Danh gia ngheo co su tham gia cua cong dong...
Transcript of Danh gia ngheo co su tham gia cua cong dong...
2003
Danh gia ngheo co su tham giacua cong dong tai
NHOÏM HAÌNH ÂÄÜNGCHÄÚNG ÂOÏI NGHEÌO
Chæång trçnh Phaït triãøn Liãn håüp quäúc25-29 Phan Bäüi Cháu, Haì Näüi, Viãût NamTel: (84 4) 942 1495Fax:(84 4) 942 2267E-mail: [email protected] site: http://www.undp.org.vn
AÍnh: UNDP
i
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại
Hà Giang
Tháng 8 năm 2003
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
ii
iii
Lời nói đầu của Nhóm hành động chống đói nghèo
Tháng 5 năm 2002, Chính phủ Việt Nam đã hoàn thành Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (CPRGS) và bắt đầu quá trình triển khai thực hiện CPRGS ở cấp địa phương. Thông qua các chiến dịch thông tin và hàng loạt các hội thảo vùng, cán bộ của các bộ ngành chủ chốt đã giải thích cho đại diện của các chính quyền địa phương về các phương pháp sao cho các quy trình lập kế hoạch của địa phương có thể được thực hiện theo định hướng vì người nghèo hơn, dựa trên số liệu thực tế hơn, chú trọng vào kết quả hơn, cân đối tốt hơn trong các quyết định phân bổ nguồn lực và được giám sát tốt hơn. Năm 2003 Nhóm hành động chống đói nghèo (PTF) đã hỗ trợ thực hiện cho các đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng (PPAs) ở 12 tỉnh của Việt Nam. Những đánh giá nghèo này đã sử dụng khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu chung để tìm hiểu những vấn đề nghèo đói mà các số liệu định lượng đã không mô tả được hết. Mục đích của việc làm này là đưa ra một nghiên cứu có thể sử dụng cùng với số liệu của Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam để cung cấp thông tin cho Ban thư ký CPRGS về tiến độ thực hiện CPRGS cho tới nay. Đánh giá nghèo cũng được thiết kế để cung cấp thông tin cho các nghiên cứu mới về nghèo đói ở các vùng và trên toàn quốc và các nghiên cứu này cũng đã được công bố riêng. Các đánh giá nghèo theo vùng sẽ được sử dụng như những công cụ xây dựng năng lực cho các quy trình lập kế hoạch với định hướng vì người nghèo ở các cấp chính quyền địa phương. Tám nhà tài trợ đã đóng góp nguồn lực tài chính và nhân lực để hỗ trợ cho các đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng, là cơ sở cho việc xây dựng báo cáo này và các đánh giá nghèo theo vùng bổ sung. Các nhà tài trợ bao gồm ADB, AusAID, DFID, GTZ, JICA, SCUK, UNDP và Ngân hàng Thế giới. Mỗi nhà tài trợ đóng vai trò chính ở một vùng của Việt Nam. Việc phân bố các vùng giữa các nhà tài trợ được tóm tắt ở Bảng A, và dựa trên định hướng hoạt động của các nhà tài trợ trong từng lĩnh vực. Bằng cách lựa chọn vùng nào mình thấy quen thuộc nhất, thông qua các dự án và hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, các nhà tài trợ có thể tận dụng hoàn toàn được những hiểu biết tích luỹ được khi đã làm việc tại vùng đó. Các nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng ở 43 xã rải rác trên toàn quốc. Trong số đó có hai tổ chức phi chính phủ quốc tế (Action Aid và SCUK), các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan nghiên cứu của Việt Nam, bao gồm Trung tâm phát triển nông thôn, Viện xã hội học (IOS), Trung tâm Chăm sóc sức khoẻ ban đầu Long An, Trung tâm dịch vụ phát triển nông thôn (RDSC) và Vietnam Solutions. Ngoài ra, có hai nhà tài trợ đã tiến hành nghiên cứu bằng cách lập các nhóm nghiên cứu gồm các chuyên gia trong nước dưới sự quản lý trực tiếp của nhà tài trợ. Kiến thức và kinh nghiệm của các tổ chức phi chính phủ và cơ quan nghiên cứu đóng vai trò then chốt đối với chất lượng của công tác này. Một cơ chế phối hợp đã được hình thành cho công tác đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng. Các thành viên của hầu hết các nhóm nghiên cứu đã tham gia xây dựng khung
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
iv
nghiên cứu và đi đến thống nhất về mục tiêu cần đạt được trong công tác nghiên cứu thực địa. Công tác thực địa đã được một số nhóm tiến hành thí điểm, và đề cương nghiên cứu cũng được chỉnh sửa cho phù hợp với những bài học kinh nghiệm được rút ra. Khuôn khổ nghiên cứu cuối cùng bao quát những lĩnh vực nghiên cứu như sau:
• Nhận thức về nghèo đói và xu hướng nghèo, nguyên nhân dẫn tới nghèo và khả năng dễ bị tổn thương;
• Tiến bộ trong công tác tăng cường dân chủ ở cấp cơ sở, đặc biệt là mức độ các hộ nghèo có thể tham gia một cách có ý nghĩa vào các quy trình xây dựng kế hoạch và lập ngân sách;
• Những thách thức trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản, tập trung vào sự tương tác của các hộ gia đình nghèo với các nhà cung cấp dịch vụ và các hộ nghèo có thể được tăng cường quyền lực như thế nào để có thể yêu cầu quyền lợi được cung cấp các dịch vụ cơ bản một cách hiệu quả hơn;
• Các cơ chế trợ cấp xã hội hiện nay (liên quan tới công tác xác định đối tượng ưu tiên ở trên) và cách thức cải thiện các cơ chế này;
• Tình hình cải cách hành chính công ở các cấp chính quyền địa phương; • Những thách thức trong vấn đề di dân và mối liên hệ giữa sự di chuyển của
hộ gia đình, nghèo đói và tiếp cận với dịch vụ; và, • Thông tin về môi trường đối với người nghèo và sự thay đổi của tình hình
này. Những Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng hiện nay đang được công bố thành bộ. Một báo cáo tổng hợp các kết quả của cả 43 xã và phân tích một cách tổng hợp hơn các chủ đề này cũng sẽ được công bố. Cũng sẽ có một báo cáo khác tóm tắt phương pháp tiếp cận, phương pháp nghiên cứu được sử dụng và những câu hỏi nghiên cứu chi tiết. Báo cáo “Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang” là kết quả của tập thể nhóm nghiên cứu gồm các cán bộ tổ chức AAV và cán bộ địa phương. Nội dung của báo cáo xoay quanh 7 chủ đề đã nêu trên. Các thông tin để viết báo cáo này lấy từ kết quả phỏng vấn các đối tượng rộng rãi gồm cán bộ lãnh đạo chính quyền, ban ngành đoàn thể từ cấp tỉnh tới cấp xã và thôn bản; các nhóm dân (nam và nữ), nhóm giáo viên, trẻ em và hộ gia đình; từ sự quan sát trong quá trình nghiên cứu. Nguồn thông tin thứ hai là từ các báo cáo của UBND và các ban ngành các cấp, từ các số liệu thống kê của tỉnh Hà Giang, hai huyện Vị Xuyên và Đồng Văn giai đoạn từ 1996 đến 2003.
v
Bảng A: Quan hệ đối tác trong Đánh giá nghèo theo vùng
Đánh giá nghèo có sự tham gia của người dân Vùng Những tỉnh trong vùng
Các nhà tài trợ chịu trách nhiệm về đánh giá nghèo cấp vùng Tỉnh Huyện Xã
Nhóm nghiên cứu chịu trách nhiệm đánh giá nghèo
có sự tham gia
Bảo Thắng
Bản Cầm Phong Niên
Lào Cai
Mường Khương Pha Long Tả Gia Khâu
Tư vấn Ageless
(tài trợ của DFID)
Vị Xuyên
Cao Bồ Thuận Hoá
Miền núi Đông Bắc
Hà Giang , Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh
Miền núi Tây Bắc Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình
DFID và
UNDP
Hà Giang Đồng Văn Sang Tung Thai Pin Tung
Action Aid
(tài trợ của UNDP)
Hải Dương Nam Sách Nam Sách Nam Trung
Đan Phượng Thọ An Liên Hà
Đồng bằng Sông Hồng
Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình
WB
Hà Tây Mỹ Đức Tế Tiêu Phúc Lâm
RDSC (tài trợ của WB)
Nghi Lộc Nghi Thái Nghệ An Tương Dương Tam Đinh
Viện Xã hội học (tài trợ của JICA)
Hải Lăng Hải Sơn Hải An
Bắc Trung bộ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tinh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế
GTZ và
JICA
Quảng Trị
Gio Linh Gio Thành Linh Thường
Nhóm nghiên cứu gồm Bộ LĐTBXH, Viện KHLĐXH, và các
nhà nghiên cứu độc lập (tài trợ của GTZ)
Sơn Hà
Sơn Bá Sơn Cao
Duyên hải miền Trung Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa
ADB
Quảng Ngãi
Tứ Nghĩa Nghĩa Thọ Nghĩa An
Giải pháp Việt Nam (tài trợ của ADB)
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
vi
Bảng A: Quan hệ đối tác trong Đánh giá nghèo theo vùng (tiếp theo)
Đánh giá nghèo có sự tham gia Vùng Những tỉnh trong vùng
Các nhà tài trợ chịu trách nhiệm về đánh giá nghèo cấp vùng Tỉnh Huyện Xã
Nhóm nghiên cứu chịu trách nhiệm đánh giá nghèo có sự tham gia
của người dân
EaHleo Eaheo Ea Ral
Dacrlap Đao Nghĩa Quang Tân
Tây Nguyên Kon Tum, Gia Lai, Đak Lak
ADB
Đak Lak
Thành phố Buôn Ma Thuột
Thị trấn Ea Tam
Action Aid (tài trợ của ADB)
Huyện Bình Chánh Thị xã An Lạc Tân Tạo
TP Hồ Chí Minh
Quận 8 Phường 4 Phường 5
Quỹ cứu trợ nhi đồng Anh (tự tài trợ)
Ninh Phước Phước Hải Phước Dinh
Đông Nam bộ TP Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu
Ngân hàng Thế giới
Ninh Thuận
Ninh Sơn Lương Sơn Mỹ Sơn
Trung tâm phát triển nông thôn (tài trợ của
Ngân hàng Thế giới)
Tam Nông Phú Hiệp Phú Thọ
Đồng Tháp
Tháp Mười Thanh Lợi
Thanh Phú
Mỹ Hưng Thới Thanh
Đồng bằng
Sông Cửu Long
Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trang, Bạc Liêu, Cà Mau
UNDP và AusAid
Bến Tre
Mỏ Cày Thành Thới
Trung tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu Long An (tài trợ của UNDP và
AusAid)
Tổng quan
vii
Từ và cụm từ viết tắt
AAV ActionAid Việt Nam ADB Ngân hàng phát triển châu Á AusAID Cơ quan phát triển quốc tế Ôxtralia CBKN Cán bộ khuyến nông CN‐XD Công nghiệp‐Xây dựng CPRGS Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo CTĐ Chữ thập đỏ DCCS Dân chủ cơ sở DFID Bộ phát triển quốc tế vương quốc Anh DSKHHGĐ Dân số & Kế hoạch hoá gia đình GDP Tổng sản phẩm quốc nội HĐND Hội đồng nhân dân HPM Chương trình giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang HPN Hội Phụ nữ HTCS Hạ tầng cơ sở IFAD Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế JICA Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản KHKT Khoa học kỹ thuật KN/KL/TY Khuyến nông/Khuyến lâm/Thú y KT‐XH Kinh tế ‐ Xã hội LĐTB&XH Lao động, Thương binh và Xã hội MTTQ Mặt trận Tổ Quốc NN&PTNT Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn PPA Đánh giá nghèo đói có sự tham gia REFLECT Chương trình xoá mù chữ kết hợp với phát triển cộng đồng SIDA Cơ quan phát triển quốc tế Thuỵ Điển TCLĐTB&XH Tổ chức, Lao động, Thương binh và Xã hội TM‐DV Thương mại‐ Dịch vụ TƯ Trung ương TV Ti vi UBND Uỷ ban nhân dân UNDP Chương trình Phát triển Liên hợp quốc UNICEF Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc VHLSS Khảo sát mức sống hộ gia đình ở Việt Nam VH‐XH Văn hoá ‐ Xã hội XĐGN Xoá đói giảm nghèo
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
viii
Tổng quan
ix
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn UBND tỉnh, Sở LĐTB&XH, Sở KH&ĐT, Sở NN&PTNT, Sở Y tế, Sở GD&ĐT, Mặt trận tổ quốc và Hội phụ nữ tỉnh, Tỉnh đoàn Hà Giang; UBND và các phòng TCLĐTB&XH, Phòng KH&ĐT, Phòng GD&ĐT, Phòng NN&PTNT, Trung tâm Y tế, Trạm Khuyến nông, Hội phụ nữ hai huyện Vị Xuyên và Đồng Văn; UBND, giáo viên trường tiểu học các xã Thuận Hoà và Cao Bồ (huyện Vị Xuyên), Sảng Tủng và Thài Phìn Tủng (huyện Đồng Văn); cán bộ và nhân dân các thôn Lũng Buông, Hoà Bắc và Lũng Rầy (xã Thuận Hoà); Thác Tậu và Chất Tiền (xã Cao Bồ); Tả Lủng A và Lùng Thàng (xã Sảng Tủng); Nhèo Lủng và Tả Lủng Chứ (xã Thài Phìn Tủng); nhóm trẻ em thôn Hoà Bắc (xã Thuận Hoà), Chất Tiền (xã Cao Bồ), nhóm trẻ nội trú‐phổ cập tiểu học trường Sảng Tủng về thời gian, lòng mến khách và sự giúp đỡ nhiệt tình dành cho nhóm nghiên cứu trong thời gian làm việc tại tỉnh Hà Giang. Đặc biệt, chúng tôi xin cảm ơn bà Nguyễn Kim Hà, phó Giám đốc và ông Phạm Ngọc Dũng, Trưởng Phòng Bảo trợ Xã hội Sở LĐTB&XH Hà Giang Sở LĐTB&XH về sự hỗ trợ và những ý kiến đóng góp cho bản báo cáo; các ông Đặng Văn Thi và Phạm Văn Thuỷ, phó Phòng TCLĐTB&XH huyện Vị Xuyên và Đồng Văn về sự hợp tác và hỗ trợ rất hiệu quả cho nhóm nghiên cứu; các cán bộ của tỉnh Hà Giang: bà Đinh Thị Tuyến, bà Bế Vân Anh, ông Nguyễn Ngọc Hà, ông Vương Đức Thiết, ông Trần Đức Truyền, ông Nguyễn Đình Dự, bà Nguyễn Thị Tươi, bà Mao Xuân Thu, ông Mai Tuấn, ông Đỗ Anh Tuấn, bà Hoàng Lan Hương, ông Nguyễn Văn Hưng, ông Vũ Thái Hà, tuy bận công tác, nhưng đã nhiệt tình tham gia khoá tập huấn và cùng nhóm nghiên cứu đi hiện trường thu thập thông tin; chị Sùng Thị Máy và chị Xuyến (HPN Đồng Văn) đã làm phiên dịch cho nhóm trong thời gian làm việc với bà con HMông tại huyện Đồng Văn. Cuộc đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang, do UNDP tài trợ, và do một nhóm cán bộ của tổ chức ActionAid Việt Nam (AAV) ‐ Lê Văn Định, Phan Lệ Thuý, Nguyễn Thu Hiền, Lò Thị Hương, Phạm Đức Uy, Nguyễn Đình Thiệu, do các ông Nguyễn Tất Quân và Vũ Ngọc Anh chỉ đạo. Hai cán bộ sau cùng cũng chịu trách nhiệm viết báo cáo. Các ông Koos Neefjes, Hoàng Xuân Thanh và bà Nguyễn Thục Quyên đã có những ý kiến đóng góp có giá trị vào bản thảo của báo cáo. Chúng tôi xin cảm ơn DFI D đã tài trợ và Ngân hàng Thế giới, bà Carrie Turk và Thanh Hoa đã hỗ trợ dàn xếp cho việc in Báo cáo này. Hà Nội, tháng 8 năm 2003.
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
x
Tổng quan
xi
Mục lục
Lời nói đầu của Nhóm hành động chống đói nghèo...................................................... iii Từ và cụm từ viết tắt............................................................................................................ vii Lời cảm ơn ...............................................................................................................................ix Tổng quan ................................................................................................................................ 1
Tỉnh Hà Giang....................................................................................................... 1 Mục tiêu của cuộc nghiên cứu: ........................................................................... 2 Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................... 3 Địa điểm nghiên cứu:........................................................................................... 3 Những điểm chính của cuộc nghiên cứu: ......................................................... 4 Một số phát hiện: .................................................................................................. 4 Khuyến nghị: ......................................................................................................... 7
Hiểu biết về nghèo................................................................................................................ 10 Xu thế:................................................................................................................... 10 Biểu hiện: ............................................................................................................. 12 Nguyên nhân:...................................................................................................... 13 Sự khác biệt về mức độ cải thiện: ..................................................................... 16 Sự khác biệt về quan điểm:................................................................................ 18 Sự khác biệt giữa tiêu chuẩn về nghèo của người nghèo và tiêu chuẩn của Nhà nước:............................................................................. 19 Khuyến nghị: ....................................................................................................... 20
Sự tham gia vào việc ra quyết định ở địa phương và tạo quyền cho các hộ nghèo..21 Khuyến nghị: ....................................................................................................... 23
Cung cấp các dịch vụ cơ bản tới người nghèo ................................................................. 24 Giáo dục: .............................................................................................................. 24 Khuyến nghị: ....................................................................................................... 26 Y tế: ....................................................................................................................... 26 Khuyến nghị: ....................................................................................................... 27 Khuyến nông/khuyến lâm/thú y: ..................................................................... 27 Khuyến nghị: ....................................................................................................... 29
Chất lượng và hiệu quả của các chương trình hỗ trợ xã hội ......................................... 30 Thực trạng:........................................................................................................... 30 Khuyến nghị: ....................................................................................................... 30
Cải cách hành chính công.................................................................................................... 31 Thực trạng:........................................................................................................... 31 Khuyến nghị: ....................................................................................................... 32
Môi trường ............................................................................................................................. 33 Môi trường‐cách hiểu theo từng cấp độ: ......................................................... 33 Xu hướng: ............................................................................................................ 33 Những lo ngại: .................................................................................................... 34 Khuyến nghị/giải pháp: ..................................................................................... 35
Di dân...................................................................................................................................... 36 Di dân tự do:........................................................................................................ 36 Di dân có tổ chức: ............................................................................................... 37
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
xii
Khuyến nghị: .......................................................................................................37 Phụ lục 1: Danh sách nhóm nghiên cứu Hà Giang.........................................................38 Phụ lục 2: Những thuận lợi và khó khăn .........................................................................39 Phụ lục 3: Các xã trong địa bàn nghiên cứu.....................................................................41
Xã Thuận Hòa, huyện Vị Xuyên: ......................................................................41 Xã Cao Bồ, huyện Vị Xuyên: .............................................................................41 Xã Sảng Tủng, huyện Đồng Văn: .....................................................................42 Xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn: .............................................................42
Phụ lục 4: “9 Chính sách và 7 dự án” XĐGN của tỉnh Hà Giang.................................43 9 Chính sách: .......................................................................................................43 Các dự án: ............................................................................................................43
Phụ lục 5: Những hỗ trợ của Nhà nước/chính quyền địa phương..............................45
Tổng quan
1
Tổng quan Tỉnh Hà Giang: Hà Giang là một tỉnh miền núi nằm ở cực bắc Việt Nam ‐ phía bắc giáp Trung Quốc (với đường biên giới dài trên 274 km và cửa khẩu quốc tế Thanh Thuỷ), phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía tây giáp 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 7.884 km2, tổng dân số là 632.500 người (50,4% nữ) thuộc 22 dân tộc khác nhau. Năm cộng đồng dân cư lớn nhất là HMông (chiếm 30,75% tổng dân số), Tày (24,94%), Dao (15,16%), Kinh (12,13%) và Nùng (9,69%). Về hành chính, Hà Giang chia thành 9 huyện và 1 thị xã với 191 xã/phường. Hơn 88% người dân sống ở vùng nông thôn1. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2002 là 1,81%. Do đặc điểm về địa hình, thời tiết và đất đai, Hà Giang được chia thành 3 tiểu vùng: Vùng 1: vùng cao núi đá phía bắc gồm 4 huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ và Yên Minh. Diện tích tự nhiên 2.221 km2, dân số 21,3 vạn người. Đây là 4 trong số 9 huyện được đánh giá là khó khăn nhất Việt Nam. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thích hợp với các cây ôn đới, trong đó ngô là cây lương thực chính; chăn nuôi chủ yếu là bò, ngựa, dê và gia cầm. Vùng 2: vùng cao núi đất phía tây gồm 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần với diện tích 1.453 km2, dân số 10,8 vạn người. Địa hình tự nhiên chia cắt mạnh, độ dốc lớn thích hợp cho việc trồng các loại cây ôn đới, cây công nghiệp lâu năm như chè (ở đây có giống chè San Tuyết nổi tiếng), thông nhựa, trẩu. Cây lương thực chính là lúa nước (thường chỉ trồng được 1 vụ) và ngô; chăn nuôi chủ yếu là trâu, ngựa, dê và gia cầm. Vùng 3: vùng núi thấp gồm 3 huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê và thị xã Hà Giang. Diện tích tự nhiên 4.174 km2, dân số 30,6 vạn người. Điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại cây nhiệt đới và rừng; các loại cây ăn quả có múi như cam, chanh, quít; cây công nghiệp như trẩu, chè. Cây lương thực chính là lúa nước, chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò, dê, cá, gia cầm2. Về kinh tế, trong giai đoạn 1996‐2002 Hà Giang duy trì được tốc độ tăng GDP khá cao (khoảng 10%/năm). GDP bình quân đầu người năm 2002 là 2,14 triệu đồng (năm 2000 là 1,7 triệu đồng). Theo thống kê năm 2001 tỉ trọng GDP của nông‐lâm nghiệp và thuỷ sản là 48,06%, của công nghiệp‐xây dựng là 21,28% và của dịch vụ là 30,66%3. các tỉ lệ tương ứng của năm 1995 là 61,8%; 17,1% và 21,1%4. Điều này cho thấy tỉnh đang chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng mạnh dịch vụ‐thương mại và công nghiệp‐xây dựng, giảm phần đóng góp của nông – lâm nghiệp và thuỷ sản. Tuy nhiên, các cơ sở công nghiệp còn nhỏ bé và đến nay Hà Giang vẫn chưa có khu vực
1 Theo Niên giám thống kê Hà Giang năm 2002 2 Báo cáo chuyên đề của Sở KH&ĐT Hà Giang tại cuộc Hội thảo KH “Hà Giang với sự nghiệp phát triển con người”, tháng 3/2003. 3 Theo Niên giám thống kê Hà Giang năm 2002 4 Theo Niên giám thống kê Hà Giang năm 1996
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
2
kinh tế đầu tư nước ngoài. Nguồn ngân sách của tỉnh chủ yếu do trung ương cấp ‐ năm 2002 Hà Giang mới tự lo được khoảng 18% trong tổng ngân sách 953 tỷ đồng5. Tỉ lệ hộ nghèo năm 1996 của Hà Giang (theo tiêu chí cũ của Bộ LĐTB&XH) là 35,07% (trong đó 24,2% hộ đói). Cuộc phân loại lần đầu tiên theo tiêu chí mới của Bộ LĐTB&XH được tiến hành năm 2001 cho thấy tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh là 25,7%. Năm 2002, tỉ lệ này còn 18% và không còn hộ đói (Báo cáo của Sở LĐTB&XH). Theo địa bàn, thị xã Hà Giang là nơi có tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất trong khi Mèo Vạc là huyện nghèo nhất. Theo dân tộc, HMông là cộng đồng nghèo nhất (chiếm 50% số hộ nghèo năm 2001), trong khi 2 cộng đồng Tày và Kinh được đánh giá là năng động và phát triển nhất trong tỉnh. Có 142 xã của Hà Giang nằm trong danh sách 1.870 xã nghèo đói của Việt Nam và được hưởng chương trình 135 từ năm 1999. Những huyện có tỉ lệ xã được chương trình 135 cao nhất là Xín Mần (20/20 xã và thị trấn), Đồng Văn (19/19 xã và thị trấn) và Mèo Vạc (16/16 xã và thị trấn); tiếp theo là Hoàng Su Phì (26/27), Bắc Mê (12/13), Yên Minh (16/18) và Quản Bạ (11/13).
