Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam...

256
Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, nước ta có mấy bản Hiến pháp? Các bản Hiến pháp đó được Quốc hội thông qua vào ngày, tháng, năm nào? Trả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, nước ta có 05 bản Hiến pháp. - Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua vào ngày 9 tháng 11 năm 1946 - Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua vào ngày 31/12/1959. - Hiến pháp năm 1980 được Quốc hội khoá VI, tại kỳ họp thứ 7 ngày 18-12-1980, đã nhất trí thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980. 1 - Tư tưởng lập hiến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 2 - Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946 3 - Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Hiến pháp 1959 4 - Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Hiến pháp 1980 5 - Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Hiến pháp 1992 TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, có bộ máy thống trị trực tiếp của thực dân Pháp và triều đình Nhà Nguyễn theo chính thể quân chủ chuyên chế, nhưng thực chất là bộ máy tay sai của thực dân Pháp. Bởi vậy, nước ta là một thuộc địa không có hiến pháp.

Transcript of Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam...

Page 1: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, nước ta có mấy bản Hiến pháp? Các bản Hiến pháp đó được Quốc hội thông qua vào ngày, tháng, năm nào?

Trả lời Câu 1.

Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, nước ta có 05 bản Hiến pháp.

- Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua vào ngày 9 tháng 11 năm 1946

- Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua vào ngày 31/12/1959.

- Hiến pháp năm 1980 được Quốc hội khoá VI, tại kỳ họp thứ 7 ngày 18-12-1980, đã nhất trí thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980.

1 - Tư tưởng lập hiến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945

2 - Hoàn cảnh ra đời và   nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946

3 - Hoàn cảnh ra đời và   nội dung cơ bản của Hiến pháp 1959

4 - Hoàn cảnh ra đời và  nội dung cơ bản của Hiến pháp 1980

5 - Hoàn cảnh ra đời và  nội dung cơ bản của Hiến pháp 1992

TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, có bộ máy thống trị trực tiếp của thực dân Pháp và triều đình Nhà Nguyễn theo chính thể quân chủ chuyên chế, nhưng thực chất là bộ máy tay sai của thực dân Pháp. Bởi vậy, nước ta là một thuộc địa không có hiến pháp.

Tuy nhiên vào những năm đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản Pháp 1789, ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa năm 1911 và Chính sách duy tân mà Minh Trị Thiên Hoàng đã áp dụng tại Nhật Bản, trong giới trí thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến. Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này. Khuynh hướng thứ nhất của Phạm Quỳnh và Bùi Quang Chiêu. Cuộc bút chiến đã xảy ra giữa Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh về vấn đề trực trị hay quân chủ lập hiến. Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương bãi bỏ chế độ vua quan ở miền Bắc và miền Trung và đặt chúng dưới quyền cai trị trực tiếp của Chính phủ Pháp. Còn Phạm Quỳnh bênh vực chế độ vua quan cũ, cho rằng mặc dầu chế độ này có nhiều tệ tục, người ta vẫn có thể cải tiến chế độ cũ bằng cách áp dụng chế độ quân chủ lập hiến, nghĩa là ban hành một bản Hiến pháp để hạn chế quyền lực của Hoàng đế Việt Nam. Theo tư tưởng của Phạm Quỳnh và Bùi Quang Chiêu thì phải xây dựng một bản Hiến pháp vừa bảo đảm "quyền dân chủ" cho nhân dân, "quyền điều hành đất nước" của Hoàng đế và "quyền bảo hộ" của Chính phủ Pháp.

Như vậy thực chất tư tưởng của Phạm Quỳnh và Bùi Quang Chiêu dù trình bày cách này hay cách khác, người chủ trương xoá bỏ chế độ vua quan, người chủ trương thay thế chế độ quân chủ chuyên chế bằng chế độ quân chủ lập hiến, nhưng tựu trung vẫn đặt đất nước ta dưới sự thống trị của thực dân Pháp.

Page 2: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Khác với Phạm Quỳnh và Bùi Quang Chiêu, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Nguyễn ái Quốc chủ trương phải giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, sau đó mới xây dựng Hiến pháp của nhà nước độc lập. Không có độc lập tự do thì không thể có Hiến pháp thực sự. Đây là khuynh hướng thứ hai và là khuynh hướng đúng đắn nhất.

Một trong những chiến sĩ tiên phong khởi xướng và truyền bá tư tưởng dân chủ và tư tưởng lập hiến ở Việt Nam là Phan Chu Trinh. Vào năm 1902, Phan Chu Trinh đã bắt đầu tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây và những tư tưởng cải cách đất nước của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Bạch. Hai nguồn tư tưởng này đã giúp ông đề xướng tư tưởng "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", ông đã coi việc mở mang dân trí là tiền đề để xây dựng xã hội dân chủ. Là người phản đối kịch liệt chế độ quân chủ chuyên chế, ông thường nói: "Cái độc chuyên chế cùng cái hủ nho nhà ta đã trở thành chứng bệnh bất trị mà học thuyết tự do, dân quyền Âu Tây là vị thuốc đắng để chữa bệnh đó" . Ông đưa ra tư tưởng dân quyền, chủ trương bầu cử những người xứng đáng vào bộ máy Nhà nước. Trong Tỉnh quốc hồn ca ông viết:

"Người ta chẳng tưởng mơ quyền tước Làm quan vốn giúp nước, giúp dân

Những người khanh tướng công thầnAi ai cũng phải lấy dân làm nề

Nào là kẻ đủ bề tài tríNào là người cả khí kinh luânTiếng khen khắp cả xa gần

Trong khi tuyển cử thì dân nó bầu "

Năm 1922, trong "Thư thất điều gửi Hoàng đế Khải Định", ông đã buộc tội nền quân chủ chuyên chế là nguyên nhân sâu xa làm cho dân tộc ta suy yếu và để mất độc lập, chủ quyền. Ông nêu ra 7 tội đáng phải chết của Khải Định là:

1) Tôn bậy quân quyền;

2) Thưởng phạt không công bình;

3) Chuộng sự quỳ lạy;

4) Tiêu xài hoang phí;

5) Phục sức không đúng phép tắc quân vương;

6) Chơi bời vô độ;

7) Chuyến này đi Pháp với mục đích ám muội, duy trì quân quyền.

Công kích Khải Định, ông nói rõ: "Đó chẳng phải là công kích cá nhân Bệ hạ mà là công kích một hôn quân, cũng không phải vì tư kỹ của Trinh này mà làm, mà vì hai mươi triệu đồng bào xô ngã chuyên chế, ủng hộ tự do vậy"1 . Đề cao tư tưởng dân chủ và lập hiến, ông viết: "Nhật Bản là nước đồng chủng, đồng giống với nước ta, bốn mươi năm trước, họ lập ra Hiến pháp cho dân được bầu cử Nghị viên, còn việc chính trị trong nước theo ý của dân, chứ vua không được chuyên quyền cả" .

Vào những năm cuối đời mình, tư tưởng xây dựng Hiến pháp và một nhà nước dân chủ của Phan Chu Trinh thể hiện rất đậm nét trong bài diễn thuyết: "Quân trị và dân trị chủ nghĩa" của ông tại Hội khuyến học Sài Gòn, ông đã nhấn mạnh: "Trong nước có Hiến

Page 3: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

pháp, ai cũng phải tôn trọng Hiến pháp, cái quyền của Chính phủ cũng bởi Hiến pháp quy định cho, lười biếng không được mà dẫu có muốn áp chế cũng không chỗ nào thò ra được. Vả lại khi có điều gì vi phạm đến pháp luật thì người nào cũng như người nào, từ ông Tổng thống cho đến một người nhà quê cũng chịu theo pháp luật như nhau" . So sánh chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ dân chủ ông viết: "So sánh hai cái chủ nghĩa quân trị và dân trị thì ta thấy chủ nghĩa dân trị hay hơn chủ nghĩa quân trị nhiều lắm. Lấy theo ý riêng của một người hay của một triều đình mà trị một nước thì cái nước ấy không khác nào một đàn dê được no ấm vui vẻ hay đói khát khổ sở tuỳ theo lòng của người chăn. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị thì quốc dân lập ra Hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung của cả nước, lòng quốc dân thế nào thì làm thế đấy, dù không có người tài giỏi thì cũng không đến nỗi phải để dân khốn khổ làm tôi mọi một nhà, một họ nào" . Không những đề ra thuyết dân trị, Phan Chu Trinh còn phân tích rất sâu sắc cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước theo học thuyết phân chia quyền lực của John Locke và Montesquieu của nước Pháp. Ông viết: "Đây tôi nói về cái chính thể bên Pháp. ở trong nước có Nghị viện gồm thượng viện và hạ viện. Hạ viện là viện quan hệ nhất; khi nào đặt Tổng thống hay thiếu mà đặt lại thì hợp người ở trong hai viện ấy mà bỏ thăm. Người ra ứng cử cũng ở trong hai viện ấy. Ai được nhiều thăm thì làm Tổng thống. Khi Tổng thống được bầu rồi thì phải thề trước mặt hai viện ấy rằng: Cứ giữ theo Hiến pháp dân chủ, không phản bạn, không theo Đảng này, chống Đảng kia, cứ giữ công bình, nếu có làm bậy thì dân trục xuất ngay... Còn chính phủ cũng bởi trong hai viện ấy mà ra. Nhưng mà giao quyền cho Đảng nào chiếm số nhiều trong hai Viện ấy thì lập Quốc vụ viện (tức Chính phủ, Toà nội các) theo Quốc vụ viện bây giờ chừng đâu cũng vài chục bộ nhưng mà không phải ăn không ngồi rồi như các ông thượng thơ ở bên ta đâu. Ông nào có trách nhiệm ông ấy cả. Cái gì mà không bằng lòng dân, thế nào cũng có người chỉ trích...". Phân tích cơ chế phân chia quyền lực, ông viết: "Cái quan chức về việc cai trị chỉ có quyền hành chính mà thôi, còn quyền xử án thì giao cho các quan án là những người học giỏi luật lệ, có bằng cấp; các quan án chỉ coi việc xử đoán, có quyền độc lập, cứ theo lương tâm công bình, chiếu theo pháp luật mà xử, xử chính phủ cũng như xử một người dân. Các quan án ở về một viện riêng gọi là Viện tư pháp. Quyền tư pháp cũng như quyền hành chính của Chính phủ và quyền lập pháp của Nghị viện đều đứng riêng ra, không hợp lại trong tay một người nào".

Điều đáng lưu ý nhất trong tư tưởng lập hiến, lập pháp trong tư duy triết học pháp quyền của Phan Chu Trinh chính là ở chỗ tuy đánh giá rất cao tư tưởng lập hiến, lập pháp của Montesquieu và của Rousseau nhưng ông hoàn toàn chống lại những người tiếp thu một cách máy móc tư tưởng phương Tây. Trong bài diễn thuyết "Đạo đức và luân lý Đông Tây", ông gọi những người nho học cũ bảo thủ là "hủ nho" còn loại người tây học mất gốc, sùng bái nước ngoài vô lối là "hủ tây" ông nói cả "hủ nho" "hủ tây" đều là loại người dân nước phải biết phân biệt để tránh xa, kẻo mang hoạ cho dân nước1 . Như vậy có thể thấy tư tưởng triết học pháp quyền của ông là phải biết gạn lọc những cái tiến bộ tinh tuý của tư tưởng dân chủ phương Tây cũng như những yếu tố dân chủ tốt đẹp của công xã nông thôn và đạo đức luân lý thuần khiết của phương Đông để xây dựng nền Hiến pháp và pháp luật cho nước nhà khi dân ta làm chủ đất nước.

Cũng là những người yêu nước, tìm đường cứu nước, nhưng Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu có những chính kiến riêng của mình. Tư tưởng của Phan Bội Châu là đoàn kết nhân dân lao động đánh đuổi thực dân Pháp rồi tiến hành canh tân xã hội. Còn Phan Chu Trinh chủ trương đoàn kết nhân dân canh tân, dân chủ hoá xã hội, đánh đổ

Page 4: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

phong kiến noi theo phương Tây, tự cường dân tộc, giành độc lập. Do hạn chế của hoàn cảnh lịch sử mà cả Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh ở mức độ khác nhau đều chưa nhận thức được bản chất thực sự của chủ nghĩa đế quốc. Nhưng có thể nói rằng tư tưởng lớn của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai mạch nguồn quan trọng trong tư tưởng của Nguyễn ái Quốc, trong đó có tư tưởng lập hiến. Nhờ ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn ái Quốc đã khắc phục được những hạn chế của hai ông, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của Nguyễn ái Quốc đã kết hợp được ngọn cờ phản đế và phản phong mới đi đến thắng lợi .

Đầu năm 1919, nhà cách mạng Nguyễn ái Quốc đã gửi Yêu sách của nhân dân An Nam cho Hội nghị Vessailles của các nước Đồng minh, trong đó đã thể hiện rõ tư tưởng lập hiến của Người. Sau Nguyễn ái Quốc lại dịch và diễn thành lời ca bản Yêu sách đó với tựa đề "Việt Nam yêu cầu ca" để tuyên truyền trong đồng bào Việt kiều sống trên đất Pháp. Trong tám điều yêu sách, đáng lưu ý là điều thứ bảy, đó là yêu cầu lập hiến lập pháp cho nhân dân Việt Nam:

"Bảy xin Hiến pháp ban hành Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".

Sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3-2-1930), Nguyễn ái Quốc vẫn theo đuổi tư tưởng lập hiến của mình. Trong các nhiệm vụ mà Hội nghị Trung ương tháng 11-1940 do Nguyễn ái Quốc chủ trì đề ra có nhiệm vụ thứ ba là: ban bố Hiến pháp dân chủ, ban bố những quyền tự do dân chủ cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp2 .... Sau hơn 27 năm nung nấu tư tưởng của mình sau khi giành được độc lập cho dân tộc, Nguyễn ái Quốc trở thành Chủ tịch nước, Người mới thể hiện được tư tưởng của mình thành sự thật. Tư tưởng của Người được thể hiện trong Hiến pháp 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước nhà.

HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA

HIẾN PHÁP 1946.

 1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1946

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngay sau đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3-9-1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng Hiến pháp. Người viết: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ".

Ngày 20-9-1945, Chính phủ Lâm thời ra Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11-1945, Ban dự thảo đã hoàn thành công việc và bản dự thảo được công bố cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt Nam hăng hái tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo Hiến pháp chứa đựng mơ ước bao đời của nhân dân ta về độc lập và tự do.

Ngày 2-3-1946, Quốc hội đã nghe Chính phủ trình bày bản dự thảo Hiến pháp. Trên cơ sở đó, Quốc hội (Khoá I, Kỳ họp thứ nhất) đã thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người, đại biểu của nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ban dự thảo có nhiệm vụ tổng kết các ý kiến đóng góp của nhân dân và xây dựng bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc hội xem xét và thông qua.

Page 5: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Ngày 28-10-1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá I đã khai mạc. Ngày 9-11-1946, sau hơn mười ngày làm việc khẩn trương, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với 240 phiếu thuận, 2 phiếu chống.

Vào thời điểm Quốc hội thông qua Hiến pháp, thực dân Pháp phản bội các hiệp định đã ký kết với Chính phủ ta, chúng không ngừng khiêu khích và tấn công chúng ta bằng vũ lực, hòng lập lại ách thống trị của chúng ở Việt Nam. Trước tình hình đó, trong phiên họp ngày 9-11-1946, sau khi tuyên bố Hiến pháp đã trở thành chính thức, Quốc hội ra Nghị quyết giao nhiệm vụ cho Ban thường trực Quốc hội cùng với Chính phủ ban bố và thi hành Hiến pháp khi có điều kiện thuận lợi. Theo Nghị quyết của Quốc hội trong điều kiện chưa thi hành được Hiến pháp thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp để ban hành các sắc luật. Ngày 19-12-1946, mười ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp 1946 không được chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.

2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946

Hiến pháp năm 1946 bao gồm lời nói đầu và 7 chương, 70 điều.

Lời nói đầu xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Lời nói đầu đã xác định ba nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp.

Đó là những nguyên tắc sau đây:

- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo.

- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Chương I: Quy định hình thức chính thể của Nhà nước ta là dân chủ cộng hoà.

Chương II: Quy định về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân.

Chương III: Quy định về cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất - Nghị viện nhân dân.

Chương IV: Quy định về Chính phủ - cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất.

Chương V: Quy định về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân - cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính Nhà nước, địa phương.

Chương VI: Quy định về cơ quan tư pháp - cơ quan xét xử của Nhà nước.

Chương VII: Quy định về vấn đề sửa đổi Hiến pháp.

Toàn bộ 7 chương của Hiến pháp đều được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản đã nói trên. Chính ba nguyên tắc này đã thể hiện ba đặc điểm cơ bản của Hiến pháp 1946.

Xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết toàn dân, Điều I của Hiến pháp viết: "Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền hành trong nước là của toàn thể

Page 6: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Đây là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam. Lần đầu tiên ở nước ta cũng như ở Đông Nam á một nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập, và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, hình thức chính thể là hình thức cộng hoà. Đó là bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ; quy định trên đây cũng đề cao tính dân tộc của Nhà nước. Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên do Bác Hồ khai sinh là Nhà nước độc lập của một dân tộc hơn tám mươi năm đấu tranh để giành lại chủ quyền cho đất nước, phá bỏ ách áp bức của thực dân và phế bỏ chế độ vua quan. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, không những có sự tham gia của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, binh lính - mà còn có sự tham gia của những người xuất thân từ tầng lớp địa chủ, tư sản nhưng yêu nước thương nòi. Vì thế, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên của ta là Nhà nước đoàn kết toàn dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.

Tuân thủ nguyên tắc "Đảm bảo các quyền tự do dân chủ", Hiến pháp 1946 rất chú trọng đến chế định công dân. Điều đó thể hiện ở chỗ Hiến pháp có 7 chương thì chương II dành cho chế định công dân. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam được đảm bảo có quyền tự do, dân chủ. Điều 10 Hiến pháp quy định: "Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài". Hiến pháp 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ rộng rãi. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được pháp luật ghi nhận (Điều 6,7) và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trong mọi phương diện. Với bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, công dân Việt Nam được hưởng quyền bầu cử, ứng cử, nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu do mình bầu ra khi họ không tỏ ra xứng đáng với danh hiệu đó.

Khác với Hiến pháp đầu tiên của nước Nga Xô viết năm 1918, nơi mà mọi tài sản tư hữu của giai cấp địa chủ và tư sản bị quốc hữu hoá, Hiến pháp 1946 bảo vệ quyền tư hữu tài sản của mọi công dân Việt Nam.

Dựa trên nguyên tắc thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, hình thức Nhà nước theo Hiến pháp 1946 có nhiều nét độc đáo đáng chú ý. Khác với Hiến pháp 1959, đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng; theo Hiến pháp 1946, người đứng đầu Chính phủ là Chủ tịch nước. Thành phần Chính phủ gồm có: Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và Nội các. Nội các gồm có các bộ trưởng, thứ trưởng, có thể có Phó Thủ tướng (Điều 44). Như vậy theo bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ. Mặt khác, Chủ tịch nước có quyền phủ quyết. Quyền đó thể hiện ở Điều 31 và 54. Điều 31 Hiến pháp quy định: "Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước phải ban bố chậm nhất là mười hôm sau khi nhận được thông tin. Nhưng trong thời hạn ấy, Chủ tịch có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố". Còn ở Điều 54, Hiến pháp quy định "Trong hạn 24 giờ, sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại. Như vậy hình thức Chính thể của Nhà nước ta theo Hiến pháp 1946 có phần giống hình thức cộng hoà tổng thống. Nhưng Chủ tịch nước của ta theo Hiến pháp 1946 không phải do cử tri trực tiếp bầu ra mà do Nghị viện nhân dân bầu ra. Mặt khác, Chủ tịch nước chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Thủ tướng chọn Bộ

Page 7: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Chính phủ chịu sự kiểm soát của Nghị viện. Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức. Những quy định trên cho ta thấy hình thức chính thể của Nhà nước ta theo Hiến pháp 1946 là hình thức kết hợp giữa cộng hoà tổng thống và cộng hoà nghị viện. Nhưng nét độc đáo của nó còn thể hiện ở chỗ nó không hề giống hoàn toàn hình thức chính thể của những nước cũng có hình thức pha trộn như Pháp, Phần Lan, Bồ Đào Nha,....

Qua những nét phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng Hiến pháp đầu tiên của nước ta - Hiến pháp 1946 là một Hiến pháp dân chủ tiến bộ không kém bất kỳ một bản Hiến pháp nào trên thế giới.

Về kỹ thuật lập pháp, Hiến pháp 1946 là một bản Hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người. Nó là một bản Hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương diện.

 

HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP 1959

 1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1959

Tính đến thời điểm năm 1959, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra đời và phát triển được 14 năm. Đó là một khoảng thời gian có nhiều sự kiện chính trị quan trọng làm thay đổi tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của đất nước.

Ngay sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp 1946, thực dân Pháp lại gây ra chiến tranh để xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân ta đã đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, kiên quyết đập tan âm mưu nô dịch của thực dân Pháp và bè lũ tay sai bán nước. Với Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơnevơ thắng lợi, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Đất nước còn tạm thời chia làm hai miền và việc thống nhất đất nước theo Hiệp định sẽ được thực hiện sau hai năm bằng cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước do chính quyền hai miền hiệp thương tổ chức.

Nhưng sau khi hất cẳng Pháp, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã vi phạm Hiệp định Giơnevơ, từ chối hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất nước ta. Vì vậy nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới này là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong ba năm (1955-1957), ở miền Bắc, chúng ta đã hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Năm 1958, chúng ta bắt đầu thực hiện kế hoạch kinh tế ba năm nhằm phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế và văn hoá, chúng ta đã có những tiến bộ lớn. Thí dụ, "từ năm 1955 đến năm 1959, sản lượng thóc đã tăng từ 3 triệu 60 vạn tấn đến 5 triệu 20 vạn tấn. Về công nghiệp , năm 1955 chúng ta chỉ có 17 xí nghiệp quốc doanh năm 1959 đã có 107 xí nghiệp quốc doanh. Số hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cấp thấp chiếm 43,9% tổng số nông hộ, đa số nông hộ chưa vào hợp tác xã đã vào tổ đổi công, 53% tổng số thợ thủ công vào các tổ chức hợp tác xã. Về văn hoá, chúng ta đã có những bước tiến bộ lớn. So với năm 1955, số học sinh phổ thông tăng lên gấp 2 lần; số học sinh trường chuyên nghiệp trung cấp tăng lên gấp 6 lần; số sinh viên đại học tăng lên gấp 7 lần; số bác sĩ y khoa tăng 80% ".

Page 8: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Đi đôi với những thắng lợi đó, quan hệ giai cấp trong xã hội miền Bắc đã thay đổi. Giai cấp địa chủ phong kiến đã bị đánh đổ. Liên minh giai cấp công nhân và nông dân ngày càng được củng cố và vững mạnh.

Hiến pháp 1946, Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Nhà nước ta đã hoàn thành sứ mệnh của nó, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946 và thành lập Ban dự thảo Hiến pháp sửa đổi.

Sau khi làm xong bản dự thảo đầu tiên, tháng 7 năm 1958 bản dự thảo đã được thảo luận trong các cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan quân, dân, chính, Đảng. Sau đợt thảo luận này, bản dự thảo đã được chỉnh lý lại và ngày 1 tháng 4 năm 1959 đem công bố để toàn dân thảo luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Cuộc thảo luận này làm trong bốn tháng liền tại khắp các nơi, trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học và các tổ chức khác của nhân dân, ở thành thị và nông thôn, việc nghiên cứu và thảo luận dự thảo Hiến pháp tiến hành sôi nổi và đã trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi có đủ các tầng lớp nhân dân tham gia. Ngày 18-12-1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp.

2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1959

Hiến pháp 1959 gồm có Lời nói đầu và 112 điều chia làm 10 chương:

Chương I- Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; Chương II- Chế độ kinh tế và xã hội; Chương III- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Chương IV- Quốc hội; Chương V- Chủ tịch nước; Chương VI- Hội đồng Chính phủ; Chương VII- Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; Chương VIII- Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân; Chương IX- Quốc kỳ, Quốc huy, Thủ đô; Chương X- Sửa đổi Hiến pháp.

Lời nói đầu khẳng định nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau, khẳng định những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam như lao động cần cù, anh dũng đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước. Lời nói đầu ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) trong công cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời xác định bản chất của Nhà nước là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Chương I- Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

Đây là chương quy định chế độ chính trị của Nhà nước. Chương này gồm 8 điều quy định các vấn đề cơ bản sau đây:

- Hình thức chính thể của Nhà nước là Cộng hoà dân chủ (Điều 2). Hiến pháp xác định tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4).

- Quy định Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan Nhà nước khác thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 4).

Page 9: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Cũng như Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 khẳng định đất nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia cắt (Điều 1).

- Quy định nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ các dân tộc (Điều 3).

- Quy định các nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 5).

- Xác định nguyên tắc tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân (Điều 6).

Chương II: Chế độ kinh tế và xã hội

Quy định những vấn đề liên quan đến nền tảng kinh tế - xã hội của Nhà nước, chương này bao gồm 13 điều (từ Điều 9 đến Điều 21) với những quy định chủ yếu sau đây:

- Xác định đường lối kinh tế của Nhà nước ta trong giai đoạn này là biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Quy định mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của Nhà nước là không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân (Điều 9).

- Quy định các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là: sở hữu Nhà nước (tức là của toàn dân), sở hữu của hợp tác xã (tức là hình thức sở hữu tập thể của người lao động), sở hữu của người lao động riêng rẽ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc (Điều 11).

- Xác định kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu của toàn dân giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên. Các hầm mỏ, sông ngòi, những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định của Nhà nước đều thuộc sở hữu của toàn dân (Điều 12).

- Quy định việc Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và tư liệu sản xuất khác của nông dân (Điều 14). Bảo hộ quyền tư hữu về tư liệu sản xuất của người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác (Điều 15), bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc (Điều 16), bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác (Điều 18), bảo hộ người thừa kế tài sản của công dân (Điều 19).

So với Hiến pháp 1946 thì Chương II là một chương hoàn toàn mới. Chương này được xây dựng theo mô hình của Hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy ngoài việc quy định kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, Hiến pháp còn quy định Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất. Nhà nước thông qua các cơ quan Nhà nước, tổ chức công đoàn, hợp tác xã và các tổ chức khác của nhân dân lao động để xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh tế.

Chương III: Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 21 điều (từ Điều 22 đến Điều 42). Theo Hiến pháp công dân Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:

Page 10: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Các quyền về chính trị và tự do dân chủ như quyền bầu cử và ứng cử (Điều 23); quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 22); quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25); quyền khiếu nại, tố cáo về những hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên, cơ quan Nhà nước (Điều 29).

- Các quyền về dân sự, kinh tế, văn hoá - xã hội như quyền làm việc (Điều 30) quyền nghỉ ngơi (Điều 31), quyền được giúp đỡ về vật chất như già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (Điều 32), quyền học tập (Điều 33), quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hoá khác (Điều 34), quyền tự do tín ngưỡng (Điều 26).

- Các quyền về tự do cá nhân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 27). Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của toà án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, quyền bí mật thư tín, quyền tự do cư trú và tự do đi lại.

- Các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp bao gồm: nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội (Điều 39); nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng (Điều 40); Nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật (Điều 41); nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 42). So với Hiến pháp 1946, chế định quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 1959 là một bước phát triển mới.

Bên cạnh việc quy định các quyền của công dân, Hiến pháp còn xác định nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện. Ngoài những quyền và nghĩa vụ mà Hiến pháp 1946 đã ghi nhận, Hiến pháp 1959 còn quy định thêm nhiều quyền và nghĩa vụ mới mà trong Hiến pháp 1946 chưa được thể hiện. Ví dụ: Quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động, quyền tự do nghiên cứu khoa học và sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hoá khác, quyền khiếu nại tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên, cơ quan Nhà nước, nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng.

Chương IV: Quốc hội, bao gồm 18 điều (từ Điều 43 đến Điều 60) quy định các vấn đề liên quan đến chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. So với nhiệm kỳ của Nghị viện theo Hiến pháp 1946 thì nhiệm kỳ của Quốc hội dài hơn (nhiệm kỳ của Nghị viện là 3 năm, còn nhiệm kỳ Quốc hội là 4 năm). Hiến pháp 1946 chỉ quy định quyền hạn của Nghị viện nhân dân một cách ngắn gọn là giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài, còn Hiến pháp 1959 thì quy định quyền hạn của Quốc hội một cách cụ thể hơn. Theo Điều 50 của Hiến pháp thì Quốc hội có những quyền hạn sau đây: Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm pháp luật; giám sát việc thi hành Hiến pháp; bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước; theo đề nghị của Chủ tịch nước quyết định cử Thủ tướng Chính phủ; theo đề nghị của Thủ tướng quyết định cử Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ, theo đề nghị của Chủ tịch nước quyết định cử Phó chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quốc phòng; bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao; bầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, bãi miễn Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng, Phó Thủ tướng, và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Quốc phòng, Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát

Page 11: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

nhân dân tối cao; quyết định kế hoạch kinh tế Nhà nước, xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách của Nhà nước; ấn định các thứ thuế. Ngoài ra Quốc hội còn có những quyền hạn quan trọng khác như Phê chuẩn việc thành lập và bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang Bộ, phê chuẩn việc phân vạch địa giới các tỉnh, khu vực khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung ương; quyết định đặc xá, quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình, những quyền hạn cần thiết khác do Quốc hội quyết định.

Quốc hội có cơ quan thường trực của mình là Uỷ ban thường vụ Quốc hội, do Quốc hội bầu ra. Uỷ ban thường vụ quốc hội gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký, các uỷ viên. Quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng được quy định rõ ràng tại Điều 53 của Hiến pháp. Ngoài những quyền hạn được quy định trong Hiến pháp, Quốc hội có thể trao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội những quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết. Theo quy định của Hiến pháp, chúng ta thấy Uỷ ban thường vụ Quốc hội có các quyền hạn sau đây: Tuyên bố và chủ trì việc tuyển cử đại biểu Quốc hội; triệu tập Quốc hội, giải thích pháp luật, ra pháp lệnh; quyết định việc trưng cầu ý dân, giám sát công tác của Hội đồng Chính phủ, của Toà án nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị định, nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ trái với Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, sửa đổi và bãi bỏ những nghị quyết không thích hợp của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và giải tán các Hội đồng nhân dân nói trên trong trường hợp các Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân một cách nghiêm trọng. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc bãi miễn các phó chánh án, thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, bổ nhiệm hoặc bãi miễn các phó viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm hoặc bãi miễn các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ta ở nước ngoài; quyết định việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước ký với nước ngoài (trừ trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét cần phải trình Quốc hội quyết định). Ngoài ra Uỷ ban thường vụ Quốc hội còn có thẩm quyền quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao, những hàm và cấp khác; quyết định đặc xá, quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; Quyết định việc tổng động viên hoặc động viên cục bộ, quyết định việc giới nghiêm trong toàn quốc hoặc từng địa phương. Trong thời gian Quốc hội không họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền quyết định việc bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm các Phó Thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; có quyền quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi đất nước bị xâm lược.

Theo quy định của Hiến pháp 1959, ngoài Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội còn thành lập các uỷ ban chuyên trách như Uỷ ban dự án pháp luật, Uỷ ban kế hoạch và ngân sách, Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu và các uỷ ban khác mà Quốc hội thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội (Điều 56, 57).

Chương V: Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bao gồm 10 điều (từ Điều 61 đến Điều 70). So với Hiến pháp 1946 thì đây là một chương mới. Trong Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước đứng đầu Chính phủ, nằm trong thành phần của Chính phủ nên được quy định chung trong chương "Chính phủ". Theo Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước không nằm trong thành phần của Chính phủ. Đứng đầu Chính phủ lúc này là Thủ tướng Chính phủ, còn Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước thay mặt Nhà nước về mặt đối nội cũng như đối ngoại. Vì vậy, chế định Chủ tịch nước được quy định thành một chương riêng. Theo Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra. Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 35 tuổi trở lên có quyền ứng cử chức vụ Chủ

Page 12: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

tịch nước. Như vậy khác với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 quy định tuổi tối thiểu để có thể ứng cử chức vụ Chủ tịch nước là 35, còn Hiến pháp 1946 không quy định cụ thể, mặt khác theo Hiến pháp 1946 Chủ tịch nước phải được chọn trong Nghị viện nhân dân tức là trong số các nghị sĩ, còn Hiến pháp 1959 không đòi hỏi ứng cử viên phải là đại biểu Quốc hội.

So với Hiến pháp 1946 quyền hạn của Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1959 hẹp hơn vì theo Hiến pháp 1946 Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ, tương đương với chức năng của Tổng thống Hoa Kỳ và tổng thống của các nước có hình thức chính thể cộng hoà Tổng thống; còn theo Hiến pháp 1959 chức năng của người đứng đầu Chính phủ đã chuyển sang cho Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên theo Hiến pháp 1959 quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn. Ví dụ: Chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng (Điều 65) Chủ tịch nước khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ toạ hội nghị chính trị đặc biệt (Điều 67). Hội nghị chính trị đặc biệt bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ và những người hữu quan khác. Hội nghị này xem xét những vấn đề lớn của Nhà nước, ý kiến của Hội nghị chính trị đặc biệt do Chủ tịch nước chuyển đến Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ hoặc các cơ quan khác để thảo luận và ra quyết định; Chủ tịch nước khi xét thấy cần thiết có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ.

Chương VI- Hội đồng Chính phủ, bao gồm 7 điều (từ Điều 71 đến Điều 77) theo quy định tại Điều 71 Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất. Quy định này thể hiện rõ nguyên tắc quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Quy định này cũng cho ta thấy rằng Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp 1959 được tổ chức hoàn toàn theo mô hình Chính phủ của các nước xã hội chủ nghĩ1 khác với Chính phủ trong Hiến pháp 1946 xây dựng theo mô hình Chính phủ tư sản. Về thành phần của Hội đồng Chính phủ theo quy định tại Điều 72 khác cơ bản so với trước đây là không có Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước và không có các thứ trưởng.

Chương VII- Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính địa phương các cấp bao gồm 14 điều (từ Điều 78 đến Điều 91). Trong chương này Hiến pháp xác định các đơn vị hành chính ở nước ta là: tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã; xã, thị trấn. Ngoài ra còn có khu tự trị (Tây Bắc và Việt Bắc). Các khu tự trị này tồn tại đến tháng 12-1975.

Như vậy theo Hiến pháp 1959 cấp bộ (Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ) được bãi bỏ. Khác với Hiến pháp 1946 chỉ có cấp tỉnh và cấp xã mới có Hội đồng nhân dân, Hiến pháp 1959 quy định tất cả các cấp tỉnh, huyện, xã đều có Hội đồng nhân dân. Ngoài ra Hiến pháp còn ghi rõ Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.

Chương VIII- Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, gồm 15 điều (từ Điều 97 đến Điều 111). So với Hiến pháp 1946 chương này cũng có nhiều thay đổi. Theo Hiến pháp 1946 hệ thống toà án được tổ chức theo cấp xét xử không phụ thuộc hoàn toàn vào các đơn vị hành chính - lãnh thổ. Theo đó hệ thống toà án gồm có toà án tối cao, các toà án phúc thẩm, các toà đệ nhị cấp và sơ cấp. (Có thể nói đây là cách tổ chức toà án theo mô hình của Pháp). Theo Hiến pháp 1959 hệ thống Toà án ở nước ta bao gồm: Toà án

Page 13: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân huyện và các toà án quân sự. Ngoài ra trong trường hợp xét xử những vụ án đặc biệt Quốc hội có thể quyết định thành lập toà án đặc biệt. Theo Hiến pháp 1959 hệ thống toà án nhân dân địa phương được tổ chức theo các đơn vị hành chính- lãnh thổ cấp tỉnh, cấp huyện. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vừa xét xử phúc thẩm các bản án do toà án huyện xét xử sơ thẩm, vừa xét xử sơ thẩm các bản án thuộc thẩm quyền của chúng. Theo quy định của Hiến pháp 1959, chế độ bổ nhiệm thẩm phán bị bãi bỏ và thực hiện chế độ thẩm phán bầu. Việc xét xử ở các toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Theo mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp 1959 đã quy định việc thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật và thực hiện quyền công tố. Hệ thống Viện kiểm sát bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã và các Viện kiểm sát quân sự.

Viện kiểm sát nhân dân tổ chức theo chế độ Thủ trưởng trực thuộc một chiều. Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát cấp trên và tất cả đều đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Chương IX- Quy định về Quốc kỳ, Quốc huy và Thủ đô.

Chương X- Quy định về sửa đổi Hiến pháp.

Theo quy định của Hiến pháp chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp với điều kiện phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

Tóm lại, Hiến pháp 1959 là Hiến pháp được xây dựng theo mô hình Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Nó là bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta.

Hiến pháp 1959 đã ghi nhận những thành quả đấu tranh giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam.

Với Hiến pháp 1959, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) được ghi nhận bằng đạo luật cơ bản của Nhà nước.

Hiến pháp 1959 là Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và Cương lĩnh để đấu tranh thống nhất nước nhà.

Hiến pháp 1959 là sự kế thừa và phát triển của Hiến pháp 1946 trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. Nó là cơ sở, nền tảng để xây dựng toàn bộ hệ thống pháp luật ở miền Bắc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP 1980

 1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1980

Page 14: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975 đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Nước nhà đã hoàn toàn độc lập, tự do là điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền Nam, Bắc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trước tình hình đó, tháng 9-1975, Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu lúc này là phải hoàn thành việc thống nhất nước nhà. Nghị quyết của Hội nghị đã nhấn mạnh: "Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của đồng bào cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam. Cách mạng thắng lợi trong cả nước, chế độ thực dân mới do đế quốc Mỹ áp đặt ở miền Nam bị đập tan, nguyên nhân chia cắt đất nước bị hoàn toàn thủ tiêu, thì đương nhiên cả nước ta độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ nay, Tổ quốc ta từ Lạng Sơn đến Cà Mau, từ đất liền đến hải đảo vĩnh viễn độc lập, thống nhất trên cơ sở chủ nghĩa xã hội"1 . Hội nghị 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định triệu tập Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc. Hội nghị Hiệp thương chính trị đã được tiến hành từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975 tại Sài Gòn bao gồm đại biểu của hai miền Nam, Bắc với đủ các thành phần đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. Hội nghị đã nhất trí quyết định tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Quốc hội chung của cả nước sẽ xác định hệ thống chính trị của Nhà nước, thành lập cơ quan Nhà nước Trung ương và xây dựng Hiến pháp mới của Nhà nước Việt Nam thống nhất. Cuộc tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã diễn ra ngày 25-4-1976 với sự tham gia của hơn 23 triệu cử tri, chiếm gần 99% tổng số cử tri. Tỷ lệ này ở miền Bắc là 99,36%, ở miền Nam là 98,59%. Tổng số đại biểu Quốc hội đã bầu là 492 trong đó có 249 đại biểu miền Bắc và 243 đại biểu miền Nam . Tổng số đại biểu Quốc hội được tính theo tỷ lệ 1 đại biểu /100.000 cử tri . Cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả dân tộc đã giành được thắng lợi rực rỡ.

Sau thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử, Quốc hội chung của cả nước đã bắt đầu kỳ họp đầu tiên vào ngày 25-6-1976 và kéo dài đến ngày 3-7-1976. Ngày 2-7-1976 Quốc hội đã thông qua các Nghị quyết quan trọng. Đó là các Nghị quyết về lấy tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca và Thủ đô, về tổ chức và hoạt động của Nhà nước trong khi chưa có Hiến pháp mới. Quốc hội đã quyết định trong khi chưa có Hiến pháp mới, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta dựa trên cơ sở Hiến pháp 1959 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Quốc hội đã bầu ra các vị lãnh đạo Nhà nước và thành lập ra các cơ quan Nhà nước Trung ương như Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ quốc hội, Hội đồng Chính phủ, Hội đồng quốc phòng, Toà án và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội cũng đã quyết định khoá Quốc hội này là khoá VI để thể hiện tính liên tục và nhất quán của Nhà nước t1 . Cũng vào ngày 2-7-1976 Quốc hội khoá VI đã ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội làm Chủ tịch. Sau một năm rưỡi làm việc khẩn trương, uỷ ban đã hoàn thành dự thảo. Bản dự thảo được đưa ra cho cán bộ Trung, cao cấp thảo luận vào tháng 2-1978. Từ tháng 8-1979 bản dự thảo được đưa ra cho toàn dân thảo luận. Tháng 9-1980, Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp kỳ đặc biệt để xem xét và cho ý kiến bổ sung, sửa chữa dự thảo trước khi trình Quốc hội thảo luận, thông qua. Sau một

Page 15: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

thời gian thảo luận Quốc hội khoá VI, tại kỳ họp thứ 7 ngày 18-12-1980, đã nhất trí thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980.

2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1980

Hiến pháp 1980 bao gồm: Lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương.

Lời nói đầu của Hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm để dựng nước và giữ nước. Cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ vì độc lập tự do đã hun đúc nên truyền thống kiên cường bất khuất của dân tộc ta. Tiếp đó, nêu tóm tắt những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Lời nói đầu xác định những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra và nêu lên những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp 1980 đề cập đến.

Chương I: Chế độ chính trị. Chương này có 14 điều (từ Điều 1 đến Điều 14) bao gồm các vấn đề cơ bản sau đây:

- Xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của Nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản (Điều 2).

Khác với Hiến pháp 1946, 1959, Hiến pháp 1980 quy định các quyền dân tộc cơ bản bao gồm bốn yếu tố: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đây là một phạm trù pháp luật quốc tế do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng dựa trên những khái niệm chung về quyền tự nhiên của con ngườ1 . Phạm trù "Quyền dân tộc cơ bản" được thế giới thừa nhận một cách rộng rãi (đặc biệt được các hội nghị quốc tế của Đoàn luật gia dân chủ thế giới thừa nhận). Nó trở thành một trong những phạm trù quan trọng của luật quốc tế hiện đại, một đóng góp lớn của Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ các quyền cơ bản của các dân tộc đã và đang đấu tranh vì nền độc lập, tự do của dân tộc mình.

- Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp 1980 thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vào một điều của Hiến pháp (Điều 4). Sự thể chế hoá này thể hiện sự thừa nhận chính thức của Nhà nước về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Mặt khác do tính chất bắt buộc của pháp luật, nên việc thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng vào Hiến pháp cũng có nghĩa là bắt buộc tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần chúng và mọi công dân phải tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy sự thể chế hoá này làm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, cần phải tránh hiện tượng các tổ chức của Đảng bao biện làm thay chức năng của các cơ quan Nhà nước. Cần phải phân biệt chức năng của các tổ chức của Đảng với chức năng của các cơ quan Nhà nước. Các tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.

- Ngoài việc thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng vào Hiến pháp, Hiến pháp 1980 còn xác định vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội quan trọng khác như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9), Tổng công đoàn Việt Nam (Điều 10). Đây cũng là lần đầu tiên vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội này được quy định trong Hiến pháp.

Page 16: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Với Hiến pháp 1980, quan điểm làm chủ tập thể của Đảng ta được thể chế hoá vào Hiến pháp. Tại Điều 3 Hiến pháp quy định: "ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người chủ tập thể là nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và những người lao động khác mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nhà nước bảo đảm không ngừng hoàn chỉnh và củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, làm chủ trong phạm vi cả nước, từng địa phương, từng cơ sở, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân".

- Cũng như quy định của Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 khẳng định chính sách đoàn kết dân tộc của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Điều 5 của Hiến pháp quy định: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.

Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc".

- Hiến pháp 1980 kế thừa tư tưởng của Hiến pháp 1959 nhấn mạnh quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Cũng như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 quy định Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cũng như các cơ quan Nhà nước khác đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Ngoài nguyên tắc tập trung dân chủ, Hiến pháp còn quy định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là một quy định hoàn toàn mới so với Hiến pháp 1959. Tại Điều 12 Hiến pháp xác định: "Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa".

Tóm lại: Chương này quy định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức quyền lực chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là các nguyên tắc: Đảng Cộng sản lãnh đạo Nhà nước và xã hội, quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, đoàn kết dân tộc, tập trung dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Chương II: Chế độ kinh tế gồm 22 điều (từ Điều 15 đến Điều 36), cũng như Hiến pháp 1959, chương này quy định những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực kinh tế: mục đích của chính sách kinh tế, các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các nguyên tắc lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, Hiến pháp 1980 có nhiều điểm khác với Hiến pháp 1959. Theo Hiến pháp 1959 đất đai có thể thuộc sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, còn Hiến pháp 1980 quy định toàn bộ đất đai đều thuộc sở hữu toàn dân (Điều 19). Theo Hiến pháp 1959 các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là sở hữu Nhà nước (tức là của toàn dân). Sở hữu tập thể (sở hữu tập thể của nhân dân lao động) sở hữu của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc (Điều 11); còn theo Điều 18 của Hiến pháp 1980 thì Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Được xây dựng trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với tư tưởng chủ quan duy ý chí nên nhiều quy định mang tính giáo điều và tỏ ra kém hiệu quả khi điều chỉnh các quan hệ xã

Page 17: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

hội; ví dụ, quy định về nhà nước giữ độc quyền ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài (Điều 21). Quy định về quốc hữu hoá không bồi thường những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tư sản mại bản (Điều 25); quy định về nhà nước tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa ở thành thị và nông thôn (Điều 26).

Chương III: Văn hoá giáo dục, khoa học - kỹ thuật. Chương này có 13 điều (từ Điều 37 đến Điều 49). Đây là một chương hoàn toàn mới so với Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân, xây dựng con người mới có ý thức làm chủ tập thể, yêu lao động, quý trọng của công, có văn hoá, có kiến thức khoa học - kỹ thuật, có sức khoẻ, yêu nước xã hội chủ nghĩa và có tinh thần quốc tế vô sản (Điều 37). Theo quy định của Hiến pháp, chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam (Điều 38). Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và phát triển những giá trị văn hoá và tinh thần của dân tộc, tiếp thu tinh hoá văn hoa thế giới, chống các tư tưởng phong kiến lạc hậu, tư sản phản động và bài trừ mê tín dị đoan. Ngoài những quy định trên đây, chương III còn xác định chính sách về khoa học - kỹ thuật, văn học, nghệ thuật và các công tác thông tin báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh truyền hình....

Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chương này có 3 điều (từ Điều 50 đến Điều 52). Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được xây dựng thành một chương riêng trong Hiến pháp. Điều này xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề phòng thủ đất nước. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước. Bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ tồn tại song song trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có sự gắn bó và tương hỗ lẫn nhau. Tại Điều 50 Hiến pháp xác định đường lối quốc phòng của Nhà nước là xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ sở kết hợp xây dựng Tổ quốc với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tại Điều 51 Hiến pháp xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ những thành quả của cách mạng, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tự do, hạnh phúc và lao động hoà bình của nhân dân, cùng toàn dân xây dựng nước nhà. Điều 52 trong chương này xác định nhiệm vụ của Nhà nước là thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. Xác định nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Hiến pháp quy định: "Tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định".

Qua những quy định trên đây, chúng ta thấy rằng đường lối quốc phòng của nước ta là đường lối quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại; kết hợp bảo vệ với xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là đường lối quốc phòng đúng đắn nhất, nó được xây dựng từ kinh nghiệm hàng nghìn năm của ông cha chúng ta trong dựng nước và giữ nước.

Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Page 18: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Chương này có 32 điều (từ Điều 53 đến Điều 81). Kế thừa và phát triển Hiến pháp 1946, 1959, Hiến pháp 1980 một mặt ghi nhận lại quyền và nghĩa vụ công dân đã quy định trong hai Hiến pháp trước, mặt khác xác định thêm một số quyền và nghĩa vụ mới phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. So với Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 đã xác định thêm một số quyền mới của công dân như quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội (Điều 56) quyền được khám và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62), quyền được học tập không phải trả tiền (Điều 60), quyền của các xã viên hợp tác xã được phụ cấp sinh đẻ (Điều 63). Hiến pháp cũng xác định thêm một số nghĩa vụ mới của công dân: Công dân phải trung thành với Tổ quốc (Điều 76); ngoài bổn phận làm nghĩa vụ quân sự, công dân còn phải tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân. Ngoài nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, tôn trọng những quy tắc sinh hoạt xã hội, công dân còn phải bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ gìn bí mật Nhà nước; ngoài nghĩa vụ đóng thuế, công dân còn phải tham gia lao động công ích. Tuy nhiên, do tư tưởng chủ quan duy ý chí nên một số quyền mới quy định trong Hiến pháp 1980 không phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước nên không có điều kiện vật chất bảo đảm thực hiện. Ví dụ: việc quy định chế độ học không phải trả tiền (Điều 60), chế độ khám chữa bệnh không phải mất tiền (Điều 61). Trong giai đoạn này, Nhà nước ta còn nghèo những quy định trên đây là thiếu cơ sở thực tiễn gây nhiều hậu quả tiêu cực trong xã hội. Cũng tương tự như vậy quyền có nhà ở (Điều 62) quy định trong Hiến pháp không có điều kiện vật chất để đảm bảo thực hiện. Vì vậy, quy định về quyền có nhà ở của công dân chỉ mang tính chất cương lĩnh.

Xem xét một cách khách quan, chúng ta phải thấy rằng có một số quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp 1946 nhưng về sau do hoàn cảnh lịch sử mà chúng ta phải hạn chế, không quy định trong Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980. Ví dụ: Quyền tự do xuất bản, quyền tự do đi ra nước ngoài (Điều 10 Hiến pháp 1946).

Mặc dù có những hạn chế nói trên, song chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 1980 vẫn là một bước phát triển mới, phong phú hơn, cụ thể hơn, rõ nét hơn.

Chương VI: Quốc hội.

Chương này có 16 điều (từ Điều 82 đến Điều 97). Cũng như quy định của Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 xác định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp; Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hoá - xã hội, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước; Quốc hội thành lập các cơ quan Nhà nước tối cao như bầu ra Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng bộ trưởng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước... (Điều 82, 83). Như vậy về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội về cơ bản không thay đổi. Nhưng về cơ cấu tổ chức của Quốc hội có sự thay đổi lớn. Nếu theo Hiến pháp 1959, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội thì theo Hiến pháp 1980 cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước, nhưng Hội đồng Nhà nước theo Hiến pháp 1980 còn là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp 1959 khi Quốc hội họp thì bầu chủ tịch đoàn để

Page 19: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

điều khiển cuộc họp (Điều 47). Còn theo Hiến pháp 1980 thì Quốc hội bầu ra Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội chủ toạ các phiên họp của Quốc hội, bảo đảm việc thi hành nội quy của Quốc hội, giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội, điều hoà phối hợp hoạt động của các Uỷ ban của Quốc hội, chứng thực những Luật và những Nghị quyết đã được Quốc hội thông qua, thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.

Như vậy Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội là một thiết chế mới, một cách tổ chức mới của Quốc hội mà trước đó lịch sử lập hiến nước ta chưa có.

Chương VII: Hội đồng Nhà nước.

Chương này có 6 điều (từ Điều 98 đến Điều 103). Đây là một chương mới so với Hiến pháp 1959. Hội đồng Nhà nước theo quy định của Điều 98 là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy Hội đồng Nhà nước vừa thực hiện chức năng của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch nước. Vì vậy, thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước tương đương với thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cộng với thẩm quyền của Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1959.

