữa bệnh của người nghèo
chưa cao. Một bộ phận người DTTS ốm đau không đi bệnh viện khám chữa
bệnh, vẫn giữ phong tục chữa bằng lá rừng, cúng bái khiến cho bệnh càng
trầm trọng, ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe. Mặt khác, hòan cảnh kinh tế
khó khăn nên người dân cũng ngại đi bệnh viện, sợ tốn kém.
4. Những rào cản tiếp cận
- Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế thiếu và chưa đồng bộ; số cán bộ có
trình độ chuyên sâu thiếu trầm trọng, nhất là cán bộ người địa phương;
- Quỹ KCB cho người nghèo chỉ dành cho việc KCB, không đầu tư
cho cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, không bổ sung thêm biên chế cán bộ y tế,
không có chế độ cho các cán bộ y tế gây khó khăn cho việc cung ứng các
dịch vụ y tế có chất lượng cho người dân.
- Kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền làm tăng sự
bất bình đẳng trong tiếp cận và thụ hưởng các DVXH, trong đó có dịch vụ
chăm sóc sức khỏe mà đồng bào DTTS có nhu cầu rất lớn;
- Công tác phòng chống dịch bệnh chưa đáp ứng yêu cầu bởi nhận
thức của đồng bào còn hạn chế, phong tục, tập quán lạc hậu;
- Người dân chưa quan tâm tìm hiểu các kênh tiếp cận đầy đủ các dịch vụ
kỹ thuật trong chăm sóc sức khỏe cơ bản; Công tác tuyên truyền còn hạn chế;
- Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống ở một số dân tộc còn
diễn ra ở vùng DTTS.
366
IV. KHẢ NĂNG TIẾP CẬN NƯỚC SẠCH VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG CỦA NGƯỜI NGHÈO VÙNG DTTS MIỀN NÚI
1. Tổng quan chính sách nước sạch và vệ sinh môi trường
Hệ thống chính sách về hỗ trợ nước sạch và VSMT cho người nghèo
vùng DTTS và MN bao gồm: hõ trợ đất sản xuất, đất ở và nước sinh hoạt
cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn, hỗ trợ dân cư nông thôn
sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn và hố xí hợp vệ sinh.
2. Thực trạng khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường
Năm 2010, chỉ có 0.3% hộ nghèo ở miền núi phía Bắc sử dụng nước
máy vào tận nhà; ở Tây Nguyên tỷ lệ này khả quan hơn, 5.6%; trong khi đó
ở các vùng khác tỷ lệ này cao hơn nhiều, chiếm 15%. Ở miền núi phía Bắc,
nhóm hộ nghèo chủ yếu tiếp cận và sử dụng nước khe, mó được bảo vệ để
sinh hoạt, trong khi ở Tây Nguyên, nguồn nước được tiếp cận và sử dụng
nhiều nhất đối với nhóm hộ nghèo là nước giếng đào được bảo vệ.
Tình trạng xử lý rác thải sinh hoạt của các hộ gia đình chưa được quan
tâm đúng mức: Đốt rác là phương pháp được phần lớn các hộ gia đình
nghèo và không nghèo ở miền núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên lựa chọn
để xử lý rác thải sinh hoạt; chiếm tỷ lệ cao nhất, lần lượt là 51.1% và 67.1%
đối với nhóm hộ nghèo.
Số tiền mà các hộ gia đình chi trả cho việc sử dụng nước sạch để ăn
uống, sinh hoạt ở miền núi phía Bắc là 123,790 đồng/năm và ở Tây Nguyên
là 213,990 đồng/năm; thấp hơn nhiều so với bình quân chung của các hộ
nghèo trong cả nước.
3. Các rào cản tiếp cận
- Rào cản về chính sách, tài chính, kinh tế và quản lý giám sát: Mức
sống của hộ nghèo DTTS còn thấp nên không có đủ kinh phí để chi trả cho
việc sử dụng nó; nguồn vốn ít, do vậy đầu tư cho lĩnh vực cấp nước sạch và
vệ sinh ở nhiều địa phương rất thấp, công trình nước sinh hoạt đầu tư nhỏ,
lẻ, mới làm xong đã hư hỏng, đồng bào vẫn không có nước dùng; chính sách
hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán thực hiện khó khăn, hiệu quả thấp, không căn
bản và lâu dài; công tác quản lý, sử dụng, khai thác các công trình sau khi
đưa vào sử dụng ở nhiều địa phương nhìn chung chưa được chú trọng đúng
mức. Cơ chế quản lý của Nhà nước, nhất là cơ chế tài chính chưa phù hợp,
367
nên chưa đảm bảo hoạt động bền vững của công trình, chưa có chính sách
huy động sự tham gia đóng góp của các thành phần kinh tế và người dân.
