Cs6 photoshop
Transcript of Cs6 photoshop
1
Mục lục
Bài 1 - Các tính năng cơ bản Photoshop CS6 ....................... 2
1. Giao diện làm việc ...................................................................... 2
2. Tuỳ biến Photoshop CS6 ........................................................... 5
3. Các xác lập của Photoshop ....................................................... 9
Bài 2 - Đưa vào các File ảnh ................................................. 17
1. Đưa ảnh vào Photoshop .......................................................... 17
2. Bố cục ảnh ................................................................................ 20
3. In ảnh ......................................................................................... 25
Bài 3 - Tinh chỉnh các vùng sáng và tối ............................... 28
1. Sử dụng các Histogram ........................................................... 28
3. Sử dụng các tính năng điều chỉnh tự động ........................... 31
4. Levels và Curves ...................................................................... 33
5. Một số công cụ khác ................................................................ 37
Bài 4 – Tùy chỉnh màu sắc .................................................... 43
1. Màu trong Photoshop CS6 ...................................................... 43
2. Điều chỉnh màu trong Photoshop ........................................... 47
3. Chỉnh sửa các tông màu da .................................................... 58
Bài 5 - Hoà trộn các lớp màu với nhau ................................. 60
1. Cách hoạt dộng của chế độ lớp .............................................. 60
2. Tách màu và tông màu ............................................................. 69
Bài 6 – Vùng chọn trên ảnh ................................................... 76
1. Xác định nơi làm việc với các vùng chọn .............................. 76
2. Một vùng chọn trên ảnh ........................................................... 76
3. Feathering và Anti-aliasing ...................................................... 77
4. Tạo các vùng chọn với các công cụ ....................................... 78
5. Các lệnh chọn ........................................................................... 82
6. Các mặt nạ ................................................................................. 88
7. Các điều chỉnh .......................................................................... 92
Bài 7 - Kết hợp ảnh với các lớp ............................................ 96
1. Kết hợp các phần nhỏ với các lớp ......................................... 96
2. Bộ lọc Vanishing Point........................................................... 100
3. Kết hợp các ảnh tự động ....................................................... 102
4. Thêm các hiệu ứng mỹ thuật và sáng tạo ............................ 105
Bài 8 – Tinh chỉnh ảnh và tạo hiệu ứng .............................. 116
1. Hoàn chỉnh các bức chân dung ............................................ 116
2. Làm cho các ảnh đẹp hơn ..................................................... 116
3. Giảm nhiễu trong các ảnh ..................................................... 121
4. Loại bỏ các thành phần không cần thiết khỏi ảnh gốc ...... 124
5. Tạo bong bóng trong bức ảnh .............................................. 127
6. Tạo hiệu ứng ảnh lồng nhau ................................................. 139
7. Tạo hiệu ứng phóng to trong bức ảnh ................................. 147
8. Tạo hiệu ứng gợn nước trong bức ảnh ............................... 153
2
Bài 1 - Các tính năng cơ bản Photoshop CS6
1. Giao diện làm việc
Trong bài này không trình bày chi tiết tất cả các menu, Palette, và công cụ Photoshop CS6 mà chỉ nêu một
số khái niệm hoạt động cơ bản. Tuy nhiên, bạn đừng lo, bạn có thể tìm hiểu cách sử dụng các lệnh và các
công cụ nhất định trong suốt cuốn sách này, trong các bài phù hợp nhất với chúng. Trong bài này, bạn sẽ
khám phá như cách nhận biết các lệnh menu nào có các hộp thoại, tam giác nhỏ nằm ở một góc của Palette
có chức năng gì, và những công cụ nào không sử dụng thanh Options. Bạn cũng sẽ tìm hiểu cách tạo tuỳ
biến môi trường Photoshop để làm việc nhanh hơn và hiệu quả hơn. Kế tiếp, bạn sẽ học cách cài đặt
Preferences và Color Settings của Photoshop. Mục cuối của bài – đây có lẽ là mục quan trọng nhất trong
toàn bộ cuốn sách này - giải thích những gì cần thực hiện Photoshop có vẻ hoạt động không đúng cách.
a. Các Palette
Photoshop (và các chương trình khác trong bộ Adobe Creative Suite) sử dụng các Palette di động. Các
Palette này luôn xuất hiện ở phần trên cùng của cửa sổ ảnh. Một số chúng nằm dọc theo mép phải của màn
hình. Cửa sổ ảnh sẽ không bao giờ che giấu các Palette. (Tuy nhiên, các Palette có thể che dấu các Palette
khác). Thanh Options (nằm ngang qua đỉnh của vùng làm việc) và Toolbox (hay thanh công cụ) nằm dọc
theo mép trái của màn hình cùng các Palette.
Các Palette có các tính năng Photoshop mà bạn có thể cần truy cập thường xuyên. Không phải lúc nào bạn
cũng cần có các Palette hiển thị. Trong Photoshop, nhấn phím Tab để che giấu tất cả các Palette hoặc nhấn
Shift+Tab để che dấu cả ngoại trừ Toolbox và thanh Options. Với ít Palette hiển thị hơn, Palette bạn có thể
tạo nhiều chỗ hơn cho ảnh của bạn. Bạn có thể che giấu và hiển thị các Palette một cách có chọn lọc thông
qua menu Windows.
3
Như bạn thấy ở hình trên nhiều Palette có thể được xếp lồng (được nhóm lại với nhau). Để đưa một Palette
ra phía trước, hãy nhấp vào tab của nó. Bạn cũng có thể rê tab của một Palette để di chuyển nó khỏi một
nhóm đến một vị trí bất kỳ trên màn hình hoặc vào một nhóm khác. Ngoài ra, ở cuối bên phải của thanh
Options là Palette Well. Theo mặc định Palette Well này chứa các Palette Brushes, Tool Pre-sets, và Layer
Comp. Hãy rê tab của một Palette vào Palette Well để đưa nó ra theo cách của bạn nhưng vẫn giữ cho nó dễ
truy cập.
Nếu nhiều Palette của Photoshop có thể được định lại kích cỡ. Giống như một cửa sổ ảnh, bạn rê góc phía
dưới bên phải của Palette để mở rộng hay thu hẹp nó. Bạn cũng có nhiều nút để điều khiển tính hiển thị và
kích cỡ của Palette hay nhóm Palette. Hãy xem hình minh họa phía dưới, những người dùng Macintosh có
ba nút ở góc trên bên trái của Palette, và những người dùng Windows có một cặp nút nằm ở phía trên bên
phải.
- Nhấp nút phải để che giấu Palette (hay nhóm Palette)
- Nhấp nút trái để tối ưu hoá.
Hầu như tất cả Palette Photoshop đều có một menu Palette. Bạn có thể chọn nhiều tuỳ chọn khác nhau trong
nenu này. (Toolbox và thanh Options không có các menu). Bạn mở menu Palette bằng cách nhấp vào tam
giác nhỏ nằm ở góc trên bên phải của Palette. Menu Palette chứa những tuỳ chọn như kích cỡ thumbnail
(chẳng hạn các Palette Layers, Channels, và Paths), cách hiển thị các mục trong Palette (Swatches, Styles,
và Brushes trong số các mục khác), hoặc kích cỡ và nội dung của Palette (info và Histogram). Khi Palette
được nêu cố định trọng Palette Well, tam giác vốn có tác dụng mở menu sẽ xuất hiện trong tab của Palette.
Nội dung của một số Palette thay đổi tự động khi bạn làm việc với ảnh của bạn. Hãy thêm vào một lớp và
Palette Layer sẽ hiển thị một lớp mới. Nếu bạn lưu một vùng chọn, Palette Channel sẽ hiển thị một kênh
alpha mới. Khi bạn rê một cộng cụ xếp, Palette Layer nhận một lớp mới và Palette Path hiển thị mặt nạ
vector của lớp đó. Bạn điều khiển một số Palette khác bằng cách tải (và xoá) nội dung thông qua các menu
Palette hoặc bằng lệnh Edit | Preset Manager. Hãy sử dụng Preset Manager để lưu các tập hợp tuỳ biến của
4
bạn cũng như để tải và xoá các mục ra khỏi các Palette.
Ngoài nội dung của các Palette Brushes, Swatches, Styles, và Tool Presets, bạn sử dụng Preset Manager với
một số picker (bộ chọn). Các picker là một loại mini-Palette, chỉ có sẵn với các công cụ và tính năng nhất
định. Các picker Gradient và Custom Shape được truy cập thông qua thanh Options khi các công cụ đó đang
được sử dụng. Picker Pattern được tìm thấy trong hộp thoại Fill, hộp thoại Layer Style, và (với một số công
cụ) trong thanh Options. Picker Contour được sử dụng với 6 hiệu ứng trong hộp thoại Layer Style.
Photoshop CS6 giới thiệu một số sự thay đổi quan trọng đối với Palette Layers, như minh họa ở hình dưới
đây:
Các tập hợp lớp không còn nữa. Cột Link cũng biến mất. Thay vào đó, Photoshop CS6 cung cấp cho bạn
tính năng để chọn nhiều lớp bằng cách nhấn Shift+nhấp và Ctrl+nhấp. Bạn có thể biến đổi nhiều lớp, nhưng
bạn không thể thêm nội dung vào nhiều lớp cùng lúc – giả sử, lắp đầu một vùng chọn trên hay hay ba lớp
bạn cũng không thể áp dụng một style lớp cho nhiều lớp đồng thời. Bạn có thể liên kết và tạo các nhóm lớp
(tương đương chức năng của các tập hợp lớp) từ các lớp được chọn thông qua menu Layers.
b. Các công cụ
Bạn điều khiển sự hoạt động của các công cụ Photoshop thông qua thanh Options. Ngoại trừ một vài công
cụ liên quan đến đường dẫn (Direct Selection, Add Anchor Point, Delete Anchor Point, và con-vert Point),
mọi công cụ trong Photoshop đều có các tuỳ chọn. Thanh Options thay đổi khi bạn chuyển đổi các công cụ.
Và trong một số trường hợp, thanh Options thay đổi trong khi bạn làm việc với công cụ. Trong trường hợp
của công cụ Crop, như hình minh họa dưới đây:
5
Bạn có một tập hợp tuỳ chọn trước khi bạn rê công cụ và một tập hợp khác sau khi thiết lập hộp biên.
Cách hoạt động của một số công cụ thay đổi khi bạn thêm một hay nhiều phím chỉnh sửa (Ctrl, Shift, và
Alt). Chẳng hạn, các phím chỉnh sửa có thể tác động đến sự hoạt động của công cụ. Chúng ta sẽ xem xét các
công cụ Rectangular Marquee và Elliptical Marquee.
- Nhấn giữ phím Shift trong khi rê: Thông thường các công cụ chọn marquee là có dạng tự do - bạn rê
theo bất kỳ cách nào bạn thích. Mặt khác, khi bạn nhấn giữ phím Shift lúc bạn đang rê bạn ép buộc các tỉ lệ
của vùng chọn theo một hình vuông hay hình tròn (thay vì một hình chữ nhật hay êlip)
- Nhấn giữ phím Atl trong khi rê: Khi bạn nhấn giữ phím Option/Alt trong khi đang rê một công cụ chọn
marquee, vùng chọn sẽ được đặt ngay chính giữa điểm mà bạn đã nhấp lần đầu tiên. Thay vì là một góc của
vùng chọn, điểm bắt đầu đó là tâm của vùng chọn.
- Nhấn giữ các phím Shift và Alt trong khi rê: Bạn có thể chọn từ tâm trong khi ép buộc các tỉ lệ bằng
cách sử dụng các phím Shift và Alt kết hợp với nhau.
- Sử dụng phím Shift để thêm vào một vùng chọn hiện có: Nếu bạn đã có một vùng chọn hoạt động trong
ảnh, việc nhấn Shift+rê một cộng cụ chọn sẽ thêm vào vùng đó. (Nhấn Shift trước khi bạn nhấp và rê)
- Sử dụng phím Alt để loại bớt khỏi một vùng chọn hiện có: Khi bạn có một vùng chọn và bạn nhấn giữ
phím Alt, bạn có thể rê để loại bớt khỏi vùng chọn đó. Lưu ý trong hình dưới đây, con trỏ của công cụ chọn
hiển thị một dấu trừ nhỏ khi loại bớt khỏi một vùng chọn.
- “Ép buộc” với phím Shift hoặc Alt: Bạn thậm chí có thể ép buộc các tỉ lệ hay chọn từ tâm và thêm hoặc
loại bớt khỏi một vùng chọn. Nhấn phím Shift (để thêm vào một vùng chọn hiện có) hoặc phím Alt (để loại
bớt khỏi vùng chọn hiện có). Nhấp và bắt đầu rê công cụ chọn marquee. Trong khi tiếp tục nhấn giữ nút
chuột, hãy thả phím bổ xung và nhấn giữ Shift (để ép buộc các tỉ lệ) hay Alt (để canh giữ vùng chọn) hoặc
cả hai; sau đó tiếp tục rê công cụ chọn của bạn. Bạn có thể muốn sử dụng kỹ thuật này khi tạo một vùng
chọn có hình dạng donut. Hãy rê vùng chọn hình tròn ban đầu, sau đó loại bớt một vùng chọn hình tròn nhỏ
hơn ra khỏi tâm của hình tròn ban đầu.
Hãy thử làm việc với các phím bổ xung trong khi đang làm với các công cụ. Bạn luôn luôn có lệnh Undo
(Ctrl+Z) để undo các thao tác mà bạn đã thực hiện.
2. Tuỳ biến Photoshop CS6
Việc tạo tuỳ biến Photoshop không chỉ giúp bạn làm việc nhanh hơn và hiệu quả hơn, mà còn giúp bạn làm
việc chính xác hơn và tránh bớt các lỗi có thể xảy ra. Chúng ta sẽ xem xét việc sử dụng một Preset của công
cụ Crop để tạo một tấm ảnh 5x7 ở 300 pixel trên mỗi inch (ppi). Một Preset như vậy sẽ luôn tạo ra các kích
thước đó một cách chính xác. Việc cài đặt công cụ Crop mỗi lần bạn cần một tấm ảnh cỡ 5x7 ở 300 ppi
không chỉ phí thời gian mà còn “mở cửa” cho các lỗi khác xâm nhập vào.
a. Tuỳ biến vùng làm việc
Một trong những cách dễ nhất để làm việc hiệu quả hơn là thấy ảnh của bạn rõ hơn. Nói chung càng lớn thì
càng tốt, vì vậy bạn có càng nhiều chỗ để hiển thị artwork của bạn trên monitor thì bạn có thể phóng lớn và
thực hiện công việc càng chính xác. Cách dễ nhất để gia tăng vùng làm việc (workspace)? Hãy nhẫn phím
Tab để che giấu các Palette của Photoshop. Việc nhấn Shift+tab sẽ che giấu tất cả các Palette ngoại trừ
6
thanh Options và Toolbox.
Bạn cũng có thể rê các Palette mà bạn cần dùng thường xuyên đến Palette Well và che dấu các Palette khác.
Đừng quên rằng các Palette chính có được phím tắt được gán để hiển thị và che giấu. Mặc dù các phím tắt
có thể được tạo tuỳ biến, nhưng sau đây là các phím F được gán của các Palette chính (các phím chức năng
nằm ở đầu bàn phím).
- Actions: Alt+F9
- Brushes: F5
- Color:F6
- Info: F8
- Layers: F7
Cách hiệu quả nhất để tuỳ biến vùng làm việc là tạo các vùng làm việc (Workspace) chuyên biệt. Sắp xếp
các Palette đúng như ý bạn cần cho một công việc cụ thể mà mà bạn thường thực hiện, chọn Windows |
Workspace | New Workspace, và đặt tên Workspace cho loại công việc đó.
Sau đó, bạn có thể tạo một vùng Workspace chuyên biệt cho mỗi loại công việc mà bạn thực hiện. Chẳng
hạn, khi bạn thực hiện việc chỉnh sửa màu, bạn cần nhìn thấy Palette Histogram (trong khung xem mở
rộng), Palette Info, và Palette Channels. Hãy sắp xếp các Palette đó theo cách bạn cần chúng và sau đó che
dấu các Palette còn lại, lưu workspace với tên Color Correction. Hoặc, khi bạn tạo các ảnh minh họa trong
Photoshop, bạn cần nhìn thấy đồng thời hai Palette Layers và Paths. Rê một Palette ra khỏi nhóm để tách
biệt nó, đặt cả hai Palette ở một nơi tiện lợi.
Để truy cập một workspace đã lưu, hãy đến menu Windows | Workspace và chọn nó từ danh sách ở cuối
menu, như minh họa ở hình dưới đây:
7
Bạn sẽ thấy một số workspace tuỳ biến đã được xác lập sẵn trong menu.
Để tuỳ biến các menu của Photoshop, bạn chọn lệnh Edit | Menus. (Bạn cũng có thể mở Edit | Keyboard
Shortcuts… và nhấp tab Menu).
Bạn sẽ tìm thấy mọi lệnh menu được liệt kê. Bạn cũng có tuỳ chọn ở đây là che giấu một lệnh hoặc gán một
màu tuỳ biến để dễ dàng nhận biết nó trong menu. Chẳng hạn, bạn có thể che giấu các bộ lọc nghệ thuật mà
bạn chưa bao giờ sử dụng, và tạo mã màu cho các bộ lọc khác theo cách bạn thích hoặc cách bạn sử dụng
chúng.
8
Ngoài các lệnh menu trình ứng dụng (từ các menu nằm ở đầu màn hình), bạn có thể chuyển đổi pop – up
Menus For sang các menu Palette và tạo tùy biến các menu đó. Nhớ lưu cách sắp xếp menu tuỳ biến của
bạn với nút nằm ngay bên phải của pop – up Settigs. Tập hợp menu mà bạn đã lưu sẽ xuất hiện trong pop-
up Settings để bạn dễ dàng truy cập.
b. Gán các phím tắt
Các phím tắt của Photoshop có thể giúp bạn tiết kiệm khá nhiều thời gian. Thay vì di chuyển chuột tới
Toolbox để chọn công cụ Brush, bạn chỉ cần nhấn B trên bàn phím. Để mỏ hộp thoại Levels, bạn nhấn
Ctrl+L thay vì di chuyển chuột đến Image, xuống menu con Adjustments, sau đó di chuyển qua và xuống
đến Levels.
Photoshop CS6 có các tổ hợp phím tắt mà bạn có thể tạo tuỳ biến. Bởi vì tập hợp phím tắt mặc định này khá
chuẩn – không chỉ trong bộ Adobe Cre-ative Suite mà còn với các chương trình lớn khác –nên bạn có lẽ sẽ
được phục vụ tốt nhất nếu chỉ thực hiện vài thai đổi. Hãy sử dụng lệnh Edit | Keyboard Shortcuts…, như
minh họa hình dưới đây, để tạo các phần gắn phím tắt này:
- Sử dụng Ctrl+P để truy cập Print with Preview: Khi bạn sử dụng Print with Pre-view, bạn sẽ có nhiều
sự điều kiển hơn khi bạn sử dụng lệnh Print đơn giản. Do đó sẽ ý nghĩa hơn nếu bạn sử dụng phím tắt đơn
giản hơn và phổ biến hơn cho lệnh đó. Hãy định vị trí lệnh Print with Preview trong hộp thoại (bên dưới
menu File) và nhấp phím tắt hiện hành. Gõ phím tắt mới. Lưu ý rằng Photoshop cảnh báo bạn về việc phím
9
tắt đã được sử dụng. Chỉ cần thay đổi lệnh Print sang Ctrl+Alt+P để giải quyết sự xung đột.