Hội đồng Nhà nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Tuyên bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội, triệu tập các kỳ họp của Quốc hội, công bố luật, ra pháp lệnh, giải thích hiến pháp, luật và pháp lệnh; quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân; giám sát công tác của Hội đồng Bộ trưởng, của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết, nghị định, quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái với Hiến pháp, luật và pháp lệnh; giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp nhằm phát huy chức năng cơ quan đại biểu nhân dân của Hội đồng nhân dân, sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương, giải tán các Hội đồng nói trên trong trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân. Ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn nói trên Hội đồng Nhà nước còn có thẩm quyền quyết định việc thành lập, hoặc bãi bỏ các Bộ, các Uỷ ban Nhà nước trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định cử và bãi miễn các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước trong thời gian Quốc hội không họp. Hội đồng Nhà nước cũng có thẩm quyền cử và bãi miễn các Phó Chánh án, thẩm phán, và hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân tối cao; cử và bãi miễn các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm, bãi miễn và triệu hồi các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ta ở nước ngoài và ở các tổ chức quốc tế; tiếp nhận các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài; quy định hàm cấp quân sự ngoại giao và những hàm cấp khác; quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương, huy chương và các danh hiệu vinh dự Nhà nước và quyết định đặc xá trong thời gian Quốc hội không họp, tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược, quyết định việc tổng động viên cục bộ, việc giới nghiêm trong toàn quốc hoặc từng địa phương. Trong các quyền hạn nói trên thì việc quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, các Uỷ ban Nhà nước, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược, Hội đồng Nhà nước trình Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn nói trên Quốc hội có thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết. Qua những quy định trên đây của Hiến pháp 1980 chúng ta thấy quyền hạn của Hội đồng

Page 20: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Nhà nước rất lớn. Việc thay thế chế định Chủ tịch nước cá nhân bằng chế định Chủ tịch nước tập thể có những lý do lịch sử của nó. Vào thời điểm xây dựng Hiến pháp 1980 nhiều nước xã hội chủ nghĩa cũng có hình thức Chủ tịch nước tập thể, chỉ khác nhau về tên gọi. Ví dụ, ở Ba Lan, Bungari, Cộng hoà dân chủ Đức, Cuba, Rumani đều có thể chế Chủ tịch nước tập thể là Hội đồng Nhà nước; ở Hunggari là Hội đồng Chủ tịch nước, ở Liên Xô là Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao, ở Anbani là Đoàn Chủ tịch Quốc hội, ở Mông Cổ là Đoàn Chủ tịch Đại Hô Lan (Quốc hội)1 . Thể chế Chủ tịch nước tập thể trong thực tiễn đã thể hiện những ưu điểm và nhược điểm của nó. Ưu điểm của thể chế này là các vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, như vậy thường vững vàng hơn so với một người quyết định. Nhược điểm của nó là do mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể nên công việc nhiều khi chậm chạp, trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chưa thật rõ ràng. Giữa hai kỳ họp của Quốc hội thì quyền hạn của Hội đồng Nhà nước rất lớn nhưng trong kỳ họp Quốc hội thì thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước lại hầu như không được thể hiện. Mặt khác việc Hội đồng Nhà nước được quyền quyết định một số quyền hạn thuộc thẩm quyền Quốc hội đã làm nảy sinh vấn đề liên quan đến yêu cầu tập trung quyền lực, nhất là quyền lập pháp vào Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp, chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội đồng Nhà nước rất lớn, nhưng cơ cấu của thành viên Hội đồng Nhà nước hầu hết gồm những người kiêm nhiệm.

Chương VIII: Hội đồng Bộ trưởng.

Chương này có 9 điều (từ Điều 104 đến Điều 112). Theo quy định tại Điều 104 của Hiến pháp, Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí như Hội đồng Chính phủ trong Hiến pháp 1959. Tuy nhiên Hội đồng Bộ trưởng về tính chất không hoàn toàn giống như Hội đồng Chính phủ. Hội đồng Chính phủ theo quy định của Hiến pháp 1959 là "Cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà". Như vậy, một mặt Hội đồng Chính phủ là Cơ quan chấp hành của Quốc hội mặt khác là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta, đứng đầu hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, đảm nhận một chức năng hoạt động độc lập - hoạt động hành chính Nhà nước. Từ đây có thể thấy rằng theo Hiến pháp 1959 Hội đồng Chính phủ còn có tính độc lập tương đối. Khác với Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 quy định Hội đồng Bộ trưởng "là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất". Với quy định này, chúng ta thấy tính độc lập tương đối của Chính phủ đối với Quốc hội không còn nữa. Đúng như nhận xét: "Quy định này phản ánh quan niệm một thời cho rằng: Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát, phải thực sự trở thành "tập thể hành động" . Các cơ quan Nhà nước khác do quốc hội lập ra là để phân công, phân nhiệm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Hội đồng Bộ trưởng được tổ chức theo tinh thần đó là cơ quan chấp hành - hành chính Nhà nước cao nhất của Quốc hội. Chức năng, nhiệm vụ của nó là thực hiện những hoạt động chấp hành - hành chính được Quốc hội gia.

Cách thức thành lập Hội đồng Bộ trưởng theo Hiến pháp 1980 cũng khác với cách thức thành lập Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp 1959. Theo Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc thành lập Chính phủ. Theo đề nghị của Chủ tịch nước, Quốc hội quyết định cử Thủ tướng Chính phủ; theo đề nghị

Page 21: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

của Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội quyết định cử Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ. Như vậy, quyền lựa chọn Thủ tướng thuộc về Chủ tịch nước, quyền lựa chọn Phó Thủ tướng và các thành viên Chính phủ thuộc về Thủ tướng, Quốc hội chỉ thực hiện quyền phê chuẩn hay không phê chuẩn. Còn theo Hiến pháp 1980, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên đều do Quốc hội bầu ra. ở đây Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng không có quyền lựa chọn các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng.

Về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng, Hiến pháp 1980 quy định các vấn đề cơ bản sau đây:

- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; trình dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước; lập dự án kế hoạch Nhà nước và dự án ngân sách Nhà nước trình Quốc hội; tổ chức thực hiện kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước; thống nhất quản lý việc cải tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân, việc xây dựng và phát triển văn hoá giáo dục, khoa học - kỹ thuật, xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ Nhà nước; lãnh đạo công tác của các Bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng; bảo đảm cho Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, lãnh đạo Uỷ ban nhân dân các cấp, đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những Quyết định, Chỉ thị, Thông tư không thích đáng của các Bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng; đình chỉ việc thi hành những Nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương, đồng thời đề nghị Hội đồng Nhà nước sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những Quyết định, Chỉ thị không thích đáng của Uỷ ban nhân dân các cấp; quyết định việc phân vạch địa giới của các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh,.... Về cơ bản, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng theo Hiến pháp 1980 giống với nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp 1959. Tuy nhiên, Hiến pháp 1980 bổ sung một số quyền hạn, nhiệm vụ mới phù hợp với yêu cầu của xã hội như tổ chức và lãnh đạo công tác trọng tài Nhà nước về kinh tế, tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm Nhà nước, v.v.. So với các Hiến pháp trước thì chế định về Hội đồng Bộ trưởng còn có một điểm mới nữa là quy định về trách nhiệm tập thể của các thành viên Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Hiến pháp 1946 quy định toàn thể Nội các không phải chịu liên đới trách nhiệm về hành vi một Bộ trưởng, còn Hiến pháp 1959 không có điểm nào quy định về trách nhiệm tập thể của Hội đồng Chính phủ. Như vậy, có thể thấy rằng Hiến pháp 1980 đề cao trách nhiệm tập thể của Chính phủ trong khi đó thì Hiến pháp 1946 lại đề cao trách nhiệm cá nhân của các Bộ trưởng.

Chương IX: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Tại chương này Hiến pháp quy định về phân cấp hành chính ở nước ta, xác định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Về phân cấp đơn vị hành chính, Hiến pháp 1980 quy định nước ta có ba cấp hành chính. Đó là tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; huyện, quận, thành phố, thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn.

Khác với Hiến pháp 1959, khu tự trị được bãi bỏ (do Nghị quyết kỳ họp Quốc hội khoá V này 27-12-1975). Nhưng lập thêm đơn vị hành chính đặc khu - tương đương tỉnh,

Page 22: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

đơn vị phường ở những thành phố, thị xã- tương đương với xã. ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Những quy định của Hiến pháp 1980 về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1983. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1989 đưa thêm vào cơ cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận thị xã một cơ quan mới là Thường trực Hội đồng nhân dân. Nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp cũng được nâng lên từ 3 năm lên 5 năm.

Về tính chất Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Hiến pháp 1980 cũng giống như Hiến pháp 1959 quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và chính quyền cấp trên (Điều 114). Còn Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân về cơ bản giống Hiến pháp 1959.

Chương X: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.

Chương này bao gồm 15 điều (từ Điều 127 đến Điều 141). Cũng giống như Hiến pháp 1959, chương này quy định về nhiệm vụ chung của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, về hệ thống các cơ quan toà án, chức năng của các cơ quan toà án, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của toà án. Có thể khẳng định rằng các quy định của Hiến pháp 1980 trong chương này hoàn toàn giống với Hiến pháp 1959.

Chương XI: của Hiến pháp quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô. Chương này không có gì thay đổi so với Hiến pháp 1959.

Chương XII: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.

Chương này có 2 điều (Điều 146 và 147) Điều 146 của Hiến pháp quy định Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Về thủ tục sửa đổi Hiến pháp hoàn toàn giống Hiến pháp 1959.

Hiến pháp 1980 đã đánh cột mốc quan trọng trong lịch sử nước ta. Nó là bản tổng kết những thành tựu của nhân dân Việt Nam đã giành được qua nửa thế kỷ đấu tranh giành độc lập, tự do, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là bản Hiến pháp của nước Việt Nam đã hoàn toàn thống nhất, sau hơn hai mươi năm bị chia cắt với những chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Đó là bản Hiến pháp thể hiện ý chí của nhân dân hai miền Nam - Bắc đoàn kết một lòng cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.

HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP 1992

1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1992

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống hoà bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân đã trải qua nhiều thử thách, gian nan. Trong hoàn cảnh đó lịch sử lập hiến Việt Nam cũng có những bước thăng trầm nhất định. Đánh giá thật khách quan, chính xác, đúng đắn hoàn cảnh

Page 23: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và quốc tế đã ảnh hưởng đến lịch sử lập hiến Việt Nam là một việc làm cần thiết. Vì nếu không hiểu quá khứ thì không thể hiểu được hiện tại và không thể định hướng được tương lai.

Hiến pháp 1980 ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang chan hoà khí thế lạc quan của cuộc đại thắng mùa Xuân 1975; tưtưởng chủ quan, duy ý chí, nóng vội đã xuất hiện; không kịp thời khắc phục cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong thời chiến. Hiến pháp 1980 đã không tránh khỏi những nhược điểm nhất định.

Đại hội lần thứ V của Đảng đã nêu ra và vạch rõ phương hướng khắc phục những sai lầm và nhược điểm đó. Đường lối kinh tế coi công nghiệp hoá là trung tâm của thời kỳ quá độ (Điều 16) về cơ bản là đúng. Nhưng do tưtưởng nóng vội, xuất phát từ tưtưởng muốn đi nhanh, không tính đến khả năng thực tế, nên chủ trương "Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng"; bởi vậy, trong thực tế, chúng ta thiên về xây dựng những công trình công nghiệp nặng và với quy mô lớn. Không coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Không tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Nhiều quy định vượt quá điều kiện kinh tế xã hội cho phép như"Học không phải trả học phí" (Điều 60) "Khám bệnh không phải mất tiền" (Điều 61).

Do chịu ảnh hưởng của Hiến pháp Liên Xô 1977 và quan niệm giáo điều về nền tảng kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tưliệu sản xuất nên Hiến pháp 1980 quy định về cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tưliệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động (Điều 18). Một số quy định của Hiến pháp đã cản trở sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước như"Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài" (Điều 21), "Những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tưsản mại bản đều bị quốc hữu hoá không bồi thường" (Điều 25).

Trong thực tế, quan niệm coi việc giải quyết xong vấn đề sở hữu thì coi nhưcăn bản hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa là một sai lầm, phải trả giá. Bởi vậy, Đại hội VI và các đại hội sau này đều coi cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ lâu dài suốt cả thời kỳ quá độ, phải trải qua những bước đi, những hình thức trung gian thích hợp. Một thực tế nữa là: Khi chủ trương làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế, không có nghĩa là phải nhanh chóng xoá bỏ tất cả thành phần kinh tế khác. Trong khi chúng ta tích cực xây dựng các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, làm cho chúng đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thì các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhưkinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, kinh tế tưbản tưnhân vẫn tồn tại có mức độ và có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một tồn tại khách quan. Về tổ chức bộ máy Nhà nước, sau một thời gian kiểm nghiệm bằng thực tế nhiều thiết chế Nhà nước tỏ ra kém hiệu quả, chế độ thẩm phán bầu không đảm bảo được tính ổn định và phẩm chất nghề nghiệp của thẩm phán. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước chưa được phân định rõ ràng. Vai trò của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng - người đứng đầu Chính phủ, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất chưa được nổi bật vì có rất ít thẩm quyền. Chế định Chủ tịch tập thể làm cho các quyết định của cơ quan này chậm chạp, không nhanh nhạy với những thay đổi của đời sống xã hội và khó khăn trong việc ngoại giao.

Page 24: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Tóm lại, sau một thời gian có hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kỳ đổi mới ở đất nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những thiếu sót sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tưduy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động trên cơ sở đó để có những nhận thức mới đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.

Với đường lối đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định, khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Trong lĩnh vực kinh tế , Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách này nhằm khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, khơi dậy năng lực trí tuệ, sáng tạo trong các tầng lớp nhân dân lao động, khắc phục cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Thực chất của bước chuyển đổi kinh tế là cuộc cải cách cấu trúc lại nền kinh tế, bắt đầu từ sở hữu:

a) Mở đầu quá trình cấu trúc lại kinh tế là những chính sách quan trọng, đột phá về nông nghiệp. Tháng 4-1988, Bộ Chính trị (Khoá VI) ra Nghị quyết 10. Theo Nghị quyết này xã viên hợp tác xã chỉ còn nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng. Sản phẩm còn lại được tự do lưu thông, được bán lúc nào, nơi nào có lợi nhất. (Trước đây Nhà nước thu mua theo giá quy định). Nhờ chính sách này mà thu nhập bình quân của nông dân tăng lên đáng kể. Tốc độ thu nhập bình quân của nông dân từ năm 1987 trở về trước là 1,18%, nhưng chỉ hai năm 1988-1989 tốc độ này đã tăng lên 4,5%. Chỉ sau một năm khi Nghị quyết 10 của Đảng được thực hiện sản lượng lương thực đã tăng từ 19,583 triệu tấn (năm 1988) lên 21,439 triệu tấn (năm 1989). Từ năm 1988 đến năm 1990, diện tích gieo trồng tăng 3,9%1 . Trong nông thôn, số hộ nghèo đói năm 1990 là 34,4%, đến năm 1992, đã giảm xuống 19,6%2 .

b) Bên cạnh đổi mới chính sách nông nghiệp, Đảng ta chủ trương đổi mới chính sách kinh tế đối với doanh nghiệp Nhà nước. Đó là chính sách chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, xác lập quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước: Từ năm 1987, các xí nghiệp quốc doanh chuyển sang hạch toán kinh doanh. Ngày 14-11-1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 217-HĐBT về đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Ngày 2-12-1989, Hội đồng Bộ trưởng lại ban hành quyết định về những quy định bổ sung Quyết định 217-HĐBT chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Những quyết định này đã chấm dứt tình trạng người lao động thờ ơ với tưliệu sản xuất, thờ ơ với nhu cầu thị trường và sự tiêu thụ sản phẩm.

c) Chính sách quan trọng thứ ba trong việc đổi mới nền kinh tế của đất nước là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Page 25: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Trước cải cách năm 1988, doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được chấp nhận. (Trừ các doanh nghiệp hợp doanh với Nhà nước). Từ năm 1988, các công ty tưnhân bắt đầu hình thành. Các công ty tưnhân có nhiều hình thức: Công ty do một tưnhân làm chủ gọi là doanh nghiệp tưnhân, một số tưnhân làm chủ gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn; hoặc bằng cổ phiếu gọi là công ty cổ phần; hoặc công ty theo hình thức hợp tác xã. Năm 1990 đã có 340 công ty tưnhân được thành lập; năm 1991 có 163 và năm 1992 có 1.868 công ty tưnhân được thành lập.

d) Chính sách quan trọng thứ tưtrong việc đổi mới nền kinh tế của đất nước là chính sách kinh tế mở cửa với nước ngoài.

Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế khép kín. Vấn đề xuất khẩu không được Nhà nước quan tâm, không có đầu tưnước ngoài, không hoà nhập được với kinh tế thế giới. Với chính sách kinh tế mở cửa năm 1991, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 2,08 tỷ USD . Thực hiện chính sách thu hút đầu tưnước ngoài vào Việt Nam. Ngày 29-12-1987, Quốc hội đã thông qua "Luật đầu tưnước ngoài tại Việt Nam". Tiếp đó, ngày 30-6-1990, lại thông qua, "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tưnước ngoài tại Việt Nam" nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc thu hút đầu tưcủa nước ngoài vào nước ta. Ví dụ, khu vực nội địa trả thuế lợi tức doanh nghiệp là 25% đến 45% trong khi đó doanh nghiệp nước ngoài chỉ trả 10% đến 25%. Hơn nữa khu vực nước ngoài lại được hưởng 1 năm đến 4 năm miễn thuế và sau đó 1 đến 4 năm giảm thuế 50%. Nhờ chính sách này mà sự đầu tưnước ngoài vào Việt Nam ngày một gia tăng.

Nhờ những chính sách cải cách kinh tế nói trên mà tốc độ phát triển kinh tế của nước ta từ năm 1986 đến năm 1990 là 4,9% và tốc độ lạm phát giảm từ 775% - năm 1986 xuống 17,5% - năm 19922 .

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế vẫn còn nhiều mặt yếu, kém và những khó khăn lớn phải khắc phục. Sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đã có nhưng chưa vững chắc. Kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có sự xác định về mặt pháp lý vị trí, vai trò và sự bình đẳng của chúng trước pháp luật. Trong quản lý kinh tế còn nhiều sơ hở, pháp luật còn thiếu sự đồng bộ, còn mâu thuẫn chồng chéo và thiếu sự ổn định tương đối. Nạn tham nhũng và buôn lậu vẫn tiếp tục hoành hành.

Trong lĩnh vực cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính trị và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ VI cũng đã đề ra những định hướng nhất định. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đã chỉ rõ: "Để thiết lập cơ chế quản lý mới cần thực hiện một cuộc cải cách lơn về tổ chức bô máy của các cơ quan Nhà nước" . Về vấn đề này đồng chí Đỗ Mười đã viết: "Cần phải đổi mới căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước ta cũng nhưcủa toàn bộ hệ thống chính trị xã hội. Đổi mới căn bản không có nghĩa là thay đổi bản chất của Nhà nước ta, mà chính là làm cho nó thể hiện ngày càng đầy đủ bản chất dân chủ, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng xã hội mới. Đổi mới căn bản có nghĩa là không những phải xác định lại chức năng, mối quan hệ giữa các bộ phận trong bộ máy Nhà nước, mà còn phải đổi mới toàn bộ cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của chúng, đảm bảo cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý kinh tế - xã hội có hiệu quả; hoạt động trên cơ sở pháp luật và thực hiện được quản lý xã hội bằng pháp luật".

Page 26: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Việc cải cách bộ máy Nhà nước được xác định bằng phương hướng cơ bản: quán triệt yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tìm tòi những thiết chế mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc "quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân".

Một Nhà nước thực sự dân chủ là Nhà nước thể hiện được quyền lực của nhân dân, bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền tự do dân chủ của nhân dân. ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền lực của mình chủ yếu thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Vì vậy, phải nhận thức đúng vị trí, vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; cần phải thay đổi tổ chức và hoạt động của các cơ quan này bảo đảm cho chúng thực sự là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân. Để Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có đủ năng lực thực hiện vai trò, chức năng của mình, phải xây dựng cơ chế bầu cử thật sự dân chủ, bảo đảm chọn được những đại biểu xứng đáng bầu vào các cơ quan này. Việc giới thiệu người ra ứng cử phải làm từ dưới lên, phổ biến tuyên truyền rộng rãi tiêu chuẩn và yêu cầu đối với người được giới thiệu ra ứng cử, nhưng phải tôn trọng ý kiến của nhân dân, không gò ép .

- Yêu cầu dân chủ trong thiết chế, tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước còn đòi hỏi phải xây dựng đúng đắn mối quan hệ giữa các hệ thống cơ quan Nhà nước lập pháp, hành pháp, tưpháp và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước trung ương với chính quyền địa phương, nhằm đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực Nhà nước, đồng thời bảo đảm cho các hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập trong việc thực hiện chức năng của mình, bảo đảm cho chính quyền địa phương, cơ sở chủ động, sáng tạo và toàn quyền quản lý trên lãnh thổ. Khác với các Nhà nước tưsản, nơi mà bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực, các quyền lập pháp, hành pháp và tưpháp được trao cho ba hệ thống cơ quan khác nhau, độc lập, chế ngự và đối trọng lẫn nhau. Nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực: "Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa mọi cơ quan bắt nguồn từ cơ quan quyền lực, nhận quyền lực từ nó và chịu sự kiểm tra, giám sát của nó. Hơn nữa, cần phải nhận thức rằng, các cơ quan hành pháp và tưpháp thực hiện chức năng của mình đều nhân danh quyền lực Nhà nước bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực hiện thống nhất trên các lĩnh vực này. Nhưvậy, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, có quyền lập pháp và kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp và tưpháp. Mặt khác, cũng cần nhận thức rằng, để Nhà nước hoạt động có hiệu quả phải có thiết chế tổ chức và cơ chế hoạt động sao cho vừa bảo đảm được sự tập trung thống nhất quyền lực, vừa có sự phân công, phân biệt rõ ràng về mặt chức năng giữa các hệ thống cơ quan Nhà nước; đồng thời phải có cơ sở pháp lý và tổ chức bảo đảm cho mỗi hệ thống cơ quan độc lập và chủ động trong việc thực hiện chức năng của mình, không có sự lấn át giữa cơ quan này với cơ quan khác".

- Yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước đòi hỏi Nhà nước phải thể chế hoá một cách đầy đủ các quyền tự do dân chủ cũng nhưcác nghĩa vụ của công dân vào Hiến pháp và tạo điều kiện để mọi thành viên trong xã hội có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó trên thực tế.

- Cùng với việc đổi mới chế độ kinh tế, cải cách bộ máy Nhà nước, vấn đề hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa cũng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Cần phải phân định chức năng của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước. "Thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn của một Đảng vững mạnh, kiên cường là điều

Page 27: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

kiện tiên quyết bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng. Tuy nhiên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, sự phân định chức năng của Đảng và Nhà nước ngày càng trở nên cấp thiết. Sự lẫn lộn chức năng giữa Đảng và Nhà nước dẫn đến tình trạng Đảng vừa bao biện làm thay vừa buông trôi, khoán trắng cho Nhà nước làm cho Nhà nước khó phát huy vai trò của mình". Đảng là lực lượng lãnh đạo chính trị, nhưng vai trò đó trong giai đoạn giành được chính quyền thể hiện khác với giai đoạn chưa giành được chính quyền. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền Đảng định ra đường lối chiến lược, sách lược đấu tranh đồng thời Đảng là bộ chỉ huy, bộ tham mưu của cuộc đấu tranh đó. Đảng trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang. Khi đã giành được chính quyền Đảng không thể lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo xã hội với tưcách là trung tâm điều hành trực tiếp nhưtrước. Không thể hiểu một cách giản đơn và siêu hình rằng, "Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng trực tiếp quyết định mọi việc của Nhà nước có thể lấy nghị quyết, chỉ thị của Đảng thay cho pháp luật của Nhà nước, cơ quan Đảng là cấp trên của cơ quan Nhà nước" , v.v..

- Cùng với việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính trị; mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã hoạch định một đường lối đối ngoại rộng mở. Đó là thiết lập các quan hệ hoà bình, hợp tác, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi.

Với tinh thần của Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khoá VII, tại Kỳ họp thứ 3 ngày 22-12-1988 đã ra nghị quyết sửa đổi lời nói đầu, không chỉ rõ đích danh thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bành trướng Trung Quốc cho phù hợp với quan hệ đối ngoại tốt đẹp đang mở ra giữa ta với nước Cộng hoà Pháp, hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ngày 30-6-1989, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá VIII ra Nghị quyết sửa đổi 7 điều: 57, 115, 116, 118, 122, 123, 125, để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm Thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Đồng thời trong kỳ họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế - xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. Uỷ ban dự thảo Hiến pháp đã họp nhiều phiên để chỉnh lý, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.

Cuối năm 1991 đầu năm 1992, bản dự thảo Hiến pháp lần thứ ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương, dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và được trình Quốc hội khoá VIII, tại Kỳ họp thứ 11 xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lý, bổ sung nhất định, ngày 15-4-1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là

Page 28: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng nhưnhận xét của đồng chí Đỗ Mười Tổng Bí thưBan Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Hiến pháp 1992 là "sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước".

2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1992

Hiến pháp 1992 gồm Lời nói đầu và 147 điều chia làm 12 chương: Chương I- Chế độ chính trị; Chương II- Chế độ kinh tế; Chương III- Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ; Chương IV- Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Chương V- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Chương VI- Quốc hội; Chương VII- Chủ tịch nước; Chương VIII- Chính phủ; Chương IX- Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; Chương X- Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, Chương XI- Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô ngày Quốc Khánh; Chương XII- Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.

Lời nói đầu của Hiến pháp 1992 về cơ bản cũng giống nhưlời nói đầu của các Hiến pháp trước, ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam và xác định những nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Trong lời nói đầu cũng xác định những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp sẽ quy định.

Chương I- Chế độ chính trị cũng bao gồm 15 điều (từ Điều 1 đến Điều 14) nhưHiến pháp 1980. Tại chương này Hiến pháp cũng xác định những nguyên tắc cơ bản của tổ chức quyền lực chính trị của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công dân và tầng lớp trí thức (Điều 2). Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam (Điều 4); Nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc (Điều 5); Nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6); Nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp là bỏ phiếu kín (Điều 7). Khác với Hiến pháp 1980 Hiến pháp 1992 không dùng thuật ngữ "Nhà nước chuyên chính vô sản" mà dùng thuật ngữ "Nhà nước của dân, do dân, vì dân". Việc thay đổi thuật ngữ này không làm thay đổi bản chất của Nhà nước mà chỉ để làm rõ hơn bản chất "của dân, do dân và vì dân" của Nhà nước ta, phù hợp hơn với chính sách đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội và phù hợp hơn với xu thế của quốc tế và thời đại. Bởi vì "Nhà nước của dân, do dân vì dân" đã trở thành một thuật ngữ phổ biến trong Hiến pháp của các Nhà nước có hình thức chính thể cộng hoà dân chủ trên thế giới.

Đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hiến pháp 1992 quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của nó là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp 1992, Mặt trận có nhiệm vụ phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, Đại biểu dân cử và cán bộ viên chức Nhà nước (Điều 9).

Khác với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 quy định đường lối đối ngoại mở rộng. Theo quy định của Hiến pháp mới, nước ta thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,

Page 29: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chính sách đối ngoại rộng mở đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để nước ta có thể hoà nhập được vào trào lưu chung của văn minh thế giới và phù hợp với xu hướng Quốc tế hoá rất cao của lực lượng sản xuất thế giới, phù hợp với nền văn minh tin học, nền văn minh công nghiệp của loài người. Chính sách đối ngoại đúng đắn và phù hợp với thời đại của Hiến pháp 1992 đã làm tiền đề cho những thắng lợi to lớn của nước ta trong lĩnh vực hợp tác kinh tế với nước ngoài.

Chương II- Chế độ kinh tế, bao gồm 15 điều (từ Điều 15 đến Điều 29) có thể nói rằng đây là chương được thay đổi một cách cơ bản nhất, thể hiện rõ nhất quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.

Theo quy định tại Điều 15 đường lối phát triển kinh tế của nhà nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế. Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tưbản tưnhân và kinh tế tưbản Nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học - kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới (Điều 16).

Nhưvậy với Hiến pháp 1992, chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hoá - thị trường, với nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, cá thể, tưbản tưnhân và tưbản nhà nước.

Lần đầu tiên trong lịch sử lập Hiến Việt Nam, Hiến pháp quy định: "Kinh tế cá thể, kinh tế tưbản tưnhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh" (Điều 21); Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật (Điều 22). Nhưvậy, Hiến pháp đã xác định sự bình đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật.

Nếu Hiến pháp 1980 quy định việc quốc hữu hoá không bồi thường những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tưsản mại bản thì trái lại Hiến pháp 1992 quy định việc Nhà nước bảo hộ vốn và tài sản hợp pháp của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế (Điều 22). Hơn nữa, Nhà nước còn khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam và đảm bảo quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tưnước ngoài cũng nhưtài sản hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác không bị quốc hữu hoá (Điều 23, 25). Về vấn đề sở hữu đất đai, cũng nhưtrước đây Hiến pháp 1992 quy định đất đai thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên, Hiến pháp mới quy định thêm về quyền sử dụng đất lâu dài đối với người được giao và được chuyển quyền sử dụng đó theo định của Pháp luật (Điều 18).

Page 30: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Chương III- Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, bao gồm 14 điều (từ Điều 30 đến Điều 43).

Bên cạnh việc xác định đường lối bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam mang bản sắc dân tộc, hiện đại, nhân văn, kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tưtưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân, Hiến pháp còn xác định "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" (Điều 35). Có thể nói rằng Hiến pháp 1992 đánh dấu một cái mốc quan trọng trong chính sách giáo dục và đào tạo của Nhà nước ta, thể hiện đúng tưtưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh "vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người".

Chương IV- Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bao gồm 5 điều (từ Điều 44 đến Điều 48).

Về cơ bản chương này giống nhưHiến pháp 1980 là xác định đường lối quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 còn quy định bổ sung thêm về nhiệm vụ xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 47).

Chương V- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 34 điều (từ Điều 49 đến Điều 82). So với Hiến pháp 1980 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi. Khắc phục thiếu sót của các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1992 lần đầu tiên quy định "các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng" (Điều 50). ở nước ta, ngoài công dân Việt Nam và công dân nước ngoài đến làm việc, sinh sống ở Việt Nam, còn có người không có quốc tịch. Với quy định trên đây người không có quốc tịch cũng được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Với Hiến pháp 1992, lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh của công dân được xác lập (Điều 57). Đây là một trong những chìa khoá quan trọng để mở cánh cửa tự do trong lĩnh vực hoạt động kinh tế của công dân, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh. Cùng với quyền tự do kinh doanh, công dân còn có quyền sở hữu "về tưliệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác" (Điều 58). Những quy định này hơn bao giờ hết tạo điều kiện thuận lợi để công dân Việt Nam xây dựng một cuộc sống cho bản thân mình giàu có, thịnh vượng. Trên cơ sở đó mà đồng thời làm giàu cho Nhà nước và xã hội. Ngoài các quy định nói trên còn có quy định về quyền "được thông tin" là một quyền mới được xác lập trong Hiến pháp 1992. Quyền này được hiểu là quyền được nhận tin và truyền tin theo quy định của pháp luật.

Ngoài việc thiết lập các quyền mới, Hiến pháp còn sửa đổi một số quy định về quyền của công dân không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và không thể thực hiện được trong thực tiễn. Nếu Hiến pháp 1980 quy định học không phải trả học phí và khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền thì Hiến pháp 1992 sửa đổi lại "bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí" (Điều 59) và "công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí" (Điều 61).

Page 31: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Hiến pháp 1980 quy định "Công dân có quyền có nhà ở" (Điều 62); Quyền này trên thực tế cũng không thực hiện được nên Hiến pháp 1992 sửa lại "Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật (Điều 62). Hiến pháp 1992 còn khôi phục lại một số quyền đã quy định trong Hiến pháp 1946 nhưng về sau do hoàn cảnh chính trị - lịch sử mà chúng ta đã hạn chế. Đó là "Quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật" (Điều 68). Một số quyền trước đây chỉ quy định trong Bộ luật hoặc Luật nay đã đưa vào quy định cả trong Hiến pháp để đề cao hơn nữa tính hiệu lực của pháp luật, nhưĐiều 72, Hiến pháp 1992 quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật".

Chương VI- Quốc hội, bao gồm 18 điều (từ Điều 83 đến Điều 100). Cũng nhưHiến pháp 1980, chương này xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Quốc hội về cơ bản nội dung quyền hạn giống Hiến pháp 1980. Tuy nhiên, có một số bổ sung về quyền hạn của Quốc hội nhưquyết định chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, Quyết định trưng cầu ý dân (Điều 84). Nhìn chung nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội thể hiện trên bốn lĩnh vực:

- Lập hiến và lập pháp.

- Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

- Xây dựng củng cố và hoàn thiện bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

- Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp 1992 có một số thay đổi nhất định. Thể chế Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được bãi bỏ, khôi phục lại chế định Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước nhưHiến pháp 1959. Theo Hiến pháp 1992 Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Một số thành viên của các Hội đồng, các Uỷ ban của Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách (Điều 94, 95).

Đề cao hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội, Hiến pháp 1992 quy định rõ: "Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước" (Điều 97). So với Hiến pháp 1980 nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội được quy định cụ thể hơn: "Phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ảnh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và cơ quan hữu quan, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị với cử tri, xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó" (Điều 97). Về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình, Hiến pháp 1980 chỉ quy định: "Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu (Điều 97). Còn Hiến pháp 1992 quy định một cách cụ thể hơn; "Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm cung cấp tài liệu cần thiết mà đại biểu yêu cầu và tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu".

Page 32: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Chương VII- Chủ tịch nước, bao gồm 8 điều (từ Điều 101 đến Điều 108). Với Hiến pháp 1992 chế định Chủ tịch nước, cá nhân được khôi phục lại thành một chế định riêng biệt nhưHiến pháp 1959.

So với chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 có nhiều điểm khác biệt. Trước hết Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ nên quyền hạn rất lớn. Hiến pháp 1959 quy định Chủ tịch nước chỉ đứng đầu Nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ. Nhưng quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn: "Khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ" (Điều 66), và khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ toạ Hội nghị chính trị để xem xét những vấn đề lớn của nước nhà (Điều 67). Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1980 không phải là cá nhân mà là Chủ tịch tập thể. Thể chế Chủ tịch tập thể nhưđã nói ở phần trước, có nhiều nhược điểm nhưkhông nhanh nhạy, không linh hoạt và khó khăn trong việc đối ngoại. Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992 quyền hạn không rộng nhưHiến pháp 1946 và 1959. Theo quy định của Hiến pháp 1992 Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, Chủ tịch nước chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Thẩm quyền của Chủ tịch nước có thể chia làm 2 loại. Loại thẩm quyền thứ nhất là thẩm quyền độc lập do Chủ tịch nước tự quyết định. Đó là các thẩm quyền sau đây:

- Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan, cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước.

- Bổ nhiễm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài, tiến hành đàm phán, ký kết Điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; Quyết định phê chuẩn hoặc tham gia Điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định.

- Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam.

- Quyết định đặc xá.

- Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ các chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.

- Đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về các vấn đề bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, về việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nhà nước bị xâm lược trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Pháp lệnh hoặc Nghị quyết được thông qua. Nếu Pháp lệnh, Nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định trong kỳ họp gần nhất.

Page 33: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 103).

Loại thẩm quyền thứ hai là loại thẩm quyền mang tính thủ tục hành chính và nghi thức. Đó là các thẩm quyền:

- Công bố Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh.

- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.

- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá.

- Căn cứ vào Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương (Điều 103).

Chương VIII- Chính phủ, bao gồm 19 điều (từ Điều 109 đến Điều 117).

Cũng nhưHội đồng Chính phủ theo Hiến pháp 1959, Chính phủ theo Hiến pháp 1992 được quy định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu so sánh cả bốn bản Hiến pháp của nước ta, chúng ta thấy quan niệm về tính chất của Chính phủ có những thay đổi nhất định. Hiến pháp 1946 xây dựng Chính phủ theo mô hình chính phủ tư sản nên không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Nghị viện. Hiến pháp 1980 xây dựng Chính phủ (Hội đồng Bộ trưởng) theo mô hình của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Nhưng với quan điểm tập quyền "rắn" nghĩa là quyền lực Nhà nước thống nhất tập trung vào Quốc hội. Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tưpháp và giám sát. Các cơ quan Nhà nước khác do Quốc hội lập ra là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Vì vậy, Hiến pháp quy định Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính cao nhất của Quốc hội. Quy định này làm cho Chính phủ thiếu tính độc lập tương đối trong lĩnh vực hoạt động hành chính Nhà nước. Khắc phục nhược điểm này, Hiến pháp 1992 quay về với Hiến pháp 1959 xây dựng theo quan điểm tập quyền "mềm" nghĩa là quyền lực Nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng rành rọt giữa các cơ quan Nhà nước lập pháp, hành pháp và tưpháp. Vì vậy, Hiến pháp 1992 quy định: "Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Với quy định này Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính Nhà nước.

Với Hiến pháp 1992 chúng ta có thể thấy rằng những hạt nhân hợp lý của thuyết phân chia quyền lực của John Locke và Charles Montesquieu đã được chúng ta áp dụng1 .

Cách thức thành lập Chính phủ theo Hiến pháp 1992 hoàn toàn khác với Hiến pháp 1980. Theo Hiến pháp 1980 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ đều do Quốc hội bầu ra, còn theo Hiến pháp 1992 chỉ có Thủ tướng Chính phủ

Page 34: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ Quốc hội chỉ phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ1 . Nhưvậy, Hiến pháp 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Chính phủ. Việc Hiến pháp trao cho Thủ tướng Chính phủ quyền được đề nghị bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn (trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn trong thời gian Quốc hội không họp) đồng thời còn có quyền đề nghị miễn nhiệm, cách chức các thành viên của Chính phủ làm nổi bật vai trò của Thủ tướng trong Chính phủ. Có thể nói rằng đây là phương pháp hữu hiệu để xây dựng một chính quyền hành pháp mạnh mẽ.

Việc tăng cường vai trò của người đứng đầu Chính phủ còn thể hiện ở việc tăng thêm nhiều quyền hạn cho Thủ tướng Chính phủ mà trước đây các Hiến pháp 1959, 1980 không quy định. Đó là các thẩm quyền sau đây:

- Đề nghị thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, các cơ quan ngang Bộ.

- Phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những Quyết định, Chỉ thị, Thông tưcủa Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Pháp luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên.

- Đình chỉ việc thi hành những Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ (Điều 114).

Chương IX- Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Chương này bao gồm 8 điều (từ Điều 118 đến Điều 125). Theo quy định của Hiến pháp 1992 nước ta vẫn chia làm 3 đơn vị hành chính: tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn1 (Điều 118). ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Tính chất của Hội đồng nhân dân nhưcũ là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra, nhưng Hiến pháp mới nhấn mạnh tính đại diện của Hội đồng nhân dân nên đã quy định rõ hơn: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên (Điều 119). Nhưvậy, có thể thấy rằng tính chất của Hội đồng là tính quyền lực Nhà nước và tính đại diện nhân dân. Hai đặc tính này của Hội đồng nhân dân kết hợp nhuần nhuyễn với nhau làm cho Hội đồng nhân dân thực sự trở thành một cơ quan Nhà nước quan trọng bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Về cơ cấu tổ chức, Hiến pháp 1992 duy trì các quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1989, về thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân ở các Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh. Trong tổ chức Hội đồng nhân dân còn thành lập các Ban. Theo quy định của Hiến pháp 1992, quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân được tăng cường. Một số quyền hạn trước đây thuộc tập thể Uỷ ban nhân dân, nay chuyển cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân: "Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những

Page 35: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới, đình chỉ thi hành Nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những Nghị quyết đó (Điều 124). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân do Quốc hội khoá IX (kỳ họp thứ năm) thông qua ngày 21-6-1994 trên tinh thần Hiến pháp 1992 đã tăng cường quyền lực cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Theo quy định tại Điều 52 của luật này Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền điều động, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp.

Đề cao hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng trong quản lý Nhà nước và xã hội. Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân địa phương được mời dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự Hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, phối hợp với mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương (Điều 125).

Chương X - Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 điều (từ Điều 126 đến Điều 140).

Theo quy định tại Điều 126 nhiệm vụ của toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Có thể nói về nhiệm vụ của Toà án và Viện kiểm sát nhân dân không có gì thay đổi.

Về tổ chức hệ thống cơ quan Toà án, Hiến pháp 1992 quy định "Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tình hình đặc biệt Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt. Quy định này về tổ chức hệ thống toà án đã được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức toà án nhân dân 1992, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28-12-1993, Pháp lệnh về tổ chức Toà án quân sự năm 1993, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 28-10-1995.

Theo quy định của các văn bản pháp luật trên đây ở nước ta có các toà án sau đây:

Toà án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các toà án quân sự; các toà án khác do luật định. Các toà án quân sự ở nước ta theo Điều 2 Pháp lệnh tổ chức toà án quân sự bao gồm toà án quân sự Trung ương, các toà án quân sự quân khu và tương đương, các toà án quân sự khu vực.

Trước năm 1992, trong hệ thống toà án nhân dân ở nước ta chỉ có toà hình sự và toà dân sự. Các tranh chấp kinh tế do Trọng tài kinh tế giải quyết. Sau khi ban hành Hiến pháp 1992, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân ngày 28-12-1992 đã quy định: "Toà án nhân dân tối cao và các toà án nhân dân tỉnh, thành phố

Page 36: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

trực thuộc Trung ương thành lập thêm toà chuyên trách là toà án kinh tế để giải quyết tranh chấp kinh tế".

Theo quy định của Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23-6-1994 và có hiệu lực thi hành ngày 1-1-1995, thì các tranh chấp lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước tập thể và trong quá trình học nghề, nếu qua hoà giải hoặc Hội đồng trọng tài giải quyết mà không thành, các bên có quyền yêu cầu toà án nhân dân giải quyết (Điều 164).

Theo quy định tại khoản 2 Điều 166 Bộ luật lao động, một số tranh chấp lao động cá nhân có thể yêu cầu toà án nhân dân cấp huyện giải quyết, không nhất thiết phải qua hoà giải cơ sở. Đó là những tranh chấp sau đây:

- Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại cho người lao động.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 176 Bộ luật lao động thì việc kết luận cuộc đình công hợp pháp hay không thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân. Những quy định đó của Bộ luật lao động là tiền đề để thành lập thêm Toà lao động trong hệ thống toà án nhân dân.

Việc giải quyết các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính sai trái làm thiệt hại đến quyền lợi của dân cũng là một vấn đề bức xúc mà xã hội đặt ra đối với tổ chức toà án. Trước tình hình đó Quốc hội một lần nữa đã ban hành luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà án nhân dân. Theo quy định của Luật sửa đổi thì cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao gồm: Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự Trung ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và các Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao.

Cũng theo quy định của luật sửa đổi cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Uỷ ban thẩm phán, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính.

Tóm lại: theo quy định của luật mới trong hệ thống tổ chức toà án cấp Trung ương và cấp tỉnh còn có thêm toà lao động và hành chính để chuyển xét xử các tranh chấp lao động và hành chính, ở cấp huyện có thẩm phán chuyên trách xét xử tranh chấp lao động và khiếu kiện hành chính.

Sự khác nhau cơ bản giữa tổ chức toà án nhân dân theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1980 là: Hiến pháp 1980 thực hiện chế độ thẩm phán bầu, còn Hiến pháp 1992 thực hiện chế độ thẩm phán bổ nhiệm. Dựa trên tinh thần của Hiến pháp, Luật tổ chức toà án nhân dân 1992 đã quy định chỉ có Chánh án Toà án nhân dân tối cao là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn tất cả các thẩm phán của toà án nhân dân các cấp kể cả Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Chánh án, Phó Chánh án toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Điều 38). Nhiệm kỳ bổ nhiệm của các Thẩm phán là 5 năm. Còn đối với các Hội thẩm nhân dân thì kết hợp giữa chế độ cử và chế độ bầu. Hội thẩm nhân dân toà án nhân dân tối cao do uỷ

Page 37: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam và do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội miễn nhiệm và bãi nhiệm. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự Trung ương do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam và do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm. Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu và tương đương do Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Hội thẩm quân dân Toà án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị sưđoàn hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm, bãi nhiệm (Điều 39).

Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao và Hội thẩm quân nhân là 5 năm, còn nhiệm kỳ Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp (Điều 39).

Về các nguyên tắc xét xử, Hiến pháp 1992 ghi nhận lại những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp 1980. Đó là các nguyên tắc: Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán; khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo; quyền của công dân thuộc các dân tộc khác nhau có thể dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước toà án (Điều 129, 130, 131, 132, 133).

Về Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp 1992 cũng xác định tính chất, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhưtrước đây, nhưng về tổ chức và trách nhiệm cũng có những thay đổi và bổ sung nhất định. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ban hành năm 1992 cụ thể hoá quy định của Hiến pháp thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Uỷ ban kiểm sát. Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng cử và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Viện trưởng cử và trình Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn. Một số vấn đề quan trọng trước đây do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định nay chuyển cho Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương .

Ngoài quy định nói trên, Hiến pháp 1992 cũng nhưluật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992 có quy định mới về việc "Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương

Page 38: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành Pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân" (Điều 140).

Các quy định trên đây về Viện kiểm sát nhân dân cho chúng ta thấy rằng: Hiến pháp 1992 một mặt vẫn đề cao chế độ làm việc theo nguyên tắc thủ trưởng và trực thuộc một chiều để đề cao tính độc lập của Viện kiểm sát, mặt khác phải kết hợp nguyên tắc này với chế độ bàn bạc tập thể khi Viện kiểm sát quyết định những vấn đề quan trọng. Đồng thời Hiến pháp 1992 cũng xác định tính chất giám sát của Quốc hội cũng nhưHội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.

Chương XI- Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày quốc khánh, bao gồm 5 điều (từ Điều 141 đến Điều 145) chương này về cơ bản giữ nguyên các quy định của các Hiến pháp trước đây, chỉ bổ sung thêm vào Hiến pháp năm 1992 việc quy định ngày Quốc khánh của nước ta là 2-9, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Chương XIII- Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp là chương cuối cùng của Hiến pháp 1992 chỉ có 2 điều (Điều 146, 147). Nội dung của chương này hoàn toàn giống quy định của Hiến pháp 1980.

Tóm lại, Hiến pháp 1992 đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Đây là bản Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chắt lọc những tinh hoa của các Hiến pháp 1946; 1959; 1980; đồng thời là bản Hiến pháp vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tưtưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Hiến pháp 1992 đánh dấu sự phục hưng và phát triển của nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam vào những năm cuối của thế kỷ XX. Nó là tấm gương phản chiếu những đổi mới trong tưtưởng lập Hiến và lập Pháp của con người Việt Nam, đó là bản Hiến pháp thể hiện sự độc lập và tự chủ trên tiến trình phát triển của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện bản sắc dân tộc, đồng thời thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc với tính quốc tế và hiện đại trên cơ sở phát triển những tinh hoa của nền văn hoá pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu những tinh hoa văn hoá pháp lý thế giới.

Nội dung và ý nghĩa của Hiến pháp 1946

Hiến pháp 1946 gồm lời nói đầu, 7 chương với 70 điều Trong Lời nói đầu, Hiến pháp ghi nhận thành quả của Cách mạng tháng Tám “giành lại chủ quyền cho đất nước tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa”. Lời nói đầu cũng nêu rõ: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo đảm lãnh thổ, giành độc lặp hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”.

Chương I (từ Điều 1 đến Điều 3) quy định về chính thể, theo đó Việt Nam  là một nước dân chủ cộng hòa, thống nhất, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, quốc kỳ lả cờ đỏ sao vàng, quốc ca là bài Tiến quân ca, thủ đô đặt ở Hà Nội.

Chương II (từ Điều 4 đến Điều 21) quy định về quyền và nghĩa vụ công dân, ghi nhận quyền bình đẳng trên một phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hôi; bình đẳng giữa nam vả nữ; bình đẳng trước pháp luật; quyền được tham gia chính quyền và công việc kiến quốc tùy theo tài đức; quyền tự do ngôn luận, hội họp, cư trú, đi lại, tín ngưỡng;

Page 39: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

quyền bầu cử, bãi miễn, phúc quyết; quyền đảm bảo thân thể, nhà ở, thư tín...; nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tuân theo Hiến pháp và pháp luật.

Chương III (từ Điều 22 đến Điều 42) quy định về Nghị viện nhân dân (Quốc hội), theo đó, cơ quan lập pháp tối cao là Nghị viện nhân dân gồm các Nghị viện được nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Nghị viện nhân dân chỉ gồm một viên, là “cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Công hòa”: quyết định những vấn đề chung quan trọng nhất của đất nước, đặt ra luật pháp biểu quyết ngân sách, bầu và giám sát hoạt động của Chính phủ…Chương này cũng quy anh cơ cấu, hoạt đông của Nghị viện nhân dân; quyền và nghĩa vụ của các nghị viên.

Chương IV (từ Điều 43 đến Điều 56) quy định về Chính phủ, theo đó, “Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất” của quốc gia, gồm Chủ tịch nước, Thủ tướng, các bộ trưởng và thứ trưởng. Chính phủ được lập ra và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Chương này còn quy định chi tiết cơ cấu, thẩm quyền và phương thức hoạt động của chính phủ.

Chương V (từ Điều 57 đến Điều 62) quy định về hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Ủy ban hành chính là cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, thực hiện những quyết định của hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước cấp trên. Chương này còn quy định về cơ cấu đơn vị hành chính lãnh thổ Việt Nam.

Chương VI (từ Điều 63 đến Điều 69) quy định về cơ quan tư pháp, theo đó, các tòa án được chia thành 4 cấp, có trách nhiệm xét xử các vụ án hình sự và dân sự. Khi xét xử thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật. Xét xử các vụ án hình sự, phải có phụ thẩm nhân dân tham gia. Thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm. Bị cáo được quyền tự bào chữa, mượn luật sư, dùng tiếng nói riêng và không bị ngược đãi.

Chương VII (Điều 70) quy định về việc sửa đổi Hiến pháp: Hiến pháp chỉ được sửa đổi khi có không dưới 2/3 tổng số Nghị viện yêu cầu, Nghị viện bầu ra Ban Dự thảo những điều thay đổi và toàn dân phúc quyết những điều thay đổi đã được Nghị viện tán thành.

Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, là bản Hiến pháp dân chủ và tiến bộ nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Nó ghi nhận thành quả vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và thống nhất lãnh thổ. Hiến pháp 1946 đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước và nhân dân ta trong giai đoạn trước mắt, chỉ rõ những đường lối thực hiện nhiệm vụ ấy. Đồng thời, nó đặt nền móng cho một bộ máy nhà nước kiểu mới - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp 1946 còn công nhận, đảm bảo quyền dân chủ thiêng liêng của công dân, phù hợp với tình hình, đặc điểm cách mạng Việt Nam và xu hướng tiến bộ, văn minh trên thế giới.

Giới thiệu sơ lược về Hiến pháp 2013

Tại kỳ họp thứ 6 ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII đã chính thức thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Page 40: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Hiến pháp năm 2013 bao gồm 11 chương, 120 điều, giảm 01 chương và 27 điều và có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng trong phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường theo hướng cơ bản và khái quát hơn so với Hiến pháp năm 1992.

Hiến pháp khẳng định Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

Hiến pháp cũng thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, công đoàn, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức khác trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhấn mạnh “bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”, là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân...

Hiến pháp này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014.

Hiến pháp năm 2013 - Kế thừa những giá trị cơ bản của Hiến pháp năm 1992 trong điều kiện lịch sử mới

Sau nhiều năm nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), kết quả tổng kết thực tiễn sâu sắc và lý luận 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, những thành tựu của lịch sử lập hiến nước nhà, với sự đồng thuận của nhân dân, Hiến pháp mới đã được Quốc hội thông qua với đa số phiếu tuyệt đối. Đó là thành quả của quá trình đổi mới tư duy trong bối cảnh lịch sử mới, dựa trên cơ sở tiếp tục kế thừa những thành tựu của lịch sử lập hiến nước nhà ngay từ khâu xác định mục đích, yêu cầu, quan điểm sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đến việc sửa đổi, bổ sung các nội dung mới trong Hiến pháp mới. Chính vì vậy, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 (từ đây gọi là Hiến pháp mới) được coi là bản Hiến pháp thứ 5 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Sự cần thiết, mục đích, yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp năm 1992 tuy đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001, song cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước, đã trở nên bất cập cần phải sửa đổi toàn diện, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên. Thực hiện chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa XI, tại kỳ họp thứ nhất, ngày 6-8-2011, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản của đất nước, việc sửa đổi Hiến pháp được xác định phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:

Một là, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn những nội dung cơ bản có tính bản chất của chế độ ta đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

Page 41: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Hai là, thể chế hóa kịp thời những quan điểm, chủ trương lớn được nêu trong Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng.