- Rào cản về tập quán và xã hội: Nhận thức, hiểu biết về vệ sinh và
sức khỏe của người dân nông thôn còn thấp; trách nhiệm của người dân
trong quản lý, sử dụng, bảo vệ và giám sát công trình cấp nước chưa cao.
V. KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TRỢ GIÚP ĐỘT XUẤT (TGĐX) CỦA NGƯỜI NGHÈO VÙNG DTTS MIỀN NÚI
1. Tổng quan hệ thống chính sách TGĐX cho người nghèo tại vùng DTTS và miền núi
Hệ thống chính sách về TGĐX bao gồm các chính sách trợ giúp cho
người, hộ gia đình gặp khó khăn do hậu quả của thiên tai bất khả kháng gây
ra (người chết, bị thương, mất tích, hộ có nhà bị mất hoặc hư hỏng, mất
phương tiện sản xuất…) theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP và Nghị định
13/2010/NĐ-CP; chính sách hỗ trợ đối với vùng phân lũ, chậm lũ thuộc hệ
thông sông Hồng; chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với
hộ SXKD bị thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ; Nhóm chính sách hỗ trợ
ngắn hạn trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và giá cả tăng cao (hỗ trợ hộ
nghèo ăn Tết, hỗ trợ giá điện cho hộ nghèo, hỗ trợ cho người có thu nhập
thấp, đời sống khó khăn...).
2. Hệ thống cung cấp TGĐX
- Xác định đối tượng, đánh giá mức độ thiệt hại: đúng đối tượng, bảo
đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch và có sự tham gia của người dân,
nhằm đáp ứng đúng những nhu cầu bức xúc của các thành viên trong xã hội
khi họ gặp rủi ro không lường trước được. Mức độ bao phủ của chính sách
TGXH đột xuất khá tốt.
- Mức hỗ trợ, hình thức hỗ trợ: đã được điều chỉnh nâng cao và đã tạo
được quyền tự quyết cho các địa phương để bảo đảm tính phù hợp với các
vùng miền song cũng chỉ phù hợp trong ngắn hạn và khi không có biến động
lớn về giá cả tiêu dùng; do thiên tai về dân sinh và cơ sở vật vất là rất lớn,
nhưng sự hỗ trợ của nhà nước còn có hạn, riêng về dân sinh chỉ bằng 10%
thiệt hại gây ra, sự hỗ trợ này chỉ bảo đảm ổn định cuộc sống và sản xuất
trước mắt;
368
- Đội ngũ cán bộ: thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn ở cấp cơ sở, do
vậy thông thường tổng hợp về số liệu thiệt hại do thiên tai gây ra về hạ tầng
cơ sở, về sản xuất và đời sống dân sinh chậm và thiếu chính xác khá nhiều
những con báo cáo là những con ”số ảo", ”số ước tính” một cách chủ quan
gây ra sự khó khăn cho việc xử lý đề xuất phương án trợ giúp phù hợp.
3. Thực trạng khả năng tiếp cận dịch vụ TGXH đột xuất
3.1. Nhu cầu tiếp cận
Nhu cầu được nhận TGXH đột xuất của người nghèo vùng DTTS rất
lớn do sinh sống tại vùng sâu vùng xa, địa hình chia cắt, điều kiện tự nhiên
không thuận lợi, khí hậu khắc nghiệt, dân cư phân bố phân tán, cơ sở hạ
tầng còn nhiều yếu kém, thường xuyên xảy ra thiên tai.
Theo số liệu của Cục Bảo trợ xã hội giai đoạn 2006-2010, khu vực
miền núi phía Bắc và Tây Nguyên bị thiệt hại về thiên tai (người chết, bị
thương, nhà sập, trôi, hư hỏng...) tương đối thấp so với các khu vực khác.
Khu vực bị thiệt hại nặng nề về thiên tai là miền Trung (các tỉnh Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Đà Nẵng...).