Các xã nghiên cứu:
Bốn xã được lựa chọn làm địa bàn nghiên cứu PPA bao gồm các xã Thuận Hoà và Cao Bồ (huyện Vị Xuyên), Sảng Tủng và Thài Phìn Tủng (huyện Đồng Văn). Cả bốn xã này đều nằm trong danh sách các địa bàn đã tiến hành thu thập thông tin định lượng trước đây (VHLSS ‐ chi tiết về 4 xã xem Phụ lục 3). Chúng cũng được lựa chọn để đại diện cho các khu vực với điều kiện địa lý tự nhiên và xã hội khác nhau của Hà Giang. Các xã Thuận Hoà và Cao Bồ có thể đại diện cho Vùng 2 và Vùng 3, trong đó Cao Bồ đại diện cho vùng núi đất cao, độ dốc lớn, địa hình chia cắt và Thuận Hoà đại diện cho vùng núi thấp. Hai xã Sảng Tủng và Thài Phìn Tủng là đại diện cho Vùng 1 ‐ khu vực núi đá của huyện Đồng Văn. Sự khác biệt về địa lý và xã hội đã tạo ra sự đa dạng trong phương thức kiếm sống – với các xã Sảng Tủng và Thài Phìn Tủng thì trồng ngô và chăn nuôi bò/dê/lợn là những phương thức chính, còn với Thuận Hoà và Cao Bồ là trồng lúa nước, chăn nuôi trâu, bò, lợn. Về dân tộc, địa bàn nghiên cứu đã bao gồm các nhóm dân tộc chính của tỉnh như HMông, Tày, Dao... Bốn xã được lựa chọn đều thuộc loại những xã đặc biệt khó khăn và được hưởng chương trình 135. Các xã đều có đường ô tô đến trung tâm dù chất lượng đường còn hạn chế. Hai xã (Thài Phìn Tủng và Thuận Hoà) nằm bên quốc lộ 4C, hai xã (Cao Bồ và Sảng Tủng) thì nằm cách đường quốc lộ khoảng 1 tiếng đi xe. Cơ sở hạ tầng của các xã như trường học, trạm xã, bưu điện đã được xây dựng bởi chương trình 135, riêng Thài Phìn Tủng chưa có điện lưới đến trung tâm xã.
Mục tiêu của cuộc nghiên cứu:
• Thu thập những thông tin mới nhất về tình hình nghèo, những khía cạnh/vấn đề cụ thể liên quan đến nghèo và công tác XĐGN tại tỉnh Hà Giang;
• Viết Báo cáo đánh giá nghèo có sự tham gia tại tỉnh Hà Giang; cung cấp thông tin cho xây dựng Báo cáo đánh giá tình hình nghèo tại khu vực miền núi phía bắc Việt Nam; đóng góp vào các cuộc đối thoại về chính sách cấp quốc gia và cấp vùng; và đóng
5 Báo cáo 2002 của UBND tỉnh
Tổng quan
3
góp vào Báo cáo đánh giá nghèo có sự tham gia tại Việt Nam của Nhóm công tác. • Giúp ActionAid Việt Nam và đối tác xây dựng Chiến lược dài hạn cho vùng phát
triển số 7 giai đoạn 2003‐2007. • Giúp cán bộ ActionAid và cán bộ của tỉnh, huyện có liên quan nâng cao năng lực
và hiểu biết về về nhiều lĩnh vực liên quan đến nghèo và XĐGN.
Thành phần tham gia:
23 người gồm 21 trực tiếp và 2 điều phối và/hoặc hỗ trợ (xem phụ lục I). Thời gian: từ 9 đến 29 tháng 7 năm 2003.
Phương pháp nghiên cứu:
1. Phỏng vấn bán cấu trúc các sở ban ngành liên quan cấp tỉnh; các phòng ban liên quan cấp huyện; lãnh đạo chủ chốt và đầu ngành các xã và thôn được lựa chọn.
2. Phỏng vấn bán cấu trúc các nhóm chủ hộ nam, chủ hộ nữ, nhóm trẻ em, nhóm giáo viên, hộ gia đình (nghèo, trung bình và khá) ở các xã/thôn được lựa chọn.
3. Sử dụng các công cụ nghiên cứu (phân loại kinh tế hộ theo thôn bản, biểu đồ xu hướng, phân tích cặp, ma trận so sánh, cây nhân quả, lịch 24 giờ, quan sát v.v.).
4. Thu thập thông tin thứ cấp (các báo cáo, tài liệu thống kê giai đoạn 1995‐2000 và hiện nay của tỉnh, 2 huyện và 4 xã được chọn).
Địa điểm nghiên cứu:
1. Tỉnh Hà Giang: Sở LĐTB&XH, Sở KH&ĐT, Sở NN&PTNT, Sở GD&ĐT, Sở Y tế, Mặt trận tổ quốc tỉnh và Hội phụ nữ tỉnh.
2. Huyện Vị Xuyên (đại diện vùng núi thấp): Phòng TCLĐTB&XH, Phòng KH&ĐT, Phòng NN&PTNT, Phòng GD&ĐT, Hội phụ nữ huyện; Xã Thuận Hoà (xã vùng thấp): thôn Hoà Bắc (thôn lớn gần đường quốc lộ), thôn Lũng Rầy (thôn nghèo, vùng cao) Xã Cao Bồ (xã vùng cao): thôn Thác Tậu (thôn xa trung tâm xã), thôn Chất Tiền (thôn gần đường)
3. Huyện Đồng Văn (vùng núi đá cao): Phòng TCLĐTB&XH, Phòng KH&ĐT, Phòng NN&PTNT, Phòng GD&ĐT, TT Y tế huyện, Hội phụ nữ huyện; Xã Sảng Tủng (xã nghèo xa đường giao thông): thôn Tả Lủng A (thôn gần đường), thôn Lùng Thàng (xa TT xã); Xã Thài Phìn Tủng (xã nghèo gần đường giao thông): thôn Nhèo Lủng (gần đường và TT xã) và thôn Tả Lủng Chứ (xa TT xã).
Tổng cộng, đoàn đã tiến hành 104 cuộc phỏng vấn, trong đó:7 cuộc phỏng vấn các sở ban ngành cấp tỉnh12 cuộc phỏng vấn các phòng ban ngành cấp huyện8 cuộc phỏng vấn cán bộ lãnh đạo xã
• 8 cuộc phỏng vấn cán bộ lãnh đạo thôn • 4 nhóm trẻ em và 4 nhóm giáo viên 20 cuộc phỏng vấn nhóm chủ hộ gia đình
(nam riêng, nữ riêng) • 41 cuộc phỏng vấn hộ gia đình
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
4
Những điểm chính của cuộc nghiên cứu:
• Nghiên cứu này chủ yếu mang tính định tính, báo cáo của nghiên cứu nên được đọc cùng các nghiên cứu định lượng do Ngân hàng Thế giới tiến hành.
• Đợt nghiên cứu được tiến hành trong mùa mưa là mùa khó khăn cho việc đi lại, nhưng lại là mùa thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt của người dân, đặc biệt dân vùng núi đá cao. Thông tin thu được có thể sẽ phản ánh xu thế thuận lợi hơn là khó khăn.
• Tất cả các xã được khảo sát đều là những xã vùng 3 (vùng đặc biệt khó khăn) đang được hưởng chương trình 135 cũng như các CT/DA hỗ trợ khác của tỉnh và huyện cũng như của các tổ chức quốc tế (IFAD, SIDA, UNICEF ...) trong nhiều năm, do đó những phát hiện có thể bị hạn chế về tính đại diện.
• Yêu cầu tìm hiểu về Cải cách hành chính công đến sau khi đã triển khai nghiên cứu, nên thông tin thu thập không đầy đủ,
Một số phát hiện:
1. Trong 10 năm qua, đặc biệt là 5 năm gần đây, chính quyền và đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang đã nỗ lực vượt bậc, kết hợp nội lực với sự giúp đỡ của chính phủ và các tổ chức quốc tế và đạt được những kết quả rất đáng khích lệ trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, VH, XH và XĐGN: tốc độ phát triển kinh tế hàng năm cao; cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch từ thuần nông sang đa dạng, tỉ trọng CN‐XD và TM‐DV trong GDP ngày càng tăng. Tuy nhiên Hà Giang vẫn là 1 tỉnh nghèo, GDP bình quân đầu người năm 2002 là 2,14 triệu đồng, dưới mức trung bình của cả nước (khoảng 6 triệu đồng); vẫn còn một số tiềm năng chưa được khai thác hiệu quả (thương mại, lâm nghiệp, du lịch ...).
2. Đời sống của tuyệt đại đa số người dân, kể cả người nghèo và đồng bào các vùng
sâu vùng xa đã được cải thiện: tỉ lệ hộ khá tăng, tỉ lệ hộ nghèo giảm; trình độ văn hoá, năng lực áp dụng những kiến thức KHKT của đồng bào được nâng cao; lương thực và gia súc nhiều hơn; nhà cửa và tài sản được cải thiện, nhiều hộ mua được xe máy, TV, máy xay sát...; phụ nữ và trẻ em mặc đẹp hơn, nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần cao hơn; tệ nạn xã hội giảm v.v. Tuy nhiên, có sự khác biệt trong mức độ cải thiện giữa các nhóm dân cư (nhóm doanh nghiệp tư nhân và nhóm cán bộ có thu nhập cao với nhóm cán bộ công nhân viên bình thường và nông dân) và giữa các cộng đồng dân tộc (người Tày và người Kinh với người HMông và một số cộng đồng nghèo khác). Vẫn còn một bộ phận nhỏ người dân bị nghèo đi hoặc có cuộc sống ít được cải thiện. Tính bền vững của sự thay đổi còn chưa cao.
3. Công tác XĐGN được tỉnh coi là một hoạt động trọng tâm, được đầu tư lớn và đã
đạt được những kết quả rất khả quan. Theo báo cáo của UBND tỉnh tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới của Bộ LĐTB&XH) giảm đáng kể: từ 25,7% năm 2001 xuống 18% năm 2002, không còn hộ đói. Có nơi đã xuống dưới 10% (thị xã Hà Giang, huyện Bắc Quang, huyện Vị Xuyên). Tuy nhiên, kết quả phân loại của cán bộ cơ sở và người dân ở những nơi đoàn đến khảo sát (theo tiêu chí của người dân ở từng thôn bản) thì tỉ lệ hộ nghèo, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa còn khá cao. Ví dụ: thôn Lũng Rầy (xã Thuận Hoà) 32,4%; thôn Chất Tiền (xã Cao Bồ) 38,89%; thôn Tà
Tổng quan
5
Lủng Chứ (xã Thài Phìn Tủng) 73,47%. Theo quan điểm của người dân vẫn còn hộ đói (mỗi năm số hộ này thiếu ăn từ 4 đến 6 tháng). Tính bền vững của hoạt động XĐGN là thấp do nó phụ thuộc quá nhiều vào sự hỗ trợ từ cấp trên (TƯ, tỉnh và huyện).
4. Cơ sở hạ tầng (điện, điện thoại, đường giao thông, trường học, trạm y tế, kênh
mương thuỷ lợi, nước sinh hoạt v.v.) ở Hà Giang, đặc biệt ở những vùng cao, vùng sâu, vùng xa đã được cải thiện cơ bản và góp phần vô cùng quan trọng vào việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, cải thiện cuộc sống của người dân và công tác XĐGN. Chính quyền và nhân dân các vùng sâu, vùng xa vẫn mong muốn được cấp trên (TƯ, tỉnh và huyện) tiếp tục hỗ trợ xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông (đường, cầu cống) và mở rộng lưới điện quốc gia tới các thôn bản để bà con có cơ hội cải thiện cuộc sống.
5. Hệ thống giáo dục đã được củng cố và phát huy tác dụng: trong 3 năm qua, hàng
trăm trường học và điểm trường kiên cố đã được xây dựng góp phần nâng cao chất lượng dạy và học; sự quan tâm hơn của gia đình và xã hội đến giáo dục cũng tăng lên, kết quả là tỉ lệ trẻ em đến trường tăng, số trẻ bỏ học giảm cơ bản. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ được đến nhà trẻ, mẫu giáo và cấp 3 còn khá thấp, đặc biệt là ở những vùng sâu vùng xa; tỉ lệ người lớn 35 tuổi trở lên, đặc biệt là phụ nữ bị mù chữ còn khá cao (có vùng trên 50%). Việc phân loại người biết chữ theo lứa tuổi của Hà Giang khác với bản câu hỏi – cụ thể là 6‐14 và 15‐25. Lứa tuổi trên 25 là rất quan trọng vì họ thường là chủ gia đình, nhưng lại không được quan tâm về giáo dục.
6. Các chương trình y tế cũng có những đóng góp hết sức to lớn trong việc cải thiện
sức khoẻ của người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em ‐ từ năm 1997 nhiều người dân, đặc biệt là người nghèo, đã tiếp cận được các DV y tế miễn phí; tỉ lệ người dân đến khám chữa bệnh/sinh đẻ tại các trạm y tế xã tăng nhiều; tỉnh đã xây dựng các trạm y tế ở tất cả các xã, đội ngũ y tế viên thôn bản khá đầy đủ về số lượng; tỉ lệ sinh giảm ... Tuy nhiên, mới chỉ có 50% số bác sỹ và 1/5 số cán bộ y tế xã là người Hà Giang, chất lượng đội ngũ cán bộ y tế cũng còn hạn chế. Điều này đặt dấu hỏi về tính ổn định và bền vững của hệ thống y tế cơ sở, đồng thời cho thấy nhu cầu cấp thiết về đào tạo cán bộ y tế là người địa phương. Quyết định 139 bắt đầu được triển khai và các địa phương đang tập hợp danh sách hộ nghèo. Mới chỉ có cán bộ (tới cấp thôn bản) được phổ biến, còn người dân còn chưa biết gì về quyết định này.
7. Hệ thống khuyến nông/thú y đã được củng cố, phát triển và phát huy tác dụng
của mình đến phát triển sản xuất nông nghiệp (áp dụng giống mới năng suất cao, chăn nuôi phát triển v.v.) và được người dân đánh giá cao. Công tác khuyến lâm đã làm nâng cao ý thức bảo vệ rừng trong nhân dân và tăng độ che phủ của rừng lên trên 39%. Người dân mong muốn cấp trên tiếp tục hoàn thiện hệ thống, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ KN/KL/thú y cơ sở; tiếp tục trợ giá giống cây con, hỗ trợ vốn vay, cung cấp trực tiếp và kịp thời các thông tin cần thiết về sản xuất và thị trường tới người dân... ý thức đầu tư vào rừng của người dân nhìn chung còn yếu (ở những xã được khảo sát), đa số diện tích rừng là rừng tạp và rừng tái sinh,
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
6
giá trị kinh tế thấp. Quyết định 80 của thủ tướng chưa được triển khai, các nhà khoa học vẫn đứng ngoài cuộc.
8. Sự tham gia của người dân vào quản lý địa phương còn hạn chế, nhìn chung mới
dừng ở mức đóng góp các quĩ và thực hiện nghĩa vụ công dân (như lao động công ích). Các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên – kể cả NĐ 29 về Dân chủ cơ sở, mới đến được cán bộ và đảng viên cấp thôn bản. Còn người dân chỉ được nghe phổ biến về chúng tại các cuộc họp thôn, nên việc hiểu và áp dụng còn hạn chế. Cán bộ từ cấp huyện trở xuống, đặc biệt là cấp cơ sở, phải dự quá nhiều cuộc họp, nghe phổ biến quá nhiều chính sách/chỉ thị/nghị quyết mà không kịp quán triệt và triển khai xuống dân. Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng có nguồn kinh phí đầu tư rất lớn, nhưng tình trạng chung là các BQL DA cấp huyện triển khai các công trình lớn qua các nhà thầu, các xã chỉ được nhận bàn giao công trình mà ít được tham gia bàn bạc, xây dựng. Việc tiếp cận tới các thông tin của người dân vùng sâu/vùng xa, còn rất hạn chế (có điểm bưu điện thị trấn huyện không có báo chí hàng ngày để bán mà chỉ phân phát báo chí đặt cho các phòng ban). Điều này hạn chế sự tuyên truyền các chủ trương chính sách nhà nước tới đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là đồng bào nghèo, cũng như sự phát triển của họ.
9. Các chương trình hỗ trợ xã hội thường xuyên và đột xuất (như hỗ trợ các gia đình
chính sách, các hộ gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cứu trợ mất mùa, hoả hoạn, thiên tai v.v.) nhìn chung được triển khai tương đối tốt và công khai tại các địa phương; đã huy động được nhiều nguồn lực, góp phần giúp các hộ khắc phục khó khăn, cải thiện cuộc sống. Tuy nhiên, chúng mới giúp người dân được một phần rất nhỏ. Trợ cấp thường xuyên là dành riêng cho các hộ nghèo và khó khăn trong khi trợ cấp đột xuất không phân biệt hộ khá và hộ nghèo. Có ý kiến phát biểu rằng sự hỗ trợ (khẩn cấp) đôi khi đến chậm, còn tình trạng hộ nghèo đi do gặp rủi ro. Chương trình hỗ trợ thường xuyên hướng tới nhóm đối tượng nghèo và khó khăn khá rõ ràng, trong khi các chương trình cứu trợ khẩn cấp là dành cho mọi đối tượng bị ảnh hưởng, không phân biệt giàu nghèo.
10. Trật tự xã hội tương đối tốt và tệ nạn xã hội thấp: những nơi nhóm nghiên cứu
đến cán bộ và người dân phản ảnh rằng các tệ nạn như hút chích, mại dâm, HIV/AIDS hầu như không có ở địa phương họ. Đây là một điểm mạnh của Hà Giang, 1 tỉnh biên giới với nhiều dân tộc và nó cũng đóng góp vào sự nghiệp phát triển KT‐XH và XĐGN của tỉnh. Tuy nhiên, tình trạng uống rượu còn khá phổ biến ở Hà Giang, gây ra những hậu quả không hay như giảm năng suất làm việc, gây bạo lực gia đình v.v. do đó cần được coi như 1 tệ nạn xã hội.
11. Về cải cách hành chính công, đang có sự chênh lệch rõ ràng về trình độ và năng
lực giữa cán bộ cấp xã/thôn bản vùng thấp và vùng cao, giữa cán bộ cơ sở người dân tộc ít người (có xã vùng cao không tự lập được kế hoạch và ngân sách mà phải nhờ tài chính huyện giúp). Điều này làm cản trở tính hữu hiệu của bộ máy hành chính nhà nước. Công tác chuẩn hoá đội ngũ công chức mới triển khai xuống cấp huyện. Cán bộ cấp xã chưa được chuẩn hoá mặc dù đây là cấp cơ sở cực kỳ quan trọng. Tỉnh đã có nhiều cố gắng (chính sách luân chuyển cán bộ, phân công cán bộ phụ trách các mảng hoạt động và địa phương cần hỗ trợ). Tuy nhiên, kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu. Cán bộ cáp thôn bản, tuy có vai trò
Tổng quan
7
rất quan trọng trong việc triển khai các chủ trương chính sách của nhà nước và giải quyết các vấn đề của người dân, nhưng trình độ và năng lực còn yếu.
12. Phụ nữ là người lao động chủ yếu trong gia đình. Vai trò của người phụ nữ đã
được cải thiện tuy còn chậm; hiểu biết của họ về kinh tế, xã hội và văn hoá được nâng cao, chất lượng cuộc sống (sức khoẻ, ăn, mặc, ở, đi lại, hưởng thụ văn hoá) được cải thiện, phụ nữ ngày nay đẻ ít hơn; họ bắt đầu tham gia nhiều hơn vào các sinh hoạt cộng đồng (phụ nữ Tày, Dao). HPN được đánh giá là 1 tổ chức quần chúng hoạt động khá hiệu quả ở cơ sở. Vẫn còn khá nhiều phong tục tập quán lạc hậu cản trở sự tiến bộ của phụ nữ: nam giới vẫn “giành” quyền tham gia sinh hoạt cộng đồng, phụ nữ vẫn là người phải gánh vác quá nhiều công việc sx và nội trợ, vẫn còn tình trạng chồng (đặc biệt là khi uống rượu) đánh đập vợ, công tác giới chưa được triển khai rộng ở Hà Giang, tỉ lệ phụ nữ bị mù hay tái mù chữ còn khá cao.