Ba là, hoàn thiện kỹ thuật lập hiến, bảo đảm để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản, có tính ổn định, lâu dài.

Quan điểm sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 phải dựa trên các quan điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, phải dựa trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; căn cứ vào định hướng, nội dung của Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng; kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới đã được Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định.

Thứ hai, tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Thứ ba, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Thứ tư, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị, vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ năm, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ sáu, sửa đổi Hiến pháp là công việc hệ trọng nên phải tiến hành chặt chẽ, khoa học dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và các cơ quan, tổ chức; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm đúng định hướng, không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, xuyên tạc trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.

Những điểm kế thừa và phát triển mới của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013)

Page 42: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Về cơ bản, Hiến pháp sửa đổi đã được chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung cả về nội dung, bố cục và kỹ thuật lập hiến trong tất cả các chương, điều của Hiến pháp nhưng những nguyên tắc, nội dung cơ bản, tư tưởng cốt lõi của Hiến pháp năm 1992 vẫn tiếp tục được kế thừa và phát triển trong bản Hiến pháp mới.

Về tư tưởng lập hiến: Trong lần sửa đổi này, tư tưởng lập hiến được xây dựng phù hợp với chủ nghĩa lập hiến hiện đại. Theo đó, từ quan niệm: thông qua Hiến pháp, Nhà nước trao cho người dân quyền được làm gì, không được làm gì chuyển sang quan niệm: thông qua Hiến pháp, nhân dân trao quyền lực cho Nhà nước để thực hiện quyền dân chủ đại diện và giữ lại một phần quyền lực nhà nước của mình để thực hiện quyền dân chủ trực tiếp. Theo chủ thuyết chủ quyền nhân dân đó, Hiến pháp mới có nhiều quy định mới.        

Về hình thức , Hiến pháp mới có 11 chương, 120 điều; giảm 1 chương, 27 điều, giữ nguyên 7 điều, sửa đổi, bổ sung 101 điều và bổ sung mới 12 điều so với Hiến pháp năm 1992. Để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp và nâng cao chất lượng kỹ thuật lập hiến, Hiến pháp mới đã có một số thay đổi về mặt kết cấu. Chương I, xây dựng trên cơ sở viết gọn lại tên Chương I của Hiến pháp năm 1992 thành “Chế độ chính trị” và đưa các quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh tại Chương XI của Hiến pháp năm 1992 vào chương này; vì đây là những nội dung quan trọng gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia. Chương II, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” để khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Trên cơ sở lồng ghép Chương II: Chế độ kinh tế và Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 thành Chương III: “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”, nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Chương VIII, được đổi vị trí từ Chương X: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân của Hiến pháp năm 1992 thành: “Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân” để thể hiện sự gắn kết giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân của Hiến pháp năm 1992 được đổi tên thành “Chính quyền địa phương”, để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan công quyền ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Nội hàm của chương này không chỉ quy định về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội ở địa phương. Chương X, là chương mới, quy định về một số thiết chế hiến định độc lập gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Về nội dung: Với những đổi mới quan trọng, Hiến pháp sửa đổi được coi là bản Hiến pháp của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đồng bộ cả về kinh tế, chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới.

Một là, trong Lời nói đầu, trên cơ sở kế thừa Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng và súc tích hơn về truyền

Page 43: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

thống, lịch sử đất nước, dân tộc, lịch sử lập hiến của nước ta; nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới; mục tiêu xây dựng đất nước và thể hiện mạnh mẽ hơn ý nguyện của nhân dân ta trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp. Theo đó, “nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hai là, chủ thuyết “chủ quyền nhân dân” được thể hiện rõ và nhất quán trong Hiến pháp mới trên cơ sở nền tảng của Hiến pháp năm 1992 và những thành tựu trong lịch sử lập hiến nước ta.

Có thể nói, chủ quyền nhân dân là một trong những nguyên tắc đặc biệt quan trọng của Hiến pháp - bản “khế ước xã hội” của nhân dân - vì thế, trước hết, nó phải thể hiện rõ điều này. Toàn văn Hiến pháp mới cho thấy rõ tư tưởng về chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ngay ở Chương I, có 6 điều khẳng định về chủ quyền nhân dân; chỉ rõ phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Chương II, bao gồm các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, là một bước cụ thể hóa về chủ thuyết chủ quyền nhân dân khi bổ sung thêm các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, như: quyền được có quốc tịch, quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền được thụ hưởng giá trị văn hóa, được bảo vệ trong tiêu dùng... Đồng thời, Hiến pháp mới khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2, Điều 14). Bên cạnh đó, Hiến pháp mới cũng nêu rõ cách thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các quyền chính trị cơ bản, như: nhân dân có quyền bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội do họ bầu ra, đồng thời có quyền biểu quyết về những vấn đề trưng cầu ý dân, v.v..

Ba là, Hiến pháp mới đã quy định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng và Nhà nước ta, Hiến pháp mới xác định rõ hơn chức năng của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.

Đối với các cơ quan ở trung ương, Hiến pháp mới đã xác lập rõ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp khi khẳng định: Quốc hội là cơ quan lập pháp; Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước trong hoạt động lập pháp, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, đối nội, đối ngoại. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên; quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp.

Đối với việc phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương: Để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp mới không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy

Page 44: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

định theo hướng: “Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (khoản 1, Điều 112); “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương” (khoản 2, Điều 112). Cách quy định như vậy để tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.

Bốn là, nội dung về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường được thể hiện theo hướng ngắn gọn, rõ ràng và mang tính nguyên tắc, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp. Hiến pháp mới nêu rõ nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước ta là: xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách cụ thể chứ không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị quốc hữu hóa; trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường, thể thức trưng dụng theo luật định.

Năm là, Hiến pháp mới bổ sung các thiết chế hiến định độc lập. Để đảm bảo thực thi chủ quyền nhân dân, thực hiện tốt cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp mới đã bổ sung 2 điều (tại Chương X), quy định về hai thiết chế hiến định độc lập, gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Về thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia, thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về việc “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu cử”, Hiến pháp mới quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia nhằm mục đích hoàn thiện chế độ bầu cử cũng như thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp là việc bầu cử, ứng cử và hình thức dân chủ đại diện thông qua đại biểu dân cử. Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia đồng thời góp phần bảo đảm tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Về thiết chế Kiểm toán nhà nước, Hiến pháp mới quy định vai trò, địa vị pháp lý và chức năng của Kiểm toán nhà nước để tăng cường vị thế, trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Theo đó, đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia. Hiến pháp chỉ quy định về việc Quốc hội bầu Tổng Kiểm toán nhà nước, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước sẽ do luật điều chỉnh.

Có thể nói, Hiến pháp mới được Quốc hội thông qua với việc bổ sung những điểm mới quan trọng, đã thể hiện quan điểm đổi mới cũng như quyết tâm chính trị của Đảng,

Page 45: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Nhà nước ta trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm sự đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế... Vì vậy, đây là một bản Hiến pháp mới - bản Hiến pháp thứ 5 của nước ta với tên gọi: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2014.

Để bảo đảm hiệu lực thi hành của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28-11-2013 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp, trong đó đã xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kịp thời triển khai các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp. Đồng thời, Nghị quyết cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại cơ quan, tổ chức và địa phương mình, nâng cao nhận thức về Hiến pháp và ý thức chấp hành Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội1.

Hiến pháp mới được Quốc hội thông qua là một sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị đất nước. Với những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định, Hiến pháp mới tiếp tục là nền tảng pháp lý cơ bản giúp nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện trong tình hình mới, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn.

Câu 2: Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ ngày, tháng, năm nào? So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có bao nhiêu điều được giữ nguyên? Có bao nhiêu điều được sửa đổi, bổ sung? Điều sửa đổi, bổ sung nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?

Trả lời Câu 2. Điểm mới của Hiến pháp sửa đổi

- Sau 21 năm từ Hiến pháp năm 1992, đất nước ta có Hiến pháp sửa đổi mới, Hiến pháp của thời kỳ hội nhập, thời kỳ đổi mới.

Sáng ngày 28/11/2013, tuyệt đại đa số Đại biểu Quốc hội khóa XIII (97,59%) đã ấn nút thông qua Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (SĐHP) năm 1992 để trở thành Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi. Như vậy sau 21 năm từ Hiến pháp năm 1992, đất nước ta có Hiến pháp sửa đổi mới, Hiến pháp của thời kỳ hội nhập, của thời kỳ đổi mới. Hiến pháp của một đất nước ngày càng phát triển, dân chủ, văn minh.

Nhìn lại quá trình soạn thảo, lấy ý kiến, tiếp thu chỉnh lý, Hiến pháp sửa đổi có những điểm mới sau:

Thứ nhất, với tư cách là “người trong cuộc” Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã nêu bật những cái mới của dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này là: có 11 chương 120 điều, so với Hiến pháp năm 1992 thì giảm 27 điều, dự thảo chỉ giữ nguyên 7 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi lên đến 101 điều. Trong đó có sự sắp xếp các chương, như chương 11 về Quốc huy, Quốc kỳ, Quốc ca, thủ đô nhập vào chương 1. Về chế độ chính trị ở

Page 46: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

chương 5 trong Hiến pháp hiện hành, về quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân được đưa lên vị trí chương 2 với tên gọi mới là quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân; có 1 chương hoàn toàn mới là  chương 10, quy định về các thiết chế hiến định độc lập.

Về nội dung, ngay từ Lời nói đầu được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng, súc tích và ngắn gọn chỉ bằng 1/3 so với Lời nói đầu của Hiến pháp hiện hành. Thứ hai, về chủ quyền nhân dân thì được thể hiện rõ và nhất quán trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, làm nổi bật vai trò của nhân dân, là chủ thể cao nhất, duy nhất của quyền lực nhà nước. Thứ ba, thể chế hóa, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điểm mới thứ 4 là nội dung kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường được thể hiện theo hướng ngắn gọn rõ ràng và mang tính nguyên tắc, bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp; nội dung này trước đây là 2 chương, ở chương 2 và chương 3, bây giờ được nhập lại thành chương mới là chương 3. Điểm mới thứ 5, là việc dành hẳn 1 chương về thiết chế hiến định độc lập, có 2 điều, tại chương 10 quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia và kiểm toán nhà nước.

Thứ hai, cái mới của Hiến pháp từ góc độ các Đại biểu Quốc hội (ĐBQH): 498 ĐBQH được cử tri cả nước ủy quyền, đại diện cho ý nguyện của nhân dân đã dành tâm huyết, trí tuệ và thời gian thảo luận ở tổ, ở hội trường; đã trăn trở, tranh luận, phân tích, bàn thảo một cách kỹ lưỡng, thận trọng, khoa học; đã góp ý, tham gia từng câu, từng chữ, từng dấu chấm, dấu phẩy của bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Nhiều đại biểu còn giữ nguyên từ bản dự thảo đầu tiên cho đến bản dự thảo sửa đổi cuối cùng để đối chiếu, so sánh về sự tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Có đại biểu rất phấn khởi vì ý kiến của mình được tiếp thu, chỉnh sửa câu, chữ trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp… Qua đó cho thấy các ĐBQH đã hiểu rất rõ vai trò, trọng trách của mình trước cử tri, trước đất nước. 

Cái mới của các ĐBQH tại kỳ họp này còn ở chỗ, không chỉ nhận thấy vai trò, trọng trách của mình trước một sự kiện có tính chất lịch sử mà còn nhận thức rất rõ ý nghĩa, nội hàm, nội dung từng chương, từng điều của Hiến pháp. Các ĐBQH đã có thời gian, không gian để thẩm thấu, để hiểu và nhận thấy trách nhiệm, vinh dự, tự hào, hạnh phúc vì được trực tiếp tham gia, góp ý, trao đổi; được trực tiếp tham gia quyết định Hiến pháp sửa đổi lần này bằng việc ấn nút thông qua vào thời khắc quan trọng. Trọng trách ấy, vinh dự ấy là sự kết tinh về ý chí, nguyện vọng của cử tri được đặt lên vai các ĐBQH; đồng thời cũng là đòi hỏi khách quan tất yếu trong thời kỳ mới của cách mạng nước ta.

Thứ ba, cái mới của Hiến pháp từ góc độ nhân dân và cử tri cả nước: Hiến pháp đầu tiên ra đời năm 1946, sau đó là các Hiến pháp 1959, 1980, 1992. Mỗi bản Hiến pháp đều có vai trò, sứ mệnh lịch sử riêng của nó. Tuy nhiên, không phải cán bộ hay cử tri nào cũng có điều kiện, thời gian để theo dõi và hiểu biết sâu sắc, đầy đủ về Hiến pháp; thậm chí có những cán bộ, cử tri xem Hiến pháp là của ai đó cao xa, không phải là của mình. Nhưng lần này, qua gần một năm với hàng chục triệu ý kiến, hàng nghìn hội nghị, hội thảo của các tầng lớp xã hội, mới thấy rằng nhân dân, cử tri, các nhà khoa học, quản lý... rất quan tâm, đóng góp trí tuệ vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Tuy còn một bộ phận, một số người thuộc các tầng lớp nhân dân và ngay cả một số ĐBQH của chúng ta còn có những ý kiến khác nhau nhưng tuyệt đại bộ phận nhân dân và Quốc hội đã đồng tình cao với sửa đổi Hiến pháp lần này.

Page 47: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Cái mới và cũng là cái được lớn nhất của Hiến pháp sửa đổi đó là nhân dân và cử tri cả nước đã coi Hiến pháp là của chính  mình; Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản có tầm ảnh hưởng để định hướng và điều chỉnh các hoạt động của đất nước, của xã hội, thông qua các luật và các văn bản dưới luật; đây là bản Hiến pháp đổi mới cho thời kỳ tiếp tục đổi mới của đất nước chúng ta. Hiến pháp sửa đổi lần này thực sự đã thể hiện sự kế thừa các Hiến pháp trước, thể hiện đầy đủ ý chí, tinh hoa, nguyện vọng của đồng bào, cử tri của cả nước và phát triển ở một tầm vóc mới; thực sự là Hiến pháp của dân, do dân và vì dân./.

Một số điểm mới cơ bản của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi

Sau một thời gian tổ chức lấy ý kiến đóng góp của toàn thể quần chúng nhân dân và thông qua quá trình tiếp thu, chỉnh lý của cơ quan soạn thảo, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được thông qua sau 3 lần cho ý kiến tại các kỳ họp Quốc hội với tỷ lệ 97,59%. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi (sau đây gọi tắt là Hiến pháp sửa đổi) với 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; bố cục hợp lý, chặt chẽ và khoa học, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính ổn định lâu dài. Những điểm mới cụ thể như: 

Một là, phần Lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi xúc tích, ngắn gọn hơn so với Hiến pháp năm 1992. Theo đó, Hiến pháp sửa đổi khẳng định: "Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc, được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, Nhân dân ta đã giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội".  

Hiến pháp sửa đổi lần này đã thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên cơ sở phát huy dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đề cao được quyền con người, quyền nghĩa vụ công dân.

Hai là, Hiến pháp năm 1992 quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở Chương 5, nhưng Hiến pháp sửa đổi đã đưa chế định này lên sau chương Chế độ chính trị, đặt ở Chương 2, như vậy riêng bố cục cũng đã thể hiện tầm quan trọng của chương về quyền con người. Đồng thời, tên chương cũng đã có sự thay đổi, cụ thể: Ở Hiến pháp năm 1946 là Chương "Nghĩa vụ và quyền lợi công dân”, từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1992 là Chương "Quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân", đến Hiến pháp

Page 48: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

sửa đổi Chương này có tên gọi là "Quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản công dân". Qua đó để khẳng định rằng, quyền con người là quyền tự nhiên, Nhà nước phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền con người đúng như những công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể Điều 14 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng".

Thay cụm từ "mọi công dân" thành "mọi người", theo đó Điều 16 nêu rõ: "Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội".

Bổ sung thêm quy định: "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật".

Ba là, Hiến pháp sửa đổi lần này vẫn tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của Đảng cộng sản Việt Nam, trong đó có những điểm lớn như thể hiện rõ hơn bản chất của Đảng một cách công khai. Trong Điều 4 của Hiến pháp trước đây không nói rõ trách nhiệm của Đảng, thì lần này Hiến pháp sửa đổi đã đưa vào và nhấn mạnh Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân. Đó là sức sống của Đảng.

Thêm vào đó, Đảng phải phục vụ nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Nếu như quyết định không đúng, ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, nhân dân thì Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và trước dân tộc. Đây là điểm rất mới của Hiến pháp.

Bốn là, Hiến pháp sửa đổi phân định rõ được chức năng nhiệm vụ cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp so với Hiến pháp hiện nay[1]. Theo đó:

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 69). Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau:

- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;

- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

- Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;

Page 49: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;

- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 

- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia;

- Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;

- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

- Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;

- Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

- Quyết định đại xá;

- Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;

- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;  

- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực củađiều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;

- Quyết định trưng cầu ý dân. 

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.  Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước (Điều 94). Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau:

Page 50: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

- Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện  nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;

- Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;

- Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ,quyền hạn do luật định;

- Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;

- Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;

- Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. 

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 102).

Bản Hiến pháp Quốc hội thông qua lần này là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, làm việc cần mẫn, tâm huyết, tận tụy, nghiêm túc chắt lọc tinh hoa trí tuệ của toàn dân, tiếp thu ý kiến xác đáng của cử tri trong và ngoài nước, các chuyên gia, nhà khoa học, các ngành, các cấp và cả hệ thống chính trị của các vị đại biểu Quốc hội. Do đó, bản Hiến pháp mới thể hiện tinh thần đổi mới và thể hiện được ý Đảng, lòng dân, phản ánh được nguyện vọng của đại đa số nhân dân.

Một số điểm mới về kỹ thuật lập hiến trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013

Page 51: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Ngày 28-11-2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và Nghị quyết 64/2013/QH13 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 có hiệu lực kể từ ngày 01-01-2014 và có nhiều điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến. Bài viết phân tích một số điểm mới về kỹ thuật lập hiến trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013.

Kỹ thuật lập hiến

Kỹ thuật lập hiến hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ những cách thức soạn thảo, thông qua và ban hành Hiến pháp. Theo nghĩa hẹp, kỹ thuật lập hiến là kỹ năng diễn đạt Hiến pháp thông qua cách thức thể hiện viết các điều khoản quy định của Hiến pháp.

Kỹ thuật lập hiến có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm giá trị pháp lý của Hiến pháp; là nhân tố quan trọng làm cho nội dung Hiến pháp được trình bày một cách khoa học, chặt chẽ, lô gích; từ đó góp phần nâng cao chất lượng của Hiến pháp, đồng thời bảo đảm hiệu lực và hiệu quả thực thi Hiến pháp sau khi ban hành. 

Lịch sử lập hiến của nhân loại cho đến nay chủ yếu là lịch sử của các bản Hiến pháp được thể hiện dưới dạng văn bản, chỉ trừ một số rất ít quốc gia Hiến pháp được thể hiện dưới hình thức bất thành văn như ở Anh, Ix-rai-en, Ca-na-đa. Kỹ thuật lập hiến của hiến pháp dưới dạng văn bản là kỹ năng diễn đạt hiến pháp thông qua cách thức thể hiện, viết các điều khoản quy định của Hiến pháp. Như vậy, về cơ bản, kỹ thuật lập hiến có thể xem xét ở 3 yếu tố chính: 

- Một là, bố cục và kết cấu của Hiến pháp. Cụ thể là kết cấu trong các chương, mục, điều, khoản và thứ tự sắp xếp các chương, mục, điều khoản như thế nào.

- Hai là, phạm vi những nội dung cần phải thể hiện trong Hiến pháp. Cụ thể, những vấn đề nào phải được quy định trong Hiến pháp và những vấn đề gì điều chỉnh trong các văn bản luật.

- Ba là, cách diễn đạt nội dung của Hiến pháp thông qua ngôn từ, câu chữ sao cho rõ ràng, minh bạch nhưng lại đủ bao quát và cụ thể.

Những điểm mới về bố cục và kết cấu của Hiến pháp

Ngoài Lời nói đầu, Hiến pháp năm 2013 có 11 chương, 120 điều, so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) chỉ giữ nguyên 7 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi 101 điều.

Chương I được xây dựng trên cơ sở nhập 2 chương: Chương I: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ chính trị” và Chương XI: “Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh” của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); đồng thời, viết gọn lại tên chương thành “Chế độ chính trị”. Việc kết cấu lại như thế là lô gích vì đây đều là những nội dung quan trọng gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia. 

Chương II, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Việc thay đổi vị trí chương và tên chương thể hiện giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Đây cũng là một bước tiến lớn về nhận thức. Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chung, còn lần này đã quy định rõ ràng và minh bạch rằng “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về

Page 52: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.

Chương III: “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường” được quy định trên cơ sở lồng ghép Chương II: Chế độ kinh tế và Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Việc sắp xếp như vậy về mặt nội dung thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường; về mặt hình thức, khá gọn về bố cục.

Chương IV là những quy định về bảo vệ Tổ quốc nhưng tên chương viết gọn lại là “Bảo vệ Tổ quốc” (trong Hiến pháp năm 1992 là Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”) để phù hợp với tiêu đề Chương I.

Chương VIII: “Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân” được đổi vị trí từ Chương X: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân của Hiến pháp năm 1992; sắp xếp ngay sau Chương VII: “Chính phủ” và trước Chương IX: “Chính quyền địa phương”. Việc thay đổi này lô gích về trật tự vì từ Chương V đến Chương VII trình bày hệ thống các cơ quan chính của trung ương, về mặt nội dung, thể hiện sự gắn kết giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (trong Hiến pháp năm 1992, Chương này sắp xếp sau Chương quy định về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân).

Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân của Hiến pháp năm 1992 được đổi tên thành Chương IX: “Chính quyền địa phương”, để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan công quyền ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Nội hàm của chương này không chỉ quy định về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội ở địa phương. 

Chương X là chương hoàn toàn mới, quy định về một số thiết chế hiến định độc lập gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Một số điểm mới về nội dung, thể hiện trong Hiến pháp

Thông thường những quy định của Hiến pháp quá chi tiết gây khó khăn cho việc xây dựng các văn bản luật và văn bản dưới luật. Thực tế cho thấy, nếu Hiến pháp quy định quá cụ thể thì sẽ không thể phù hợp với mọi điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt khi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thay đổi. Quy định nào của Hiến pháp có tính chất “làm thay” quy định của luật, thậm chí văn bản dưới luật thì quy định đó sẽ mau chóng trở nên lỗi thời. Chính vì thế việc xác định phạm vi những nội dung cần phải thể hiện trong Hiến pháp cũng thể hiện một trình độ kỹ thuật lập hiến.

Điều 111, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định: 

1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đon vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Page 53: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.

Với quy định như trên, Hiến pháp chỉ xác định mô hình khung chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính lãnh thổ. Còn việc tổ chức cụ thể như nào sẽ do luật định để phù hợp với điều kiện đặc thù mỗi địa phương cũng như sự thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Thiết nghĩ đây cũng là một quy định thể hiện kỹ năng lập pháp trong việc xác định phạm vi những nội dung cần thể hiện trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định việc tổ chức chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đều giống nhau ở các loại đơn vị hành chính đã tạo ra sự rập khuôn, cứng nhắc, ít phân biệt được sự khác nhau trong quản lý hành chính nhà nước ở đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo và cũng không bảo đảm được tính tập trung cao từ trung ương xuống địa phương.

Để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, cũng như xác định việc phân cấp giữa trung ương và địa phương, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (Khoản 1, Điều 112); “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 2, Điều 112). Cách quy định như vậy tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.

Về thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định vai trò, địa vị pháp lý và chức năng của hai cơ quan này còn những vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn sẽ do luật điều chỉnh. Như vậy sẽ tránh tình trạng sao chép hay lặp lại quy định của Hiến pháp trong các luật tổ chức về nhiệm vụ, quyền hạn.

Về cách thức diễn đạt trong Hiến pháp

Về nội dung, ngay từ Lời nói đầu được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng, súc tích và ngắn gọn chỉ bằng một phần ba so với Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nhưng vẫn phản ánh được lịch sử hào hùng của dân tộc và những mốc lịch sử quan trọng, những thành quả cách mạng đã đạt được. Lời nói đầu của Hiến pháp đã thể hiện ý chí, quyết tâm của nhân dân ta, thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50). Đến Hiến pháp sửa đổi năm 2013, dù chỉ sửa đổi một vài câu chữ nhưng tinh thần của Hiến pháp đã có thay đổi lớn. Điều 14 Hiến pháp sửa đổi năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người và quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Với cách diễn đạt này, quyền con người không chỉ bị pháp

Page 54: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

luật giới hạn sự tôn trọng trong quyền công dân nữa mà còn được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Hơn nữa, quyền con người chỉ bị hạn chế bởi luật do Quốc hội ban hành, còn văn bản dưới luật chỉ là quy định về trình tự, thủ tục để thực hiện các quyền đó… Về một số quyền cơ bản như quyền biểu tình, hội họp, nếu theo Hiến pháp năm 1992, những quyền này phải “theo quy định của pháp luật” thì lần này Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã quy định công dân có các quyền đó, không phải chờ đến luật và pháp luật nữa. Luật sẽ quy định trình tự, thủ tục tạo điều kiện cho công dân thực hiện các quyền này. Hạn chế quyền này phải bằng luật. Ngoài ra, cũng có rất nhiều quy định mang tính tuyên ngôn, diễn đạt một cách ngắn gọn, súc tích như “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật” (Điều 19 Hiến pháp 2013)…

Tóm lại, cách thức thể hiện các quy định thành văn trong một bản Hiến pháp có vai trò trực tiếp đến chất lượng và thực thi Hiến pháp sau khi ban hành. Việc sửa đổi Hiến pháp trên nhiều phương diện, trong đó có phương diện kỹ thuật lập hiến một cách đúng đắn, phù hợp sẽ góp phần bảo đảm vai trò của Hiến pháp đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Kinh nghiệm xây dựng Hiến pháp trên thế giới cho thấy, cần phải xử lý khá linh hoạt về kỹ thuật lập hiến theo hướng kết hợp trong một bản Hiến pháp cả các quy định chung, có tính khái quát (chức năng một số cơ quan) và những quy định chi tiết, cụ thể (hạn chế quyền công dân). Có như vậy, Hiến pháp mới bảo đảm tính ổn định, có hiệu lực lâu dài và không gây khó khăn cho việc thể chế hóa. Đồng thời, Hiến pháp sẽ phát huy vai trò của một đạo luật gốc để xây dựng hệ thống pháp luật tốt. Đó không chỉ là một hệ thống pháp luật minh bạch, đạt được sự đồng thuận cao của người dân trong xã hội mà nội dung và hình thức còn phải bảo đảm tính nhất quán, tính ổn định, và khả thi. Có thể nói, với những điểm mới được xác định về mặt kỹ thuật lập hiến, bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được Quốc hội thông qua đã thể hiện quan điểm đổi mới cũng như quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN./.

NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 2013

Tóm tắt:

Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013) đánh dấu bước phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam.  Bài viết này giới thiệu những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 về cơ cấu và hình thức thể hiện; về chế độ chính trị; chính sách kinh tế - xã hội; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; về bộ máy nhà nước; về hiệu lực của Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.  

Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013, Chủ tịch nước công bố ngày 08/12/2013, có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Đây là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới, đồng thời đánh dấu bước phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Để phân biệt Hiến pháp này với các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992, sau đây gọi tắt là Hiến pháp năm 2013. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi giới thiệu những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 về cơ cấu và hình thức thể

Page 55: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

hiện; về chế độ chính trị; chính sách kinh tế - xã hội; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; về bộ máy nhà nước; về hiệu lực của Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.

1. Về cơ cấu và hình thức thể hiện của Hiến pháp năm 2013

Về cơ cấu của Hiến pháp: Hiến pháp năm 2013 gồm 11 chương, 120 điều. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 giảm 1 chương, 27 điều, trong đó có 12 điều mới (Điều 19, 34, 41, 42, 43, 55, 63, 78, 111, 112, 117 và 118); giữ nguyên 7 điều (Điều 1, 23, 49, 86, 87, 91 và 97) và sửa đổi, bổ sung 101 điều còn lại[1].

Hiến pháp năm 2013 có cơ cấu mới và sắp xếp lại trật tự các chương, điều so với Hiến pháp 1992, như: đưa các điều quy định các biểu tượng của Nhà nước (quốc kỳ, quốc huy, quốc ca ...) ở Chương XI Hiến pháp năm 1992 vào Chương I "Chế độ chính trị" của Hiến pháp năm 2013. Đổi tên Chương V Hiến pháp năm 1992 “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và đưa lên vị trí trang trọng của Hiến pháp là Chương II ngay sau Chương I "Chế độ chính trị". Chương II "Chế độ kinh tế" và Chương III "Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ" của Hiến pháp năm 1992 có tổng cộng 29 điều đã được Hiến pháp năm 2013 gộp lại thành một chương là Chương III "Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và mội trường" và chỉ còn 14 điều nhưng quy định cô đọng, khái quát, mang tính nguyên tắc so với Hiến pháp năm 1992.

Khác với các bản Hiến pháp trước đây, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 có một chương mới quy định về "Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán nhà nước” (Chương X).Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 còn đổi tên Chương IX Hiến pháp năm 1992 "Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND)" thành "Chính quyền địa phương" và đặt Chương IX "Chính quyền địa phương" sau Chương VIII "Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân".

Về hình thức thể hiện của Hiến pháp năm 2013: so với với Hiến pháp năm 1992, hình thức thể hiện của Hiến pháp năm 2013 từ Lời nói đầu đến các điều quy định cô đọng hơn, khái quát, ngắn gọn, chính xác, chặt chẽ hơn. Ví dụ, Lời nói đầu Hiến pháp năm 2013 được rút ngắn, cô đọng, súc tích, đủ các ý cần thiết nhưng chỉ có 3 đoạn với 290 từ so với 6 đoạn với 536 từ của Hiến pháp năm 1992.

2. Những nội dung các chương của Hiến pháp năm 2013

2.1 Chương I “Chế độ chính trị”: gồm 13 điều, từ Điều 1 đến Điều 13. So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 có những điểm mới cơ bản sau đây:

Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định những giá trị nền tảng và mục tiêu cơ bản của của Nhà nước CHXHCN Việt Nam (Điều 1, Điều 3), đồng thời khẳng định rõ hơn chủ quyền nhân dân: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ”, những bảo đảm thực hiện chủ quyền nhân dân đầy đủ hơn: "bằng dân chủ trực tiếp"[2]và "bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước", với chế độ bầu cử dân chủ, quyền cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và HĐND, cũng như cơ chế không chỉ phân công, phối hợp mà còn kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước (Điều 2, Điều 6, Điều 7). Những quy định mới này thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ và pháp quyền của Nhà nước ta. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, tất cả các từ  “Nhân

Page 56: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

dân” đều được viết hoa một cách trang trọng, thể hiện sự tôn trọng và đề cao vai trò của Nhân dân với tư cách là chủ thể duy nhất của toàn bộ quyền lực nhà nước ở nước ta.

Thứ hai, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; đồng thời bổ sung thêm trách nhiệm của Đảng trước Nhân dân:“Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”.

Thứ tư, Điều 9 liệt kê đầy đủ các tổ chức chính trị - xã hội gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức này. Đặc biệt, Điều 9  Hiến pháp năm 2013 bổ sung vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc “tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (khoản 1), đồng thời quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (khoản 3).

Thứ năm, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định chủ quyền quốc gia và đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác của Nhà nước CHXHCN Việt Nam với tất cả các nước trên thế giới; đồng thời cam kết "tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên", khẳng định Việt Nam "là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc" (Điều 11, Điều 12).

Thứ sáu, kế thừa cách quy định của Hiến pháp năm 1946, Điều 13 Chương này quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, ngày Quốc khánh và Thủ đô chứ không để một chương riêng (Chương XI) như Hiến pháp năm 1992.

2.2 Chương II “Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”: gồm 36 điều, từ Điều 14 đến Điều 49. Trong 11 chương của Hiến pháp năm 2013, đây là chương có số điều quy định  nhiều nhất (36/120 điều), có nhiều đổi mới nhất cả về nội dung quy định, cả về cách thức thể hiện. Cụ thể như sau:

Trước hết, khác với tất cả các bản Hiến pháp trước đây, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 xác định rõ và quy định ngay tại Điều 3 về Nhà nước có trách nhiệm "công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân". Vì vậy, khi quy định quyền con người, quyền công dân, hầu hết các điều của Hiến pháp năm 2013 quy định trực tiếp"mọi người có quyền ...", "công dân có quyền " để khẳng định rõ đây là những quyền đương nhiên của con người, của công dân được Hiến pháp ghi nhận và Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền này, chứ không phải Nhà nước “ban phát”, “ban ơn” các quyền này cho con người, cho công dân.  "Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng" (khoản 2 Điều 14).

Đây chính là nguyên tắc hiến định rất quan trọng về quyền con người, quyền công dân và theo nguyên tắc này, từ nay không chủ thể nào, kể cả các cơ quan nhà nước được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến

Page 57: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

pháp[4]. Cũng từ nguyên tắc này, các quy định liên quan đến các quyền bất khả xâm phạm của con người, của công dân (như quyền được sống, quyền không bị tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp luật v.v.) là các quy định có hiệu lực trực tiếp; chủ thể của các quyền này được viện dẫn các quy định của Hiến pháp để bảo vệ các quyền của mình khi bị xâm phạm. Các quyền, tự do cơ bản khác của con người, của công dân và quyền được bảo vệ về mặt tư pháp cần phải được cụ thể hóa nhưng phải bằng luật do Quốc hội, - cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân ban hành, chứ không phải quy định chung chung “theo quy định pháp luật”[ như rất nhiều điều của Hiến pháp năm 1992 quy định v.v.

Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền nào là quyền con người, quyền nào là quyền công dân và quy định chương này theo thứ tự: đầu tiên là các nguyên tắc hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tiếp đến là các quyền dân sự, chính trị rồi đến các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và cuối cùng là các nghĩa vụ của cá nhân, của công dân. Hầu hết các điều của chương này trong trong Hiến pháp năm 2013 thay vì quy định “công dân” như Hiến pháp năm 1992[ đã quy định “mọi người”, “không ai” . Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới về nhận thức lý luận và giá trị thực tiễn khi không đồng nhất quyền con người với quyền công dân.

Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 quy định một số quyền mới của con người, quyền và nghĩa vụ mới của công dân, như: "Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác" (Điều 17); "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật" (Điều 19); "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình ..." (Điều 21); "Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội" (Điều 34); "Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa" (Điều 41); "Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp" (Điều 42); "Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường" (Điều 43) v.v. Điều này thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển các quyền, phản ảnh kết quả của quá trình đổi mới hơn 1/4 thế kỷ ở Việt Nam. Nội dung của các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong các điều khác của Hiến pháp năm 2013 phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, nhất là Công ước quyền con người về chính trị, dân sự  và Công ước quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 của Liên hợp quốc. Đây cũng chính là sự khẳng định cam kết mang tính hiến định của Nhà nước ta trước Nhân dân và trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam.

2.3 Chương III “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”: từ Điều 50 đến Điều 63. Đây là chương gộp nội dung quy định của Chương II "Chế độ kinh tế" (15 điều) và Chương III "Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ" (14 điều) của Hiến pháp năm 1992 đã quy định quá chi tiết, cụ thể, nhưng mang tính tuyên ngôn, ít tính quy phạm. Chương III Hiến pháp năm 2013 chỉ còn 14 điều, quy định những chính sách kinh tế - xã hội mang tính nguyên tắc, khái quát, cô đọng thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường nhằm hướng đến sự phát triển có tính chất bền vững.

Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định chính sách phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng XHCN nhưng không liệt kê các thành phần kinh

Page 58: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

tế; vẫn ghi nhận kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ... nhưng không còn ghi: được củng cố và phát triển; tiếp tục khẳng định: "đất đai ... thuộc sở hữu của toàn dân" nhưng quy định rõ "do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý" (Điều 53). Hiến pháp năm 2013 vẫn quy định về Nhà nước thu hồi đất nhưng xác định rõ hơn về mục đích thu hồi, nguyên tắc công khai, minh bạch và chế độ bồi thường: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (tác giả nhấn mạnh). Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật" (Điều 54).  

Hiến pháp năm 1992 bổ sung về: thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước (Điều 55); về quản lý ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia và các nguồn tài chính công khác (Điều 56); về sử dụng, quản lý, bảo vệ môi trường (Điều 63) v.v.

2.4 Chương V “Quốc hội”: gồm 17 điều (từ Điều 69 đến Điều 85). Về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 kế thừa các quy định của Chương VI "Quốc hội" của Hiến pháp năm 1992, nhưng có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng sau:

Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 vẫn xác định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam" nhưng không có nghĩa là  "cơ quan có toàn quyền", "là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp" như Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 quy định. Vì thế Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định: "Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước" (Điều 69).Những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể thuộc quyền hành pháp chuyển về cho Chính phủ, Quốc hội chỉ quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,  không còn quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm để Chính phủ chủ động, năng động hơn trong điều hành, quản lý đất nước].

Thứ hai, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội liên quan đến thành lập hai cơ quan mới là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước; đặc biệt là thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn, miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán TANDTC theo đề nghị của Chánh án TANDTC để làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với TANDTC, nâng cao vị thế của đội ngũ Thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp (Điều 70).

Thứ ba, liên quan đến cơ quan thường trực của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 quy định bổ sung một số thẩm quyền quan trọng cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, như: “phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước CHXHCN Việt Nam" (Điều 74); đặc biệt là thẩm quyền "quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” (khoản 8 Điều 74) chứ không giao cho Chính phủ thực hiện quyền này như Hiến pháp năm 1992 quy định.

Thứ tư, khác Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định cho Quốc hội có quyền quyết định kéo dài (hoặc rút ngắn) nhiệm kỳ của Quốc hội mà không giới hạn thời gian kéo dài, khoản 3 Điều 71 Hiến pháp năm 2013 xác định rõ: “Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh”.

Page 59: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Ngoài ra, để những người được Quốc hội bầu giữ các chức vụ chủ chốt của bộ máy nhà nước có ý thức sâu sắc về danh dự và trọng trách của mình trước Quốc hội, trước Tổ quốc và Nhân dân, Hiến pháp năm 2013 có quy định mới là: "Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp” (khoản 7 Điều 70). Quốc hội, nhân dân hy vọng, đặt niềm tin và giám sát việc thực hiện lời tuyên thệ này của những người giữ trọng trách của các cơ quan then chốt của Nhà nước.

2.5 Chương VI “Chủ tịch nước”: gồm 8 điều, từ Điều 86 đến Điều 93. Hiến pháp 2013 vẫn quy định: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại (Điều 86). Tiêu chuẩn, điều kiện và thẩm quyền của Chủ tịch nước về cơ bản vẫn giữ như Hiến pháp 1992, nhưng có hai nội dung được bổ sung mới là:

 Thứ nhất, Điều 88 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang, quy định quyền của Chủ tịch nước“quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam”.

Thứ hai, Điều 90 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”.

2.6 Chương VII “Chính phủ”: gồm 8 điều, từ Điều 94 đến Điều 101. Chương này có một số điểm mới so với Hiến pháp 1992 là:

Thứ nhất, lần đầu trong lịch sử lập hiến của nước ta, Hiến pháp năm 2013 chính thức khẳng định: Chính phủ "là cơ quan thực hiện quyền hành pháp", mặc dù Điều 94 vẫn còn quy định: "Chính phủ "là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam", "là cơ quan chấp hành của Quốc hội". Điều này thể hiện mong muốn thực hiện nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước mà Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã quy định, nhưng đồng thời vẫn giữ nguyên tắc tập quyền XHCN với đặc điểm về vị trí tối cao và toàn quyền của Quốc hội trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác, trong đó có Chính phủ.

Thứ hai, quy định cụ thể về vai trò và trách nhiệm của các thành viên Chính phủ. Quy định về trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.

Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 không còn giao cho Chính phủ quyền quyết định về điều chỉnh địa giới hành chính (thực tế là cả chia tách, thành lập mới) các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh như như khoản 10 Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định.

2.7. Chương VIII “Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân”: gồm 8 điều, từ Điều 102 đến Điều 109. So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 có một số điểm mới chủ yếu sau:

Thứ nhất, khẳng định chính thức Tòa án nhân dân là cơ quan “thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102). Điều này thể hiện rõ nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực nhà nướcgiữa các cơ quan nhà nước. Nhân đây cũng xin nói thêm rằng, bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cũng đã quy định: các cơ quan tư pháp (thực hiện quyền tư pháp) chỉ bao

Page 60: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

gồm tòa án các cấp (Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và các tòa án sơ cấp), nhưng các bản Hiến pháp sau này (từ Hiến pháp năm 1959, 1980 đến Hiến pháp năm 1992, khi hệ thống Viển kiểm sát được thiết lập) đã không quy định rõ cơ quan nào thực hiện quyền tư pháp.

Thứ hai, khẳng định rõ hơn một số nguyên tắc tố tụng mang tính hiến định: nguyên tắc xét xử hai cấp gồm sơ thẩm, phúc thẩm; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; mở ra khả năng áp dụng nguyên tắc xét xử theo thủ tục rút gọn chứ không phải trong tất cả mọi trường hợp đều áp dụng nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số như Hiến pháp năm 1992 và pháp luật tố tụng hiện hành quy định (khoản 4, 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013). Trong các nguyên tắc nói trên, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là rất quan trọng, đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, từ đó tăng cường tính minh bạch, công khai, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án.

Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 quy định: Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định; Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định (khoản 2 Điều 102 và khoản 2 Điều 107). Quy định này có ý nghĩa mở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực), không tương ứng với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án.

2.8 Chương IX “Chính quyền địa phương”: gồm 7 điều, từ Điều 110 đến Điều 116. Chương này có một số điểm mới như sau:

Thứ nhất, Chương IX Hiến pháp 1992 có tên là “HĐND và UBND” và chương này được quy định trước chương “Tòa án nhân dân và Việt kiểm sát nhân dân”. Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên Chương IX này thành “Chính quyền địa phương” và đặt sau chương “Tòa án nhân dân và Việt kiểm sát nhân dân”. Việc đổi tên như trên để: Một mặt, không đồng nhất chính quyền địa phương với hai cơ quan của chính quyền địa phương là HĐND và UBND, dù đây là hai cơ quan then chốt của mỗi cấp chính quyền địa phương; Mặt khác, tên chương "Chính quyền địa phương" mới phù hợp với những nội dung quy định quan trọng khác của chương này, như: phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ, quyền lực của cộng đồng dân cư địa phương (nhân dân địa phương), về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể của nhân dân địa phương, các mối quan hệ của chính quyền địa phương với các cơ quan nhà nước hữu quan và với nhân dân ở địa phương v.v.[13]

Thứ hai, các đơn vị hành chính của nước ta về cơ bản vẫn như Hiến pháp năm 1992 quy định, nhưng để "mở đường" cho khả năng tới đây Luật Tổ chức chính quyền địa phương có thể quy định thành lập các đơn vị hành chính mới, Hiến pháp năm 2013 đã dự liệu thêm: "đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập" hoặc "đơn vị hành chính tương đương" với quận, huyện, thị xã của thành phố trực thuộc trung ương. Đặc biệt, khác với tất cả các bản Hiến pháp của nước ta trước đây, khoản 2 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”. Việc xácđịnh có tính hiến định về thẩm quyền, tiêu chí, điều kiện, thủ tục thành lập mới, sáp nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính như trên sẽ bảo đảm tính ổn định các đơn vị hành chính - lãnh thổ, khắc phục thực tế dễ dãi trong việc "nhập - tách" các đơn vị hành chính, không tính đến tâm tư, tình cảm của cộng đồng dân cư ở địa phương đã từng gắn

Page 61: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

bó bao đời với các đơn vị hành chính khi bị sáp nhập, khi bị chia tách,   như thực tế ở nước ta những năm vừa qua.  

Thứ ba, Điều 111 Hiến pháp 2013 quy định khái quát theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước CHXHCN Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt do luật định”. Việc tổ chức HĐND và UBND cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương trên cơ sở tổng kết việc thực hiện chủ trương của Đảng thí điểm một số nội dung về tổ chức chính quyền đô thị và kết quả tổng kết thực hiện Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội về "Thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường", đáp ứng yêu cầu tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt và các nguyên tắc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương.

Thứ tư, Điều 112 Hiến pháp 2013 mang tính định hướng mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương: “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó".   

2.9 Chương X “Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán nhà nước”: gồm 2 điều. Điều 117 quy định về "Hội đồng bầu cử quốc gia" có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp. Điều 118 quy định về " Kiểm toán Nhà nước", đây là là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Khác với Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan lần đầu tiên được Hiến pháp quy định, Kiểm toán nhà nước đã được thành lập theo Nghị định 70/CP của từ ngày 11/7/1994 và đang hoạt động, nay chính thức hiến định thể hiện sự đề cao vai trò của cơ quan này trong bộ máy nhà nước. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới, nhằm kiểm soát chặt chẽ việc quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công, ngăn ngừa nạn tham nhũng.

2.10  Chương XI “Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp”: gồm 2 điều, Điều 119 và Điều 120. Điều 119 Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định “Hiến pháp là luật cơ bản của nước CHXHCN Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp” như Điều 146 Hiến pháp năm 1992 nhưng bổ sung quy định mới: "Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý” và xác định rõ “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”.

Điều 120 Hiến pháp 2013 quy định cụ thể hơn về quy trình "làm Hiến pháp", sửa đổi Hiến pháp so với Điều 147 Hiến pháp năm 1992 như sau:

 “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội

Page 62: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định. Thời hạn công bố, thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp do Quốc hội quyết định”.

Trên đây là những điểm mới cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam - "Hiến pháp dân chủ, pháp quyền và phát triển".

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013

Hiến pháp được thông qua tại kỳ họp thứ sáu - Quốc hội khóa XIII gồm 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) có hiệu lực từ ngày 1-1-2014. Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Sửa đổi trong Hiến pháp đều hướng tới nhân dân, đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân, đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước để phục vụ nhân dân tốt hơn, bước đầu xây dựng cơ chế nhằm giảm tham ô, nhũng nhiễu người dân, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện một cách thực chất hơn trong thực tế.

Ngay phần lời nói đầu của Hiến pháp đã được hoàn thiện, ngắn gọn hơn nhưng vẫn phản ánh được lịch sử hào hùng của dân tộc và những mốc lịch sử quan trọng, những thành quả cách mạng đã đạt được. Lời nói đầu của Hiến pháp đã thể hiện ý chí, quyết tâm của nhân dân ta, thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Sau chương quy định về chế độ chính trị là chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đây cũng là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con người trong Hiến pháp. Trong Hiến pháp 1992, vấn đề này được quy định tại chương 5 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Với việc ghi nhận trong Hiến pháp về quyền con người đã đảm bảo phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta tham gia ký kết. Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân; thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Hai điểm mới đó là ghi nhận về quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng và mọi người có quyền sống.

Đáng chú ý, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định vai trò của Nhà nước và kinh tế Nhà nước trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thừa nhận các hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất

Page 63: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Hiến pháp làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và làm rõ hơn vai trò của Chủ tịch nước trong thống lĩnh lực lượng vũ trang; giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân. Quy định làm cơ sở để lực lượng vũ trang tham gia vào việc bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới, từng bước nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.

Việc tổ chức chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện nay đều giống nhau ở các loại đơn vị hành chính đã tạo ra sự rập khuôn, cứng nhắc, ít phân biệt được sự khác nhau trong quản lý hành chính Nhà nước ở đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo và cũng không bảo đảm được tính tập trung cao từ trung ương xuống địa phương.

Hiến pháp sửa đổi đã tạo cơ sở cho việc quy định mở về chính quyền địa phương, cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. Nếu coi Hiến pháp 1992 hướng tới đổi mới chính quyền ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) thì Hiến pháp 2013 hướng tới đổi mới chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân) và các cơ quan tư pháp ở địa phương (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) tuy chưa thật rõ nét nhưng là những định hướng cơ bản cho việc đổi mới chính quyền địa phương sau này.

Cũng tại Hiến pháp mới, Kiểm toán Nhà nước đã và đang hoạt động, nhưng lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp, thể hiện vị trí, vai trò của cơ quan này, từng bước tạo sự kiểm soát độc lập việc quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công. Việc nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước phù hợp với xu thế chung của thế giới cũng như mong muốn góp phần giảm tham nhũng, lãng phí trong bộ máy Nhà nước.

Một cơ quan mới, lần đầu tiên thành lập là Hội đồng bầu cử quốc gia. Trước đây, mỗi khi tiến hành bầu cử đều thành lập Hội đồng bầu cử có tính lâm thời, hoạt động trong thời gian ngắn (khoảng sáu tháng), khi bầu cử xong thì Hội đồng bầu cử hoàn thành nhiệm vụ. Việc có Hội đồng bầu cử quốc gia hoạt động thường xuyên, thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử. 

Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân, tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Những điểm mới trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013)

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Kỳ họp thứ 6 (Quốc hội khóa XIII) xem xét thông qua đã được chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung cả về bố cục, kỹ thuật lập hiến và

Page 64: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

nội dung trong tất cả các chương, điều. Theo đó, bản Hiến pháp mới là sự tiếp tục kế thừa những nguyên tắc, nội dung cơ bản, tư tưởng cốt lõi của Hiến pháp năm 1992 và có những bổ sung quan trọng, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.

1. Bối cảnh nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra (năm 1986) và để thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991. Đây là bản Hiến pháp đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình hình mới, cần phải xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước. Vì vậy, Đảng ta đề ra chủ trương: “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới”1.

Thực hiện chủ trương tại Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa XI), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã báo cáo Quốc hội khóa XIII việc triển khai nhiệm vụ nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Theo đó, Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và giao nhiệm vụ cho Ủy ban nghiên cứu, xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, Nhà nước và với tinh thần trách nhiệm cao của mỗi công dân Việt Nam, việc tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 đã được triển khai nghiêm túc; qua đó, đề xuất những định hướng cơ bản trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được xây dựng. Trên cơ sở những định hướng cơ bản và trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 để thảo luận, cho ý kiến lần đầu, bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố lấy ý kiến rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân từ ngày 02-01-2013 đến 30-3-2013 và tiếp tục cho đến 30-9-2013. Trải qua 3 kỳ họp (lần thứ 4, 5, 6 - Quốc hội khóa XIII), trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội dành một lượng thời gian lớn để thảo luận. Với tinh thần dân chủ, khoa học, sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức, các cấp, các ngành và đông đảo các tầng lớp nhân dân, quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đã diễn ra nghiêm túc, đúng tiến độ và được Quốc hội khóa XIII thông qua.

Bản Hiến pháp mới ra đời đã đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đặt ra qua tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về mục đích, yêu cầu, những quan điểm cơ bản và định hướng lớn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, như: kế thừa những nội dung của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới. Hiến pháp mới là sự kết tinh trí tuệ, tâm huyết của nhân dân, của các chuyên gia, đại biểu Quốc hội. Quá trình sửa đổi Hiến pháp đã có hơn 27.000 hội nghị, hội thảo chuyên sâu được tổ chức và hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý. Từ

Page 65: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

đó, những gì không được tiếp thu đều được giải thích rõ ràng để người dân hiểu rõ về ý tưởng cũng như cách thể hiện trong nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Đây là lần sửa đổi mang ý nghĩa lớn, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp, cả về hình thức và nội dung.