- Thiệt hại về người: Các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên có số người chết tương đối cao (chỉ đứng sau khu vực Bắc Trung
Bộ và duyên hải miền Trung), trong đó cao nhất là Lào Cai với 113 người
chết trong 5 năm (đứng thứ 8 cả nước).
- Thiệt hại về nhà cửa: Khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên
cũng bị thiệt hại ít hơn cả, chỉ chiếm 2,2% số nhà bị đổ, sập, trôi và 3,1% số
nhà bị ngập, hư hỏng cả nước.
- Thiệt hại về tài sản do thiên tai: Khu vực miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên chỉ chiếm 12,3% tổng thiệt hại của cả nước.
- Tình trạng thiếu đói tập trung nhiều ở các tỉnh vùng Miền núi phía
Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên.
3.2. Độ bao phủ của dịch vụ TGXH đột xuất
Trong những năm qua, các chính sách TGĐX của Đảng và Nhà nước
đã hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, mất mùa cũng như những
rủi ro bất khả kháng khác đe dọa đến tính mạng, tài sản như hỗ trợ tiền mặt,
lương thực, nhà ở, chữa bệnh, chôn cất hay phục hồi sản xuất... Công tác
369
TGĐX được thực hiện kịp thời, đảm bảo công bằng, công khai, đúng mục
đích, đúng đối tượng, không chia bình quân và không để người dân nào bị
đói do thiếu lương thực. Công tác cứu trợ đã góp phần quan trọng giúp nhân
dân ổn định cuộc sống, tiếp tục phát triển sản xuất. Nguồn lực cho hoạt
động TGĐX được huy động và sử dụng từ nguồn kinh phí của địa phương,
nguồn hỗ trợ của Trung ương và các nguồn tài trợ khác.
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung được trợ giúp nhiều nhất, tiếp
theo là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Giai đoạn 2006-2010,
khu vực miền núi phía Bắc có 323 nghìn hộ và 1,4 triệu nhân khẩu được
TGĐX, Chính phủ hỗ trợ 20,3 nghìn tấn gạo và 774 tỷ đồng. Khu vực Tây
Nguyên được hỗ trợ cho 188,5 nghìn hộ, 801 nghìn người, 11 nghìn tấn gạo
và 253 tỷ đồng.
4. Các rào cản tiếp cận
- Chính sách TGXH đột xuất hiện hành mới chỉ cứu trợ khẩn cấp
thông qua các hình thức cấp phát lương thực, tiền mặt. Người dân bị thiệt
hại do thiên tai chỉ được nhận các chính sách hỗ trợ trung hạn (phục hồi sản
xuất, cung cấp lương thực, hàng hóa, dịch vụ thiết yếu..) và hỗ trợ dài hạn
một cách gián tiếp thông qua các chương trình phát triển kinh tế-xã hội và
giảm nghèo.
- Cơ chế tài chính giữa cấp tỉnh/thành phố với cấp huyện/quận chưa
được xác định rõ ràng, điều này có thể chưa tạo được tính chủ động và tính
trách nhiệm của cấp quận/huyện trong việc bố trí ngân sách thực hiện chính
sách trợ cấp xã hội mà hoàn toàn phụ thuộc vào cấp tỉnh/thành phố.
- Về trình độ cán bộ: trình độ sử dụng công nghệ thông tin hạn chế,
thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn ở cấp cơ sở.
- Về điều kiện tự nhiên- xã hội: Vùng DTTS và MN bị ảnh hưởng của
thiên tai nhiều hơn; môi trường ô nhiễm, thời tiết vẫn không tốt sau các trận
lụt, bão làm các bệnh tiêu chảy lây lan do thiếu nước sạch và môi trường ô
nhiễm.
- Người nghèo DTTS thường bị động trước thiên tai, họ không được
tiếp cận với các dịch vụ dự báo, cảnh báo và phòng ngừa trước khi có thiên
tai để kịp thời có phương án đối phó, di dời.
370
CHƯƠNG 3
NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN CỦA NGƯỜI NGHÈO TẠI VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI VÀ NÂNG
CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN
1- Bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng,
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
2- Chính sách ASXH phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã
hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời
kỳ; ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh ĐBKK, người nghèo và
đồng bào DTTS.
3- Hệ thống ASXH phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà
nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa
các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng.
4- Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính
sách ASXH; đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp
và người dân tham gia. Đồng thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả
năng tự bảo đảm an sinh.
5- Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm
trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách ASXH.
Mục tiêu của hệ thống ASXH là đến năm 2020, cơ bản bảo đảm
ASXH toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở,
nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu
nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.
II. ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN DVXHCB CỦA NGƯỜI NGHÈO TẠI VÙNG ĐỒNG BÀO DTTS VÀ MN
Phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội, đảm bảo ASXH và DVXHCB
trên địa bàn vùng đồng bào DTTS và miền núi là chủ trương nhất quán, là
mục tiêu của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
của đất nước. Đây là quan điểm phát triển vừa mang tính chiến lược lâu dài
371
vừa là nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay, khi mà vùng đồng bào
DTTS và miền núi vẫn là vùng có xuất phát điểm thấp với tỷ lệ hộ nghèo
cao nhất trong cả nước, là vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt với nhiều
núi đá độ dốc cao và thường bị ảnh hưởng của thiên tai bão lũ, là khu vực có
trình độ dân trí và sức khỏe thấp, tình trạng nước sạch và vệ sinh môi trường
thiếu và ô nhiễm nghiêm trọng... Khoảng cách phát triển có xu hướng doãng
rộng ra giữa vùng miền núi và DTTS so với các vùng trong cả nước. Do
vậy, các định hướng chủ yếu nâng cao khả năng tiếp cận DVXHCB của
người nghèo tại vùng đồng bào DTTS và miền núi bao gồm:
1. Hoàn thiện chính sách theo hướng công bằng và mở rộng đối tượng
tiếp cận được các DVXHCB.
Hai nguyên tắc cơ bản để thiết kế và cung cấp DVXHCB bao gồm:
- Nguyên tắc tiếp cận phát triển DVXHCB dựa trên quyền (hiến định).
Trong Hiến pháp và các Luật ban hành có ghi rõ những quyền của con
người, đó là quyền được sống, quyền được làm việc, quyền được hội nhập
và quyền được bảo đảm ASXH... Cách tiếp cận dựa trên quyền nhấn mạnh
rằng, các chính sách và hệ thống cung cấp DVXHCB không phải là những
hình thức hỗ trợ mang tính nhân đạo mà là sự thể hiện những quyền cơ bản
của công dân.
- Nguyên tắc tiếp cận theo hướng công bằng và phát triển xã hội. Nhà
nước với vai trò quản lý xã hội có trách nhiệm đưa ra các quy định, chính
sách, tạo ra các cơ chế, hành lang pháp lý cho các chủ thể trong xã hội hoạt
động. Đối với DVXHCB, Nhà nước sử dụng quyền hạn của mình để điều
phối các nguồn lực, cung cấp và tổ chức cung cấp DVXHCB, hỗ trợ người
dễ bị tổn thương tiếp cận các dịch vụ này. Quá trình điều phối này là quá
trình phân phối phúc lợi xã hội trên cơ sở đồng thuận xã hội, tạo điều kiện
tiếp cận công bằng các thành quả của tăng trưởng.
2. Nâng cao chất lượng cung cấp các DVXHCB (theo các tiêu chuẩn
cung cấp dịch vụ) để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người nghèo DTTS
phù hợp với những điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội miền núi.
- Tập trung vào đối tượng sử dụng dịch vụ. DVXHCB được tổ chức
để đáp ứng nhu cầu cơ bản của đối tượng nhưng phải bảo đảm khuyến khích
tính độc lập, năng động và tự vươn lên của những người dễ bị tổn thương.
372
- Tạo môi trường và điều kiện để người dễ bị tổn thương có khả năng
tiếp cận thuận lợi (cung cấp dịch vụ thuận tiện hoặc có sự tham gia của
người nghèo vào quá trình cung cấp dịch vụ, giảm thiểu các rào cản…)
3. Quản lý việc cung cấp dịch vụ của khu vực công và khối tư nhân
hiệu quả.
Có thể vận hành hệ thống theo hai hướng:
- Nhà nước đưa ra các chuẩn mực (tối thiểu) qua đó thực hiện việc
quản lý hệ thống theo hướng phân cấp và trao quyền cho các cơ quan địa
phương. Mô hình phân cấp quản lý DVXH này có ưu điểm là thiết thực và
hiệu quả nhưng phụ thuộc nhiều vào khả năng giám sát, chất lượng của hệ
thống hành chính.