- Thay đổi Ctrl+Z để sử dụng Step Backward: Trong phần lớn các chương trình, việc Ctrl+Z sẽ liên tục
undo - đảo ngược qua một chuỗi các hành động trước đây trong chương trình. Tuy nhiên, trong Photoshop,
tổ hợp phím tắt đó chuyển đổi một chức năng Undo/Redo; nghĩa là nhấn một lần để undo, và nhấn lần thứ
hai để đảo ngược lệnh undo. Hãy làm cho Photoshop tuân theo thao tác undo phổ biến đối với các chương
trình khác. Trong Keyboard Shortcuts, dưới Edit, thay đổi Ctrl +Z sang Step Backward và sau đó sử dụng
Ctrl+Alt+Z để chuyển đổi giữa Undo và Redo.
- Gán các phím tắt cho các lệnh thường dùng: Smart Blur (hoặc Gaussian Blur) có thể được gán
Ctrl+G/Ctrl+Shift+Alt+G. Smart Sharpen (hay Unsharp Mask) có thể được gán Ctrl+Shift+Alt+U. Hãy sử
dụng Ctrl+Shift+R cho lệnh Image Size. Khi bạn làm việc với Photosho, hãy chú ý đến các lệnh menu khác
mà bạn thường truy cập và ghi nhớ các phím tắt của chúng hoặc gán các phím tuỳ biến.
c. Tạo các tool preset
Một trong những chìa khoá để giúp bạn làm việc chính xác và hiệu quả trọng Photoshop là sử dụng công cụ
phù hợp với công việc. Chẳng hạn, công cụ Patch sao chép chỉ mẫu kết cấu (texture). Nếu bạn cần che phủ
một vùng trên khuôn mặt của một khách hàng, bạn cần công cụ Clone Stamp thay vì công cụ Patch.
Bạn có thể bảo đảm rằng bạn đang sử dụng không chỉ đúng công cụ mà còn sử dụng đúng các xác lập cho
côngcụ đó bằng cách tạo các tool preset (các xác lập sẵn của công cụ). Các tool preset này chứa các xác lập
của bạn từ thanh Options. Bạn chọn công cụ đã xác lập sẵn (và dĩ nhiên đó là nơi bắt nguồn của tên này) từ
Palette Tool Presets hoặc từ cuối bên trái của thanh Options, như minh họa ở hình dưới đây:
Mặc dù hầu như bất kỳ công cụ nào cũng là một đơn cử tốt cho các tool preset, nhưng một số chỉ đơn thuần
là dạng tự nhiên. Chúng ta sẽ xem xét công cụ Type. Khi bạn xem xét tất cả các tuỳ chọn cho công tụ Type
không chỉ trong thanh Options mà còng thong các Palette Character và Paragraph, hoàn toàn có nhiều thứ
để chọn và theo dõi. Để đảm bảo nội dung nhất quán giữa các dự án, bạn nên tạo các tool preset cho mỗi dự
án, bao gồm cả dòng tiêu đề và nội dung chính, các hiệu ứng đặc biệt à type trọng tậm, và thậm chí cả thông
tin bản quyền.
Một đơn cử lôgíc khác cho các tool preset là công cụ Crop. Như sẽ được trình bày ở bài tiếp theo, một bức
ảnh chụp từ một máy ảnh kỹ thuật số cấp cao có một tỉ số hướng (mối quan hệ giữa chiều rộng và chiều cao
của ảnh) là 2:3, các tỉ số hướng của các tấm ảnh in và khung ảnh là 4:5 (đối với các tấm ảnh in cỡ 8 x 10),
5:7, và 13:19 (đối với các tấm ảnh in cỡ lớn). (Một số máy ảnh giá thấp hơn chụp với các tỉ số hướng khác
nhau). Bạn sẽ nhận thấy mình thường cần xén một ảnh đến một kích cỡ nhất định để đáp ứng các yêu cầu in
ấn. Và đừng quên độ phân giải. Việc in với kích cỡ chính xác nhưng ở độ phân giải sai sẽ làm bạn hao phí
giấy và mực! Hãy cài đặt nhiều preset cho công cụ Crop với các kích cỡ in tiêu biểu để bảo đảm rằng bạn
luôn xén chính xác.
3. Các xác lập của Photoshop
Preferences ở cấp chương trình và Color Settings luôn giúp bạn trong mọi việc bạn thực hiện trong
Photoshop. Các tuỳ chọn mà bạn chọn trong Preferences của Photoshop (hay gọi đơn giản là Prefs) điều
khiển nhiều khía cạnh hoạt động cơ bản của chương trình. Các mục được chọn trong hộp thoại Color
Settings xác định diện mạo của tác phẩm, cả trên màn hình và trong bản in.
a. Xác lập Preferences
10
File Preferences của Photoshop chứa nhiều thông tin về cách bạn sử dụng chương trình. Dù bạn thích đo
đơn vị inch hay pixel, bạn muốn lưới và các đường dẫn hướng dẫn được hiển thị như thế nào, bạn thích các
thumbnail ở kích cỡ nào trong Palette, bạn đã sử dụng font nào cuối cùng - tất cả các loại dữ liệu đều được
lưu giữ trong Prefs. Nhiều thông tin trong preferences được chọn tự động khi bạn làm việc (chẳng hạn như
kích cỡ và chế độ màu của tài liệu mới mà bạn vừa tạo, Palette Character có hiển thị hay không khi lần cuối
bạn tắt chương trình, và các tuỳ chọn công cụ nào đã được chọn thanh Options), nhưng bạn phải chủ động
trong việc chọn số các tuỳ chọn trong hộp thoại Preferences của Photoshop như minh họa ở hình dưới đây:
Bạn mở Prefs bằng tổ hợp phím tắt Ctrl+K, và menu con Preferences nằm bên dưới menu Edit. Các xác lập
mặc định hoàn toàn có thể chấp nhận được, nhưng sau đây là một số hộp thoại Preferences mà bạn tìm thấy
chúng trong các mục đó.
b. Preferences | General
Nếu bạn sẽ thực hiện nhiều thao tác định lại kích cỡ và tỉ lệ trong Photoshop, hãy xem xét việc thay đổi
phương pháp Image Interpolation. Hãy sử dụng Bicubic Smoother nếu bạn thường xuyên tăng các kích
thước pixel; chọn Bicubic Sharper khi giảm kích cỡ. Nếu bạn làm việc trên một monitor được xác lập sang
độ phân giải 1024x768 pixel, hãy xem xét việc thay đổi UI (user interface) Font Size sang Small. Tuỳ chọn
này sẽ thu hẹp các Palette và tạo nhiều chỗ hơn để bạn làm việc.
Nếu bạn thường xuyên sử dụng Adobe Bridge, hãy đánh dấu hộp kiểm để khởi động chương trình tự động.
Và xem xét việc lưu tự động history log với mỗi file, trong một file text, hay hoàn toàn không lưu. (History
log theo dõi mọi sự thay đổi mà bạn thực hiện cho một file; tuy nhiên ở dạng metadata, nó sẽ làm tăng kích
cỡ file. Hãy đọc một metadata history log bằng cách sử dụng lện File | File info).
11
c. Preferences | File Handling
Các khung xem trước ảnh sẽ làm tang kích cỡ file, nhưng trong phần lớn trường hợp, bạn muốn đưa vào
khung xem trước. Trên các máy Macs, bạn có tuỳ chọn để đưa vào hoặc không đưa vào một phần mở rộng
file (hoặc nhò Photoshop hỏi bạn vào mỗic lần). Ngay cả khi bạn không dự định chia xẻ các file với một
mày Windows, bạn cũng nên luôn đưa vào phần mở rộng file trong tên file bằng cách chọn tuỳ chọn
Always. Tương tự, bạn nên luôn tăng tối đa tính tương thích file PSD và PSB. Điều này bảo đảm rằng các
file Photoshop CS6 của bạn có thể được mở (với càng nhiều tính năng được giữ lại càng tốt) trong các phiên
bản trước đây của chương trình và bảo đảm chúng sẽ hoạt động chính xác với các chương trình khác trong
bộ Creative Sưite. Nếu bạn đang làm biệc trong một nhóm (với hay hay nhiều người cùng làm việc trên một
dự án đó), bạn nên sử dụng Version Cue (thành phần của Creative Suite) để quản lý các file công việc. Đây
là một cách tốt để tránh tình trạng nhận biết phiên bảo nào là có màu nào.
d. Preferences | Cursors
Một điểm mới trong Photoshop CS6 là có nhiều cách để hiện thị các con trỏ cho các công cụ tô. Trong các
12
phiên bản trước đây, bạn có thể hiển thị biểu tượng công cụ (Standard), một dấu thập nhỏ (Precise), hay một
dạng trình bày đầu cọ của công cụ, nhằm cho biết kích cỡ và hình dạng của cọ (Precise), với các cọ có mép
mèm, con trỏ brush size sẽ cho biết nơi công cụ sẽ được áp dung với của bạn 50% hoặc cao hơn. Tuỳ chọn
đó hiện được gọi là Normal Brush Tip, và bạn có một phương pháp khác (Full Size Brush Tip) để luôn hiển
thị toàn bộ phạm vi của đầu cọ, bất kể xác lập Hardness là bao nhiêu.
Một điểm mới khác là tuỳ chọn để thêm một crosshair vào giữa mỗi con trỏ brush-size. Tuỳ chọn croshair
thích hợp cho việc giữ một cọ ở chính giữa dọc theo mép hay đường dẫn, và hầu như loại bỏ nhu cầu sử
dụng tuỳ chọn con trỏ Precise.
Khi làm việc với một cọ mềm, việc thay đổi tất cả các pixel đã được thay đổi chỉ đôi chút có thể không cung
cấp cho bạn một khung xem chính xác về công việc mà bạn đã thực hiện. (Con trỏ Normal Brush Tip hiển
thị ở bên trái và tuỳ chọn Show Crosshair in Brush Tip hiển thị ở góc dưới bên trái).
e. Preferences | Transparency & Gamut
Nếu bạn nhận thấy mẫu carô trắng xám làm mất tiêu điểm của các ảnh có độ trong suốt, bạn có thể xã lập
Grid Size sang None, để tạo một nền trắng thuần tuý trong các vùng trong suốt của artwork. Nếu bạn
thường làm việc trong chế độ grayscale (thang độ xám), bạn có thể muốn thay đổi màu của lưới trong suốt
sang màu tương phản ánh của bạn, có thể là màu xanh nhạt hoặc màu vàng nhạt.
13
f. Preferences | Units &Rulers
Nếu bạn tạo các ảnh đồ họa Web thay vì in các ảnh, có lẽ bạn sẽ muốn thay đổi đơn vị đo của Photoshop từ
Inch sang Pixel. Lưu ý rằng bạn có thể thay đổi đơn vị đo bằng cách nhấp phải (chuột nhiều nút) vào các
thước trong ảnh của bạn. Nếu bạn thường in ở một độ phân giải khác 300ppi, bạn cũng có thể muốn điều
chỉnh độ phân giải mặc định cho các tài liệu mới với kích cỡ in mong muốn.
g. Preferences | Guides, Grid & Slices
Từ Photoshop CS4 có một tính năng mới, đó là Smart Guides (các đường hướng dẫn thông minh). Các
đường này tự động xuất hiện và biến mất khi bạn rê nội dung của một lớp vào và ra khỏi sự gióng thẳng với
nội dung của các lớp khác. Smart Guides (có màu đỏ thẫm theo mặc định) hiển thị khi nội dung của lớp mà
bạn đang rê gióng thẳng chính xác với các mép hay với tâm của nội dung trong các lớp khác.
Một tuỳ chọn mà bạn có thể muốn thay đổi trong ô này của Preferences là Show Slice Numbers. Các số
slice xuất hiện ở góc trên bên trái của mỗi slice khi bạn đang chi nhỏ ảnh đồ họa Web. Trừ khi bạn dự định
hiệu chỉnh từng ảnh riêng lẻ sau này, có lẽ bạn không cần biết slice này là slice nào vì vậy các số slice
thường không cần thiết. Hãy xoá chọn hộp kiểm này để giảm bớt sự xao lãng.
h. Preferences | Plug-Ins
Nếu bạn có các plug-in của nhóm thứ ba, các bộ lọc, và những thứ mà bạn mua riêng để sử dụng trọng
14
Photoshop, hãy xem xét việc sử dụng một foder thứ hai cho các plugins đó, bên ngoài folder Photoshop và
gọi foder đó là Additional Plugin Folder trong Preferences. Việc có thêm các plugin bên ngoài folder
Photoshop có nghĩa là bạn sẽ không phải cài đặt lại chúng nếu bạn phải thay thế Photoshop. Nếu có bất kỳ
một trong các plugin đó thuộc Photoshop 6 và vẫn làm việc, bạn có thể cần nhập số seri của Photoshop 6
như là một sự kế thừa để các plugin nhận biết phiên bản mới.
i. Preferences | Type
Từ Photoshop CS4 có thêm một ô mới vào Preferences để bạn có thể chọn các tuỳ chọn có liên quan đến
type. Photoshop hiển thị menu font trong tên của mỗi font trong từng mặt chữ thực sự, và bạn có thể chỉ
định kích cỡ của khung xem trước đó ở đây.
j. Các xác lập màu
Nếu bạn không quản lý màu một cách khéo léo, các ảnh của bạn sẽ không in chính xác. Đối với phần lớn
những người dùng Photoshop, sự quản lý màu có thể được thực hiện với một vài mục chọn chính trong hộp
thoại Edit | Color Settings.
15
- Chọn một vùng làm việc RGB: Mở hộp thoại Color Settings (bên dưới menu Edit) và chọn vùng làm
việc RGB của bạn khoảng màu mà bạn hiệu chỉnh và tạo trong khoảng đó. Nếu bạn chủ yếu tạo các ảnh đồ
họa Web, hãy gởi các ảnh của bạn đến một phòng rửa ảnh để nhờ in, hoặc in bằng máy in phun mực vốn sử
dụng chỉ bốn màu mực (lục lam, đỏ thẫm, vàng, và đen), chọn sRGB làm khoảng màu của bạn. Nếu bạn in
ra một máy in phun mực loại tốt hay loại bình thường hoặc chuẩn bị artwork mà nó sẽ được chuyển sang
một khoảng màu CMYK, hãy chọn Adobe RGB. Nếu bạn có phần cứng và phần mềm để tạo một profile tuỳ
biến cho monitor của máy tính, hãy sử dụng profile đó.
- Chọn để chuyển đổi các ảnh sang vùng làm việc của bạn: Trong vùng Color Management Policies của
hộp thoại Color Settíng, hãy chọn RGB: Converl to Working RGB. Điều này bảo đảm các ảnh mà bạn nhìn
thấy trên màn hình thực sự sử dụng profile hoạt động của bạn.
- Tắt cảnh báo không phù hợp: Xoá chọn các hộp kiểm cho các cảnh báo gây phiền phức và phí thời gian
vốn xuất hiện trên màn hình bất kỳ lúc nào bạn mở một ảnh có một profile khác với vùng làm việc của bạn.
Bạn đang có ý định chuyển sang vùng làm việc của bạn - bạn không cần xác nhận lại quyết định này một
lần thực hiện.
- Xuất nhờ sử dụng Print with Preview: Khi đến lúc in, bạn sẽ có được các tấm ảnh in chính xác nhất khi
bạn sử dụng File | Print with Preview. Trong hộp thoại này, hãy nhấp nút More Options. Trong vùng Print
của một Color Management, chọn Document để duy trì vùng nguồn là vùng làm việc của bạn. Trong vùng
Options, chọn Handling: Let Photoshop Determine Colors và chọn profile của máy in dành cho giấy mà bạn
dự định in trên đó ở dạng Profile của máy in dành cho giấy mà bạn dự định in trên đó ở dạng Printes Profile.
Sử dụng Relative Colori-metric làm một ít mô phỏng và giữ cho hộp Black Point Com-phensation được
đánh dấu kiểm.
Các hướng dẫn trên đây thích hợp cho hầu hết những người dụng Photoshop ngoại trừ vài trường hợp đặc
biệt sau đây:
- Bạn chỉ tạo các ảnh đồ họa Web. Trong hộp thoại Color Settings, chọn Settings: Color Management Off.
Trong hộp thoại Save For Web, ở phía trên bên phải của vùng xem trước, chọn Uncompénated Color. Khi
lưu ảnh ở dạng file JPEG, đừng nhúng các profile ICC. (Các profile ICC thực hiện các điều chỉnh nhất định
cho diện mạo của các ảnh). Khi bạn loại bỏ các profile màu ra khỏi phương trình, bạn đang tạo các ảnh Web
mà bất kỳ bộ trình duyệt Web nào cũng có thể hiển thị chính xác.
- Bạn chuẩn bị ảnh để in offset hay in flexographic: Các ảnh của bạn sẽ kết thúc ở một khoảng màu
CMYK. Hãy liên hệ với người đang chuẩn bị tài liệu dàn trang mà các ảnh của bạn sẽ được đặt trong đó
16
hoặc liên hệ trực tiếp với cơ sở in. Tìm hiểu bạn nên sử dụng profile màu CMYK nào. Và dĩ nhiên, có khả
năng bạn sẽ phải cung cấp các ảnh RGB và để cho những người khác xử lý sự chuyển đổi.
- Các yêu cầu quản lý màu của bạn là tối đa: Nếu màu trong các ảnh của bạn bắt buộc phải tuyệt đối
hoàn hảo - chỉ chính xác thôi thì chưa đủ - bạn nên xem xét việc mua phần cứng và phần mềm để định
chuẩn và tạo profile tất cả các thiết bị trong dòng làm việc của bạn.
Đôi khi sự cố xảy ra. Các công cụ hoạt động không đúng cách. Các lệnh đơn giản không thực thi. bị hỏng!
Đừng nản chí, hãy bắt đầu với các phần chỉnh sửa đơn giản dưới đây và làm việc theo cách của bạn khi cần.
- Kiểm tra các Palette: Nếu một công cụ không đang hoạt động như mong muốn hoặc hoàn toàn không
hoạt động, hãy kiểm tra xem bạn có vô tình ngăn chặn nó thực hiện công việc của nó hay không. Hãy xem
bạn có một vùng chọn hoạt độngở nơi khác trong ảnh hay không hoặc nhấn Ctrl+D để xóa chọn. Hãy nhìn
vào Palette Layers: Bạn có đang ở trên đúng lớp không? Lớp có hoạt động hay không hay đó là một mặt nạ
lớp? Kiểm tra Palette Channels: Các kênh màu có hoạt động không? Ở cuối bên trái của thanh Option, nhấp
phải vào biểu tượng công cụ và chọn Reset Tool. Mở một ảnh khác- ảnh RGB 8 bít đã được ép phẳng – và
thử công cụ hay kỹ thuật này trong ảnh đó. (Nếu nó hoạt động thì vấn đề không phải là Photoshop mà là do
ảnh. Kiểm tra menu Image | Mode để bảo đảm bạn có một chế độ và độ sâu màu thích hợp)
- Xác lập file Preferences của Photoshop trở lại mặc định: Trước khi thay thế Prefs, hãy mở Preset
Manager của Photoshop (thông qua menu Edit) và lưu bất kỳ style tuỳ biến, gradient, cọ, và nhiều thứ khác.