2. Những điểm mới của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 2013)

Về hình thức, Hiến pháp mới có 11 chương, 120 điều; so với Hiến pháp năm 1992, giảm 1 chương, 27 điều; giữ nguyên 7 điều; sửa đổi, bổ sung 101 điều và bổ sung mới 12 điều. Để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp và nâng cao chất lượng kỹ thuật lập hiến, Hiến pháp mới đã có một số thay đổi về mặt kết cấu. Chương I, xây dựng trên cơ sở viết gọn lại tên Chương I của Hiến pháp năm 1992 thành “Chế độ chính trị” và đưa các quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh tại Chương XI của Hiến pháp năm 1992 vào Chương này; vì đây là những nội dung quan trọng gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia. Chương II, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” để khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Trên cơ sở lồng ghép Chương II: Chế độ kinh tế và Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 thành Chương III: “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”, nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Chương VIII, được đổi vị trí từ Chương X: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân của Hiến pháp năm 1992 thành: “Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân” để thể hiện sự gắn kết giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân của Hiến pháp năm 1992 được đổi tên thành Chương: “Chính quyền địa phương”, để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan công quyền ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Nội hàm của chương này không chỉ quy định về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội ở địa phương. Chương X, là chương mới, quy định về một số thiết chế hiến định độc lập gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Về nội dung, Hiến pháp sửa đổi đã có những điểm mới:

Một là, trong Lời nói đầu, trên cơ sở kế thừa Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng và súc tích hơn về truyền thống, lịch sử đất nước, dân tộc, lịch sử lập hiến của nước ta; nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới; mục tiêu xây dựng đất nước và thể hiện mạnh mẽ hơn ý nguyện của nhân dân ta trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp. Theo đó, “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hai là, chủ thuyết “chủ quyền nhân dân” được thể hiện rõ và nhất quán trong Hiến pháp mới. Chủ quyền nhân dân là một trong những nguyên tắc đặc biệt quan trọng của

Page 66: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Hiến pháp - bản “khế ước xã hội” của nhân dân - vì thế, trước hết, nó phải thể hiện rõ điều này. Toàn văn Hiến pháp mới cho thấy rõ tư tưởng về chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ngay ở Chương I, có 06 điều (từ Điều 1 đến Điều 6) khẳng định về chủ quyền nhân dân; chỉ rõ phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Chương II, bao gồm các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, là một bước cụ thể hóa về chủ thuyết chủ quyền nhân dân khi bổ sung thêm các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, như: quyền được có quốc tịch, quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền được thụ hưởng giá trị văn hoá, được bảo vệ trong tiêu dùng,... Đồng thời, Hiến pháp mới khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2, Điều 14). Bên cạnh đó, Hiến pháp mới cũng nêu rõ cách thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các quyền chính trị cơ bản, như: nhân dân có quyền bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội do họ bầu ra, đồng thời có quyền biểu quyết về những vấn đề trưng cầu ý dân, v.v.

Ba là, Hiến pháp mới quy định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước.Kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền,  Hiến pháp mới xác định rõ hơn chức năng của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Đối với các cơ quan ở Trung ương, Hiến pháp mới khẳng định: Quốc hội là cơ quan lập pháp; Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước trong hoạt động lập pháp, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, đối nội, đối ngoại. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên; quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp. Đối với việc phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa phương, để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp mới không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (Khoản 1, Điều 112); “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và ở mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 2, Điều 112). Cách quy định như vậy để tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.

Bốn là, nội dung về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường được thể hiện theo hướng ngắn gọn, rõ ràng và mang tính nguyên tắc, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp. Hiến pháp mới nêu rõ nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước ta là: xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển nền kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế

Page 67: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

thông qua các chính sách cụ thể chứ không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị quốc hữu hoá; trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường, thể thức trưng dụng theo luật định.

Năm là, bổ sung các thiết chế hiến định độc lập. Để đảm bảo thực thi chủ quyền nhân dân, thực hiện tốt cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến pháp mới đã bổ sung 2 điều (tại Chương X), quy định về thiết chế hiến định độc lập, gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Về thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia, thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về việc “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu cử”, Hiến pháp mới quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia nhằm mục đích hoàn thiện chế độ bầu cử cũng như thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp là việc bầu cử, ứng cử và hình thức dân chủ đại diện thông qua đại biểu dân cử. Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia đồng thời góp phần bảo đảm tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Về thiết chế Kiểm toán nhà nước, Hiến pháp mới quy định vai trò, địa vị pháp lý và chức năng của Kiểm toán nhà nước để tăng cường vị thế, trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Theo đó, đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia. Hiến pháp chỉ quy định về việc Quốc hội bầu Tổng Kiểm toán nhà nước, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước sẽ do luật điều chỉnh.

Có thể nói, với những điểm mới được xác định, bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được Quốc hội thông qua đã thể hiện quan điểm đổi mới cũng như quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; bảo đảm sự đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế,...   Vì vậy, đây là một bản Hiến pháp mới - bản Hiến pháp thứ 5 của nước ta với tên gọi:  Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2014.

Để Hiến pháp mới đi vào cuộc sống, cần khẩn trương cụ thể hóa các nguyên tắc của Hiến pháp thành các văn bản luật. Đó là công việc hệ trọng cần phải được triển khai sớm, với trách nhiệm cao của các cơ quan nhà nước và sự tham gia tích cực của nhân dân cũng như cả hệ thống chính trị ở nước ta.

Triển khai Hiến pháp 2013: Những điểm mới về Chính phủ

Page 68: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Lần đầu tiên Hiến pháp chính thức khẳng định tính chất, vị trí của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Đồng thời, chế định Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được đề cao, trách nhiệm cá nhân của các Bộ trưởng được tăng cường.

Trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 lần này, cùng với Chương về Chế độ chính trị, kinh tế-xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân, Chương về Chính phủ có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, tương đối toàn diện, trong đó có một số sửa đổi, bổ sung cơ bản.

Về tính chất, vị trí của Chính phủ, nội dung, phạm vi và cơ chế thực hiện quyền hành pháp và hành chính của Chính phủ đều có những sửa đổi, bổ sung theo tinh thần đổi mới nhằm xây dựng Chính phủ mạnh, hiện đại, dân chủ, pháp quyền, thống nhất quản lý vĩ mô các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.

Trước hết, về vị trí, phạm vi và nội dung thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp năm 2013 đã điều chỉnh, phân công lại ở mức độ nhất định, làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng thiết chế: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp

Cụ thể, đối với Chính phủ, lần đầu tiên Hiến pháp chính thức khẳng định tính chất, vị trí của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; nhấn mạnh và đề cao hơn tính chất, vị trí Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đồng thời, khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…” (khoản 2 Điều 96).

Quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật (khoản 1); thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân (khoản 3 Điều 96)…

Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền ban hành văn bản pháp quy của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập để thực hiện chức năng hành pháp tại Điều 100: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”.

Với những sửa đổi, bổ sung trên đây, quyền hành pháp của Chính phủ đã có bước đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với bản chất, chức năng của quyền hành pháp hiện đại.

Về mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, Chủ tịch nước: Hiến pháp đã bỏ quy định về thẩm quyền của Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhằm tạo điều kiện cho Chính phủ chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh. Đồng thời, Hiến pháp cũng phân định rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội và Chính phủ quyết định trong một số lĩnh vực (như Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển KTXH của đất nước, quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia… còn Chính phủ có

Page 69: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

thẩm quyền ban hành các chính sách cụ thể, biện pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực); phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế…

Về cơ cấu, thành phần Chính phủ: Hiến pháp sửa đổi quy định rõ “Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ” (bỏ cụm từ “các thành viên khác” của Hiến pháp 1992); bổ sung quy định “cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quy định” để trên cơ sở đó quy định trong luật về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ.

Đề cao chế định Thủ tướng Chính phủ

Trong bản Hiến pháp mới, chế định Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được đề cao. Tập trung thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ trong việc lãnh đạo, điều hành Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương:

Thủ tướng Chính phủ được Hiến pháp khẳng định rõ vị trí, vai trò là người đứng đầu Chính phủ (mới bổ sung). Đồng thời, quy định rõ hơn trách nhiệm giải trình của Thủ tướng: Chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Quy định rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng đối với Chính phủ, nhất là đối với hệ thống hành chính Nhà nước: Thủ tướng “Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật”; “Lãnh đạo và chịu trách nhiệm và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia” (khoản 1, khoản 2 Điều 98). 

Với các sửa đổi, bổ sung này, vị thế và vai trò của Thủ tướng đã nâng cao hơn. Thủ tướng Chính phủ thực sự trở thành nhân tố định hướng các mục tiêu chung và thúc đẩy, định hướng xây dựng chính sách và toàn bộ hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương tới địa phương trong việc thực hiện các chức năng, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Tăng cường trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng

Hiến pháp mới có một số sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thể hiện rõ hơn vị trí, nhiệm vụ, trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách vừa là thành viên Chính phủ, đồng thời là một thiết chế có trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước.

Cụ thể, về vị trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới quy định “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công” (khoản 1 Điều 99).

Về chế độ chịu trách nhiệm, Hiến pháp mới quy định rõ ràng và đầy đủ hơn: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ “chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách” (bổ sung chịu

Page 70: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ); và “cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ” (mới bổ sung).

Về nhiệm vụ, quyền hạn, Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ: “tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); “ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật” (Điều 100).

Một điểm mới rất quan trọng là Hiến pháp đã bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không chỉ chịu trách nhiệm giải trình trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, mà còn phải chịu trách nhiệm giải trình trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý (khoản 2 Điều 99).

Nâng cao tính dân chủ pháp quyền

Nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng và lớn nhất về Chính phủ là về cơ chế thực hiện quyền hành pháp phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền. 

Hiến pháp mới đã có nhiều quy định đổi mới về cơ chế thực thi quyền lực, phù hợp với tính chất, vai trò của từng thiết chế Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng, theo hướng nâng cao hơn tính dân chủ pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ, bảo đảm minh bạch, linh hoạt, nhanh nhạy, trách nhiệm giải trình trong thực hiện quyền lực được trao; đồng thời, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa 3 thiết chế trong thực hiện quyền hành pháp và hành chính được giao. Thể hiện cụ thể như sau:

Đối với Chính phủ, Hiến pháp khẳng định mạnh mẽ nguyên tắc Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số; đồng thời, xác lập mối quan hệ trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;

Với thiết chế Thủ tướng: Hiến pháp mới khẳng định mạnh mẽ vị trí, vai trò của Thủ tướng với tư cách là  người đứng đầu Chính phủ, đồng thời vừa là  một thiết chế độc lập tương đối với Chính phủ (đề cao vai trò cá nhân Thủ tướng).

Theo đó, quy định toàn diện về chế độ trách nhiệm của Thủ tướng: Chịu trách nhiệm trước Quốc hội, đồng thời nhấn mạnh chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, trước nhân dân về hoạt động của Chính phủ, về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia. 

Về Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới đã bổ sung một số quy định mới: Khẳng định rõ vị trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là người đứng đầu và lãnh đạo công tác của Bộ, cơ quan ngang bộ; có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực được phân công; chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ; cùng chia sẻ trách tập thể với các thành viên Chính phủ về hoạt động của Chính phủ.

Page 71: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Câu 3: Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân…”. Bạn hãy nêu và phân tích ngắn gọn các quy định của Hiến pháp năm 2013 về những cách thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.

Trả lời:

Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân…” các quy định của Hiến pháp năm 2013 về những cách thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước như sau:

- Khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định:" Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình", đây là điểm bổ sung mới quan trọng, vì vai trò làm chủ của Nhân dân đối với nước, Nhân dân giao phó trách nhiệm cho Đảng để lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vì vậy, Đảng phải chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân trong việc lãnh đạo của mình.

- Tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước", quy định đa dạng hơn về thực hiện quyền lực của Nhân dân so với Hiến pháp năm 1992, đặc biệt thể hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn vai trò làm chủ của Nhân dân.

- Lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 2003 ghi nhận quyền con người, quyền cơ bản của công dân tại chương II. Hiến pháp năm 2013 đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật, trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”.

- Điều 53 Hiến pháp năm 2013 thể hiện: "Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý" đã khẳng định quyền sở hữu của Nhân dân và Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước đại diện Nhân dân để sở hữu và thống nhất quản lý, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về việc quản lý tài sản do Nhân dân ủy quyền.

- Điều 65 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế" thể hiện trách nhiệm của lực lượng vũ trang là tuyệt đối trung thành với Nhân dân và trước hết là phải bảo vệ Nhân dân là một chủ thể làm chủ đất nước, sau đó là bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Page 72: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã nhấn mạnh vai trò của Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về Nhân dân. Nhân dân ủy thác thực hiện quyền lực cao nhất cho Quốc hội để thực hiện quyền lập hiến như đề xuất sửa đổi Hiến pháp,

Câu 4: Những quy định nào của Hiến pháp năm 2013 thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc?

Trả lời Câu 4

–  Chủ tịch Hồ Chí Minh được thế giới tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa. Người đã để lại cho Đảng ta, nhân dân ta những di sản vô giá, trong đó, tư tưởng nổi bật và chủ đạo của Người là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, xây dựng khối đoàn kết các dân tộc thiểu số nói riêng.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều quãng thời gian gắn bó với vùng đồng bào dân tộc. Ngày 28/1/1941, sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc, sau này là Hồ Chí Minh đã về đến Pắc Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng - là nơi dừng chân ban đầu, trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Sau đó, Người tiếp tục dùng những địa danh: Định Hóa (Thái Nguyên); Tân Trào, Sơn Dương, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) làm vùng căn cứ địa cách mạng cho đến tháng 8 năm 1945. Nơi đây chính là vùng sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Mông… Họ đã ngày đêm che chở, bao bọc, nuôi dưỡng, bảo vệ cách mạng; là những người đầu tiên hưởng ứng và tham gia khởi nghĩa, làm nên Cách mạng Tháng Tám thành công, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, cùng với những vấn đề vô cùng cấp bách trước mắt cần phải thực hiện ngay như: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm; mở rộng quan hệ với các nước tiến bộ trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam…, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác dân tộc. Điều này được chứng minh qua việc trong cơ cấu thành phần tham gia Quốc hội khóa I đã có sự tham gia của đại diện các dân tộc thiểu số. Với cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã mời đại diện các dân tộc thiểu số tham gia Chính phủ hoặc giữ trọng trách ở các cơ quan Trung ương và địa phương.

Tư tưởng về củng cố, xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương hiến định trong Hiến pháp. Tại kỳ họp lần thứ 11, Quốc hội khoá I, ngày 18/12/1959, trong báo cáo do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo giải trình về việc xây dựng dự thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã khẳng định: "Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các dân tộc anh em trong nước ta gắn bó ruột thịt với nhau trên một lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời cùng nhau lao động và đấu tranh để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp. Đế quốc và phong kiến cố tình phá hoại tình đoàn kết và sự bình đẳng giữa các dân tộc, gây

Page 73: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

thù hằn giữa các dân tộc, thi hành chính sách "chia để trị". Đảng và Chính phủ ta luôn luôn kêu gọi các dân tộc xoá bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các dân tộc thiểu số đã sát cánh với anh em đa số chiến đấu chống kẻ thù chung, đưa Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến đến thắng lợi. Từ ngày hoà bình lập lại, Nhà nước ta đã giúp đỡ các dân tộc anh em tiến bộ thêm về mặt kinh tế, văn hoá và xã hội. Các dân tộc đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đang hăng hái thi đua xây dựng nước nhà. Chính sách dân tộc của chúng ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội…"

Chỉ hơn 3 tháng sau ngày giành được chính quyền và tuyên bố với toàn thế giới về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã sớm tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam. Ngày 3/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến nói chuyện với các đại biểu về dự Đại hội. Người nói rất ngắn gọn, nhưng đã tập trung nêu bật vấn đề phải xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số. Người cho rằng: "Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa…".

Cũng trong ngày 3/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một bức thư gửi các đại biểu về dự Đại hội các dân tộc thiểu số lần thứ nhất. Trong thư, Người nhấn mạnh: "Xưa kia, nước ta còn chế độ nhà vua, thì triều đình ít chăm nom đến các dân tộc thiểu số. Trong thời kỳ Pháp thuộc, thì chúng xui dân tộc này chống dân tộc kia. Chúng làm cho đồng bào ta chia rẽ. Chúng tìm mọi cách đè nén bóc lột các dân tộc ta. Ngày nay, nhờ sự đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc, nhờ sự hy sinh phấn đấu của tất cả đồng bào, mà chúng ta tranh được quyền tự do độc lập, và xây nên nước Dân chủ Cộng hòa. Từ đây về sau, các dân tộc đã đoàn kết càng phải đoàn kết thêm, đã phấn đấu càng phải phấn đấu nữa, để giữ gìn quyền độc lập cho vững vàng để xây dựng một nước Việt Nam mới. Khi khó nhọc chúng ta cùng gắng sức, lúc thái bình chúng ta cùng hưởng chung…".

Tuy là Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số toàn quốc, nhưng do điều kiện đường xá lúc bấy giờ hết sức khó khăn, xa xôi nên nhiều dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nguyên và Nam bộ không ra dự được, nên hơn 4 tháng sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo Chính phủ tiến hành Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam, tổ chức tại Pleiku. Lúc này, do bận nhiều việc nước trong những này đầu mới thành lập, nên Người không vào dự được. Ngày 19/4/1946, từ Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Đại hội. Trong thư Người nhấn mạnh: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu giây liên lạc, hai là vì có kẻ xui giục để chia rẽ chúng ta. Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có "NHA DÂN TỘC THIỂU SỐ" để săn sóc cho tất cả các đồng bào. Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể

Page 74: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta…".

Trong cuộc kháng chiến 9 năm sau đó (1946 – 1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn bộ Chính phủ đã quay trở lại Tân Trào, sử dụng lại nơi này làm căn cứ địa cách mạng, tiếp tục chỉ huy cuộc kháng chiến trường kỳ đánh đuổi thực dân Pháp, làm nên thắng lợi trận Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu. Suốt một dải chiến dịch đều nằm trọn trong địa bàn vùng rừng núi Tây Bắc, là nơi sinh sống chủ yếu của rất nhiều đồng bào dân tộc thiểu số như: Thái, Mường, Tày, Nùng, Mông… Để có được chiến thắng đó, trước hết, những người chỉ huy cuộc cách mạng và toàn dân tộc Việt Nam, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số đã xây dựng được khối đoàn kết, tạo ra sức mạnh to lớn đánh đuổi đế quốc thực dân, phong kiến. Chính giai đoạn này đã củng cố thêm những tư tưởng trong con người và nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Tư tưởng ấy càng về sau càng hoàn thiện.

Sau khi kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp kết thúc, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia cắt tạm thời giữa hai miền Nam – Bắc, theo đó, quân Pháp rút khỏi miền Bắc và miền Bắc tiến thẳng lên xây dựng xã hội XHCN. Trong dư âm của chiến thắng hào hùng trận Điện Biên Phủ và hào khí sôi động của công cuộc xây dựng xã hội XHCN ở miền Bắc, Chính phủ và Bác Hồ càng ra sức quan tâm hơn tới cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, nhất là vùng Tây Nguyên và Nam bộ lúc này vẫn nằm trong sự quản lý của bọn tay sai bán nước và bè lũ đế quốc thực dân. Người luôn đau đáu một nỗi lo là làm sao cho đồng bào có đủ cơm ăn, áo mặc, được học hành đầy đủ và điều quan trọng là không ngừng củng cố, xây dựng tình đoàn kết, thân ái, bình đẳng giữa các dân tộc.

Với chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954), một vùng rộng lớn các tỉnh Tây Bắc được giải phóng. Một năm sau, năm 1955, Chính phủ đã quyết định thành lập Khu tự trị Thái – Mèo với mục đích làm cho các dân tộc anh em ở nơi đây dần dần tự quản lý lấy công việc của mình, mau chóng phát triển kinh tế và văn hoá của mình, thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt. Ngày 7/5/1955, Nhân dịp kỷ niệm một năm ngày giải phóng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi đồng bào Khu tự trị Thái – Mèo, trong thư có đoạn viết: "Từ một năm nay, vùng Tây – Bắc ta được hoàn toàn giải phóng, đó là do các dân tộc đoàn kết chặt chẽ, hăng hái kháng chiến; do bộ đội ta anh dũng đánh giặc; do Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo sáng suốt".

Để thực hiện tốt công cuộc xây dựng xã hội XHCN ở miền Bắc, Chính phủ xác định phải quan tâm hơn nữa tới đời sống của đồng bào vùng cao, làm cho vùng miền núi nhanh chóng tiến kịp với miền xuôi. Muốn vậy, phải tăng cường cán bộ, bộ đội và nhân dân từ vùng xuôi lên giúp đỡ đồng bào vùng cao phát triển kinh tế – xã hội. Vì có chủ trương như vậy nên đời sống của đồng bào vùng cao đã khấm khá hơn, tình hình phân bố dân cư cũng phong phú, xen kẽ hơn giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau. Nhưng điều đó cũng đặt ra yêu cầu phải tăng cường hơn nữa tình đoàn kết giữa các dân tộc. Thời gian này, tuy bộn bề lo toan việc nước, cùng với Trung ương Đảng, Chính phủ và Quân ủy Trung ương tập trung cao độ sức người và sức của chi viện cho chiến trường miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không ngừng chăm lo đến đời sống của đồng bào vùng

Page 75: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ luôn quan tâm, bồi đắp và tạo mọi điều kiện cho người dân được thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ khi nào mọi người dân đều được thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, tức là làm chủ đất nước, thì khi đó, đất nước mới thực sự độc lập, tự do, bình đẳng, bác ái. Ngày 26/3/1966, khi lên thăm tỉnh Hà Giang, nói chuyện với hơn 1 vạn đồng bào các dân tộc nơi đây tại sân vận động trung tâm tỉnh lỵ, Người khẳng định: "Trước kia, bọn thực dân phong kiến nắm quyền làm chủ, chúng bắt đồng bào ta làm nô lệ. Ngày nay, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là tất cả đồng bào các dân tộc đều là người chủ nước nhà". Tiếp đó, Người căn dặn đồng bào: "Nhân dân đã làm chủ, thì phải làm gì để xứng đáng là người chủ tốt? Trước hết, tất cả các dân tộc, bất kỳ to hay là nhỏ, đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà. Hai là, đồng bào phải ra sức tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để làm cho mọi người áo ấm cơm no. Muốn như vậy, thì đồng bào vùng thấp cũng như rẻo cao, phải tổ chức nhau lại thành tổ đổi công và hợp tác xã. Người đông thì sức mạnh, sức mạnh thì sản xuất được nhiều hơn. Những nơi đã có tổ đổi công và hợp tác xã thì phải ra sức củng cố nó cho thật tốt và thật vững chắc…".

Giai đoạn những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy đã tuổi cao, sức yếu, nhưng Người vẫn dành nhiều thời gian đi thăm và nói chuyện với đồng bào dân tộc ở các tỉnh vùng cao, luôn quan tâm đến cuộc sống của đồng bào; tìm mọi cách để tiếp tục xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết giữa các dân tộc. Khi biết mình đã "Thất thập cổ lai hy", Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản Di chúc để lại cho dân tộc, trong đó Người dặn dò toàn Đảng, toàn dân phải không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người viết: "(…) NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. (...) Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".

Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bản Di chúc của Người, trong đó, có phần về đại đoàn kết các dân tộc thiểu số, những năm qua, nhất là thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta luôn dành nhiều sự quan tâm đặc biệt đối với vùng miền núi, dân tộc.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2011), Đảng ta đã tiếp tục khẳng định: "Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội".

Ngày 14 tháng 1 năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc nhằm bảo đảm và thúc đẩy sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp

Page 76: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

nhau cùng phát triển, tôn trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị định này cũng nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử, chia rẽ, phá hoại đoàn kết các dân tộc; lợi dụng các vấn đề về dân tộc để tuyên truyền xuyên tạc, chống lại đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Trong bản Hiến pháp năm 2013, đã dành hẳn Điều 5 để nói về vấn đề dân tộc: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước".

Các trích dẫn trên đây là những ví dụ điển hình để minh chứng cho thấy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những điều Người dặn dò trong Di chúc về xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nghiêm túc thực hiện, qua đó góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"./.

Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ là quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng ta về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc. Nguyên tắc này, được thể hiện rõ ở Điều 5, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.

Việt Nam là một quốc gia thống nhất, có nhiều dân tộc cùng sinh sống1. Lịch sử đã chứng minh: bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng tiến bộ giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam (DTVN) là truyền thống quý báu, tạo nền móng vững chắc đảm bảo cho nhân dân vượt qua mọi thử thách của “thiên tai, địch họa”, “thù trong, giặc ngoài” trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắn nhủ: “Đồng bào tất cả các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau như anh em trong một nhà”2. Tư tưởng của Người luôn thống nhất với quan điểm của Đảng và được thể hiện rõ trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Nhận thức đúng vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc (VĐDT) và công tác dân tộc (CTDT), trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta xác  định: “Đảng Cộng sản thừa nhận cho các dân tộc có quyền tự do hoàn toàn. Đảng chống chế độ thuộc địa, chống hết các hình thức trực tiếp và gián tiếp đem dân tộc này đàn áp, bóc lột dân tộc khác”. Các dân tộc thiểu số (DTTS) là “… một lực lượng rất lớn. Cuộc dân tộc giải phóng của họ là một bộ phận quan trọng trong cách mạng phản đế và điền địa ở Đông Dương, bộ phận của cuộc thế giới cách mạng”4; chỉ có: đánh đổ đế quốc, phong kiến thì các DTTS mới thoát khỏi vòng nô lệ. Với tinh thần đó, từ năm 1930 đến năm 1975, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp thực hiện quyền bình đẳng, tăng cường khối đại đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa cộng đồng các DTVN cùng hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Nhờ đó, Đảng ta đã tập hợp lực lượng của toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp để chống xâm lược, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng cuộc sống mới tự do, ấm no, văn minh, hạnh phúc cho nhân dân.

Page 77: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Bước vào thời kỳ mới, Đảng ta nhất quán quan điểm: VĐDT và CTDT luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong lãnh đạo CTDT, Đảng luôn nắm vững và thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển. Nghị quyết 24/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) về CTDT đã xác định: “VĐDT và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển,... Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc”5. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung và phát triển năm 2011) khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng DTVN. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc”6. Thực hiện quan điểm, nguyên tắc trên, Nhà nước ta nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ, kỳ thị, xâm phạm quyền bình đẳng, gây chia rẽ đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi đi ngược lại điều đó đều bị nghiêm trị theo pháp luật. Cộng đồng các DTVN có đầy đủ điều kiện để thực hiện quyền dân sự - chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tham gia hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, gắn với quyền lợi và trách nhiệm của mỗi dân tộc trong cộng đồng DTVN. Tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau là trách nhiệm của các dân tộc cùng cư trú trên đất nước Việt Nam; dân tộc phát triển có nghĩa vụ giúp đỡ dân tộc đang phát triển. Việc thực hiện tốt các quan điểm, nguyên tắc, chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đã tạo nền móng vững chắc cho sự đoàn kết cộng đồng các DTVN; đồng thời, tạo động lực mạnh mẽ để phát huy tiềm năng, thế mạnh của mỗi dân tộc, vùng, miền của đất nước trên con đường thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, bằng cơ chế, chính sách phù hợp cùng với đảm bảo về cơ sở pháp lý, đến nay, đồng bào các dân tộc các vùng, miền, nhất là DTTS đã thay đổi, cải thiện đáng kể về đời sống vật chất, tinh thần, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Từ thực tiễn có thể khẳng định rằng, quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ của cộng đồng các DTVN đã và đang được thực hiện có hiệu quả. Đây không chỉ là sự kế thừa, phát triển truyền thống tốt đẹp của DTVN, mà còn khẳng định bản chất tốt đẹp, tính ưu việt của chế độ XHCN trong thời đại Hồ Chí Minh. Thực tế này là không thể phủ nhận!

Nhưng, các thế lực thù địch với bản chất hiếu chiến, phản động, theo đuổi mục tiêu chống phá cách mạng nước ta đến cùng bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” là cố tình không thấy thực tiễn trên. Về VĐDT và CTDT, chúng sử dụng mọi thủ đoạn vừa trắng trợn, vừa tinh vi, lợi dụng sự thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về luật pháp của một bộ phận đồng bào các DTTS để tuyên truyền chống phá và rêu rao về cái gọi là “quyền của các dân tộc bản địa”, “quyền tôn trọng và bảo vệ sự tồn tại bản sắc văn hóa của các dân tộc ít người trên phạm vi toàn lãnh thổ”, “quyền của dân tộc Khơ-me Krôm, Đề ga ở Tây Nguyên và dân tộc Mông”,… Hơn thế, chúng còn trắng trợn dựng chuyện, vu cáo Nhà nước ta “tịch thu đất đai tổ tiên”, “bắt giam giữ độc đoán và đối xử tàn tệ”,… với người DTTS. Rồi kêu gọi các DTTS “đoàn kết” đứng lên “đấu tranh giành độc lập”(!) Được các tổ chức phản động, chống cộng ở nước ngoài ra sức hà hơi, tiếp sức, chúng dụ dỗ, lôi kéo một bộ phận người DTTS tại chỗ tin vào những cái gọi là: “Tin lành Đề ga”, “nhà nước Đề ga Mông ta nha” ở khu vực Tây Nguyên; “Vương quốc Mông tự trị” ở Tây Bắc, “Vương quốc Khơ mer Krôm tự trị” ở Tây Nam Bộ,… Tổ chức các vụ biểu tình, gây mất

Page 78: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

trật tự, an toàn xã hội, thậm chí gây bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên (các năm: 2001, 2004, 2008), Mường Nhé, Điện Biên (năm 2011) và những hoạt động đòi khôi phục cái gọi là “Vương quốc Chăm pa” của một số phản động trong giới trí thức Chăm,... Thực chất, những việc làm của chúng là nhằm kích động tâm lý ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tước đi những quyền lợi cơ bản mà cộng đồng các DTVN được pháp luật Nhà nước bảo vệ; hòng gây ra những “điểm nóng” ở các vùng, miền có đông đồng bào DTTS sinh sống, tạo cớ để các thế lực ngoại bang can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Các tổ chức, cá nhân lợi dụng “vấn đề dân tộc” vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm đến tính mạng, tài sản của đồng bào các dân tộc; cản trở đồng bào thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, đi ngược với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của các dân tộc,… đã bị Nhà nước ta xử lý nghiêm minh theo pháp luật.

Điều 5, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, quy định: “1. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về VĐDT và CTDT được khẳng định trong thực tiễn; quyền và nghĩa vụ công dân cũng như đời sống của đồng bào Dân tộc thiểu số được đảm bảo, không ngừng được nâng lên. Thực tế cho thấy, ở Việt Nam không có dân tộc nào là “dân tộc bản địa”; không hề có vấn đề phân biệt đối xử đối với các Dân tộc thiểu số , mà đều chung sống bình đẳng. Và cũng không có cơ sở thực tiễn, chính trị, pháp lý cho sự tồn tại của những loại hình kiểu “nhà nước” hay “vương quốc tự trị”,… Ở Việt Nam, Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện đảm bảo cho mỗi dân tộc cũng như cộng đồng các DTVN phát triển. Điều 28, Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2005, quy định: Các cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ. Điều 8, của Bộ luật trên quy định “Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Đồng bào các Dân tộc thiểu số được tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ dân sự để từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mình”. Điều 17, Luật Di sản văn hóa Việt Nam khẳng định: Nhà nước tôn trọng, khuyến khích các Dân tộc thiểu số giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình, có nghĩa vụ và trách nhiệm đóng góp làm giàu kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng các DTVN. Về đất đai, ở Việt Nam không có tình trạng Nhà nước hay chính quyền các cấp “tịch thu đất đai tổ tiên” của đồng bào các Dân tộc thiểu số. Điều 38, Luật đất đai của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2003, quy định rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất: vào mục đích quốc phòng - an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế; người sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả; hay trong trường hợp người sử dụng đất cố tình hủy hoại đất, tự nguyện trả lại đất, cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước; Điều 42, của Luật trên cũng quy định việc bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi,…

Page 79: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Theo đó, để đảm bảo đất ở, nhà ở cho đồng bào Dân tộc thiểu số, trong nhiều năm qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các chính sách hỗ trợ giải quyết đất đai cho người Dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo, cư trú vùng đặc biệt khó khăn; xây dựng hệ thống pháp luật có cơ chế bảo vệ công dân Việt Nam, quyền của các Dân tộc thiểu số. Ở Việt Nam không có công dân nào bị bắt, bị phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần dân tộc hay bày tỏ chính kiến hòa bình. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2003 quy định: nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc, xúc phạm khối đại đoàn kết các DTVN. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Những người Dân tộc thiểu số bị bắt, giam giữ, xử lý là do có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc và chuẩn mực luật pháp quốc tế. Vì thế, mọi luận điệu cho rằng: người Dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị kỳ thị, phân biệt đối xử đều không đúng thực tế và mang dụng ý xấu, cần lên án, bác bỏ!

Trên thực tế, hệ thống chính sách dân tộc của Nhà nước ta đã từng bước đi vào cuộc sống, phù hợp với trình độ phát triển của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Cùng với chăm lo phát triển dân trí cho đồng bào Dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước đã thực sự quan tâm xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ các cấp là người Dân tộc thiểu số, nhất là với các dân tộc có số dân dưới 01 vạn người nhằm đảm bảo quyền bình đẳng về dân sự - chính trị của các Dân tộc thiểu số trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa của các Dân tộc thiểu số đã thu được kết quả quan trọng, như: truyền thống của các làng, bản, buôn, ấp được bảo tồn; các nhà sinh hoạt văn hóa cơ sở, lễ hội dân gian được phục dựng, phát huy; công tác sưu tầm, giới thiệu di sản văn hóa vật thể và phi vật thể các Dân tộc thiểu số được chú trọng; mạng lưới thông tin cơ sở, nhà văn hóa, kho sách Dân tộc thiểu số,... được xây dựng và phát huy hiệu quả. Đến nay, mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của các Dân tộc thiểu số không ngừng được cải thiện và nâng cao; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo vệ7,… Đồng bào Khơ-me theo Phật giáo Nam tông, các Dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các tỉnh phía Bắc theo Tin lành từng bước đi vào sinh hoạt ổn định theo quy định của pháp luật,… Hàng chục vạn gia đình các dân tộc cư trú ở vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới được chính quyền các cấp giải quyết đất ở, nhà ở, điện và nước sinh hoạt. Nhà nước có chính sách hỗ trợ kinh phí cho người Khơ-me miền Tây Nam Bộ chuộc lại đất sản xuất đã bán đi hay gán nợ; bố trí tái định cư, đất ở, đất sản xuất thỏa đáng cho người Dân tộc thiểu số nằm trong các dự án phát triển kinh tế - xã hội,... Chương trình xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững ở vùng các Dân tộc thiểu số không chỉ được nhân dân cả nước hưởng ứng, mà còn được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao và tích cực hỗ trợ,… Những thành tựu đạt được trên thực tế trong thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển của Đảng và Nhà nước là minh chứng xác đáng bác bỏ luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc sự thật về VĐDT và CTDT ở Việt Nam của các thế lực thù địch. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật là trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi tổ chức và cá nhân, nhằm đảm bảo cho cộng đồng các DTVN luôn bình đẳng, đoàn kết, phát triển. Mọi hành động cổ súy, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, vi phạm Hiến pháp, pháp luật cần phải được lên án, nghiêm trị.

Ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đây là một sự kiện chính trị - pháp lý

Page 80: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta. Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc

Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã và đang từng bước được hiện thực hóa trong quá trình cách mạng. Chính vì thế, cùng với quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, các dân tộc ở Việt Nam cũng được giải phóng, quyền bình đẳng giữa các dân tộc được khẳng định; đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế... của các dân tộc thiểu số được từng bước nâng cao, an ninh chính trị và toàn vẹn lãnh thổ được bảo đảm vững chắc. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận của cách mạng Việt Nam trong hơn 68 năm qua.

Trong Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây và của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, đều khẳng định các dân tộc thiểu số có quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

Tinh thần đó tiếp tục được nhấn mạnh và làm rõ hơn trong Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh Điều 5 được xác định là định hướng cho công tác dân tộc, chính sách dân tộc, lĩnh vực dân tộc, công tác dân tộc còn được quy định cụ thể trong các Điều 42, 58, 60, 61, 75 của Hiến pháp 2013, cụ thể:

* Về quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số được quy định tại Điều 42 Hiến pháp: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”, đây là cơ sở pháp lý để xây dựng bộ tiêu chí xác định và xác định lại thành phần dân tộc, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt

* Về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn được khẳng định tại khoản 1 Điều 58 của Hiến pháp:

“1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”.

Để thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành kế hoạch sửa đổi, bổ sung 82 luật, pháp lệnh liên quan, trong đó có sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế, Luật Chăm sóc sức khỏe nhân dân, Luật Dân số.

* Về lĩnh vực văn hóa, Hiến pháp tiếp tục khẳng định tại khoản 1 Điều 60 nguyên tắc: “1. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.

* Về lĩnh vực giáo dục, Hiến pháp quy định rõ hơn các chính sách ưu tiên:“2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.

3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát

Page 81: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề.”

Từ quy định này của Hiến pháp, Quốc hội phải sửa đổi Luật Giáo dục, đặc biệt là chính sách cử tuyển đối với sinh viên người dân tộc thiểu số, chế độ đãi ngộ đối với giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn…

* Về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng và Chủ tịch Hội đồng dân tộc được làm rõ hơn, đề cao vai trò, trách nhiệm, quy định tại khoản 2, khoản Điều 75 Hiến pháp:

2. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

3. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc.

Sáu điều nêu trên của Hiến pháp 2013 là cơ sở pháp lý quan trọng, đặt nền móng cho việc xây dựng Đề án Luật Dân tộc theo Chiến lược Công tác dân tộc đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Nhà nước quan tâm tới quyền của các dân tộc thiểu số trong đời sống vật chất, tinh thần để tiến tới đạt mặt bằng chung của cả nước, quan tâm, bảo vệ, hỗ trợ quyền tự do và bình đẳng về tôn giáo của các cộng đồng dân tộc thiểu số.

Mỗi dân tộc thiểu số có phong tục truyền thống, tâm lý, tính cách riêng; trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa giữa các dân tộc cũng không đồng đều. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất, thượng tầng văn hóa ở khu vực miền núi với đồng bào các dân tộc thiểu số cần có những biện pháp, những bước đi thích hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể của từng dân tộc, trong đó phải đặc biệt chú ý tới những nét đặc thù của các dân tộc thiểu số.

Thực hiện đúng nội dung nhất quán của Hiến pháp 2013 - văn bản có hiệu lực pháp lý tối thượng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đang hiện thực hóa mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc khóa XI đề ra: Cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ.

Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ là quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng ta về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc. Nguyên tắc này, được thể hiện rõ ở Điều 5, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.

Page 82: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Việt Nam là một quốc gia thống nhất, có nhiều dân tộc cùng sinh sống1. Lịch sử đã chứng minh: bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng tiến bộ giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam (DTVN) là truyền thống quý báu, tạo nền móng vững chắc đảm bảo cho nhân dân vượt qua mọi thử thách của “thiên tai, địch họa”, “thù trong, giặc ngoài” trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắn nhủ: “Đồng bào tất cả các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau như anh em trong một nhà”2. Tư tưởng của Người luôn thống nhất với quan điểm của Đảng và được thể hiện rõ trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Nhận thức đúng vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc (VĐDT) và công tác dân tộc (CTDT), trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta xác  định: “Đảng Cộng sản thừa nhận cho các dân tộc có quyền tự do hoàn toàn. Đảng chống chế độ thuộc địa, chống hết các hình thức trực tiếp và gián tiếp đem dân tộc này đàn áp, bóc lột dân tộc khác” 3. Các dân tộc thiểu số (DTTS) là “… một lực lượng rất lớn. Cuộc dân tộc giải phóng của họ là một bộ phận quan trọng trong cách mạng phản đế và điền địa ở Đông Dương, bộ phận của cuộc thế giới cách mạng”4; chỉ có: đánh đổ đế quốc, phong kiến thì các DTTS mới thoát khỏi vòng nô lệ. Với tinh thần đó, từ năm 1930 đến năm 1975, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp thực hiện quyền bình đẳng, tăng cường khối đại đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa cộng đồng các DTVN cùng hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Nhờ đó, Đảng ta đã tập hợp lực lượng của toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp để chống xâm lược, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng cuộc sống mới tự do, ấm no, văn minh, hạnh phúc cho nhân dân.

Bước vào thời kỳ mới, Đảng ta nhất quán quan điểm: VĐDT và CTDT luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong lãnh đạo CTDT, Đảng luôn nắm vững và thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển. Nghị quyết 24/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) về CTDT đã xác định: “VĐDT và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển,... Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc”5. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung và phát triển năm 2011) khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng DTVN. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc”6. Thực hiện quan điểm, nguyên tắc trên, Nhà nước ta nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ, kỳ thị, xâm phạm quyền bình đẳng, gây chia rẽ đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi đi ngược lại điều đó đều bị nghiêm trị theo pháp luật. Cộng đồng các DTVN có đầy đủ điều kiện để thực hiện quyền dân sự - chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tham gia hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, gắn với quyền lợi và trách nhiệm của mỗi dân tộc trong cộng đồng DTVN. Tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau là trách nhiệm của các dân tộc cùng cư trú trên đất nước Việt Nam; dân tộc phát triển có nghĩa vụ giúp đỡ dân tộc đang phát triển. Việc thực hiện tốt các quan điểm, nguyên tắc, chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đã tạo nền móng vững chắc cho sự đoàn kết cộng đồng các DTVN; đồng thời, tạo động lực mạnh mẽ để phát huy tiềm năng, thế mạnh của mỗi dân tộc, vùng, miền của đất nước trên con đường thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh,

Page 83: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

dân chủ, công bằng, văn minh. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, bằng cơ chế, chính sách phù hợp cùng với đảm bảo về cơ sở pháp lý, đến nay, đồng bào các dân tộc các vùng, miền, nhất là DTTS đã thay đổi, cải thiện đáng kể về đời sống vật chất, tinh thần, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Từ thực tiễn có thể khẳng định rằng, quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ của cộng đồng các DTVN đã và đang được thực hiện có hiệu quả. Đây không chỉ là sự kế thừa, phát triển truyền thống tốt đẹp của DTVN, mà còn khẳng định bản chất tốt đẹp, tính ưu việt của chế độ XHCN trong thời đại Hồ Chí Minh. Thực tế này là không thể phủ nhận!

Nhưng, các thế lực thù địch với bản chất hiếu chiến, phản động, theo đuổi mục tiêu chống phá cách mạng nước ta đến cùng bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” là cố tình không thấy thực tiễn trên. Về VĐDT và CTDT, chúng sử dụng mọi thủ đoạn vừa trắng trợn, vừa tinh vi, lợi dụng sự thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về luật pháp của một bộ phận đồng bào các DTTS để tuyên truyền chống phá và rêu rao về cái gọi là “quyền của các dân tộc bản địa”, “quyền tôn trọng và bảo vệ sự tồn tại bản sắc văn hóa của các dân tộc ít người trên phạm vi toàn lãnh thổ”, “quyền của dân tộc Khơ-me Krôm, Đề ga ở Tây Nguyên và dân tộc Mông”,… Hơn thế, chúng còn trắng trợn dựng chuyện, vu cáo Nhà nước ta “tịch thu đất đai tổ tiên”, “bắt giam giữ độc đoán và đối xử tàn tệ”,… với người DTTS. Rồi kêu gọi các DTTS “đoàn kết” đứng lên “đấu tranh giành độc lập”(!) Được các tổ chức phản động, chống cộng ở nước ngoài ra sức hà hơi, tiếp sức, chúng dụ dỗ, lôi kéo một bộ phận người DTTS tại chỗ tin vào những cái gọi là: “Tin lành Đề ga”, “nhà nước Đề ga Mông ta nha” ở khu vực Tây Nguyên; “Vương quốc Mông tự trị” ở Tây Bắc, “Vương quốc Khơ mer Krôm tự trị” ở Tây Nam Bộ,… Tổ chức các vụ biểu tình, gây mất trật tự, an toàn xã hội, thậm chí gây bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên (các năm: 2001, 2004, 2008), Mường Nhé, Điện Biên (năm 2011) và những hoạt động đòi khôi phục cái gọi là “Vương quốc Chăm pa” của một số phản động trong giới trí thức Chăm,... Thực chất, những việc làm của chúng là nhằm kích động tâm lý ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tước đi những quyền lợi cơ bản mà cộng đồng các DTVN được pháp luật Nhà nước bảo vệ; hòng gây ra những “điểm nóng” ở các vùng, miền có đông đồng bào DTTS sinh sống, tạo cớ để các thế lực ngoại bang can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Các tổ chức, cá nhân lợi dụng “vấn đề dân tộc” vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm đến tính mạng, tài sản của đồng bào các dân tộc; cản trở đồng bào thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, đi ngược với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của các dân tộc,… đã bị Nhà nước ta xử lý nghiêm minh theo pháp luật.

Điều 5, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, quy định: “1. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về VĐDT và CTDT được khẳng định trong thực tiễn; quyền và nghĩa vụ công dân cũng như đời sống của đồng bào DTTS được đảm bảo, không ngừng được nâng lên. Thực tế cho thấy, ở Việt Nam không có dân tộc nào là “dân tộc bản địa”; không hề có vấn đề phân biệt đối xử đối với các DTTS, mà đều chung

Page 84: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

sống bình đẳng. Và cũng không có cơ sở thực tiễn, chính trị, pháp lý cho sự tồn tại của những loại hình kiểu “nhà nước” hay “vương quốc tự trị”,… Ở Việt Nam, Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện đảm bảo cho mỗi dân tộc cũng như cộng đồng các DTVN phát triển. Điều 28, Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2005, quy định: Các cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ. Điều 8, của Bộ luật trên quy định “Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Đồng bào các DTTS được tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ dân sự để từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mình”. Điều 17, Luật Di sản văn hóa Việt Nam khẳng định: Nhà nước tôn trọng, khuyến khích các DTTS giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình, có nghĩa vụ và trách nhiệm đóng góp làm giàu kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng các DTVN. Về đất đai, ở Việt Nam không có tình trạng Nhà nước hay chính quyền các cấp “tịch thu đất đai tổ tiên” của đồng bào các DTTS. Điều 38, Luật đất đai của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2003, quy định rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất: vào mục đích quốc phòng - an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế; người sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả; hay trong trường hợp người sử dụng đất cố tình hủy hoại đất, tự nguyện trả lại đất, cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước; Điều 42, của Luật trên cũng quy định việc bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi,… Theo đó, để đảm bảo đất ở, nhà ở cho đồng bào DTTS, trong nhiều năm qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các chính sách hỗ trợ giải quyết đất đai cho người DTTS thuộc diện hộ nghèo, cư trú vùng đặc biệt khó khăn; xây dựng hệ thống pháp luật có cơ chế bảo vệ công dân Việt Nam, quyền của các DTTS. Ở Việt Nam không có công dân nào bị bắt, bị phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần dân tộc hay bày tỏ chính kiến hòa bình. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2003 quy định: nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc, xúc phạm khối đại đoàn kết các DTVN. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Những người DTTS bị bắt, giam giữ, xử lý là do có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc và chuẩn mực luật pháp quốc tế. Vì thế, mọi luận điệu cho rằng: người DTTS ở Việt Nam bị kỳ thị, phân biệt đối xử đều không đúng thực tế và mang dụng ý xấu, cần lên án, bác bỏ!

Trên thực tế, hệ thống chính sách dân tộc của Nhà nước ta đã từng bước đi vào cuộc sống, phù hợp với trình độ phát triển của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Cùng với chăm lo phát triển dân trí cho đồng bào DTTS, Đảng và Nhà nước đã thực sự quan tâm xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ các cấp là người DTTS, nhất là với các dân tộc có số dân dưới 01 vạn người nhằm đảm bảo quyền bình đẳng về dân sự - chính trị của các DTTS trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa của các DTTS đã thu được kết quả quan trọng, như: truyền thống của các làng, bản, buôn, ấp được bảo tồn; các nhà sinh hoạt văn hóa cơ sở, lễ hội dân gian được phục dựng, phát huy; công tác sưu tầm, giới thiệu di sản văn hóa vật thể và phi vật thể các DTTS được chú trọng; mạng lưới thông tin cơ sở, nhà văn hóa, kho sách DTTS,... được xây dựng và phát huy hiệu quả.

Page 85: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Đến nay, mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của các DTTS không ngừng được cải thiện và nâng cao; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo vệ7,… Đồng bào Khơ-me theo Phật giáo Nam tông, các DTTS ở Tây Nguyên và các tỉnh phía Bắc theo Tin lành từng bước đi vào sinh hoạt ổn định theo quy định của pháp luật,… Hàng chục vạn gia đình các dân tộc cư trú ở vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới được chính quyền các cấp giải quyết đất ở, nhà ở, điện và nước sinh hoạt. Nhà nước có chính sách hỗ trợ kinh phí cho người Khơ-me miền Tây Nam Bộ chuộc lại đất sản xuất đã bán đi hay gán nợ; bố trí tái định cư, đất ở, đất sản xuất thỏa đáng cho người DTTS nằm trong các dự án phát triển kinh tế - xã hội,... Chương trình xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững ở vùng các DTTS không chỉ được nhân dân cả nước hưởng ứng, mà còn được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao và tích cực hỗ trợ,… Những thành tựu đạt được trên thực tế trong thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển của Đảng và Nhà nước là minh chứng xác đáng bác bỏ luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc sự thật về VĐDT và CTDT ở Việt Nam của các thế lực thù địch. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật là trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi tổ chức và cá nhân, nhằm đảm bảo cho cộng đồng các DTVN luôn bình đẳng, đoàn kết, phát triển. Mọi hành động cổ súy, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, vi phạm Hiến pháp, pháp luật cần phải được lên án, nghiêm trị.

Ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đây là một sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta. Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc

Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã và đang từng bước được hiện thực hóa trong quá trình cách mạng. Chính vì thế, cùng với quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, các dân tộc ở Việt Nam cũng được giải phóng, quyền bình đẳng giữa các dân tộc được khẳng định; đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế... của các dân tộc thiểu số được từng bước nâng cao, an ninh chính trị và toàn vẹn lãnh thổ được bảo đảm vững chắc. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận của cách mạng Việt Nam trong hơn 68 năm qua.

Trong Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây và của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, đều khẳng định các dân tộc thiểu số có quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

Tinh thần đó tiếp tục được nhấn mạnh và làm rõ hơn trong Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh Điều 5 được xác định là định hướng cho công tác dân tộc, chính sách dân tộc, lĩnh vực dân tộc, công tác dân tộc còn được quy định cụ thể trong các Điều 42, 58, 60, 61, 75 của Hiến pháp 2013, cụ thể:

* Về quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số được quy định tại Điều 42 Hiến pháp: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”, đây là cơ sở pháp lý để xây dựng bộ tiêu chí xác định và xác định lại thành phần dân tộc, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt

* Về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn được khẳng định tại khoản 1 Điều 58 của Hiến pháp:

Page 86: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

“1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”.

Để thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành kế hoạch sửa đổi, bổ sung 82 luật, pháp lệnh liên quan, trong đó có sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế, Luật Chăm sóc sức khỏe nhân dân, Luật Dân số.

* Về lĩnh vực văn hóa, Hiến pháp tiếp tục khẳng định tại khoản 1 Điều 60 nguyên tắc: “1. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.

* Về lĩnh vực giáo dục, Hiến pháp quy định rõ hơn các chính sách ưu tiên:“2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.

3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề.”

Từ quy định này của Hiến pháp, Quốc hội phải sửa đổi Luật Giáo dục, đặc biệt là chính sách cử tuyển đối với sinh viên người dân tộc thiểu số, chế độ đãi ngộ đối với giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn…

* Về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng và Chủ tịch Hội đồng dân tộc được làm rõ hơn, đề cao vai trò, trách nhiệm, quy định tại khoản 2, khoản Điều 75 Hiến pháp:

“2. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

3. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc.”