- Các đối tác xã hội tham gia vào hoạt động cung cấp dịch vụ. Nhà
nước tạo ra cơ chế để các tổ chức nói chung (gồm cả các tổ chức, cá nhân
hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận) có thể tham gia. Vấn đề cơ bản là tạo ra
các cơ hội thị trường hiệu quả và có các biện pháp quản lý, giám sát một
cách chặt chẽ.
4. Tăng cường năng lực và nâng cao vị thế của người nghèo DTTS
và miền núi để họ có thể đón nhận các cơ hội tiếp cận được các DVXHCB.
Sự tham gia rộng rãi hơn của người dân vào lập kế hoạch, ý kiến đóng
góp cải thiện chất lượng dịch vụ và giám sát các DVXHCB đóng vai trò
quan trọng trong nâng cao cơ hội tiếp cận và chất lượng cung cấp các
DVXHCB cho người nghèo DTTS.
Cơ chế giám sát việc cung cấp các DVXHCB bao gồm:
- Cơ quan quản lý chủ quản của DVXHCB sẽ là: đơn vị chủ quản cấp
trung ương cùng với các cấp các ngành liên quan thực hiện giám sát toàn bộ
các hoạt động của DVXH về mặt vĩ mô.
- Các cấp chính quyền ở địa phương cùng chủ thể tham gia cung cấp
và thụ hưởng DVXHCB và các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ giám
sát chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của người dân.
5. Cải thiện việc cung cấp các dịch vụ công về:
- Tính chính xác: đặc biệt là xác định đúng đối tượng, bảo đảm tính
công bằng, dân chủ, công khai, minh bạch và có sự tham gia của người dân
373
để thực hiện đúng mục tiêu của các chính sách và chú trọng ưu tiên cho
người nghèo vùng DTTS và miền núi.
- Tính linh hoạt: cơ chế thực hiện chính sách cần linh hoạt để các tỉnh
được chủ động trong việc bố trí và phân bổ ngân sách, phân cấp và trao
quyền cho các địa phương. Cơ chế này đã giúp nâng cao tính chủ động và
tính trách nhiệm của từng địa phương trong việc thực hiện chính sách.
- Tính hiệu quả: để hỗ trợ của Nhà nước giúp cho người dân nghèo
vùng DTTS và miền núi tiếp cận các DVXHCB và khắc phục rủi ro, cần tổ
chức tốt quá trình bảo đảm ổn định cuộc sống và sản xuất trước mắt, đồng
thời huy động nguồn lực (xã hội hóa) đáp ứng được nhu cầu duy trì và phát
triển sản xuất trong thời gian dài.
- Tính kịp thời: chính sách cung cấp DVXHCB cho người nghèo vùng
DTTS miền núi cần được các cấp, các ngành quan tâm và chỉ đạo thực hiện
sâu sát, đảm bảo tổ chức kịp thời, hỗ trợ đối tượng tiếp cận chính sách. Các
địa phương cần chủ động và huy động mọi nguồn lực để mở rộng độ bao
phủ của các chính sách và tổ chức triển khai chính sách kịp thời cho người
nghèo vùng DTTS và miền núi.
- Tính minh bạch: quy trình xác định đối tượng ưu tiên, thực hiện
chính sách hỗ trợ và chế độ tổng hợp báo cáo cần thực hiện tốt, đảm bảo
tính minh bạch.
III. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP
1. Các nhóm giải pháp chung
1.1. Công tác thông tin - tuyên truyền và nâng cao nhận thức
- Thiết lập các kênh thông tin đa chiều để tiếp nhận, phản hồi ý kiến
của người nghèo DTTS và miền núi, đảm bảo dễ tiếp cận và bảo đảm quyền
lợi của người tham gia; xây dựng kế hoạch phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức trong hoạt động thông tin.
- Hình thành các chuyên mục trên báo, website, truyền hình về các
chính sách và hệ thống cung cấp DVXHCB để chuyển tải các thông tin về
mô hình hoạt động có hiệu quả và pháp luật của nhà nước đến đông đảo
người dân, đặc biệt là người nghèo DTTS và miền núi.