13. Về môi trường: các chủ trương bảo vệ và khôi phục rừng, giao đất giao rừng cho
dân đã được Hà Giang làm từ đầu những năm 1990 và mang lại hiệu quả rõ rệt ‐ ý thức bảo vệ rừng của người dân tăng lên, việc đốt phá rừng làm rẫy giảm hẳn, độ che phủ rừng tăng, hạn chế được xói mòn, môi trường được cải thiện. Tuy nhiên, hiểu biết của cán bộ, đặc biệt là cán bộ cơ sở, và người dân về môi trường cũng như tầm quan trọng của nó với cuộc sống còn hạn chế, vẫn còn nhiều diện tích đất trống đồi trọc, người dân ít đầu tư vào rừng, chưa khai thác được nguồn lợi từ rừng để cải thiện đời sống, chưa biết cách giữ gìn vệ sinh nguồn nước.
14. Tình trạng di dân tự do xảy ra mấy năm trước ở Hà Giang (chủ yếu trong cộng
đồng HMông đi miền Nam do tuyên truyền tôn giáo) nay đã giảm cơ bản, có nơi chấm dứt hẳn. Tỉnh và một số huyện đang triển khai kế hoạch di dân có tổ chức, hạ sơn. Tuy nhiên, công tác này khá khó khăn đòi hỏi nhiều công sức, thời gian cũng như sự phối hợp chặt chẽ của nhiều ban ngành liên quan. Di dân đến chủ yếu là thợ làm nghề tự do (xây dựng, làm đường, dịch vụ buôn bán nhỏ) từ dưới xuôi lên.
15. Nền kinh tế thị trường còn kém phát triển, ít doanh nghiệp tư nhân ở Hà Giang.
Các dịch vụ tư nhân, đặc biệt là trong cộng đồng dân tộc thiểu số (sửa chữa, may vá, mua bán vật tư ...) còn kém phát triển thường chỉ có ở các xã vùng thấp, không có ở nhiều xã vùng cao, mặc dù có nhu cầu. Bà con thường phải ra thị trấn hoặc xuống chợ mới tiếp cận được các DV này.
Khuyến nghị:
Đinh hướng chung: • Nếu trong giai đoạn 1 Hà Giang đầu tư mạnh vào CSHT thì giai đoạn tiếp theo
tỉnh cần ưu tiên đầu tư vào con người: cả cán bộ và người dân ‐ đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ tại chỗ và cán bộ dân tộc, đồng thời nâng cao trình độ văn hoá và năng lực làm kinh tế cho người dân.
• Kết hợp khai thác các tiềm năng và thế mạnh của tỉnh để tăng tính bền vững
của phát triển, tranh thủ sự hỗ trợ của TƯ và quốc tế đầu tư tập trung vào các
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
8
ngành lâm nghiệp (qui hoạch, trồng và khai thác gỗ công nghiệp), chăn nuôi và du lịch (cột cờ Lũng Cú, chợ tình Khâu Vai.v.v), thương mại (khai thác khu cửa khẩu quốc tế Thanh Thuỷ) .v.v.
Các khuyến nghị cụ thể: 1. Tỉnh tiếp tục triển khai các hoạt động XĐGN với qui mô như hiện nay – ưu tiên
vùng sâu vùng xa, chú ý kết hợp các nguồn lực và nâng cao tính năng động của địa phương; hỗ trợ xây dựng và khuyến khích các mô hình làm ăn/XĐGN giỏi; chuyển đổi/đa dạng hoá cơ cấu cây trồng, vật nuôi; sản xuất thực phẩm sạch; giới thiệu các công nghệ bảo quản và chế biến lương thực đơn giản (ngô, hoa quả) cho các hộ đồng bào dân tộc v.v.
2. Tỉnh cần có các chính sách/chiến lược cụ thể nhằm nâng cao tính tích cực tự chủ, giảm bớt tính ỷ lại, thụ động của cán bộ và người dân địa phương, đặc biệt ở những vùng sâu/vùng xa. Coi chiến lược đầu tư, qui hoạch và sử dụng cán bộ người dân tộc là một trọng tâm chiến lược quan trọng và lâu dài. Quan tâm bồi dưỡng về số lượng và năng lực cho cán bộ cấp xã và thôn. Tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm công tác luân chuyển cán bộ và sử dụng cán bộ tăng cường.
3. Cần quan tâm đầy đủ đến tính bền vững của công tác XĐGN và phát triển của Hà
Giang, giảm bớt sự lệ thuộc vào hỗ trợ từ trung ương và bên ngoài, tăng cường phát huy nội lực và xây dựng năng lực. Tỉnh nên tổ chức đánh giá các sáng kiến, mô hình XĐGN hay để rút ra được những kinh nghiệm và bài học cần thiết, tránh bệnh thành tích .
4. Tiếp tục đầu tư hoàn thiện các công trình hạ tầng cơ sở (đường giao thông, điện,
điện thoại, phủ sóng truyền hình v.v.) cho các vùng sâu, vùng xa. Xây dựng các giải pháp duy tu bảo dưỡng để các công trình HTCS phát huy được hiệu quả lâu dài.
5. Về y tế tỉnh cần có kế hoạch đào tạo cán bộ địa phương (bác sỹ, y sỹ, y tá) nhằm
bảo đảm tính bền vững của ngành y tế. Tiếp tục áp dụng chế đọ khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, người dân vùng khó khăn. Học hỏi kinh nghiệm các tỉnh đã triển khai Quyết định 139 để lường trước và xử lý được những phát sinh/khó khăn.
6. Về giáo dục: tiếp tục những hỗ trợ hiện nay đối với người nghèo, người dân tộc
vùng sâu vùng xa và con em họ (học miễn phí và hỗ trợ đồ dùng học tập). Trong giáo dục nên coi trọng chất lượng, hiệu quả, tránh bệnh hình thức thi đua. Mở thêm trường nội trú, tăng khả năng tiếp nhận học sinh; cải tiến nội dung đào tạo bảo đảm có chất lượng, chuyên sâu về nội dung để các em trở thành nguồn cán bộ kế cận có năng lực. Quan tâm đến công tác giáo dục cho người lớn tuổi (trên 25 tuổi) thông qua giáo dục phi chính quy, áp dụng mô hình REFLECT cho xoá mù. Xem xét khả năng dạy và học bằng tiếng dân tộc.
7. Về khuyến nông: tiếp tục củng cố và hoàn thiện các hệ thống KN/KL/TY, đặc biệt
là nâng cao chất lượng và bổ sung đội ngũ cán bộ cơ sở, bổ sung cán bộ KN/TY cho những bản chưa có. Triển khai Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ đưa
Tổng quan
9
các nhà khoa học vào công cuộc phát triển kinh tế và XĐGN: cung cấp trực tiếp các thông tin về thị trường giúp người dân biết trồng cây gì, nuôi con gì; cải thiện việc cung cấp vật tư nông nghiệp tới người nông dân; cải thiện chất lượng và hiệu quả bộ giống cây trồng/vật nuôi; giúp bà con khắc phục những khó khăn khi áp dụng bộ giống mới. Tiếp tục trợ giá giống và phân bón, hướng dẫn phòng chống sâu bệnh, hướng dẫn nông dân bảo quản sản phẩm sau thu hoạch... Qui hoạch và hướng dẫn/khuyến khích người dân đầu tư vào lâm nghiệp, tăng giá trị của rừng. Hỗ trợ đồng bào HMông phát triển chăn nuôi (bò, dê) để nâng cao thu nhập của họ.
8. Về trợ cấp xã hội cần cải thiện khâu thông tin giữa huyện và xã, giữa xã và thôn
để cập nhật danh sách người hưởng lợi. Xem xét việc lập quỹ cứu trợ cấp xã hoặc thôn giao cho Hội chữ thập đỏ hay MTTQ quản lý, UBND xã giám sát. Sửa đổi chính sách để chương trình hỗ trợ khẩn cấp cũng ưu tiên các hộ nghèo.
9. Về môi trường: Thể chế hoá các chủ chương, chính sách, luật pháp về bảo vệ môi
trường thành các chương trình hành động cụ thể và phù hợp với điều kiện của từng vùng. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, huy động các nguồn lực để bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát việc tuân thủ luật pháp và các qui định về môi trường. Tiếp tục tăng cường nhận thức của cán bộ và người dân trong việc bảo vệ môi trường; xử lý thật nghiêm các vụ vi phạm (khai thác gỗ trái phép, làm ô nhiễm nguồn nước...); tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ giống cây để dân có điều kiện trồng rừng (ví dụ: chương trình trồng 3 vạn cây sa mộc); lồng ghép các chương trình để đảm bảo phát triển kinh tế kết hợp bảo vệ môi trường và giải quyết vấn đề xã hội.
10. Tiếp tục triển khai chương trình định canh định cư do Ban định canh định cư tỉnh
và các cấp chịu trách nhiệm. Cần triển khai một cách khoa học, thận trọng, có sự tham gia cao của chính quyền và người dân nơi đi cũng như nơi đến, vừa làm vừa rút kinh nghiệm tránh bệnh thành tích; phát huy những mô hình hay trong tỉnh, học tập những kinh nghiệm của tỉnh bạn; kết hợp qui hoạch địa bàn với qui tụ dân cư; tranh thủ sự hỗ trợ của trung ương và quốc tế.
11. Có các giải pháp hữu hiệu và hợp lý để giúp đỡ các cộng đồng khó khăn nhất hội
nhập với cộng đồng phát triển hơn – Xoá đói về thông tin bằng cách đổi mới và đa dạng hoá phương pháp truyền thông và loại hình thông tin (Ví dụ: kết hợp sử dụng tờ rơi, tranh, ảnh, công nghệ thông tin v.v. với các cuộc họp/họp nhóm), giúp họ tăng sự tiếp cận tới các phương tiện thông tin đại chúng (điện thoại, đài, TV, phim ảnh, sinh hoạt văn hoá), kết hợp tuyên truyền vận động với các biện pháp hành chính, yêu cầu cán bộ đảng viên đi trước làm gương, tuyên truyền sâu rộng trong thanh thiếu niên v.v.
12. Coi việc nâng cao vị trí của người phụ nữ là một công tác quan trọng không chỉ
của HPN mà của các cấp chính quyền và đoàn thể. Tổ chức tập huấn về giới cho cán bộ lãnh đạo chính quyền và tất cả các ban ngành đoàn thể; bồi dưỡng cán bộ nữ có năng lực vào các cương vị lãnh đạo các cấp, đặc biệt là cấp xã/thôn.
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
10
Hiểu biết về Nghèo
Xu thế:
Tuyệt đại đa số các đối tượng phỏng vấn, kể cả các hộ nghèo, trả lời rằng trong 5 năm vừa qua cuộc sống của họ đã thay đổi theo hướng tích cực. Số hộ khá và trung bình tăng, số hộ nghèo đói giảm rõ rệt ở mọi cấp ‐ tỉnh, huyện, xã, thôn bản. Các bảng dưới đây minh hoạ xu thế phát triển tích cực của Hà Giang trong XĐGN. Bảng 1.1 cho ta thấy tốc độ giảm nghèo của Hà Giang là khá nhanh, đặc biệt trong giai đoạn từ 2000 đến nay.
Bảng 1.1 Sự thay đổ về tỉ lệ hộ nghèo đói ở Hà Giang (báo cáo của chính quyền):
Năm 1996 1998 2000 2001 2002
Tỉ lệ hộ nghèo (%) 35,07 28,03 20,00 25,7 18
(Nguồn: Báo cáo tổng kết 1996‐2000 và Báo cáo 2002 của Ban chỉ đạo XĐGN Hà Giang)
Bảng 1.2 Sự thay đổ về tỉ lệ hộ nghèo đói ở Hà Giang (đánh giá của người dân theo cấp thôn bản):
1998 (%) 2003 (%) 5 năm sau (%) Nhóm/thôn
bản/năm Hộ nghèo đói Hộ khá Hộ nghèo
đói Hộ khá Hộ nghèo đói Hộ khá
Nhóm nữ thôn Lũng Rầy, xã Thuận Hoà, huyện Vị Xuyên
81,2
9,4
32,4
32,4
Nhóm nữ thôn Hoà Bắc, xã Thuận Hoà, huyện Vị Xuyên
63,16
5,3
23,4
19
Nhóm nam thôn Chất Tiền, xã Cao Bồ, huyện Vị Xuyên
32
6
21
31
Nhóm nam thôn Thác Tậu, xã Cao Bồ, Vị Xuyên
86
0
21
28
Nhóm nam thôn Tả Lủng A, xã Sảng Tủng, huyện Đồng Văn
70,9
10,9
40,58
34,78
Nhóm nam thôn Lùng Thàng, xã Sảng Tủng, huyện Đồng Văn
92
0
39,28
7,14
Nhóm nam thôn Tả Lủng Chứ, xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn
75,86
10,34
51,02
18,37
Nhóm nam thôn Nhèo Lủng, xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn
89,47
7,9
54,35
13,04
21,43
16,07
(Nguồn: Biên bản phỏng vấn các nhóm) Qua đánh giá của người dân trong bảng 1.2, ta thấy tốc độ XĐGN trong giai đoạn 1998‐2003 là khá cao, đặc biệt là ở những địa phương nghèo hơn. Có thể là do tác động của chủ trương “9 chương trình và 7 dự án” của tỉnh. Mặt khác, tốc độ XĐGN
Hiểu biết về Nghèo
11
của nhóm đồng bào HMông ở Đồng Văn, tuy khả quan, nhưng vẫn chậm hơn so với nhóm đồng bào dân tộc Tày và Dao. Điều này có thể liên quan đến sự nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên (đất đai và nước) của môi trường, khả năng hạn chế trong nắm bắt cơ hội/tận dụng các chương trình XĐGN của đồng bào HMông.
Bảng 1.3 Xu thế phát triển (Nhóm nam nghèo thôn Tả Lủng Chứ, xã Thài Phìn Tủng)
Loại hộ/thời gian 1998 2003
Khá 3 9
Trung bình 4 15
Nghèo 5 13
Đói 17 12
Tổng cộng 29 49
Bảng 1.3 cho thấy xu thế đi lên là rõ ràng, đặc biệt trong nhóm hộ khá và trung bình. Tuy nhiên, số hộ có cuộc sống ít được cải thiện hay xấu đi vẫn còn đáng kể trong nhóm hộ đói. Đa số người được phỏng vấn cũng nói là họ tin rằng cuộc sống của họ sẽ tiếp tục được cải thiện theo 2 mục tiêu nêu trong bản CPRGS.
Bảng 1.4 Tổng hợp ý kiến về 2 mục tiêu của bản CPRGS
Mục tiêu Giải pháp
Giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%
• Nhà nước tiếp tục các chính sách đầu tư , hỗ trợ về hạ tầng cơ sở (nâng cấp đường tới TT xã, làm thêm cầu, cống), giống, phân bón, cho vay vốn ưu đãi.
• Đào tạo nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở. • Tiếp tục hỗ trợ về giáo dục, y tế (học và khám chữa bệnh miễn phí) • Đưa điện lưới quốc gia về tới các thôn bản, phủ sóng TV các vùng sâu vùng
xa • Triển khai tốt các chương trình XĐGN của tỉnh (nuôi bò, dê) và nghị quyết
của HĐND tỉnh • Trợ giá nhiều hơn giống ngô, phân bón cho đồng bào HMông
Tăng gấp đôi thu nhập
• Trang bị kiến thức KHKT (giống cây con mới) cho bà con • Tăng diện tích trồng cây lương thực • Phát triển chăn nuôi (bò, dê), hỗ trợ trồng cỏ • Đa dạng hoá sx, chuyển đổi cơ cấu cây trồng/vật nuôi • Xây dựng mô hình làm ăn giỏi, giúp địa phương có hướng đi đúng • Qui hoạch tạo vùng sx hàng hoá, cây CN (chè, đậu tương..) • Giúp người dân tiêu thụ sản phẩm, cung cấp thông tin về thị trường • Mở các dịch vụ vật tư NN tại xã • Được vay vốn không lãi
Qua bảng 1.4 ta thấy để đạt được 2 mục tiêu trên, các yêu cầu quan trọng là [địa phương, và người dân] tiếp tục được cấp trên [trung ương, quốc tế và tỉnh] hỗ trợ, đồng thời đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ cơ sở, xây dựng CSHT và phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Về việc giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10% vào năm 2005, đa số nhóm cán bộ được hỏi ý kiến cho rằng mục tiêu này có tính khả thi, nhưng nhóm cán bộ và người dân các địa phương nghèo nói khó đạt mục tiêu tăng gấp đôi thu nhập. Cán bộ HMông nói họ chỉ tăng thu nhập thêm 30‐50% do kinh tế chủ yếu dựa vào cây ngô giá trị thấp, thiếu đất đai trồng trọt, đầu tư vào giống và phân bón cao.
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
12
Những kết quả đạt được hiện nay chủ yếu do sự hỗ trợ của trung ương và tỉnh thông qua các chính sách/dự án. Có cán bộ cơ sở phát biểu: “nếu cấp trên cắt sự hỗ trợ hiện nay thì số hộ nghèo ở địa phương chắc sẽ tăng lên nhiều.” Điều này đặt câu hỏi cho tính bền vững của sự cải thiện. Nếu sự cải thiện là do chính quyền địa phương và người dân huy động nội lực cùng một ít sự giúp đỡ từ bên ngoài, thì nó sẽ rất bền vững. Nhưng nếu nó xảy ra chủ yếu nhờ sự giúp đỡ từ bên ngoài thì tính bền vững sẽ giảm đi nhiều.
Biểu hiện:
Qua phỏng vấn, các biểu hiện sau được tất cả các nhóm nêu lên: Cơ sở hạ tầng được cải thiện cơ bản: 100% các xã có đường ô tô vào đến trung tâm, nhiều thôn có đường ô tô tạo điều kiện cho bà con giao lưu với bên ngoài; hàng trăm km kênh mương bê tông được xây dựng cải thiện cơ bản tình hình tưới tiêu, tăng vụ (ở những vùng trồng lúa), hàng trăm trường học, trạm y tế, trụ sở UBND mới được xây khang trang 2 tầng, nhiều nơi có điện lưới quốc gia.v.v.
Theo Báo cáo 2002 của UBND tỉnh đến cuối 2002 Hà Giang đã xây được:
• 114 trụ sở UBND xã 2 tầng; • 890 trụ sở thôn/bản; • 90 trạm xá 2 tầng; • 285 trường học 2 tầng; 890 điểm trường thôn/bản; 66 nhà lưu trú cho giáo viên
và học sinh; • 360,7 km đường bê tông nông thôn; • 565,6 km kênh mương bê tông; • điện lưới quốc gia đã về tới 140/191 xã phường, 45% dân được sử dụng điện
lưới. Sản xuất phát triển: năng suất cây trồng (như lúa, ngô) tăng hơn so với trước, dân có nhiều lương thực để ăn; chăn nuôi được nhiều gia súc, gia cầm hơn trước, thu nhập từ cây ăn quả (xoài, nhãn, mận...), từ cây công nghiệp (chè, lạc, đậu tương.v.v.) tăng lên. Thu nhập bình quân tính theo đầu người đạt 2,14 triệu đồng (năm 2000 là 1,75 triệu và năm 1996 là 946.000đồng). Bình quân lương thực theo đầu người của Hà Giang đã tăng từ 274 kg năm 1998 lên 350 kg năm 2002 (Báo cáo 2002 của UBND tỉnh). Điều kiện sinh hoạt của người dân được cải thiện: nhà cửa khang trang hơn (mái lợp ngói, sàn và tường bằng gỗ...); có thêm tài sản/tiện nghi đắt tiền như xe máy, TV, máy xay sát; các hộ nghèo được nhà nước hỗ trợ tấm lợp fibro xi măng, địa phương hỗ trợ khung nhà nên điều kiện ở của họ đã được cải thiện đáng kể; phụ nữ và trẻ em mặc đẹp hơn; chất lượng bữa ăn được cải thiện (ăn no hơn và ngon hơn); nhiều hộ nghèo được hỗ trợ xây bể nước ăn ... Tỉnh đã đầu tư trên 40 tỷ đồng xây dựng 19 công trình cấp nước, lắp đặt 166km đường ống dẫn nước các loại và xây 27.195 bể chứa nước ăn cho các hộ gia đình. (Báo cáo của Sở KH&ĐT về tình hình KT‐XH và XĐGN của Hà Giang từ khi đổi mới đến nay, 3/2003). Ngoài ra, tỉnh còn huy động các nguồn lực hỗ trợ 31.000 hộ nghèo xoá được nhà tạm, hỗ trợ tấm lợp cho 26.025 hộ (Báo cáo của Sở LĐTB&XH).
Hiểu biết về Nghèo
13
Trình độ của người dân được nâng cao: đời sống văn hoá tinh thần của người dân, kể cả người nghèo, được nâng cao hơn trước (họ được xem TV, nghe đài, được nghe cán bộ thôn phổ biến các kiến thức KHKT mới), phụ nữ đẻ ít hơn, trẻ em được chăm sóc tốt hơn... Tình trạng các hộ nghèo chỉ có 1‐2 con ở Hà Giang là khá phổ biến, kể cả đối với các hộ người Dao và HMông. Các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục và y tế được cải thiện rõ ràng về cả số lượng và chất lượng: tỉ lệ trẻ được đi học tăng cao (trong độ tuổi 6‐14 là trên 96%), tỉ lệ người mù chữ giảm; sức khoẻ của người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em khá hơn do được hưởng chế độ khám chữa bệnh miễn phí, do tuyên truyền về chăm sóc sức khoẻ và KHHGĐ... Các xã vùng cao nghèo (như Sảng Tủng và Thài Phìn Tủng) trước kia có tỉ lệ mù chữ rất cao (có xã chỉ có ông Chủ tịch HĐND biết chữ) nay đang phấn đấu phổ cập cấp 1, các xã vùng thấp thuận lợi (như Thuận Hoà và Cao Bồ) đang phấn đấu phổ cập cấp 2. Người dân mỗi khi đau ốm/sinh nở ra trạm y tế xã khám lấy thuốc, nếu bệnh nặng hơn thì đi bệnh viện tuyến trên được chữa bệnh miễn phí. Công tác tuyên truyền DSKHHGĐ được đẩy mạnh, tỉ lệ tăng dân số giảm (năm 2002 là 1,8%); hầu như không còn bệnh sốt rét. Tệ nạn xã hội giảm: cán bộ và người dân địa phương ở những nơi nhóm nghiên cứu đến đều phản ánh tệ nạn xã hội như trộm cắp, trồng cây và hút thuốc phiện, mại dâm, tiêm chích ma tuý, nhiễm HIV/AIDS hầu như không có, chỉ có tình trạng uống rượu là vẫn còn phổ biến. Đời sống của phụ nữ cũng được cải thiện: trình độ, nhận thức về KHKT (do được đi học, đi tập huấn hay tham gia trồng các giống cây mới, nuôi con mới), sức khoẻ tốt hơn, đẻ ít hơn, ăn mặc đẹp hơn, nhiều phụ nữ đã bắt đầu tham gia nhiều hơn vào các sinh hoạt cộng đồng, nam giới nói phụ nữ được đối xử bình đẳng hơn (ít bị chồng đánh khi say rượu). Phụ nữ HMông không phải thức đêm xay ngô do đã có điện và máy xay xát... Hội phụ nữ được đánh giá là tổ chức quần chúng hoạt động khá tốt ở cơ sở, tuy nhiên còn sinh hoạt chưa đều đặn (có nơi chị em nói 1 tháng 1 lần, có nơi 2 hoặc hơn 2 tháng 1 lần) ... Phụ nữ vẫn là lao động chính trong gia đình, họ là người thức dậy đầu tiên và đi ngủ sau cùng, làm tất cả công việc trong nhà và sản xuất. Tỉ lệ phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trên 35 tuổi, bị mù chữ hay tái mù còn cao (ở những vùng thuần đồng bào Dao hay HMông có thể lên tới trên 50%). Vẫn còn tình trạng tảo hôn làm các em gái phải bỏ học và sớm lo việc gia đình. Tỉ lệ phụ nữ tham gia chính quyền còn rất thấp, tại 4 xã đoàn đến làm việc không xã nào có cán bộ phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp xã và thôn.