Sáu điều nêu trên của Hiến pháp 2013 là cơ sở pháp lý quan trọng, đặt nền móng cho việc xây dựng Đề án Luật Dân tộc theo Chiến lược Công tác dân tộc đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Nhà nước quan tâm tới quyền của các dân tộc thiểu số trong đời sống vật chất, tinh thần để tiến tới đạt mặt bằng chung của cả nước, quan tâm, bảo vệ, hỗ trợ quyền tự do và bình đẳng về tôn giáo của các cộng đồng dân tộc thiểu số.

Mỗi dân tộc thiểu số có phong tục truyền thống, tâm lý, tính cách riêng; trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa giữa các dân tộc cũng không đồng đều. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất, thượng tầng văn hóa ở khu vực miền núi với đồng bào các dân tộc thiểu số cần có những

Page 87: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

biện pháp, những bước đi thích hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể của từng dân tộc, trong đó phải đặc biệt chú ý tới những nét đặc thù của các dân tộc thiểu số.

Thực hiện đúng nội dung nhất quán của Hiến pháp 2013 - văn bản có hiệu lực pháp lý tối thượng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đang hiện thực hóa mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc khóa XI đề ra: Cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ.

Câu 5: Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân? Điểm mới nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?

Câu 6: Những điểm mới, quan trọng về vị trí, chức năng của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013. Phân tích điểm mới về mối quan hệ giữa các cơ quan đó trong thực hiện quyền lực Nhà nước?

Tài liệu tham khảo Câu 6: “Những điểm mới, quan trọng về vị trí, chức năng của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013. Phân tích điểm mới về mối quan hệ giữa các cơ quan đó trong thực hiện quyền lực Nhà nước?”

Những điểm mới, quan trọng về vị trí, chức năng của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013

- Về Quốc hội (Chương V)

Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cơ bản giữ như quy định của Hiến pháp năm 1992; đồng thời, có sửa đổi, bổ sung để phù hợp với chức năng của cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp và mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; cụ thể như sau:

Về Quốc hội:

- Sửa đổi, bổ sung Điều 83 của Hiến pháp năm 1992, khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 69).  

- Quy định rõ, khả thi và phù hợp hơn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN quyền quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (khoản 3 Điều 70) để xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm, quyền quyết định của Quốc hội và quyền quản lý, điều hành của Chính phủ.  

- Tiếp tục quy định Quốc hội quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; bổ

Page 88: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

sung thẩm quyền Quốc hội quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ (khoản 4 Điều 70).

- Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70) để phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình Tòa án nhân dân, làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp.

- Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập (các khoản 2, 6, 7 và 9 Điều 70).

- Tiếp tục quy định việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (khoản 8 Điều 70).

- Quy định rõ và hợp lý hơn các loại điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ của Quốc hội (khoản 14 Điều 70). Đó là những điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội.

- Hiến định thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định được quy định tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật tổ chức Quốc hội (Điều 78). Đồng thời, bổ sung quy định giao Quốc hội quyết định việc thành lập, giải thể Ủy ban của Quốc hội (Điều 76).

Về Ủy ban thường vụ Quốc hội:

- Hiến pháp làm rõ hơn thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội (Điều 73); chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội (khoản 5 Điều 74);

- Bổ sung thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 8 Điều 74). Việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính là vấn đề quan trọng, không chỉ liên quan đến việc thay đổi về địa giới hành chính mà còn liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính, đặc biệt là phải bảo đảm thể hiện được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương. Do đó, vấn đề này cần được Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân quyết định. Do đặc thù Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, khối lượng công việc trong các kỳ họp là khá lớn nên Hiến pháp giao thẩm quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực, hoạt động động thường xuyên của Quốc hội là hợp lý;

- Bổ sung thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước (khoản 6 Điều 74); 

Page 89: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Bổ sung thẩm quyền phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền củaCộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 12 Điều 74). Bởi vì, vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta ở nước ngoài nên việc quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn để Chủ tịch nước bổ nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ là cần thiết. Quy định này cũng là sự kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

Về Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội:

Xuất phát từ tính chất hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, cũng như yêu cầu của công tác cán bộ ở nước ta, Hiến pháp quy định theo hướng Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban; còn Phó Chủ tịch Hội đồng và Ủy viên Hội đồng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban và Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn (Điều 75, Điều 76). Đồng thời, Hiến pháp quy định rõ hơn về quyền yêu cầu cung cấp thông tin và bổ sung quyền yêu cầu giải trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (Điều 77).

Về đại biểu Quốc hội:   

Hiến pháp tiếp tục quy định vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước; đồng thời, khẳng định đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu và bổ sung quy định đại biểu Quốc hội có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội.

- Về Chính phủ (Chương VII)

Hiến pháp tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp(Điều 94).

Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ: kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới đã sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ cho phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ với tính chất là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất và cơ quan thực hiện quyền hành pháp và bổ sung, điều chỉnh những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Bổ sung thẩm quyền đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành pháp quy định tại Điều 96 của Hiến pháp.

- Phân định rõ thẩm quyền của Chính phủ trong việc tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70 của Hiến pháp.

Về Thủ tướng Chính phủ: Hiến pháp sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ bảo đảm tương thích với nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; làm rõ hơn thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc định hướng, điều hành hoạt động của Chính phủ; lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia; bổ sung thẩm quyền quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc

Page 90: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Điều 98).

Về Bộ trưởng và các thành viên Chính phủ: Hiến pháp làm rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ. Nhằm tăng cường trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp quy định các thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ (Điều 95). Hiến pháp bổ sung quy định “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý” (khoản 2 Điều 99).

- Về Tòa án nhân dân (Chương VIII)

Trên cơ sở kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các nguyên tắc hoạt động của Toà án nhân dân, Hiến pháp bổ sung quy định Toà án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Toà án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (khoản 3 Điều 102); sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Toà án (khoản 2 Điều 102) cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp theo hướng không xác định cấp Toà án cụ thể trong Hiến pháp mà để luật định,làm cơ sở hiến định cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.

Đồng thời, Hiến pháp không quy định việc thành lập các tổ chức thích hợp ở cơ sở để giải quyết các tranh chấp nhỏ trong nhân dân như Điều 127 của Hiến pháp năm 1992 mà để luật quy định. Về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án, theo yêu cầu cải cách tư pháp, Hiến pháp đã sắp xếp và bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm và chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm (Điều 103).

Những điểm mới về Chính phủ:

Trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 lần này, cùng với Chương về Chế độ chính trị, kinh tế-xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân, Chương về Chính phủ có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, tương đối toàn diện, trong đó có một số sửa đổi, bổ sung cơ bản.

Về tính chất, vị trí của Chính phủ, nội dung, phạm vi và cơ chế thực hiện quyền hành pháp và hành chính của Chính phủ đều có những sửa đổi, bổ sung theo tinh thần đổi mới nhằm xây dựng Chính phủ mạnh, hiện đại, dân chủ, pháp quyền, thống nhất quản lý vĩ mô các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.

Trước hết, về vị trí, phạm vi và nội dung thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp năm 2013 đã điều chỉnh, phân công lại ở mức độ nhất định, làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng thiết chế: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp

Page 91: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Cụ thể, đối với Chính phủ, lần đầu tiên Hiến pháp chính thức khẳng định tính chất, vị trí của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; nhấn mạnh và đề cao hơn tính chất, vị trí Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đồng thời, khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…” (khoản 2 Điều 96).

Quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật (khoản 1); thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân (khoản 3 Điều 96)…

Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền ban hành văn bản pháp quy của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập để thực hiện chức năng hành pháp tại Điều 100: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”.

Với những sửa đổi, bổ sung trên đây, quyền hành pháp của Chính phủ đã có bước đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với bản chất, chức năng của quyền hành pháp hiện đại.

Về mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, Chủ tịch nước: Hiến pháp đã bỏ quy định về thẩm quyền của Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhằm tạo điều kiện cho Chính phủ chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh. Đồng thời, Hiến pháp cũng phân định rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội và Chính phủ quyết định trong một số lĩnh vực (như Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển KTXH của đất nước, quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia…, còn Chính phủ có thẩm quyền ban hành các chính sách cụ thể, biện pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực); phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế…

Về cơ cấu, thành phần Chính phủ: Hiến pháp sửa đổi quy định rõ “Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ” (bỏ cụm từ “các thành viên khác” của Hiến pháp 1992); bổ sung quy định “cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quy định” để trên cơ sở đó quy định trong luật về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ.

Đề cao chế định Thủ tướng Chính phủ

Trong bản Hiến pháp mới, chế định Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được đề cao. Tập trung thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ trong việc lãnh đạo, điều hành Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương:

Thủ tướng Chính phủ được Hiến pháp khẳng định rõ vị trí, vai trò là người đứng đầu Chính phủ (mới bổ sung). Đồng thời, quy định rõ hơn trách nhiệm giải trình của Thủ tướng: Chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Page 92: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Quy định rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng đối với Chính phủ, nhất là đối với hệ thống hành chính Nhà nước: Thủ tướng “Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật”; “Lãnh đạo và chịu trách nhiệm và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia” (khoản 1, khoản 2 Điều 98). 

Với các sửa đổi, bổ sung này, vị thế và vai trò của Thủ tướng đã nâng cao hơn. Thủ tướng Chính phủ thực sự trở thành nhân tố định hướng các mục tiêu chung và thúc đẩy, định hướng xây dựng chính sách và toàn bộ hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương tới địa phương trong việc thực hiện các chức năng, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Tăng cường trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng

Hiến pháp mới có một số sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thể hiện rõ hơn vị trí, nhiệm vụ, trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách vừa là thành viên Chính phủ, đồng thời là một thiết chế có trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước.

Cụ thể, về vị trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới quy định “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công” (khoản 1 Điều 99).

Về chế độ chịu trách nhiệm, Hiến pháp mới quy định rõ ràng và đầy đủ hơn: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ “chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách” (bổ sung chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ); và “cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ” (mới bổ sung).

Về nhiệm vụ, quyền hạn, Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ: “tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); “ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật” (Điều 100).

Một điểm mới rất quan trọng là Hiến pháp đã bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không chỉ chịu trách nhiệm giải trình trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, mà còn phải chịu trách nhiệm giải trình trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý (khoản 2 Điều 99).

Nâng cao tính dân chủ pháp quyền

Nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng và lớn nhất về Chính phủ là về cơ chế thực hiện quyền hành pháp phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền. 

Hiến pháp mới đã có nhiều quy định đổi mới về cơ chế thực thi quyền lực, phù hợp với tính chất, vai trò của từng thiết chế Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng, theo hướng nâng cao hơn tính dân chủ pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của Chính

Page 93: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

phủ, bảo đảm minh bạch, linh hoạt, nhanh nhạy, trách nhiệm giải trình trong thực hiện quyền lực được trao; đồng thời, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa 3 thiết chế trong thực hiện quyền hành pháp và hành chính được giao. Thể hiện cụ thể như sau:

Đối với Chính phủ, Hiến pháp khẳng định mạnh mẽ nguyên tắc Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số1; đồng thời, xác lập mối quan hệ trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;

Với thiết chế Thủ tướng: Hiến pháp mới khẳng định mạnh mẽ vị trí, vai trò của Thủ tướng với tư cách là  người đứng đầu Chính phủ, đồng thời vừa là  một thiết chế độc lập tương đối với Chính phủ (đề cao vai trò cá nhân Thủ tướng).

Theo đó, quy định toàn diện về chế độ trách nhiệm của Thủ tướng: Chịu trách nhiệm trước Quốc hội, đồng thời nhấn mạnh chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, trước nhân dân về hoạt động của Chính phủ, về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia. 

Về Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới đã bổ sung một số quy định mới: Khẳng định rõ vị trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là người đứng đầu và lãnh đạo công tác của Bộ, cơ quan ngang bộ; có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực được phân công; chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ; cùng chia sẻ trách tập thể với các thành viên Chính phủ về hoạt động của Chính phủ.

)

Những điểm mới của Hiến pháp (sửa đổi) về Chính phủ

Một trong những nội dung trọng tâm của sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này là đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, không những có sự hoàn thiện hơn nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước tại Điều 2 của Hiến pháp, mà các nguyên tắc đó đã trở thành tư tưởng xuyên suốt trong các quy định cụ thể của Hiến pháp. Bước tiến mới dễ nhận thấy nhất là Hiến pháp (sửa đổi) đã khẳng định rõ, Quốc hội là cơ quan lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Trên cơ sở đó, sự phân công thẩm quyền giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân đã rõ ràng, minh bạch, phù hợp với chức năng của từng cơ quan. Sự phân công rõ ràng là cơ sở quan trọng để các cơ quan phối hợp với nhau nhịp nhàng hơn. Đồng thời, một cơ chế kiểm soát quyền lực đã được xác định, trong đó quyền của nhân dân với tư cách là chủ nhân của tất cả quyền lực Nhà nước được đề cao, các hình thức dân chủ được mở rộng. Vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên được khẳng định.

Riêng đối với Chính phủ, Hiến pháp (sửa đổi) có nhiều quy định mới, thậm chí rất mới, vừa tạo cơ sở hiến định để Chính phủ chủ động, năng động, sáng tạo hơn trong hoạch định chính sách, tổ chức thực thi Hiến pháp, pháp luật và trong đối phó với tình hình mới; vừa đặt Chính phủ trong cơ chế kiểm soát chặt chẽ của nhân dân, đề cao trách nhiệm trước nhân dân. Với những quy định mới của Hiến pháp (sửa đổi) về Chính phủ, tin rằng đất nước sẽ có một Chính phủ mạnh, đủ sức thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Page 94: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Ngoài điểm mới đã nêu ở trên, ở mức độ khái quát, có thể thấy quy định của Hiến pháp (sửa đổi) còn có một số điểm mới cụ thể như sau:

Một là, Hiến pháp đã sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ theo hướng khái quát, hợp lý hơn, phù hợp với vị trí hành pháp của Chính phủ (Điều 96), chẳng hạn như: (i) Khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, Hiến pháp quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ "đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này..." (khoản 2 Điều 96).

(ii) Khẳng định vai trò quản lý, điều hành vĩ mô của Chính phủ, Hiến pháp đã làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật (khoản 1); thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân (khoản 3); bổ sung quy định trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính đối với đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (khoản 4);...

(iii) Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp (sửa đổi) đã bổ sung quyền ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập của chức năng hành pháp tại Điều 100: "Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật".

(iv) Trong mối quan hệ với Quốc hội: Hiến pháp (sửa đổi) đã bỏ quy định về thẩm quyền của Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, tạo điều kiện cho Chính phủ và các chủ thể khác chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh; phân định rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội quyết định (trong một số lĩnh vực Quốc hội chỉ quyết định các chính sách cơ bản). Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, biện pháp cụ thể để quản lý, điều hành; phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế... Theo đó, Chính phủ có thẩm quyền "Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70" (khoản 7 Điều 96).

Hai là, Hiến pháp quy định rõ cơ cấu, thành phần của Chính phủ "gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ". Như vậy, Hiến pháp (sửa đổi) đã bỏ cụm từ "các thành viên khác" so với Hiến pháp năm 1992 và bổ sung quy định "cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quy định" để trên cơ sở đó sẽ quy định trong luật về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ nhằm bảo đảm tính ổn định.

Ba là, Hiến pháp tăng cường vai trò, vị thế và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ (Điều 98). Thủ tướng Chính phủ được xác định là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước (thay vì quy định chung chung, không rõ ràng như Hiến pháp năm 1992).

Page 95: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Chức năng chủ yếu của Thủ tướng là lãnh đạo tập thể Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp; điều hành hoạt động của Chính phủ. Các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thủ tướng được tăng cường và sắp xếp lại hợp lý hơn như: Lãnh đạo công tác của Chính phủ (bỏ quy định "lãnh đạo... các thành viên Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp" của Hiến pháp năm 1992); bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ: lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật (khoản 1); lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia (khoản 2); "Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên" (khoản 5)...

Tăng cường chế độ báo cáo của Thủ tướng trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ (khoản 6).

Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng và bổ sung quy định Phó Thủ tướng "chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về nhiệm vụ được phân công".

Với các sửa đổi, bổ sung này, vị thế và vai trò của Thủ tướng Chính phủ đã được nâng cao hơn. Thủ tướng Chính phủ có đủ quyền hạn để trở thành nhân tố định hướng các mục tiêu chung và thúc đẩy, định hướng xây dựng chính sách và toàn bộ hoạt động của Chính phủ và lãnh đạo hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương tới cơ sở trong việc thực hiện các chức năng, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Bốn là, Hiến pháp tăng cường vai trò, trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.

Hiến pháp thể hiện rõ vị trí, nhiệm vụ của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách vừa là thành viên Chính phủ, vừa là người đứng đầu bộ máy hành chính Nhà nước trong lĩnh vực phụ trách, lãnh đạo công tác của Bộ, cơ quan ngang Bộ; chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công (khoản 1 Điều 99). Về nhiệm vụ, quyền hạn, Hiến pháp đã bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ: "tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc" (khoản 1 Điều 99); "ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật" (Điều 100). Về chế độ chịu trách nhiệm, Hiến pháp quy định rõ ràng và cụ thể hơn: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ "chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách" (bổ sung chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ); và "cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ" (mới bổ sung). Đồng thời, Hiến pháp bổ sung chế độ báo cáo công tác của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý (khoản 2 Điều 99).

Tóm lại, những điểm mới nêu trên trong Hiến pháp (sửa đổi) về Chính phủ có ý nghĩa làm cơ sở cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng thúc đẩy nâng cao hiệu quả quản lý vĩ mô của Chính phủ trong điều kiện kinh tế thị trường

Page 96: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đề cao vai trò của Chính phủ trong việc chủ động khởi xướng, hoạch định và điều hành chính sách vĩ mô; điều hành nhanh nhạy, sáng tạo, ứng phó, giải quyết kịp thời các vấn đề của cuộc sống đặt ra. Hiến pháp (sửa đổi) cũng đã phản ánh đầy đủ ý nguyện của nhân dân và yêu cầu thực tiễn, đề cao trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, tạo cơ sở cho việc đổi mới phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng bảo đảm giải quyết các vấn đề đặt ra ngay trong từng lĩnh vực, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau và đẩy trách nhiệm giải quyết công việc lên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ gây ách tắc; tạo động lực mới cho hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành trước những yêu cầu và thách thức đặt ra trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 quy định về Tòa án nhân dân

Tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. So với Hiến pháp năm 1992 thì ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn thực hiện quyền tư pháp là nhằm phân định quyền lực nhà nước theo hướng Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Đây là cơ sở pháp lý để giao cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên quyền con người, quyền của công dân, mà những loại việc đó hiện nay là các cơ quan hành chính đang thực hiện…

Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do Luật định” cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị là xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính mà để Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định, làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.

Bổ sung Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đã thể hiện rõ nét về nhiệm vụ của Tòa án, đảm bảo thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ Tòa án.

Hiến pháp năm 2013 không quy định về việc thành lập các tổ chức thích hợp ở cơ sở để giải quyết các tranh chấp nhỏ trong nhân dân như Điều 127 Hiến pháp năm 1992 mà để luật quy định.

Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 cũng đã sắp xếp và bổ sung một số nội quan trọng tại Điều 103, cụ thể như: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm; Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín; Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm; quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích

Page 97: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

hợp pháp của đương sự được bảo đảm”. Đây là các nguyên tắc hoạt động cơ bản Tòa án nhân dân nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác xét xử của Tòa án nhân dân, đảm bảo chất lượng xét xử của Tòa án tránh tình trạng xảy ra oan sai, gây thiệt hại cho các bên đương sự trong quá trình xét xử của Tòa án.

Các quy định về Tòa án nhân dân trong Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội thông qua sáng ngày 28/11/2013. Trong Hiến pháp sửa đổi có Chương VIII – Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Các điều của chương này là những nội dung quy định của Hiến pháp về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Đối với Tòa án nhân dân, các quy định đó được thể hiện từ Điều 102 đến Điều 106. Những nội dung mà Hiến pháp sửa đổi quy định về Tòa án nhân dân so với Hiến pháp năm 1992 có nhiều nội dung mới, đó là những định hướng quan trọng đổi mới về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Những nội dung mới và định hướng sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được thể hiện cụ thể như sau:

1. Quy định của Hiến pháp sửa đổi về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân

Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp sửa đổi quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định Tòa án nhân dân chỉ là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Hiến pháp sửa đổi đã quy định ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn thực hiện quyền tư pháp. Đây là điểm rất mới so với Hiến pháp năm 1992. Nội dung mới này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm phân định quyền lực nhà nước theo hướng Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Đây là định hướng nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước ta theo kiểu nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung mới nêu trên về Tòa án nhân dân còn mang ý nghĩa thực tiễn, đây là cơ sở pháp lý để giao cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên quan đến việc hạn chế quyền nhân thân của công dân, mà những loại việc đó hiện nay là các cơ quan hành chính đang thực hiện, ví dụ như việc ra các quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh hoặc quyết định đưa người vào các trung tâm giáo dưỡng, cai nghiện… Hiện nay, ngành Tòa án nhân dân đã và đang chuẩn bị hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng đó. Với ý nghĩa đặc biệt này nên trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi bổ sung sẽ thể hiện chức năng thực hiện quyền tư pháp đối với Tòa án nhân dân các cấp. Không những thế, pháp luật tố tụng cũng cần thiết phải có sửa đổi, bổ sung để Tòa án nhân dân thực hiện chức năng nêu trên theo Hiến pháp quy định.

2. Quy định của Hiến pháp về hệ thống Tòa án nhân dân

Về hệ thống Tòa án nhân dân, Hiến pháp năm 1992 quy định hệ thống tòa án gồm: “Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định”. Quy định này là nhằm xác định Tòa án được tổ chức theo địa giới hành chính địa phương từ cấp huyện đến cấp tỉnh. Nghĩa là, có đơn vị hành chính cấp huyện hoặc cấp tỉnh thì đồng thời có Tòa án cấp huyện hoặc Tòa án cấp tỉnh. Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đã xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Hiến pháp sửa đổi đã thể chế quan điểm này về tổ chức Tòa án nhân dân, cụ thể là: Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp sửa đổi

Page 98: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

quy định “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do Luật định”.

Như vậy, theo quy định này của Hiến pháp thì hệ thống Tòa án được tổ chức theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Do đó, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sẽ được sửa đổi theo hướng quy định về tổ chức Tòa án theo 4 cấp, cụ thể là:

- Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực là cấp xét xử sơ thẩm hầu hết các loại vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân.

- Tòa án nhân dân cấp tỉnh là cấp xét xử phúc thẩm là chủ yếu, xét xử sơ thẩm một số loại vụ án thuộc các trường hợp mà Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.

- Tòa án nhân dân cấp cao là cấp xét xử phúc thẩm và có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

- Tòa án nhân dân tối cao là cấp xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cao nhất và chủ yếu là tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật.

Tổ chức Tòa án theo 4 cấp nêu trên thì chỉ có Tòa án nhân dân cấp tỉnh là gắn với địa giới hành chính cấp tỉnh, còn Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân cấp cao không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Theo đó, đây cũng là những yếu tố để đảm bảo cho tính khả thi của nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

3. Quy định của Hiến pháp sửa đổi về các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân

Về các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân, Hiến pháp sửa đổi có một số nội dung quy định mới, nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác xét xử của Tòa án nhân dân các cấp. Cụ thể là:

- Đối với nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập, Hiến pháp năm 1992 quy định “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, còn Hiến pháp sửa đổi quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Với quy định này của Hiến pháp sửa đổi thì nguyên tắc độc lập xét xử có nội dung mới là:

+ Tiến trình Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử là độc lập trong mọi hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét xử chứ không chỉ giới hạn bởi “khi xét xử”  như quy định của Hiến pháp năm 1992.

+ Cụm từ “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” trong công tác xét xử và cũng là đảm bảo cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.

- Đối với nguyên tắc xét xử tập thể, Hiến pháp sửa đổi quy định: “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.  Cụm từ “trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” là nội dung mới của nguyên tắc này. Còn thủ tục rút gọn được quy định trong pháp luật tố tụng theo hướng những vụ việc đơn giản, rõ ràng thì chỉ cần 1 Thẩm phán xem xét giải quyết chứ không cần Hội đồng xét xử như hiện nay, nhằm những vụ việc đó được giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn

Page 99: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

đảm bảo đúng pháp luật và đạt hiệu quả, tiết kiệm về thời gian cho những người tham gia tố tụng.

- Hiến pháp sửa đổi có bổ sung nguyên tắc mới về hoạt động của Tòa án, đó là nguyên tắc: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua cho thấy mô hình tố tụng tại phiên tòa của Việt Nam theo hướng thẩm vấn kết hợp với tranh tụng, các chứng cứ, tình tiết của vụ án đã được những người tham gia tố tụng trình bày khách quan tại phiên tòa và trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử ra các phán quyết nhằm đảm bảo các phán quyết đó chính xác, đúng pháp luật. Vì vậy, chất lượng xét xử của Tòa án các cấp trong thời gian vừa qua cũng đã được nâng lên, giảm các vụ, việc oan, sai. Từ cơ sở thực tiễn đó và nhằm thể chế các quan điểm của Đảng về xác định mô hình tố tụng Việt Nam, Hiến pháp sửa đổi đã quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo. Xuất phát từ quy định này của Hiến pháp, pháp luật tố tụng phải quy định chi tiết, cụ thể về tranh tụng tại phiên tòa của tất cả các lĩnh vực xét xử.

- Hiến pháp sửa đổi bổ sung nguyên tắc mới là “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo”. Nguyên tắc này, Hiến pháp năm 1992 chưa có, nhưng được thể hiện trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân với nội dung: “Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. Về bản chất thì cách thể hiện của nguyên tắc nêu trên của Hiến pháp sửa đổi có kế thừa song có bao hàm những nội dung mới đó là khẳng định hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Hoạt động giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án không phải là cấp xét xử.

Có như vậy thì những vụ việc được Tòa án giải quyết xét xử đã có hiệu lực pháp luật (đã qua giải quyết xét xử ở cấp phúc thẩm) phải được thi hành, tránh khiếu nại kéo dài. Đương nhiên, nguyên tắc này nhằm xác định trách nhiệm của ngành Tòa án trong công tác xét xử sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án các cấp có thẩm quyền đó phải đảm bảo chất lượng xét xử cao nhất, đó cũng là những nội dung mà Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, bổ sung phải có quy định về trách nhiệm của Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

4. Quy định của Hiến pháp sửa đổi về Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thẩm phán

Khoản 3 Điều 105 Hiến pháp sửa đổi quy định: “Việc bổ nhiệm, phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm phán và việc bầu, nhiệm kỳ của Hội thẩm do luật định”. Quy định này của Hiến pháp sửa đổi sẽ bao hàm những nội dung mới về Thẩm phán, là định hướng để Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, sửa đổi bổ sung theo những nội dung mới so với Hiến pháp năm 1992 như sau:

- Về thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán, Hiến pháp sửa đổi quy định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán khác thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước; đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức Thẩm phán TAND tối cao có sự phê chuẩn của Quốc hội. Ý nghĩa lý luận của quy định này nhằm đề cao địa vị pháp lý của Thẩm phán, đặc biệt là địa vị pháp lý của Thẩm phán TAND tối cao. Bởi vì, chính đội ngũ Thẩm phán là những người trực tiếp giải quyết, xét xử các loại vụ án và thực hiện quyền tư pháp. Chất lượng giải quyết, xét xử và thực hiện quyền tư pháp của các Thẩm phán là biểu hiện của nền công lý của quốc gia. Do đó, họ được xã hội thừa nhận có địa vị pháp lý cao và được tôn trọng là phù hợp với tiến bộ xã hội và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Ý nghĩa thực tiễn của quy định này là nhằm xác

Page 100: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

định Thẩm phán là Thẩm phán của quốc gia, không phụ thuộc vào địa phương nào, đó là đảm bảo hoạt động của Thẩm phán là nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì với quy định của Hiến pháp nêu trên bao hàm ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, Thẩm phán TAND tối cao sẽ có số lượng hạn chế so với số lượng Thẩm phán TAND tối cao hiện nay (có thể khoảng không được 17 người, thay vì số lượng 120 người như hiện nay). Thẩm phán TAND tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm và được Quốc hội phê chuẩn. Thủ tục này tương tự như thủ tục bổ nhiệm, phê chuẩn  các thành viên Chính phủ (Bộ trưởng ). Do vậy, Thẩm phán TAND tối cao phải là những người ưu tú nhất trong hệ thống Tòa án và cơ quan tư pháp, có nhiều kinh nghiệm trong công tác giải quyết xét xử các loại vụ án, có uy tín cao trong các cơ quan tư pháp và trong xã hội, họ thực sự là biểu tượng của công lý của Nhà nước.

- Đối với các quy định về ngạch Thẩm phán, tiêu chuẩn Thẩm phán, quy trình tuyển chọn, nhiệm kỳ Thẩm phán, mặc dù Hiến pháp sửa đổi không nêu nhưng với ý nghĩa Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, vì vậy những nội dung nêu trên cũng đòi hỏi phải có những đổi mới theo hướng:

+ Về ngạch Thẩm phán, hiện nay theo quy định thì có 3 ngạch Thẩm phán là Thẩm phán TAND tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. Thực tiễn hoạt động của Tòa án cho thấy, quy định này có nhiều bất cập trong tổ chức thực hiện việc bổ nhiệm, điều động Thẩm phán cũng như trong hoạt động xét xử khi phân công Thẩm phán sơ cấp ở các Tòa án trong hệ thống Tòa án. Vì vậy, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi bổ sung có thể quy định về Thẩm phán theo hướng Thẩm phán gồm: Thẩm phán TAND tối cao và Thẩm phán. Đối với Thẩm phán sẽ phân định ra thành nhiều bậc Thẩm phán để họ được hưởng lương theo bậc, vì thể việc nâng bậc Thẩm phán do Chánh án TAND tối cao thực hiện.

+ Về tiêu chuẩn Thẩm phán, cũng phải sửa đổi theo hướng nâng cao tiêu chuẩn và phải qua kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán quốc gia. Tiêu chuẩn Thẩm phán gồm các tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, nghiệp vụ, thời gian làm việc, và cũng nên bổ sung tiêu chuẩn về vốn sống xã hội, tác phong quần chúng trong công tác thực tiễn, đây chính là tiêu chí hóa tư tưởng Hồ Chính Minh về Tòa án, vì Bác Hộ đã dạy phải gần dân, hiểu dân và học dân, đồng thời tiêu chuẩn này là thể hiện uy tín xã hội của Thẩm phán. Với quy định về tiêu chuẩn như vậy và qua kỳ thi tuyển chọn quốc gia, đương nhiên nguồn tuyển chọn Thẩm phán sẽ được mở rộng hơn so với hiện nay.

+ Về quy trình tuyển chọn Thẩm phán, xuất phát từ ý nghĩa Thẩm phán là của quốc gia, không phụ thuộc vào địa phương, do đó việc thi tuyển, tuyển chọn phải do Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia, thay thế cac Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như hiện nay. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia có trách nhiệm tuyển chọn Thẩm phán để trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, đối với Thẩm phán TAND tối cao, Hội đồng này có trách nhiệm giới thiệu và tư vấn với Chủ tịch nước để Chủ tịch nước giới thiệu trước Quốc hội và căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán TAND tối cao. Đương nhiên, để đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, bổ sung sẽ phải có những quy định về thành phần Hội đồng, quy chế hoạt động của Hội đồng. Đồng thời, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, bổ sung cũng cần thiết có quy định bổ sung về việc thành lập Hội đồng giám sát hoạt động của Thẩm phán, theo hướng thành viên của Hội đồng này phần đông là người của Tòa án các cấp để

Page 101: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

họ có am hiểu về hoạt động của Thẩm phán trong công tác xét xử và xem xét về đạo đức lối sống, tác phong, uy tín của Thẩm phán trong bất kỳ thời điểm nào, không phụ thuộc vào thời điểm hết nhiệm kỳ Thẩm phán như hiện nay.

+ Về nhiệm kỳ Thẩm phán, Thẩm phán là chức danh nghiệp vụ, không phải là chức vụ lãnh đạo quản lý, nên việc gắn nhiệm kỳ cho chức danh Thẩm phán phát sinh rất nhiều bất cập trong thực tiễn hoạt động của Thẩm phán. Chính vì vậy, nhiệm kỳ của Thẩm phán nên chỉ có trong thời kỳ đầu khi mới được bổ nhiệm Thẩm phán, cụ thể là nhiệm kỳ đầu tiên của Thẩm phán là 5 năm tính từ ngày được Chủ tịch mới bổ nhiệm, nếu được bổ nhiệm lại làm Thẩm phán thì không có nhiệm kỳ mà làm Thẩm phán cho đến khi nghỉ hưu, trừ trường hợp bị cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm Thẩm phán. Đối với Thẩm phán TAND tối cao không có nhiệm kỳ, nghĩa là khi được Chủ tịch nước bổ nhiệm, Quốc hội phê chuẩn thì Thẩm phán TAND tối cao làm việc cho đến khi nghỉ hưu.

+ Về độ tuổi làm việc của Thẩm phán, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi bổ sung cũng cần có quy định về độ tuổi làm việc của Thẩm phán theo hướng kéo dài độ tuổi làm việc so với quy định của Bộ luật lao động và tuổi làm việc của nam nữ như nhau phù hợp với xu hướng bình đẳng giới. Theo đó, tuổi làm việc của Thẩm phán có thể đến 65 tuổi, tuổi làm việc của Thẩm phán TAND tối cao có thể lên đến 70 tuổi. Còn quyền nghỉ hưu của Thẩm phán nếu họ có yêu cầu thì không phụ thuộc vào độ tuổi làm việc nêu trên, theo quy định về chế độ nghỉ hưu của công chức.

Trên đây là một số nội dung mới của Hiến pháp sửa đổi quy định về hệ thống Tòa án nhân dân; và đó cũng là cơ sở pháp lý đặc biệt quan trọng để xác định định hướng lớn, bản chất nhất trong những nội dung sửa đổi bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.

Câu 7: Cấp chính quyền địa phương quy định trong Hiến pháp năm 2013 gồm những cơ quan nào? Bạn hãy nêu nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương đối với Nhân dân.

Trả lời Câu 7:

Chính quyền địa phương trong Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi là Hiến pháp năm 2013) vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý vững chắc cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới. Đây là bản Hiến pháp vừa kế thừa được các giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, vừa thể chế hóa các quan điểm, phương hướng, nội dung phát triển đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó có nội dung về Chính quyền địa phương. 

1. Nội dung Chính quyền địa phương trong Hiến pháp

 Chương IX - Chính quyền địa phương là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm lớn của nhân dân cả nước, đồng thời cũng là Chương nhận được nhiều ý kiến góp ý nhất của các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, sửa

Page 102: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

đổi Hiến pháp. Chương Chính quyền địa phương đã đánh dấu những thay đổi lớn của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992, đã làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan công quyền ở địa phương trong mối quan hệ với Trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa HĐND, UBND trong chính thể của chính quyền địa phương; đồng thời, cũng quy định một cách tổng quát về phân chia đơn vị hành chính.  

- Về tên gọi của Chương: Trên thực tế, thuật ngữ “chính quyền địa phương” đã được sử dụng tương đối rộng rãi và phổ biến trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước, các sách báo chính trị pháp lý, cũng như các bài phát biểu của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta ở Trung ương và địa phương. Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên gọi từ HĐND và UBND (trong Hiến pháp năm 1992) thành Chính quyền địa phương. Đây là sự thay đổi hợp lý, phù hợp với lịch sử lập hiến cũng như các văn bản khác của Đảng và Nhà nước ta. Mặt khác, từ thực tiễn hoạt động của hai cơ quan này cho thấy: HĐND và UBND mặc dù là hai cơ quan có vị trí và tính chất khác nhau, nhưng được tổ chức và hoạt động trên cùng một địa bàn, một cấp hành chính. Do đó, hai cơ quan này có mối quan hệ chặt chẽ về mặt tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Cũng vì thế, việc đổi tên này không phải là hình thức, mà nó đặt ra yêu cầu phải đổi mới thực sự về mô hình tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương theo hướng: Bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa HĐND và UBND; tạo không gian tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao hơn cho chính quyền địa phương; khẳng định rõ nét hơn vị trí của chính quyền địa phương trong hệ thống hành chính thống nhất của đất nước.

 

- Quy định về đơn vị hành chính: Hiến pháp năm 2013 kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta; đồng thời, bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường; đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập (Điều 110). Bổ sung quy định “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định” (khoản 2 Điều 110). Từ các quy định trên, có thể nhận thấy một số điểm mới như sau:

 

Thứ nhất, Hiến pháp đã sử dụng thuật ngữ “đơn vị hành chính tương đương” với quận, huyện, thị xã trong thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là ý tưởng mới trên cơ sở tiếp thu ý kiến của đông đảo đại biểu Quốc hội và nhân dân, mở ra khả năng cho việc thành lập các đơn vị hành chính mới nhằm tăng khả năng dự báo và tính ổn định của Hiến pháp trong việc đáp ứng nhu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Với cách quy định mở về đơn vị hành chính, Hiến pháp mới đã tạo điều kiện việc đưa ra tên gọi mới cho đơn vị hành chính trong thành phố trực thuộc Trung ương, ví dụ như “thành phố” trong “thành phố trực thuộc Trung ương”. Theo đó, cách quy định về đơn vị hành chính “thành phố trong thành phố” sẽ không bị xem là vi hiến trong các văn bản pháp luật sau này. 

Page 103: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

 

Thứ hai, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”. Thực chất, vấn đề này cũng đã được đề cập trong Hiến pháp năm 1992. Đây là quy định được bổ sung trên cơ sở ý kiến đề xuất của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức (nhất là ý kiến đề xuất của Chính phủ) và các địa phương, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết lập các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đang đặt ra ở một số địa phương như huyện đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang hay huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh...

 

Thứ ba, tại Điều 110 Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định: “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”. Thực tiễn cho thấy, việc chia tách, sáp nhập đơn vị hành chính lãnh thổ của nước ta trong thời gian qua ở các cấp diễn ra rất phổ biến nên đã có lúc dẫn đến hoặc làm tăng đầu mối đơn vị hành chính và làm tăng tổ chức bộ máy, biên chế công chức và tài chính công... hoặc hao tổn rất nhiều chi phí quốc gia để làm việc này... dẫn đến suy giảm hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và cải cách hành chính hiện nay. Để tránh tình trạng nhập, tách, chia, điều chỉnh địa giới hành chính một cách dễ dãi, thiếu căn cứ, tiêu chí minh bạch, công khai, đặc biệt là thiếu sự tham gia ý kiến có tính quyết định của nhân dân đã diễn ra trong thực tế vừa qua ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 đã quy định việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định. Có thể nói, việc hiến định rõ hơn về thẩm quyền, tiêu chí, điều kiện, thủ tục thành lập mới, sáp nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính của Hiến pháp mới góp phần bảo đảm tính ổn định của các đơn vị hành chính hiện nay. Đồng thời, quy định này cũng nhằm bảo đảm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh đó, quy định mới này cũng đặt ra nhiệm vụ cho Chính phủ phải gấp rút nghiên cứu và soạn thảo các quy định ở tầm luật để trình Quốc hội ban hành về trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính trong đó nhất thiết phải có việc lấy ý kiến nhân dân địa phương.

 

- Quy định về tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính: Theo Điều 118 Hiến pháp năm 1992, “Việc thành lập HĐND và UBND ở các đơn vị hành chính do luật định”. Thực tế, các đạo Luật tổ chức HĐND và UBND (năm 1994 và 2003) đều quy định: Mọi đơn vị hành chính đều tổ chức HĐND và UBND. Mô hình tổ chức này đã gây nên sự cồng kềnh, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa HĐND và UBND các cấp, không có sự phân biệt giữa mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở nông thôn, đô thị và hải đảo. Hiến pháp năm 2013 quy định như sau:

1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định (Điều 111).

Page 104: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Với quy định trên, đơn vị hành chính nào cũng có chính quyền. Tuy nhiên, cần phải hiểu rõ rằng: Không phải ở tất cả các đơn vị hành chính, chính quyền địa phương được tổ chức giống nhau. 

Với khái niệm này, cho phép chúng ta phân biệt rõ giữa cách phân chia đơn vị hành chính để quản lý với mô hình tổ chức quản lý ở từng đơn vị hành chính. Không phải một đơn vị hành chính là một cấp chính quyền. Cấp chính quyền được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Ở đâu được coi là cấp chính quyền thì chính quyền ở đó bao gồm HĐND và UBND; còn ở đâu không được coi là cấp chính quyền thì sẽ có cơ quan hành chính thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính và dịch vụ công tại địa bàn. Vì vậy, Điều 111 Hiến pháp năm 2013 đã đưa ra khái niệm “cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND”, cấp chính quyền có ở những đơn vị hành chính nào sẽ do luật định, phù hợp với “đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”.

Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã mở ra những khả năng để luật quy định và khắc phục những bất cập trong tổ chức chính quyền địa phương theo Hiến pháp năm 1992, đồng thời, đổi mới một bước quan trọng tổ chức chính quyền địa phương.

 

- Về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương: Hiến pháp năm 1992 không có điều khoản riêng quy định về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương mà nội dung này được thể hiện thông qua các quy định về thẩm quyền của HĐND(1) và UBND. Hiến pháp năm 2013 đã thay đổi cách tiếp cận khi bổ sung một điều mới (Điều 112) quy định về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương. Cụ thể như sau:

 

Thứ nhất, khoản 1 của Điều này khẳng định rõ chính quyền địa phương có 02 loại nhiệm vụ được phân biệt với nhau:  (1) Nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; (2) Quyết định các vấn đề của địa phương do luật định. 

Trong một Nhà nước đơn nhất như nước ta, nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của chính quyền địa phương là tổ chức và bảo đảm thực hiện Hiến pháp, pháp luật tại địa phương. Đồng thời, chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ xuất phát từ tính đặc thù của địa phương. Đây là quy định thể hiện nhiệm vụ có tính tự quản cao của chính quyền địa phương, nhằm phát huy lợi thế của mỗi địa phương trên thực tế. 

 

Thứ hai, khoản 2 Điều 112 quy định rõ “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương”. Có thể nói, đây là một định hướng quan trọng trong việc thiết kế cơ chế điều chỉnh mối quan hệ giữa chính quyền địa phương và chính quyền Trung ương (cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau) trong thời gian tới. Chỉ có trên cơ sở phân định rõ thẩm quyền của mỗi cấp chính quyền theo tinh thần phân cấp mạnh mẽ thì cơ chế xác định trách nhiệm, bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền cũng như thực hiện việc kiểm soát quyền lực mới có hiệu quả.

Page 105: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

 

Thứ ba, khoản 3 Điều 112 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”. Trên thực tế rất nhiều nhiệm vụ của Trung ương được giao cho địa phương thực hiện, nhưng chỉ giao việc mà không kèm theo các điều kiện để thực hiện công việc, do đó, gây rất nhiều khó khăn cho địa phương. Quy định tại khoản 3 Điều 112 của Hiến pháp tạo cơ sở hiến định giải quyết nhiều khó khăn của các địa phương hiện nay.

 

- Quy định về Hội đồng nhân dân: Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa các quy định về HĐND trong Hiến pháp năm 1992. Theo đó, khoản 1 Điều 113 tiếp tục quy định: “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Khoản 2 Điều 113 quy định rõ chức năng và nhiệm vụ của HĐND địa phương. HĐND thực hiện 02 loại chức năng là “quyết định” và “giám sát”:

- HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định;

- HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND.

Như vậy, HĐND sẽ quyết định chính sách địa phương về việc thực hiện công vụ địa phương; đồng thời giám sát việc thực hiện các chính sách này. Trong khi đó, đối với các công vụ của Trung ương giao cho chính quyền địa phương thực hiện thì HĐND có trách nhiệm giám sát việc triển khai công việc này. Cách quy định như trên là phù hợp với những điểm mới trong quy định tại Điều 112 về chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương.

 

- Quy định về Ủy ban nhân dân: Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa các quy định về UBND trong Hiến pháp năm 1992 theo hướng: Ở cấp chính quyền nào có HĐND thì UBND ở nơi ấy phải do HĐND bầu ra và được xác định là “cơ quan chấp hành của HĐND”, “cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương”. Cụ thể, theo quy định tại Điều 114 Hiến pháp mới, “UBND ở cấp chính quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.” Tuy nhiên, quy định về UBND trong Hiến pháp mới cũng thể hiện sự đổi mới theo hướng: Ở những  đơn vị hành chính không được xác định là một cấp chính quyền địa phương, thì cơ quan quản lý hành chính ở nơi đó được thành lập như thế nào là do luật định. Về chức năng, nhiệm vụ của UBND, khoản 2 Điều 114 tiếp tục quy định “UBND tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐND”, đồng thời, có bổ sung nhiệm vụ “thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.”

2. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về chính quyền địa phương

Page 106: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Có thể nói, Hiến pháp năm 2013 về chính quyền địa phương kế thừa nhiều quy định của Hiến pháp năm 1992; đồng thời, bổ sung nhiều điểm mới giúp cho việc tiếp tục đổi mới thể chế về chính quyền địa phương. Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về chính quyền địa phương, trong thời gian tới cần thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau: 

- Xây dựng Luật về chính quyền địa phương

Luật về chính quyền địa phương cần quy định rõ các vấn đề sau:

- Luật cần xác định rõ việc thành lập cấp chính quyền ở vùng nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Nơi nào cần phải có cấp chính quyền (bao gồm cả HĐND và UBND); và nơi nào chỉ cần cơ quan hành chính (UBND). Việc xác định sự phân định này cần phải được cụ thể hóa thông qua các tiêu chí rõ ràng.

- Luật cụ thể hóa việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương. Để thể chế hóa khoản 2 Điều 112, trước hết cần nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để xác định rõ được các thẩm quyền nào cần được giao cho cơ quan Trung ương và thẩm quyền nào giao cho địa phương nhằm bảo đảm việc thực hiện phân cấp về thẩm quyền, trách nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau. 

- Luật cần cụ thể hóa quy định về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân. Thể chế hóa quy định này, cần nghiên cứu để làm rõ vấn đề: Ở những đơn vị hành chính không được xác định là một cấp chính quyền địa phương, thì cơ quan quản lý hành chính ở nơi đó được thành lập như thế nào? Có phải do dân bầu trực tiếp hay không?

- Xây dựng Luật về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt

Trọng tâm của Luật này là:

- Xác định rõ đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt là đơn vị thuộc cấp nào trong hệ thống phân cấp chính quyền ở nước ta. 

- Xác định rõ có bao nhiêu cấp chính quyền tại đơn vị kinh tế đặc biệt (một hoặc là hai), từ đó có cơ sở cho việc tổ chức chính quyền tại đơn vị kinh tế đặc biệt phù hợp với đặc điểm của từng địa phương này.

 

3. Xây dựng các luật liên quan

Cần nghiên cứu xây dựng Luật giám sát của HĐND. 

Như vậy, với vai trò thực hiện công vụ địa phương, HĐND sẽ quyết định chính sách địa phương về việc thực hiện công vụ địa phương; đồng thời, giám sát việc thực hiện các chính sách này. Trong khi đó, đối với các công vụ của Trung ương giao cho chính quyền địa phương thực hiện thì HĐND có trách nhiệm giám sát việc triển khai công việc này. Do đó, để bảo đảm việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương thì cần nghiên cứu xây dựng Luật giám sát của HĐND, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của công việc giám sát của HĐND, đồng thời phát huy được tính tự quản của địa phương.

Page 107: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Tóm lại, với việc quy định các nội dung về chính quyền địa phương theo hướng mở, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng nhiều văn bản pháp luật nhằm thể chế

hóa đầy đủ, toàn diện các quy định của Hiến pháp trong thời gian tới về vấn đề này, mà trước hết là việc xây dựng các văn bản pháp luật nêu trên.

Điều 120 Hiến pháp năm 1992 quy định như sau: Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước.

Điểm mới về chính quyền địa phương

Chương Chính quyền địa phương trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 có một số quy định mới rất quan trọng. Trao đổi với phóng viên Báo Đồng Nai về vấn đề này, đồng chí Trần Văn Tư, Ủy viên Ban TVTU, Chủ tịch HĐND tỉnh, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh,

cho biết:

- Các quy định trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 về chính quyền địa phương đã kế thừa nhiều quy định của Hiến pháp năm 1992, đồng thời bổ sung nhiều điểm mới “mở đường” cho việc tiếp tục đổi mới thể chế về chính quyền địa phương trong thời gian tới. Hiến pháp sửa đổi đã tạo cơ sở cho việc quy định mở về chính quyền địa phương, cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. Nếu coi Hiến pháp năm 1992 hướng tới đổi mới chính quyền ở Trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) thì Hiến pháp năm 2013 hướng tới đổi mới chính quyền địa phương (HĐND và UBND).

* Tính chất “quyền lực Nhà nước ở địa phương” của HĐND tiếp tục được khẳng định tại chương Chính quyền địa phương của Hiến pháp sửa đổi năm 2013. Ý kiến của đồng chí  về vấn đề này như thế nào?

- Tính chất “quyền lực Nhà nước ở địa phương” của HĐND tiếp tục được khẳng định tại Điều 113 Hiến pháp sửa đổi là một sự khẳng định nhất quán, dứt khoát và rõ ràng. Bởi vì tính chất “quyền lực Nhà nước” của HĐND xuất phát từ vị trí là cơ quan “đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Đồng thời cũng là thể hiện địa vị pháp lý của HĐND, một chủ thể mang tính đại diện của Nhân dân phải giữ vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, từ đó HĐND có đủ thẩm quyền để xem xét và quyết định các vấn đề lớn của địa phương theo quy định của pháp luật và theo phân cấp.

* Một trong những điểm mới rất quan trọng được quy định ở chương Chính quyền địa phương trong Hiến pháp năm 2013 là có sự xuất hiện “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt” do Quốc hội thành lập. Đồng chí có thể giải thích rõ hơn ý nghĩa của vấn đề này?

Page 108: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Hiến pháp sửa đổi đã quy định về mô hình tổ chức chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Theo đó, một trong những điểm mới rất quan trọng được Hiến pháp ghi nhận, được các tầng lớp trong xã hội đồng tình, dư luận trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm đó là có sự xuất hiện “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt” do Quốc hội thành lập. Điều này cho phép trong những trường hợp đặc biệt, sẽ có những đơn vị hành chính được Quốc hội thành lập có tổ chức, bộ máy đặc thù, gắn với điều kiện địa lý, không gian riêng không giống với các đơn vị hành chính ở nước ta như hiện nay theo Hiến pháp năm 1992. Việc tổ chức HĐND và UBND hiện nay đều giống nhau ở các loại đơn vị hành chính tạo ra sự cứng nhắc, ít phân biệt được sự khác nhau trong quản lý hành chính Nhà nước ở đô thị với nông thôn, miền núi, hải đảo và cũng không bảo đảm được tính tập trung cao từ Trung ương xuống địa phương.

“Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi từ Luật Tổ chức HĐND và UBND) sẽ được Chính phủ xây dựng để trình Quốc hội vào tháng 5-2015. Đối với cơ quan dân cử ở địa phương, hiện nay đang thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường tại 67 huyện, 483 phường của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đồng Nai là địa phương không thực hiện thí điểm nhưng từ thực tế hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp trên địa bàn tỉnh cho thấy, nếu không tổ chức HĐND cấp huyện, xã sẽ có những “khoảng trống” trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà HĐND các cấp này đang đảm nhận. Từ đó đặt ra vấn đề: Những khoảng trống này sẽ do cơ quan nào lấp đầy. Đây chính là một trong những điều tôi quan tâm trong xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương thời gian tới”.

* Đồng chí có thể giải thích rõ hơn về quy định: việc tổ chức cấp chính quyền địa phương được thực hiện phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định?

- Việc tổ chức cấp chính quyền địa phương được thực hiện phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, không quy định cụ thể trong Hiến pháp mà được quy định ở các đạo luật chuyên ngành. Theo tôi, quy định này là cần thiết, phù hợp đặc điểm và nội dung của Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước; phù hợp chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính, đẩy mạnh hội nhập; phù hợp với yêu cầu về đổi mới phương pháp xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Điều này tạo ra hướng mở trong việc tổ chức quyền lực ở địa phương trên nguyên tắc đảm bảo phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương nhưng tạo điều kiện để phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Câu 8: Hiến pháp năm 2013 quy định như thế nào về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đối với cử tri và Nhân dân?