374
1.2. Huy động các nguồn lực trong xã hội và từ ngân sách nhà nước
- Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư các chương trình phát
triển DVXHCB; nâng tỷ trọng đầu tư cho chương trình DVXHCB trong
tổng chi ngân sách, đặc biệt là cho các vùng DTTS và miền núi;
- Phối kết hợp với các tổ chức cá nhân, các nhà hảo tâm trong và ngoài
địa phương chung tay, giúp sức về lương thực, thuốc men, đồ dùng học tập-
sinh hoạt, quần áo, trang thiết bị để mọi người dân thuộc khu vực DTTS và
miền núi được tiếp cận đầy đủ các DVXHCB;
- Đổi mới cơ chế lập dự toán và phân bổ định mức chi tiêu Ngân sách
nhà nước về DVXHCB theo hướng công khai, minh bạch và xuất phát từ
nhu cầu thực tế, đặc biệt là ưu tiên nguồn lực cho các vùng sâu vùng xã
vùng đồng bào DTTS và miền núi.
- Đổi mới và nâng cao định mức phân bổ Ngân sách cho mục chi đảm
bảo xã hội; định mức chi tính theo đầu dân và chia theo 4 khu vực như hiện
nay cần phải tăng gấp đôi; mặt khác cần minh bạch các tiểu mục chi của
đảm bảo xã hội, trong đó có tiểu mục chi trợ cấp xã hội.
- Để có đủ nguồn chi và bảo đảm tính bền vững của hệ thống
DVXHCB Nhà nước cần đổi mới cơ cấu chi tiêu của Chính phủ theo hướng
giảm chi cho đầu tư phát triển từ 30% như hiện nay xuống còn khoảng 20-
25% hoặc ít nhất giảm 3% để tăng chi cho DVXHCB và ASXH.
- Xây dựng Quỹ Phòng chống thiên tai nhằm hỗ trợ địa phương và
người dân gặp khó khăn khi thiên tai xảy ra. Quỹ này do địa phương quản
lý, có nguồn thu từ đóng góp bắt buộc của tổ chức, cá nhân theo quy định
của Chính phủ và hỗ trợ tự nguyện khác.
1.3. Đối với người DTTS, miền núi
- Nâng cao nhận thức và tạo sự đồng thuận của các cấp chính quyền
và người dân trong tiếp cận các DVXHCB và bảo đảm ASXH.
- Đẩy nhanh hơn nữa công tác xóa mù chữ, khắc phục tình trạng học
sinh bỏ học, nhất là bỏ học ở các cấp học cao.
1.4. Mở rộng hợp tác quốc tế
Tăng cường hợp tác với tất cả các tổ chức quốc tế bao gồm cả các tổ
chức đa phương, song phương và phí chính phủ để học hỏi kinh nghiệm, kỹ
375
thuật và tăng thêm nguồn lực tài chính cho việc hoàn thiện hệ thống
DVXHCB cũng như trợ giúp các địa phương thực hiện tốt các mô hình cung
cấp DVXHCB, đặc biệt là cho người nghèo DTTS và miền núi.
2. Chính sách và dịch vụ việc làm
Định hướng:
- Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển
sản xuất, tạo việc làm, học nghề, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, ưu
tiên người nghèo, người DTTS thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản
ĐBKK
- Ðẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và
CT MTQG về giảm nghèo, trong đó chú trọng các chính sách giảm nghèo
đối với các huyện nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào DTTS thuộc
huyện nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã, thôn, bản ĐBKK, vùng bãi
ngang ven biển, hải đảo.
2.1. Hoàn thiện thể chế chính sách
- Cần thiết lập một hệ thống chỉ đạo tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương và các Bộ, ngành để kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch nhân lực, đào tạo và sử dụng nhân lực DTTS
- Cần xây dựng khung chính sách toàn diện cho vùng đồng bào DTTS
- Các chính sách giúp phát triển vùng đồng bào dân tộc phải được gắn kết với quy hoạch phát triển kinh tế của địa phương
2.2. Cải thiện dịch vụ và nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ
Thiết kế, xây dựng và vận hành hệ thống cung cấp DVXH cho người lao động theo định hướng cầu (lấy người lao động làm trung tâm).