Nguyên nhân:
Những nguyên nhân sau được các nhóm cho là đã mang lại sự thay đổi trong cuộc sống của địa phương và người dân Hà Giang: Sự trợ giúp của nhà nước (trung ương và địa phương) và quốc tế thông qua các chủ trương chính sách hỗ trợ người nghèo, các dự án/chương trình được triển khai như: Xây dựng cơ sở hạ tầng (CT 135, Giao thông nông thôn, HPM); Tập huấn, tuyên truyền KHKT; Trợ giá giống cây/con; Hỗ trợ hộ nghèo nuôi dê; Cho vay vốn ưu
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
14
đãi/hỗ trợ lãi suất; Hỗ trợ xây bể nước ăn, tấm fibrô xi măng lợp nhà, xoá bỏ nhà tạm; Đầu tư vào giáo dục và y tế; Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở ... Các quan chức cấp tỉnh và huyện cho biết các chương trình phát triển KT‐XH và XĐGN của trung ương và tỉnh đã mang lại những kết quả rõ rệt – Hà Giang đang áp dụng “9 chính sách và 7 dự án” (xem Phụ lục 4) – các chương trình 135, 661 và HPM, UNICEF, SIDA... Tỉnh có nhiều sáng kiến được đưa ra và được hưởng ứng như giúp hộ nghèo “1 mái nhà, 1 bể nước, 1 con bò”; vận động các cơ quan, tổ chức và cá nhân trongtỉnh đỡ đầu các địa phương hay cá nhân nghèo; Chương trình trợ giá hạt giống và phân bón; hỗ trợ lãi suất vốn vay nuôi bò/trâu mua máy móc nông nghiệp; Chương trình làm giao thông nông thôn, xoá nhà tạm, giúp mỗi hộ nghèo vay vốn nuôi 2 con dê v.v. Tuyệt đại đa số cán bộ và người dân được phỏng vấn (trừ 1 nhóm) trả lời là các chương trình XĐGN của nhà nước đã giúp người dân được rất nhiều. Họ đặc biệt đánh giá cao những hỗ trợ về giống, tín dụng ưu đãi và chương trình xây bể nước ăn. Về y tế, chương trình DSKHHGĐ cũng được thường xuyên nhắc tới như một yếu tố làm cải thiện cuộc sống, đặc biệt là của phụ nữ.
Bảng 1.5 Sự hỗ trợ của Nhà nước ở tỉnh Hà Giang
Nguồn vốn: các DA 327, 661, 135, Định canh định cư, Chương trình 06, CT Hỗ trợ đồng bào đặc biệt khó khăn, Chương trình mục tiêu Giáo dục và Y tế, văn hoá thông tin và nội lực của tỉnh, đầu tư của người dân ... Về trồng trọt (trung bình hàng năm tỉnh dành 15‐17 tỷ đồng):
• Đầu tư hỗ trợ 70% giá giống lúa, giống ngô có năng suất cao cho đồng bào các xã vùng cao và xã khó khăn của vùng thấp, các xã còn lại của vùng thấp được hỗ trợ 50% giá.
• Hộ nghèo, hộ đói được cấp cho không 5kg giống lúa/ngô có năng suất cao và 20kg phân đạm/vụ
• Hỗ trợ từ 30‐50% giá giống các loại cây ăn quả (xoài, lê, cam, quít v.v.) cho đồng bào phát triển cây ăn quả
• Hỗ trợ 100% lãi suất vốn vay ngân hàng cho dân vay vốn trồng chè • Hỗ trợ 5 triệu đ/ha cho đồng bào mở rộng diện tích cấy lúa và 2 triệu đ/ha để
chuyển đất nương thành ruộng lúa (diện tích gieo trồng tăng hàng năm 300‐700 ha)
• Bỗ trí mỗi xã 1 CBKN để hướng dẫn bà con đưa tiến bộ KHKT vào đời sồng (tỉnh trả 300.000đ/tháng cho mỗi CBKN)
• Hình thành các vùng cây CN, cây ăn quả: diện tích trồng đậu tương năm 2002 là 9.226 ha (gấp 2,81 lần so với 1995); diện tích trồng chè 13..332 ha tăng 2,14 lần so với 1995.
Chăn nuôi: • Tỉnh có chính sách hỗ trợ 100% lãi suất vay ngân hàng trong 3 năm để mỗi hộ
nghèo mua được 1 con trâu/bò • Hỗ trợ mỗi hộ nghèo vay vốn ưu đãi nuôi 2 con dê trị giá khoảng 1 triệu đồng • Trợ giá 50% tiền tiêm phòng cho gia sóc
(Nguồn: Báo cáo của Sở KH&ĐT về tình hình KT‐XH và XĐGN cuả Hà Giang từ khi đổi mới đến nay, 3/2003).
Hiểu biết về Nghèo
15
Qua bảng 1.5 ta thấy sự hỗ trợ của nhà nước cho công tác XĐGN ở Hà Giang là rất lớn. Điều này đẩy nhanh tốc độ XĐGN nhưng lại đặt câu hỏi cho sự bền vững của chương trình.
Bảng 1.6 Ngân sách dành cho chương trình XĐGN 2001-02 của tỉnh Hà Giang:
Diễn giải/năm 2001 (tỷ đồng) 2002 (tỷ đồng)
Ngân sách TW 89,828 -
Ngân sách địa phương 33,84 179,891 (???)
Huy động cộng đồng 10,994 377,675 (???)
Hợp tác quốc tế 60,47 2,029
Vốn tín dụng ưu đãi 30,00 17,08
Tổng cộng 225,083 576,675
Hỗ trợ nhà ở cho người nghèo từ NS địa phương, cộng đồng ...
17,895
17,396
Xây dựng CSHT 56,8 72,191
Hỗ trợ giáo dục (dụng cụ học tập) 1,15 8,314
Hỗ trợ KCB miễn phí 2,016 5,789
(Nguồn: Báo cáo giữa kỳ của Ban chỉ đạo XĐGN Hà Giang năm 2003)
Nỗ lực của người dân vươn lên trong cuộc sống cần cù, biết chịu khó làm ăn, có ý thức tiết kiệm và biết tính toán làm ăn; áp dụng kiến thức KHKT, khai khẩn thêm đất trồng trọt, mạnh dạn dám nghĩ dám làm và có sức lao động. Đây là một điểm quan trọng mà các nhóm được phỏng vấn đã nêu lên.
Giàu lên vì có đầu óc và kiến thức làm ăn
Gia đình bác Đinh Văn Ch, 56 tuổi, dân tộc Kinh, thôn Hoà Bắc, xã Thuận Hoà, huyện Vị Xuyên. Bác Ch gốc Phú Thọ cùng gia đình lên đây từ năm 1979. Hiện nay bác sống với vợ, 2 con trai, 1 con gái và 1 con dâu (người Tày). Gia đình bác thuộc loại giàu nhất thôn: Nhà ngói 5 gian, nhà ngang 3 gian, 2 xe máy, TV màu và ăng ten chảo, 5 con trâu, 1 đàn dê, nhiều gà vịt, vườn cây, ao cá và khoảng 2 mẫu ruộng. Hàng năm nhà bác thu trên 2,5 tấn thóc, ngoài ra còn nhiều ngô, tiền bán gia súc v.v Theo bác Ch, thu nhập hiện nay của gia đình gấp 5 lần năm 1999 và tin tưởng đời sống sẽ tiếp tục được cải thiện. Nguyên nhân: do có đầu óc làm ăn, mạnh dạn áp dụng KHKT, trồng giống mới, giống lạ (trồng mía thay vì trồng lúa vì giá trị cao gấp đôi), đẩy mạnh chăn nuôi, làm kinh tế vườn, kết hợp sản xuất với kinh doanh (buôn bán gia súc, nông sản), nắm bắt nhu cầu của thị trường. Bác Ch đánh giá cao sự hỗ trợ của nhà nước và sự nỗ lực của bản thân cho rằng mỗi bên đóng góp 50%.
Công tác thuỷ lợi được cải thiện (kênh mương bê tông) làm tăng diện tích gieo trồng, đủ nước để trồng giống mới (lúa lai, ngô lai...) cho năng suất cao hơn. Công tác thuỷ lợi đặc biệt được bà con những vùng có ruộng trồng lúa nước đánh giá cao (Thuận Hoà, Cao Bồ).
Giao thông nông thôn được cải thiện: từ khi có đường vào trung tâm các xã, việc mua vật tư nông nghiệp (giống, phân bón ...) và bán sản phẩm dễ hơn, bà con đi lại dễ hơn, sử dụng được xe đạp, xe máy, ngựa v.v. Bà con ở những xã xa đường quốc lộ
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
16
như Cao Bồ (Vị Xuyên) và Sảng Tủng (Đồng Văn) đánh giá rất cao yếu tố giao thông. Cán bộ và nhân dân vùng xa đường quốc lộ (xã Thuận Hoà), cũng mong muốn nhà nước hỗ trợ họ làm 1 cây cầu qua sông để việc đi lại được thuận tiện hơn.
Chính sách giao đất giao rừng của nhà nước giúp bà con yên tâm đầu tư làm ăn, giảm tranh chấp trong cộng đồng, đặc biệt là nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, đặc biệt là rừng. ở những nơi được nghiên cứu, 100% bà con đều trả lời đã được nhà nước giao đất từ những năm 1992‐93 và giao rừng từ năm 1999. Người dân ở xã Cao Bồ nói do được cấp rừng nên họ sớm bắt tay vào trồng chè, tạo thu nhập khá cao (người dân ở đây nói dân ở Lùng Tao có đời sống cao nhất do họ có chè thu hoạch để. Phương thức giao rừng là xã giao cho thôn, thôn giao cho hộ dân. Nhìn chung là hợp lý trừ một vài trường hợp hộ ở gần lại được giao rừng xa, các hộ HMông được giao những vùng núi đá rất khó canh tác.
Có điện lưới quốc gia, người dân tiếp cận được thông tin (qua đài, TV), trẻ em không phải học dưới đèn dầu, có điện chạy máy xay sát giúp phụ nữ HMông không phải thức đêm xay ngô...
Năng lực của đội ngũ cán bộ địa phương được nâng cao: công tác khuyến nông, khuyến lâm được làm tốt hơn trước, có đội ngũ KN cấp bản và y tế thôn bản được củng cố và phát huy tác dụng hướng dẫn bà con trồng giống mới, làm mô hình trình diễn, tiêm phòng và chữa chạy gia súc khi có bệnh.
Sự khác biệt về mức độ cải thiện:
Theo địa lý: thị xã Hà Giang là nơi có tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất (2,39%), trong khi Mèo Vạc là huyện nghèo nhất (37,91%) – sự khác biệt về tỉ lệ hộ nghèo giữa hai địa phương này là gần 16 lần !!! Cùng với các huyện nghèo khác (như Đồng Văn, Quản Bạ, Xín Mần) Mèo Vạc nằm trong vùng núi đá cao, điều kiện canh tác khó khăn (không có đất, chỉ có đá tai mèo) lại thường bị thiếu nước về mùa khô, rừng đã bị chặt phá từ lâu, nay chỉ còn rất ít.
Theo dân tộc: tất cả các nhóm được phỏng vấn đánh giá HMông là cộng đồng nghèo nhất (50% hộ nghèo năm 2001). Cán bộ và người dân được phỏng vấn lý giải thích do người HMông thường sống ở vùng núi cao, điều kiện sản xuất khó khăn, cây lương thực chính là cây ngô (nhưng thường không đủ ăn), nguồn thu nhập chính của họ là từ chăn nuôi (bò, dê). Hơn nữa, đây là cộng đồng đóng ít giao tiếp với bên ngoài, bất đồng ngôn ngữ và có nhiều hủ tục lạc hậu như tảo hôn, ma chay tốn kém v.v. Ngược lại, hai cộng đồng dân tộc Tày và Kinh được đánh giá là những cộng đồng năng động và phát triển nhất trong tỉnh (do họ dễ tiếp thu những kiến thức mới, không gặp trở ngại về ngôn ngữ).
Theo nhóm thu nhập: qua phỏng vấn, nhóm có thu nhập cao nhất là các doanh nghiệp tư nhân, cán bộ nhà nước có thu nhập cao và ổn định (cán bộ lãnh đạo cấp từ tỉnh xuống đến huyện, xã, thôn), tiểu thương.v.v., nhóm thu nhập thấp nhất là nông dân. Một thông tin thú vị khác là về nhóm những hộ khá lên nhanh – họ được nêu là những hộ có người làm cán bộ lãnh đạo (từ cấp thôn trở lên), những hộ năng động kết hợp sản xuất và kinh doanh, dám nghĩ dám làm, đầu tư vào những lĩnh vực mới. Tuy nhiên, các nhóm đều nói ở Hà Giang số lượng nhóm hộ này nhỏ.
Hiểu biết về Nghèo
17
Hết nghèo vì có cái chữ và mạnh dạn đổi mới
Hộ anh Đặng Văn L., 42 tuổi, dân tộc Dao, thôn Chất Tiền, xã Cao Bồ, huyện Vị Xuyên. Gia đình anh có 7 khẩu, 2 vợ chồng, 2 đứa con, 1mẹ, 2 vợ chồng cô em út. Trước đây gia đình anh thiếu ăn 2 tháng mỗi năm, khi thiếu ăn phải đi vay của hàng xóm hay đi làm thuê để mua gạo ăn. Nhưng 3 năm lại đây, đời sống gia đình anh đã khá hơn: đủ ăn, sắm được máy xay lúa, xe máy. Nguyên nhân do nhà nước hỗ trợ làm kênh mương nên trồng lúa được 2 vụ năng suất lúa cao. Ngoài ra, do anh biết chữ nên khi nhà nước đưa các tiến bộ KHKT vào anh nghe cán bộ mạnh dạn đầu tư vào làm giống lúa lai năng suất cao, biết xen canh, xen vụ, trồng được sắn ăn, tiết kiệm gạo để đi bán lấy tiền vào đầu tư trồng chè có thêm thu nhập. Từ khi nhà nước đầu tư làm đường giao thông đi lại thuận tiện giao lưu trao đổi được hàng hoá. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục, anh nói: “con cái được đi học biết chữ giúp đỡ được bố mẹ khi thu hoạch chè mang đi bán không bị bọn buôn nó lừa. Vì thế mà phải cho chúng nó đi học để sau này còn biết tính toán làm ăn...”
Qua quan sát, nhóm nghiên cứu thấy có sự khác biệt khá rõ rệt trong cải thiện cuộc sống tinh thần giữa người dân vùng thấp, đô thị với người dân vùng cao vùng sâu, vùng xa. Vẫn còn tình trạng đói thông tin trong một số cộng đồng dân tộc HMông ở vùng cao, xa, ít được tiếp cận với bên ngoài, ngôn ngữ bất đồng, không xem được TV, trình độ và năng lực của cán bộ địa phương còn quá yếu, v.v. Những nhóm được phỏng vấn cũng phản ánh còn một bộ phận nhỏ người dân có cuộc sống không được cải thiện, thậm chí còn đi xuống. Các ý kiến đánh giá là tương đối đồng nhất giữa các nhóm được phỏng vấn về những yếu tố làm người dân bị rơi vào vòng nghèo và những loại dân cư nào dễ bị tổn thương trong cuộc sống:
• Cháy nhà • Thiên tai, dịch bệnh • Người nhà bị ốm nặng • Gia súc bị chết
Nhóm phụ nữ bổ sung thêm yếu tố trụ cột trong nhà bị chết. Điều này cho thấy sự vất vả của những gia đình chỉ có nữ hay nam làm chủ hộ, đặc biệt là phụ nữ.
Khi gặp rủi ro, bà con phản ánh các hộ thường chọn các giải pháp khắc phục như sau:
• Báo cáo cho trưởng thôn, sau đó trưởng thôn báo cáo lên xã yêu cầu giúp đỡ • Họ hàng, hàng xóm giúp đỡ “là lành đùm lá rách” • Bán tài sản
Nhóm phụ nữ bổ sung các giải pháp đi làm thuê (tiền công trung bình 10‐15.000đ/ngày), kiếm củi đem bán và phụ nữ giúp đỡ nhau. Theo ý kiến chung của các nhóm cán bộ, nhóm hộ lên ít là người HMông do họ là cộng đồng sống khép kín ở vùng cao, điều kiện sản xuất khó khăn (thiếu đất trồng trọt hay đất xấu, xa nguồn nước, dù đầu tư cao nhưng năng suất thấp, thu nhập thấp), ít người biết tiếng phổ thông, trình độ văn hoá thấp, còn nhiều hủ tục lạc hậu (may chay, cưới xin tốn kém...)
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
18
Nghèo đi do rủi ro
Anh Vàng Chung C., 46 tuổi, dân tộc HMông, thôn Nhèo Lủng, xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn có vợ là Giàng Thị C., 46 tuổi và 2 con gái, 1 cháu học lớp 2. Họ sống trong một ngôi nhà 3 gian lợp tranh, trình tường. Trước kia, gia đình anh thuộc loại trung bình, nay thuộc loại nghèo. Nguyên nhân do gặp rủi ro trong chăn nuôi (chết 2 con bò trị giá 5 triệu đồng). Một nguyên nhân nữa là thiếu lao động (vợ anh C bị tai nạn lao động ảnh hưởng đến thần kinh, 2 con còn nhỏ), mọi việc trong nhà đều trông vào 1 lao động chính. Mặc dù có đất nhưng mỗi năm gia đình anh chỉ thu được 5‐6 tạ ngô và thường thiếu ăn 2 tháng. Ngoài ra, họ còn bị thiếu nước sinh hoạt. Những giải pháp khắc phục là hái rau bí bán để lấy tiền đong 2‐3 chấy gạo, đi làm thuê một ngày được 12.000đ. Anh mong muốn được nhà nước hỗ trợ giống ngô mới, tấm lợp và cho vay 2,5 triệu đồng để nuôi bò (anh đã vay vốn ưu đãi của nhà nước 1,5 triệu đồng nhưng chưa trả được).
Một nhóm hộ nữa thường được coi là nghèo đi là những hộ mới tách ra ở riêng, đặc biệt những hộ tách ra từ hộ cha mẹ nghèo, không được hưởng tài sản gì đáng kể, thiếu đất trồng trọt hay đất xấu, thiếu kiến thức làm ăn...
Sự khác biệt về quan điểm:
Điều dễ nhận thấy là các nhóm được phỏng vấn đều nêu khá giống nhau và đầy đủ các biểu hiện của cuộc sống được cải thiện (hay đi xuống) cùng những nguyên nhân của chúng, chỉ có sự khác nhau về thứ tự. Nhóm cán bộ lãnh đạo từ cấp tỉnh xuống đến xã coi những cải thiện về chính sách và cơ sở hạ tầng là quan trọng nhất, trong khi các nhóm cán bộ thôn và người dân quan tâm nhiều hơn đến những sự cải thiện liên quan đến sản xuất, nhà cửa, nhu cầu sinh hoạt (ăn, mặc, văn hoá)... những thứ tác động trực tiếp đến cuộc sống của họ. Ý kiến về nguyên nhân của sự cải thiện giữa cán bộ các cấp (từ tỉnh đến thôn) và người dân cũng có sự khác biệt ‐ cán bộ nhấn mạnh yếu tố cơ sở hạ tầng và chính sách, còn người dân chú ý nhiều hơn đến sự nỗ lực của bản thân họ. Tất nhiên, cả hai nhóm đều nhấn mạnh sự giúp đỡ của nhà nước.
Bảng 1.7 Sự khác biệt giữa số liệu chính thức về tỉ lệ hộ nghèo do trưởng thôn cung cấp với kết quả phân loại ở đa số các thôn. Tổng hợp đánh giá của trưởng thôn với 2
nhóm nam và nữ do nhóm nghiên cứu thu được:
Thôn (xã, huyện) Tỉ lệ hộ nghèo theo báo cáo (%)
Tỉ lệ hộ nghèo theo bà con đánh giá (%)
Hoà Bắc (Thuận Hoà, Vị Xuyên) 8,5% 24%
Lũng Rầy (Thuận Hoà, Vị Xuyên) 13,51% 32,4%
Thác Tậu (Cao Bồ, Vị Xuyên) 6,5% (2003) 32.6%
Chất Tiền (Cao Bồ, Vị Xuyên) 6,0% (2003) 38.89%
Tả Lủng A (Sảng Tủng, Đồng Văn) 39,4% 23.19%
Lùng Thàng (Sảng Tủng, Đồng Văn) 42,8% 29%
Nhèo Lủng (Thài Phìn Tủng, Đồng Văn) 25,5% 54%
Tả Lủng Chứ (Thài Phìn Tủng, Đồng Văn) 22,4% 73.47%
Hiểu biết về Nghèo
19
Dù sự so sánh là khập khiễng do sử dụng các tiêu chí khác nhau, điều đặc biệt cần lưu tâm ở đây là người dân phản ánh ở tất cả các thôn được khảo sát vẫn còn một số hộ đói (thiếu ăn từ 4‐6 tháng, nhà cửa tạm bợ, không có tài sản gì đáng giá, thường không có trâu bò, năng lực làm ăn kém, đất trồng trọt có nhưng xấu hoặc xa nguồn nước.v.v.).