Page 109: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Câu 8: CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

Theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của Đại biểu Quốc hội và  Đoàn đại biểu Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH có các chức năng nhiệm vụ chủ yếu như sau :

I- Đại biểu Quốc hội

1. Địa vị pháp lý : Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn địa diện cho nhân dân cả nước ; là người thay mặt nhân  dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội.

2. Tiêu chuẩn :

- Trung thành với Tổ quốc  và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hoá hiện dại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;

- Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu và chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật;

- Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ Đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;

- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân; lắng  nghe ý kiến của nhân dân, được  nhân dân tín nhiệm;

- Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.

3. Nhiệm kỳ đại biểu Quốc hội :

- Nhiệm kỳ đại biểu mỗi khoá Quốc hội bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của khoá Quốc hội đó đến kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá sau.

- Nhiệm kỳ của đại biểu Quốc hội được bầu bổ sung đến kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá sau.

4. Nhiệm vụ và quyền hạn của đại biểu Quốc hội :

- Chịu trách nhiệm trước cử tri, đồng thời chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình;

- Liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của chử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan; phải báo cáo trước cử tri  mỗi năm ít nhất một lần về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình;

- Gương mẫu trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân;

- Có nhiệm vụ tuyên truyền , phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản lý nhà nước;

Page 110: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Có nhiệm vụ tham gia các phiên họp toàn thể của Quốc hội, các cuộc họp của tổ đại biểu Quốc hội, của Đoàn đại biểu Quốc hội; thảo luận và biểu quyết các vấn dề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội;

- Có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước Quốc hội, dự án pháp lệnh ra trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo trình tự và thủ tục do Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định;

- Có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân tối cao. người bi chất vấn có trách nhiệm trả lời về những vấn đề mà dại biểu Quốc hội chất vấn. Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa ra thảo luận trước Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

- Có quyền kiến nghị với Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

- Có trách nhiệm tiếp công dân. Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại tố cáo của công dân, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người kiến nghị, khiếu nại, tố cáo biết; đôn đốc và  theo dõi việc giải quyết. Người có thẩm quyền giải quyết phải thông báo cho đại biểu Quốc hội về kết quả giải quyết kiến nghị, khiếu nại tố cáo đó trong thời hạn theo quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo;

- Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo không thoả đáng, đại biểu Quốc hội có quyền gặp người đứng đầu cơ quan hữu quan để tìm hiểu, yêu cầu xem xét lại. Khi cần thiết, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan hữu quan cấp trên của cơ quan đó giải quyết;

- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của  tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của công dân, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi trái pháp luật đó. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thông báo cho đại biểu Quốc hội biết việc giải quyết. Quá thời hạnh nói trên mà cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị không trả lời thì đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên, đồng thời báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét quyết định;

- Khi thực hiện nhiệm vụ đại biểu, đại biểu Quốc hội có quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân. người đứng dầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đó, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tiếp và đáp ứng những yêu cầu của đại biểu Quốc hội;

- Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ phải lập tức báo cáo dể Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định.

Page 111: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

- Có quyền tham dự kỳ họp của Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình được bầu, có quyền phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết;

- Đại biểu Quốc hội là thành viên của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, có trách nhiệm tham gia các phiên họp, thảo luận biểu quyết các vấn đề và tham gia các hoạt động khác thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội mà mình là thành viên;

- Đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách được dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc để thực hiện nhiệm vụ đại biểu. Cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi đại biểu làm việc có trách nhiệm tạo điều kiện dể đại biểu thực hiện nhiệm vụ.

 

II- Đoàn Đại biểu Quốc hội

Các Đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương hợp thành Đoàn đại biểu Quốc hội. Đoàn Đại biểu Quốc hội có Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn, có trụ sở, văn phòng giúp việc và có kinh phí hoạt động theo quy định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Đoàn Đại biểu Quốc hội có đại biểu hoạt động chuyên trách. Đại biểu Quốc hội trong Đoàn có nhiệm vụ thực hiện chương trình công tác và sự phân công của Đoàn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Đoàn Đại biểu Quốc hội

1. Nhiệm vụ :

- Phối hợp với Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc, Thường trực Hội Đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ở địa phương tổ chức để  Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri ;

- Tổ chức việc tiếp công dân của Đại biểu Quốc hội ; tiếp nhận, chuyển đơn, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân mà Đại biểu Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội đã chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết ; mời đại diện Hội Đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân  ở địa phương tham dự các buổi tiếp công dân của Đại biểu Quốc hội; trong trường hợp cần thiết thì mời đại diện của cơ quan hữu quan ở địa phương cùng tham dự để tiếp thu xử lý những vấn đề liên quan;

- Phối hợp với Thường trực Hội đống nhân dân, Ban Thường trực Uỷ ban mặt trận Tổ Quốc ở địa phương tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác theo yêu cầu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

- Tổ chức để Đại biểu Quốc hội thảo luận về dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác, dự kiến chương trình kỳ họp Quốc hội;

- Tổ chức để  đại biểu Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật, đấu tranh chống tham nhũng; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của địa phương ; khảo sát tình hình thực tế ở địa phương ; góp ý với địa phương về thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ; khi cần thiết, kết quả giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội được công bố trên các thông tin đại chúng;

- Phân công đại biểu Quốc hội trong Đoàn tham gia Đoàn công tác, Đoàn giám sát của Uỷ ban thường Vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội;

Page 112: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Tham gia ý kiến về việc giới thiệu đại biểu Quốc hội trong Đoàn ứng cử đại biểu Quốc hội khoá sau; phân công đại biểu Quốc hội trong Đoàn tham gia Đoàn giám sát về việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá sau, bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội ở địa phương;

- Mỗi năm hai lần, vào giữa năm và cuối năm, báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, và đại biểu Quốc hội, đồng thời thông báo với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

2. Nhiệm vụ của Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội :

- Tổ chức để các đại biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện các nhiệm vụ cảu đại biểu Quốc hội và nhiệm vụ của Đoàn đại biểu Quốc hội;

- Giữ mối liên hệ với Chủ Tịch Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội trong Đoàn, Thường trực Hội đống nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận Tổ Quốc  Việt Nam ở địa phương và Văn phòng Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội Việt Nam là người được cử tri Việt Nam trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu được bầu chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước. Thông qua các đại biểu và thông qua Quốc hội, nhân dân Việt Nam sử dụng quyền lực của mình để định đoạt các vấn đề của đất nước.

Địa vị pháp lý

Địa vị pháp lý của một đại biểu quốc hội được bắt đầu sau khi Quốc hội đã xác nhậntư cách đại biểu tại phiên họp đầu tiên của kỳ thứ nhất mỗi khóa Quốc hội. Nhiệm kỳ của đại biểu quốc hội được tính từ kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa đó đến kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa sau.

Trong số các đại biểu quốc hội, có những đại biểu làm việc theo chế độ chuyên trách và có những đại biểu làm việc theo chế độ không chuyên trách.

Số lượng đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách do Quốc hội quyết định.

Tiêu chuẩn

Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo luật định phải là công dân Việt Nam, từ đủ 21 tuổi trở lên, có quyền ứng cử, được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua hiệp thương nhân dân đưa vào danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội, có đủ số phiếu cần thiết để trở thành đại biểu Quốc hội trong cuộc tổng tuyển cử, và được Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội xác định là đủ tư cách làm đại biểu Quốc hội.

Điều 3 Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội quy định một đại biểu quốc hội phải có những tiêu chuẩn sau đây:

1. Trung thành với Tổ quốc và hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

Page 113: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh, chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật

3. Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu quốc hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước

4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm

5. Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.

Nhiệm vụ

Đại biểu quốc hội có nhiệm vụ tham gia các kỳ họp của Quốc hội, tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn như: lập hiến, lập pháp; quyết địnhchính sách đối nội, đối ngoại, các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; quyết định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân; giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước.

Trong kỳ họp, đại biểu quốc hội có nhiệm vụ tham gia đầy đủ các phiên họp và có quyền: thảo luận và quyết định chương trình kỳ họp; trình dự án luật và biểu quyết thông qua các dự án luật, các nghị quyết của Quốc hội; chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; tham gia bầu cử và có thể được bầu vào các chức danh Nhà nước, các cơ quan lãnh đạo, các tổ chức của Quốc hội.

Trong thời gian giữa hai kỳ họp, đại biểu quốc hội có nhiệm vụ tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu cử của mình, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước, báo cáo kết quả kỳ họp với cử tri, tuyên truyền thực hiện tốt  pháp luật.

Đại biểu còn có nhiệm vụ chuyển đơn thư khiếu nại tố cáo của nhân dân đến các cơ quan, tổ chức có liên quan, theo dõi và đôn đốc việc giải quyết; tham gia các hoạt động khảo sát, kiểm tra việc thi hành hiến pháp, pháp luật, các nghị quyết của Quốc hội, các văn bản dưới luật, tìm hiểu thực tế ở địa phương hoặc cơ sở để giúp cho việc thảo luận và tham gia quyết định các vấn đề tại kỳ họp của Quốc hội.

Quyền hạn

Quyền trình dự án luật

Đại biểu quốc hội có trình kiến nghị về luật, pháp lệnh; trình dự án luật, pháp lệnh theo trình tự do pháp luật quy định.

Quyền chất vấn

Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn.

Page 114: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Trong thời gian giữa hai kỳ họp, chất vấn được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn. Tùy theo nội dung và tính chất của chất vấn, Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể quyết định người bị chất vấn phải trả lời chất vấn trước Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, chất vấn được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn. Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa ra thảo luận trước Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Quyền bất khả xâm phạm và miễn tố

Đại biểu quốc hội được pháp luật bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Những hành vi cản trở đại biểu quốc hội thực hiện nhiệm vụ sẽ bị xử lý theo pháp luật.

Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội. Việc đề nghị bắt giam, truy tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định. Trong trường hợp đại biểu Quốc hội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội đó. Đại biểu Quốc hội bị Toà án kết án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Đại biểu Quốc hội không thể bị cơ quan, đơn vị nơi đại biểu làm việc cách chức, buộc thôi việc, nếu không được Uỷ ban thường vụ Quốc hội đồng ý.

Quyền được cung cấp thông tin

Đại biểu quốc hội được cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của Quốc hội và được quyền yêu cầu các cơ quan chức năng cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động của mình.

Bầu cử đại biểu quốc hội

Việc bầu cử đại biểu quốc hội được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Quyền bầu cử

Công dân nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người bị tước các quyền đó.

Quyền ứng cử

Công dân Việt Nam có quyền bầu cử, đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử theo các tiêu chuẩn được quy định trong Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội.

Page 115: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Quyền ứng cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thể hiện nguyện vọng của mình được ứng cử làm đại biểu Quốc hội. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử.

Pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội còn quy định tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn trong số các ứng cử viên bầu ra những người đại diện trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất

Công dân Việt Nam có quyền bầu cử, đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử theo các tiêu chuẩn được quy định trong Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội.

Các tổ chức bầu cử

Để phụ trách công tác bầu cử, các tổ chức bầu cử sau đây đã được thành lập:

* Ở cấp trung ương: Hội đồng bầu cử

* Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Ủy ban bầu cử

* Đơn vị bầu cử: Ban bầu cử

* Ở khu vực bỏ phiếu: Tổ bầu cử

Nhiệm kỳ hoạt động

Nhiệm kỳ của đại biểu mỗi khóa Quốc hội bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của khóa Quốc hội đó đến kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá sau. Đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm trướccử tri, đồng thời chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. Đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tuỳ mức độ phạm sai lầm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm.  Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc đưa ra Quốc hội bãi nhiệm hoặc cử tri nơi bầu ra đại biểu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc của cử tri nơi bầu ra đại biểu Quốc hội đó. Trong trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

Đoàn đại biểu quốc hội

Các đại biểu quốc hội được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương hợp thành Đoàn Đại biểu Quốc hội.

Đoàn Đại biểu Quốc hội có Trưởng đoàn, có thể có Phó trưởng đoàn để tổ chức hoạt động của đoàn, giữ mối liên hệ với Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan tổ chức khác ở địa phương về các vấn đề liên quan đến hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội.

Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và thư ký Đoàn Đại biểu Quốc hội là bộ phận giúp việc cho Đoàn Đại biểu Quốc hội.

Trước khi có Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội thì có chức danh Thư ký đoàn làm các công việc phục vụ Đoàn nhưng từ khi có Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội thì

Page 116: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

không còn chức danh thư ký nữa. Tổ chức Văn phòng Đoàn hiện nay (đến năm 2007) có 2 dạng sau:

- Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội (độc lập) - Văn phòng Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội - (Văn phòng chung. Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh)

Câu 9: “… Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (trích Lời nói đầu Hiến pháp năm 2013)

Câu 9.Mặc dù khẳng định tính tối cao của Hiến pháp, nhưng Hiến pháp Việt Nam lại chưa

thiết lập được một chế độ hoàn chỉnh để bảo vệ Hiến pháp. Cho đến nay, mặc dù lần sửa đổi Hiến pháp gần nhất vào năm 2001 đã thừa nhận việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng Việt Nam vẫn chưa có một chế độ bảo hiến hoàn chỉnh. Bài viết bàn về việc cần có một chế độ bảo hiến hoàn chỉnh. Theo đó, vì quyền lập hiến thuộc về nhân dân chứ không phải thuộc về Quốc hội.

Quyền lập hiến thuộc về nhân dânChế độ bảo hiến chỉ tồn tại khi Hiến pháp có ưu thế hơn so với thường luật. Ưu thế

đó dẫn đến hệ quả là có sự phân biệt quyền lập hiến và quyền lập pháp. Sự phân biệt này cũng dẫn đến việc phân cấp hiệu lực pháp lý giữa Hiến pháp và thường luật: Hiến pháp có hiệu lực pháp lý tối cao, thường luật phải hợp hiến. Do đó, việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp được tiến hành bởi những cơ quan và theo những thủ tục đặc biệt khác với cơ quan và thủ tục được áp dụng cho thường luật. Thường luật không thể sửa đổi được Hiến pháp và cũng không thể mâu thuẫn với Hiến pháp. Một đạo luật đi ngược lại với những điều khoản của Hiến pháp là một đạo luật bất hợp hiến và do đó không thể có hiệu lực. Như vậy, các hành vi của chính quyền bị giới hạn bởi Hiến pháp. Với đặc tính đó, vấn đề bảo hiến được phát sinh.

Tại sao Hiến pháp lại có hiệu lực pháp lý tối cao? Câu trả lời nằm ở vấn đề chủ thể của quyền lập hiến. GS. Nguyễn Văn Bông cho rằng, quyền lập hiến là quyền nguyên thuỷ vì thể hiện một cách toàn diện nhất chủ quyền quốc gia, vì quyền lập hiến chung quy là quốc gia tự ấn định cho mình quy tắc tổ chức và điều hành. Vì quyền lập hiến là quyền nguyên thuỷ nên chỉ có chủ thể của chủ quyền quốc gia mới có quyền lập hiến.

Nhưng ai là chủ thể của chủ quyền quốc gia? Hiến pháp là khuôn mẫu của dân chủ, tồn tại trong một chế độ dân chủ. Trong một chế độ dân chủ, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực, là lực lượng nắm chủ quyền. Nhà nước là tổ chức do nhân dân thành lập ra đại diện cho nhân dân để hành xử chủ quyền nhân dân. C.Mác viết: “Trong chế độ dân chủ, thì bản thân nhà nước chính trị, dưới hình thức mà nó hình thành bên cạnh nội dung đó và tự phân biệt với nội dung đó, chỉ là nội dung đặc thù của nhân dân, chỉ là hình thức tồn tại đặc biệt của nhân dân mà thôi”.

Vì nhân dân là chủ thể của chủ quyền quốc gia, mà quyền lập hiến là quyền nguyên thuỷ vì thể hiện toàn diện chủ quyền quốc gia nên nhân dân chính là chủ thể của quyền lập hiến. Thông qua việc hành xử quyền lập hiến, nhân dân thành lập ra Nhà nước, uỷ quyền cho Nhà nước, ấn định những cung cách tổ chức và điều hành Nhà nước.

Page 117: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Hiến pháp Mỹ tuyên bố trong lời nói đầu: “Chúng tôi, nhân dân Hoa Kỳ... quyết tâm chấp thuận và thiết lập bản Hiến pháp này của Hợp chủng quốc”. Hiến pháp Ireland 1937 mở đầu: “Chúng tôi, nhân dân Ireland... chấp thuận chế định và thiết lập bản Hiến pháp sau đây"; Hiến pháp CHLB Đức: “Nhân dân Đức... đã lập thành Hiến pháp này”; Hiến pháp Liên bang Nga: “Chúng tôi, nhân dân các dân tộc Liên bang Nga... chấp nhận bản Hiến pháp dưới đây của Liên bang Nga”; Hiến pháp Hy Lạp: “Chúng tôi, nhân dân Cộng hoà Hy Lạp, thông qua người đại diện quyền lực của chúng tôi chấp nhận bản Hiến pháp này”. Lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam năm 1946 cũng ghi nhận: “Được quốc dân trao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội nhận thấy rằng…”.

K.C.Wheare nhận định: “Sự tối thượng pháp lý của Hiến pháp được dựa trên ý nguyện của nhân dân”. Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, quyền lập hiến không bị giới hạn bởi luật lệ nào, khai sinh ra các quyền khác. “Vì quyền lập hiến ấn định và tổ chức các quyền khác, vì các quyền khác đi từ quyền lập hiến, hậu quả đương nhiên là tính cách ưu tiên của quyền lập hiến”. Quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp là những quyền phái sinh từ quyền lập hiến. Các quyền đó phải được hành xử trong khuôn khổ do quyền lập hiến ấn định.

Do đó, chủ quyền của Nhà nước phái sinh từ chủ quyền của nhân dân. Với ý nghĩa như vậy, C.Mác nhấn mạnh: “Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua, mà ngược lại, chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền nhân dân”. Bởi vậy, ý chí của nhân dân phải được tôn trọng hơn ý chí của Nhà nước. Ba ngành quyền lực nhà nước không được mâu thuẫn với quyền lập hiến. Haminton lập luận: “Hoạt động của kẻ thừa nhiệm sẽ trở thành vô hiệu nếu đi ngược lại sự uỷ thác, đó là quan điểm đặt trên những nguyên tắc hết sức minh bạch. Do đó, mọi hoạt động lập pháp đi ngược lại Hiến pháp không thể có hiệu lực”. “Hiến pháp phải được tôn trọng hơn quy pháp, hơn ý muốn của cơ quan thừa nhiệm nhân dân”.

Điều 146 của Hiến pháp Việt Nam hiện hành đã đặt Hiến pháp ở hệ cấp tối thượng: “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản khác phải phù hợp với Hiến pháp”. Tuy nhiên, xét kỹ vấn đề chúng ta thấy có điểm mâu thuẫn trong tư duy lập hiến ở đây: mặc dù chúng ta đặt Hiến pháp ở hệ cấp pháp lý tối cao nhưng lại quy định Quốc hội có quyền “làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp” (Điều 84). Như vậy, dường như chúng ta coi Quốc hội là chủ thể của quyền lập hiến và không có sự phân biệt chủ thể của quyền lập hiến và chủ thể của quyền lập pháp. Trong khi đó, các Hiến pháp 1946, 1959 - những bản Hiến pháp được soạn thảo dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết vấn đề này rất thấu đáo. Theo các hiến pháp này, Quốc hội chỉ có quyền lập pháp: “Nghị viện nhân dân… đặt ra các pháp luật” (Hiến pháp 1946, Điều 23); “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Hiến pháp 1959, Điều 44). Từ Hiến pháp 1980 đến Hiến pháp hiện hành, Quốc hội được quy định có quyền lập hiến. Nếu chủ thể của quyền lập hiến và quyền lập pháp là một thì tại sao Hiến pháp lại có hiệu lực pháp lý tối cao? Nếu như không có sự phân biệt giữa chủ thể của quyền lập hiến và chủ thể của quyền lập pháp thì cũng không thể có sự phân biệt hệ cấp pháp lý giữa Hiến pháp và thường luật.

Hơn nữa, nếu như luật pháp là văn bản của Nhà nước thì Hiến pháp là văn bản của nhân dân. Cho nên nhân dân phải có quyền quyết định trong việc thiết lập cũng như việc sửa đổi Hiến pháp. Một trong những hình thức để nhân dân thể hiện ý chí quyết định của

Page 118: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

mình là bỏ phiếu trưng cầu dân ý. Trong khi đó, Hiến pháp hiện hành của chúng ta tại Điều 147 quy định “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp”  và hoàn toàn không quy định việc sửa đổi Hiến pháp phải được đem trưng cầu dân ý.

 Có ý kiến cho rằng, nhân dân là người phân công quyền lực: “Nhân dân, thông qua bản Hiến pháp, uỷ quyền cho Nhà nước, các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước”. Điều này rất đúng ở nhiều nước khi nhân dân được coi là chủ thể của quyền lập hiến. Về nguyên tắc là như vậy, nhưng theo Hiến pháp Việt Nam, Quốc hội chứ không phải nhân dân là người nắm quyền lập hiến. Hiến pháp là một văn bản phân công quyền lực nhà nước. Cho nên chỉ có chủ thể của quyền lập hiến mới là người phân công quyền lực nhà nước. Nếu coi nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến thì đúng là nhân dân là chủ thể phân công quyền lực. Nhưng ở Việt Nam Quốc hội nắm quyền lập hiến nên chính Quốc hội là người phân công thực hiện quyền lực nhà nước. Như vậy, không thể có một cơ quan nào có thể đứng trên Quốc hội để phân xử hành vi của Quốc hội[. Lập luận này của tôi đã được phản biện rằng: “Cơ chế này xem xét, giải quyết tính hợp hiến không phải chỉ với tư cách một cơ quan nào đó, mà là dựa trên Hiến pháp, nhân danh Hiến pháp do nhân dân lập ra. Ở đây không nên đặt vấn đề một cách có phần cứng nhắc là ai đứng cao hơn ai, mà Hiến pháp mới là đứng cao nhất, tối thượng, tất cả đều phải tuân thủ”. Đúng vậy, nhưng hiến pháp chỉ tối thượng khi hiến pháp được thiết lập bởi quyền lập hiến của nhân dân. Chỉ khi nào quyền lập hiến thuộc về nhân dân thì mới đúng là không có sự “ai đứng cao hơn ai, mà hiến pháp mới là đứng cao nhất”. Nhưng nếu quy định quyền lập hiến thuộc về Quốc hội thì không thể dung hợp được với chân lý này vì quyền lập hiến thuộc về Quốc hội. Cho nên không thể có một cơ quan nào có thể được đặt ra trong khung cảnh Hiến pháp Việt Nam hiện hành để xem xét về hành vi của Quốc hội. Điều này giải thích cho thực tế là đến hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có một cơ quan chuyên kiểm tra tính hợp hiến của quyền lực nhà nước nói chung và quyền lập pháp của Quốc hội nói riêng, tức là chưa có một chế độ bảo hiến hoàn chỉnh.

Do đó, thiết nghĩ rằng, để thiết lập cơ sở hiến pháp hoàn chỉnh cho chế độ bảo hiến ở Việt Nam, chúng ta cần trở lại những giá trị của Hiến pháp 1946: trong lời nói đầu, Hiến pháp phải tuyên bố nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, trong Hiến pháp cần quy định Quốc hội chỉ có quyền lập pháp; và việc sửa đổi Hiến pháp phải được đem trưng cầu dân ý hoặc theo một thủ tục khác thể hiện được rằng quyền lập hiến thuộc về nhân dân.

Dân quyền trong hiến pháp Sự vi phạm hiến pháp phổ biến nhất là sự vi phạm của công quyền đến các quyền

hiến định của công dân. Định chế bảo hiến sinh ra để hạn chế chính quyền khỏi sự xâm phạm đến quyền của công dân. Cho nên định chế bảo hiến chỉ có thể tồn tại trên cơ sở các quy định về quyền công dân trong hiến pháp.

Việc ghi nhận dân quyền có tiền lệ ở Anh, nhưng việc ghi nhận dân quyền trong Hiến pháp lại khai sinh ở Bắc Mỹ. Cuối thế kỷ 18, một số bang mới giành được độc lập tại Bắc Mỹ đã thiết lập những bản hiến pháp thành văn, và ở đầu hiến pháp có đặt một bản tuyên ngôn dân quyền. Bản tuyên ngôn dân quyền đầu tiên trong lịch sử lập hiến thế giới do Quốc hội của tiểu bang Virgina biểu quyết ngày 12/6/1776. Trong Hiến pháp của Liên bang Hoa Kỳ 1787 không quy định về dân quyền (trừ quyền chính trị). Năm 1791, để bổ khuyết điều đó, Quốc hội Mỹ đã thông qua 10 tu chính án có thể coi là tuyên ngôn

Page 119: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

dân quyền của Mỹ. Sau khi được khai sinh ở Mỹ, làn sóng quy định dân quyền trong hiến pháp toả rộng ra các nước trên thế giới, nhất là ở Pháp.

Đáng lưu ý là đa số hiến pháp các nước ghi nhận dân quyền ở lời nói đầu của hiến pháp dưới hình thức một bản tuyên ngôn nhân quyền. Điều này phản ánh tư tưởng nhân quyền là tiền đề của hiến pháp và dân quyền phải được quy định trên cơ sở nhân quyền; dân quyền là sự xác lập về mặt pháp lý nhân quyền. Tuyên ngôn nhân quyền trong lời nói đầu của nhiều hiến pháp có giá trị pháp lý như hiến pháp, thậm chí còn cao hơn hiến pháp. Duguit, sống dưới thời Cộng hoà III của Pháp cho rằng, bản Tuyên ngôn 1789 có một giá trị riêng biệt, do ở những điều kiện xung quanh chấp thuận nó và giá trị đó là môt giá trị siêu hiến, khiến cho nó còn sống khi mà Hiến pháp 1789 không còn giá trị nữa, và vẫn còn được áp dụng mãi mãi. Phần mở đầu Hiến pháp đệ ngũ Cộng hoà Pháp 1958 viết: “Nhân dân Pháp long trọng tuyên bố trung thành với bản Tuyên ngôn nhân quyền năm 1789”. Điều này phản ánh quan niệm về hiệu lực pháp lý trên hiến pháp của tuyên ngôn nhân quyền Pháp.

Hiến pháp Việt Nam hiện hành có một chương riêng quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Chúng ta cũng thể hiện quan niệm quyền công dân xuất phát từ nhân quyền: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” ( Điều 50).

Tuy nhiên, có thể nói rằng, các quy định của Hiến pháp về các quyền cơ bản của công dân chưa tạo dựng được một cơ sở vững chắc cho việc thiết lập chế độ bảo hiến. Nếu như các quyền con người thể hiện ở quyền công dân thì quyền công dân phải là những quyền tự nhiên vốn có của con người mà nhà nước phải thừa nhận.  Đọc các quy định của Hiến pháp 1992 về quyền công dân có thể có cảm tưởng rằng dân quyền không phải là quyền vốn có do Tạo hoá ban cho con người và nhà nước phải thừa nhận mà do Nhà nước ban cho người dân. Quy định về quyền công dân thì phải đặt công dân ở vị trí chủ thể. Nhưng nhiều quy định về dân quyền trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành đa phần là đặt nhà nước ở vị trí chủ thể, còn công dân thì như là đối tượng được ban cho quyền chứ không phải được thừa nhận quyền. Trong 33 điều của chương V của Hiến pháp Việt Nam hiện hành về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Nhà nước - với tư cách là chủ thể xuất hiện hơn 20 lần. Những công thức thường được áp dụng là: “Nhà nước bảo đảm...”; “Nhà nước... có kế hoạch...”; “Nhà nước ban hành...”; “Nhà nước quy định”; “Nhà nước giao...”; “Nhà nước có chính sách...”; “Nhà nước tạo điều kiện...”; “Nhà nước bảo hộ...”.

Để có thể làm cơ sở cho chế độ bảo hiến, những quy định về dân quyền trong hiến pháp phải được sử dụng bởi công dân và cơ quan áp dụng pháp luật. Nhưng các quy định về dân quyền trong Hiến pháp Việt Nam không được toà án viện dẫn trong xét xử, và công dân cũng không viện dẫn đến Hiến pháp để bảo vệ quyền của mình trước toà. Chính vì vậy, những quy định về dân quyền trong Hiến pháp mặc dù nhiều nhưng còn xa lạ với người dân. Sở dĩ như vậy là vì cách quy định dân quyền như trong Hiến pháp của chúng ta rất khó thực hiện. Về nguyên tắc, các quyền công dân phải được xác định kèm theo là nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước. Nhưng điều chỉnh về dân quyền mà quy định “Nhà nước... có kế hoạch...", “Nhà nước ban hành...”; “Nhà nước tạo điều kiện...”; ‘Nhà nước bảo hộ...” thì dường như không phải là xác định nghĩa vụ của nhà nước mà là quyền của nhà nước. Quy định như vậy đã đặt Nhà nước ở vị trí lợi thế so với công dân: Hiến pháp đã vì Nhà nước chứ chưa thực sự vì người dân, nên những quy định về dân quyền trong

Page 120: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Hiến pháp mới chỉ dừng lại ở tuyên ngôn của Nhà nước mà ít được người dân sử dụng để bảo vệ mình.

 Muốn cho quyền hiến định của công dân có thể thực hiện được trên thực tiễn, và được công dân sử dụng để bảo vệ mình thì việc quy định về dân quyền phải theo nguyên tắc xác định dân quyền là khu vực cấm đối với công quyền, công quyền phải thừa nhận dân quyền chứ không phải ban cho công dân quyền cơ bản. Chẳng hạn, Tu chính án thứ tư của Hiến pháp Mỹ quy định: “Quyền của người dân được an toàn về thân thể, nhà ở, giấy tờ và tai sản, chống lại mọi khám xét và bắt giữ vô căn cứ, sẽ không bị vi phạm, và không được có một giấy phép khám xét nào, trừ phi có lý do xác đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận và đặc biệt là phải miêu tả địa điểm khám xét, những người và vật sẽ bị bắt giữ”. Nhìn chung, tôi cho rằng, trong số các quy định của Hiến pháp Việt Nam về dân quyền thì các quy định về quyền tự do cá nhân khả thi vì được ấn định theo nguyên tắc xác định các quyền này như là khu vực cấm đối với công quyền. Ví dụ: “Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân” (Điều 71);  “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép” (Điều 73)...

Trong khi các quy định về quyền tự do cá nhân khá hợp lý thì các quy định về quyền của công dân trong các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội mặc dù rất nhiều nhưng khó thực hiện trên thực tiễn và do đó cũng khó có làm cơ sở cho việc tồn tại một chế độ bảo hiến. Để có thể làm cơ sở cho chế độ bảo hiến thì trước tiên chúng ta phải điều chỉnh lại các quy định nói trên theo nguyên tắc coi quyền công dân là quyền mà nhà nước phải thừa nhận và là một khu vực cấm đối với công quyền chứ không phải là những quyền nhà nước ban phát cho công dân. Xin đưa một số điển hình: thay vì quy định "Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động" (Điều 55) chúng ta có thể sửa thành “Quyền lao động của công dân không thể bị xâm phạm”. Thay vì quy định “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân” (Điều 58) chúng ta có thể sửa thành “Không ai được xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân...”.

Tóm lại, trước khi đi tìm kiếm một mô hình bảo vệ hiến pháp phù hợp với Việt Nam thì việc trước tiên phải làm là nghiên cứu để hoàn thiện cơ sở của chế độ bảo hiến: quyền lập hiến thuộc về nhân dân và quy định khả thi hơn về dân quyền trong Hiến pháp./.

)Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời

sống chính trị của mỗi quốc gia. Bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội là nhu cầu cần thiết, tất yếu tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp chính là nguồn gốc phát sinh vấn đề bảo vệ, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và là cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến. Bởi lẽ, cơ chế bảo hiến chỉ tồn tại khi Hiến pháp có ưu thế hơn so với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Trước đây, trong một số tài liệu pháp lý, hoạt động bảo hiến được hiểu là sự giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật. Đến nay, khái niệm này được hiểu rộng hơn, theo đó hoạt động bảo hiến không chỉ là sự kiểm tra tính

Page 121: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật mà còn bao gồm nhiệm vụ bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp như là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc gia, bảo đảm các quyền hiến định, mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước. Khái niệm cơ chế bảo hiến vì vậy cũng có nội hàm rộng hơn, bao gồm toàn bộ các thiết chế, nguyên tắc và biện pháp tổ chức và thực hiện các hoạt động giải thích Hiến pháp; kiểm tra và giám sát hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân; phát hiện và giải quyết các vấn đề phát sinh về thẩm quyền giữa cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền,v.v... 

Tư tưởng về giám sát Hiến pháp xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào đầu thế kỷ XVII và gắn liền với hoạt động của Hội đồng cơ mật. Hội đồng này có quyền tuyên bố văn bản do cơ quan lập pháp của các nước thuộc địa Anh ban hành trái với luật của Nghị viện Anh hay pháp luật chung thì không thể có hiệu lực và phải bị bãi bỏ. Giám sát Hiến pháp theo nghĩa hiện hành lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ, nhưng không phải trên cơ sở Hiến pháp mà từ án lệ. Năm 1803, Chánh án Toà án tối cao Mỹ đã phán quyết xác lập quyền của Toà án tối cao được xem xét tính hợp hiến của bất kỳ đạo luật nào của Nghị viện liên bang hay của cơ quan lập pháp các tiểu bang bằng tuyên bố Hiến pháp liên bang là đạo luật cao nhất của đất nước, vì vậy bất cứ văn bản luật nào do Nghị viện ban hành trái với Hiến pháp có thể bị Toà án tuyên bố là không hợp hiến. Ở châu Âu, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, xuất hiện một mô hình cơ quan bảo hiến do học giả người Áo - Hans Kelsen sáng tạo. Theo đó, hoạt động bảo hiến được tách khỏi hệ thống tư pháp và do một cơ quan chuyên trách là Toà án Hiến pháp thực hiện. Ngoài ra, cùng với sự phát triển của lịch sử, một số mô hình tổ chức cơ quan bảo hiến khác cũng được hình thành tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia.

Căn cứ vào vai trò, tính chất của cơ quan bảo hiến trong bộ máy nhà nước, thẩm quyền của cơ quan bảo hiến, trình tự, thủ tục trong việc xem xét vụ việc và ra phán quyết, hệ quả pháp lý từ quyết định của cơ quan bảo hiến,… có thể khái quát một số mô hình cơ quan bảo hiến sau đây:

Mô hình bảo hiến kiểu Mỹ: Đây là mô hình giám sát tư pháp Hiến pháp và là mô hình bảo hiến phi tập trung. Trong mô hình này, thẩm quyền giám sát hiến pháp được giao cho các Toà án có thẩm quyền chung thực hiện. Theo đó, bất kỳ Toà án tư pháp nào cũng có quyền xem xét tính hợp hiến của đạo luật được Quốc hội thông qua khi đạo luật đó được áp dụng để giải quyết vụ việc cụ thể tại Toà án. Điều này có nghĩa là việc khởi kiện tại Toà án là tiền đề để cơ quan này xem xét tính hợp hiến của đạo luật. Trong trường hợp có đủ căn cứ cho rằng quy định của đạo luật là không phù hợp với quy định của Hiến pháp, Toà án sẽ tuyên bố đạo luật đó là vi hiến. Quyết định của Toà án có hiệu lực bắt buộc đối với các bên trong vụ kiện và đối với Toà án cấp dưới. Quyết định của Toà án tối cao là chung thẩm và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các Toà án tư pháp. Tuy nhiên, Toà án chỉ có quyền tuyên bố một đạo luật được Quốc hội  thông qua là vi hiến, không có quyền huỷ bỏ hoặc tuyên bố đạo luật đó vô hiệu. Vì vậy, đạo luật bị Toà án tuyên bố là vi hiến vẫn còn hiệu lực trên thực tế, nhưng không được các Toà án áp dụng để giải quyết các vụ việc cụ thể tại Toà án. Kể từ khi xuất hiện ở nước Mỹ năm 1803, đến nay mô hình này đã được nhiều nước áp dụng như Canađa, Mêhicô, Thụy Điển, Áchentina, Hy Lạp,v.v...

Page 122: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu: Đây là mô hình giám sát hiến pháp tập trung, xuất hiện đầu tiên ở Áo vào năm 1920 và được nhiều quốc gia Châu Âu áp dụng. Khác với mô hình bảo hiến kiểu Mỹ, mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu không trao quyền giám sát hiến pháp và bảo vệ hiến pháp cho hệ thống Toà án tư pháp mà giao chức năng này cho một cơ quan chuyên trách - được gọi là Toà án hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến. Cơ quan này không thuộc hệ thống cơ quan tư pháp, hành pháp hay lập pháp mà tồn tại một cách tương đối độc lập với chức năng là giám sát hiến pháp và bảo vệ hiến pháp. Theo mô hình này, việc giám sát hiến pháp vừa là giám sát cụ thể (gắn liền với việc giải quyết một vụ việc cụ thể), vừa là giám sát trừu tượng (theo đề nghị của chủ thể có thẩm quyền như Tổng thống, Thủ tướng, nghị sĩ, Thanh tra Quốc hội, v.v...mà không gắn liền với việc giải quyết một vụ việc cụ thể); thực hiện cả giám sát trước (đạo luật chưa được Quốc hội thông qua hoặc đã thông qua nhưng chưa được công bố, chưa có hiệu lực pháp luật) và cả giám sát sau (đạo luật đã có hiệu lực pháp luật). Quyết định của cơ quan bảo hiến là chung thẩm và có hiệu lực bắt buộc đối với mọi chủ thể.  

Mô hình bảo hiến hỗn hợp Âu - Mỹ: Đây là mô hình kết hợp cả hai mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu và mô hình bảo hiến kiểu Mỹ, được áp dụng ở Bồ Đào Nha, Côlômbia, Êcuađo, Goatêmala, Pêru, Hy Lạp, Inđônêxia, Đài Loan, Braxin, Vênêxuêla,… Theo mô hình này, thẩm quyền giám sát hiến pháp và bảo vệ hiến pháp được trao cho cả cơ quan bảo hiến chuyên trách (Tòa án hiến pháp) và các Toà án thuộc hệ thống tư pháp. 

Mô hình cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan bảo hiến: Hiện nay có một số quốc gia không thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách, không trao quyền bảo hiến cho các cơ quan tư pháp mà giao thẩm quyền giám sát Hiến pháp cho một số cơ quan nhà nước khác nhau như Nghị viện, Hội đồng nhà nước hoặc một cơ quan đặc biệt của Nghị viện,... Các quốc gia theo mô hình này bao gồm Phần Lan, Baren, Côoét, Ôman, Cônggô, Êtiôpia, Ghinê-Bítxao, Dimbabuê, Brunây, Mianma, Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam, Lào, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Pakixtan,… 

Hoạt động bảo hiến ở Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước coi trọng, bởi vì bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội chính là bảo vệ đường lối của Đảng, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Gắn liền với sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946, hoạt động bảo vệ Hiến pháp tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 với quy định cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật.

Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp1992, vấn đề giám sát và bảo vệ Hiến pháp được quy định trong nhiều đạo luật quan trọng như Luật Tổ chức Quốc hội (năm 2001), Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (năm 2003), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Theo những quy định này, hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam về cơ bản gồm việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; giám sát văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế; giải thích Hiến pháp; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; v.v... Trách nhiệm giám sát và bảo vệ Hiến pháp được trao cho nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đó là cơ quan quyền lực nhà nước, Chủ tịch nước, các cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp. Trong đó, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có chức năng giám sát

Page 123: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, Quốc hội là trung tâm của thiết chế bảo hiến ở Việt Nam. Giám sát của Quốc hội mang tính quyền lực nhà nước, hướng tới mọi đối tượng, mọi chủ thể trong xã hội và bao trùm tất cả các lĩnh vực, các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp. Kết quả của hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp trong thời gian qua đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm để các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phù hợp với Hiến pháp, thống nhất với hệ thống pháp luật, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp theo các quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế. Cụ thể:

Một là, việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền mà không giao cho một cơ quan chuyên trách có chức năng bảo vệ Hiến pháp. Điều này dẫn đến tình trạng không xác định rõ phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan nên hoặc là đùn đẩy trách nhiệm hoặc chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp;

Hai là, việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp theo cơ chế hiện hành chủ yếu dựa vào việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, trong khi đó giám sát tối cao của Quốc hội phụ thuộc vào các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Vì thế không tránh khỏi sự ỷ lại trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo hiến;

Ba là, chúng ta chưa có một cơ chế hữu hiệu nào để giám sát chính hoạt động của Quốc hội và giám sát tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành cũng như việc giải quyết và hệ quả pháp lý trong trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu trái với Hiến pháp. Mặc dù Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định “theo đề nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu Quốc hội, Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ luật, nghị quyết của Quốc hội trái Hiến pháp”. Tuy nhiên, cho đến nay, Quốc hội vẫn chưa bãi bỏ một văn bản luật, nghị quyết nào của mình với lý do văn bản đó trái Hiến pháp, mặc dù việc sửa đổi, bổ sung luật diễn ra liên tục hàng năm; 

Bốn là, thẩm quyền huỷ bỏ, đình chỉ văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong thực tiễn hầu như chưa được áp dụng. Hình thức kiến nghị thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa thực sự đem lại hiệu quả vì pháp luật chưa quy định cụ thể trình tự, thủ tục xử lý văn bản trái pháp luật; 

Năm là, Hiến pháp Việt Nam không có hiệu lực áp dụng trực tiếp. Các cơ quan, tổ chức khi áp dụng pháp luật thường không viện dẫn quy định của Hiến pháp để giải quyết một vụ việc cụ thể, người dân cũng ít khi viện dẫn điều khoản của Hiến pháp để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm khi khởi kiện hoặc khiếu nại;

Sáu là, các quy định của pháp luật về giám sát và bảo vệ Hiến pháp còn thiếu, một số lĩnh vực còn chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng, chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Hơn nữa, những quy định này lại nằm rải rác trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, từ Hiến pháp, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Luật hoạt

Page 124: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

động giám sát của Quốc hội, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đến nội quy, quy chế hoạt động của các cơ quan của Quốc hội… Điều này phần nào đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp.

Từ những hạn chế, bất cập trong việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp trên đây cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu để đề xuất giải pháp hữu hiệu phục vụ việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, mục đích của Nhà nước pháp quyền là bảo vệ các quyền của công dân được Hiến pháp ghi nhận, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong khi đó, cơ chế bảo hiến lại chính là bảo đảm để các quyền của công dân không bị vi phạm từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước và là bảo đảm để mọi chủ thể phải chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

Hiện nay trong giới khoa học pháp lý, xung quanh vấn đề hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam như thế nào, tổ chức theo mô hình nào còn có nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể là:

Quan điểm thứ nhất cho rằng Việt Nam cần thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách (Toà án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến) để thực hiện chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập của cơ chế bảo hiến hiện nay. Theo quan điểm này, cơ quan bảo hiến chuyên trách do Quốc hội thành lập, có vị trí độc lập với chính Quốc hội và các cơ quan thực hiện chức năng hành pháp, tư pháp. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này là xem xét, phán quyết về tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; xem xét, phán quyết đối với hành vi của cán bộ, công chức nhà nước xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương; xem xét tính hợp hiến của cuộc trưng cầu ý dân, của cuộc bầu cử; giải thích Hiến pháp. Tuy nhiên, đối với văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành thì những người theo quan điểm này cho rằng cơ quan bảo hiến chuyên trách không có quyền huỷ bỏ mà chỉ có quyền đình chỉ thi hành (hoặc tuyên bố không áp dụng) nếu văn bản đó trái Hiến pháp và đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định; 

Quan điểm thứ hai cho rằng, cơ quan bảo hiến chuyên trách chỉ cần thiết cho một Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, khi mà quyền tư pháp độc lập và ngang bằng với quyền lập pháp. Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nên không thể có một cơ quan nào đứng trên Quốc hội để phán xử hành vi của Quốc hội. Vì vậy, quan điểm này cho rằng không nên thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách mà trao cho hệ thống cơ quan tư pháp (cụ thể là Toà án) chức năng kiểm soát lập pháp và hành pháp. Theo đó, trong một vụ việc cụ thể, công dân có thể yêu cầu Toà án xem xét tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật sẽ được áp dụng đối với mình; nếu Toà án cho rằng yêu cầu này là có căn cứ thì có quyền từ chối áp dụng văn bản đó và kiến nghị cơ quan đã ban hành văn bản để có cách thức xử lý. Như vậy, Toà án không có quyền trực tiếp huỷ bỏ văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ tuyên bố không áp dụng văn bản đó trong từng trường hợp cụ thể. Cùng với thẩm quyền này, Toà án cũng được trao thẩm quyền giải thích Hiến pháp;

Quan điểm thứ ba cho rằng, một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng cơ chế bảo hiến chuyên trách là phải có một hệ thống tư pháp phát triển, trong sạch, một đội

Page 125: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

ngũ chuyên gia pháp luật có bản lĩnh chính trị, chí công vô tư, có trình độ hiểu biết pháp luật, đồng thời, ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân phải cao… Vì vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay, chưa nên thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách mà cần tiếp tục duy trì cơ chế bảo hiến hiện hành. Theo đó, chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền cùng thực hiện, trong đó đặc biệt đề cao vai trò giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan của Hội đồng nhân dân. Quan điểm này cho rằng, cần tiếp tục duy trì và tăng cường hiệu quả của cơ chế bảo hiến hiện hành như tăng cường công tác thẩm định, thẩm tra, xem xét, cho ý kiến trước khi thông qua luật, pháp lệnh và công tác kiểm tra, giám sát văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực để phát hiện và xử lý kịp thời văn bản trái Hiến pháp.

Qua nghiên cứu cơ chế bảo hiến của các nước trên thế giới và cơ chế bảo hiến ở Việt Nam thấy rằng, không có một mô hình cơ chế bảo hiến chung nào để áp dụng cho tất cả các quốc gia, cả về hình thức và phương thức thực hiện, cả về tính chất và giá trị pháp lý của phán quyết của cơ quan có chức năng bảo vệ Hiến pháp. Chúng tôi cho rằng, việc tìm kiếm mô hình nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở nước ta phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây: 

Một là, việc hoàn thiện cơ chế bảo hiến phải quán triệt và phù hợp với những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong đó, những đặc điểm quan trọng nhất là: tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải theo nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đề cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ đồng thời với tăng cường kỷ cương, kỷ luật; bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; Nhà nước tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; bảo đảm sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;

Hai là, kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng về hoàn thiện cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp, thực hiện chủ trương đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Vì vậy, giám sát và bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội chính là bảo vệ đường lối của Đảng, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Và như vậy, việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng chính là góp phần tiếp tục nghiên cứu để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; 

Ba là, việc hoàn thiện cơ chế bảo hiến phải dựa trên cơ sở kế thừa, phát huy những ưu điểm của cơ chế bảo hiến hiện hành, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài để tìm ra cách thức, biện pháp bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng, chống lại mọi sự vi phạm Hiến pháp có thể xảy ra và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội của nước ta.

Trên cơ sở kế thừa, phát triển những ưu điểm của cơ chế bảo hiến hiện hành và tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Việt Nam có thể thiết lập một mô hình bảo

Page 126: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

hiến đặc trưng của mình, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước. Mô hình cơ quan bảo hiến chuyên trách (được gọi là Toà án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến) với chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp là một trong những thiết chế bảo vệ Hiến pháp khá hiệu quả, được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Để làm việc này, cần nghiên cứu cụ thể, có hệ thống các vấn đề như vị trí, tính chất của cơ quan bảo hiến và mối quan hệ giữa cơ quan này với Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan bảo hiến; cơ cấu tổ chức của cơ quan bảo hiến; thành viên của cơ quan bảo hiến; trình tự, thủ tục hoạt động của cơ quan bảo hiến; phương thức hoạt động của cơ quan bảo hiến; hiệu lực pháp lý của các phán quyết của cơ quan bảo hiến,... Cụ thể:

Vị trí, tính chất của cơ quan bảo hiếnCơ quan bảo hiến chuyên trách có thể được gọi là Toà án Hiến pháp hoặc Hội đồng

bảo hiến. Chức năng của cơ quan bảo hiến là giám sát và bảo vệ Hiến pháp, trong đó chủ yếu là giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật và hành vi của các cơ quan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước. Chính vì vậy, cơ quan bảo hiến phải có vị trí độc lập trong mối quan hệ với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Cơ quan này do Quốc hội thành lập nhưng lại không thuộc Quốc hội, cơ quan hành pháp hoặc tư pháp. Chỉ trên cơ sở bảo đảm vị trí độc lập của cơ quan bảo hiến mới ràng buộc, thúc đẩy trách nhiệm và bảo đảm tính khách quan của cơ quan này trong hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp. Cơ quan bảo hiến chuyên trách vừa có tính chất tư pháp (xem xét, phán quyết văn bản trái Hiến pháp và hành vi vi hiến), vừa có tính chất chính trị, tham vấn (kiến nghị biện pháp nhằm bảo đảm cho các văn bản của Quốc hội, các cơ quan nhà nước khác ban hành phù hợp với Hiến pháp). 

Thẩm quyền và phương thức hoạt động của cơ quan bảo hiến Để cơ quan bảo hiến hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, cần trao cho cơ quan này một

số thẩm quyền sau đây:- Xem xét tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật; - Xem xét tính hợp hiến của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; - Giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi của cơ quan nhà nước, cá nhân có

thẩm quyền xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Khi bất cứ quyền cơ bản nào của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp bị vi phạm từ phía cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền, công dân có quyền khiếu nại đến cơ quan bảo hiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp hiến của mình. Tuy nhiên, cần có một trình tự, thủ tục đặc biệt để không phải mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều có thể khiếu nại đến cơ quan bảo hiến, biến cơ quan này thành “túi đựng” cho mọi cuộc kiện tụng;

- Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, bảo đảm để các cơ quan này hành xử theo đúng giới hạn thẩm quyền đã được Hiến pháp và luật phân định; tạo sự cân bằng trong tổ chức và hoạt động, tránh sự lạm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương;

- Xem xét tính hợp hiến của cuộc trưng cầu ý dân, bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Cơ quan bảo hiến không có quyền xem xét lại kết quả của cuộc trưng cầu ý dân, bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, nhưng có quyền xem xét, đánh giá tính hợp hiến trong việc áp dụng thủ tục trưng cầu ý dân, bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Bất kỳ một cuộc trưng cầu ý dân hay cuộc bầu cử

Page 127: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân nào đều có thể bị cơ quan bảo hiến tuyên bố vi hiến nếu không tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục mà pháp luật đã quy định; 

- Giải thích Hiến pháp là một thẩm quyền quan trọng của cơ quan bảo hiến nhằm thống nhất cách hiểu và áp dụng các quy định của Hiến pháp trên thực tế. Nhu cầu giải thích Hiến pháp được đặt ra khi quy định của Hiến pháp không được hiểu một cách thống nhất hoặc rõ ràng trong quá trình thực thi, làm cho người áp dụng pháp luật có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong những trường hợp này, theo đề nghị của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, cơ quan bảo hiến tiến hành giải thích Hiến pháp.   

Trong việc xem xét tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan bảo hiến có quyền xem xét, ra phán quyết đối với tất cả văn bản quy phạm pháp luật vi phạm Hiến pháp, từ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương đến văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở địa phương, từ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước đến văn bản pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội. Mục đích của việc xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác là nhằm bảo đảm để tất cả văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp phải phù hợp với Hiến pháp, trên cơ sở của Hiến pháp và tuân thủ những nền tảng cơ bản của Hiến pháp.