Lưu chúng ở một nơi an toan, bên ngoài folder Photoshop. Mở Palette Actions và lưu bất kỳ tập hợp Ac-
tions tuỳ biến với lệnh Save Actions cảu menu Palette. (Ghi nhớ rằng bạn phải nhấn vào một tập hợp
Actions - chứ không phải nhấp một Action riêng lẻ - để sử dụng Save Actions). Mở Prefer – ences và Color
Senttings và ghi chú về bất kỳ xác lập đặc biết mà bạn đang sử dụng. Thoát khỏi Photoshop và khởi động
lại chương trình với nhấn giữ các phím Ctrl+Alt+Shift. Khi được hỏi bạn có muốn xoá folder Settings hay
không, hãy thả các phím bổ xung và xác nhận việc xoá; sau đó cho phép Photoshop hoàn tất việc khởi động.
Xác lập lại Preferences và Color Settings đồng thời tải lại các thành phần tuỳ biến của bạn.
- Cài đặt lại Photoshop: Nếu việc thay thế Prefs không giải quyết được vấn đề, hãy thử lại Photoshop. Lưu
tất cả các thành phần tuỳ biến của bạn (như đã nêu trước đây) và sau đó xoá Photoshop và các file liên quan.
Chọn Start | Control Panel | Add or Remove Programs để loại bỏ Photoshop và bất kỳ plug-in thuộc nhóm
thứ ba. (Thận trọng khi loại bỏ các thành phần chia sẻ nếu bạn có các chương trình khác trong bộ Adobe
Creative Suite được cài đặt)
Sau khi bạn loại bỏ bản sao cũ, hãy cài đặt lại Photoshop từ CD gốc. Nhớ tắt tất cả phần mềm chống viruts
và bất kỳ phần mềm auto-backup trước khi cài đặt, và cài đặt vào vị trí mặc định. Kiểm tra Photoshop trước
khi cài đặt bất kỳ plug-in của nhóm thứ ba vào.
Nếu việc cài đặt lại Photoshop CS6 vẫn không giải quyết được vấn đề, nguyên nhân có thể là do cấp độ hệ
điều hành hoặc có lẽ là một sự cố phần cứng. Trong trường hợp này, bạn hãy cho gọi một chuyên viên kỹ
thuật để yêu cầu giúp đỡ.
17
Bài 2 - Đưa vào các File ảnh
1. Đưa ảnh vào Photoshop
Artwork trong Photoshop bắt nguồn từ một trong ba cách sau:
- Bạn mở một ảnh bằng lệnh File | Open
- Bạn nhập (import) một ảnh (thường thông qua một thiết bị scan)
- Bạn tạo một ảnh từ đầu với lệnh File | New
Bạn có thể mở một ảnh vào Photoshop với lệnh File | Open, thông qua Adobe Bridge, hoặc bằng cách nhấp
đúp file ảnh. Nếu bạn nhấp đúp một file vào Photoshop không khởi động hoặc chương trình không đúng
khởi động bạn cần kết hợp dạng file với Photoshop.
Kết hợp dạng file
18
- Trong Windows Explorer/My Computer, nhấp phải một file thuộc kiểu mà bạn muốn thay đổi, chọn
Properties
- Ở phía bên phải của Open With, nhấp nút Change
- Hộp thoại xuất hiện chọn Photoshop CS6, và nhấp OK (Windows 8).
19
- Nhấp OK lần nữa để đóng hộp thoại Properties.
- Lập lại đối với bất kỳ dạng file bổ xung.
a. Lấy từ máy ảnh kỹ thuật số
Bạn sử dụng phần mềm đi kèm với máy ảnh kỹ thuật số để chuyển các bức ảnh được chụp từ nó sang ổ
cứng máy tính của bạn. Hoặc nếu bạn có phần cứng, bạn có thể lấy thẻ nhớ của máy ảnh, gậy bộ nhớ, hay
phương tiện khác ra khỏi máy ảnh và sử dụng một bộ đọc cạc (card reader), đây là một thiết bị nhỏ được
thiết kế để đọc phương tiện lưu trữ máy ảnh. Việc chuyển qua Windows Explorer thường nhanh hơn nhiều
và cũng đáng tin cậy như việc chuyển bằng cách sử dụng phần mềm của nhà sản xuất máy ảnh.
Đừng bao giờ mở một ảnh vào Photoshop trực tiếp từ một máy ảnh, cạc Flash, hay CD/DVD. Việc thực
hiện như vậy có thể làm giảm chậm tốc độ làm việc của bạn, và bạn có nguy cơ làm mất công việc của mình
nếu Photoshop không thể đọc ngay file gốc của bạn trong khi bạn đang làm việc. Và dĩ nhiên, bạn không thể
lưu từ Photoshop trở lại phần lớn phương tiển rời, vì vậy bạn cần tạo một file mới (trên một ổ ghi). Mở các
ảnh từ một ổ mạng chỉ khi bạn đang làm việc với Verson Cue của Adobe, phần mềm quản lý dự án của
Adobe Creative Suite.
Sau khi các ảnh đã được lưu trữ an toàn trên ổ cứng cục bộ của bạn (hay một ổ cứng ngời có tốc độ cao),
bạn mở chúng trong Photoshop bằng cách dùng một trong ba phương pháp đã nêu ở đầu bài này. Tuỳ thuộc
vào cáo xác lập màu mà bạn chọn, bạn có thể nhận được một cảnh báo rằng profile màu của ảnh và profile
mà bạn đã chọn làm khoảng màu RGB không phù hợp. Photoshop hỏi bạn muốn làm gì. Nói chung, bạn
muốn chuyển đổi sang vùng làm việc của bạn để bạn có thể thấy màu chính xác nhất trên monitor của mình.
Bạn có thể muốn giữ lại profile đã nhúng nếu bạn sẽ đưa ảnh trở lại máy tình đã tạo nó sau khi xem hay làm
việc với màu chưa chỉnh sửa. Đây là một sự lựa chọn thích hợp khi làm việc với các ảnh mà bạn sẽ sử dụng
sau này với một chương trình không được quản lý màu, chẳng hạn như một bộ trình diễn (nếu không quản
lý màu, bạn sẽ nhìn thấy ảnh khi nó xuất hiện trong chương trình khác). Bạn có thể tắt các cảnh báo màu
không phù hợp trong hộp thoại Color Settings của Photoshop. Khi mở một ảnh có chứa text, bạn cũng có
thể nhận được một thông tin cảnh báo rằng các lớp type cần được cập nhật. Nói chung, bạn cần cập nhật trừ
khi ảnh chứa các Font không có sẵn trên máy tính của bạn.
b. Scan các tấm ảnh
Bạn đặt một tấm ảnh (bới mặt úp xuống) lên trên tấm kính của máy scan. Bạn đẩy một nút, nó tự động xuất
hiện trên mànhình máy tính của bạn. Đó là hoạt động scan ở khía cạnh cơ bản nhất. Nếu phần mềm của máy
scan đã cài đặt một plug-in tương thích Photoshop vào foder Import/Export bên trong Plug-ins của
Photoshop, bạn có thể scan từ trong Photoshop. (Menu File | Import sẽ hiển thị máy scan của bạn theo tên)
20
Xác định độ phân giải scan
Trước khi scan một ảnh, bạn cần đưa ra một số quyết định sau:
- Bạn muốn sử dụng ảnh như thế nào
- Kích cỡ sau cùng của nó sẽ là bao nhiêu
- Bạn cần độ phân giải nào.
Bằng cách xác định trước số pixel mà bạn cần, bạn sẽ loại bỏ nhu cầu định lại kích cỡ ảnh trong Photoshop
(và làm giảm chất lượng ảnh được tạo). Nhiều cửa sổ giao diện của máy scan cho phép bạn nhập kích cỡ
sau cùng và độ phân giải mà bạn cần ngay trong cửa số scan. Nếu bạn nhận thấy cần phải tính độ phân giải
scan bằng tay, sau đây là cách thực hiện:
1. Xác định các kích thước pixel theo yêu cầu.
- Đối với việc in: Nếu bạn sẽ in ảnh, hãy xác định kích cỡ mà bạn muốn in (theo đơn vị inch) và độ phân
tích mà bạn muốn in (thường là 300 ppi [pixel per inch] là sự lựa chọn thích hợp). Nhân chiều rộng và chiều
cao của bản in với độ phân giải để xác định các kích thước pixel.
- Đối với Web: Nếu ảnh sẽ dùng cho Web site của bạn, hãy xác định ảnh sẽ chiếm bao nhiêu phần trên
trang của bạn (theo đơn vị pixel)
2. Đo ảnh gốc.
Trước khi đặt ảnh trên tấm kính cảu máy scan, hãy đo các kích thước của ảnh gốc. Nếu bạn đang sử dụng
chỉ một phần của ảnh. hãy đo phần đó. (Hãy thận trọng để không làm trầy sướt ảnh gốc).
3. Thực hiện phép tính.
Chia các kích thước pixel theo yêu cầu (bước 1) cho các kích thước vật lý của ảnh gốc (bước 2). Kết quả đạt
được là độ phân giải kênh của bạn. (Nếu bạn có các số chiều rộngvà chiều cao khác nhau, hãy dùng số lớn
hơn và thực hiện việc xén trong Photoshop)
Tránh các mẫu vân
Trừ khi đầu tư vào một loại máy scan tốt nhất, bạn có thể muốn bỏ qua các khả năng chỉnh sửa màu và tông
màu củ phần mềm máy scan – Photoshop cung cấp cho bạn nhiều sự điều khiển hơn. Tuy nhiên, đây là điều
mà phần mềm máy scan thực hiện tốt hơn nhiều so với Photoshop, và đó là một khả năng mà bạn nên sử
dụng khi thích hợp: giảm các mẫu vân. Một mẫu vân là một mẫu thấy được xuất hiện do bởi mẫu cắt. Mà
máy in đặt xuống để tái tạo màu.
Khi bạn cần scan một ảnh màu hay artwork từ một cuốn sách, tạp chí, hay tờ báo (hoặc từ các tài liệu khác
được in trên một máy in offset). Bạn sử dụng phần mềm của máy scan để giảm bớt mẫu vân. Phần mềm của
máy scan bù đắp vào mẫu này (khi bạn cho máy scan biết mẫu có ở đó) và làm nhẵn ảnh được scan.
Tính năng giảm mẫu vân (moires reduction) trong phần mềm máy scan của bạn không dễ nhận biết ngay.
Nó được ghi nhãn là Descreening, hoặc nó có thể là một mục chọn giữa Color (Photo) và Color
(Document). Hãy xem phần hướng dẫn người dùng dành cho phần cứng của bạn để tìm các hướng dẫn cụ
thể.
Nếu bạn cần giảm bớt một mẫu vân trong Photoshop nhưng không thể thực hiện việc scan lại, hãy làm mờ
ảnh vừa đủ để che mẫu vân đó, sau đó tô với công cụ History Brush để phục hồi các vùng có chi tiết quan
trọng trong ảnh.
2. Bố cục ảnh
Việc bố cục các ảnh sẽ dễ dàng hơn nếu bạn chọn một hệ thống. Phần khó là việc thực sự xoá những bức
ảnh số mà bạn không cần giữ lại. Mục này sẽ hướng dẫn bạn một số cách bố cục ảnh.
a. Tạo một cấu trúc folder
Bạn nên bố cục các ảnh theo từng chủ đề, chẳng hạn như kiểu bố cục được minh họa ở hình dưới đây:
21
Lưu ý rằng không có tên folder nào sử dụng các khoảng trống hay các ký tự khác với các chữ cái, các số,
một dấu gạch, và một dấu underscore - vốn giảm thiểu khả năng mà Photoshop hay một chương trình khác
không thể tìm thấy một file
Bạn có thể sử dụng ổ CD/DVD của máy tính (nếu nó có tính năng này) để ghi các folder ảnh ra đĩa. Điều
này không chỉ cung cấp cho bạn một bản sao dự phòng đáng tin cậy (giả sử bạn cắt giữ các đĩa một cách
chính xác và xử lý chúng thật thận trọng), mà còn giải phóng khoảng trống trên ổ cứng của bạn. Cấu trúc
folder/folder con cũng có thể được sử dụng khi tạo các đĩa của bạn.
b. Sử dụng Adobe Bridge
Một tính năng mới trong Photoshop CS6 là Adobe Bridge, sự thay thế độc lập cho File Browser để bố cục,
xem trước, và mở các ảnh của bạn. File Browser, được giới thiệu với Photoshop 7, tuyệt vời đến nỗi Adobe
quyết định mở rộng khái niệm này ra toàn bộ Adobe Ceative Suite. Thay vì thêm một bộ trình duyệt vào
mỗi chương trình trong Creative Suite, một chương trình bổ xung đã được phát triển – chương trình này sẽ
làm việc với tất cả các thành phần riêng lẻ. Kết quả Adobe Bridge đã ra đời.
Bridge được cài đặt đồng thời với lúc bạn cài đặt Photoshop CS6 hay Creative Suite. Không giống như
ImageReady (chương trình đồ họa Web độc lập mà bạn cài đặt với Photoshop), Bridge có trong folder riêng
của nó trên ổ cứng của bạn (bạn sẽ tìm thấy Adobe Bridge bên trong Start/Program File).
Bạn có thể mở Bridge một cách độc lập hoặc bạn có thể sử dụng lệnh File | Browse in mini bridge… của
Photoshop để khởi động Bridge, như minh họa ở hình dưới đây:
Bạn sẽ tìm thấy một sự thay đổi lớn từ File | Browser in mini bridge… sang File | Browser in bridge… (bởi
vì nó là một chương trình riêng biệt) có các menu riêng của nó nằm ngang qua đỉnh của màn hình.
22
Sau đây là một số thủ thuật để làm việc với Adobe Bridge
- Sử dụng các từ khoá và hạng mục. Bằng cách sử dụng tab Keywords ở góc dưới bên trái của cửa sổ
Bridge.
Bạn có thể gán các từ khoá và hạng mục cho các ảnh. Các từ khoá và các hạng mục là các thuật ngữ mô tả
mà bạn gán cho các ảnh riêng lẻ. Bạn có thể sử dụng tính năng Search của Bridge để tìm tất cả các ảnh với
từ khoá đã được gán.
Bạn có thể chọn nhiều ảnh trong Bridge bằng cách nhấp và nhấn Shift + nhấp (hoặc Ctrl+nhấp), sau đó gán
các từ khoá cho các tất cả các ảnh được chọn cùng một lúc.
- Sử dụng các nhãn và các loại: Bên dưới menu Label bạn có thể gán một loại hình sao cho mỗi ảnh và
gán các màu để bố cục theo từng chủ đề hay dự án. Sử dụng menu View | Sort để sắp xếp các ảnh trong
vùng thumbnail của Bridge theo nhãn hoặc theo loại.
23
- Thêm các foder vào Favorites: Bạn chắc chắn sẽ thường xuyên vào một số foder. Hãy sử dụng lệnh File |
Add to Favorites để trở lại folder đó nhanh hơn và dễ dàng hơn.
Ở góc phía trên bên trái của cửa sổ Bridge, nhấp tab Favoritos để truy cập bằng một thao tác nhấp chuột.
Cũng lưu ý rằng bạn có thể thêm một folder vào Favorites trong khi đang làm việc trên một dự án cụ thể,
sau đó sử dụng lệnh File | Remove from Favorites khi lệnh đã hoàn tất.
- Thay đổi khung xem và vùng làm việc: Hãy sử dụng menu View để tuỳ biến những gì mà cửa sổ Bridge
hiển thị, và sử dụng menu Windows | Workspace để xác định cách nó được hiển thị. Ở hình dưới, bạn nhìn
thấy vùng làm việc mặt định cũng như vùng làm việc FilmStrip và Essentials.
24
- Xuất cache: Khi nội dung của một folder đã hoàn chỉnh – nghĩa là khi các ảnh trong folder không thay đổi
nữa – hãy sử dụng lệnh Tools | Cache | Build and Export Cache…
Việc xuất cache sẽ giúp giảm lượng thời gian cần thiết để hiển thị các thumbnail và metadata. Nếu nội dung
của folder thay đổi. hãy lọc cache của folder và xuất lại (cả hai đều sử dụng menu Tools | Cache). Nhớ xuất
cache ngay trước khi ghi một folder ảnh vào CD hay DVD
c. Đặt lại tên các file ảnh
Bạn đã sắp xếp một hệ thống phân cấp của các folder và folder con. Bạn đã phân các loại các ảnh vào các
folder đó. Bạn đã gán thứ hạng và nhãn cho các ảnh. Tuy nhiên, bạn vẫn chưa phân biệt được rõ ràng cái
nào là cái nào trong menu File | Open Recent. Hãy sử dụng lệnh Tools | Batch Rename của Bridge để gán
cái tên đầy đủ ý nghĩa hơn (và có tính thông tin hơn) cho các File của bạn. Chọn nội dung từ mỗi trường từ
menu bật lên hoặc gõ nhập vào một trường.
25
Để mỗi ảnh gốc có một tên duy nhất thuộc mỗi loại, bạn phải đưa vào một biến khi sử dụng Batch Rename
(nếu bạn cố đặt tên tất cả các ảnh trong một folder, giả sử folder picture. jpg, bạn sẽ kết thúc với chỉ một file
ảnh trong folder đích mỗi file sẽ ghi đè lên file trước). Do đó khi sử dụng Batch Rename, bạn phải chọn một
trong các biến cho một trong các trường thông qua menu bật lên, để nó là tên tài liệu gốc hay một chữ / số
trình tự. Cũng lưu ý rằng bạn không được gõ một dấu chấm (. ) vào bất kỳ trường nào. Ký tự đó chỉ đủ sử
dụng trước phần mở rộng tên file. Và bây giờ Batch Rename tự động thêm phần mở rộng file cho bạn.
3. In ảnh
Trước đây việc in ảnh từ Photoshop đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Ngày nay, nhờ sự cải tiến về phần cứng và
phần mềm nên việc in đã được thực hiện dễ dàng hơn nhiều. Các monitor cũng được định chuẩn khá tốt, các
máy in tái tạo màu một cách chính xác hơn, mực và giấy cao độ bên cao hơn. Mọi thứ diễn ra chỉ trong một
thời gian ngắn. Nhưng trước khi bạn nhấp nút Print, bạn phải chắc chắn ảnh của bạn đã sẵn sàng in. Hãy
xem nó có nằm vừa trên trang và trong khung ảnh không? Các pixel có đủ nhỏ để chúng hoà trộn đều vào
toàn bộ ảnh không? Các màu mà bạn muốn có đúng là các màu sẽ xuất hiện trên giấy không?
a. Xén theo một tỉ số hướng nhất định
Tỉ số hướng (Aspect ratio) là mối quan hệ giữa chiều rộng và chiều cao củ ảnh. Một ảnh theo tỉ số hướng
landsscape (ngang) thì có chiều rộng lớn hơn chiều cao, và một ảnh theo tỉ số hướng portrait (dọc) thì có
chiều cao lớn hơn chiều rộng. Mặc dù các máy ảnh kỹ thuật số chụp với các tỉ số hướng khác nhau, bao
gồm 3:4 và 4:5 các máy ảnh SLR (single lens reflex) thường sử dụng một tỉ số hướng là 2:3, nghĩa là một
cạnh dài gấp 1, 5 lần kích cỡ của các cạnh tiếp giáp nhau. Các kích cỡ tiêu biểu (và các kích cỡ khung ảnh
thường là 8x10 inch (một tỉ số hướng 4:5), 5x7 inch (5:7), 4x6 inch (2:3), và 3x5 inch (3:5) Ở hình dưới, tỉ
số hướng 2:3 được trình bày ở dạng màu xanh lục, 5:7 ở dạng màu vàng, và 4:5 ở dạng màu đỏ.