Sự khác biệt giữa tiêu chuẩn về nghèo của người nghèo và tiêu chuẩn của nhà nước:
Theo những người được phỏng vấn, đặc biệt là cán bộ cơ sở, tiêu chuẩn nghèo của nhà nước chỉ thuần tuý dựa trên thu nhập của mỗi hộ. Đánh giá chính xác điều này đối với các hộ nông dân là một việc rất khó. Tiêu chuẩn đánh giá của người dân thường dựa trên các biểu hiện sau:
• Nhà cửa và tài sản trong nhà • Đất đai (đất ruộng, nương và đất rừng): diện tích và chất lượng đất, vị trí có
gần nguồn nước hay không • Lương thực để ăn • Số gia súc (trâu, bò, dê) • Tài sản do bố mẹ để lại • Năng lực làm kinh tế, trình độ văn hoá • Sức lao động trong gia đình
Cách đánh giá này là tương đối đầy đủ, chính xác và không phụ thuộc vào thời điểm. Tuy nhiên, nó lại mang tính địa phương (thường là cấp thôn bản) nên rất khó tổng hợp trên phạm vi rộng (huyện, tỉnh). Tuy nhiên, theo tác giả cách đánh giá này là hoàn toàn khoa học xét dưới góc độ phân tích xu hướng của nghèo. Xác định hộ nghèo: qua phản ánh của các nhóm dân và cán bộ, huyện và xã xuống thôn đi từng nhà điền vào tờ khai, sau đó trưởng thôn và cán bộ thôn lập danh sách gửi lên xã. Có một vài nhóm nói họp xóm thông qua danh sách hộ nghèo, còn đa số trả lời đây chủ yếu là công việc của cán bộ xã và bản, người dân chỉ được thông qua, ít được tham gia. Theo cán bộ địa phương, các hộ ở nơi khác đến định cư nhưng không đăng ký hộ khẩu thì không được đưa vào danh sách hộ nghèo, không được cấp bìa đỏ và lâm bạ. Những hộ này do vậy bị thiệt thòi nhiều. Điều duy nhất là con em của họ vẫn được đi học như trẻ địa phương. Tuy nhiên, cán bộ xã nói về lâu dài họ sẽ được đăng ký hộ khẩu và được hưởng đầy đủ quyền lợi như người địa phương như trường hợp hàng trăm hộ người HMông từ Quản Bạ và Yên Minh về định cư tại xã Thuận Hoà từ năm 1979 nay đã được hợp thức hoá (được nhập hộ khẩu và cấp đất). Những người nghèo được phỏng vấn trả lời họ biết được quyền lợi của mình qua cán bộ thôn phổ biến, nghe qua đài hay xem TV. Nam giới biết rõ hơn phụ nữ (do họ hay đi họp thôn hơn??). Theo họ, hộ nghèo được hưởng những quyền lợi như được trợ giá giống lúa (50%), hỗ trợ tấm lợp (70 tấm/hộ), xây bể nước ăn, vay vốn ưu đãi để nuôi trâu/bò và gần đây là nuôi dê, được khám chữa bệnh miễn phí, không phải đóng gì cho việc học hành của con cái v.v Nhìn chung, hộ nghèo được hưởng nhiều ưu đãi hơn hộ không nghèo. Tuy nhiên, do chính sách ưu đãi vùng đặc biệt khó khăn (vùng
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
20
3) áp dụng chung cho tất cả các loại hộ nên các hộ không nghèo cũng được hưởng nhiều quyền lợi: trợ giá giống lúa (30%), khám chữa bệnh miễn phí, xây bể nước, vay vốn ưu đãi v.v.
“Cần hỗ trợ cả người nghèo và người khá vì người nghèo hiểu biết không bằng người khá, còn người khá làm để người nghèo học theo.” (Chủ tịch xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn)
Về bảo quản sản phẩm nông nghiệp, bà con dân tộc Dao và HMông lo lắng về việc ngô lai thu hoạch về để trong nhà (theo phương pháp bảo quản truyền thống) sau mấy tháng là bị mọt hết. Ngược lại, các hộ người Kinh có kinh nghiệm bảo quản (đem tách hạt và phơi dưới nắng 2‐3 lần, sau đó có thể để cả năm). Điều này đặt nhu cầu cần phải giúp các hộ dân các phương pháp bảo quản lương thực sau thu hoạch đơn giản và hiệu quả. Công tác quản lý ruộng đất: theo cán bộ và người dân được phỏng vấn, tỉnh Hà Giang triển khai công tác giao đất giao rừng cho người dân khá sớm ‐ từ năm 1992. Đến năm 1996 hoàn thành giao đất và năm 1999 hoàn thành giao rừng cho dân. Người dân được cấp sổ đỏ và lâm bạ, do vậy họ yên tâm đầu tư vào sản xuất, bảo vệ rừng. Họ nhấn mạnh việc giao đất giao rừng này đặc biệt có ý nghĩa trong việc bảo vệ môi trường. Bà con phản ảnh họ đã chấm dứt tình trạng phá rừng làm nương, tăng tỉ lệ che phủ của rừng lên 39%. Bà con ở xã Cao Bồ nói do được giao đất giao rừng nên bà con đã trồng chè cho thu nhập cao (lúc được giá tới 2000đ/kg, nhưng hiện nay chỉ được 1300‐1500đ/kg). Bà con HMông nói họ tận dụng đất rừng để phát triển chăn nuôi bò và dê. Hiện nay, nhiều tỉnh trong nước đang tiến hành công tác dồn điền đổi thửa, nhưng ở những nơi nhóm nghiên cứu đến làm việc thì không có hoạt động này.
Khuyến nghị:
1. Tỉnh tiếp tục triển khai các hoạt động XĐGN với qui mô như hiện nay – ưu tiên vùng sâu vùng xa, chú ý huy động các nguồn lực và nâng cao tính năng động của địa phương;
2. Hỗ trợ xây dựng và khuyến khích các mô hình làm ăn/XĐGN giỏi; chuyển đổi/đa dạng hoá cơ cấu cây trồng, vật nuôi; quan tâm đầu tư nghiên cứu thị trường và sản xuất thực phẩm sạch; giới thiệu các công nghệ bảo quản và chế biến lương thực đơn giản cho các hộ gia đình (ngô, lúa) v.v.
3. Cần quan tâm nhiều hơn đến tính bền vững của XĐGN và phát triển của Hà Giang thông qua phát huy nội lực. Tỉnh nên tổ chức đánh giá các sáng kiến, mô hình XĐGN để rút ra được những kinh nghiệm và bài học cần thiết. Cần tránh bệnh thành tích ...
4. Tiếp tục đầu tư hoàn thiện các công trình hạ tầng cơ sở (đường giao thông, cầu cống điện, điện thoại, phủ sóng truyền hình v.v.) cho các vùng sâu, vùng xa. Cần có các giải pháp duy tu bảo dưỡng để các công trình HTCS phát huy được hiệu quả lâu dài.
Sự tham gia vào việc ra Quyết định ở Địa phương và tạo Quyền cho các Hộ nghèo
21
Sự tham gia vào việc ra Quyết định ở Địa phương và tạo Quyền cho các Hộ nghèo
Về việc triển khai Nghị định 29 ở cấp xã tại Hà Giang. Theo Báo cáo năm 2002 của UBND tỉnh, ông chủ tịch UBND tỉnh là trưởng Ban chỉ đạo thực hiện qui chế DCCS và Ban đã tổ chức họp 1 lần năm 2002. Nghị định 29 đã được triển khai ở Hà Giang theo cách thức giống như ở các tỉnh khác là UBND giao cho Mặt trận tổ quốc chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện. ở cấp cơ sở, MTTQ xã giao cho trưởng thôn (hay bí thư) trực tiếp phổ biến trước hết cho cán bộ và đảng viên trong thôn, sau đó phổ biến cho dân bằng cách đọc tài liệu về Nghị định 29 cho dân nghe tại các cuộc họp thôn.
Tại những nơi đoàn đến làm việc không địa phương nào nói có thảo luận về nghị định 29 với người dân. Đa số cán bộ các xã và thôn được phỏng vấn trả lời có biết về NĐ 29, trừ những trường hợp cán bộ mới được bổ nhiệm. Đa số người dân được phỏng vấn, đặc biệt là ở những vùng người dân tộc nghèo, trả lời họ “hình như có nghe trưởng thôn/hay bí thư phổ biến tại cuộc họp thôn, nhưng nghe câu được câu mất.”
Nhiều cán bộ địa phương hiểu sự tham gia của người dân dưới góc độ, được biết thông tin, được tham gia đóng góp tiền của, sức lao động hay vật chất – tức là mới ở dạng “biết và làm” ít được “bàn và kiểm tra.” Những người dân được phỏng vấn nói là họ “chỉ được nghe phổ biến các chủ trương, nghị quyết của cấp trên chứ ít khi được phản hồi lại, trên đã quyết thì dân phải làm theo thôi.” Ví dụ: người dân tham gia đóng góp 30‐40% vào chương trình giao thông nông thôn, chủ yếu bằng công sức; đóng góp gỗ và công sức cho xây dựng các điểm trường v.v.
Cá biệt có trường hợp người dân vẫn phải đóng góp lao động công ích mặc dù đã quá tuổi (xã Thuận Hoà). Người dân phản ảnh chính sách nhà nước là đúng đắn nhưng khi triển khai tại cơ sở thì chưa công bằng (có tình trạng ưu tiên họ hàng cán bộ, làm thất thoát VLXD ...
Về triển khai chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng: UBND tỉnh ngay từ khi có chương trình 135 đã “phân cấp quản lý cho Chủ tịch UBND huyện được quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế kỹ thuật và dự toán và nghiệm thu công trình XD HTCS (công trình dân dụng, dân sinh ≤ 200 triệu đồng; nước sinh hoạt ≤ 100 triệu đồng và thuỷ lợi điện ≤ 50 triệu đồng (Báo cáo thực hiện CT 135 năm 2001 của UBND tỉnh Hà Giang). Qua phỏng vấn, có nhiều ý kiến từ xã là việc triển khai xây dựng các công trình lớn tại xã (như trường học, trụ sở, trạm y tế 2 tầng) chủ yếu là công việc của Ban quản lý huyện và nhà thầu, xã ít được tham gia, mà chỉ được bàn giao công trình.
Cán bộ tỉnh và huyện giải thích là ở một số nơi chưa thể giao cho các xã làm chủ dự án xây dựng hạ tầng cơ sở do họ chưa đủ năng lực chuyên môn để đọc bản vẽ, giám sát và quản lý các dự án này. Nhìn chung, các xã mới được giao làm các công trình đơn giản như xây điểm trường, trụ sở thôn bản, kênh mương bê tông nhỏ v.v. Điều này khẳng định nhu cầu bồi dưỡng năng lực cho cán bộ xã và cán bộ địa phương để trong tương lai gần họ đảm đương nổi những công việc này.
“Nếu nhà nước biết tận dụng sức dân, tạo thu nhập cho người nghèo, tăng hiệu quả công trình thì các dự án làm đường nên đưa về cho xóm làm, người dân làm được mà. Làm gì cũng nên theo ý dân, như vậy thì làm dễ hơn vì khi
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
22
dân nhất trí cao thì họ khắc làm thôi mà.” (nhóm cán bộ thôn Tả Lủng Chứ, xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn)
Cán bộ cơ sở (cấp xã, thôn) cũng hiểu rõ tác dụng của dân chủ cơ sở, rằng nếu người dân được biết được bàn thì cán bộ sẽ tranh thủ được sự đồng tình của dân, người dân sẽ tham gia và đóng góp dễ dàng, thoải mái hơn. Một ví dụ cụ thể là chương trình giao thông nông thôn, tỉnh hỗ trợ 40‐50 triệu đồng và dân đóng góp công sức là làm được 1 km, nhưng nếu qua nhà thầu thì có thể lên tới 300 triệu đồng/km. Ví dụ khác là chương trình xây bể nước: người dân biết rõ là mình được hỗ trợ 700 kg xi măng và 300.000đ để xây 1 bể 4‐6m3, nhưng họ thường tận dụng nguyên liệu rẻ tại chỗ và đầu tư thêm để xây được bể to hơn hoặc 2 bể, điều này giúp chương trình xây bể luôn đạt kế hoạch và người dân có nước sạch dùng quanh năm. Phụ nữ là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất từ chương trình này, nó giúp họ tiết kiệm được thời gian và công sức đi lấy nước, có nước sạch dùng vào mùa khô.
Qua phỏng vấn và quan sát nhóm nghiên cứu thấy thái độ của cán bộ xã với người dân là đúng mực, không có tình trạng hách dịch cửa quyền hay quát tháo dân. Những vấn đề phát sinh thường được giải quyết ở cấp thôn bản (do trưởng thôn và công an thôn làm), nếu không giải quyết được mới đưa lên xã. Cũng có trường hợp dân khiếu kiện vượt cấp lên huyện và tỉnh (liên quan đến đất đai), nhưng ở các xã nơi nhóm nghiên cứu làm việc các vụ việc như vậy nhìn chung đã được giải quyết. Cán bộ xã cũng thường đi các thôn để triển khai hay giám sát việc triển khai các hoạt động. Người dân, đặc biệt là nam giới, phát biểu họ biết được các vị lãnh đạo chủ chốt ở xã, nhưng ít khi gặp trừ khi cán bộ xã về thôn làm việc, khi có đại biểu HĐND về gặp gỡ cử tri, hay dân có việc lên xã (xin chứng nhận vay vốn, giải quyết khiếu kiện tranh chấp v.v.). Phụ nữ một số bản xa trung tâm xã nói họ không biết rõ về cán bộ xã.
Có thể thấy rõ sự khác biệt về năng lực giữa cán bộ các xã thấp với xã vùng cao, giữa cán bộ người Kinh hoặc Tày với cán bộ người Dao và HMông. Trình độ văn hoá của một số cán bộ chủ chốt ở các xã vùng thấp thường là hết cấp 2 trong khi trình độ cán bộ các xã vùng sâu, vùng xa hiện nay mới tới lớp 4 hoặc lớp 5. Có xã cán bộ tăng cường (phó chủ tịch) làm hầu hết mọi việc thay cho chủ tịch UBND, có xã phải nhờ Phòng Tài chính huyện lập giúp kế hoạch và ngân sách. Các cán bộ xã phát biểu họ muốn được bồi dưỡng nhiều hơn về các kỹ năng quản lý nhà nước. Nhiều ý kiến cho rằng tỉnh chỉ nên sử dụng cán bộ tăng cường như một giải pháp tạm thời. Về lâu dài, cần bồi dưỡng và sử dụng cán bộ là người địa phương để bảo đảm sự phát triển bền vững. Đôi khi việc thay đổi cán bộ chủ chốt (Chủ tịch, Phó chủ tịch) cấp huyện và xã nhanh quá (dưới 3 năm) sẽ khiến cho cán bộ chưa kịp phát huy khả năng của mình, tạo ra sự bất ổn cho địa phương (do thiếu sự ổn định và tính kế thừa).
Nhóm nghiên cứu Hà Giang cũng nhận thấy trưởng thôn là cán bộ cấp cơ sở rất quan trọng, nhưng ngay cả ở những xã vùng thấp trình độ của trưởng thôn mới chỉ là lớp 4 hay lớp 5. Trưởng thôn là người cán bộ cơ sở hiểu rõ người dân và được dân biết rõ nhất bởi vì trưởng thôn có rất nhiều trách nhiệm: truyền đạt mọi thông tin (chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách, thông báo...) từ xã xuống dân và từ thôn lên xã; đồng thời triển khai các hoạt động, sinh hoạt ở thôn mình, xử lý phát sinh giữa các hộ dân, thu nộp các khoản đóng góp v.v. Hoạt động chủ yếu là họp thôn, trung bình 1 lần/tháng. Tuy Hà Giang đã có nỗ lực bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thôn bản, nhưng vẫn cần phải tiếp tục làm công việc này, đặc biệt là ở những vùng sâu vùng xa.
Sự tham gia vào việc ra Quyết định ở Địa phương và tạo Quyền cho các Hộ nghèo
23
Bà con mong muốn cán bộ xã sâu sát cơ sở nhiều hơn để lắng nghe tiếng nói của dân, phổ biến thông tin cho dân, để dân được “biết, bàn, làm và kiểm tra” các công trình xây dựng.
Cán bộ cấp xã và huyện phản ánh là họ phải tham dự quá nhiều cuộc họp, nghe phổ biến quá nhiều nghị quyết, chủ trương, thông báo... nên nhiều khi không có thời gian để triển khai nội dung các cuộc họp xuống địa phương mình, cán bộ các vùng sâu vùng xa phải mất rất nhiều thời gian đi lại. Các chủ trương, nghị quyết đều đúng và có ích cho địa phương cũng như người dân, nhưng nếu chúng không được quán triệt và triển khai một cách hợp lý ở cơ sở, thì sẽ không phát huy được tác dụng tích cực của mình. Hậu quả là cơ sở và người dân sẽ chịu thiệt thòi. Đây không phải là tình trạng riêng của Hà Giang, nếu các cấp lãnh đạo có sự điều chỉnh, tạo ra những “điểm nhấn/ưu tiên” hợp lý thì công tác quản lý nhà nước chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Việc lập kế hoạch và ngân sách địa phương về cơ bản do cán bộ tài chính xã và UBND lập, sau đó có hỏi ý kiến Đảng bộ, HĐND xã và thông qua thành nghị quyết để thi hành. Người dân không được tham gia, trừ khi được thông báo/hỏi ý kiến về những khoản đóng góp. Cán bộ thôn có biết về ngân sách và kế hoạch của xã, nhưng sau khi đã được HĐND thông qua. Cán bộ xã nói họ không biết về ngân sách của huyện và tỉnh. Những điều này cho thấy chính quyền các cấp ở Hà Giang cần tham khảo ý kiến của cán bộ cấp dưới và người dân trong quá trình lập kế hoạch và ngân sách, có như vậy mới thu hút được sự tham gia rộng rãi của mọi người, xác định đúng nhu cầu và thu thập được những ý kiến hay để đóng góp vào sự nghiệp phát triển KT‐XH của địa phương.
Phải ghi nhận rằng trong mấy năm qua, Hà Giang đã làm được nhiều việc quan trọng để cải thiện sự giao lưu của người dân thông qua các chương trình giao thông nông thôn, đưa điện quốc gia về các xã. Đối với các xã vùng thấp, có đường giao thông và điện lưới quốc gia, việc giao lưu của bà con là tương đối thuận tiện. Người dân có sự tiếp cận tốt tới các phương tiện truyền thông đại chúng như đài, TV, tiếp cận với thị trường, nhiều người biết tiếng phổ thông, năng lực cán bộ cơ sở vững... Do đó, thông tin từ đảng và nhà nước xuống bà con là khá thuận lợi. Ngược lại, ở những vùng cao vùng sâu và vùng xa, điện và đường chỉ tới trung tâm xã và một vài bản gần đó, TV chưa phủ sóng hoặc bắt được rất yếu, bà con (đặc biệt là những cộng đồng thuần nhất như HMông, Dao) ít người biết tiếng phổ thông, cán bộ phải tuyên truyền bằng tiếng dân tộc, do năng lực hạn chế nên hiệu quả tuyên truyền không cao, người dân ít nắm được hay nắm không vững các chủ trương chính sách của đảng và nhà nước. Kênh thông tin chủ yếu của họ là từ cán bộ thôn, hàng xóm và từ chợ.
Khuyến nghị:
Việc tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở là rất cấp thiết và quan trọng, tỉnh Hà Giang nên quan tâm đầu tư vào lĩnh vực này. Trình độ dân trí của người dân có được cải thiện, nhưng còn chậm so với các tỉnh miền xuôi, sự hiểu biết của người dân về quyền lợi và nghĩa vụ cũng vậy. Nếu tỉnh có các giải pháp giúp người dân nâng cao nhận thức, đặc biệt là tính tự chủ vươn lên làm giàu, học hỏi kiến thức mới, nếp sống văn minh thông qua tăng cường sự tiếp cận của người dân tới các phương tiện truyền thông đại chúng, các cuộc tuyên truyền, vận động v.v. thì sự thay đổi sẽ là rất rõ nét và bền vững.
Việc triển khai và đưa Nghị định 29 và Quyết định 79 vào cuộc sống là cần thiết hy vọng trong thời gian tới tỉnh Hà Giang sẽ quan tâm nhiều hơn tới công tác này.
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
24
Cung cấp các Dịch vụ Cơ bản tới Người nghèo
Giáo dục:
“Bây giờ mà trẻ bỏ học thì nhà trường đến tận nơi vận động ngay bởi vì họ quan tâm lắm đấy.” (Nhóm nam thôn Tả Lủng A, xã Sàng Tủng, huyện Đồng Văn)
Trong 3 năm qua, do được quan tâm đầu tư toàn diện cả về cơ sở vật chất và chế độ chính sách nên ngành giáo dục Hà Giang đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ: tỉ lệ trẻ đến trường trong độ tuổi 6‐14 ở tất cả các vùng năm học 2001‐02 đạt 95,6% (xã vùng thấp như Thuận Hoà là 98,5% trong khi xã vùng cao như Thài Phìn Tủng chỉ khoảng 90%), tỉ lệ trẻ bỏ học giảm rõ rệt, tỉ lệ người mù chữ và tái mù giảm; các xã vùng thấp đang tiến hành phổ cập trung học cơ sở, trong khi một số xã vùng cao khó khăn đang phổ cập tiểu học. Tất cả 191 xã/phường trong tỉnh có trường tiểu học, 135 xã/phường có trường trung học cơ sở. Điều đáng vui mừng là trẻ em nghèo các dân tộc vùng sâu vùng xa được đến trường khá đầy đủ. Một nguyên nhân quan trọng là do tỉnh đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, tăng cường đội ngũ giáo viên và áp dụng chế độ hỗ trợ đặc biệt như miễn phí và trợ giúp sách vở, đồ dùng học tập cho trẻ em nghèo, áp dụng hệ số lương cao cho giáo viên vùng khó khăn là 0,7...).
Bảng 3.1 Đầu tư cho giáo dục (trường học và nhà lưu trú)
Năm 1999 2000 2001 2002
Kinh phí XD (tỷ đồng) 7,125 15,232 3,00
Số kinh phí miễn giảm 2,809 4,007
Số HS được hỗ trợ dụng cụ học tập
79.908 100.230
Số tiền hỗ trợ (tỷ đồng) 1,150 8,314
(Nguồn: Báo cáo của Ban chỉ đạo XĐGN tỉnh năm 2001 và 2003)
Tuy nhiên, số học sinh học lên phổ thông trung học ở các huyện vùng cao vẫn là quá thấp so với các huyện/thị vùng thấp, mặc dù ở đó áp dụng chế độ tuyển thẳng – (thị xã Hà Giang: 2.312 học sinh; huyện Bắc Quang: 4.142 học sinh; huyện Vị Xuyên: 1.336 học sinh; Hoàng Su Phì: 223 học sinh; Đồng Văn: 172 học sinh và Mèo Vạc: 38 học sinh ‐ Niên giám thống kê 2002). Lý do được bà con nêu lên là do trường quá xa nhà, trẻ thường phải đi học nội trú và bố mẹ phải đóng góp tiền nuôi. Có nhóm HMông phản ánh họ phải đóng 1 năm 220kg ngô và 15.000đ/tháng cho mỗi học sinh. Học sinh cấp 3 là đội ngũ cán bộ kế cận tương lai của các huyện vùng cao, nếu số lượng các em quá ít thì đội ngũ này sẽ mỏng và thiếu chất lượng.