Việc xem xét tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật không chỉ được thực hiện sau khi văn bản đó đã được ban hành, có hiệu lực thi hành mà cả trước khi văn bản đó được công bố. Tuy nhiên, phương thức giám sát trước chỉ giới hạn trong phạm vi nhất định. Cơ quan bảo hiến có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại luật đã được Quốc hội thông qua, đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua trước khi Chủ tịch nước ký lệnh công bố, nếu có căn cứ cho rằng văn bản đó không phù hợp với Hiến pháp. Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phải xem xét lại đạo luật, pháp lệnh mà mình đã thông qua. Trường hợp đạo luật được Quốc hội thông qua vi phạm Hiến pháp thì Quốc hội phải huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung đạo luật đó, nếu đạo luật vẫn được 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Chủ tịch nước phải công bố. Trường hợp pháp lệnh được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua vi phạm Hiến pháp thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phải huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung pháp lệnh đó, nếu pháp lệnh đó vẫn được 2/3 tổng số thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành thì cơ quan bảo hiến có quyền yêu cầu Chủ tịch nước không công bố và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Phương thức giám sát sau được áp dụng đối với văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực pháp luật. Theo đề nghị của chủ thể có thẩm quyền như Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, 1/10 tổng số đại biểu Quốc hội, cơ quan bảo hiến có quyền ra phán quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật vi phạm Hiến pháp. Cơ quan bảo hiến không có quyền huỷ bỏ văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành mà chỉ đình chỉ việc thi hành, nếu cho rằng văn bản đó vi phạm Hiến pháp và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan khác, tổ chức, cá nhân ban hành, cơ quan bảo hiến có quyền huỷ bỏ hoặc tuyên bố không áp dụng, nếu cho rằng văn bản đó vi phạm Hiến pháp.

Việc quy định cơ quan bảo hiến chỉ có quyền kiến nghị Quốc hội huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp là vì ở nước

Page 128: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

ta, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, không có một cơ quan nào đứng trên Quốc hội để phán xử hành vi của Quốc hội. Xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nên khác với cơ quan bảo hiến chuyên trách theo mô hình bảo hiến Châu Âu, phán quyết về tính hợp hiến đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan bảo hiến không dẫn đến sự vô hiệu ngay lập tức một văn bản hoặc một quy phạm pháp luật mà được giải quyết như sau: 

Thứ nhất, khi có căn cứ cho rằng văn bản hoặc quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp thì trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng, cơ quan bảo hiến có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành văn bản xem xét lại văn bản để tự huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung trong thời hạn nhất định. Trong thời hạn này, văn bản bị đề nghị xem xét lại bị tạm đình chỉ thi hành; cơ quan bảo hiến chưa tuyên bố một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật nào đó trái Hiến pháp và tạo cơ hội để cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành văn bản đó có những hành động cần thiết như huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc chấm dứt hiệu lực của văn bản;

Thứ hai, trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành văn bản không huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc chấm dứt hiệu lực của văn bản trong thời hạn cơ quan bảo hiến yêu cầu thì cơ quan bảo hiến có quyền tuyên bố một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật đó trái Hiến pháp và bị huỷ bỏ hoặc tuyên bố không áp dụng, trừ văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội thì đình chỉ thi hành và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. 

Tổ chức của cơ quan bảo hiến Khác với những cơ quan khác của Nhà nước, cơ quan bảo hiến chuyên trách không

nên thành lập ở nhiều cấp mà chỉ có một cơ quan duy nhất ở trung ương với chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp. Việc hình thành một cơ quan bảo hiến duy nhất ở trung ương là để hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp được tập trung, hiệu lực và hiệu quả. Tổ chức của cơ quan bảo hiến có thể gồm các thành viên và bộ máy giúp việc. Người đứng đầu cơ quan bảo hiến (Chánh án hoặc Chủ tịch Hội đồng) có thể do Quốc hội bầu. Các thành viên khác (thẩm phán) của cơ quan bảo hiến có thể do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước. 

Thẩm phán của cơ quan bảo hiếnTrong thiết chế bảo hiến, vấn đề quan trọng có tính quyết định hiệu lực, hiệu quả

hoạt động chính là đội ngũ các thẩm phán. Để trở thành thẩm phán của cơ quan bảo hiến, người đó phải là công dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần kiên quyết bảo vệ lẽ phải và công lý, chí công vô tư, có trình độ cử nhân luật trở lên và đã làm công tác xét xử lâu năm tại Toà án hoặc đã làm công tác pháp luật tại các cơ quan, tổ chức khác. Số lượng thẩm phán của cơ quan bảo hiến do Quốc hội quyết định, nhưng cần có một tỷ lệ hợp lý các nhà hoạt động chính trị có nhiều kinh nghiệm. Với nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên, để bảo đảm tiến độ và chất lượng giải quyết các vụ việc, cơ quan bảo hiến cần có khoảng 15 thành viên. 

Về trình tự, thủ tục hoạt động của cơ quan bảo hiến Phán quyết, quyết định của cơ quan bảo hiến, đặc biệt là những phán quyết về tính

hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật không chỉ tác động đến đối tượng bị giám sát mà tác động đến cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và đến toàn xã hội. Chính vì vậy, cần có một trình tự, thủ tục đặc biệt cho hoạt động của cơ quan bảo hiến, khác với trình tự, thủ tục xem xét vụ việc tư pháp thông thường. Đó là thủ tục đề nghị xem xét tính

Page 129: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

hợp hiến của văn bản hoặc hành vi, thủ tục thụ lý hồ sơ, thu thập thông tin, chứng cứ, thủ tục xem xét vụ việc, biểu quyết thông qua quyết định, công bố quyết định và thủ tục xem xét lại vụ việc trong trường hợp cần thiết…

Ngoài những vấn đề trên đây, chúng tôi đề nghị các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cần tiếp tục tổng kết, đánh giá đầy đủ, khách quan tất cả các phương diện của cơ chế bảo hiến hiện hành của Việt Nam như hệ thống pháp luật, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ý thức pháp luật của nhân dân… từ đó nghiên cứu, đề xuất các giải pháp đồng bộ và hữu hiệu về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam.

BẢO ĐẢM TÍNH TỐI CAO CỦA HIẾN PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

 

Vai trò của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền

Để tồn tại và phát triển, con người buộc phải liên kết lại với nhau thành những cộng đồng, thành xã hội. Và cùng với những sự liên kết đó, trong mỗi cộng đồng đã sinh ra quyền lực công cộng - một phương tiện để duy trì trật tự trong mỗi cộng đồng, cũng như trong toàn xã hội và để phối hợp hoạt động của cả cộng đồng, của xã hội theo những định hướng nhất định vì những mục tiêu chung nhằm đạt tới tự do, hạnh phúc cho mỗi người và cho cả cộng đồng. Khi trong xã hội xuất hiện nhà nước, cũng có nghĩa là xuất hiện quyền lực nhà nước - một loại quyền lực công cộng đặc biệt bắt nguồn từ nhân dân, thuộc về nhân dân nhưng không do toàn thể nhân dân tự thực hiện mà do một bộ máy chuyên môn thay mặt nhân dân thực hiện. Song trên thực tế, sự kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước từ xưa đến nay luôn là vấn đề rất khó khăn; trong nhiều trường hợp có thể nói là nhân dân hầu như không thể kiểm soát được quyền lực nhà nước. Để nhân dân có thể kiểm soát được quyền lực nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là “của dân, do dân và vì dân” thì cần phải xác lập một cơ chế giao và kiểm soát quyền lực chặt chẽ từ phía nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, những người đại diện cho nhân dân để nhân dân không bị biến thành công cụ, phương tiện phục vụ lợi ích cho những người mà họ đã uỷ quyền, thì biện pháp tốt nhất trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là phải xây dựng nhà nước pháp quyền.

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Nhà nước ta phải được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, luôn đề cao vị trí, vai trò của pháp luật, phấn đấu nhằm đưa lại tự do, hạnh phúc cho con người, tạo điều kiện cho xã hội tồn tại và phát triển thông qua hệ thống các thể chế và yêu cầu dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là người đại diện chính thức cho toàn xã hội, nên cần phải bảo đảm tính tối cao của quyền lực nhà nước so với quyền lực của các tổ chức khác trong xã hội, còn pháp luật phải là công cụ quản lý xã hội mang tính tối cao so với các công cụ quản lý khác, do vậy, đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Đương nhiên, để được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh, pháp luật phải luôn phù hợp với quy luật khách quan, luôn thúc đẩy, tạo điều kiện cho xã hội phát triển vì

Page 130: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

hạnh phúc của mọi người. Để có được điều đó thì một trong những yêu cầu quan trọng là phải bảo đảm tính tối cao của hiến pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Trước hết, phải khẳng định rằng: hiến pháp là một bộ phận, nhưng là bộ phận quan trọng nhất của pháp luật. Trong hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước ta thì Hiến pháp được xem là luật cơ bản, nó “là một văn bản duy nhất quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển, hiến pháp là văn bản, là phương tiện pháp lý thể hiện tư tưởng của Đảng dưới hình thức những quy phạm pháp luật”1. Hiến pháp của Nhà nước ta do Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành theo trình tự, thủ tục đặc biệt (việc thông qua hoặc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành). Do vậy, có thể nói, Hiến pháp nước ta là văn bản pháp lý đặc biệt thể hiện một cách tập trung nhất ý chí và những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động trên các lĩnh vực của đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Thông qua hiến pháp, nhân dân thực hiện việc giao quyền cho các cơ quan nhà nước, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, xác định địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội, quy chế pháp lý của các cá nhân... Đồng thời, thông qua hiến pháp, nhân dân quy định sự kiểm soát của mình đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các cá nhân. Vì vậy, các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp tức là chấp hành ý chí của nhân dân.

Sự cần thiết phải bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp

Nhưng hiến pháp cũng chỉ là một văn bản luật. Với khuôn khổ có hạn, hiến pháp trong nhiều trường hợp không thể quy định một cách chi tiết và cụ thể để áp dụng trong mọi tình huống, mà chỉ có thể quy định những vấn đề chung, cơ bản, mang tính nguyên tắc của nhà nước và của xã hội như: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân... Do hiến pháp không thể quy định được tất cả những gì liên quan tới nhà nước và xã hội nên đòi hỏi phải có sự chi tiết, cụ thể hóa các quy định của hiến pháp bằng các văn bản pháp luật khác. Nếu không có sự chi tiết, cụ thể đó, những quy định của hiến pháp sẽ khó đi vào cuộc sống, thậm chí có những quy định không thể thực hiện được. Vì lẽ đó, thông qua hiến pháp, nhân dân còn uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động có thể ban hành luật và các văn bản dưới luật khác để chi tiết hoá hiến pháp, nhằm để thực hiện hiến pháp. Việc chi tiết, cụ thể hoá hiến pháp bằng các văn bản pháp luật khác phải được thực hiện trên cơ sở hiến pháp và phải bảo đảm điều kiện là tất cả các văn bản pháp luật đó luôn phù hợp với hiến pháp, không được trái với hiến pháp. Những cơ quan nhà nước nếu không được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của hiến pháp thì có nghĩa là họ đã vượt quá những nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân giao cho, nếu họ ban hành các văn bản pháp luật không phù hợp với hiến pháp, trái hiến pháp tức là trái với ý chí của nhân dân, không tuân theo ý chí của nhân dân. Chưa kể là, nếu không bảo đảm tính tối cao của hiến pháp thì sẽ dẫn đến tình trạng tản mạn, trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật, phá vỡ tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Như vậy, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp không những là sự tôn trọng ý chí và nguyện vọng của nhân dân mà còn tạo nên tính thống nhất của hệ thống pháp luật, làm

Page 131: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

cho việc nhận thức và thực hiện pháp luật chính xác, thống nhất hơn. Chính vì thế, Điều 146 của Hiến pháp nước ta đã khẳng định: “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với hiến pháp”.

Yêu cầu của việc bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp

Bảo đảm tính tối cao của hiến pháp đòi hỏi:

1. Tất cả các cơ quan nhà nước được nhân dân uỷ quyền không những phải tổ chức và hoạt động theo quy định của hiến pháp mà các cơ quan này còn phải ban hành các văn bản pháp luật (kể cả các văn bản luật và văn bản dưới luật) phù hợp với hiến pháp. Xuất phát từ nguyên tắc này thì: các văn bản dưới luật phải được ban hành trên cơ sở các văn bản luật, phù hợp với các văn bản luật, nội dung không được trái với các văn bản luật, nhằm để thực hiện các văn bản luật; văn bản của các cơ quan chấp hành và điều hành phải được ban hành phù hợp với văn bản của các cơ quan quyền lực, đại diện; văn bản của các cơ quan cấp dưới phải được ban hành phù hợp với văn bản của cơ quan cấp trên, nhưng phải bảo đảm sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan ở mỗi cấp; mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với hiến pháp.

 2. Nhà nước không được tham gia ký kết các điều ước quốc tế có nội dung mâu thuẫn, đối lập với các quy định của hiến pháp. Khi có mâu thuẫn, đối lập giữa quy định của điều ước với hiến pháp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không tham gia ký kết, không phê chuẩn hoặc phải bảo lưu (không thực hiện) đối với những điều mâu thuẫn đó của các điều ước quốc tế.

3. Tính tối cao của hiến pháp còn đòi hỏi văn kiện của các tổ chức chính trị- xã hội khác cũng không được có nội dung trái với hiến pháp và pháp luật.

4. Trong những trường hợp có sự mâu thuẫn giữa quy định của các văn bản pháp luật khác với các quy định của hiến pháp thì thực hiện theo quy định của hiến pháp, nếu văn kiện của các tổ chức, đoàn thể xã hội có nội dung trái với hiến pháp và các văn bản luật khác của nhà nước thì phải áp dụng quy định của hiến pháp, của các văn bản luật.

Để bảo đảm được tính tối cao của hiến pháp đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, theo chúng tôi, cần chú ý những yêu cầu cơ bản sau:

Một là, do vị trí và tính chất đặc biệt của hiến pháp trong hệ thống các văn bản pháp luật của đất nước, theo chúng tôi, cần có thủ tục nhân dân bỏ phiếu trưng cầu về hiến pháp. Nghĩa là, sau khi được Quốc hội chính thức thông qua, thì bản hiến pháp cần được đưa ra trưng cầu dân ý để cử tri cả nước biểu thị ý chí của mình đối với bản hiến pháp hoặc chí ít là đối với những vấn đề quan trọng, còn nhiều tranh luận được quy định trong hiến pháp. Điều này cũng thể hiện quyền lực tối cao của nhân dân. Là chủ thể quyền lực nhà nước, nhân dân phải được trực tiếp thông qua hiến pháp, tự quyết định vận mệnh của mình. Nếu “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, thì việc nhân dân giao quyền cho ai, đến đâu,... phải do nhân dân quyết định thông qua hiến pháp. Nói một cách cụ thể hơn, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, của những người đại diện nhân dân do hiến pháp quy định phải được sự đồng ý của nhân dân. Các cơ quan nhà nước, những người đại diện nhân dân chỉ được làm những gì mà nhân dân thông qua hiến pháp và pháp luật cho phép, do vậy, họ phải quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không phải bằng ý chí chủ quan của mình.

Page 132: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Hai là, về mặt kỹ thuật, hiến pháp cần được xây dựng như một văn bản mẫu, tránh việc dùng các thuật ngữ không thống nhất trong hiến pháp. Chẳng hạn, hiến pháp khi quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội là thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp (Điều 84), nhưng đối với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì lại là giám sát việc thi hành hiến pháp (Điều 91), lẽ ra trong cả hai trường hợp đều dùng chữ thực hiện thì sẽ khái quát và thống nhất hơn; Quốc hội làm hiến pháp, làm luật (Điều 84), Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra pháp lệnh (Điều 91), Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định (Điều 106), nếu tất cả đều dùng chữ ban hành thì thống nhất hơn; Chủ tịch nước công bố hiến pháp, luật..., ra lệnh tổng động viên..., ban bố tình trạng khẩn cấp... (Điều 103), nếu tất cả đều dùng chữ công bố sẽ hợp lý hơn.

Ba là, sau khi hiến pháp được ban hành phải nhanh chóng chi tiết, cụ thể hóa những quy định của hiến pháp bằng các văn bản luật khác, tạo cơ sở cho sự phát triển và hoàn thiện của toàn bộ hệ thống pháp luật. Đồng thời, phải tiến hành giải thích chính thức đối với những quy định của hiến pháp, đặc biệt là những quy định dễ gây ra sự nhận thức không thống nhất.

Bốn là, cần thực hiện việc kiểm tra, giám sát đối với công tác tổ chức và hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, kể cả của các cơ quan nhà nước cao nhất. Đồng thời, cũng phải kiểm tra, giám sát đối với hoạt động và văn bản của các tổ chức, đoàn thể xã hội trong đất nước. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa hiến pháp với các văn bản khác thì phải nhanh chóng khắc phục và xử lý kiên quyết những văn bản được ban hành trái hiến pháp.

Mặc dù hiến pháp hiện hành ở nước ta đã giao cho Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành hiến pháp, nhưng trên thực tế, hiệu quả hoạt động giám sát của hai cơ quan này đối với việc thực hiện hiến pháp chưa cao. Do vậy, theo chúng tôi, nên chăng hiến pháp nước ta cần quy định một cơ chế giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng và thực hiện hiến pháp. Hoặc nghiên cứu thành lập một cơ quan có thể là Hội đồng hay Uỷ ban bảo hiến hoặc Toà án hiến pháp (thuộc Quốc hội) thay mặt nhân dân chỉ chuyên làm nhiệm vụ giám sát việc thực hiện hiến pháp (kể cả đối với Quốc hội) để bảo vệ tính tối cao của hiến pháp. Về cơ quan này, cần phải tiếp tục nghiên cứu trên nhiều bình diện, nhưng sơ bộ về mặt cơ cấu (thành phần), để phù hợp với thể chế chính trị nước ta hiện nay, chúng tôi cho rằng, cơ quan này có thể gồm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cựu Chủ tịch nước, cựu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, cựu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cùng một vài chuyên gia nữa. Sự phán quyết của cơ quan này về tính hợp hiến của một văn bản hay một hoạt động cụ thể nào đó là không thể thay đổi và văn bản hay hoạt động cụ thể vi hiến đó cần phải được đình chỉ, huỷ bỏ hoặc chấm dứt. Chúng ta cần tránh tình trạng tính tối cao của hiến pháp bị vi phạm nhưng Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không có biện pháp xử lý. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1980 quy định việc khám, chữa bệnh không mất tiền, nhưng Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989 lại quy định người bệnh phải nộp viện phí. Hay Hiến pháp năm 1992 quy định rừng núi thuộc sở hữu toàn dân, nhưng Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 lại quy định lâm sản của rừng trồng thì thuộc về người trồng... Trong những trường hợp trên, theo chúng tôi, khi ban hành luật,

Page 133: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

nếu chúng ta đồng thời sửa các quy định của hiến pháp cho phù hợp với tình hình mới thì tốt biết bao.

Bảo đảm tính tối cao của hiến pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt, nhằm bảo đảm quyền lực tối cao của nhân dân, tôn trọng ý chí và nguyện vọng của nhân dân; mặt khác, nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho sự phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm cơ sở để thiết lập trật tự pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa./.

ĐỂ HIẾN PHÁP MỚI NHANH ĐI VÀO CUỘC SỐNG

– Tại Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp ngày 8/1/2014, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cả một hệ thống chính trị trong năm 2014.

Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. 

Xây dựng một bản Hiến pháp “vang vọng tiếng dân” đã khó, nhưng khó khăn không kém là việc triển khai thi hành Hiến pháp, đưa các điều khoản của Hiến pháp vào thực tiễn của cuộc sống; và đó mới là mục đích của việc xây dựng Hiến pháp.

Để việc triển khai thi hành Hiến pháp nhanh chóng và có hiệu quả, người viết đề xuất một số biện pháp sau.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với Hiến pháp

Theo đó, cơ quan Trung ương và địa phương tiến hành rà soát toàn diện, đồng bộ các văn bản pháp luật đã ban hành để phát hiện những quy định trái Hiến pháp phải bị dừng thi hành, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản pháp luật để cụ thể hóa những quy định mới của Hiến pháp.

Ưu tiên sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước và các thiết chế khác trong hệ thống chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; lập danh mục xác định lộ trình hoàn thiện hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, đối ngoại và hợp tác quốc tế.

Triển khai thực hiện những điều khoản của Hiến pháp mà không cần phải chờ văn bản hướng dẫn

Bên cạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các luật, pháp lệnh, các văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa Hiến pháp, khắc phục tình trạng các qui định của Hiến pháp, nhất là quyền hiến định qui định trong chương “Quyền con người”, “Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân” phải chờ luật cụ thể hóa, các cơ quan Nhà nước cần xem xét, phân loại các chương, điều, khoản của Hiến pháp. Với những qui định,

Page 134: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

những điều, khoản đã rõ ràng thì cần áp dụng trực tiếp mà không cần chờ các văn bản hướng dẫn (nhìn chung, trừ các quyền có qui định “việc thực hiện các quyền này do luật định”, “việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”, “…theo luật định”, “…theo quy định của pháp luật”, các qui định về quyền con người, quyền công dân cần được triển khai thực hiện ngay mà không cần chờ văn bản hướng dẫn).

Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước phù hợp với các qui định của Hiến pháp

Các thiết chế hiến định như Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Kiểm toán Nhà nước tiếp tục hoạt động cho đến khi Quốc hội khóa XIV bầu ra các cơ quan mới theo quy định của Hiến pháp.

Tương tự như vậy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tiếp tục hoạt động cho đến khi Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được thành lập theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với Hiến pháp.

Từ 1/1/2014, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình được quy định trong Hiến pháp.

Cũng từ 1/1/2014, những công việc đang được cơ quan Nhà nước giải quyết theo quy định của Hiến pháp năm 1992 mà thẩm quyền này được giao cho cơ quan Nhà nước khác thực hiện theo quy định của Hiến pháp sửa đổi thì phải chuyển giao cho cơ quan Nhà nước đó để tiếp tục giải quyết.

Tuyên truyền sâu rộng nội dung của Hiến pháp

Chỉ khi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân hiểu sâu sắc về Hiến pháp thì đây sẽ là cơ sở bảo đảm Hiến pháp được thực thi nghiêm túc và hiệu quả. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân và các tầng lớp nhân dân, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài về Hiến pháp là nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Cơ quan Nhà nước các cấp, MTTQVN và các cơ quan hữu quan khác tổ chức tuyên truyền sâu rộng nội dung của Hiến pháp tại cơ quan, tổ chức và địa phương mình nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Các cơ quan thông tấn, báo chí có kế hoạch tuyên truyền bằng nhiều hình thức thích hợp để tuyên truyền nội dung của Hiến pháp, nhất là những điểm mới được bổ sung; tổ chức tập huấn báo cáo viên, tuyên truyền viên về Hiến pháp; giới thiệu, phổ biến nội dung, ý nghĩa của Hiến pháp đến mọi tầng lớp nhân dân.

Rõ ràng, một vấn đề rất quan trọng là nâng cao khả năng tiếp cận quyền của người dân. Hiến pháp, pháp luật đã ghi nhận các quyền cơ bản nhưng việc người dân có thể tiếp cận, sử dụng Hiến pháp, pháp luật để bảo vệ quyền của mình hay không phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết, cơ chế, thủ tục bảo đảm thực thi các quyền. Vấn đề này đặt ra trách nhiệm đối với các cơ quan Nhà nước, từ việc phổ biến, tuyên truyền các nội dung mới của Hiến pháp đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy để bảo đảm thực thi. Mặt khác, phải tuyên truyền, phổ biến làm cho toàn dân quan tâm đến việc thực hiện Hiến pháp, trong đó có việc thực hiện và bảo vệ quyền lợi

Page 135: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

hiến định của chính họ, vì nhân dân chính là chủ thể thực thi và giám sát việc thực thi Hiến pháp.

Hiến pháp là văn kiện chính trị-pháp lý có vai trò đặc biệt quan trọng không những đối với Nhà nước mà cả hệ thống chính trị. Các thế lực thù địch luôn lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước. Vì thế, các cơ quan làm công tác tư tưởng, văn hóa, báo chí, xuất bản, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức đảng, các nhà khoa học cần đi đầu trong việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù định; góp phần tạo sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân phê phán những nhận thức sai trái, lệch lạc, mơ hồ về Hiến pháp.

Chỉnh lý, biên soạn lại sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về Hiến pháp và pháp luật

Các viện nghiên cứu, các cơ sở giáo dục, đào tạo, nhất là các viện nghiên cứu về Nhà nước và pháp luật, các trường đại học và các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật cần khẩn trương sửa đổi, bổ sung, cập nhật các quy định mới của Hiến pháp để có kế hoạch biên soạn lại sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về Hiến pháp. Mặt khác, cần đẩy mạnh việc phổ biến, tuyên truyền Hiến pháp phục vụ công tác đối ngoại.

Vì triển khai thi hành Hiến pháp là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, nên các cấp, các ngành, cơ quan, tổ chức, đơn vị chủ động xây dựng kế hoạch việc thực thi ở cấp, ngành, cơ quan, đơn vị mình; thường xuyên đôn đốc, kịp thời tháo gỡ vướng mắc phát sinh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện Hiến pháp để các quy định của Hiến pháp được thực hiện nghiêm minh, sớm đi vào thực tiễn.

KHẨN TRƯƠNG THI HÀNH HIẾN PHÁP ĐỒNG BỘ,

THỐNG NHẤT VÀ HIỆU QUẢ

Sáng 8-1, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (QH) tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam.

Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội; Lê Hồng Anh, Thường trực Ban Bí thư; Đinh Thế Huynh, Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư; Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Chính phủ; và đồng chí Uông Chu Lưu, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Chủ tịch QH chủ trì Hội nghị. Tham dự hội nghị, có các đồng chí lãnh đạo QH, Ủy viên Ủy ban Thường vụ QH; lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương và một số địa phương.

Ban Tổ chức cho biết, Hội nghị quan trọng lần này nhằm quán triệt, phổ biến những nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam vừa được QH Khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6; đồng thời, quán triệt, triển khai Chỉ thị của Ban Bí thư, Nghị quyết của QH, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ QH về việc triển khai thi hành Hiến pháp.

Phát biểu ý kiến khai mạc Hội nghị, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh: Hiến pháp là đạo luật gốc, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước ta. Sau khi Hiến pháp được QH thông qua, nhiệm vụ quan trọng là tổ chức triển khai thi hành Hiến

Page 136: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

pháp, bảo đảm cho từng nội dung của Hiến pháp thật sự đi vào đời sống, tạo sự chuyển biến sâu rộng và tích cực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là nhiệm vụ quan trọng, có liên quan trực tiếp và ảnh hưởng sâu rộng đến toàn hệ thống chính trị. Quá trình triển khai thi hành Hiến pháp đòi hỏi sự tham gia tích cực, nghiêm túc của nhân dân, tất cả các cấp, các ngành, bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của chính quyền, sự phối hợp của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Chủ tịch QH đề nghị cần khẩn trương tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp đồng bộ, thống nhất và hiệu quả, kịp thời tuyên truyền, phổ biến sâu rộng tinh thần và nội dung Hiến pháp, giá trị khoa học và thực tiễn của Hiến pháp đến các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về Hiến pháp, ý thức chấp hành và bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe đồng chí Đinh Thế Huynh, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư phổ biến Chỉ thị số 32-CT/T.Ư của Ban Bí thư về triển khai thi hành Hiến pháp và định hướng công tác tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp.

Trong Chỉ thị, Ban Bí thư nhấn mạnh: Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, Đảng đoàn và ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp, các bộ, ngành ở Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, Đảng đoàn MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội cần tổ chức quán triệt và chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết 64/2013/QH13 của QH quy định một số điểm thi hành Hiến pháp của Ủy ban Thường vụ QH. Khẩn trương xây dựng kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp của cơ quan, tổ chức mình, trong đó xác định rõ các nội dung, hoạt động cụ thể, lộ trình và kế hoạch ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực được giao phụ trách; các điều kiện bảo đảm cho việc phổ biến, tuyên truyền và tổ chức thực thi Hiến pháp.

Đồng chí Đinh Thế Huynh nhấn mạnh: Các cấp ủy, tổ chức đảng đưa nội dung này vào sinh hoạt của chi bộ, đảng bộ để quán triệt trong toàn thể cán bộ, đảng viên về mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng của việc tuân thủ và chấp hành Hiến pháp cũng như nhiệm vụ của tổ chức, cá nhân trong triển khai thi hành Hiến pháp.

Việc học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Hiến pháp cần được tổ chức bài bản, khoa học, giúp cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nắm vững nội dung cơ bản của Hiến pháp, nâng cao nhận thức, ý thức tự giác tôn trọng và chấp hành Hiến pháp. Đồng thời phải nắm diễn biến tình hình tư tưởng trong quá trình triển khai thực hiện Hiến pháp; kịp thời định hướng tư tưởng và dư luận, xử lý những vấn đề nổi cộm, phức tạp. Các cơ quan làm công tác tư tưởng, văn hóa, báo chí, xuất bản đi đầu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; góp phần tạo sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân phê phán những nhận thức sai trái, lệch lạc, mơ hồ về Hiến pháp. Đấu tranh chống những luận điệu, quan điểm xuyên tạc, phá hoại việc thực hiện Hiến pháp, phủ nhận những nội dung cốt lõi, những điểm bổ sung, điểm mới của Hiến pháp sửa đổi.

Các đại biểu đã nghe Phó Chủ tịch QH Uông Chu Lưu trình bày báo cáo về "Những nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam"; Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH Phan Trung Lý trình bày Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp.

Phát biểu ý kiến bế mạc Hội nghị, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng yêu cầu việc triển khai thi hành Hiến pháp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cấp, các

Page 137: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

ngành trong năm 2014 và các năm tiếp theo với tinh thần kịp thời, đồng bộ, toàn diện, thống nhất, hiệu quả và tiết kiệm. Toàn hệ thống chính trị của cả nước đang vào cuộc tích cực triển khai thi hành Hiến pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng, và phấn đấu đạt và vượt tiến độ đề ra. Định kỳ sáu tháng, một năm, xây dựng báo cáo kết quả thi hành Hiến pháp gửi đến Ủy ban Thường vụ QH và Chính phủ để tổng hợp.

Trong quá trình triển khai thi hành Hiến pháp cần bảo đảm nguyên tắc sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, sự tham gia phối hợp nghiêm túc, khẩn trương của tất cả các cơ quan, các ngành, các cấp, các tổ chức, đơn vị các địa phương và đặc biệt đề cao vai trò cơ quan thông tấn báo chí trong công tác tư tưởng, tuyên truyền. Ủy ban Thường vụ QH, Chính phủ, Ban Tuyên giáo T.Ư là các cơ quan trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ triển khai thi hành Hiến pháp.

CHỈ THỊ

CỦA BAN BÍ THƯ

về triển khai thi hành Hiến pháp

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam_______

Ngày 28-11-2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2014.

Hiến pháp là văn kiện đặc biệt quan trọng, phản ánh ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tạo cơ sở chính trị - pháp lý vững chắc cho công cuộc xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước trong thời kỳ mới. Việc triển khai thi hành Hiến pháp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.

Để việc triển khai thi hành Hiến pháp có hiệu quả, chặt chẽ, nghiêm túc, bảo đảm chất lượng và thống nhất, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân các cấp tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau :

1- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, đảng đoàn và ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp, các bộ, ngành ở Trung ương, các tỉnh uỷ, thành uỷ, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức quán triệt và chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiêm túc thực hiện các nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết số 64/2013/QH13 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Khẩn trương xây dựng kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp của cơ quan, tổ chức mình, trong đó xác định rõ các nội dung, hoạt động cụ thể, lộ trình và kế hoạch ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực được giao phụ trách, các điều kiện bảo đảm cho việc phổ biến, tuyên truyền và tổ chức thực thi Hiến pháp.

Các cấp uỷ, tổ chức đảng đưa nội dung này vào sinh hoạt của chi bộ, đảng bộ để quán triệt trong toàn thể đảng viên về mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng của việc tôn trọng, tuân thủ và chấp hành Hiến pháp cũng như nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình trong việc triển khai thi hành Hiến pháp.

Page 138: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

2- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông biên soạn tài liệu, tổ chức bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên về Hiến pháp; chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí ở Trung ương và địa phương có kế hoạch tuyên truyền bằng nhiều hình thức thích hợp và tạo điều kiện thuận lợi để phổ biến sâu rộng tinh thần và các nội dung cơ bản, những điểm mới được sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp đến các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, lực lượng vũ trang nhân dân và người Việt Nam ở nước ngoài; nâng cao nhận thức của nhân dân về Hiến pháp, tôn trọng và chấp hành Hiến pháp, ý thức trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.

Yêu cầu các cấp uỷ đảng, các tổ chức đảng cơ sở và từng đảng viên nghiên cứu, học tập các quy định của Hiến pháp, tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thi hành Hiến pháp, đồng thời gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

3- Quân uỷ Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương lãnh đạo, kiểm tra việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp trong lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân; chỉ đạo chặt chẽ công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời đấu tranh, ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta trong quá trình tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp.

4- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ tăng cường phối hợp, tập trung lãnh đạo việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp; chú trọng rà soát, kịp thời sửa đổi, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với các quy định mới của Hiến pháp.

5- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này. Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra và tạo điều kiện cần thiết cho cơ quan, tổ chức, đơn vị ở bộ, ngành, địa phương mình tổ chức tốt thi hành Hiến pháp. Kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong quá trình tổ chức thi hành Hiến pháp.

Định kỳ sáu tháng, một năm, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư tình hình triển khai thi hành Hiến pháp.

Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Nội chính Trung ương có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra và báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư việc thực hiện Chỉ thị.

Chỉ thị này phổ biến đến các chi bộ đảng.

CƠ SỞ CỦA CHẾ ĐỘ BẢO HIẾNMặc dù khẳng định tính tối cao của Hiến pháp, nhưng Hiến pháp Việt Nam lại chưa

thiết lập được một chế độ hoàn chỉnh để bảo vệ Hiến pháp. Cho đến nay, mặc dù lần sửa đổi Hiến pháp gần nhất vào năm 2001 đã thừa nhận việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng Việt Nam vẫn chưa có một chế độ bảo hiến hoàn chỉnh. Bài viết bàn về việc cần có một chế độ bảo hiến hoàn chỉnh. Theo đó, vì quyền lập hiến thuộc về nhân dân chứ không phải thuộc về Quốc hội.

Quyền lập hiến thuộc về nhân dân

Page 139: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Chế độ bảo hiến chỉ tồn tại khi Hiến pháp có ưu thế hơn so với thường luật. Ưu thế đó dẫn đến hệ quả là có sự phân biệt quyền lập hiến và quyền lập pháp. Sự phân biệt này cũng dẫn đến việc phân cấp hiệu lực pháp lý giữa Hiến pháp và thường luật: Hiến pháp có hiệu lực pháp lý tối cao, thường luật phải hợp hiến. Do đó, việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp được tiến hành bởi những cơ quan và theo những thủ tục đặc biệt khác với cơ quan và thủ tục được áp dụng cho thường luật. Thường luật không thể sửa đổi được Hiến pháp và cũng không thể mâu thuẫn với Hiến pháp. Một đạo luật đi ngược lại với những điều khoản của Hiến pháp là một đạo luật bất hợp hiến và do đó không thể có hiệu lực. Như vậy, các hành vi của chính quyền bị giới hạn bởi Hiến pháp. Với đặc tính đó, vấn đề bảo hiến được phát sinh.

Tại sao Hiến pháp lại có hiệu lực pháp lý tối cao? Câu trả lời nằm ở vấn đề chủ thể của quyền lập hiến. GS. Nguyễn Văn Bông cho rằng, quyền lập hiến là quyền nguyên thuỷ vì thể hiện một cách toàn diện nhất chủ quyền quốc gia, vì quyền lập hiến chung quy là quốc gia tự ấn định cho mình quy tắc tổ chức và điều hành. Vì quyền lập hiến là quyền nguyên thuỷ nên chỉ có chủ thể của chủ quyền quốc gia mới có quyền lập hiến.

Nhưng ai là chủ thể của chủ quyền quốc gia? Hiến pháp là khuôn mẫu của dân chủ, tồn tại trong một chế độ dân chủ. Trong một chế độ dân chủ, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực, là lực lượng nắm chủ quyền. Nhà nước là tổ chức do nhân dân thành lập ra đại diện cho nhân dân để hành xử chủ quyền nhân dân. C.Mác viết: “Trong chế độ dân chủ, thì bản thân nhà nước chính trị, dưới hình thức mà nó hình thành bên cạnh nội dung đó và tự phân biệt với nội dung đó, chỉ là nội dung đặc thù của nhân dân, chỉ là hình thức tồn tại đặc biệt của nhân dân mà thôi”.

Vì nhân dân là chủ thể của chủ quyền quốc gia, mà quyền lập hiến là quyền nguyên thuỷ vì thể hiện toàn diện chủ quyền quốc gia nên nhân dân chính là chủ thể của quyền lập hiến. Thông qua việc hành xử quyền lập hiến, nhân dân thành lập ra Nhà nước, uỷ quyền cho Nhà nước, ấn định những cung cách tổ chức và điều hành Nhà nước.

Hiến pháp Mỹ tuyên bố trong lời nói đầu: “Chúng tôi, nhân dân Hoa Kỳ... quyết tâm chấp thuận và thiết lập bản Hiến pháp này của Hợp chủng quốc”. Hiến pháp Ireland 1937 mở đầu: “Chúng tôi, nhân dân Ireland... chấp thuận chế định và thiết lập bản Hiến pháp sau đây"; Hiến pháp CHLB Đức: “Nhân dân Đức... đã lập thành Hiến pháp này”; Hiến pháp Liên bang Nga: “Chúng tôi, nhân dân các dân tộc Liên bang Nga... chấp nhận bản Hiến pháp dưới đây của Liên bang Nga”; Hiến pháp Hy Lạp: “Chúng tôi, nhân dân Cộng hoà Hy Lạp, thông qua người đại diện quyền lực của chúng tôi chấp nhận bản Hiến pháp này”. Lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam năm 1946 cũng ghi nhận: “Được quốc dân trao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội nhận thấy rằng…”.

K.C.Wheare nhận định: “Sự tối thượng pháp lý của Hiến pháp được dựa trên ý nguyện của nhân dân”. Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, quyền lập hiến không bị giới hạn bởi luật lệ nào, khai sinh ra các quyền khác. “Vì quyền lập hiến ấn định và tổ chức các quyền khác, vì các quyền khác đi từ quyền lập hiến, hậu quả đương nhiên là tính cách ưu tiên của quyền lập hiến”. Quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp là những quyền phái sinh từ quyền lập hiến. Các quyền đó phải được hành xử trong khuôn khổ do quyền lập hiến ấn định.

Do đó, chủ quyền của Nhà nước phái sinh từ chủ quyền của nhân dân. Với ý nghĩa như vậy, C.Mác nhấn mạnh: “Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ

Page 140: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

quyền của nhà vua*, mà ngược lại, chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền nhân dân”. Bởi vậy, ý chí của nhân dân phải được tôn trọng hơn ý chí của Nhà nước. Ba ngành quyền lực nhà nước không được mâu thuẫn với quyền lập hiến. Haminton lập luận: “Hoạt động của kẻ thừa nhiệm sẽ trở thành vô hiệu nếu đi ngược lại sự uỷ thác, đó là quan điểm đặt trên những nguyên tắc hết sức minh bạch. Do đó, mọi hoạt động lập pháp đi ngược lại Hiến pháp không thể có hiệu lực”. “Hiến pháp phải được tôn trọng hơn quy pháp, hơn ý muốn của cơ quan thừa nhiệm nhân dân”[.

Điều 146 của Hiến pháp Việt Nam hiện hành đã đặt Hiến pháp ở hệ cấp tối thượng: “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản khác phải phù hợp với Hiến pháp”. Tuy nhiên, xét kỹ vấn đề chúng ta thấy có điểm mâu thuẫn trong tư duy lập hiến ở đây: mặc dù chúng ta đặt Hiến pháp ở hệ cấp pháp lý tối cao nhưng lại quy định Quốc hội có quyền “làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp” (Điều 84). Như vậy, dường như chúng ta coi Quốc hội là chủ thể của quyền lập hiến và không có sự phân biệt chủ thể của quyền lập hiến và chủ thể của quyền lập pháp. Trong khi đó, các Hiến pháp 1946, 1959 - những bản Hiến pháp được soạn thảo dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết vấn đề này rất thấu đáo. Theo các hiến pháp này, Quốc hội chỉ có quyền lập pháp: “Nghị viện nhân dân… đặt ra các pháp luật” (Hiến pháp 1946, Điều 23); “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Hiến pháp 1959, Điều 44). Từ Hiến pháp 1980 đến Hiến pháp hiện hành, Quốc hội được quy định có quyền lập hiến. Nếu chủ thể của quyền lập hiến và quyền lập pháp là một thì tại sao Hiến pháp lại có hiệu lực pháp lý tối cao? Nếu như không có sự phân biệt giữa chủ thể của quyền lập hiến và chủ thể của quyền lập pháp thì cũng không thể có sự phân biệt hệ cấp pháp lý giữa Hiến pháp và thường luật.

Hơn nữa, nếu như luật pháp là văn bản của Nhà nước thì Hiến pháp là văn bản của nhân dân. Cho nên nhân dân phải có quyền quyết định trong việc thiết lập cũng như việc sửa đổi Hiến pháp. Một trong những hình thức để nhân dân thể hiện ý chí quyết định của mình là bỏ phiếu trưng cầu dân ý. Trong khi đó, Hiến pháp hiện hành của chúng ta tại Điều 147 quy định “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp”  và hoàn toàn không quy định việc sửa đổi Hiến pháp phải được đem trưng cầu dân ý.

 Có ý kiến cho rằng, nhân dân là người phân công quyền lực: “Nhân dân, thông qua bản Hiến pháp, uỷ quyền cho Nhà nước, các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước”. Điều này rất đúng ở nhiều nước khi nhân dân được coi là chủ thể của quyền lập hiến. Về nguyên tắc là như vậy, nhưng theo Hiến pháp Việt Nam, Quốc hội chứ không phải nhân dân là người nắm quyền lập hiến. Hiến pháp là một văn bản phân công quyền lực nhà nước. Cho nên chỉ có chủ thể của quyền lập hiến mới là người phân công quyền lực nhà nước. Nếu coi nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến thì đúng là nhân dân là chủ thể phân công quyền lực. Nhưng ở Việt Nam Quốc hội nắm quyền lập hiến nên chính Quốc hội là người phân công thực hiện quyền lực nhà nước. Như vậy, không thể có một cơ quan nào có thể đứng trên Quốc hội để phân xử hành vi của Quốc hội. Lập luận này của tôi đã được phản biện rằng: “Cơ chế này xem xét, giải quyết tính hợp hiến không phải chỉ với tư cách một cơ quan nào đó, mà là dựa trên Hiến pháp, nhân danh Hiến pháp do nhân dân lập ra. Ở đây không nên đặt vấn đề một cách có phần cứng nhắc là ai đứng cao hơn ai, mà Hiến pháp mới là đứng cao nhất, tối thượng, tất cả đều phải tuân thủ”. Đúng vậy, nhưng hiến pháp chỉ tối thượng khi hiến pháp được thiết lập bởi quyền lập hiến của nhân dân. Chỉ khi nào quyền lập hiến thuộc về nhân dân thì mới đúng là không

Page 141: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

có sự “ai đứng cao hơn ai, mà hiến pháp mới là đứng cao nhất”. Nhưng nếu quy định quyền lập hiến thuộc về Quốc hội thì không thể dung hợp được với chân lý này vì quyền lập hiến thuộc về Quốc hội. Cho nên không thể có một cơ quan nào có thể được đặt ra trong khung cảnh Hiến pháp Việt Nam hiện hành để xem xét về hành vi của Quốc hội. Điều này giải thích cho thực tế là đến hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có một cơ quan chuyên kiểm tra tính hợp hiến của quyền lực nhà nước nói chung và quyền lập pháp của Quốc hội nói riêng, tức là chưa có một chế độ bảo hiến hoàn chỉnh.

Do đó, thiết nghĩ rằng, để thiết lập cơ sở hiến pháp hoàn chỉnh cho chế độ bảo hiến ở Việt Nam, chúng ta cần trở lại những giá trị của Hiến pháp 1946: trong lời nói đầu, Hiến pháp phải tuyên bố nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, trong Hiến pháp cần quy định Quốc hội chỉ có quyền lập pháp; và việc sửa đổi Hiến pháp phải được đem trưng cầu dân ý hoặc theo một thủ tục khác thể hiện được rằng quyền lập hiến thuộc về nhân dân.

Dân quyền trong hiến pháp Sự vi phạm hiến pháp phổ biến nhất là sự vi phạm của công quyền đến các quyền

hiến định của công dân. Định chế bảo hiến sinh ra để hạn chế chính quyền khỏi sự xâm phạm đến quyền của công dân. Cho nên định chế bảo hiến chỉ có thể tồn tại trên cơ sở các quy định về quyền công dân trong hiến pháp.

Việc ghi nhận dân quyền có tiền lệ ở Anh, nhưng việc ghi nhận dân quyền trong Hiến pháp lại khai sinh ở Bắc Mỹ. Cuối thế kỷ 18, một số bang mới giành được độc lập tại Bắc Mỹ đã thiết lập những bản hiến pháp thành văn, và ở đầu hiến pháp có đặt một bản tuyên ngôn dân quyền. Bản tuyên ngôn dân quyền đầu tiên trong lịch sử lập hiến thế giới do Quốc hội của tiểu bang Virgina biểu quyết ngày 12/6/1776. Trong Hiến pháp của Liên bang Hoa Kỳ 1787 không quy định về dân quyền (trừ quyền chính trị). Năm 1791, để bổ khuyết điều đó, Quốc hội Mỹ đã thông qua 10 tu chính án có thể coi là tuyên ngôn dân quyền của Mỹ. Sau khi được khai sinh ở Mỹ, làn sóng quy định dân quyền trong hiến pháp toả rộng ra các nước trên thế giới, nhất là ở Pháp.

Đáng lưu ý là đa số hiến pháp các nước ghi nhận dân quyền ở lời nói đầu của hiến pháp dưới hình thức một bản tuyên ngôn nhân quyền. Điều này phản ánh tư tưởng nhân quyền là tiền đề của hiến pháp và dân quyền phải được quy định trên cơ sở nhân quyền; dân quyền là sự xác lập về mặt pháp lý nhân quyền. Tuyên ngôn nhân quyền trong lời nói đầu của nhiều hiến pháp có giá trị pháp lý như hiến pháp, thậm chí còn cao hơn hiến pháp. Duguit, sống dưới thời Cộng hoà III của Pháp cho rằng, bản Tuyên ngôn 1789 có một giá trị riêng biệt, do ở những điều kiện xung quanh chấp thuận nó và giá trị đó là môt giá trị siêu hiến, khiến cho nó còn sống khi mà Hiến pháp 1789 không còn giá trị nữa, và vẫn còn được áp dụng mãi mãi[. Phần mở đầu Hiến pháp đệ ngũ Cộng hoà Pháp 1958 viết: “Nhân dân Pháp long trọng tuyên bố trung thành với bản Tuyên ngôn nhân quyền năm 1789”. Điều này phản ánh quan niệm về hiệu lực pháp lý trên hiến pháp của tuyên ngôn nhân quyền Pháp.

Hiến pháp Việt Nam hiện hành có một chương riêng quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Chúng ta cũng thể hiện quan niệm quyền công dân xuất phát từ nhân quyền: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” ( Điều 50).

Page 142: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Tuy nhiên, có thể nói rằng, các quy định của Hiến pháp về các quyền cơ bản của công dân chưa tạo dựng được một cơ sở vững chắc cho việc thiết lập chế độ bảo hiến. Nếu như các quyền con người thể hiện ở quyền công dân thì quyền công dân phải là những quyền tự nhiên vốn có của con người mà nhà nước phải thừa nhận.  Đọc các quy định của Hiến pháp 1992 về quyền công dân có thể có cảm tưởng rằng dân quyền không phải là quyền vốn có do Tạo hoá ban cho con người và nhà nước phải thừa nhận mà do Nhà nước ban cho người dân. Quy định về quyền công dân thì phải đặt công dân ở vị trí chủ thể. Nhưng nhiều quy định về dân quyền trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành đa phần là đặt nhà nước ở vị trí chủ thể, còn công dân thì như là đối tượng được ban cho quyền chứ không phải được thừa nhận quyền. Trong 33 điều của chương V của Hiến pháp Việt Nam hiện hành về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Nhà nước - với tư cách là chủ thể xuất hiện hơn 20 lần. Những công thức thường được áp dụng là: “Nhà nước bảo đảm...”; “Nhà nước... có kế hoạch...”; “Nhà nước ban hành...”; “Nhà nước quy định”; “Nhà nước giao...”; “Nhà nước có chính sách...”; “Nhà nước tạo điều kiện...”; “Nhà nước bảo hộ...”.

Để có thể làm cơ sở cho chế độ bảo hiến, những quy định về dân quyền trong hiến pháp phải được sử dụng bởi công dân và cơ quan áp dụng pháp luật. Nhưng các quy định về dân quyền trong Hiến pháp Việt Nam không được toà án viện dẫn trong xét xử, và công dân cũng không viện dẫn đến Hiến pháp để bảo vệ quyền của mình trước toà. Chính vì vậy, những quy định về dân quyền trong Hiến pháp mặc dù nhiều nhưng còn xa lạ với người dân. Sở dĩ như vậy là vì cách quy định dân quyền như trong Hiến pháp của chúng ta rất khó thực hiện. Về nguyên tắc, các quyền công dân phải được xác định kèm theo là nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước. Nhưng điều chỉnh về dân quyền mà quy định “Nhà nước... có kế hoạch...", “Nhà nước ban hành...”; “Nhà nước tạo điều kiện...”; ‘Nhà nước bảo hộ...” thì dường như không phải là xác định nghĩa vụ của nhà nước mà là quyền của nhà nước. Quy định như vậy đã đặt Nhà nước ở vị trí lợi thế so với công dân: Hiến pháp đã vì Nhà nước chứ chưa thực sự vì người dân, nên những quy định về dân quyền trong Hiến pháp mới chỉ dừng lại ở tuyên ngôn của Nhà nước mà ít được người dân sử dụng để bảo vệ mình.

 Muốn cho quyền hiến định của công dân có thể thực hiện được trên thực tiễn, và được công dân sử dụng để bảo vệ mình thì việc quy định về dân quyền phải theo nguyên tắc xác định dân quyền là khu vực cấm đối với công quyền, công quyền phải thừa nhận dân quyền chứ không phải ban cho công dân quyền cơ bản. Chẳng hạn, Tu chính án thứ tư của Hiến pháp Mỹ quy định: “Quyền của người dân được an toàn về thân thể, nhà ở, giấy tờ và tai sản, chống lại mọi khám xét và bắt giữ vô căn cứ, sẽ không bị vi phạm, và không được có một giấy phép khám xét nào, trừ phi có lý do xác đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận và đặc biệt là phải miêu tả địa điểm khám xét, những người và vật sẽ bị bắt giữ”. Nhìn chung, tôi cho rằng, trong số các quy định của Hiến pháp Việt Nam về dân quyền thì các quy định về quyền tự do cá nhân khả thi vì được ấn định theo nguyên tắc xác định các quyền này như là khu vực cấm đối với công quyền. Ví dụ: “Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân” (Điều 71);  “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép” (Điều 73)...

Trong khi các quy định về quyền tự do cá nhân khá hợp lý thì các quy định về quyền của công dân trong các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội mặc dù rất

Page 143: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

nhiều nhưng khó thực hiện trên thực tiễn và do đó cũng khó có làm cơ sở cho việc tồn tại một chế độ bảo hiến. Để có thể làm cơ sở cho chế độ bảo hiến thì trước tiên chúng ta phải điều chỉnh lại các quy định nói trên theo nguyên tắc coi quyền công dân là quyền mà nhà nước phải thừa nhận và là một khu vực cấm đối với công quyền chứ không phải là những quyền nhà nước ban phát cho công dân. Xin đưa một số điển hình: thay vì quy định "Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động" (Điều 55) chúng ta có thể sửa thành “Quyền lao động của công dân không thể bị xâm phạm”. Thay vì quy định “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân” (Điều 58) chúng ta có thể sửa thành “Không ai được xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân...”.