Mặc dù một tấm ảnh cỡ 8x10 thường lớn hơn một tấm ảnh cỡ 4x6, nhưng nó thực sự in ít hơn ảnh gốc bởi
vì nó phải bị xén. Tấm ảnh 4x6, với một tỉ số hướng 2:3, bao gồm toàn bộ ảnh gốc; tấm ảnh 8x10 (với tỉ số
hướng 4:5) bị mất 2 inch trong kích thước dài hơn của ảnh. Để in với chiều rộng 8 inch và giữ toàn bộ ảnh,
bạn sẽ in với kích cỡ 8x12.
b. Ghi nhớ độ phân giải
Bài trước đã trình bày chi tiết về độ phân giải cũng như mối quan hệ của nó với kỹ thuật chụp ảnh số. Là
một người mới bắt đầu, hay lưu ý các điểm sau đây khi bạn muốn in các ảnh của bạn.
- Bản thân các ảnh không có độ phân giải: Dù nằm trong máy ảnh của bạn, trên ổ cứng, hay mỏ trong
Photoshop, các ảnh chỉ bao gồm các ô vuông màu nhỏ được gọi là các pixel. Diện mạo và hoạt động của
ảnh không có gì khác bên trong Photoshop, bất kể độ phân giải là bao nhiêu. Một ảnh 3000x2000 pixel, ở
độ phân giải 300 ppi được xử lý trong Photoshop hoàn toàn gống như một ảnh 3000x2000 pixel ở độ phân
giải 72 ppi.
- Độ phân giả là một chỉ lệnh cho thiết bị in: Giá trị độ phân giải mà bạn gán cho một ảnh trong máy ảnh
kỹ thuật số hay trong hộp thoại Image Sixe của Photoshop được ghi cùng với ảnh như là một chỉ lệnh cho
thiết bị xuất.
- Độ phân giải đo kích cỡ của các pixel riêng lẻ: 300ppi thực sự có nghĩa là mỗi pixel sẽ in ở một kích cỡ
đúng 1/300 của một inch vuông. Tương tự, 72 ppi bằng mỗi pixel in ở 1/72 của một inch vuông.
- Các ảnh Web sử dụng chỉ các kích thước pixel: Các bộ trình duyệt Web không có khả năng đọc thông
tin độ phân giải được nhúng bởi Photoshop trong các ảnh đồ họa đơn giản của bạn. Mỗi ảnh được hiển thị
trong trình duyệt Web theo đúng số pixel trong ảnh.
c. Điều chỉnh màu bằng cách sử dụng Print
Trong vài năm gần đây, việc tái tạo màu chính xác từ monitor sang máy in đã trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Mặc dù tiến trình quản lý màu phức tạp đối với nhiều người, nhưng nhu cầu thực sự đối với phần mềm và
phần cứng có năng kiểm soát màu đã giảm nhiều. Tại sao? Chỉ vì các nhà sản xuất máy tính đã nhận ra rằng
người dùng muốn các màu tốt hơn. Các monitor chuyển từ phân xưởng đã được định chuẩn xác. Các máy in
dùng các giọt nhỏ hơn và mực cũng tốt hơn. phần mềm thực hiện việc chuyển màu chính xác hơn.
Đối với phần lớn người dùng Photoshop, màu chính xác là rất quan trọng, sau khi trải qua hàng giờ đều
chỉnh diện mạo của một ảnh trên màn hình chắc chắn bạn muốn ảnh được in sẽ có diện mạo hoàn toàn
26
giống như trên monitor. Sau đây là cách để có được màu chính xác đó.
1. Khi bạn chuẩn bị xuất ảnh, hãy sử dụng lệnh File | Print.
Cửa sổ Print cung cấp cho bạn nhiều tuỳ chọn hơn số tuỳ chọn mà bạn có trong hộp thoại Print thông
thường, bao gồm cả các tuỳ chọn quản lý màu được sử dụng ở đây.
2. Chọn Document
Trong phần Color Management của hộp thoại, bảo đảm tuỳ chọn Print được xác lập sang Document thay vì
sang proof. Profile màu của tài liệu sẽ hiển thị trong các dấu ngặc đơn, và profile đó sẽ là RGB hoạt động
của bạn từ hộp thoại Color Settings của Photoshop. Trừ khi bạn có profile monitor tuỳ biến, hãy sử dụng
Adobe RGB (cho các máy in phun mực từ loại thường đến loại tốt) hay sRGB (cho máy in 4 mực)
3. Khi đã sẵn sàng, hãy nhấp nút Print.
4. Tắt tính năng quản lý màu của máy in.
Bởi vì bạn đang thực hiện việc quản lý màu trong Photoshop, nên bạn cần tắt mọi tính năng quản lý màu ở
cấp độ máy in trong hộp thoại Print của máy in (Kiểm tra phần hướng dẫn người sử dùng dành cho máy in
của bạn để tìm các chỉ dẫn cụ thể).
5. Thực hiện việc in
Việc nhấp nút Print trong hộp thoại của máy in sẽ gởi ảnh đến máy in và bắt đầu tiến trình thật sự để đặt
mực lên giấy.
Đừng quên rằng Photoshop CS6 cung cấp cho bạn nhiều cách khác nhau để tiết kiệm giấy (và cả thời gian
và tiền bạc) bằng cách in nhiều ảnh trên cùng một tờ giấy.
d. Xem xét các giải pháp quản lý màu
Nếu các tấm ảnh bạn in ra có màu không giống như trên monitor của bạn, trước tiên hãy kiểm tra các xác
lập của monitor. Mở một ảnh với các giá trị màu đã biết (bạn biết ảnh sẽ có diện mạo như thế nào) trong
một chương trình không được quản lý màu, Chẳng hạn, bạn có thể sử dụng lệnh Insert | Picture | From File
của Microsoft Word để thêm ảnh Ducky.tif từ Folder Samples (bên trong của Folder Photoshop) vào một tài
liệu Word trống. Sử dụng các nút điều chỉnh của monitor để làm cho ảnh có diện mạo tốt nhất, sau đó in.
Nếu ảnh in chính xác thì thật tuyệt, bạn đã xác lập đúng mọi thứ.
27
Nếu monitor có diện mạo đẹp nhưng ảnh in ra lại có vẻ lạ, trước tiên hãy làm sạch và định chuẩn đầu in.
Kiểm tra hộp thoại Print để bảo đảm bạn đang chọn đúng các xác lập màu và giấy. (Một lần nữa, hãy xem
phần hướng dẫn người dùng dành cho máy in của bạn để tìm các chỉ dẫn cụ thể).
Đối với những người mà công việc của họ đòi hỏi màu cực kỳ trung thực nhiều công ty đã cung cấp phần
cứng và phần mềm để giúp điều chỉnh màu. Bạn có thể tạo các profile tuỳ biến cho các monitor, các máy in,
và cả các máy scan và các máy ảnh kỹ thuật số. Mặc dù không thể lắm, nhưng kỹ năng xử lý của chúng
không chỉ tạo ra các tấm ảnh in đẹp hơn và còn giúp giảm bớt lượng giấy mực hao phí do ảnh in bị xấu.
Lưu ý rằng tất cả phần cứng và phần mềm quản lý màu sẽ không thực hiện tốt chức năng của chúng nếu bạn
không đang điều khiển môi trường làm việc của mình. Nếu công việc của bạn đòi hỏi màu chính xác, bạn
cần thực hiện thêm một số bước bổ xung. Trong văn phòng làm việc hay trong sudio, bạn cần điều chỉnh
ánh sáng chung quanh sao cho bạn có một môi trường xem màu nhất quán dù là vào ban ngày hay ban đêm,
mưa hay nắng, mùa đông hay mùa hè. Nếu bạn có các cửa sổ, bạn cần đóng rèm trước khi thực hiện công
việc có liên quan đến màu. Các bức tường đằng sau monitor và vùng làm việc trung gian phải có màu trung
tính.
e. Các phương pháp in khác
Cho đến nay bạn sử dụng một máy in phun mực để in các bức ảnh của bạn lên giấy. Mặc dù các máy in
phun mực là loại phổ biến nhất và có lẽ thực tế nhất, nhưng bạn có thể dùng các phương pháp khác. Chẳng
hạn, nếu công việc của bạn bao gồm các tập quảng cáo mỏng (brochures) và tờ bướm (flyer) chứ không
phải các bức ảnh, một máy in laze màu có thể đáp ứng tốt hơn cho các nhu cầu của bạn. Tuy chi phí ban đầu
thường cao hơn nhưng chi phí in mỗi trang thì thấp hơn nhiều. Các máy in laze màu thường không in các
bức ảnh chụp đẹp bằng một máy in phun mực loại thường đến loại tốt, và các bản in không bền (nghĩa là
chúng sẽ bị phai mờ theo thời gian), nhưng các bản in như vậy có thể phù hợp cho việc chia sẻ các bức ảnh
chụp nhanh với bạn bè và gia đình. Các tuỳ chọn in cho một máy in laze màu khác với các tuỳ chọn của một
máy in phun mực. Hãy xem phần hướng dẫn người dùng dành cho máy in của bạn để cài đặt công việc in
một cách chính xác.
Sau đây là một phương pháp in khác mà mọi người dùng photoshop đều có thể sử dụng. Hãy ghi các ảnh
của bạn ở dạng JPEG (chất lượng cao nhất 300 ppi) vào một CD và đưa CD này đến một phòng rửa ảnh ở
địa phương. Cách khác là hãy dùng một dịch vụ trực tuyến để tải các ảnh JPEG của bạn lên trang Web
service của dịch vụ để đặt in ảnh. Bạn sẽ nhận được các tấm ảnh in sáng bóng hay mờ tuỳ theo kích cỡ yêu
cầu. Và chi phí cho mỗi tấm ảnh in có thể thấp hơn nhiều so với việc sử dụng máy in in phun mực của bạn.
Phòng rửa ảnh ở địa phương thường là một cấp khác thích hợp cho việc in một xấp các ảnh chụp kỳ nghỉ hè
và các ảnh đoàn tụ gia đình
28
Bài 3 - Tinh chỉnh các vùng sáng và tối
1. Sử dụng các Histogram
Trong phần lớn các bức ảnh chụp với chủ đề chung, mắt người thường nhìn thấy tông màu (xám) trung tính
tối nhất là màu đen và tông màu trung tính sáng nhất là màu trắng (Nếu màu tối nhất rõ ràng là màu tía và
màu sám nhất là màu vàng sáng, có lẽ bạn sẽ không phân biệt được chủ đề của ảnh “chung”). Chẳng hạn,
trong một bức ảnh đã chụp, bóng bên dưới chiếc giày có thể chỉ có một xám đậm, và áo sơ mi có lẽ cần phải
được tẩy trắng một chút, nhưng mắt của chúng ta thường bù đắp thêm một mức độ nào đó và cho phép ta
nhìn thấy đó là màu đen và màu trắng.
Để phân biệt chính xác hơn dãy sắc độ của ảnh, photoshop cung cấp Palette Histogram (nằm trong cùng
nhóm với Palette Navigator và Info góc phía trên bên phải của màn hình).
Palette Histogram hiển thị sự phân biệt các pixel trong ảnh của bạn ở các giá trị độ sáng khác nhau. Các
pixel càng tối (vùng tối) được xếp ở cuối bên trái, các pixel sáng hơn (vùng sáng) được xếp ở cuối bên phải,
và các giá trị độ sáng còn lại (vùng sắc độ trung gian được xếp ở giữa. Một cột trong histogram càng cao thì
có càng nhiều pixel tại giá trị độ sáng đó. Hình dưới minh họa một ảnh với sự phân bổ histogram gần như
hoàn hảo vào đường cong tuyệt đẹp nằm ngay chính giữa đồ thị.
Tuy nhiên, đừng bị lôi cuốn vào sự phân bố histogram! không phải mọi bức ảnh được phơi sáng thích hợp
đều có một đường cong như vậy. Nhiều bức ảnh hoàn hảo nhưng lại có các Histogram khác nhau. Sự phân
bố chính xác trong histogram khác nhau. Sự phân bố chính xác trong histogram phụ thuộc vào hai yếu tố:
Nội dung ảnh và các mục đích nghệ thuật của người họa sĩ.
Chúng ta sẽ xem xét một bức ảnh chụp hầu như chỉ có các pixel trắng, chẳng hạn như bức ảnh minh họa ở
hình dưới đây.
29
Ảnh có một histogram nghiêng sang phải được gọi là ảnh khoá cao (high-key). Không có gì sai đối với bức
ảnh này (cho dù là histogram); nó chỉ có vẻ có quá nhiều pixel màu sáng mà thôi.
Tương tự, một ảnh khoá thấp (low-key) có toàn pixel tối, vốn làm cho histogram nghiêng sang trái. Hầu như
mọi cảnh đêm đều có rất nhiều các pixel quá tối, làm cho sự phân bố nghiêng về phía bên trái của
histogram. Tuy nhiên, trong nhiều cảnh đêm cũng có các đèn, các đèn này tạo ra một mũi nhọn ở gần cuối
bên phải.
Lưu ý rằng chiều cao của các cột riêng lẻ trong vùng histogram là tương đối: cột cao nhất gần như nằm sát
đỉnh hộp, các cột còn lại được định tỉ lệ theo cho phù hợp. Chẳng hạn, một ảnh trên một nền màu đen, giả
sử một nền đen cỡ lớn – có thể có quá nhiều pixel trong cột ngoài cùng bên trái khiến cho các cột còn lại
trong ảnh có vẻ quá nhỏ và hầu như không thể đọc được giống như histogram minh họa ở hình dưới.
Đôi khi một histogram có vẻ không cho bạn biết điều gì rõ ràng. Chẳng hạn, hãy xem histogram ở hình dưới
đây:
Ảnh không có một sự phân bố đường cong tốt, nó hơi nghiêng về mỗi bên của đỉnh tâm. Đây không phải là
một ảnh khoá cao (high-key) bởi vì các pixel không hoà trộn nhau ở bên phải. Ảnh hơi có vẻ là một tấm ảnh
khoá thấp (low –key), nhưng histogram lại không có một độ phân biệt mà bạn sẽ tìm thấy phần lớn các pixel
của ảnh trong đó.
Khi bạn nhấp vào nút Options ở góc trên bên phải của Palette histogram bạn có thể thay đổi cấu hình của
Palette. (Cho đến lúc này, chúng ta chỉ làm việc với khung xem Compact View.
30
Trong trường hợp này việc chuyển đổi sang khung xem Expanded View hoặc All Channels view, sẽ giúp
bạn hiểu rõ hơn về histogram, đặc biệt là khi được xem với chính ảnh, như minh họa ở hình dưới).
Khung xem ở chế độ Expanded View
Khung xem ở chế độ All Channels View.
31
Khung xem All Channels View cho bạn thấy một histogram dành cho mỗi kênh màu. Ảnh trong hình minh
họa chứa một số lượng pixel lớn với màu khá nhất quán. Nếu bạn trộn màu đó trong nhà bếp, công thức sẽ
là một phần màu đỏ hai phần màu xanh lục và bốn phần màu xanh dương.
Bạn có thể sử dụng Histogram để tránh làm giảm chất lượng của ảnh trong khi thực hiện sự điều chỉnh, và
điều đó rất quan trọng khi bạn làm việc với plug-in Camera Raw. Bạn không cần Palette histogram để xác
định đó là một ảnh khoá cao hay khoá thấp.
3. Sử dụng các tính năng điều chỉnh tự động
Việc điều chỉnh sắc độ của ảnh có thể đơn giản như việc chọn một trong các lệnh Auto từ menu Image
Adjustments của photoshop. Với nhiều bức ảnh, sắc độ (và thậm chí cả màu) sẽ làm cho ảnh có diện mạo
đẹp hơn.
32
Nếu bạn cần thực hiện một điều gì đó đặc biệt cho ảnh của bạn (chẳng hạn tạo một hiệu ứng khác lạ), hoặc
nếu ảnh có diện mạo không đẹp lắm, trong các trường hợp này các lệnh Auto có thể không phải là sự sựa
chọn tốt nhất. Nhưng hãy ghi nhớ điều này: Việc thử một lệnh Auto trước tiên chưa bao giờ gây ra một lỗi
trầm trọng nào. Trong trường hợp tệ nhất, bạn có thể sử dụng lậnh Undo để phục hồi trở lại các trạng thái
trước của ảnh.
Sau đây là ba mục chọn chỉnh sửa tự động, từ đơn giản đến phức tạp:
- Auto Contrast: Auto Contrast làm cho các pixel tối trở nên tối hơn và các pixel sáng trở nên sáng hơn,
đồng thời cố tránh tạo ra bất kỳ sự dịch chuyển màu (một sự thay đổi hoàn toàn về diện mạo của màu).
Cùng một sự điều chỉnh được áp dụng cho cả ba kênh màu của ảnh. Bạn có thể sử dụng Auto Contrast với
một ảnh mà các màu trong ảnh đó đã có vẻ phù hợp với bạn chỉ cần tăng thêm độ tương phản.
- Auto tone: Mỗi kênh màu của ảnh nhận được sự điều chỉnh của riêng nó, tăng tối đa dãy sắc độ trong
kênh. Nếu một trong các kênh màu không có nhiều đóng góp vào ảnh gốc, một sắc thái màu có thể được tạo
ra. Auto Tone thì thích hợp cho phần lớn các ảnh đã có diện mạo đẹp và không cần có các màu chính xác.
- Auto Color: Thay vì sử dụng một pixel sáng nhất và một pixel tối nhất để xác định đâu sẽ là màu trắng và
đâu sẽ là màu đen Auto Color tính trung bình vài pixel ở mỗi đầu cuối. Phương pháp tính trung bình đó sẽ
ngăn chặn một pixel nằm rải rác loại ra khỏi phép tính được sử dụng để điều chỉnh ảnh của bạn Auto Color
33
thì thích hợp cho phần lớn các ảnh thông thường. Tuy nhiên, bạn có thể cần ùng lệnh Undo trên một số bức
ảnh mà các đối tượng trong ảnh có màu quá nổi bật hoặc các ảnh sắc thái màu không mong muốn.
4. Levels và Curves
Đôi khi bạn cần có sự điều khiển hơn ngoài các lệnh Levels. Bạn có thể có một vấn đề đòi hỏi nhiều sự điều
khiển hơn hay một tầm nhìn nghệ thuật rộng hơn. Bạn cần thực hiện nhiều sự điều chỉnh hoặc tạo các hiệu
ứng nổi bật. Photoshop cung cấp loại điều khiển đó cho ảnh của bạn. Thật vậy, bạn có nhiều cách xử lý sắc
độ của các ảnh. Hai cách thường được sử dụng nhiều nhất là Levels và Curves, cả hai đều nằm trong Menu
Image | Adjustments.
Trước khi giới thiệu về hai lệnh này, chúng ta sẽ xem qua một vài tuỳ chọn có sẵn khác. Từ những ngày đầu
của photoshop, lệnh Brightnes/Contrast đã ẩn giấu trong số các lệnh Image | Adjustments. Tuy nhiên, bây
giờ tính năng này không có đủ sự điều khiển và thiếu tính tinh vi, có lẽ nó được sử dụng nhiều nhất khi tinh
chỉnh một kênh alpha hay mặt nạ lớp. Trong cả hai kênh alpha và mặt nạ lớp, bạn sử dụng một dạng trình
bày thang độ xám (grayscale) để nhận biết các vùng cụ thể của ảnh. Brightnes/Contrast hoàn toàn thích hợp
cho nhiều sự điều chỉnh mà bạn có thể thực hiện đối với các kênh đó.