“Chỉ tiêu lên lớp của cấp trên ra không thực tế, là quá cao so với trình độ thực tế của học sinh.” (GV trường Sảng Tủng)
Về chất lượng giáo dục, nhóm chưa có điều kiện tìm hiểu kỹ, nhưng cán bộ xã phản ảnh là chưa cao thậm chí giảm do giáo viên không ở lại trường như trước, ngoài ra giáo dục còn mang nặng tính thi đua...ở vùng cao vùng xa thuần 1 dân tộc, việc dạy học là khá khó khăn do dạy bằng tiếng Kinh, trẻ nói chưa thạo còn cô giáo lại chưa
Cung cấp các Dịch vụ Cơ bản tới Người nghèo
25
thạo tiếng dân tộc. Tỉ lệ trẻ, đặc biệt là trẻ em con nhà nghèo, được hưởng giáo dục mầm non vẫn còn rất thấp: số trẻ huy động đến nhà trẻ năm 2001 là 6,2% trong độ tuổi, số trẻ đến lớp mẫu giáo là 46,5% trong độ tuổi (Niên giám thống kê Hà Giang 2002). Nguyên nhân do thiếu giáo viên mầm non trong biên chế, giáo viên dân lập ở các thôn bản ít, địa hình vùng cao vùng sâu phức tạp đi lại khó khăn, khó huy động trẻ đến trường cùng những hạn chế trong tổ chức, quản lý và chính sách chưa chú trọng đến đối tượng này.
Cán bộ cơ sở, đặc biệt là trưởng thôn, nắm tương đối vững tình hình trẻ đi học ở địa phương mình. Mối quan hệ giữa chính quyền và nhà trường được duy trì tương đối tốt và địa phương đã có nhiều hỗ trợ tích cực cho công tác giáo dục (như hỗ trợ xây trường). Tình trạng trẻ bỏ học, tuy đã giảm đáng kể, nhưng vẫn còn, đặc biệt là ở những vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. Địa phương và nhà trường đã tiến hành nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng này.
“Muốn cho con đi học để con biết cái chữ, biết tính toán lắm chứ, nhưng nhà nghèo không biết làm thế nào.” (1 phụ nữ thôn Hoà Bắc)
Qua phỏng vấn, các nguyên nhân trẻ bỏ học hay không học lên cao là:
• Gia đình nghèo, hoàn cảnh khó khăn • Nhà ở phân tán, xa trường • Trẻ em tự ý bỏ học • Trẻ em gái bỏ học do tảo hôn (đã giảm nhưng vẫn còn phổ biến)
Vẫn còn tình trạng trẻ em nghèo bỏ học, Tỉ lệ người lớn bị mù chữ hoặc tái mù chữ, đặc biệt là phụ nữ, còn cao (có nơi trên 50% trong nhóm người trên 35 tuổi). Các lớp xoá mù được mở nhưng bà con phản ánh “lớp xoá mù học trong 1 năm, lúc học xong thì biết đọc biết viết, nhưng một thời gian sau đó chỉ viết được họ và tên.” Ngành giáo dục của tỉnh phân loại đối tượng quan tâm chính thuộc 2 lứa tuổi: 6‐14 và 15‐25. Người dân từ 25 tuổi trở lên không được tính mặc dù họ thường là người chủ gia đình, rất cần được học văn hoá và biết chữ để có kiến thức làm ăn và nuôi dạy con cái. Nhìn chung, những người được phỏng vấn, kể cả người nghèo, nam và nữ đều hiểu được tầm quan trọng của giáo dục và mong muốn cho con em được đi học với điều kiện nhà nước tiếp tục hỗ trợ (giảm đóng góp, hỗ trợ sách vở v.v.). Vai trò của Ban Phụ huynh học sinh cũng như ở các tỉnh khác là hỗ trợ nhà trường trong công tác quản lý học sinh, xây dựng và kiến thiến nhà trường. Tại các xã được nghiên cứu, có xã có Ban PHHS, có xã không. Theo nhóm nghiên cứu, tỉnh nên áp dụng các giải pháp sau :
• Tuyên truyền trong cộng đồng về giới, về tầm quan trọng của nâng cao kiến thức cho người phụ nữ
• Vận động phụ nữ đi học (các thành viên khác trong gia đình chia sẻ nhiều hơn công việc nội trợ)
• Đào tạo giáo viên cơ sở áp dụng phương pháp xoá mù cho người lớn của tổ chức AAV (mở các lớp REFLECT). Đây là một phương pháp rất có hiệu quả bởi vì nó không chỉ dạy người lớn biết đọc biết viết mà còn trang bị nhiều kiến thức về giao tiếp cônghj đồng và làm kinh tế. AAV đang triển khai các lớp REFLECT ở các huyện Vị Xuyên và Quản Bạ).
• Tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động cộng đồng (họp thôn, tập huấn v.v.)
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
26
Khuyến nghị:
Nhóm nghiên cứu xin trích dẫn các mong muốn của những người được phỏng vấn, cũng là mong muốn của nhóm:
1. Tiếp tục hỗ trợ cho ngành giáo dục như hiện nay đặc biệt đối với người nghèo, người dân tộc vùng sâu vùng xa và con em họ (học miễn phí và hỗ trợ đồ dùng học tập) Chính sách xã hội hoá giáo dục nên áp dụng mạnh ở những vùng thấp, những vùng ít nghèo trước.
2. Trong giáo dục nên coi trọng chất lượng, hiệu quả, tránh bệnh hình thức thi đua.
3. Mở thêm trường nội trú, hay tăng khả năng tiếp nhận học sinh (có phụ nữ dân tộc Hán rất muốn cho con vào học nội trú mà không được). Cải tiến chính sách đào tạo sao cho có chất lượng, chuyên sâu về nội dung để các em trở thành nguồn cán bộ kế cận có năng lực.
4. Xem xét khả năng dạy và học bằng tiếng dân tộc. 5. Áp dụng mô hình REFLECT cho xoá mù
Y tế:
Tương tự như giáo dục, trong mấy năm qua, ngành y tế Hà Giang cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc chăm sóc và bảo đảm sức khoẻ cho người dân, đặc biệt là người nghèo và phụ nữ. Hiện nay tỉnh có 199 cơ sở y tế gồm 10 bệnh viện, 17 phòng khám đa khoa khu vực và 172 trạm y tế xã/phường. Tất cả các huyện thị đều có bệnh viện, ở các huyện còn có 1‐2 phòng khám đa khoa khu vực. Số bác sỹ ở cơ sở còn ít ‐ năm 2002 mới có 29/191 xã phường có bác sỹ.
Bảng 3.2 Đầu tư cho ngành y tế
Năm 1999 2000 2001 2002
Kinh phí XD (tỷ đồng) 1,218 1,603
Tổng số người nghèo được KCB miễn phí
25.150
21.047
Kinh phí KCB miễn phí 1,217 1,197 2,016 5,789
(Nguồn: Báo cáo của Ban chỉ đạo XĐGN tỉnh năm 2001) Theo kết quả phỏng vấn, từ năm 1997 Hà Giang đã triển khai chương trình khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo và người dân các xã vùng 3 (cho cả 3 đối tượng khá, TB và nghèo). Kinh phí dành cho chương trình này khá lớn, số người nghèo được hưởng lợi là đáng kể. Tỉnh đang triển khai Thông tư 156 của thủ tướng chính phủ, theo đó bình quân mỗi người nghèo được hưởng 5.000đ/tháng khi đi khám bệnh. Năm 2002 Bệnh viện tỉnh khám miễn phí 4.000đ/giường bệnh (tổng kinh phí hỗ trợ là 800 triệu đồng); BV tuyến huyện chi 2,8‐3triệu đồng/giường bệnh.năm (tiền cấp phát thuốc gần 2 tỷ đồng). Ngoài ra, còn có các dự án khác như Hỗ trợ đội ngũ cán bộ y tế thôn bản ‐ hiện nay tuyệt đại đa số các xã có đội ngũ này (họ tham gia truyền thông y tế, tiêm chủng mở rộng nhưng không được khám và điều trị bệnh và được hỗ trợ 20.000đ/tháng.người);
Cung cấp các Dịch vụ Cơ bản tới Người nghèo
27
dự án HPM về sức khoẻ sinh sản cho đồng bào thiểu số; Thẻ bảo hiểm y tế bắt buộc cho cán bộ nhà nước; 9 Mục tiêu quốc gia v.v. (Báo cáo 2002 của Sở Y tế). Qua phỏng vấn, tất cả cán bộ và người dân đánh giá rất cao các dịch vụ y tế vì chúng đã thực sự giúp người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em nghèo, cải thiện được sức khoẻ, giảm chi phí chữa bệnh, giảm tỉ lệ sinh, thực hiện nếp sống văn minh, góp phần quan trọng vào việc XĐGN và phát triển kinh tế... Người dân nhìn chung hài lòng vì khi mắc bệnh có thể xuống trạm y tế xã hay đi lên bệnh viện tuyến trên được hưởng chế độ khám chữa bệnh miễn phí... Nhưng cũng có ý kiến phàn nàn về thái độ của một số nhân viên y tế (quát nạt bệnh nhân), về việc phải mua thuốc đắt tiền v.v. Người dân được phỏng vấn đều mong muốn được tiếp tục hưởng chế độ khám chữa bệnh miễn phí. Theo phản ánh của Sở Y tế, mới chỉ có 50% số bác sỹ và 1/5 số cán bộ y tế xã là người Hà Giang, chất lượng đội ngũ cán bộ y tế cũng cần phải cải thiện nhiều. Điều này đặt dấu hỏi về tính ổn định và bền vững của hệ thống y tế cơ sở (do cán bộ ngoài địa phương thường ít yên tâm công tác lâu dài), đồng thời nêu nhu cầu cấp thiết về đào tạo cán bộ địa phương cho ngành y tế. Quyết định 139 đang ở giai đoạn bắt đầu triển khai chỉ có cán bộ biết, còn người dân còn chưa biết gì về quyết định này. Sở Y tế sẽ phối hợp với sở LĐTB&XH triển khai quyết định này, dự kiến ngân sách cho 2003 là trên 5 tỷ đồng. Các trưởng thôn đang tập hợp danh sách hộ nghèo gửi về xã, sau đó xã tổng hợp gửi về Phòng TCLĐTB&XH huyện. Với những kinh nghiệm rút ra qua việc triển khai các chương trình y tế, hy vọng tỉnh Hà Giang sẽ triển khai thắng lợi QĐ 139.
Khuyến nghị:
1. Tiếp tục áp dụng chế độ khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, dân vùng nghèo
2. Tỉnh cần có kế hoạch đào tạo cán bộ địa phương (bác sỹ, y sỹ, y tá) cho ngành y tế để bảo đảm tính bền vững của ngành.
3. Học hỏi kinh nghiệm các tỉnh đã triển khai QĐ 139 để lường trước và xử lý được những phát sinh/khó khăn.
Khuyến nông/khuyến lâm/thú y:
Hiện nay, Hà Giang đã xây dựng được hệ thống khuyến nông/khuyến lâm/khuyến ngư/thú y từ cấp tỉnh đến cấp thôn bản và hệ thống này đã phát huy được tác dụng tích cực của mình. Tỉnh có Trung tâm KN, các huyện có Trạm KN cùng 191 cán bộ KN xã và 1.285 cán bộ KN thôn bản/3.035 thôn bản (Báo cáo của Sở NN&PTNT). Những người nghèo, đặc biệt cả người dân tộc, được phỏng vấn đều nói lên vai trò tích cực của các cán bộ KN/KL/TY trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng KHKT vào sản xuất và chăn nuôi. Từ đó giúp họ tăng năng suất và tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống. Mỗi cán bộ KN xã được nhận 300‐400.000đ/tháng, còn cán bộ KN thôn bản được nhận 100.000đ/tháng do xã nuôi (thực tế có nơi cán bộ KN thôn bản chỉ được nhận 40.000đ/tháng).
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
28
Công tác khuyến lâm được làm tương đối tốt ở Hà Giang, việc giao đất giao rừng cho các hộ dân (kể cả hộ nghèo) quản lý đã làm giảm hẳn tình trạng chặt phá đốt rừng làm nương. Ý thức bảo vệ rừng của người dân cao hơn trước rất nhiều do họ nhận thức rõ được những lợi ích do rừng mang lại. Tuy nhiên, đa số rừng là tái sinh, rừng tạp. Tuy độ che phủ cao nhưng giá trị kinh tế thấp. Bà con mới có ý thức bảo vệ rừng nhưng chưa đầu tư nhiều vào trồng rừng, trừ ở một số nơi bà con trồng cây công nghiệp (chè, quế) hay cây ăn quả, trồng cỏ Goatêmala để chăn nuôi (bò, dê). Theo cán bộ Sở và Phòng NN&PTNT hệ thống KN/TY vẫn còn nhiều bất cập do năng lực của đội ngũ cán bộ KN xã còn yếu, họ thường chỉ được đào tạo chuyên về 1 lĩnh vực, nhưng khi về cơ sở phải làm nhiều lĩnh vực. Trình độ văn hoá của cán bộ KN thôn bản thường là cấp 1‐2, mới qua tập huấn vài lần, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu và mong muốn của người dân. Khi phát sinh dịch bệnh, cán bộ cơ sở không tự giải quyết được mà phải nhờ cán bộ KH/TY xã và huyện xuống khắc phục. Những nơi nhóm nghiên cứu đến làm việc không có CLB khuyến nông, mặc dù đây là một nơi rất hay để người dân có thể gặp gỡ, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm làm ăn. Người nghèo mong muốn mỗi thôn bản đều có cán bộ KN/TY. Các hộ nghèo được phỏng vấn nhìn chung biết được trong xã/thôn mình đang có những chương trình khuyến nông gì được triển khai (hỗ trợ giá và cước vận chuyển giống cây, phân bón; tập huấn kỹ thuật trồng lúa lai/ngô lai, tập huấn bảo vệ gia súc, tiêm phòng cho gia súc, hướng dẫn nuôi dê, trồng rừng, trồng măng Bát độ, cây sa mộc, cho vay vốn ưu đãi để nuôi trâu/bò/dê, trồng chè, quế, thảo quả, trồng cỏ ...) Thông tin về KN/KL/KN/TY đến với người dân chủ yếu qua sự truyền đạt của cán bộ KN hay cán bộ thôn. Các kênh khác là qua đài, TV, qua học hỏi hàng xóm v.v. Thông tin từ huyện xuống xã bằng tiếng phổ thông, ở các xã đa dân tộc (như Thuận Hoà) cán bộ tuyên truyền bằng tiếng phổ thông, còn ở các xã thuần dân tộc (như Cao Bồ, Sảng Tủng ...) thì cán bộ chuyển tải thông tin bằng tiếng dân tộc. Điều này cũng gây khó khăn cho dân do từ ngữ chuyên môn khó hiểu. Người dân phàn nàn là phần lớn các lớp tập huấn tổ chức cho cán bộ, ít lớp cho người dân trong khi họ cũng có nhu cầu học tập.
Nhóm nghiên cứu phát hiện một số việc muốn lưu ý lãnh đạo địa phương:
1. Bà con một số nơi quay lại sử dụng các giống cũ (lúa Bao thai, ngô) do áp dụng giống mới không thành công (năm đầu áp dụng thành công cho năng suất cao, nhưng năm tới lúa bị sâu đục thân gần như mất trắng).
2. Do chạy theo thành tích/kế hoạch mà một số địa phương mua dê kém chất lượng ở Trung Quốc về bàn giao cho người nghèo, được 1 thời gian ngắn thì dê chết.
Liên quan đến thông tin về thị trường. Hầu như người dân phải lo mọi việc liên quan đến tiêu thụ sản phẩm, cán bộ KN chưa có vai trò gì. Điều này làm tăng khó khăn và rủi ro cho nông dân, đặc biệt là người nghèo do họ thiếu thông tin về thị trường (nhu cầu, giá cả). Dịch vụ KN là không phải trả tiền nhưng dịch vụ tiêm phòng gia súc là 500‐1.000đ/con (nhà nước trợ giá 50%). Các nhà khoa học cũng chưa góp được gì đáng kể cho phát triển sản xuất ở Hà Giang. Quyết định 80 về liên kết 4 nhà chưa thực hiện được, các nhà khoa học chưa thực sự vào cuộc.
Cung cấp các Dịch vụ Cơ bản tới Người nghèo
29
Khuyến nghị:
1. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các hệ thống KN/KL/TY, đặc biệt là nâng cao chất lượng và bổ sung đội ngũ cán bộ cơ sở, bổ sung cán bộ KN/TY cho những bản chưa có.
2. Cung cấp trực tiếp các thông tin về thị trường giúp người dân biết trồng cây gì, nuôi con gì; cải thiện việc cung cấp vật tư nông nghiệp tới người nông dân.
3. Đưa các nhà khoa học vào cuộc để cải thiện chất lượng và hiệu quả bộ giống cây trồng/vật nuôi. Giúp bà con khắc phục những khó khăn khi áp dụng bộ giống mới (tiếp tục trợ giá giống và phân bón, hướng dẫn phòng chống sâu bệnh, hướng dẫn các hộ dân các phương pháp bảo quản sản phẩm sau thu hoạch...)
4. Qui hoạch và hướng dẫn/khuyến khích người dân đầu tư vào lâm nghiệp, tăng giá trị của rừng
5. Hỗ trợ đồng bào HMông phát triển chăn nuôi (bò, dê) để nâng cao thu nhập của họ. Quan tâm đúng mức đến chất lượng của con giống.
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
30
Chất lượng và Hiệu quả của các Chương trình Hỗ trợ Xã hội
Thực trạng: Khi được phỏng vấn cán bộ xã và thôn nắm khá vững số người được hưởng trợ cấp thường xuyên và đột xuất. Người dân địa phương ở những nơi có đối tượng được hưởng trợ cấp cũng nắm được số đối tượng này.
Trợ cấp thường xuyên dành cho các hộ gia đình chính sách (có công với cách mạng, thương binh, liệt sĩ), những người thuộc diện 202‐ người già cả cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật v.v mỗi xuất 70.000đ/tháng tương đương với 20 kg gạo (tiêu chuẩn của nhà nước là 12 kg, Hà Giang hỗ trợ thêm 8kg). Hệ thống này do Phòng TCLĐTB&XH huyện quản lý và phân phát hàng tháng (có khi người dân lên lĩnh, có khi cán bộ mang xuống địa phương). Các chương trình trợ cấp thường xuyên như vậy hướng đến đối tượng là những hộ nghèo và hộ có hoàn cảnh khó khăn.
Có vấn để nảy sinh là số người được hưởng trợ cấp đôi khi không được cập nhật kịp thời nên có hộ hết tiêu chuẩn mà vẫn được hưởng, những hộ mới phát sinh thì không được. Vẫn có trường hợp các hộ đủ tiêu chuẩn để hưởng trợ cấp nhưng không được hưởng. Điều này đòi hỏi ngành LĐTBXH phải thường xuyên theo dõi cập nhật thông tin về nhóm đối tượng được hưởng trợ cấp thường xuyên, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa huyện với các xã.
Trợ cấp đột xuất là những trường hợp gặp rủi ro (cháy nhà, thiên tai ...). Theo bà con, khi xảy ra rủi ro, hộ dân báo cáo với trưởng thôn lập biên bản, sau đó báo cáo lên UBND xã, xã báo cáo lên huyện và đề nghị hỗ trợ. Phòng LĐTB&XH sẽ thẩm định, sau đó triển khai hỗ trợ không phân biệt hộ là nghèo hay giàu, mức hỗ trợ trong trường hợp cháy nhà là 2‐2,5 triệu đồng/hộ ‐ bằng tấm lợp, tiền, giống lúa và phân bón. Họ hàng và hàng xóm cũng quyên góp tuỳ theo khả năng để hỗ trợ những hộ gặp rủi ro (khung nhà, công sức làm nhà, quần áo, chăn màn v.v.).
Cứu trợ khẩn cấp do thiên tai, dịch bệnh ... Ngân sách cứu trợ cứu tế đồng bào khó khăn năm 2001 là 865 triệu đồng (cho các huyện Yên Minh, Bắc Quang, Bắc Mê, Hoàng Su Phì) ... Ngân sách cứu đói là 784,7 triệu đồng dành cho đồng bào các huyện Bắc Mê, Mèo Vạc, Bắc Quang, Yên Minh, Xín Mần ... Năm 2000, ngân sách này là 8,2 tỷ đồng và đã hỗ trợ được 3.285 hộ.
Các chương trình trợ giúp xã hội, cùng với các chương trình xã hội và dịch vụ khác, có tầm quan trọng rất lớn: chúng làm cho người dân tin tưởng hơn vào tính ưu việt của chế độ, giúp chính quyền và người dân ổn định xã hội, củng cố tình làng nghĩa xóm... Nhìn chung sự hỗ trợ này giúp được những hộ gặp rủi ro qua được giai đoạn khó khăn nhất. Tuy nhiên, mức hỗ trợ thường nhỏ so với tài sản bị mất mát và đôi khi sự hỗ trợ đến quá chậm do thông tin thường phải đi từ thôn lên xã và từ xã lên huyện.
Khuyến nghị: Để làm tốt hơn, cần cải thiện khâu thông tin giữa huyện và xã, giữa xã và thôn để cập nhật danh sách người hưởng lợi. Xem xét khả năng lập quỹ cứu trợ cấp xã hoặc thôn giao cho Hội CTĐ hay MTTQ quản lý, UBND xã giám sát. Sửa đổi chính sách để chương trình hỗ trợ khẩn cấp cũng ưu tiên các hộ nghèo.
Cung cấp các Dịch vụ Cơ bản tới Người nghèo
31
Cải cách hành chính công Đây là chủ đề nghiên cứu được bổ sung sau khi nhóm nghiên cứu bắt đầu làm việc ở Hà Giang nên thông tin thu được còn ít.