Tóm lại, trước khi đi tìm kiếm một mô hình bảo vệ hiến pháp phù hợp với Việt Nam thì việc trước tiên phải làm là nghiên cứu để hoàn thiện cơ sở của chế độ bảo hiến: quyền lập hiến thuộc về nhân dân và quy định khả thi hơn về dân quyền trong Hiến pháp./.

Vài nét về cơ chế bảo hiến và việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam

Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời

sống chính trị của mỗi quốc gia. Bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội là nhu cầu cần thiết, tất yếu tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp chính là nguồn gốc phát sinh vấn đề bảo vệ, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và là cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến. Bởi lẽ, cơ chế bảo hiến chỉ tồn tại khi Hiến pháp có ưu thế hơn so với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Trước đây, trong một số tài liệu pháp lý, hoạt động bảo hiến được hiểu là sự giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật. Đến nay, khái niệm này được hiểu rộng hơn, theo đó hoạt động bảo hiến không chỉ là sự kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật mà còn bao gồm nhiệm vụ bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp như là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc gia, bảo đảm các quyền hiến định, mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước. Khái niệm cơ chế bảo hiến vì vậy cũng có nội hàm rộng hơn, bao gồm toàn bộ các thiết chế, nguyên tắc và biện pháp tổ chức và thực hiện các hoạt động giải thích Hiến pháp; kiểm tra và giám sát hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân; phát hiện và giải quyết các vấn đề phát sinh về thẩm quyền giữa cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền,v.v... 

Tư tưởng về giám sát Hiến pháp xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào đầu thế kỷ XVII và gắn liền với hoạt động của Hội đồng cơ mật. Hội đồng này có quyền tuyên bố văn bản do cơ quan lập pháp của các nước thuộc địa Anh ban hành trái với luật của Nghị viện Anh hay pháp luật chung thì không thể có hiệu lực và phải bị bãi bỏ. Giám sát Hiến pháp theo nghĩa hiện hành lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ, nhưng không phải trên cơ sở Hiến pháp mà từ án lệ. Năm 1803, Chánh án Toà án tối cao Mỹ đã phán quyết xác lập quyền của Toà án tối cao được xem xét tính hợp hiến của bất kỳ đạo luật nào của Nghị viện liên bang hay của cơ quan lập pháp các tiểu bang bằng tuyên bố Hiến pháp liên bang là đạo

Page 144: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

luật cao nhất của đất nước, vì vậy bất cứ văn bản luật nào do Nghị viện ban hành trái với Hiến pháp có thể bị Toà án tuyên bố là không hợp hiến. Ở châu Âu, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, xuất hiện một mô hình cơ quan bảo hiến do học giả người Áo - Hans Kelsen sáng tạo. Theo đó, hoạt động bảo hiến được tách khỏi hệ thống tư pháp và do một cơ quan chuyên trách là Toà án Hiến pháp thực hiện. Ngoài ra, cùng với sự phát triển của lịch sử, một số mô hình tổ chức cơ quan bảo hiến khác cũng được hình thành tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia.

Căn cứ vào vai trò, tính chất của cơ quan bảo hiến trong bộ máy nhà nước, thẩm quyền của cơ quan bảo hiến, trình tự, thủ tục trong việc xem xét vụ việc và ra phán quyết, hệ quả pháp lý từ quyết định của cơ quan bảo hiến,… có thể khái quát một số mô hình cơ quan bảo hiến sau đây:

Mô hình bảo hiến kiểu Mỹ: Đây là mô hình giám sát tư pháp Hiến pháp và là mô hình bảo hiến phi tập trung. Trong mô hình này, thẩm quyền giám sát hiến pháp được giao cho các Toà án có thẩm quyền chung thực hiện. Theo đó, bất kỳ Toà án tư pháp nào cũng có quyền xem xét tính hợp hiến của đạo luật được Quốc hội thông qua khi đạo luật đó được áp dụng để giải quyết vụ việc cụ thể tại Toà án. Điều này có nghĩa là việc khởi kiện tại Toà án là tiền đề để cơ quan này xem xét tính hợp hiến của đạo luật. Trong trường hợp có đủ căn cứ cho rằng quy định của đạo luật là không phù hợp với quy định của Hiến pháp, Toà án sẽ tuyên bố đạo luật đó là vi hiến. Quyết định của Toà án có hiệu lực bắt buộc đối với các bên trong vụ kiện và đối với Toà án cấp dưới. Quyết định của Toà án tối cao là chung thẩm và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các Toà án tư pháp. Tuy nhiên, Toà án chỉ có quyền tuyên bố một đạo luật được Quốc hội  thông qua là vi hiến, không có quyền huỷ bỏ hoặc tuyên bố đạo luật đó vô hiệu. Vì vậy, đạo luật bị Toà án tuyên bố là vi hiến vẫn còn hiệu lực trên thực tế, nhưng không được các Toà án áp dụng để giải quyết các vụ việc cụ thể tại Toà án. Kể từ khi xuất hiện ở nước Mỹ năm 1803, đến nay mô hình này đã được nhiều nước áp dụng như Canađa, Mêhicô, Thụy Điển, Áchentina, Hy Lạp,v.v...

Mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu: Đây là mô hình giám sát hiến pháp tập trung, xuất hiện đầu tiên ở Áo vào năm 1920 và được nhiều quốc gia Châu Âu áp dụng. Khác với mô hình bảo hiến kiểu Mỹ, mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu không trao quyền giám sát hiến pháp và bảo vệ hiến pháp cho hệ thống Toà án tư pháp mà giao chức năng này cho một cơ quan chuyên trách - được gọi là Toà án hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến. Cơ quan này không thuộc hệ thống cơ quan tư pháp, hành pháp hay lập pháp mà tồn tại một cách tương đối độc lập với chức năng là giám sát hiến pháp và bảo vệ hiến pháp. Theo mô hình này, việc giám sát hiến pháp vừa là giám sát cụ thể (gắn liền với việc giải quyết một vụ việc cụ thể), vừa là giám sát trừu tượng (theo đề nghị của chủ thể có thẩm quyền như Tổng thống, Thủ tướng, nghị sĩ, Thanh tra Quốc hội, v.v...mà không gắn liền với việc giải quyết một vụ việc cụ thể); thực hiện cả giám sát trước (đạo luật chưa được Quốc hội thông qua hoặc đã thông qua nhưng chưa được công bố, chưa có hiệu lực pháp luật) và cả giám sát sau (đạo luật đã có hiệu lực pháp luật). Quyết định của cơ quan bảo hiến là chung thẩm và có hiệu lực bắt buộc đối với mọi chủ thể.  

Mô hình bảo hiến hỗn hợp Âu - Mỹ: Đây là mô hình kết hợp cả hai mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu và mô hình bảo hiến kiểu Mỹ, được áp dụng ở Bồ Đào Nha, Côlômbia, Êcuađo, Goatêmala, Pêru, Hy Lạp, Inđônêxia, Đài Loan, Braxin, Vênêxuêla,… Theo mô hình này, thẩm quyền giám sát hiến pháp và bảo vệ hiến pháp được trao cho cả cơ quan bảo hiến chuyên trách (Tòa án hiến pháp) và các Toà án thuộc hệ thống tư pháp. 

Page 145: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Mô hình cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan bảo hiến: Hiện nay có một số quốc gia không thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách, không trao quyền bảo hiến cho các cơ quan tư pháp mà giao thẩm quyền giám sát Hiến pháp cho một số cơ quan nhà nước khác nhau như Nghị viện, Hội đồng nhà nước hoặc một cơ quan đặc biệt của Nghị viện,... Các quốc gia theo mô hình này bao gồm Phần Lan, Baren, Côoét, Ôman, Cônggô, Êtiôpia, Ghinê-Bítxao, Dimbabuê, Brunây, Mianma, Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam, Lào, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Pakixtan,… 

Hoạt động bảo hiến ở Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước coi trọng, bởi vì bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội chính là bảo vệ đường lối của Đảng, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Gắn liền với sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946, hoạt động bảo vệ Hiến pháp tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 với quy định cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật.

Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp1992, vấn đề giám sát và bảo vệ Hiến pháp được quy định trong nhiều đạo luật quan trọng như Luật Tổ chức Quốc hội (năm 2001), Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (năm 2003), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Theo những quy định này, hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam về cơ bản gồm việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; giám sát văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế; giải thích Hiến pháp; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; v.v... Trách nhiệm giám sát và bảo vệ Hiến pháp được trao cho nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đó là cơ quan quyền lực nhà nước, Chủ tịch nước, các cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp. Trong đó, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, Quốc hội là trung tâm của thiết chế bảo hiến ở Việt Nam. Giám sát của Quốc hội mang tính quyền lực nhà nước, hướng tới mọi đối tượng, mọi chủ thể trong xã hội và bao trùm tất cả các lĩnh vực, các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp. Kết quả của hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp trong thời gian qua đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm để các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phù hợp với Hiến pháp, thống nhất với hệ thống pháp luật, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp theo các quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế. Cụ thể:

Một là, việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền mà không giao cho một cơ quan chuyên trách có chức năng bảo vệ Hiến pháp. Điều này dẫn đến tình trạng không xác định rõ phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan nên hoặc là đùn đẩy trách nhiệm hoặc chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp;

Hai là, việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp theo cơ chế hiện hành chủ yếu dựa vào việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, trong khi đó giám sát tối cao của Quốc hội

Page 146: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

phụ thuộc vào các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Vì thế không tránh khỏi sự ỷ lại trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo hiến;

Ba là, chúng ta chưa có một cơ chế hữu hiệu nào để giám sát chính hoạt động của Quốc hội và giám sát tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành cũng như việc giải quyết và hệ quả pháp lý trong trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu trái với Hiến pháp. Mặc dù Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định “theo đề nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu Quốc hội, Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ luật, nghị quyết của Quốc hội trái Hiến pháp”. Tuy nhiên, cho đến nay, Quốc hội vẫn chưa bãi bỏ một văn bản luật, nghị quyết nào của mình với lý do văn bản đó trái Hiến pháp, mặc dù việc sửa đổi, bổ sung luật diễn ra liên tục hàng năm; 

Bốn là, thẩm quyền huỷ bỏ, đình chỉ văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong thực tiễn hầu như chưa được áp dụng. Hình thức kiến nghị thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa thực sự đem lại hiệu quả vì pháp luật chưa quy định cụ thể trình tự, thủ tục xử lý văn bản trái pháp luật[; 

Năm là, Hiến pháp Việt Nam không có hiệu lực áp dụng trực tiếp. Các cơ quan, tổ chức khi áp dụng pháp luật thường không viện dẫn quy định của Hiến pháp để giải quyết một vụ việc cụ thể, người dân cũng ít khi viện dẫn điều khoản của Hiến pháp để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm khi khởi kiện hoặc khiếu nại;

Sáu là, các quy định của pháp luật về giám sát và bảo vệ Hiến pháp còn thiếu, một số lĩnh vực còn chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng, chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Hơn nữa, những quy định này lại nằm rải rác trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, từ Hiến pháp, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đến nội quy, quy chế hoạt động của các cơ quan của Quốc hội… Điều này phần nào đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp.

Từ những hạn chế, bất cập trong việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp trên đây cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu để đề xuất giải pháp hữu hiệu phục vụ việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, mục đích của Nhà nước pháp quyền là bảo vệ các quyền của công dân được Hiến pháp ghi nhận, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong khi đó, cơ chế bảo hiến lại chính là bảo đảm để các quyền của công dân không bị vi phạm từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước và là bảo đảm để mọi chủ thể phải chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

Hiện nay trong giới khoa học pháp lý, xung quanh vấn đề hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam như thế nào, tổ chức theo mô hình nào còn có nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể là:

Quan điểm thứ nhất cho rằng Việt Nam cần thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách (Toà án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến) để thực hiện chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập của cơ chế bảo hiến hiện nay. Theo

Page 147: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

quan điểm này, cơ quan bảo hiến chuyên trách do Quốc hội thành lập, có vị trí độc lập với chính Quốc hội và các cơ quan thực hiện chức năng hành pháp, tư pháp. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này là xem xét, phán quyết về tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; xem xét, phán quyết đối với hành vi của cán bộ, công chức nhà nước xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương; xem xét tính hợp hiến của cuộc trưng cầu ý dân, của cuộc bầu cử; giải thích Hiến pháp. Tuy nhiên, đối với văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành thì những người theo quan điểm này cho rằng cơ quan bảo hiến chuyên trách không có quyền huỷ bỏ mà chỉ có quyền đình chỉ thi hành (hoặc tuyên bố không áp dụng) nếu văn bản đó trái Hiến pháp và đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định; 

Quan điểm thứ hai cho rằng, cơ quan bảo hiến chuyên trách chỉ cần thiết cho một Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, khi mà quyền tư pháp độc lập và ngang bằng với quyền lập pháp. Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nên không thể có một cơ quan nào đứng trên Quốc hội để phán xử hành vi của Quốc hội. Vì vậy, quan điểm này cho rằng không nên thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách mà trao cho hệ thống cơ quan tư pháp (cụ thể là Toà án) chức năng kiểm soát lập pháp và hành pháp. Theo đó, trong một vụ việc cụ thể, công dân có thể yêu cầu Toà án xem xét tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật sẽ được áp dụng đối với mình; nếu Toà án cho rằng yêu cầu này là có căn cứ thì có quyền từ chối áp dụng văn bản đó và kiến nghị cơ quan đã ban hành văn bản để có cách thức xử lý. Như vậy, Toà án không có quyền trực tiếp huỷ bỏ văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ tuyên bố không áp dụng văn bản đó trong từng trường hợp cụ thể. Cùng với thẩm quyền này, Toà án cũng được trao thẩm quyền giải thích Hiến pháp;

Quan điểm thứ ba cho rằng, một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng cơ chế bảo hiến chuyên trách là phải có một hệ thống tư pháp phát triển, trong sạch, một đội ngũ chuyên gia pháp luật có bản lĩnh chính trị, chí công vô tư, có trình độ hiểu biết pháp luật, đồng thời, ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân phải cao… Vì vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay, chưa nên thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách mà cần tiếp tục duy trì cơ chế bảo hiến hiện hành. Theo đó, chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền cùng thực hiện, trong đó đặc biệt đề cao vai trò giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan của Hội đồng nhân dân. Quan điểm này cho rằng, cần tiếp tục duy trì và tăng cường hiệu quả của cơ chế bảo hiến hiện hành như tăng cường công tác thẩm định, thẩm tra, xem xét, cho ý kiến trước khi thông qua luật, pháp lệnh và công tác kiểm tra, giám sát văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực để phát hiện và xử lý kịp thời văn bản trái Hiến pháp.

Qua nghiên cứu cơ chế bảo hiến của các nước trên thế giới và cơ chế bảo hiến ở Việt Nam thấy rằng, không có một mô hình cơ chế bảo hiến chung nào để áp dụng cho tất cả các quốc gia, cả về hình thức và phương thức thực hiện, cả về tính chất và giá trị pháp lý của phán quyết của cơ quan có chức năng bảo vệ Hiến pháp. Chúng tôi cho rằng, việc tìm kiếm mô hình nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở nước ta phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây: 

Một là, việc hoàn thiện cơ chế bảo hiến phải quán triệt và phù hợp với những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

Page 148: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

dân. Trong đó, những đặc điểm quan trọng nhất là: tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải theo nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đề cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ đồng thời với tăng cường kỷ cương, kỷ luật; bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; Nhà nước tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; bảo đảm sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;

Hai là, kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng về hoàn thiện cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp, thực hiện chủ trương đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”[4]. Vì vậy, giám sát và bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội chính là bảo vệ đường lối của Đảng, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Và như vậy, việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng chính là góp phần tiếp tục nghiên cứu để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; 

Ba là, việc hoàn thiện cơ chế bảo hiến phải dựa trên cơ sở kế thừa, phát huy những ưu điểm của cơ chế bảo hiến hiện hành, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài để tìm ra cách thức, biện pháp bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng, chống lại mọi sự vi phạm Hiến pháp có thể xảy ra và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội của nước ta.

Trên cơ sở kế thừa, phát triển những ưu điểm của cơ chế bảo hiến hiện hành và tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Việt Nam có thể thiết lập một mô hình bảo hiến đặc trưng của mình, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước. Mô hình cơ quan bảo hiến chuyên trách (được gọi là Toà án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến) với chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp là một trong những thiết chế bảo vệ Hiến pháp khá hiệu quả, được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Để làm việc này, cần nghiên cứu cụ thể, có hệ thống các vấn đề như vị trí, tính chất của cơ quan bảo hiến và mối quan hệ giữa cơ quan này với Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan bảo hiến; cơ cấu tổ chức của cơ quan bảo hiến; thành viên của cơ quan bảo hiến; trình tự, thủ tục hoạt động của cơ quan bảo hiến; phương thức hoạt động của cơ quan bảo hiến; hiệu lực pháp lý của các phán quyết của cơ quan bảo hiến,... Cụ thể:

Vị trí, tính chất của cơ quan bảo hiếnCơ quan bảo hiến chuyên trách có thể được gọi là Toà án Hiến pháp hoặc Hội đồng

bảo hiến. Chức năng của cơ quan bảo hiến là giám sát và bảo vệ Hiến pháp, trong đó chủ yếu là giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật và hành vi của các cơ quan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước. Chính vì vậy, cơ quan bảo hiến phải có vị trí độc lập trong mối quan hệ với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Cơ quan này do Quốc hội thành lập nhưng lại không thuộc Quốc hội, cơ quan hành pháp hoặc tư pháp. Chỉ trên cơ sở bảo đảm vị trí độc lập của cơ quan bảo hiến mới ràng buộc, thúc đẩy trách nhiệm và bảo đảm tính khách quan của cơ quan này trong hoạt động giám sát và bảo vệ

Page 149: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Hiến pháp. Cơ quan bảo hiến chuyên trách vừa có tính chất tư pháp (xem xét, phán quyết văn bản trái Hiến pháp và hành vi vi hiến), vừa có tính chất chính trị, tham vấn (kiến nghị biện pháp nhằm bảo đảm cho các văn bản của Quốc hội, các cơ quan nhà nước khác ban hành phù hợp với Hiến pháp). 

Thẩm quyền và phương thức hoạt động của cơ quan bảo hiến Để cơ quan bảo hiến hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, cần trao cho cơ quan này một

số thẩm quyền sau đây:- Xem xét tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật; - Xem xét tính hợp hiến của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; - Giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi của cơ quan nhà nước, cá nhân có

thẩm quyền xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Khi bất cứ quyền cơ bản nào của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp bị vi phạm từ phía cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền, công dân có quyền khiếu nại đến cơ quan bảo hiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp hiến của mình. Tuy nhiên, cần có một trình tự, thủ tục đặc biệt để không phải mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều có thể khiếu nại đến cơ quan bảo hiến, biến cơ quan này thành “túi đựng” cho mọi cuộc kiện tụng;

- Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, bảo đảm để các cơ quan này hành xử theo đúng giới hạn thẩm quyền đã được Hiến pháp và luật phân định; tạo sự cân bằng trong tổ chức và hoạt động, tránh sự lạm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương;

- Xem xét tính hợp hiến của cuộc trưng cầu ý dân, bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Cơ quan bảo hiến không có quyền xem xét lại kết quả của cuộc trưng cầu ý dân, bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, nhưng có quyền xem xét, đánh giá tính hợp hiến trong việc áp dụng thủ tục trưng cầu ý dân, bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Bất kỳ một cuộc trưng cầu ý dân hay cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân nào đều có thể bị cơ quan bảo hiến tuyên bố vi hiến nếu không tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục mà pháp luật đã quy định; 

- Giải thích Hiến pháp là một thẩm quyền quan trọng của cơ quan bảo hiến nhằm thống nhất cách hiểu và áp dụng các quy định của Hiến pháp trên thực tế. Nhu cầu giải thích Hiến pháp được đặt ra khi quy định của Hiến pháp không được hiểu một cách thống nhất hoặc rõ ràng trong quá trình thực thi, làm cho người áp dụng pháp luật có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong những trường hợp này, theo đề nghị của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, cơ quan bảo hiến tiến hành giải thích Hiến pháp.   

Trong việc xem xét tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan bảo hiến có quyền xem xét, ra phán quyết đối với tất cả văn bản quy phạm pháp luật vi phạm Hiến pháp, từ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương đến văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở địa phương, từ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước đến văn bản pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội. Mục đích của việc xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác là nhằm bảo đảm để tất cả văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp phải phù hợp với Hiến pháp, trên cơ sở của Hiến pháp và tuân thủ những nền tảng cơ bản của Hiến pháp.

Page 150: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Việc xem xét tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật không chỉ được thực hiện sau khi văn bản đó đã được ban hành, có hiệu lực thi hành mà cả trước khi văn bản đó được công bố. Tuy nhiên, phương thức giám sát trước chỉ giới hạn trong phạm vi nhất định. Cơ quan bảo hiến có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại luật đã được Quốc hội thông qua, đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua trước khi Chủ tịch nước ký lệnh công bố, nếu có căn cứ cho rằng văn bản đó không phù hợp với Hiến pháp. Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phải xem xét lại đạo luật, pháp lệnh mà mình đã thông qua. Trường hợp đạo luật được Quốc hội thông qua vi phạm Hiến pháp thì Quốc hội phải huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung đạo luật đó, nếu đạo luật vẫn được 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Chủ tịch nước phải công bố. Trường hợp pháp lệnh được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua vi phạm Hiến pháp thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phải huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung pháp lệnh đó, nếu pháp lệnh đó vẫn được 2/3 tổng số thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành thì cơ quan bảo hiến có quyền yêu cầu Chủ tịch nước không công bố và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Phương thức giám sát sau được áp dụng đối với văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực pháp luật. Theo đề nghị của chủ thể có thẩm quyền như Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, 1/10 tổng số đại biểu Quốc hội, cơ quan bảo hiến có quyền ra phán quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật vi phạm Hiến pháp. Cơ quan bảo hiến không có quyền huỷ bỏ văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành mà chỉ đình chỉ việc thi hành, nếu cho rằng văn bản đó vi phạm Hiến pháp và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan khác, tổ chức, cá nhân ban hành, cơ quan bảo hiến có quyền huỷ bỏ hoặc tuyên bố không áp dụng, nếu cho rằng văn bản đó vi phạm Hiến pháp.

Việc quy định cơ quan bảo hiến chỉ có quyền kiến nghị Quốc hội huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp là vì ở nước ta, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, không có một cơ quan nào đứng trên Quốc hội để phán xử hành vi của Quốc hội. Xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nên khác với cơ quan bảo hiến chuyên trách theo mô hình bảo hiến Châu Âu, phán quyết về tính hợp hiến đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan bảo hiến không dẫn đến sự vô hiệu ngay lập tức một văn bản hoặc một quy phạm pháp luật mà được giải quyết như sau: 

Thứ nhất, khi có căn cứ cho rằng văn bản hoặc quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp thì trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng, cơ quan bảo hiến có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành văn bản xem xét lại văn bản để tự huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung trong thời hạn nhất định. Trong thời hạn này, văn bản bị đề nghị xem xét lại bị tạm đình chỉ thi hành; cơ quan bảo hiến chưa tuyên bố một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật nào đó trái Hiến pháp và tạo cơ hội để cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành văn bản đó có những hành động cần thiết như huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc chấm dứt hiệu lực của văn bản;

Thứ hai, trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành văn bản không huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc chấm dứt hiệu lực của văn bản trong thời hạn cơ quan bảo hiến yêu cầu thì cơ quan bảo hiến có quyền tuyên bố một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật đó trái Hiến pháp và bị huỷ bỏ hoặc tuyên bố không áp dụng, trừ văn bản quy

Page 151: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

phạm pháp luật của Quốc hội thì đình chỉ thi hành và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. 

Tổ chức của cơ quan bảo hiến Khác với những cơ quan khác của Nhà nước, cơ quan bảo hiến chuyên trách không

nên thành lập ở nhiều cấp mà chỉ có một cơ quan duy nhất ở trung ương với chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp. Việc hình thành một cơ quan bảo hiến duy nhất ở trung ương là để hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp được tập trung, hiệu lực và hiệu quả. Tổ chức của cơ quan bảo hiến có thể gồm các thành viên và bộ máy giúp việc. Người đứng đầu cơ quan bảo hiến (Chánh án hoặc Chủ tịch Hội đồng) có thể do Quốc hội bầu. Các thành viên khác (thẩm phán) của cơ quan bảo hiến có thể do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước. 

Thẩm phán của cơ quan bảo hiếnTrong thiết chế bảo hiến, vấn đề quan trọng có tính quyết định hiệu lực, hiệu quả

hoạt động chính là đội ngũ các thẩm phán. Để trở thành thẩm phán của cơ quan bảo hiến, người đó phải là công dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần kiên quyết bảo vệ lẽ phải và công lý, chí công vô tư, có trình độ cử nhân luật trở lên và đã làm công tác xét xử lâu năm tại Toà án hoặc đã làm công tác pháp luật tại các cơ quan, tổ chức khác. Số lượng thẩm phán của cơ quan bảo hiến do Quốc hội quyết định, nhưng cần có một tỷ lệ hợp lý các nhà hoạt động chính trị có nhiều kinh nghiệm. Với nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên, để bảo đảm tiến độ và chất lượng giải quyết các vụ việc, cơ quan bảo hiến cần có khoảng 15 thành viên. 

Về trình tự, thủ tục hoạt động của cơ quan bảo hiến Phán quyết, quyết định của cơ quan bảo hiến, đặc biệt là những phán quyết về tính

hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật không chỉ tác động đến đối tượng bị giám sát mà tác động đến cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và đến toàn xã hội. Chính vì vậy, cần có một trình tự, thủ tục đặc biệt cho hoạt động của cơ quan bảo hiến, khác với trình tự, thủ tục xem xét vụ việc tư pháp thông thường. Đó là thủ tục đề nghị xem xét tính hợp hiến của văn bản hoặc hành vi, thủ tục thụ lý hồ sơ, thu thập thông tin, chứng cứ, thủ tục xem xét vụ việc, biểu quyết thông qua quyết định, công bố quyết định và thủ tục xem xét lại vụ việc trong trường hợp cần thiết…

Ngoài những vấn đề trên đây, chúng tôi đề nghị các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cần tiếp tục tổng kết, đánh giá đầy đủ, khách quan tất cả các phương diện của cơ chế bảo hiến hiện hành của Việt Nam như hệ thống pháp luật, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ý thức pháp luật của nhân dân… từ đó nghiên cứu, đề xuất các giải pháp đồng bộ và hữu hiệu về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam.

BẢO ĐẢM TÍNH TỐI CAO CỦA HIẾN PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

 

Vai trò của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền

Page 152: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Để tồn tại và phát triển, con người buộc phải liên kết lại với nhau thành những cộng đồng, thành xã hội. Và cùng với những sự liên kết đó, trong mỗi cộng đồng đã sinh ra quyền lực công cộng - một phương tiện để duy trì trật tự trong mỗi cộng đồng, cũng như trong toàn xã hội và để phối hợp hoạt động của cả cộng đồng, của xã hội theo những định hướng nhất định vì những mục tiêu chung nhằm đạt tới tự do, hạnh phúc cho mỗi người và cho cả cộng đồng. Khi trong xã hội xuất hiện nhà nước, cũng có nghĩa là xuất hiện quyền lực nhà nước - một loại quyền lực công cộng đặc biệt bắt nguồn từ nhân dân, thuộc về nhân dân nhưng không do toàn thể nhân dân tự thực hiện mà do một bộ máy chuyên môn thay mặt nhân dân thực hiện. Song trên thực tế, sự kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước từ xưa đến nay luôn là vấn đề rất khó khăn; trong nhiều trường hợp có thể nói là nhân dân hầu như không thể kiểm soát được quyền lực nhà nước. Để nhân dân có thể kiểm soát được quyền lực nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là “của dân, do dân và vì dân” thì cần phải xác lập một cơ chế giao và kiểm soát quyền lực chặt chẽ từ phía nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, những người đại diện cho nhân dân để nhân dân không bị biến thành công cụ, phương tiện phục vụ lợi ích cho những người mà họ đã uỷ quyền, thì biện pháp tốt nhất trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là phải xây dựng nhà nước pháp quyền.

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Nhà nước ta phải được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, luôn đề cao vị trí, vai trò của pháp luật, phấn đấu nhằm đưa lại tự do, hạnh phúc cho con người, tạo điều kiện cho xã hội tồn tại và phát triển thông qua hệ thống các thể chế và yêu cầu dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là người đại diện chính thức cho toàn xã hội, nên cần phải bảo đảm tính tối cao của quyền lực nhà nước so với quyền lực của các tổ chức khác trong xã hội, còn pháp luật phải là công cụ quản lý xã hội mang tính tối cao so với các công cụ quản lý khác, do vậy, đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Đương nhiên, để được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh, pháp luật phải luôn phù hợp với quy luật khách quan, luôn thúc đẩy, tạo điều kiện cho xã hội phát triển vì hạnh phúc của mọi người. Để có được điều đó thì một trong những yêu cầu quan trọng là phải bảo đảm tính tối cao của hiến pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Trước hết, phải khẳng định rằng: hiến pháp là một bộ phận, nhưng là bộ phận quan trọng nhất của pháp luật. Trong hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước ta thì Hiến pháp được xem là luật cơ bản, nó “là một văn bản duy nhất quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển, hiến pháp là văn bản, là phương tiện pháp lý thể hiện tư tưởng của Đảng dưới hình thức những quy phạm pháp luật”. Hiến pháp của Nhà nước ta do Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành theo trình tự, thủ tục đặc biệt (việc thông qua hoặc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành). Do vậy, có thể nói, Hiến pháp nước ta là văn bản pháp lý đặc biệt thể hiện một cách tập trung nhất ý chí và những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động trên các lĩnh vực của đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Thông qua hiến pháp, nhân dân thực hiện việc giao quyền cho các cơ quan nhà nước, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, xác định địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội, quy chế pháp lý của các cá nhân... Đồng thời, thông qua hiến pháp, nhân dân quy định sự kiểm soát của mình đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã

Page 153: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

hội và các cá nhân. Vì vậy, các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp tức là chấp hành ý chí của nhân dân.

Sự cần thiết phải bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp

Nhưng hiến pháp cũng chỉ là một văn bản luật. Với khuôn khổ có hạn, hiến pháp trong nhiều trường hợp không thể quy định một cách chi tiết và cụ thể để áp dụng trong mọi tình huống, mà chỉ có thể quy định những vấn đề chung, cơ bản, mang tính nguyên tắc của nhà nước và của xã hội như: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân... Do hiến pháp không thể quy định được tất cả những gì liên quan tới nhà nước và xã hội nên đòi hỏi phải có sự chi tiết, cụ thể hóa các quy định của hiến pháp bằng các văn bản pháp luật khác. Nếu không có sự chi tiết, cụ thể đó, những quy định của hiến pháp sẽ khó đi vào cuộc sống, thậm chí có những quy định không thể thực hiện được. Vì lẽ đó, thông qua hiến pháp, nhân dân còn uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động có thể ban hành luật và các văn bản dưới luật khác để chi tiết hoá hiến pháp, nhằm để thực hiện hiến pháp. Việc chi tiết, cụ thể hoá hiến pháp bằng các văn bản pháp luật khác phải được thực hiện trên cơ sở hiến pháp và phải bảo đảm điều kiện là tất cả các văn bản pháp luật đó luôn phù hợp với hiến pháp, không được trái với hiến pháp. Những cơ quan nhà nước nếu không được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của hiến pháp thì có nghĩa là họ đã vượt quá những nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân giao cho, nếu họ ban hành các văn bản pháp luật không phù hợp với hiến pháp, trái hiến pháp tức là trái với ý chí của nhân dân, không tuân theo ý chí của nhân dân. Chưa kể là, nếu không bảo đảm tính tối cao của hiến pháp thì sẽ dẫn đến tình trạng tản mạn, trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật, phá vỡ tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Như vậy, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp không những là sự tôn trọng ý chí và nguyện vọng của nhân dân mà còn tạo nên tính thống nhất của hệ thống pháp luật, làm cho việc nhận thức và thực hiện pháp luật chính xác, thống nhất hơn. Chính vì thế, Điều 146 của Hiến pháp nước ta đã khẳng định: “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với hiến pháp”.

Yêu cầu của việc bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp

Bảo đảm tính tối cao của hiến pháp đòi hỏi:

1. Tất cả các cơ quan nhà nước được nhân dân uỷ quyền không những phải tổ chức và hoạt động theo quy định của hiến pháp mà các cơ quan này còn phải ban hành các văn bản pháp luật (kể cả các văn bản luật và văn bản dưới luật) phù hợp với hiến pháp. Xuất phát từ nguyên tắc này thì: các văn bản dưới luật phải được ban hành trên cơ sở các văn bản luật, phù hợp với các văn bản luật, nội dung không được trái với các văn bản luật, nhằm để thực hiện các văn bản luật; văn bản của các cơ quan chấp hành và điều hành phải được ban hành phù hợp với văn bản của các cơ quan quyền lực, đại diện; văn bản của các cơ quan cấp dưới phải được ban hành phù hợp với văn bản của cơ quan cấp trên, nhưng phải bảo đảm sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan ở mỗi cấp; mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với hiến pháp.

 2. Nhà nước không được tham gia ký kết các điều ước quốc tế có nội dung mâu thuẫn, đối lập với các quy định của hiến pháp. Khi có mâu thuẫn, đối lập giữa quy định

Page 154: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

của điều ước với hiến pháp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không tham gia ký kết, không phê chuẩn hoặc phải bảo lưu (không thực hiện) đối với những điều mâu thuẫn đó của các điều ước quốc tế.

3. Tính tối cao của hiến pháp còn đòi hỏi văn kiện của các tổ chức chính trị- xã hội khác cũng không được có nội dung trái với hiến pháp và pháp luật.

4. Trong những trường hợp có sự mâu thuẫn giữa quy định của các văn bản pháp luật khác với các quy định của hiến pháp thì thực hiện theo quy định của hiến pháp, nếu văn kiện của các tổ chức, đoàn thể xã hội có nội dung trái với hiến pháp và các văn bản luật khác của nhà nước thì phải áp dụng quy định của hiến pháp, của các văn bản luật.

Để bảo đảm được tính tối cao của hiến pháp đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, theo chúng tôi, cần chú ý những yêu cầu cơ bản sau:

Một là, do vị trí và tính chất đặc biệt của hiến pháp trong hệ thống các văn bản pháp luật của đất nước, theo chúng tôi, cần có thủ tục nhân dân bỏ phiếu trưng cầu về hiến pháp. Nghĩa là, sau khi được Quốc hội chính thức thông qua, thì bản hiến pháp cần được đưa ra trưng cầu dân ý để cử tri cả nước biểu thị ý chí của mình đối với bản hiến pháp hoặc chí ít là đối với những vấn đề quan trọng, còn nhiều tranh luận được quy định trong hiến pháp. Điều này cũng thể hiện quyền lực tối cao của nhân dân. Là chủ thể quyền lực nhà nước, nhân dân phải được trực tiếp thông qua hiến pháp, tự quyết định vận mệnh của mình. Nếu “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, thì việc nhân dân giao quyền cho ai, đến đâu,... phải do nhân dân quyết định thông qua hiến pháp. Nói một cách cụ thể hơn, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, của những người đại diện nhân dân do hiến pháp quy định phải được sự đồng ý của nhân dân. Các cơ quan nhà nước, những người đại diện nhân dân chỉ được làm những gì mà nhân dân thông qua hiến pháp và pháp luật cho phép, do vậy, họ phải quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không phải bằng ý chí chủ quan của mình.

Hai là, về mặt kỹ thuật, hiến pháp cần được xây dựng như một văn bản mẫu, tránh việc dùng các thuật ngữ không thống nhất trong hiến pháp. Chẳng hạn, hiến pháp khi quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội là thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp (Điều 84), nhưng đối với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì lại là giám sát việc thi hành hiến pháp (Điều 91), lẽ ra trong cả hai trường hợp đều dùng chữ thực hiện thì sẽ khái quát và thống nhất hơn; Quốc hội làm hiến pháp, làm luật (Điều 84), Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra pháp lệnh (Điều 91), Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định (Điều 106), nếu tất cả đều dùng chữ ban hành thì thống nhất hơn; Chủ tịch nước công bố hiến pháp, luật..., ra lệnh tổng động viên..., ban bố tình trạng khẩn cấp... (Điều 103), nếu tất cả đều dùng chữ công bố sẽ hợp lý hơn.

Ba là, sau khi hiến pháp được ban hành phải nhanh chóng chi tiết, cụ thể hóa những quy định của hiến pháp bằng các văn bản luật khác, tạo cơ sở cho sự phát triển và hoàn thiện của toàn bộ hệ thống pháp luật. Đồng thời, phải tiến hành giải thích chính thức đối với những quy định của hiến pháp, đặc biệt là những quy định dễ gây ra sự nhận thức không thống nhất.

Bốn là, cần thực hiện việc kiểm tra, giám sát đối với công tác tổ chức và hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước từ trung ương tới

Page 155: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

địa phương, kể cả của các cơ quan nhà nước cao nhất. Đồng thời, cũng phải kiểm tra, giám sát đối với hoạt động và văn bản của các tổ chức, đoàn thể xã hội trong đất nước. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa hiến pháp với các văn bản khác thì phải nhanh chóng khắc phục và xử lý kiên quyết những văn bản được ban hành trái hiến pháp.

Mặc dù hiến pháp hiện hành ở nước ta đã giao cho Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành hiến pháp, nhưng trên thực tế, hiệu quả hoạt động giám sát của hai cơ quan này đối với việc thực hiện hiến pháp chưa cao. Do vậy, theo chúng tôi, nên chăng hiến pháp nước ta cần quy định một cơ chế giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng và thực hiện hiến pháp. Hoặc nghiên cứu thành lập một cơ quan có thể là Hội đồng hay Uỷ ban bảo hiến hoặc Toà án hiến pháp (thuộc Quốc hội) thay mặt nhân dân chỉ chuyên làm nhiệm vụ giám sát việc thực hiện hiến pháp (kể cả đối với Quốc hội) để bảo vệ tính tối cao của hiến pháp. Về cơ quan này, cần phải tiếp tục nghiên cứu trên nhiều bình diện, nhưng sơ bộ về mặt cơ cấu (thành phần), để phù hợp với thể chế chính trị nước ta hiện nay, chúng tôi cho rằng, cơ quan này có thể gồm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cựu Chủ tịch nước, cựu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, cựu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cùng một vài chuyên gia nữa. Sự phán quyết của cơ quan này về tính hợp hiến của một văn bản hay một hoạt động cụ thể nào đó là không thể thay đổi và văn bản hay hoạt động cụ thể vi hiến đó cần phải được đình chỉ, huỷ bỏ hoặc chấm dứt. Chúng ta cần tránh tình trạng tính tối cao của hiến pháp bị vi phạm nhưng Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không có biện pháp xử lý. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1980 quy định việc khám, chữa bệnh không mất tiền, nhưng Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989 lại quy định người bệnh phải nộp viện phí. Hay Hiến pháp năm 1992 quy định rừng núi thuộc sở hữu toàn dân, nhưng Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 lại quy định lâm sản của rừng trồng thì thuộc về người trồng... Trong những trường hợp trên, theo chúng tôi, khi ban hành luật, nếu chúng ta đồng thời sửa các quy định của hiến pháp cho phù hợp với tình hình mới thì tốt biết bao.

Bảo đảm tính tối cao của hiến pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt, nhằm bảo đảm quyền lực tối cao của nhân dân, tôn trọng ý chí và nguyện vọng của nhân dân; mặt khác, nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho sự phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm cơ sở để thiết lập trật tự pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa./.

ĐỂ HIẾN PHÁP MỚI NHANH ĐI VÀO CUỘC SỐNG

– Tại Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp ngày 8/1/2014, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cả một hệ thống chính trị trong năm 2014.

Page 156: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. 

Xây dựng một bản Hiến pháp “vang vọng tiếng dân” đã khó, nhưng khó khăn không kém là việc triển khai thi hành Hiến pháp, đưa các điều khoản của Hiến pháp vào thực tiễn của cuộc sống; và đó mới là mục đích của việc xây dựng Hiến pháp.

Để việc triển khai thi hành Hiến pháp nhanh chóng và có hiệu quả, người viết đề xuất một số biện pháp sau.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với Hiến pháp

Theo đó, cơ quan Trung ương và địa phương tiến hành rà soát toàn diện, đồng bộ các văn bản pháp luật đã ban hành để phát hiện những quy định trái Hiến pháp phải bị dừng thi hành, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản pháp luật để cụ thể hóa những quy định mới của Hiến pháp.

Ưu tiên sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước và các thiết chế khác trong hệ thống chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; lập danh mục xác định lộ trình hoàn thiện hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, đối ngoại và hợp tác quốc tế.

Triển khai thực hiện những điều khoản của Hiến pháp mà không cần phải chờ văn bản hướng dẫn

Bên cạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các luật, pháp lệnh, các văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa Hiến pháp, khắc phục tình trạng các qui định của Hiến pháp, nhất là quyền hiến định qui định trong chương “Quyền con người”, “Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân” phải chờ luật cụ thể hóa, các cơ quan Nhà nước cần xem xét, phân loại các chương, điều, khoản của Hiến pháp. Với những qui định, những điều, khoản đã rõ ràng thì cần áp dụng trực tiếp mà không cần chờ các văn bản hướng dẫn (nhìn chung, trừ các quyền có qui định “việc thực hiện các quyền này do luật định”, “việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”, “…theo luật định”, “…theo quy định của pháp luật”, các qui định về quyền con người, quyền công dân cần được triển khai thực hiện ngay mà không cần chờ văn bản hướng dẫn).

Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước phù hợp với các qui định của Hiến pháp

Các thiết chế hiến định như Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Kiểm toán Nhà nước tiếp tục hoạt động cho đến khi Quốc hội khóa XIV bầu ra các cơ quan mới theo quy định của Hiến pháp.

Tương tự như vậy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tiếp tục hoạt động cho đến khi Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được thành lập theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với Hiến pháp.

Từ 1/1/2014, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình được quy định trong Hiến pháp.

Page 157: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Cũng từ 1/1/2014, những công việc đang được cơ quan Nhà nước giải quyết theo quy định của Hiến pháp năm 1992 mà thẩm quyền này được giao cho cơ quan Nhà nước khác thực hiện theo quy định của Hiến pháp sửa đổi thì phải chuyển giao cho cơ quan Nhà nước đó để tiếp tục giải quyết.

Tuyên truyền sâu rộng nội dung của Hiến pháp

Chỉ khi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân hiểu sâu sắc về Hiến pháp thì đây sẽ là cơ sở bảo đảm Hiến pháp được thực thi nghiêm túc và hiệu quả. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân và các tầng lớp nhân dân, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài về Hiến pháp là nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Cơ quan Nhà nước các cấp, MTTQVN và các cơ quan hữu quan khác tổ chức tuyên truyền sâu rộng nội dung của Hiến pháp tại cơ quan, tổ chức và địa phương mình nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Các cơ quan thông tấn, báo chí có kế hoạch tuyên truyền bằng nhiều hình thức thích hợp để tuyên truyền nội dung của Hiến pháp, nhất là những điểm mới được bổ sung; tổ chức tập huấn báo cáo viên, tuyên truyền viên về Hiến pháp; giới thiệu, phổ biến nội dung, ý nghĩa của Hiến pháp đến mọi tầng lớp nhân dân.

Rõ ràng, một vấn đề rất quan trọng là nâng cao khả năng tiếp cận quyền của người dân. Hiến pháp, pháp luật đã ghi nhận các quyền cơ bản nhưng việc người dân có thể tiếp cận, sử dụng Hiến pháp, pháp luật để bảo vệ quyền của mình hay không phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết, cơ chế, thủ tục bảo đảm thực thi các quyền. Vấn đề này đặt ra trách nhiệm đối với các cơ quan Nhà nước, từ việc phổ biến, tuyên truyền các nội dung mới của Hiến pháp đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy để bảo đảm thực thi. Mặt khác, phải tuyên truyền, phổ biến làm cho toàn dân quan tâm đến việc thực hiện Hiến pháp, trong đó có việc thực hiện và bảo vệ quyền lợi hiến định của chính họ, vì nhân dân chính là chủ thể thực thi và giám sát việc thực thi Hiến pháp.

Hiến pháp là văn kiện chính trị-pháp lý có vai trò đặc biệt quan trọng không những đối với Nhà nước mà cả hệ thống chính trị. Các thế lực thù địch luôn lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước. Vì thế, các cơ quan làm công tác tư tưởng, văn hóa, báo chí, xuất bản, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức đảng, các nhà khoa học cần đi đầu trong việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù định; góp phần tạo sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân phê phán những nhận thức sai trái, lệch lạc, mơ hồ về Hiến pháp.

Chỉnh lý, biên soạn lại sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về Hiến pháp và pháp luật

Các viện nghiên cứu, các cơ sở giáo dục, đào tạo, nhất là các viện nghiên cứu về Nhà nước và pháp luật, các trường đại học và các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật cần khẩn trương sửa đổi, bổ sung, cập nhật các quy định mới của Hiến pháp để có kế hoạch biên soạn lại sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về Hiến pháp. Mặt khác, cần đẩy mạnh việc phổ biến, tuyên truyền Hiến pháp phục vụ công tác đối ngoại.

Page 158: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

Vì triển khai thi hành Hiến pháp là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, nên các cấp, các ngành, cơ quan, tổ chức, đơn vị chủ động xây dựng kế hoạch việc thực thi ở cấp, ngành, cơ quan, đơn vị mình; thường xuyên đôn đốc, kịp thời tháo gỡ vướng mắc phát sinh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện Hiến pháp để các quy định của Hiến pháp được thực hiện nghiêm minh, sớm đi vào thực tiễn.

KHẨN TRƯƠNG THI HÀNH HIẾN PHÁP ĐỒNG BỘ,

THỐNG NHẤT VÀ HIỆU QUẢ

Sáng 8-1, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (QH) tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam.

Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội; Lê Hồng Anh, Thường trực Ban Bí thư; Đinh Thế Huynh, Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư; Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Chính phủ; và đồng chí Uông Chu Lưu, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Chủ tịch QH chủ trì Hội nghị. Tham dự hội nghị, có các đồng chí lãnh đạo QH, Ủy viên Ủy ban Thường vụ QH; lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương và một số địa phương.

Ban Tổ chức cho biết, Hội nghị quan trọng lần này nhằm quán triệt, phổ biến những nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam vừa được QH Khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6; đồng thời, quán triệt, triển khai Chỉ thị của Ban Bí thư, Nghị quyết của QH, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ QH về việc triển khai thi hành Hiến pháp.

Phát biểu ý kiến khai mạc Hội nghị, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh: Hiến pháp là đạo luật gốc, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước ta. Sau khi Hiến pháp được QH thông qua, nhiệm vụ quan trọng là tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp, bảo đảm cho từng nội dung của Hiến pháp thật sự đi vào đời sống, tạo sự chuyển biến sâu rộng và tích cực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là nhiệm vụ quan trọng, có liên quan trực tiếp và ảnh hưởng sâu rộng đến toàn hệ thống chính trị. Quá trình triển khai thi hành Hiến pháp đòi hỏi sự tham gia tích cực, nghiêm túc của nhân dân, tất cả các cấp, các ngành, bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của chính quyền, sự phối hợp của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Chủ tịch QH đề nghị cần khẩn trương tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp đồng bộ, thống nhất và hiệu quả, kịp thời tuyên truyền, phổ biến sâu rộng tinh thần và nội dung Hiến pháp, giá trị khoa học và thực tiễn của Hiến pháp đến các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về Hiến pháp, ý thức chấp hành và bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe đồng chí Đinh Thế Huynh, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư phổ biến Chỉ thị số 32-CT/T.Ư của Ban Bí thư về triển khai thi hành Hiến pháp và định hướng công tác tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp.

Trong Chỉ thị, Ban Bí thư nhấn mạnh: Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, Đảng đoàn và ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp, các bộ, ngành ở Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, Đảng đoàn MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội cần tổ

Page 159: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành

chức quán triệt và chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết 64/2013/QH13 của QH quy định một số điểm thi hành Hiến pháp của Ủy ban Thường vụ QH. Khẩn trương xây dựng kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp của cơ quan, tổ chức mình, trong đó xác định rõ các nội dung, hoạt động cụ thể, lộ trình và kế hoạch ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực được giao phụ trách; các điều kiện bảo đảm cho việc phổ biến, tuyên truyền và tổ chức thực thi Hiến pháp.

Đồng chí Đinh Thế Huynh nhấn mạnh: Các cấp ủy, tổ chức đảng đưa nội dung này vào sinh hoạt của chi bộ, đảng bộ để quán triệt trong toàn thể cán bộ, đảng viên về mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng của việc tuân thủ và chấp hành Hiến pháp cũng như nhiệm vụ của tổ chức, cá nhân trong triển khai thi hành Hiến pháp.

Việc học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Hiến pháp cần được tổ chức bài bản, khoa học, giúp cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nắm vững nội dung cơ bản của Hiến pháp, nâng cao nhận thức, ý thức tự giác tôn trọng và chấp hành Hiến pháp. Đồng thời phải nắm diễn biến tình hình tư tưởng trong quá trình triển khai thực hiện Hiến pháp; kịp thời định hướng tư tưởng và dư luận, xử lý những vấn đề nổi cộm, phức tạp. Các cơ quan làm công tác tư tưởng, văn hóa, báo chí, xuất bản đi đầu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; góp phần tạo sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân phê phán những nhận thức sai trái, lệch lạc, mơ hồ về Hiến pháp. Đấu tranh chống những luận điệu, quan điểm xuyên tạc, phá hoại việc thực hiện Hiến pháp, phủ nhận những nội dung cốt lõi, những điểm bổ sung, điểm mới của Hiến pháp sửa đổi.

Các đại biểu đã nghe Phó Chủ tịch QH Uông Chu Lưu trình bày báo cáo về "Những nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam"; Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH Phan Trung Lý trình bày Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp.

Phát biểu ý kiến bế mạc Hội nghị, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng yêu cầu việc triển khai thi hành Hiến pháp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cấp, các ngành trong năm 2014 và các năm tiếp theo với tinh thần kịp thời, đồng bộ, toàn diện, thống nhất, hiệu quả và tiết kiệm. Toàn hệ thống chính trị của cả nước đang vào cuộc tích cực triển khai thi hành Hiến pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng, và phấn đấu đạt và vượt tiến độ đề ra. Định kỳ sáu tháng, một năm, xây dựng báo cáo kết quả thi hành Hiến pháp gửi đến Ủy ban Thường vụ QH và Chính phủ để tổng hợp.

Trong quá trình triển khai thi hành Hiến pháp cần bảo đảm nguyên tắc sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, sự tham gia phối hợp nghiêm túc, khẩn trương của tất cả các cơ quan, các ngành, các cấp, các tổ chức, đơn vị các địa phương và đặc biệt đề cao vai trò cơ quan thông tấn báo chí trong công tác tư tưởng, tuyên truyền. Ủy ban Thường vụ QH, Chính phủ, Ban Tuyên giáo T.Ư là các cơ quan trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ triển khai thi hành Hiến pháp.

Theo bạn, Nhà nước và mỗi người dân có trách nhiệm làm gì và làm như thế nào để thi hành và bảo vệ Hiến pháp?

(Riêng câu 09 viết không quá 1.000 từ tương đương 3 trang A4 viết tay hoặc đánh máy tính cỡ chữ 14 Times New Roman).

Page 160: Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam …tttuyan.phuyen.edu.vn/vanban/vb_chuy/AU HOI TIM HIEU HIEN... · Web viewTrả lời Câu 1. Từ năm 1945 khi thành