Cũng được sử dụng giới hạn là sự điều chỉnh Equalixe. Nó tìm pixel sáng nhất trong ảnh và gọi đó là màu
trắng, tìm pixel tối nhất và gọi là màu đen. Các pixel còn lại trong ảnh được phân bố giữa các giá trị đó, tạo
ra một dãy sắc độ mở rộng. Trong thực tế, bạn sẽ nhận thấy sự điều chỉnh tạo ra các vùng cực kỳ sáng và
các vùng cực kỳ tối với một ảnh có vẻ sặc sỡ nhưng lại thiếu các chi tiết ở các vùng sắc độ trung gian.
a. Sử dụng lệnh Levels
Lệnh Image | Adjustments | Levels… (Ctrl+L) cung cấp cho bạn sự điều khiển đối với các vùng tối, vùng
sáng, và toàn bộ dãy sắc độ của ảnh. Bằng các sử dụng một thanh trượt với ba mục điều khiển, bạn điều
chỉnh ảnh cho phù hợp với sự cảm nhận riêng của bạn và cả trên một histogram để tham chiếu. Bạn còn có
các trường số để nhập vào các giá trị chính xác nếu bạn cần.
34
Để thực hiện thao tác chỉnh sửa Levels cơ bản, mở rộng dãy sắc độ của ảnh qua toàn dãy giá trị có sẵn, bạn
chỉ cần rê các mục điều khiển thanh bên dưới histogram trong hộp thoại Levels vào phía trong cho đến khi
chúng nằm bên dưới điểm mà histogram bắt đầu tăng theo một hình dạng của ngọn núi. Bỏ qua vệt phẳng
nhỏ mở rộng ra phía ngoài – chúng biểu thị các pixel nằm rải rác – và rê các pointer nhỏ bên dưới các cột
vốn cao tối thiểu vài pixel Histogram trong hộp thoại Levels dùng để tham chiếu khi bạn thực hiện sự thay
đổi. Tuy nhiên, lưu ý rằng trong khi bạn đang làm việc trong Levels, Palette Histogram cập nhật, cho bạn
thấy phần trước (màu xám) và sau khi (màu đen) thực hiện sự điều chỉnh.
Việc rê thanh trượt ở giữa sang sẽ di chuyển khối histogram sang trái, biểu thị toàn bộ diện mạo của ảnh có
vẻ tối hơn.
Cũng chú ý thanh trượt Output Leves ở bên dưới trong hình trên. Bạn thường sử dụng thanh trượt đó chỉ khi
chuẩn bị một ảnh để in ra một máy in thương mại vốn đòi hỏi bạn phải nén dãy sắc độ của ảnh. Nếu không,
hãy bỏ qua thanh trượt đó và hai trường của nó ngoại trừ để đạt được các hiệu ứng đặc biệt. Chú ý menu bật
lên ở đầu hộp thoại Levels, bạn có thể áp dụng Levels cho mỗi kênh màu riêng lẻ của ảnh, thay đổi công cụ
điều chỉnh sắc độ này sang một tính năng chỉnh sửa màu.
Khi bạn đang làm việc trong levels (hay hầu như bất kỳ hộp thoại nào), hãy ghi nhớ rằng việc nhấn giữ
phím Alt sẽ làm thay đổi nút Cancel thanh nút Reset. Khi bạn nhấp nút Reset, mọi giá trị trong hộp thoại
được phục hồi trở lại mặc định, cho phép bạn bắt đầu lại mà không phải huỷ và chọn lại lệnh.
35
Như đã nêu ở đầu bài này, bạn có thể sử dụng Palette histogram để tránh gây ra các lỗi cho ảnh. Ở hình trên,
Palette Histogram cho thấy có các khoảng hở nhỏ xuất hiện giữa các cột tối hơn ở phía trước. Về mặt kỹ
thuật các khoảng hở này được gọi là posterization, chúng tiêu biểu cho các giá trị sắc độ đang được nén lại
với nhau thành một giá trị duy nhất. Các pixel ở một cấp độ sáng được dịch chuyển sang một giá trị cao hơn
kế tiếp hoặc thấp hơn kế tiếp, để cột đó trống trong histogram. Đây có phải là một sự cố hay không? Không,
nếu bạn không nhìn thấy các khoảng hở rộng, biểu thị các giá trị sắc độ liên tiếp không đang được sự dụng.
(vùng posterization quá rộng sẽ phá hỏng sự chuyển tiếp tinh vi giữa các màu trong ảnh của bạn). Và đó là
lý do tại sao bạn cần chú ý Palette Histogram, để bảo đảm bạn không tạo ra các khoảng hở quá rộng trong
histogram và vùng posterization dễ nhận thấy trong ảnh của bạn.
Sau đây là một cách đơn giản để giảm thiểu vùng posterization đó. Ngay sau khi sử dụng Levels, hãy dùng
lệnh Edit | Fade Levels và thay đổi chế độ hoà trộn từ Normal sang Luminosity. Như bạn thấy ở hình dưới
đây, posterization biến mất với một sự thay đổi nhỏ trong hiệu ứng của việc điều chỉnh Levels. Ghi nhớ
rằng lệnh Fade chỉ có sẵn ngay sau khi áp dụng một sự điều chỉnh (một bộ lọc hay một công cụ), thậm chí
bạn được dùng lệnh Save chen vào giữa.
b. Chỉnh sửa sắc độ với các Eyedropper
Hộp thoại Levels (và hộp thoại Curves) cung cấp một cách khác để chỉnh sửa sắc độ cho ảnh của bạn, một
loại kỹ thuật bán tự động, sử dụng ba Eyedropper ở góc phía dưới bên phải của hộp thoại. Hãy mở ảnh, mở
hộp thoại Levels, và chỉnh sửa các sắc độ và màu trong ảnh của bạn bằng ba thao tác nhấp đơn giản sau đây.
1. Nhấp vào Eyedropper bên trái trên vùng mùa nó sẽ là màu đen.
Đây có thể là một vùng tối, một mẫu quần áo, hay một lốp xe hơi. Nói chung, bạn nhấp vào vùng trong ảnh
mà nó đã hoàn toàn có màu đen.
2. Nhấp vào Eyedropper bên phải trên vùng mà nó sẽ là màu trắng.
Một đám mây, áo đầm cưới của cô dâu, … là những đích dành cho Eyedropper vùng sáng. Bạn thường nhấp
vào một vùng nào đó mà nó đã hoàn toàn có màu sáng.
3. Nhấp vào Eyedropper ở giữa trên vùng mà nó sẽ màu xám.
Hãy nhấp vào một vùng mà nó sẽ có màu trung tính. Không bắt buộc phải có màu xám vừa, chỉ cần đó là
một vùng có màu trung tính. Điều này sẽ loại bỏ bất kỳ sắc thái màu không mong muốn trong ảnh. Nếu bạn
không thích kết quả, hãy nhấp vào một nơi khác trong ảnh. Tiếp tục nhấp cho đến khi các màu trong ảnh có
vẻ thích hợp.
c. Điều chỉnh các đường cong
Phức tạp hơn một chút là Image | Adjustments | Curves (Ctrl+M).
36
Giống như Levels, bạn sử dụng Curves để điều chỉnh dãy sắc độ của ảnh. Nhưng thay vì một thanh trượt có
ba mục điều khiển, hộp thoại Curves cung cấp cho bạn cơ hội để điều khiển các phần khác nhau trong dãy
sắc độ và màu. Chúng được sử dụng giống như cách bạn dùng các Eyedropper trong Levels)
Hình dưới đây minh họa một sự điều chỉnh Curves đơn giản được áp dụng cho ảnh đó.
Việc rê đường cong xuống dưới trong các vùng tối làm cho chúng trở nên tối hơn, việc rê lên phía trên làm
cho các vùng sáng trở nên sáng hơn. Các vùng sắc độ trung gian (vùng nằm giữa các vùng tối và sáng) cũng
được làm sáng hơn một chút trong phần điều chỉnh này.
Khi lần đầu tiên bạn mở hộp thoại Curves, bạn sẽ nhìn thấy một đồ thị với một đường chéo chạy từ điểm
neo ở góc phía dưới bên trái đến một điểm neo khác ở góc phía trên bên phải. Bạn nhấp và rê đường thẳng
đó lên trên hoặc xuống dưới để thêm các điểm neo và thực hiện sự thay đổi trong đường con (và trong ảnh
của bạn). Theo mặc định, các vùng tối nằm ở phía dưới bên trái, vì vậy việc rê xuống dưới sẽ làm tối vùng
đó, và rên lên trên sẽ làm sáng chúng. Bạn có thể thêm nhiều điểm neo vào đường con - mặc dù bạn thường
chỉ cần khoảng một đến ba điểm mới.
Đa số các ảnh chụp nhanh có thể tận dụng một sự điều chỉnh nhỏ trong Curves. Nhấp vào phần giao nhau
của các đường hướng dẫn ngang và dọc đầu tiên ở góc phía trên bên trái và rê xuống dưới một chút. Trường
Input sẽ ghi 64, và trường Output sẽ ghi một giá trị nào đó giữa 55 và 60 cho một ảnh chụp với sự khởi đầu
tốt. Kế tiếp, nhấp vào phần giao nhau của đường lưới ở góc phía trên bên phải và rê lên trên một chút.
Trường Input sẽ hiển thị 192, và trường Output có thể là một giá trị từ 95 đến 205.
Cả hai hộp thoại Curves và Levels đều cung cấp cho bạn các nút Load và Save. Nếu có một sự chỉnh sửa mà
bạn cần thực hiện trên một lần, hoặc phần chỉnh sửa cần phải chính xác, hãy sử dụng nút Load để áp dụng
phần điều chỉnh đó cho một ảnh khác. Chẳng hạn, nếu bạn đã sử dụng sai xác lập trong máy ảnh của bạn khi
chụp một loạt các bức ảnh trong cùng một điều kiện ánh sáng, có lẽ các bức ảnh đó được chỉnh sửa như
nhau. Hãy thực hiện sự điều chỉnh một lần, lưu nó, sau đó áp dụng nó cho các bức ảnh khác với nút Load.
Nếu bạn muốn chỉnh sửa một vùng nhất định trong ảnh, hãy nhấn giữ nút chuột và di chuyển con trỏ vào
cửa sổ ảnh (nơi nó xuất hiện ở dạng công cụ Eyedropper. Bạn sẽ nhìn thấy một hình tròn trên đường cong.
37
Hình tròn này cho bạn biết vị trí của các pixel đó trong dãy sắc độ. Để thêm một điểm neo vào đó,
Ctrl+nhấp trong cửa sổ ảnh.
Khi đường con có nhiều điểm neo, điểm neo hoạt động sẽ hiển thị ở dạng một ô vuông lấp đầy. Các điểm
neo không được chọn là các ô vuông rỗng. Để chính xác hơn, bạn có thể dùng các phím mũi tên trên bàn
phím để di chuyển điểm neo hoạt động, hoặc bạn có thể gõ các giá trị cụ thể vào trường Input (vị trí bắt đầu
của điểm neo) và trường Output (nơi mà bạn muốn điểm neo di chuyển)
Bạn cũng có nhiều cách để tuỳ biến diện mạo của Curves. Nhấp nút nằm ở phía dưới bên phải để chuyển
đổi giữa hộp thoại cỡ chuẩn và một hộp thoại cỡ lớn hơn. Nhấn Alt + nhấp trong vùng lưới để chuyển đổi
giữa một lưới 4x4 và một lưới 10x10. Thay vì nhấp và rê trên đường cong, bạn có thể kích hoạt công cụ
Pencil và vẽ đường cong bằng tay.
Khi vẽ đường cong bằng tay, nút Smooth sẽ trở nên có sẵn để bảo đảm sự chuyển tiếp trong các phần điều
chỉnh sắc độ của bạn không quá trầm trọng.
5. Một số công cụ khác
Menu Image | Adjustments của Photoshop CS6 còn có nhiều cách mạnh hơn để làm việc với dãy sắc độ
trong các ảnh của bạn. Bạn có thể sử dụng điều chỉnh Shadow/Highlight để cô lập và thay đổi bất kỳ dãy
pixel sáng hay tối mà bạn muốn.
38
Bằng cách chỉ định dãy giá trị sắc độ nào được xem là tối hay hẹp. Tính năng Exposure cho phép bạn thay
đổi toàn bộ dãy sắc độ của ảnh, như thể bạn đã chụp ảnh với một xác lập máy ảnh khác. Và đừng quên
chỉnh sửa các vùng có vết đốm bằng các công cụ Dodge và Burm!
Sự điều chỉnh Shadow/Highlight và Eyedropper không giống như làm việc với các ảnh Raw trong plug-in
Camera Raw. Camera Raw hoạt động với dữ liệu ảnh chưa được xử lý, vì vậy nó được gọi là âm bản kỹ
thuật số (digitalnegative). Bằng các sử dụng các lệnh Adjustments của Photoshop, bạn đang làm việc với dữ
liệu ảnh đã được xử lý trong Camera Raw, bạn thật sự có sự điều khiển về sự phơi sáng, các vùng tối, các
vùng sáng, và nhiều thứ khác.
Sự điều chỉnh Shadow/highlight và Exposure không có sẵn như các lớp điều chỉnh. Các thay đổi mà bạn
thực hiện với các tính năng này là sự thay đổi vĩnh viễn của ảnh.
a. Sử dụng Shadow/Highlight
Sự điều chỉnh Shadow/Highlight được thiết kế để tinh chỉnh hai loại ảnh: nền được phơi sáng tốt, nhưng
chủ thể trong tiền cảnh thì lại quá tối. Hoặc nền thì đẹp, nhưng chủ thể lại bị trắng xoá do bởi đèn flash quá
sáng.
39
Bằng cách điều khiển các vùng tối và vùng sáng tách biệt với phần còn lại của ảnh, tính năng này giúp bạn
phục hồi sự cân đối hơn cho ảnh.
Các xác lập mặc định trong Shadow/Highlight dùng để chỉnh sửa các lỗi do ảnh sáng chiếu về phía sau, như
bạn thấy trong ảnh khi tiền cảnh thiếu chi tiết do bởi đền flash, hãy giảm thiểu sự thay đổi cho các vùng tối
và rê thanh trượt Highlights sang phải. Như minh họa ở hình dưới đây, hai thanh trượt trong
Shadow/Highlight có thể được sử dụng kết hợp với nhau.
Trong hộp thoại Shadow/Highlight, thanh trượt Shadows làm sáng các vùng tối hơn của ảnh, và thanh trượt
Highlights làm tối các vùng sáng hơn.
Thông thường, bạn sẽ sử dụng thanh trượt này hoặc thanh trượt kia để chỉnh sửa một lỗi nào đó trong ảnh,
nhưng bạn có thể dùng cả hai nếu bạn cần làm sáng các vùng tối và giảm sắc độ của các vùng sáng trong
cùng một ảnh.
Bạn sẽ nhận thấy Shadow/Highlight cũng là một công cụ tuyệt vời cho một số trường hợp khác, nhất là khi
bạn chọn hộp kiểm Show More Options. Chẳng hạn, hãy xem hình minh họa dưới đây:
40
Trong ảnh “sau”, ảnh có diện mạo tuyệt vời hơn nhờ sự làm sáng với thanh trượt Shadows, hạ thấp thanh
trượt Midtone Contrast, và tăng độ bão hoà với thanh trượt Color Correction. Bằng cách làm sáng và tăng
độ bão hoà, các màu xanh lá cây có màu nâu trong nền tách biệt, giúp bạn thấy rõ chủ thể.
Khi bạn chọn hộp kiểm Show More Options, Shadow/Highlight có một tập hợp điều khiển bổ xung. Các tuỳ
chọn này khá đơn giản.
- Amount: Đối với Shadow và Highlight, thanh trượt Amount là lượng điều chỉnh mà bạn thực hiện. Đây là
chi tiết điều chỉnh của Shadow/Highlight. Đối với một chủ thể được chiếu sáng về phía sau, bạn sẽ sử dụng
thanh trượt Shadow khá nhiều và không dùng thanh trượt Highlight. Khi làm việc với một chủ thể bị trắng
xoá, bạn sẽ di chuyển thanh trượt Shadow sang 0% và làm việc với thanh trượt Highlight
- Tonal Width: Sử dụng các thanh trượt Tonal Width để chỉ định bạn muốn đưa vào bao nhiêu phần trong
dãy sắc độ của ảnh ở dạng các vùng tối hay vùng sáng. Nếu bạn rê mỗi thanh trượt Tonal Width sang 100%,
bạn đang làm việc trên toàn bộ dãy sắc độ của ảnh – đây không phải là một công việc đặc biệt phù hợp với
Shadow/Highlight (việc sử dụng Curves thì phù hợp hơn). Mặc định 50% là một giá trị khá cao. Hãy bắt
đầu sự điều chỉnh bằng một dãy giá trị khoảng 20% và tinh chỉnh từ đó.
- Radius: Bạn điều chỉnh các thanh trượt Radius để cho Shadow/Highlight biết những pixel nào sẽ được
xác định là nằm trong vùng tối hay vùng sáng. Với xác lập Radius quá thấp, một pixel đen riêng lẻ nằm ở
giữa một vùng sáng trong ảnh có thể được phân loại là một vùng tối. Một xác lập quá cao thường có khuynh
hướng áp dụng sự điều chỉnh cho toàn bộ ảnh. Nói chung, hãy bắt đầu với một Radius khoảng 10 pixel cho
các bức ảnh cỡ nhỏ và 30 pixel cho các bức ảnh cỡ lớn. Sau khi điều chỉnh các thanh trượt Amount và
Tonal Width, hãy di chuyển thanh trượt Radius tới lui trong khi theo dõi một số mẫu nhỏ hơn của vùng tối
hay vùng sáng (bất kỳ vùng nào bạn đang chỉnh sửa) để bảo đảm các vùng đó đang được đưa vào phần điều
chỉnh.
- Color Correction/Brightness: Thanh trượt này thay đổi tên của nó phù hợp với chế độ màu của ảnh. Khi
41
làm việc với một ảnh màu, bạn sẽ nhình thấy Color Correction. Khi bạn áp dụng Shadow/Highlight cho một
ảnh thang độ xám, tên của thanh trượt đổi thành Brightness. Đừng bận tâm đến thanh trượt này cho đến khi
nào bạn thực hiện sự điều chỉnh Amount. Trong một ảnh màu, việc làm sáng các vùng tối hay làm tối các
vùng sáng sẽ cho thấy màu thật sự cuả các pixel ở những vùng đó. Hãy sử dụng thanh trượt này để tăng (rê
sang pahỉ), hoặc giảm (rê sang trái) độ bão hoà của các pixel đó. Ghi nhớ rằng Color Correction hoạt động
chỉ trên các pixel mà bạn nhận biết với các thanh trượt Tonal Width và Radius sang 0%, Color Correction sẽ
hoàn toàn không có tác dụng nào lên ảnh). Mặt khác, khi bạn chỉnh sửa một ảnh thang độ xám, thanh trượt
Brightness tác động đến tất cả pixel ngoại trừ các pixel đã có màu trắng thuần khiết hoặc màu đen thuần
khiết.