Thực trạng:
Theo Báo cáo 2002 của UBND tỉnh Hà Giang ông Chủ tịch UBND tỉnh kiêm luôn Trưởng ban cải cách hành chính. Tỉnh đã tiến hành rà soát phát hiện sự chồng chéo, mâu thuẫn trong hệ thống văn bản để sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bổ thuộc thẩm quyền của địa phương: sửa 1.422 văn bản, bổ sung thay thế 1.700 văn bản và huỷ bỏ 1.100 văn bản. Tỉnh đã rà soát, sắp xếp bộ máy quản lý, sử dụng và tuyển dụng công chức theo qui định của Pháp lệnh công chức. Sắp xếp giảm các bộ phận của UBND tỉnh từ 23 xuống 22; giảm số phòng ban và tương đương cấp sở từ 104 xuống 92; 6 chi cục giảm 1 còn 5. Thí điểm tại huyện Vị Xuyên: giảm cơ cấu 14 phòng ban; 3 đơn vị sự nghiệp; 3 ban kiêm nhiệm xuống 12 phòng ban; 2 đơn vị sự nghiệp và 3 ban kiêm nhiệm. Tinh giảm 2 đợt được 86 trường hợp theo Nghị quyết 16/NQ‐CP của Chính phủ. Tổ chức bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước cho 40 người, bồi dưỡng sinh viên tăng cường xã 60 người, bồi dưỡng cán bộ xã 70 người, 1.247 trưởng thôn/bản. Tuy nhiên, công tác này chưa mang lại hiệu quả thực tế, việc tinh giảm đôi khi làm tăng đáng kể khối lượng công việc của đội ngũ công chức trong khi trình độ và năng lực của họ chưa được nâng cao. Là một tỉnh miền núi nhưng tình hình thông tin liên lạc ở Hà Giang còn hạn chế, liên lạc giữa các xã khó khăn, nhiều xã chưa có điện thoại. Việc kết nối và sử dụng In‐tơ‐nét ở Hà Giang còn rất hạn chế và ít người biết sử dụng, trong khi đây là một công cụ rất mạnh phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, giao lưu làm ăn... Qua phỏng vấn và khảo sát, việc chuẩn hoá đội ngũ công chức ở Hà Giang đã hoàn thành ở cấp huyện và đang tiến hành triển khai thí điểm xuống cấp xã. Đây là một công việc rất khó khăn do Hà Giang là một tỉnh miền núi đa dân tộc. Đang có sự chênh lệch rõ ràng về trình độ và năng lực giữa cán bộ cấp xã/thôn bản ở vùng thấp và vùng cao, giữa cán bộ cơ sở là người dân tộc ít người với cán bộ là người Tày và người Kinh. Trình độ văn hoá của đa số cán bộ xã vùng cao từ lớp 5 đến lớp 7, ít người tốt nghiệp trung học cơ sở. Có xã cán bộ không tự lập được kế hoạch và ngân sách mà phải nhờ huyện giúp. Có xã cán bộ tăng cường phải làm hộ cán bộ địa phương quá nhiều việc. Cán bộ thôn trình độ còn thấp hơn. Điều này làm cản trở tính hữu hiệu của bộ máy hành chính nhà nước. Cấp xã và cấp thôn là cấp cơ sở cực kỳ quan trọng, mọi chủ trương chính sách của nhà nước muốn xuống đến dân phải qua họ, cán bộ yếu thì cả nhà nước và dân đều bị thiệt thòi. Tỉnh đã có nhiều cố gắng (chính sách luân chuyển cán bộ ‐ phân công cán bộ phụ trách các mảng hoạt động và địa phương cần hỗ trợ). Tuy nhiên, kết quả đạt được mới chỉ bước đầu.
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
32
Công tác luân chuyển cán bộ tuy có hiệu quả tức thì là giúp được các cơ sở yếu, nhưng nó không mang tính bền vững vì cán bộ tăng cường không thể ở mãi cơ sở. Không phải tất cả cán bộ tăng cường đều có năng lực làm việc tốt (có trường hợp cơ sở phản ánh cán bộ tăng cường yếu quá nên thực tế đã trở thành gánh nặng cho địa phương). Việc luân chuyển cán bộ giữ các cương vị chủ chốt (chủ tịch, phó chủ tịch, bí thư ...) quá nhanh (dưới 3 năm) cộng với công tác bàn giao và lưu trữ tài liệu hồ sơ không đầy đủ sẽ gây rất nhiều khó khăn cho cán bộ mới cũng như cán bộ địa phương. Công tác này cũng gây khó khăn cho những nơi có cán bộ đi do những người ở lại phải kiêm nhiệm thêm công việc của những người đi tăng cường.
Khuyến nghị:
1. Tỉnh cần tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm công tác luân chuyển cán bộ và sử dụng cán bộ tăng cường.
2. Tỉnh cần có các chính sách/chiến lược cụ thể nhằm nâng cao tính tích cực tự chủ, giảm bớt tính ỷ lại, thụ động của cán bộ và người dân địa phương, đặc biệt ở những vùng sâu/vùng xa. Coi chiến lược đầu tư, qui hoạch và sử dụng cán bộ người dân tộc là một trọng tâm chiến lược quan trọng và lâu dài. Cần nâng cấp các trường dân tộc nội trú cả về số lượng học sinh và chất lượng đào tạo. Đào tạo nâng cao về quản lý nhà nước cho những cán bộ cơ sở trẻ, có năng lực, xây dựng đội ngũ cán bộ nguồn là con em đồng bào dân tộc, tiếp tục có chính sách thu hút đãi ngộ con em địa phương tốt nghiệp cao đẳng, đại học về Hà Giang công tác. Chuẩn hoá dần đội ngũ cán bộ cấp xã ở những địa bàn có thể. Có thể sử dụng trưởng thôn là những cán bộ tuy tuổi cao những đã kinh qua công tác, tâm huyết, có uy tín và nhiều kinh nghiệm trong cộng đồng.
Môi trường
33
Môi trường “Ngày xưa mọi người chặt phá rừng bừa bãi quá, nghĩ lại mà thấy tiếc” (Nhóm cán bộ thôn Thác Tậu, Cao Bồ, Vị Xuyên)
Môi trường-cách hiểu theo từng cấp độ:
Người dân hiểu về môi trường một cách đơn giản là những gì tồn tại quanh họ có thể nhìn thấy được và tác động trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của cộng đồng như đất đai, rừng cây, sông suối, nguồn nước. Mức độ quan tâm và hiểu biết về môi trường cũng khác giữa các vùng: các nhóm ở gần trung tâm tỉnh/huyện quan tâm hơn đến môi trường, do được tiếp cận với TV, đài và báo chí, cho rằng đây là vấn đề quan trọng đối với họ. Khí hậu và thời tiết được các nhóm giáo viên bổ xung vào danh sách này. Không khí ít được nhắc đến hơn trong các phỏng vấn hộ và nhóm nam/nữ, có lẽ do vấn đề ô nhiểm môi trường không khí chưa là vấn đề quan tâm đặc biệt ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, có một số ý kiến cho rằng việc chăn nuôi gia súc quá gần nhà hay nhốt gia súc ngay dưới sàn nhà ở cũng có ảnh hưởng đến môi trường không khí. Các cơ quan chính quyền địa phương thì cho rằng môi trường là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, nó liên quan đến không khí, nguồn nước, đất và cả đến môi trường xã hội. Theo họ, vấn đề môi trường là rất quan trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Nếu môi trường miền núi không đảm bảo sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới miền xuôi. Các cán bộ cấp cơ sở xã, thôn thì ít quan tâm hơn và sự hiểu biết của họ về môi trường cũng còn nhiều hạn chế. Người dân và cán bộ cơ sở cũng hiểu rằng môi trường suy thoái là do rừng bị đốt hay chặt phá bừa bãi; nguồn nước bị ô nhiễm, đất đai bị rửa trôi trở nên khô cằn, không khí không trong sạch và bảo vệ môi trường chính là bảo vệ để rừng không bị tàn phá, bảo vệ nguồn nước, làm nhà vệ sinh, chuồng trâu xa nhà... Nhóm đánh giá ghi nhận sự cải thiện đáng kể về môi trường ở Hà Giang ‐ Thị xã HG đúng là một thị xã xanh sạch đẹp, ở đây có qui định xe ô tô bẩn trước khi vào thị xã phải rửa sạch; phần lớn diện tích có thể trồng rừng đã được phủ xanh; rừng được bảo vệ tương đối tốt, hạn chế được nạn cháy rừng.
Xu hướng:
“Rừng khá lên nhưng còn lâu mới bằng 30‐40 năm trước đây.” (Nhóm cán bộ thôn Lùng Thàng, xã Sảng Tủng).
Dù quan tâm nhiều hay quan ít đến vấn đề môi trường, 100% người dân lẫn cán bộ được phỏng vấn đều cho rằng môi trường sống của địa phương đã được cải thiện một cách đáng kể so với 5 năm trước đây. Sự cải thiện này được thể hiện chủ yếu qua tình trạng rừng bị đốt cháy hay chặt phá giảm hẳn, diện tích rừng được tái sinh tăng nhanh, đồi trọc được phủ xanh, người dân có ý thức hơn trong bảo vệ rừng, nguồn nước đã phong phú hơn... Số liệu thống kê của chính quyền cho thấy độ che phủ của rừng hiện nay là 39.1% so với 33% cách đây 5 năm (tỉ lệ che phủ của rừng ở Hà Giang
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
34
thấp nhất vào cuối những năm 1980 – chỉ khoảng dưới 15% khi người dân thả sức đốt/phá rừng làm nương, khai thác gỗ). Tuy nhiên, những người được phỏng vấn cho rằng, những cải thiện hiện nay chưa đưa rừng trở lại hiện trạng cách đây 30‐40 năm. Gỗ và động vật không phong phú như trước như trước dù đã có dấu hiệu của sự trở lại của thú rừng. Người dân mới có ý thức bảo vệ rừng nhưng chưa đầu tư nhiều vào trồng rừng. Rừng tái sinh đa phần là rừng tạp, giá trị kinh tế thấp. Chính sách giao đất giao rừng của nhà nước giúp bà con yên tâm đầu tư làm ăn, giảm xung đột cộng đồng, đặc biệt là bảo vệ môi trường (rừng). ở những nơi được nghiên cứu, 100% bà con đều trả lời đã được nhà nước giao đất từ những năm 1992‐93 và giao rừng từ năm 1999. Phương thức giao rừng là xã giao cho thôn, thôn giao cho hộ dân. Nhìn chung là hợp lý trừ những trường hợp hộ ở gần lại được giao rừng ở xa, các hộ HMông được giao những vùng núi đá rất khó canh tác. Không thấy bà con phàn nàn về việc không được tiếp cận đến nguồn lợi rừng. Họ nói được hỗ trợ trồng cây, bảo vệ rừng được giao, được tỉa cành làm củi, chăn nuôi nhưng khi muốn chặt gỗ to phải xin phép UBND xã. Người dân và cán bộ địa phương cho rằng, những cải thiện về môi trường là nhờ có: (i) việc giao đất rừng cho người dân đã làm cho rừng có chủ và nhờ đó rừng được bảo vệ và phát triển. (ii) các chương trình dự án như 327, 661 trước đây cũng như các chương trình trồng rừng gần đây đã hỗ trợ dân trồng và bảo vệ rừng, điều này thực sự đã giúp nhiều trong việc tái tạo và phát triển rừng; (iii) dù còn hạn chế, nhưng người dân đã có ý thức hơn, đã quan tâm hơn đến việc bảo vệ môi trường; và (iv) địa phương đã có các quy định rõ ràng (trong phạm vi rừng được giao người dân muốn chặt cây to phải xin phép chính quyền), nhiều quy ước cũng được người dân đưa vào hương ước của thôn, rửa xe trước khi vào thị xã, nạo vét sông suối...
Những lo ngại:
Nhìn chung người dân không cảm thấy có lo ngại đến vấn đề môi trường. Tuy nhiên, những nhóm dân cư gần khu vực đô thị thì có đưa ra một số lo ngại về vấn đề môi trường, chủ yếu tập trung vào những gì có thể tác động trực tiếp đến đời sống của cộng đồng, nhưng thực ra cũng là những vấn đề lớn cần quan tâm:
• Các dự án làm đường ít nhiều đã làm ô nhiểm dòng suối • Ý thức của bản thân người dân, hiện tượng chặt phá trộm rừng, làm cháy rừng • Sự thay đổi bất thường của thời tiết sẽ làm ảnh hưởng đến mùa vụ của nông dân • Đá lở và sạt đất • Dân số ngày càng tăng
Sự lo ngại về vấn đề ô nhiểm môi trường được chính quyền tỉnh và huyện quan tâm một cách sâu rộng hơn, ngoài những vấn đề lo ngại như đã nêu trên ở khu vực nông thôn, ở khu vực đô thị hoặc khu vực chế biến/sản xuất công nghiệp cũng có những bức xúc:
• Ô nhiễm từ nhà máy/xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, gạch, sản xuất bột giấy...
• Chất thải từ sản xuất nông nghiệp (hoá chất: thuốc trừ sâu), chăn nuôi • Xử lý rác thải, đặc biệt tại các khu đô thị/thị trấn/bệnh viện
Môi trường
35
Khuyến nghị/giải pháp:
Những giải pháp mà người dân đưa ra:
(i) Tiếp tục tăng cường nhận thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường ‐ nhiều khu vực đã có các quy định cụ thể trong hương ước của thôn (về chăn thả gia súc, về xử lý gia súc bị chết..), nhưng những quy định này chưa được thực hiện một cách đầy đủ;
(ii) Xử lý thật nghiêm các vụ khai thác gỗ trái phép; (iii) Nhà nước tiếp tục hỗ trợ cải tạo nguồn nước, xây thêm bể chứa nước ăn, đặc
biệt cho các vùng núi đá; (iv) Tiếp tục hỗ trợ giống cây để dân có điều kiện trồng rừng. Các cấp chính quyền ngoài những đề nghị tương tự như điểm i, iii và iv của dân, bổ sung một số giải pháp nhằm bảo vệ môi trường:
(i) Thể chế hoá các chủ chương, chính sách, luật pháp về bảo vệ môi trường thành các chương trình hành động cụ thể và phù hợp với điều kiện của từng vùng.
(ii) Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, huy động các nguồn lực để bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát việc tuân thủ luật pháp và các qui định về môi trường.
(iii) Lồng ghép các chương trình để đảm bảo phát triển kinh tế kết hợp bảo vệ môi trường và giải quyết vấn đề xã hội.
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
36
Di dân
Di dân tự do:
Do hậu quả của chiến tranh biên giới phía Bắc (giai đoạn 1979‐1985), hàng trăm hộ dân vùng biên giới phải sơ tán xuống các địa bàn xa biên giới. Tỉnh Hà Giang sau đó đã có chủ trương cho các hộ này định cư tại địa phương mới và giao đất giao rừng cho họ (VD: xã Thuận Hoà, huyện Vị Xuyên), hay tái định cư dọc vùng biên giới (huyện Đồng Văn). Hiện tượng di dân tự do rộ lên vào các năm 2000‐2001. Cả tỉnh có khoảng 300 hộ, đa số là người HMông, đã di cư vào Nam (Tây Nguyên). Theo cán bộ địa phương và qua phỏng vấn đa số các hộ di cư tự do không phải vì lý do kinh tế, nguyên nhân chính của hiện tượng này là:
(i) do người dân bị các phần tử xấu dụ dỗ lôi kéo (tuyên truyền đạo), (ii) một số hộ có họ hàng di cư từ trước và rủ họ vào đấy cùng sinh sống, (iii) một số hộ bỏ đi do đông người, thiếu đất trồng trọt, gặp khó khăn về nước
sinh hoạt. 50 hộ trong số hộ di dân tự do kể trên đã quay lại cộng đồng do ở nơi mới họ không tìm thấy cái họ muốn ‐ họ không thể ở lại do thiếu đất và thiếu phương thức kiếm sống. Đến năm 2002 hiện tượng di dân tự do giảm cơ bản (do tỉnh Hà Giang và các tỉnh Tây Nguyên triển khai nhiều biện pháp đối phó). Qua phỏng vấn mọi người đều khẳng định rằng không còn hiện tượng di dân tự do ở địa bàn họ. Theo các quan chức địa phương, các hộ di cư về đều được nhập lại hộ khẩu, nhận lại đất và được đối xử bình đẳng như các hộ gia đình khác. Di cư tự do chắc chắn sẽ có những ảnh hưởng của nó. Với nơi đi, việc di dân đã tác động đến tâm lý, gây hoang mang những hộ ở lại. Với nơi đến, nhóm nghiên cứu không có các số liệu nghiên cứu và hy vọng cuộc khảo sát PPA ở Đắc Lắc sẽ có một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Đi làm thuê theo thời vụ: theo phản ánh có một số thanh niên hay người nghèo địa phương tranh thủ thời gian nông nhàn đi làm thuê để kiếm thêm thu nhập, thời gian ngắn chỉ vài ngày. Phụ nữ ít đi làm thuê hơn “do phải ở nhà làm các công việc gia đình”. Đối tượng thuê họ là các chủ thầu xây dựng/làm đường. Người dân, do không có tay nghề chuyên môn, nhiều khi không biết cả tiếng phổ thông, thường làm các công việc đơn giản như đào đất, đá, vận chuyển vật liệu xây dựng ... và được trả công trung bình 10.000 ‐15.000đ/người.ngày. Tuy nhiên, người dân phản ánh tình trạng một số DN tư nhân quịt tiền công của dân tới hàng chục triệu đồng. Khi bà con đến đòi lại doạ hành hung, dân sợ không dám đòi nữa (thôn Hoà Bắc). Di cư từ ngoài vào khoảng vài ngàn người, chủ yếu là lao động tự do (thợ xây dựng, thợ mộc, người của các nhà thầu từ các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây, Nam Định v.v.). Họ thường ở HG một thời gian ngắn rồi đi chỗ khác, tỉnh báo cáo là nhóm người này không có vấn đề xã hội gì.
Di dân
37
Di dân có tổ chức:
Để giải quyết các vấn đề khó khăn của các hộ gia đình ở vùng cao, vùng xa trong việc tiếp cận các nguồn lực như đất canh tác, cơ sở hạ tầng, các dịch vụ giáo dục, y tế... chính quyền địa phương đã có chủ trương dần dần “hạ sơn” và tái định cư các hộ này – hình thức phổ biến là “hạ sơn” tại chỗ hay đưa về 2 huyện Bắc Mê và Vị Xuyên. Các hộ di dân theo kế hoạch và có tổ chức đều được hỗ trợ của nhà nước, họ được cấp đất ở, đất sản xuất, giúp xây dựng hạ tầng cơ sở, hỗ trợ giống, lương thực... Theo báo cáo của UBND tỉnh, năm 2002 đã hạ sơn tại chỗ được 2.115 hộ. Dự án tái định cư chưa triển khai được nhiều. Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu hạ sơn và tái định cư có kế hoạch là những chủ trương đúng đắn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển cộng đồng và XĐGN ở Hà Giang. Các chủ trương này không chỉ giúp người dân tiếp cận tốt hơn tới và phát huy tác dụng của các công trình hạ tầng cơ sở (điện, trường học, trạm xá ...), phát huy hiệu quả cao của các dịch vụ xã hội (khuyến nông/khuyến lâm, giáo dục, y tế ...), giúp người dân phát huy tính cộng đồng, mà còn giúp cán bộ chính quyền trong công tác quản lý nhà nước. Do vậy, chúng cần được triển khai càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, đây là một công tác khó (thay đổi nếp sống, nếp nghĩ lâu đời của người dân là một việc rất khó), tỉnh cần có Ban chuyên trách, vừa triển khai vừa rút kinh nghiệm. Có thể kết luận là di dân không còn là một vấn đề xã hội bức xúc và phức tạp của Hà Giang. Tuy nhiên, tỉnh và các địa phương cũng cần quan tâm một cách đúng mức tới vấn đề này để có thể có những chính sách hỗ trợ phù hợp.
Khuyến nghị:
Tiếp tục triển khai chương trình định canh định cư do Ban định canh định cư tỉnh và các cấp chịu trách nhiệm. Cần triển khai một cách khoa học, thận trọng, có sự tham gia cao của chính quyền và người dân nơi đi cũng như nơi đến, vừa làm vừa rút kinh nghiệm tránh bệnh chạy theo thành tích, thi đua; phát huy những mô hình hay trong tỉnh, của tỉnh bạn hay quốc tế; kết hợp qui hoạch địa bàn với qui tụ dân cư; tranh thủ sự hỗ trợ của trung ương và quốc tế.
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
38
Phụ lục 1: Danh sách nhóm Nghiên cứu Hà Giang
1. Ông Nguyễn Tất Quân, Cán bộ AAV, trưởng nhóm 2. Ông Vũ Ngọc Anh, cán bộ AAV, chịu trách nhiệm chính về thu thập, phân tích,
tổng hợp thông tin và viết báo cáo 3. Ông Lê Văn Định, cán bộ AAV 4. Bà Nguyễn Thu Hiền, cán bộ AAV 5. Bà Phan Lệ Thuý, cán bộ AAV 6. Bà Lò Thị Hương, cán bộ AAV 7. Bà Nguyễn Kim Hà, Phó Giám đốc Sở LĐTB&XH Hà Giang 8. Ông Phạm Ngọc Dũng, Trưởng Phòng BTXH, Sở LĐTB&XH 9. Ông Vương Đức Thiết, Sở LĐTB&XH Hà Giang, thành viên 10. Ông Trần Đức Truyền, Ban Đối ngoại tỉnh Hà Giang, thành viên 11. Ông Nguyễn Đình Dự, Sở Y tế Hà Giang, thành viên 12. Bà Đinh Thị Tuyến, Hội phụ nữ Hà Giang, thành viên 13. Ông Nguyễn Ngọc Hà, Tỉnh đoàn Hà Giang, thành viên 14. Bà Nguyễn Thị Tươi, Sở NN&PTNT, thành viên 15. Bà Mao Xuân Thu, Sở LĐTB&XH, thành viên 16. Ông Mai Tuấn, Sở KH&ĐT, thành viên 17. Ông Đặng Văn Thi, Phòng LĐTB&XH huyện Vị Xuyên, thành viên 18. Ông Đỗ Anh Tuấn, Phòng KH&ĐT huyện Vị Xuyên, thành viên 19. Bà Hoàng Lan Hương, HPN Vị Xuyên, thành viên 20. Ông Thái Thượng Lương, Phó CT UBND xã Thuận Hoà 21. Bà Bế Vân Anh, Trường TH xã Thuận Hoà, thành viên 22. Ông Nguyễn Văn Hưng, Trường TH xã Cao Bồ, thành viên 23. Ông Phạm Văn Thuỷ, Phòng TCLĐTB&XH huyện Đồng Văn, thành viên 24. Ông Vũ Thái Hà, Phòng GD&ĐT Đồng Văn, thành viên
Di dân
39
Phụ lục 2: Những Thuận lợi và Khó khăn của cuộc Nghiên cứu
Thuận lợi:
• Nhìn chung nhóm nghiên cứu đã nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình và hiệu quả của UBND tỉnh, các sở, các đoàn thể, phòng ban cấp huyện, chính quyền và người dân các xã/thôn nơi đoàn đến. Đoàn đã được các ông phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang, Phó Chủ tịch UBND huyện Vị Xuyên và Chủ tịch UBND huyện Đồng Văn tiếp và làm việc.