Dịch vụ được thiết dựa trên yêu cầu/nhu cầu và đặc điểm của đối
tượng (người nghèo, yếu thế về việc làm);
Mạng lưới/hệ thống cung cấp được xã hội hóa, dựa vào cộng đồng
3. Giáo dục cơ bản
Định hướng:
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách về GDCB cho người nghèo, vùng
DTTS và MN, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ cán
bộ, giáo viên cho giáo dục DTTS.
376
- Nâng cao cơ hội và khả năng tiếp cận GDCB cho người nghèo vùng
DTTS và MN, giảm bất bình đẳng và chênh lệch về giới, dân tộc, chú ý đến
nhu cầu giáo dục đặc thù
3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách về GDCB
- Đổi mới quản lý giáo dục
- Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
- Tiếp tục đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học và
kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục
- Bảo đảm chất lượng dạy tiếng Việt và tiếng DTTS
- Tăng cường các nguồn đầu tư cho giáo dục và nâng cao hiệu quả sử
dụng
3.2. Nhóm giải pháp về hoàn thiện hệ thống cung cấp GDCB
- Làm tốt công tác tuyên truyền để toàn xã hội quan tâm tới giáo dục ở
vùng DTTS và miền núi.
- hoàn thiện hệ thống quản lý, chỉ đạo giáo dục dân tộc
- Quản lí giáo dục ở vùng DTTS theo những lĩnh vực giáo dục đặc
trưng và theo từng dân tộc cụ thể
- Tăng cường kiểm tra, chỉ đạo các trường PTDTNT, PTDTBT và các
cơ sở giáo dục vùng DTTS
- Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với học sinh
DTTS, nhà giáo và cán bộ quản lý
- Xã hội hóa phát triển GD&ĐT ở vùng DTTS
4. Y tế cơ bản
Định hướng:
- Cải thiện dịch vụ CSSK nhân dân ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS.
- Nâng cao chất lượng công tác CSSK bà mẹ và trẻ em.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng BHYT đối với đồng bào DTTS, vùng miền núi, các hộ nghèo.
377
4.1. Hoàn thiện chính sách
Tập trung vào 4 nhóm chính sách:
- Về tài chính;
- Đầu tư;
- Đào tạo cán bộ, phát triển nguồn nhân lực ngành y tế vùng miền núi dân tộc;
- Chính sách đặc thù đối với chăm sóc sức khỏe, dân số và kế hoạch hóa gia đình vùng dân tộc, miền núi, vùng ĐBKK.
4.2. Cải thiện dịch vụ và nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ
- Phát triển và hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế;
- Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đổi mới chăm sóc sức khỏe ban đầu;
- Đẩy mạnh công tác y tế dự phòng và phòng chống HIV/AIDS, an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao sức khỏe;
- Khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng;
- Dân số- kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản;
- Phát triển nhân lực y tế;
- Tài chính và đầu tư.
5. Nước sạch và vệ sinh môi trường
Định hướng:
- Tiếp tục thực hiện CT MTQG nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, ưu tiên cho đồng bào DTTS, người dân ở miền núi, hải đảo, vùng ngập lũ, vùng bị nhiễm mặn.
- Cải thiện cơ bản tình trạng sử dụng nước sinh hoạt của dân cư, đặc biệt là dân cư nông thôn, vùng DTTS, vùng núi cao thiếu nước.
5.1. Hoàn thiện chính sách, chiến lược, quy hoạch
Rà soát, cập nhật chính sách, pháp luật đảm bảo thích ứng với những yêu cầu mới của thực tế và định hướng đầu tư nguồn lực, hướng tới người nghèo, vùng sâu, vùng xa.
5.2. Cải thiện dịch vụ và nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ
- Xây dựng, nâng cấp, nâng cao hiệu quả quản lý, vận hành các công trình cấp nước sạch hiệu quả, bền vững, đảm bảo cả số lượng và chất lượng nước cấp;
378
- Đẩy mạnh hoạt động cung cấp nước sạch từ phục vụ sang dịch vụ hàng hoá;
- Thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân;
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát chất lượng;
- Tiếp tục nghiên cứu ứng dụng xây dựng thí điểm các mô hình quản lý, công nghệ phù hợp các vùng đặc thù;
- Thông tin, giáo dục, truyền thông nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người dân.
6. Trợ giúp xã hội đột xuất
Định hướng:
- Hoạt động TGXH đột xuất phải đảm bảo tính nhân đạo, kịp thời, công bằng, hợp lý, đúng đối tượng và phù hợp với các quy định của pháp luật.