- Midtone Contrast: Bạn có thể tăng hoặc giảm độ tương phản trong suốt ảnh bằng thanh trượt Midtone
Contrast. Gần giống như việc nhấp vào giữa đường cong trong Curves và rê lên hoặc xuống, bạn điều chỉnh
toàn bộ dãy tương phản của ảnh, bao gồm cả ùng sáng và vùng tối. Khi toàn bộ diện mạo của ảnh cần được
cải tiến, hãy bắt đầu với Midtone Contrast và sau đó làm việc với các vùng tối và vùng sáng riêng lẻ.
- Clip: Thông thường bạn không muốn thay đổi các giá trị xén. Xén (clipping) lấy các pixel gần như đen và
ép buộc chúng thành màu đen thuần khiết, hoặc lấy các pixel gần như trắng và ép buộc chúng thành màu
trắng thuần khiết. Việc xén các vùng tối hay vùng sáng sẽ giảm bớt những khác biệt tinh vi về màu sắc vốn
cung cấp chi tiết trong các vùng tối và vùng sáng. Khi nào thì bạn cần xén các vùng tối hay vùng sáng? Khi
bạn không quan tâm đến những chi tiết ở những vùng đó của ảnh và cần độ tương phản cao hơn ở những
vùng đó của ảnh và cần độ tương phản cao hơn ở các vùng có sắc độ trung gian.
b. Thay đổi độ phơi sáng
Photoshop CS6 thêm một tính năng mới vào menu Image | Adjustments.
Tính năng đó được gọi là Exposure (độ phơi sáng). Nó mô phỏng cách ảnh sẽ có diện mạo như thế nào nếu
bạn thay đổi xác lập Exposure trên máy ảnh của bạn trước khi nhấp màn trập. Hãy xem nó như là một sự
điều chỉnh sắc độ trong ảnh. Như bạn có thể thấy ở hình dưới, ngay cả một sự điều chỉnh nhỏ cũng có thể
tạo ra một sự tác động rất lớn đến ảnh.
42
Hộp thoại Exposure cũng có các mục điểu khiển khác. Các thanh trượt Shadow và Brightness được thiết kế
chủ yếu để xử lý các ảnh có số bít rất cao (các ảnh đặc biệt với dãy động cao 32 bít/kênh).
Exposure là một công cụ khá chuyên biệt, nó không thân thiện với người dùng và cũng không hiệu quả bằng
Curves và Shawdow/Highlight.
c. Sử dụng các công cụ tạo sắc độ
Ngoài các cách trên, còn có thêm hai cách nữa để xử lý sắc độ trong Photoshop – đó là các công cụ tạo sắc
độ (toning). Hai công cụ sử dụng cọ này cho phép bạn tô các phần chỉnh sửa lên trên ảnh của bạn, tạo ra sự
điều khiển diện mạo một cách linh hoạt. Hãy chọn công cụ Burn để làm tối và công cụ Dodge để làm sáng.
Chọn một đầu cọ trong thanh công cụ và rê công cụ trong ảnh của bạn để áp dụng phần chỉnh sửa. Ở hình
dưới, bạn sẽ nhìn thấy công cụ Burn làm tối một vùng trong ảnh.
Trong trường hợp này tuy sử dụng công cụ làm tối những lại giúp cho ảnh hậu kỳ thêm sắc nét và rõ ràng.
Công cụ Dodge thì thích hợp cho việc giảm thiểu (nhưng không loại bỏ) các vùng tối trong một ảnh.
43
Bài 4 – Tùy chỉnh màu sắc
1. Màu trong Photoshop CS6
Photoshop CS6 xử lý các ảnh số (bao gồm cả các bức ảnh chụp kỹ thuật số, các ảnh đã được số hoá bằng
một máy scan, và artwork mà bạn tạo từ đầu trong Photoshop). Các chữ số là mã máy tính được sử dụng để
ghi thông tin của ảnh. Số pixel, màu của màu của mỗi pixel, và bất kỳ thông tin kết hợp sẽ được ghi theo
một chuỗi các số 0 và số 1 trên ổ cứng. Do đó, màu không có gì khác ngoài các số. Tuy nhiên, đối với
chúng ta, màu còn hơn mã nhị phân trên một ổ cứng. Đó là chính là ảnh, artwork, thông báo. Artwork là
màu và màu là artwork, thao từng pixel.
a. Các chế độ màu, mô hình màu, và độ sâu màu
Photoshop ghi màu của mỗi pixel trong ảnh bằng nhiều cách khác nhau. Mọi pixel trong bất kỳ ảnh đã cho
có tất cả các màu được ghi trong một chế độ màu, đó chính là dạng màu thật sự cho file ảnh. Tuy nhiên,
trong khi làm việc với ảnh của bạn, bạn có thể xác định các màu cụ thể bằng một trong các mô hình màu, đó
là một loại công thức thức mà bạn pha trộn màu bằng công thức đó. Và một ảnh có thể chỉ có một độ sau
mà (color depth), đây là một giới hạn về số lượng màu trong một ảnh.
Trước khi đi sâu vào chi tiết, bạn cần tìm hiểu một trong các khái niệm cơ bản của màu: đó là gam màu
(gamut). Hãy xem giam màu là dãy các màu mà về lý thuyết chúng có thể được tái tạo trong một chế độ
màu nhất định hoặc với một profile màu cụ thể. Do đo, một gam màu rộng sẽ có số màu có sẵn nhiều hơn
một giam màu bị giới hạn. Các màu bổ xung đó thường sáng hơn nổi bật hơn, các màu làm cho một ảnh trở
nên sống động. Chế độ màu RGB (red/green/blue) thường cung cấp một dãy màu rộng hơn chế độ màu
CMYK (cyan/magenta/yellow/).
Bạn nên chọn chế độ màu nào?
Nếu bạn dự định in ra một máy in phun mực hoặc gởi ảnh của bạn lên Web, bạn cần chế độ màu RGB. (Cho
dù bạn có thể tải các mực CMYK và máy in phun mực của bạn, nhưng phần mềm của máy in thường mong
đợi và bắt buộc phải nhận được - dữ liệu màu RGB). Nếu bạn đang chuẩn bị một ảnh để đưa vừa một tài
liệu dàn trang dành cho một máy in offset thương mại bạn cần CMYK (Bạn chọn chế độ màu của ảnh từ
menu Image | Mode).
Đó là một sự tóm lược đơn giản. Sau đây sẽ là phần trình bày chi tiết hơn về các chế độ màu:
RGB: RGB là chế độ màu cho các bức ảnh kỹ thuật số, các monitor máy tính, World Wide Web, và các
44
máy in phun mực. Tất cả các màu được ghi theo tỉ lệ của ba màu thành phần (đỏ, xanh lục, và xanh dương).
Màu RGB được ghi trong ba kênh màu. RGB là một chế độ màu phụ gia – nghĩa là bạn thêm càng nhiều
lượng màu của mỗi thành phần thì bạn càng tiến đến màu trắng.
CMYK: CMYK được sử dụng chủ yếu để in trên một máy in offset thương mại, nhưng bạn có thể cần nó
cho một máy in laser màu hay một máy in phun mực cấp cấp cao mà bạn sẽ sử dụng một RIP với nó. (RIP
là từ viết tắt của raster image processor, nghĩa là bộ xử lý ảnh mành. Đây là một mẫu phần cứng hay phần
mềm chuyên biệt có chức năng làm cho máy in phun mực của bạn được xem như là một máy in thương
mại). CMYK là một chế độ màu của các tạp chí, sách, và các tài liệu in đại trà khác.
CMYK là một chế độ màu khử - nghĩa là lượng màu của mỗi thành phần càng ít thì bạn càng tiến đến màu
trắng.
- Grayscale: Khi mọi người nói về một bức ảnh đen trắng, họ thật sự đang đề cập đến ảnh thang độ xám
(grayscale). Ảnh này không chỉ chứa các màu đen và trắng mà còn chứa một dãy các màu xám ở giữa. Bạn
có thể sử dụng chế độ grayscale cho các ảnh trên web hoặc cho các bản in. Lưu ý rằng trừ khi máy in phun
mực của bạn được thiết kế để tái tạo các ảnh thang độ xám với các mực đen và xám (hay các mực đen và
đen nhạt), bạn sẽ không hài lòng với kết quả in ảnh grayscale. Việc sử dụng chỉ một mực màu đen sẽ không
tái tạo toàn bộ dãy sắc độ trong ảnh. Việc sử dụng các mực màu sẽ thêm một sắc độ vào ảnh. Có một cách
khác cho các ảnh grayscale: hãy gởi chúng đến phòng rửa ảnh địa phương để nhờ in.
- Indexed Color: Bằng cách sử dụng một bảng màu (color table) hay một danh sách có đến 256 màu cụ thể,
chế đội Indexed Color dành cho Web. Bạn lưu các ảnh GIF và PNG – 8 trong mục Indexed Color, nhưng
chỉ các dạng file đó là cần một số lượng màu giới hạn như vậy. Những thứ như các nút trên trang Web (vốn
chỉ cần vài màu) sẽ được tạo ở dạng các ảnh GIF nhờ sử dụng chế độ Indexed Color. điều đó giúp giảm kích
cỡ file, giảm lượng khoảng trống mà ảnh đòi hỏi trên Web server của bạn, đồng thời tăng nhanh thời gian
tải xuống.
- L*a*b: Còn được gọi là Lab và CIELAB, đây là một chế độ màu mà bạn có thể sử dụng khi tạo các hiệu
ứng đặc biệt hoặc sử dụng các kỹ thuật nhất định trong Photoshop, nhưng không phải là chế độ mà bạn sẽ
lưu artwork sau cùng ở chế độ đó. Sau đây là ba kênh trong một ảnh lab:
- Lightness: Kênh này ghi độ sáng của mỗi pixel
+ Kênh này ghi màu của pixel trên một trụ green-to-red (xanh lục sang đỏ)
+ Kênh này ghi giá trị màu của mỗi pixel trên một trục blue-to-yellow (xanh dương sang vàng)
Bạn không nên in các ảnh Lab trên một máy in phun mực hoặc gởi chúng lên Web site của bạn. Bạn nên
chuyển đổi các ảnh RGB hay CMYK của bạn sang chế độ Lab trước khi sử dụng một trong các bộ lọc
Sharpen của Photoshop. Hãy áp dụng bộ lọc Unsharp Mask, sử dụng lệnh Edit | Fade Unsharp Mask, và
thay đổi chế độ hoà trộn từ Normal sang Lunilosity. Cùng một kết quả, nhưng số tác vụ được thực hiện ít
hơn và khả năng làm giảm chất lượng ảnh cũng thấp hơn.
- Duotone: Duotone (bao gồm cả triotone và quadtone) là một chế độ màu rất chuyên biệt, chỉ dành cho
45
việc in thương mại, vốn sử dụng chỉ hai hoặc ba hay bốn màu) mực trải rộng ra khắp ảnh. Mặc dù chế độ
này có vẻ phù hợp với một máy in phun mực, nhưng thật ra Duotone là một chế độ màu không thể chấp
nhận được đối với các máy in phun mực. Các ảnh Duotone đòi hỏi phải là việc mà bạn có thể làm với máy
in của mình.
- Multichannel: Giống như Duotone, Multichannel là một chế độ màu chỉ dùng giới hạn trong các máy in
thương mại bởi vì phụ thuộc vào các màu mực đã được pha trộn sẵn để áp lên giấy. Không giống như
Duotone, trong đó các mực thường rải qua khắp trang, các ảnh Multichannel sử dụng các mực nhất định
trong các vùng nhất định. Bạn có thể cần chế độ Multichanne khi tạo một logo cho một khách hàng.
- Bitmap: Chế độ màu Bitmap là màu đen và màu trắng thực sự. Mỗi pixel hoặc có màu đen hoặc màu
trắng. Sự sắp đặt các pixel đen và trắng sẽ tạo ra bóng, nhưng ảnh không thật sự có bất kỳ pixel xám nào.
Bạn có thể sử dụng chế độ Bitmap để tạo các ảnh cho một số thiết bị không dây, sử dụng trên Web, hay để
in thương mại.
Việc chuyển đổi giữa các chế độ màu hay gam màu (được thực hiện với menu Image | Mode) có thể làm
giảm chất lượng của ảnh qua việc nén các màu khác nhau thành một giá trị màu duy nhất. Chẳng hạn, bạn
sẽ không muốn chuyển đổi từ RGB (vốn có sẵn số lượng màu tương đối lớn) CMYK (có gam màu giới hạn
hơn), và sau đó chuyển trở lại RGB. Sau khi các màu đã được nén do sự chuyển đổi, bạn sẽ không phục hồi
các giá trị ban đầu chúng bằng cách chuyển trở lại một gam màu rộng hơn.
Mô hình màu có tạo ra một sự khác biệt nào không?
Mặc dù bản thân ảnh có một chế độ màu duy nhất, nhưng bạn có thể sử dụng bất kỳ mô hình màu có sẵn khi
xác định một màu trong Photoshop. Giả sử bạn đang chuẩn bị sử dụng công cụ Bruhs để tô một số thành
phần nghệ thuật cho dự án gần đây nhất của bạn. Dự án này ở chế độ RGB bởi vì bạn sẽ in nó với máy in
phun mực. Bạn có thể sử dụng Palette Color để xác định màu tiền cảnh theo bất kỳ cách nào bạn thích –
RGB, CMYK, Grayscale, Lab, hoặc thậm chí cả HSB (hue/saturation/brightness, nó không có sẵn ở dạng
một chế độ màu, mà nó chỉ là một mô hình mày). Cho dù bạn cài đặt Palette Color như thế nào, hãy xem
qua menu của Palette này.
46
Khi bạn thêm màu vào ảnh, Photoshop sử dụng dạng màu gần giống RGB nhất (hay CMYK). Lưu ý rằng
menu Palette Color ở hình minh họa trên không liệt kê Duotone hay Multichannel. Đó chỉ là các chế độ
màu, không phải mô hình màu.
Tại sao phải quan tâm đến độ sâu màu?
Độ sâu màu (color depth) là số các màu thật sự khác nhau mà bạn có sẵn. (Ghi nhó rằng mỗi pixel chỉ có thể
có một màu). Khi bạn làm việc trong màu 8 bit/kênh (gọi đơn giản là màu 8 bít), mỗi màu thành phần được
ghi với đúng 8 bít thông tin trong file máy tính. Trong một ảnh RGB 8 bit, màu của mỗi pixel được ghi với
ba chuỗi gồm 8 ký tự. Khi bạn làm việc với màu 16 bit/kênh (hoặc gọi đơn giản là màu 16 bit), mỗi màu
thành phần được ghi với 16 ký tự. Số càng lớn thì càng có nhiều cách để ghi mỗi màu, nghĩa là dạng biến
đổi của màu càng nhiều cũng như các file chiếm nhiều khoảng trống hơn trên ổ cứng)
Vậy thì điều đó có nghĩa gì với bạn? Trong thực tế, đó có thể là một ảnh đẹp hơn khi làm việc ở màu 16
bit. Bạn sẽ có các phần chuyển nhãn hơn giữa các màu trong suốt ảnh của bạn, không có dải sọc trong các
mẫu gradient và không có vùng nào bị vấy bẩn. Posterization là sự làm mất dần diện mạo của ảnh khi các
màu tương tự bị ép buộc thành cùng một màu, làm cho các phần chuyển tiếp giữa các màu trở nên thô hơn.
Nhiều phần chỉnh sửa màu và tông màu vốn tạo ra posterization trong các ảnh 8 bit của bạn sẽ không làm
ảnh hưởng đến một ảnh 16 bit.
Sự điều chỉnh Levels làm tăng dãy sắc độ của ảnh. Khi sự điều chỉnh này được áp dụng cho một phiên bản
8 bit của ảnh, một posterization sẽ trở nên thấy rã trong Palette Histogram (được biểu thị bởi các khoảng hở
trống màu trắng trong histogram)
Vậy thì có cần phải lúc nào cũng sử dụng màu 16 bit không? Không. Bạn không thể gởi một ảnh 16 bit lên
Web, và màu 16 bit ít khi được sử dụng các ảnh CMYK. Các bức ảnh số được chụp ở dạng JPEG là các ảnh
có màu 8 bit (bởi vì dạng file đó không hỗ trợ màu 16 bit). Và với hầu hết máy in phun mực, bạn sẽ không
nhận thấy bất kỳ sự cải tiến nào trong bản in sau cùng. (Tuy nhiên, bạn có thể sẽ thấy thời gian in tăng đang
kể bởi vì dữ liệu ảnh cần xử lý nhiều hơn gấp hai lần).
Nếu bạn chụp với màu 16 bit, dù là dạng TIFF hay Raw, bạn phải xử lý ảnh ở màu 16 bit. Khi ảnh hoàn
47
hảo, bạn có thể muốn chuyển đổi một bản sao của file sang màu 8 bit để in (Image | Mode 8 Bits/Channel).
Bạn có thể nhận thấy một số trường hợp mà trong đó bạn sẽ chuyển đổi một ảnh 8 bit sang 16 bit. Việc
chuyển đổi từ 8 bit sang 16 bit không giúp bạn tránh hiện tượng prosterization, nhưng nó có thể giảm bớt
dải sọc nếu bạn thêm một mẫu gradient mà nó có thể được định lại kích cỡ.
Một điểm khác cần lưu ý về độ sau màu: Photoshop CS6 có thể xử lý các ảnh 32 bit/kênh. Các file này được
gọi là các ảnh có dãy động cao (hight dynamic range, gọi tắt là HDR) và thường được tạo bằng cách kết hợp
các độ phơi sáng khác nhau của cùng một ảnh. Trong Photoshop CS6, bạn có thể xử lý hai độ phơi sáng
trong tính năng Merge to HDR. Bạn có thể sẽ không bao giờ phải tạo một ảnh HDR cho bất kỳ chương trình
video hay 3D nào cần sử dụng chúng, nhưng bạn có thể nhận thấy ích lợi của việc kết hợp nhiều độ phơi
sáng của một bức ảnh chụp phức tạp. Trên hết, để có một file với kích cỡ hợp ký và sự truy cập vào nhiều
tính năng hơn của Photoshop, hãy sử dụng menu Image | Mode để chuyển đổi sang màu 16 bit hoặc sang
màu 8 bit.
b. Ghi màu trong ảnh
Mọi dữ liệu màu của ảnh sẽ được lưu trong Palette Channels. Khi bạn đang xử lý các ảnh RGB hay CMYK,
mỗi kênh màu chứa thông tin cho một trong các màu thành phần (đỏ/xanh lục/xanh dương hoặc lục lam/ đỏ
thẫm/vàng/đen). Mỗi kênh là một phiên bản thang độ xám của ảnh, sử dụng các bóng xám, từ trắng sang
đen, để biểu thị nơi mà màu của kênh đó xuất hiện trong ảnh. Trong các ảnh RGB, pixel trong một kênh
càng sáng thì lượng của màu đó càng nhiều. Khi ban xử lý một ảnh CMYK, độ sáng tối trong một kênh
được đảo ngược, với các vùng tối hơn biểu thị nơi mà lượng màu đó được áp dụng nhiều hơn.
2. Điều chỉnh màu trong Photoshop
Đôi khi bạn có một ảnh cần được điều chỉnh. Nó có thể đã được chụp với một xác lập máy ảnh không chính
xác, nó có thể có sắc thái màu không mong muốn, hoặc nó có vẻ tẻ nhạt. Photoshop cung cấp cho bạn một
mảng các lệnh và công cụ để giúp bạn cải tiến các màu trong bức ảnh của bạn.
Làm thế nào để biết màu đã phù hợp?