• UBND tỉnh đã giao cho Sở LĐTB&XH là đối tác chính giúp đỡ đoàn và Sở đã giao cho 1 Phó Giám đốc và 1 Trưởng phòng trực tiếp phụ trách công tác này. UBND 2 huyện Vị Xuyên và Đồng Văn đã phối hợp với Sở LĐTB&XH giao trách nhiệm hỗ trợ đoàn cho 2 Phó trưởng phòng TCLĐTB&XH huyện.
• Các sở (LĐTB&XH, NN&PTNT, KH&ĐT, ĐN, YT, GD), các phòng ban cấp huyện của 2 huyện Vị Xuyên và Đồng Văn (LĐTB&XH, KH&ĐT, GD&ĐT), các tổ chức đoàn thể (HPN, TN), xã Thuận Hoà và Cao Bồ đã cử cán bộ tham gia tập huấn về phương pháp nghiên cứu và tham gia thu thập thông tin cùng nhóm nghiên cứu. Một số cán bộ của địa phương đã đi hiện trường làm việc suốt 3 tuần với nhóm công tác.
• Tuy thông tin đến cơ sở (xã, thôn) tương đối gấp gáp, điều kiện liên lạc hạn chế, cán bộ bận công tác, địa bàn rộng, nhưng nhìn chung tại 4 xã (Thuận Hoà, Cao Bồ, Sảng Tủng, Thài Phìn Tủng) công tác chuẩn bị đón nhóm công tác được làm khá chu đáo tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập thông tin của nhóm.
• Do phương pháp làm việc linh hoạt, thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm và tinh thần hợp tác cao giữa các bên liên quan, nên nhìn chung, nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn và lấy được thông tin từ các đối tượng cần quan tâm (các sở, phòng ban, cán bộ cơ sở, người dân v.v.).
Khó khăn:
• Yêu cầu cao, thời gian chuẩn bị ngắn: thời gian chuẩn bị quá gấp gáp nên không tránh khỏi những thiếu sót trong khâu phối hợp, hỗ trợ trong giữa nhóm và địa phương trong những ngày đầu làm việc ở Hà Giang. Nhiều câu hỏi trong bản phỏng vấn là khó hiểu đối với cả người hỏi và người được hỏi. Làm việc với đồng bào HMông, Dao (trừ cán bộ xã và thôn bản) đều phải qua phiên dịch, điều này kéo dài thời gian thu thập cũng như ảnh hưởng đến độ chính xác của thông tin.
• Kinh nghiệm nghiên cứu của các thành viên còn hạn chế: các bản câu hỏi thường dài, bao gồm nhiều chủ đề khác nhau đòi hỏi mỗi thành viên trong nhóm phải có kiến thức và kỹ năng thu thập thông tin rất cao.
• Trong thời gian nhóm làm việc, nhiều cơ quan ban ngành bận triển khai công tác, đang mùa mưa ... nên nhóm nghiên cứu không gặp được một số lãnh đạo chủ
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
40
chốt (như giám đốc, trưởng phòng, chủ tịch, bí thư) của các ngành cấp tỉnh, huyện cũng như cấp xã, một số thông tin thu thập được không đầy đủ.
• Thông tin thứ cấp thiếu tính hệ thống, đôi khi có khác biệt giữa các nguồn về cùng một thông tin, do vậy chúng tương đối khó sử dụng để phân tích, thiếu thông tin về ngân sách. Việc thu thập thông tin thứ cấp (báo cáo, số liệu thống kê) cũng gặp khó khăn, đặc biệt là những thông tin về ngân sách và những báo cáo giai đoạn 1995‐2000.
• Thời gian viết báo cáo ngắn.
Di dân
41
Phụ lục 3: Các xã trong địa bàn nghiên cứu
Xã Thuận Hoà, huyện Vị Xuyên:
Thuận Hoà nằm phia Bắc của huyện Vị Xuyên, giáp thị xã Hà Giang về phía nam và huyện Quản Bạ về phía bắc. Từ trung tâm xã đến thị xã khoảng 8 km, trung tâm huyện khoảng 32 km. Đây là một xã có địa hình đa dạng kết hợp giữa núi đất và núi đá thấp thuộc vùng thấp của Hà Giang. Thuận Hoà có 15 thôn, trung tâm xã nằm ở thôn Mịch A, các thôn nằm giữa các thung lũng nhỏ dọc quốc lộ 4C và sông Tiềm. Toàn xã có 924 hộ với 4.902 khẩu (trong đó 2.473 nữ, số liệu năm 2002). Thuận Hoà là xã đa dân tộc, các nhóm dân tộc chính là HMông (2.186 khẩu), Tày (1.534), Dao (905), Kinh (153), Hoa (60), Dáy (64). Ô tô có thể vào đến trungtâm xã và một số thôn trong mùa khô, đường vào trung tâm xã đã mở nhưng chưa được nâng cấp. Một số khu vực gần quốc lộ 4C đã có điện lưới quốc gia được 4 tháng (25% số hộ). Xã có trụ sở UBND, trường học và trạm y tế được xây mới 2 tầng ở ngay khu trung tâm, nhưng chưa có điện thoại. Dù nằm ngay sát thị xã Hà Giang, Thuận Hoà vẫn là 1 xã nghèo được công nhận là xã trong diện 135 (Tỷ lệ hộ nghèo đói 14.4% (2002), thu nhập bình quân 2.350.000 đồng/người.năm). Trong số hộ nghèo có 4.8% (11 hộ) có chủ hộ là nữ (trên tổng số 25 hộ có chủ hộ là nữ của cả xã) và gần nửa số hộ nghèo là người HMông. Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp (diện tích đất trồng lúa là 176 ha, đất trồng ngô là 280 ha. Chăn nuôi là nguồn thu khá quan trọng với trâu, dê, lợn gà. Tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng cao tới 31.57% (173 cháu), tỉ lệ phụ nữ mắc các loại bệnh như phụ khoa, đau mắt, ỉa chảy năm 2002 là 28.83%. Tỷ lệ hộ có nguồn nước sạch sử dụng khoảng 28.3%
Xã Cao Bồ, huyện Vị Xuyên:
Cao Bồ là xã có địa hình chia cắt, núi đất cao, độ dốc lớn nằm ở phía tây nam của huyện Vị Xuyên, cách trung tâm huyện khoảng 35km. Toàn xã có 590 hộ với 3.300 khẩu thuộc 2 dân tộc chính, trong đó người Dao chiếm 95%, người Tày gần 5%. Người dân sử dụng ngôn ngữ riêng trong sinh hoạt giao tiếp hàng ngày, nhưng đa số có thể nghe và hiểu được tiếng phổ thông. Vẫn còn nhiều người lớn tuổi đặc biệt là phụ nữ không biết đọc và viết tiếng phổ thông. Đường ô tô đến trung tâm xã đã được nâng cấp, chỉ còn một đoạn ngắn qua suối chưa làm; điện lưới quốc gia đã được kéo tới trung tâm xã nhưng chỉ có một số hộ sử dụng; xã chưa có điện thoại. Trụ sở xã và trung tâm y tế vẫn còn là nhà cấp 4, trong khi trường học đã được xây 2 tầng cách trụ sở xã khoảng 800 m, gần trường có xưởng chế biến chè của công ty TNHH Hùng Cường. Cao Bồ được công nhận là xã đặc biệt khó khăn và nằm trong diện 135. Bình quân thu nhập năm 2002 là 1,800,000 đồng, hiện còn 39 hộ nghèo trong đó trên 95% là hộ người Dao, 4.8% là Tày. Kinh tế phụ thuộc vào nông nghiệp với 162 ha đất canh tác. Cây chè đang được coi là nguồn thu khá quan trọng đối với người dân ở đây. Thu nhập thấp
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
42
mặc dù không còn hộ đói, khả năng đóng góp là rất hạn chế. Các bệnh thường gặp ở trẻ em là suy dinh dưỡng và tiêu chảy. Bệnh sốt rét vẫn xảy ra, nước sử dụng chủ yếu từ suối được dẫn bằng ống nhựa, tre về nhà. Không có hộ nào có nhà vệ sinh, nhà tắm hợp vệ sinh.
Xã Sảng Tủng, huyện Đồng Văn:
Sảng Tủng nằm ở phía Tây‐Nam của huyện Đồng Văn, trung tâm xã cách huyện trên một giờ ô tô, xã có 16 thôn bản, 503 hộ với 2.892 khẩu (1.504 nữ), hầu hết là người HMông (cả xã chỉ có 14 Tày, 10 Kinh và 1 Hoa). Cộng đồng hàng ngày giao tiếp chủ yếu bằng tiếng HMông. Ô tô có thể đến trung tâm xã bằng đường cấp phối. Do đặc thù địa hình là vùng núi đá, dân sống không tập trung, nên việc đi lại giữa các thôn rất khó khăn, từ trung tâm xã đến nhiều thôn phải đi bộ mất tới 4 giờ. Trung tâm xã đã có điện lưới, trụ sở xã được trang bị ăng ten thu vệ tinh và ti vi, mới có điện thoại. Trạm xá xã và trường tiểu học bán trú được xây 2 tầng khá khang trang nằm ngay cạnh trụ sở. Người dân trong xã gặp nhiều khó về nước sinh hoạt mặc dù tỉnh đã hỗ trợ các hộ xây bể dự trữ nước. Nguồn nước chính là hang Rồng với trữ lượng lớn nhưng cần được đầu tư máy bơm công suất lớn để phục vụ người dân. Cũng như Thài Phìn Tủng, người dân ở đây cũng sống chủ yếu nhờ vào sản xuất nông nghiệp. Cây lương thực chính là ngô (diện tích 816 ha) năng suất giống cũ đạt khoảng 14 tạ/ha, giống mới trên 20 tạ/ha. Do thiếu đất, ngô được trồng cả trên núi đá và mỗi năm chỉ trồng được 1 vụ do thiếu nước. Ngoài ra, người dân có trồng đậu tương, bí đỏ và cây lanh. Chăn nuôi chính là bò, lợn, dê, gà. Sảng Tủng là một xã vùng 3 của một huyện đặc biệt khó khăn với 42.17% hộ nghèo, 53.21% hộ trung bình, 4.62% hộ khá (theo phân loại của địa phương vào cuối năm 2002).
Xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn:
Trung tâm xã nằm ngay bên quốc lộ 4C cách thị trấn Đồng Văn 14 km về phía nam. Thài Phìn Tủng có 9 thôn với 461 hộ 2.763 khẩu (1.424 nữ). Có 3 dân tộc, trong đó dân tộc HMông là chủ yếu, có 35 người Tày và 17 người Kinh. Tiếng HMông là giao tiếp hàng ngày trong cộng đồng, tiếng phổ thông được biết nhiều trong lứa tuổi dưới 25. Tỷ lệ mù chữ cao với lứa tuổi trên 25 đặc biệt là phụ nữ. Mặc dù nằm ngay bê đường giao thông chính của tỉnh nhưng cho đến nay xã vẫn chưa có điện lưới. Trường tiểu học 2 tầng cũng nằm ngay gần đường đối diện với trụ sở xã. Trạm y tế xã và trụ sở là khu nhà cấp 4 hiện đang chờ kế hoạch nâng cấp. Cũng như các xã khác của huyện các hộ dân được hỗ trợ xây dựng bể nước nên dân có nhiều nước dùng hơn nhưng vẫn thiếu về mùa khô và chất lượng không đảm bảo. Diện tích tự nhiên của xã là 1.513 ha, chủ yếu là núi đá. Diện tích có thể canh tác là 446 ha. Cây lương thực chính là ngô (chỉ trồng được 1 vụ). Xã có một ít diện tích trồng lúa (khoảng 22 ha ruộng một vụ). Ngoài ra, người dân trồng thêm đậu tương và lanh. Vật nuôi chính là bò, lợn, gà. Là một xã vùng 3 của huyện, Thài Phìn Tủng là một xã nghèo và theo phân loại của địa phương năm 2002 xã còn có 25% hộ nghèo, 73.25% hộ trung bình và 1.75% hộ khá.
Di dân
43
Phụ lục 4: “9 Chính sách và 7 Dự án” XĐGN của tỉnh Hà Giang
(Báo cáo của Ban chỉ đạo XĐGN tỉnh giai đoạn 2001‐02)
9 Chính sách:
1. Chính sách hỗ trợ người nghèo về tư liệu sản xuất (trâu, bò kéo và sinh sản, máy nông nghiệp, phân bổ lại quỹ đất đai, tạo đk cho dân có đất sx): năm 2001‐02 hỗ trợ 55, 5 tỷ đồng cho 37.005 hộ nghèo.
2. Chính sách miễn thuế sử dụng đất NN cho người nghèo: 37.745 hộ, 4,2 tỷ đồng.
3. Chính sách GD, dạy nghề: xây dựng 288 trường học kiên cố, 617 điểm trường. Cấp phát sách và thiết bị học tập cho 180.138 lượt hs dân tộc và nghèo trị giá 12,464 tỷ. Tổ chức xoá mù cho 1.229 học viên, phổ cập tiểu học cho 4.645 học viên, dạy sau xóa mù cho 1.179 hv. Đào tạo nghề cho 5.379 lao động.
4. Chính sách Y tế-KHHGĐ: khám chữa bệnh miễn phí cho 810.497 lượt người nghèo (7,8 tỷ đồng). Hạ tỉ lệ tăng dân xuống 1,81%.
5. Chính sách an sinh xã hội: cứu trợ đột xuát cho 5.750 hộ gđ bị thiên tai hoả hoạn, chuyển trợ cấp 300 tấn lương thực của CP tới 2.637 hộ thiếu đói do ảnh hưởng của lũ lụt, cứu đói giáp hạt cho 7.396 hộ (35.485 khẩu). Duy trì trợ cấp thường xuyên cho trên 1.000 đối tượng không nơi nương tựa.
6. Chính sách hỗ trợ về nhà ở: hỗ trợ tấm lợp cho 26.871 hộ nghèo có nhà tạm dột nát. Hỗ trợ VLXD cho 203 hộ gia đình chính sách, 41 nhà tình nghĩa.
7. Chính sách hỗ trợ hộ nghèo tiêu thụ sản phẩm: xây dựng 23 chợ ở các xã và trung tâm cụm xã. Có chính sách ưu đãi vốn vay, khuyến khích đầu tư vào chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm nông lâm nghiệp như chè, nguyên liệu giấy, hàng thủ công mỹ nghệ ...
8. Chính sách hỗ trợ văn hoá thông tin cho người nghèo: xây mới 17 điểm bưu điện văn hoá xã; hỗ trợ TV, đài cho 16.957 hộ nghèo; xây dựng 20 trạm FM và cung cấp 150 bộ TVRO cho các thôn bản vùng đặc biệt khó khăn.
9. Chính sách hỗ trợ đồng bào đặc biệt khó khăn: hỗ trợ về đời sống và sản xuất cho 1.849 hộ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn ???
Các dự án:
1. Dự án đầu tư XD CSHT: tỉnh lồng ghép các nguồn vốn XDCB tập trung, 135, HPM... kết hợp nội lực theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”: bê tông hoá 319 km đường nông thôn, mở mới 1.259 km đường loại B đến các thôn bản; xây mới và nâng cấp trên 1.000 công trình thuỷ lợi nhỏ, kiên cố hoá 747 km kênh mương. Xây dựng 288 trường học và nhà lưu trú học sinh (trong đó 278 trường 2 tầng ở TT xã), xây dựng 617 điểm trường; xây mới 78 trạm xã 2 tầng; hỗ trợ kéo điện tới 10.121 hộ gđ, 10/10 huyện thị và 140/191 phường xã có điện lưới
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
44
quốc gia (40% dân được sử dụng điện). Tiếp tục thực hiện chủ trương “Đại công trường xây dựng” huy động lao động công ích XD CSHT 21,9 tỷ đồng; huy động nội lực trong dân để làm đường, trường, trạm, kiên cố hoá kênh mương, đường bên tông thôn bản được 377 tỷ đồng.
2. Dự án hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề: trích NS 31,94 tỷ đồng thực hiện 7 chương trình NN trọng tâm, hỗ trợ hộ nghèo phát triển các loại cây con có đặc tính phù hợp với đk địa phương và giá trị KT cao như chè, cà phê, trồng cây ăn quả, phát triển giống lúa, nuôi trâu, bò, dê.
3. Dự án tín dụng cho người nghèo: Cho 33.538 lượt hộ nghèo vay 72,7 tỷ đồng (nhà nước, tư nhân, người dân, tổ chức KT tư nhân ...)
4. Dự án hỗ trợ người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm: tổ chức 1.794 lớp TH KT và kinh nghiệm làm ăn cho 87.998 người, hỗ trợ khuyến nông cho 142 xã 135, xây dựng 331 mô hình trình diễn.
5. Dự án định canh định cư, di dân, kinh tế mới: hỗ trợ 207 hộ biên giới ổn định dân cư, 825 hộ vùng KTM, 55 hộ di dân từ vùng cao xuống vùng thấp; xây 8 công trình thuỷ lợi, 2 công trình cấp nước và 2 tuyến đường dân sinh.
6. DA hỗ trợ pháp lý cho người nghèo: Lập VP trợ giúp pháp lý cho người nghèo, tuyên truyền mở lớp tập huấn, giúp dân vùng cao nắm được các chủ trương, đường lối, nghị quyết của đảng, pháp luật của nhà nước
7. DA đào tạo cán bộ làm công tác XĐGN: mở 159 lớp tập huấn cho 9.298 lượt cán bộ.
Di dân
45
Phụ lục 5: Những Hỗ trợ của Nhà nước/ Chính quyền Địa phương
Phòng KH&ĐT Đồng Văn:
• Dự án đường GTNT (đường loại B): nhà nước hỗ trợ 40‐50 triệu đồng/km; dân đóng góp 30‐40 % giá trị bằng đóng góp công sức
• Hỗ trợ thường xuyên và đột xuất: mỗi năm từ 8‐12 tấn lương thực • Trồng cây sa mộc: hộ khá được hỗ trợ giống và lương thực, hộ nghèo được hỗ trợ
mỗi ha 700kg ngô hạt • Đàn dê: kế hoạch 2003 là 2.000 con (đã thực hiện được 1.400 con) • Hỗ trợ khai phá ruộng: 5 triệu đồng/ha • Khoanh nuôi bảo vệ rừng: dân được trả 50.000đ/ha + được tỉa cành, khai thác một
số ... • Các hộ tái định cư: được hỗ trợ tiền đi lại, làm nhà, 1 năm lương thực và cấp 1,5
ha đất
Phòng LĐTB&XH Đồng Văn:
• Hỗ trợ cứu đói 3 tháng mỗi khẩu 10kg gạo/tháng: cấp trực tiếp cho người dân tại huyện
• Hỗ trợ 100% lãi suất chăn nuôi dê/bò • Cán bộ tăng cường: tỉnh cử thì hỗ trợ 400.000đ/tháng; huyện cử chỉ có 300.000đ • Hệ số khu vực là 0,7 • Hỗ trợ các khoản khác: hạn chế cho không; riêng GD: bao cấp 100%
Phòng LĐTB&XH Vị Xuyên:
• Trợ cấp đột xuất: mỗi hộ bị thiên tai hoả hoạn được hỗ trợ 500.000đ + 2kg gạo/khẩu
• Trợ cấp thường xuyên theo CT 202: qui định của nhà nước 12kg gạo/khẩu, tỉnh hỗ trợ thêm 8 kg gạo nữa. Tính thành tiền là 70.000đ.
• Cải cách hành chính: đã triển khai được 2 năm. Tiêu chuẩn cán bộ huyện phải 100% trình độ đại học trở lên, nhưng không dễ áp dụng. Khó khăn lớn nhất là ở năng lực và ý thức của 1 số cán bộ.
Phòng NN&PTNT Vị Xuyên:
• Hệ thống cán bộ KN: đáng lẽ về mặt tổ chức 23 CBKN xã do Trạm KN quản lý, nhưng thực tế họ lại do Phòng NN&PTNT quản lý nên gặp nhiều khó khăn trong hoạt động. cán bộ Phòng NN VX có 7 người (4 đại học chính qui), Trạm KN VX: 6 người (2 đại học chính qui. Cấp xã có 23 cán bộ (mức lương và các khoản khác TB 300.000‐400.000đ/tháng và 99/170 thôn có cán bộ KN thôn bản. Phấn đấu 100%. Ngân sách của Trạm KN là 9 triệu đ/năm
• Cán bộ thú y: 23/23 xã, thị trấn (mỗi năm được TH 10 ngày), cũng có 1 số thôn có cán bộ TY thôn bản nhưng không nhiều. Nhà nước hỗ trợ 50% về vắc xin
• Cán bộ đi tập huấn được phát 5‐10.000đ/người.ngày.
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang
46
• Hỗ trợ giống lúa lai: hộ đói được trợ giá 70%; hộ nghèo 50% và hộ TB 30% • Hỗ trợ nuôi trâu/bò: mỗi hộ nghèo được vay 1,5 triệu đồng, huyện bao 100% lãi
suất (trả về NH Nông nghiệp), sau 3 năm hoàn trả lại vốn. • DV vật tư NN: VX có 3 trạm VTNN do nhà nước quản lý, cond lại là các DV tư
nhân. Các Trạm VTNN còn hạn chế, không nanưg động bằng tư thương (để ra được 1 quyết định phải qua nhiều cấp mất thời gian). Tuy nhiên lại có uy tín về bán sản phẩm có chất lượng đảm bảo hơn tư nhân.
• Cho hộ nghèo vay phân bón: không áp dụng do hộ nghèo được hưởng quá nhiều chính sách ưu đãi rồi.
2003
Danh gia ngheo co su tham giacua cong dong tai
NHOÏM HAÌNH ÂÄÜNGCHÄÚNG ÂOÏI NGHEÌO
Chæång trçnh Phaït triãøn Liãn håüp quäúc25-29 Phan Bäüi Cháu, Haì Näüi, Viãût NamTel: (84 4) 942 1495Fax:(84 4) 942 2267E-mail: [email protected] site: http://www.undp.org.vn
AÍnh: UNDP