- Bảo đảm người dân bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, đặc biệt chú trọng đến người nghèo ở những vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai gây thiệt hại nghiêm trọng, có chính sách phòng ngừa để hạn chế hậu quả, hỗ trợ đột xuất kịp thời và hiệu quả.
6.1. Giải pháp về hoàn thiện chính sách
- Đổi mới chính sách TGXH đột xuất theo hướng mở rộng độ bao phủ và nâng cao mức TGXH
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương thức tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả hoạt động TGXH đột xuất, nâng mức hỗ trợ để đảm bảo người dân có thể khắc phục được rủi ro, ổn định đời sống và sản xuất;
- Mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng
6.2. Giải pháp về cải thiện dịch vụ và nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ
- Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ xã hội và phát triển công tác xã hội như một nghề chuyên nghiệp;
- Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp xã hội từ trung ương đến cơ sở;
- Lồng ghép việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội với các chương trình phát triển kinh tế xã hội, các CT MTQG để nâng cao hiệu quả thực hiện;
- Đổi mới Phương pháp chi trả;
379
- Tăng cường phân cấp quản lý nhà nước;
- Tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện.
KẾT LUẬN
Công bằng xã hội trong tiếp cận DVXHCB đã được cải thiện, đặc biệt
là cho người nghèo DTTS ở vùng sâu, vùng xa. Hệ thống cung cấp
DVXHCB và chính sách hỗ trợ đã góp phần thực hiện công bằng xã hội và
phát triển miền núi, vùng sâu, vùng xa. Mặc dù vậy, còn nhiều rào cản dẫn
đến tồn tại những khoảng cách trong tiếp cận DVXHCB của người nghèo
DTTS so với người không nghèo, người dân tộc Kinh, làm ảnh hưởng đến
phát triển con người và giảm nghèo bền vững ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Công bằng trong tiếp cận DVXHCB là quyền của con người và phải
được ưu tiên. Tập trung hoàn thiện chính sách, tăng cường đầu tư để người
nghèo DTTS miện núi, vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi nhằm nâng cao
khả năng tiếp cận, đảm bảo công bằng xã hội, giảm khoảng cách và bất bình
đẳng giữa các nhóm dân tộc, vùng miền là chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước và cũng là nguyện vọng của mọi người dân. Để thực hiện chủ trương
và nguyện vọng này, Nhà nước cần ban hành danh mục các DVXHCB cung
cấp cho người dân (không phải trả tiền) để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của
con người và bảo đảm ASXH phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đất
nước và hội nhập với các tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng các mô hình cung
cấp dịch vụ hiệu quả, trong đó có hình thức hợp tác công tư, tổng kết và
nhân điển hình áp dụng đối với các vùng miền khu vực thích hợp với sự
tham gia của người dân.
Trong quá trình nghiên cứu, Ban chủ nhiệm đề tài nhận được những ý
kiến góp ý của Ủy ban Dân tộc, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục- Đào tạo, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, các Vụ, Cục, Tổng cục của Bộ LĐ -
TB&XH. Chúng xin chân thành cảm ơn những đóng góp quý báu đó.
Đây là đề tài khó, phạm vi nghiên cứu rất rộng, thông tin tư liệu rất
hạn chế, do vậy chắc chắn kết quả nghiên cứu còn nhiều hạn chế. Ban chủ
nhiệm đề tài rất mong nhận được nhiều ý kiến góp ý để tiếp tục hoàn thiện,
bổ sung kết quả nghiên cứu.
380
KỶ YẾU
ĐỀ TÀI CẤP BỘ
2012 - 2013
Chịu trách nhiệm xuất bản: PHẠM NGỌC KHÔI
Biên tập: NGUYỄN TIẾN HÙNG NGÔ THỊ MẾN
Trình bày bìa: NGỌC TUẤN
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
70 Trần Hưng Đạo - Hà Nội
In 400 bản, khổ 16 x 24 cm, tại Công ty CP In và DVVP Tân Đại Việt.
Số đăng ký xuất bản: 653-2014/CXB/10-37/KHKT.
Quyết định xuất bản số: 1454/CXBIPH-QLXB ngày 10 tháng 4 năm 2014.
In xong và nộp lưu chiểu Quý II năm 2014.