Công cụ chính giúp nhận biết điều này chính là bạn. Hãy đưa ra các quyết định chủ yếu dựa vào những gì
mà mắt bạn cảm nhận được. Bạn có thể kiểm tra Palette Info và Palette Histogram để chắc chắn các vùng
tối có màu đen và các vùng sáng có màu trắng, nhưng điều chỉnh các ảnh của bạn cho đến khi chúng có vẻ
phù hợp đối với bạn – nghĩa là cho đến khi bạn đã hài lòng với màu.
Thế nào là một màu đốm?
Các màu đốm trong ảnh của bạn được in bằng cách sử dụng các mực pha trộn sẵn với đúng màu đó. Để
chuẩn bị chính xác một màu đốm cho máy in nó cần nằm trong kênh màu đốm của riêng nó, đây là một
kênh màu riêng biệt mà bạn sẽ chỉ ra nơi và cách mực được áp dụng (các kênh trong ảnh của nó lên giấy).
Bởi vì các kênh màu đốm dược sử dụng với các ảnh CMYK nên màu tối thường hiển thị nhiều hơn. Ở nơi
bạn cần màu đốm có cường độ 100%, hãy tô trực tiếp trong kênh màu đốm với màu đen. Ở nơi bạn muốn
chỉ có một sắc độ sáng của màu đốm, hãy dúng một màu xám nhạt.
48
Bạn tạo kênh màu đốm bằng cách chọn lệnh Spot Channel từ menu Palette Channels.
Nhấp mẫu màu trong hộp thoại New Spot Channel để mở các thư viện màu. (Nếu bạn nhìn thấy Color
Picker bình thường, hãy nhấp nút Color Libraries). Chọn sổ màu thích hợp (tập hợp các màu; xem hình bên
dưới) cho dự án của bạn; sau đó chọn màu của bạn. Nhấp OK trong hộp thoại New Spot Channel để nhấp
màu, đừng thay đổi tên (nếu ảnh sẽ được đặt trong một tài liệu InDesign), PDF, TIFF, hay DCS2. 0. Trao
đổi với người xử lý kiểu trình bày (layout) hay cơ sở in để xem họ yêu cầu dạng file nào.
a. Theo dõi các Palette Histogram và Info
Khi bạn làm việc với nhiều phần điều chỉnh màu khác nhau trong Photoshop, có hai Palette có thể giúp bạn
theo dõi các thay đổi mà bạn đang thực hiện. Đó là các Palette Info và Histogram. Theo mặc định, các
Palette này nằm xếp lồng nhau ở góc phía trên bển phải của màn hình. (Bạn cũng có thể hiển thị hay che
giấu chúng thông qua menu Windows của Photoshop). Bạn có thể muốn rê một trong hai Palette này ra khỏi
tập hợp xếp lồng để cả hai cùng hiển thị. (Nhấp tab của Palette và rê nó ra ngoài). Việc theo dõi các Palette
49
Info và Histogram trong khi bạn đang rê các thanh trượt và nhập các số vào các trường khác nhau có thể
giúp bạn phát hiện ra các lỗi trước khi chúng xảy ra.
Histogram hữu ích cho việc theo dõi các thay đổi trong sự phân bố các pixel ở các dãy sắc độ khác nhau.
Palette Info cho bạn thấy các giá trị màu “trước” và “sau”, trong lúc có một hộp điều chỉnh đang mở. Bất kỳ
nơi nào bạn di chuyển con trỏ trong cửa sổ ảnh (nó sẽ xuất hiện ở dạng công cụ Eyedropper), Palette Info sẽ
cho bạn thấy kết quả của sự điều chỉnh. Bạn cũng có thể nhấn giữ phím Shift để thay đổi sang công cụ
Color Sampler. Việc nhấp vào ảnh với công cụ Color Sampler sẽ tăng thêm bốn dấu marker trong ảnh. Các
giá trị màu dưới các marker này xuất hiện trong Palette Info, và giống như vị trí cursor, nó cho biết các giá
trị trước/ sau khi ban đang thực hiện các thay đổi.
b. Chọn các lệnh điều chỉnh màu
Photoshop cung cấp hàng chục lệnh khác nhau mà bạn có thể sử dụng để cải tiến diện mạo của các ảnh, tất
cả chúng đều có thể được truy cập dễ dàng thông qua menu Image | Adjustments.
Một số có các mục đích chuyên biệt, và một số cực kỳ linh hoạt. Đa số các lệnh được trình bày ở đây có thể
được thêm vào các ảnh của bạn ở dạng một lớp điều chỉnh (adjustment layer) để tăng thêm sự linh hoạt.
Auto Color
Auto Color có lẽ là cách đơn giản nhất để cải tiến cả màu sắc và sắc độ (độ tối của vùng tối và độ sáng của
vùng sáng). Hãy chọn lệnh và Photoshop sẽ tự động tìm các pixel sáng nhất và tối nhất trong ảnh. Sau đó
dựa trên cơ sở từng kênh, nó phân bố lại các giá trị của pixel còn lại. Để tìm hiểu thêm thông tin về Auto
Color và các lệnh Auto Contrast và Auto Levels liên quan.
Curves
Lệnh Curves cũng được trình bày ở bài tiếp theo. Tuy nhiên, để chỉnh sửa màu (thay vì điều chỉnh sắc độ,
50
bạn cần làm việc trên mỗi kênh riêng lẻ, chọn lần lượt mỗi kênh từ menu bật lên nằm ở đầu hộp thoại
Curves.
Mặc dù việc làm trên mỗi kênh với Curves có thể rất hiệu quả nhưng nó cũng có thể làm mất nhiều thời
gian do bởi việc di chuyển tới lui giữa các kênh khi điều chỉnh. Tuy điều này có thể bất tiện nhưng Curves
là một công cụ chỉnh sửa màu rất mạnh.
Color Balance
Color Balance cung cấp ba thanh trượt mà bạn có thể sử dụng để thực hiện sự thay đổi cho sự cân đối giữa
các phần màu đối ngược. Nếu ảnh quá xanh, bạn rê thanh trượt thứ ba ra xa Blue và về phía Yellow. (Đây là
một cách tuyệt vời để nhó các màu nào là các cặp đôi ngược).
Bạn có thể điều khiển các vùng sáng, các vùng sắc độ trung gian, và các vùng tối của ảnh một cách riêng lẻ
bằng cách sử dụng các nút radio ở cối hộp thoại Color Balance. Và trong hầu hết các trường hợp, bạn sẽ
muốn để hộp kiểm Preserve Luminosity được chọn sao cho độ sáng của các pixel riêng lẻ được giữ lại.
Hue/Saturation
Hue/Saturation là một công cụ rất mạnh. Bằng cách sử dụng kết hợp ba thanh trượt, bạn có thể điều chỉnh
hue (màu) để loại bỏ một sắc thái màu không mong muốn, tăng saturation (độ bão hoà) để các màu có vẻ
phong phú hơn và nổi bật hơn, và điều chỉnh lightness (độ sáng) để cải tiến sắc độ của ảnh.
51
Lưu ý rằng khi bạn điều chỉnh một vùng nào đó quá tối, hãy bắt đầu với thanh trượt Lightness để bạn có thể
đánh giá chính xác các thay đổi khác (Hue và Saturation). Cũng ghi nhớ rằng, bạn có thể áp dụng
Hue/Saturation (giống như nhiều phần điều chỉnh khác) cho một dãy các màu nhất định trong ảnh, được
chọn trong menu bật lên nằm ở đầu hộp thoại.
Desaturate
Lệnh Desaturate của Photoshop tạo ra một dạng biểu diễn thang độ xám của một ảnh màu mà không làm
thay đổi chế độ màu. Đây là một kỹ thuật màu rất hấp dẫn khi bạn tạo một vùng chọn trước tiên, chừa lại
một phần màu của ảnh và chuyển đổi một phần sang dạng thang độ xám đã mô phỏng.
Tuy nhiên, có các cách tốt hơn để chuyển từ màu sang thang độ xám, chẳng hạn như sử dụng Channel
Mixer.
Match Color
Match Color cho phép bạn điều chỉnh một ảnh phù hợp với một ảnh khác (và thậm chí bạn có thể sử dụng
các vùng chọn để nhận biết các vùng cần điều chỉnh và các vùng của ảnh được sử dụng làm cơ sở để điều
chỉnh), nhưng lưu ý rằng bạn sẽ nhận được các kết qủa tốt hơn với các ảnh đã có màu khá tương tự. Bạn
cũng có thể chỉnh sửa một bức ảnh chụp và sử dụng bức ảnh đó làm chuẩn để chỉnh sửa các bức ảnh khác.
(Giống như phần lớn sự điều chỉnh ảnh, bạn có thể ghi một sự thay đổi trong một Action và sử dụng lệnh
Batch của Photoshop để áp dụng điều chỉnh đó cho một chuỗi các ảnh.
Bởi vì đây là một công cụ mạnh nên bạn cần xem xét điều gì xảy ra trong hộp thoại Match Color:
- Ignore Selection When Applying Adjustment: Nếu bạn có một vùng chọn hoạt động trong lớp đích hay
52
ảnh đích (và bạn muốn sự điều chỉnh được áp dụng cho toàn bộ đích), hãy chọn hộp kiểm này. Nếu hộp
kiểm này không được chọn, sự điều chỉnh chỉ được áp dụng bên trong vùng chọn. Lưu ý rằng bạn có thể sử
dụng các vùng chọn để áp dụng Match Color cho chỉ một phần của ảnh (chẳng hạn như các tông màu da),
hoặc bạn có thể điều chỉnh mỗi lần một vùng của ảnh.
- Luminance: Sau khi khung xem trước hiển thị trong cửa sổ ảnh, bạn có thể giảm sắc độ hoặc tăng độ sáng
của vùng đích với thanh trượt Luminance.
- Color Intensity: Hãy xem thanh trượt này như là một sự điều chỉnh, giảm bớt cường độ của nó.
- Fade: Việc sử dụng Fade cho phép bạn hoà trộn phần điều chỉnh, giảm bớt cường độ của nó.
- Neutralize: Một sắc thái màu không mong muốn được tạo ra do bởi sự điều chỉnh, việc đánh dấu hộp
kiểm Neutraliza sẽ loại bỏ nó.
- Use Selection in Source to Calculate Colors: Bạn có thể tạo một vùng chọn trong ảnh mà bạn đang cố
làm phù hợp với ảnh đó (ảnh nguồn) và sử dụng các màu bên trong vùng chọn đó làm cơ sở để tính Match
Color.
- Use Selection in Target to Calculate Adjustment: Bạn có thể tạo một vùng chọn khác trong lớp đích
hay ảnh đích vốn trình bày Match Color bằng một mẫu của các pixel đó để sử dụng cho việc tính sự điều
chỉnh.
- Source: Menu bật lên Source liệt kê tất cả các ảnh đang mở có thể được dùng làm cơ sở cho việc điều
chỉnh. Chỉ các ảnh có cùng chế độ màu và độ sau màu là được liệt kê. Trong mẫu, ảnh chính là nguồn mà
bạn có thể chọn một lớp phù hợp. Hãy xem nguồn như là ảnh mà bạn đang tương kết các màu của nó. (Ảnh
được chọn hay lớp hoạt động bên trong một ảnh là phần bạn đang điều chỉnh).
- Layer: Khi một ảnh có nhiều lớp được chọn trong menu bật lên Source, bạn có thể chỉ định lớp nào (hay
một bản sao đã hoà trộn của các lớp) ảnh là nguồn thật sự. Trong ví dụ ở trên, lớp bên dưới - lớp có chứa cỏ
- chính là nguồn.
- Load Statistics/Save Statistics: Nếu bạn đang thực hiện một chuỗi các ảnh và bạn muốn tăng tốc độ làm
việc, hãy nhấp nút Save Statistics để ghi lại sự điều chỉnh mà bạn đang thực hiện và sau đó sử dụng nút
Load Statistics với các ảnh khác.
Raplace Color
Raplace Color là một công cụ dùng để hoán đổi màu này để lấy màu khác. Nó thật sự thích hợp trong một
môi trường tạo mà một áo blouse nhất định chẳng hạn có sẵn với nhiều màu khác nhau. Hãy chụp một màu
và sau đó dùng Replace Color để tạo các màu sản phẩm khác.
Hộp thoại Replace Color như minh họa dưới đây:
53
Có hai phần riêng biệt: Selection và Replacement, hãy nhấp với Eyedropper trái, hoặc trong vùng xem trước
hoặc trong các cửa sổ ảnh, và điều chỉnh thanh trượt Fuzziness để tạo vùng chọn đầu tiên. Sử dụng
Eyedropper giữa để thêm các màu bổ xung (hay các bóng của màu ban đầu), và sử dụng Eyedropper phải để
loại bớt khỏi vùng chọn. (Chọn chỉ các phần biến đổi của một màu). Sau đó rê các thanh trượt Hue,
Saturation, và Lightness trong mục Replacement để tạo diện mạo mới.
Selective Color
Mặc dù được thiết kế để giúp bạn bù đắp cho những khiếm khuyết của những máy in, nhưng Selective
Color có thể giúp bạn thực hiện các việc tuyệt với khác.
Hộp thoại của lệnh, như minh họa ở hình dưới đây, có một menu bật lên cung cấp sáu màu cơ bản của
Photoshop, cũng như các màu trắng, các màu trung tính, và các màu đen. Bạn chọn dãy màu nào cần điều
chỉnh và sau đó rê các thanh trượt.
Bạn có thể làm việc trên một tập hợp màu, nào cần điều chỉnh và sau đó rê các tranh trượt. Bạn có thể làm
việc trên một tập hợp màu, chuyển sang một tập hợp khác và cứ như vậy mà không phải nhấp OK giữa cấc
lần chuyển. Chẳng hạn, bạn có thể điều chỉnh các màu đỏ trong ảnh và giữ nguyên các màu xanh dương,
54
hoặc bạn có thể điều chỉnh các màu đỏ và sau đó điều chỉnh các màu xanh dương mà không phải thoát khỏi
hộp thoại.
Khi bạn cần thực hiện các phần điều chỉnh nhỏ, hãy chọn nút Radio Reletive ở dưới cùng. Nếu bạn cần thực
hiện sự thay đổi cơ bản, hãy chọn nút radio Abssolute.
Channel Mixer
Được thiết kế để chỉnh sửa một kênh bị lỗi trong ảnh, Channel Mixer cho phép bạn sử dụng các thanh trượt
để thay thế một số hoặc toàn bộ cường độ của một kênh màu bằng nội dung từ các kênh khác. Nếu bạn gặp
một ảnh có một kênh bị hỏng, bạn có thể sử dụng sự điều chỉnh Channel Mixer để làm việc trên nó. Bạn
giảm giá trị của kênh đích bằng cách rê thanh trượt sang trái. Sau đó, bạn rê một hoặc cả hai thanh trượt kia
về phía phải. Nói chung bạn cần thêm một lượng (kê hợp giữa hai kênh khác) gần bằng lượng mà bạn loại
bớt khỏi kênh đích.
Nếu bạn rê một thanh trượt sang trái vượt quá số 0 (zero), bạn đảo ngược nội dung của kênh. Bạn có thể tạo
ra một số hiệu ứng khác thường với kỹ thuật này, đảo ngược một phần của một hoặc hai kênh. Khi bạn có
cơ hội, hãy thử nó.
Có một điều mà Channel Mixer có thể thực hiện rất tốt. Bạn có thể tạo các dạng thang độ xám của các ảnh
bằng nhiều cách khác nhau trong Photoshop - bằng cách chọn Image | Adjustments | Desaturate hoặc Imae |
Mode | Grayscale, hoặc bằng cách xoá các kênh, sử dụng kênh L của một ảnh Lab, và vv… Nhưng không
có kỹ thuật nào trong số các kỹ thuật trên hoàn toàn có thể so sánh được với việc tạo ảnh thang độ xám với
Channel Mixer. Sau đây là cách bạn thực hiện điều đó.
1. Mở ảnh trong Photoshop và đánh giá các kênh màu.
Hãy bắt đầu với một ảnh RGB 8 bit đã được ép phẳng. Xem xét mỗi kênh riêng lẻ bằng cách nhấp vào từng
kênh và che giấu hai kênh màu còn lại bằng cách nhấp vào biểu tượng eyeball ở phía bên trái của mỗi kênh.
Quan sát kênh nào chứa thông tin chi tiết cho phần nào của ảnh. Chẳng hạn, tán lá thường sẽ là thành phần
nổi bật nhất trong kênh Green.
2. Mở Channel Mixer
Sử dụng lệnh menu Image | Adjustments | Channel Mixer. (Channel Mixer cũng có sẵn ở dạng một lớp điều
chỉnh).
3. Chọn hộp kiểm Monochorome
Khi bạn chọn tuỳ chọn Monochorome (góc phía dưới bên trái của hộp thoại), bạn đang cho Channel Mixer
biết rằng bạn muốn một kênh khi bạn đã hoàn tất việc điều chỉnh. (Mặc dù mục này trình bày về việc tạo
một ảnh thang độ xám, nhưng kênh được tạo có thể được sử dụng bằng nhiều cách khác nhau trong các ảnh
khác, chẳng hạn ở dạng một kênh alpha hay một kênh màu đốm).
4. Điều chỉnh các thanh trượt để tạo một ảnh thang độ xám tuyệt đẹp. Hãy bắt đầu với ba thanh trượt kênh
tại cổng 40 và thanh trượt Constant tại khoảng – 7. Bây giờ hãy thử làm việc với các thanh trượt, ghi nhớ sự
đánh giá của bạn đối với các kênh riêng lẻ. Nói chung, đối với một bức ảnh gốc có độ phơi sáng tốt, tổng
giá trị trong các trường của các thanh trượt sẽ bằng khoảng 100. Khi ảnh có vẻ đẹp, hãy nhấp OK.
55
5. Lưu ảnh với tên Grayscale.
Sử dụng lệnh Image | Mode | Grayscale để chuyển đổi sang ảnh thang độ xám thật sự (Channel Mixer để
ảnh ở chế độ RGB), và sau đó thực hiện việc lưu. Bảo đảm bạn thay đổi tên hay vị trí để không ghi đè lên
ảnh gốc.
6. Lưu ảnh với tên Grayscale.
Sử dụng lệnh Image | mode | Grayscale để chuyển sang ảnh thang độ xám thật sự (Channel Mixer để ảnh ở
chế độ RGB), và sau đó thực hiện việc lưu. Bảo đảm bạn thay đổi tên hay vị trí để không ghi đè lên ảnh gốc.
Gradient Map
Có tính sáng tạo nhiều hơn là chỉnh sửa, tính năng Gradient Map tạo lại ảnh của bạn bằng cách sử dụng một
gradient. Điểm dừng màu ở ngoài cùng bên trái (các điểm neo mà một màu gradient được gán) trong
gradient được ánh xạ sang các vùng tối, điểm dừng màu ở giữa sẽ được gán cho dãy sắc độ còn lại một ách
thích hợp.
Nói chung, bạn sử dụng các màu tối hơn cho các điểm dừng màu ở bên trái và các màu sáng hơn cho các
điểm dừng màu ở bên phải (mặc dù các hiệu ứng cực kỳ hấp dẫn có thể được tạo bằng cách pha trộn các thứ
lại với nhau). Việc sử dụng một mẫu gradient chuyển từ đen sang trắng sẽ tạo một ảnh thang độ xám
(gradient).
Để hiệu chỉnh gradient, bạn chỉ cần nhấp ngay trên gradient mẫu trong hộp thoại Gradient Map. Nhấp để
thêm các điểm dừng màu, rê để di chuyển các điểm dừng màu, và nhấp mẫu màu gần cuối để thay đổi màu
của điểm dừng được chọn.
Photo Filter
Photo Filter của Photoshop quả thật là một sự điều chỉnh ảnh hơn là mộ bộ lọc (filter). Chữ filter trong tên
ám chỉ các bộ lọc nhiếp ảnh thực tế mà bạn đưa vào cuối ống kính. Sự điều chỉnh này là một cách tuyệt vời
56
để chỉnh sửa các lỗi liên quan đến nhiệt độ trong một bức ảnh – nghĩa là sự cảm nhận màu nóng hay màu
lạnh của một bức ảnh. Khi máy ảnh chụp một ảnh trong các điều kiện ánh sáng không như mong muốn, bạn
có thể dễ dàng thấy rõ màu bị khiếm khuyết. Giả sử máy ảnh được xác lập sang Daylight khi chụp trong
nhà. Khi một ảnh quá xanh thì nó quá lạnh; ngược lại một ảnh có quá nhiều màu cam thì nó quá nóng. (Ghi
nhớ rằng đây chỉ là sự đánh giá theo cảm nhận - về mặt kỹ thuật thì ánh sáng xanh nóng hơn ánh sáng vàng
hay đỏ). Trong Photo Filter, bạn chọn một bộ lọc đã được xác lập sẵn từ một menu bật lên hoặc chọn một
màu mà bạn thích. Như bạn có thể thấy ở hình dưới, cả hai bộ lọc đã được xác lập sẵn và màu tuỳ biến đều
có hiệu quả trong việc trung tính một sắc thái màu. (Dĩ nhiên, bạn cũng có thể sử dụng các bộ lọc này đều
thêm một sắc thái màu nếu bạn thực sự muốn điều đó).
Shadow/Highlight
Sự điều chỉnh Shadow/Highlight được trình bày chi tiết ở bài tiếp như là một công cụ chỉnh sửa sắc độ. Tuy
nhiên, lưu ý rằng hộp thoại Shadow/Highlight cũng có chứa thanh trượt Color Correction. Sau khi bạn làm
sáng các vùng tối hoặc giảm sắc độ của các vùng sáng, bạn có thể tăng hay giảm độ bão hoà của các màu
trong các vùng đã điều chỉnh của ảnh bằng thanh trượt Color Correction.
Invert
Một lần nữa, có tính sáng tạo hơn là chỉnh sửa, lệnh Invert (không có hộp thoại) chỉ đạo ngược các màu
trong ảnh hay trong các vùng đựơc chọn. Mặc dù việc đảo ngược các vùng của một ảnh (giống như huỷ bão
hoà) có thể thu hút sự chú ý vào chủ thể của bức ảnh, nhưng nó là một kỹ thuật thường đòi hỏi nhiều sự tinh
chỉnh sau khi đảo ngược.
Posterize
Lệnh Posterize ép dãy màu của ảnh thành một vài màu được chọn.
Ban đầu bạn sẽ có các màu đen và trắng, sau đó là một số giới hạn của các màu bổ xung, dựa vào nội dung
57
của ảnh gốc. Bạn chọn số các màu mà bạn muốn sử dụng, và Photoshop chọn những màu nào cần sử dụng.
Bạn có thể sử dụng chỉ khoảng hai màu (cùng với các màu đen và trắng) hoặc sử dụng đến 255 màu.
Posterize có thể tạo ra một sự mô phỏng khá thích thú cho một bức ảnh với chỉ vài màu.
b. Làm việc với tính năng Variatons
Tính năng Variations, nắm trong menu Image | Adjustments, là một cách bán tự động để thực hiện các phần
điều chỉnh màu và sắc độ cho các ảnh của bạn. Bạn mở ảnh, mở Variations, sau đó nhấp phiên bản nào có
diện mạo tốt hơn.
Việc sử dụng Variations là một đề của việc chọn “cái nào đẹp hơn, cái này hay cái kia?” Khi bạn nhấp một
trong các ảnh, nó di chuyển đến vị trí Current Pick, và một tập hợp mới của các dạng biến đổi được tạo tự
động. Các vùng màu xanh dương mà bạn nhìn thấy trong một số tuỳ chọn ở hình trên biểu thị các vùng mà
nơi đó các màu sẽ được xén - được ép thành màu đen trong các ùng tối hoặc thành màu trắng trong các vùng
sáng - điều này sẽ dẫn đến tình trạng chi tiết bị mất trong ảnh. Bạn có thể tắt tính năng đó bằng cách xoá
chọn hộp kiểm Show Clipping ở góc phía trên bên phải. Cũng lưu ý rằng bạn có thể điều chỉnh các vùng tối,
các vùng sắc độ trung gian, và các vùng sáng một cách độc lập và bạn cũng có thể điều khiển lượng biến đổi
giữa các mẫu.
Hãy bắt đầu với tập hợp thanh trượt Fine / Coarse ở giữa và chính sửa các vùng sắc độ trung gian, các vùng
tối, các vùng sáng và sau đó chỉnh sửa độ bão hoà. Bây giờ hãy rê thanh trượt đó sang xác lập file và tập
trung chú ý và một bức ảnh hoàn hảo.
c. Chỉnh sửa bằng tay trong các kênh riêng lẻ
Đôi khi các vùng khác nhau của một ảnh đòi hỏi các phàn chỉnh sửa khác nhau. Chẳng hạn, bạn có thể “tô”
các phần chỉnh sửa vào các vùng nhất định của một kênh bằng cách sử dụng các công cụ tạo sắc độ trong
Toolbox của Photoshop.
58
Hình minh họa trên có một lỗi rất rõ ràng. Ở phía dưới bên trái là một việt nhỏ màu xanh nhạt cần được loại
bỏ. Bằng cách sử dụng công cụ Burn trên từng kênh, bạn có thể làm tối vùng đó của mỗi kênh - mỗi kênh
tuỳ theo nhu cầu của nó
Ở phía bên trái, bạn có thể nhìn thấy vùng ánh sáng nổi bật trong thumbnail của mỗi kênh. Ở bên phải, sau
khi sử dụng công cụ Burn, các vùng sáng hơn đó sẽ biến mất.
Ngoài công cụ Burn, bạn có thể sử dụng các công cụ Dodge, Blur, Sharpen, và Smudge. Bạn có thể sử dụng
công cụ Brush và tô với màu đen, màu trắng hay màu xám. Bạn sử dụng Levels hoặc Curves trên từng kênh
riêng lẻ hoặc trên một vùng chọn bên trong một hay nhiều kênh. Khi tinh chỉnh một ảnh đừng e ngại làm
việc trong từng kênh, bởi vì điều đó sẽ tạo sự hoàn hảo hơn cho bức ảnh của bạn.
Hãy nhìn vào hai Palette Channels ở hình trên. Ở bên phải, kênh Green là kênh hoạt động (bạn có thể nhận
biết điều này bởi vì nó được bật sáng), và chỉ kênh Green là thấy được (chỉ kênh này có biểu tượng eyeball
hiển thị ở bên trái). Các kênh còn lại thì ẩn, và bạn chỉ thấy dạng biểu diễn thang độ xám từ kênh Green
trong cửa sổ ảnh. Tuy nhiên, ở bên trái, chỉ kênh Red là kênh hoạt động, nhưng tất cả các kênh đều hiển thị.
Bất kỳ sự thay đổi được thực hiện cho ảnh ở trạng thái đó sẽ được áp dụng cho chỉ kênh Red. Nhưng bởi vì
tất cả các kênh đều hiển thị nên bạn có thể nhận thấy toàn bộ sự tác động lên ảnh. Đôi khi bạn muốn chỉ một
kênh hiển thị (khi cố cân đối dãy sắc độ trong suốt kênh chẳng hạn), nhưng phần lớn bạn muốn nhìn thấy
điều gì đang diễn ra trong toàn bộ ảnh. Nhấp một kênh (hoặc nhấn Shift + nhấp hai kênh) mà bạn cần làm
việc trong đó. Sau đó nhấp trong cột trái kế bên kênh tổng hợp nằm ở đỉnh để làm cho tất cả các kênh đều
hiển thị.
3. Chỉnh sửa các tông màu da
Một trong những công việc khó nhất (nhưng cũng quan trọng nhất) trong Photoshop là bảo đảm cho da có
màu phù hợp. Mỗi người có một tông màu da riêng. Việc làm cho da có tông màu phù hợp thường là một sự
thách thức lớn, nhưng cũng thường là một sự thách thức quan trọng.
Khi bạn cần điều chỉnh da cho chủ thể trong bức ảnh của bạn, đây thường là phần tiêu điểm của ảnh - người
mà bạn đang chụp. Và ngay cả khi một người không phải là chủ thể của ảnh, da vẫn là phần thu hút sự chú ý
trong ảnh.
Bạn sẽ nhận thấy các phần biến đổi không tự nhiên trong màu da sẽ rất dẽ nhận biết. Hãy quan sát màu da
của chủ thể và thực hiện sự điều chỉnh dựa theo diện mạo của màu da đó.
Các số trên là các số CMYK, ngay cả để sử dụng với các ảnh RGB. Hãy mở menu pelette Info, chọn Palette
Options, và xác lập Second Color Readout sang CMYK.
59
Hộp thoại Option xuất hiện như hình dưới
Ghi nhớ rằng bạn có thể sử dụng các công cụ lấy mẫu màu như các placeholder trong ảnh, theo dõi các thay
đổi mà CMYK trong Palette Info. Xác lập các chỉ số lấy mẫu màu sang CMTK trong Palette Info bằng cách
nhấp vào biểu tượng Eyedropper ở bên trái của chế độ màu được liệt kê cho mỗi phần lấy mẫu.
60
Bài 5 - Hoà trộn các lớp màu với nhau
1. Cách hoạt dộng của chế độ lớp
Các chế độ hòa trộn (blending mode) có thể là một công cụ sáng tạo hoặc thực tiễn để kết hợp và cải tiến
hình ảnh và nội dung lớp. Các chế độ (mode) đơn giản là một phương tiện hoà trộn nội dung của hai hoặc
nhiều lớp. Có thể nghĩ các chế độ như là một phương tiện biến các lớp thành những chương trình tính toán
ảnh. Khi một lớp được xác lập sang chế độ cụ thể, nội dung của lớp hoạt động trong chế dộ đó trên nội dung
của các lớp nhìn thấy được dưới nó trong ngăn xếp lớp. Kết quả nhìn thấy được là sự tương quan trực tiếp
với phép tính cài sẵn vào chế độ. Hầu hết các chế độ lớp không thật sự hữu dụng cho sự hiệu chỉnh mỗi
ngày nhưng một số thì có và khi chúng hữu dụng, chúng là những công cụ rất mạnh mẽ. Toàn bộ vấn đề để
các phép tính được thực hiện là quyết định những gì cần làm và chế độ nào bạn sẽ muốn sử dụng để hình
thành kết quả. Sử dụng các chế độ phụ thuộc vào việc biết chúng hành động như thế nào.
Mặc dù nó thường là những gì mà người dùng tìm kiếm, nhưng những phần mô tả tẻ nhạt về các phép tính
số có lẽ là cách kém hữu dụng nhất để thật sự hiểu những gì mà một chế độ hoàn thành. Thậm chí những
người có khuynh hướng toán học thường khó hình dung một phép tính áp dụng dưới dạng một kết quả như
thế nào. Những mô tả về hiệu ứng có thể hơi hữu dụng hơn nhưng không hoàn toàn mang tính trực giác.
Một sự kết hợp phần mô tả và một ví dụ đơn giản có thể hữu dụng nhất và đó là những gì mà chúng ta sẽ
xem ở đây để bắt đầu suy nghĩ về cách sử dụng những chế độ đó.
Hình dưới minh họa hai lớp đơn giản vốn sẽ được sử dụng làm các ảnh nguồn để so sánh các hoạt động của
các chế độ khi được áp dụng vào tông màu.
Để test các chế độ, tất cả những gì bạn sẽ làm là thay đổi chế độ của lớp phía trên trong file test (và độ mờ
đục khi có thể áp dụng) để xem hiệu ứng mà những chế độ tác động lên những gì mà bạn thấy trên màn
hình. Chỉ việc mở một hoặc hai ảnh mẫu, kích hoạt Upper Layer/Calculation Layer, và chọn một chế dộ từ
danh sách xổ xuống Mode. Điều này sẽ áp dụng chế độ và hy vọng sẽ cho bạn cảm nhận trực quan về những
gì xảy ra khi các lớp được áp dụng với những chế độ khác nhau, sau đó bạn sẽ xem một số ví dụ cụ thể hơn
về việc áp dụng này vào các hình ảnh như thế nào.
Chế độ Normal là một lớp phủ nội dung đơn giản trong lớp phía trên. Kết quả mang màu/tông màu của các
pixel trong lớp phía trên. Đây là chế độ mặc định của các lớp, và có lẽ cho đến bây giờ là chế độ thường
được sử dụng nhiều nhất.
61
a. Dissolve
Kết quả là màu/tông màu của các pixel trong lớp phía trên hoặc lớp phía dưới, được quyết định trên cơ sở
từng pixel theo chế độ mờ đục của lớp. Lớp phía trên được dither theo tỉ lệ phần trăm độ mờ đục và tính
đồng nhất của nội dung lớp: Tỉ lệ phần trăm độ mờ đục ấn định tỉ lệ phần trăm của các pixel trong lớp hiển
thị. Độ mờ đục 100%, 100% pixel trong lớp phía trên hiển thị; với độ mờ đục 50%, 50% pixel trong lớp
phía trên hiển thị. Các pixel được làm ẩn trong một hiệu ứng ngẫu nhiên hoá hoặc dither. Có thể được sử
dụng tốt nhất cho đồ họa web và những hiệu ứng dither khác.
b. Darken
62
Chọn giá trị màu tối nhất trong mỗi kênh so sánh lớp phía trên và lớp. Không có phần nào của ảnh trở nên
sáng hơn. Ví dụ, trong một ảnh RGB, nếu pixel lớp phía trên là RGB 255, 170, 33 và pixel lớp phía dưới là
RGB 45, 165, 44, kết quả trong chế độ Darken thấp hơn trong bất kỳ số này cho mỗi kênh, hoặc RGB 45,
165, 33. Kết quả sẽ không bao giờ tối hơn những giá trị hiện có. Được sử dụng làm phương tiện để làm tối
nội dung mà sự áp dụng không được vượt quá độ sáng ngoài các màu đang được áp dụng.
c. Multily
Làm tối kết quả bằng cách làm tối lớp phía dưới dựa vào độ tối của lớp phía trên. Bất kỳ tông màu tối hơn
màu trắng trong lớp Multiply làm tối diện mạo của nội dung. Việc áp dụng liên tục các lớp trong chế độ
Multiply sẽ tạo ra một kết quả tối hơn liên tục và sẽ trở nên tối hơn những giá trị hiện có.
Không có phần nào của ảnh có thể trở nên sáng hơn. Thường được sử dụng với những hiệu ứng như các
bóng đổ (drop shadow) và mặt vát (bevel). Hữu dụng trong việc tách màu dựa vào lớp cho RGB và CMYK.
d. Color Burn
Burn (làm tối) màu của lớp phía dưới với lớp phía trên, làm tối kết quả. Có khuynh hướng làm tối hoặc làm
phong phú cường độ màu. Không có phần nào của ảnh trở nên sáng hơn. Sự khác biệt giữa các màu pixel
63
được áp dụng và nội dung càng lớn thì tỉ lệ phần trăm thay đổi càng lớn. Được sử dụng cho những hiệu ứng
đặc biệt và một số sự cải tiến màu.
e. Linear Burn
Tương tự như Multiply nhưng được áp dụng một cách tột độ hơn và tuyến tính. Không có phần nào của ảnh
có thể trở nên sáng hơn. Được sử dụng trong các phép tính như trộn kênh dựa vào lớp.
f. Darker Color
Chọn màu tối hơn trong hai màu trong việc so sánh pixel ở lớp phía trên với các pixel. Không có màu nào
trong ảnh có thể trở nên sáng hơn.
g. Screen
Làm sáng kết quả bằng cách làm sáng lớp phía dưới dựa vào độ sáng của lớp phía trên. Bất kỳ tông màu
sáng hơn màu đen trong lớp phía dưới làm sáng diện mạo của nội dung. Việc áp dụng liên tiếp các lớp trong
chế độ Screen sẽ tạo ra một kết quả sáng hơn liên tục và sẽ trở nên sáng hơn những giá trị hiện có. Không
có phần nào của ảnh có thể trở nên tối hơn. Thường được sử dụng với những hiệu ứng như các vùng phát
64
sinh (glow) và mặt vát (bevel)
h. Color Dodge
Dodge (làm sáng) màu của lớp phía dưới với lớp phía trên, làm sáng kết quả. Có khuynh hướng khử bão
hoà và làm bạc màu. Không có phần nào của ảnh trở nên tối hơn. Sự khác biệt giữa các màu pixel được áp
dụng nội dung càng lớn, tỉ lệ phần trăm thay đổi càng lớn. Được sử dụng cho những hiệu ứng đặc biệt và
một số cải tiến màu.
i. Linear Dodge
Tương tự như Screen nhưng được áp dụng một cách tột độ hơn và tuyến tính. Không có phần nào của ảnh
có thể trở nên tối hơn. Được sử dụng trong các phép tính, như trộn kênh dựa vào lớp.
j. Lighter Color
Chọn màu sáng hơn trong hai màu trong việc so sánh các pixel của lớp phía trên với các pixel. Không có
màu nào trong ảnh có thể trở nên tối hơn.
k. Overlay
65
Multiply (làm tối) các màu tối (độ sáng 1-49%) và screen (làm sáng) các màu sáng (độ sáng 51-99%) trong
lớp phía dưới dựa vào nội dung của lớp phía trên. Điều này nâng cao độ tương phản với nội dung tương tự
(nếu bạn tạo một lớ composite ở đầu ngăn xếp lớp và xác lập sang Overlay). Nếu tông màu được áp dụng
sáng hơn 50% xám, kết quả trở nên sáng hơn; nếu tối hơn 50% xám, nó trở nên tối. Các màu ở giữa dãy
sáng và tối (các tông màu một phần tư tại 75% và 25 xám) bị ảnh hưởng nhiều hơn các thái cực dãy (0%,
100% và 50% xám). Hữu dụng cho những hiệu ứng làm sắc nét thủ công. Cũng hữu dụng đối với việc tăng
cường độ màu và độ tương phản
l. Soft Light
Multiply (làm tối) các màu tối (độ sáng 1-49%) và screen (làm sáng) các màu sáng (độ sáng 51-100%) trong
các lớp phía dưới vào nội dung của lớp phía trên. Tương tự như Overlay nhưng không mạnh bằng. Nếu màu
được áp dụng sáng, pixel sáng lên; nếu tối, nó trở nên tối. Hữu dụng trong một số hiệu ứng đặc biệt (soft
focus) và tăng cường độ màu và độ tương phản.
m. Hard Light
Multiply (làm tối) các màu tối (độ sáng 0-49%) và screen (làm sáng) các màu sáng (độ sáng 51-100%) trong
66
các lớp phía dưới dựa vào nội dung của lớp phía trên. Tương tự như Soft Light và Overlay nhưng có tính
tuyến tính hơn. Hữu dụng trong một số hiệu ứng đặc biệt và tăng cường độ màu và độ tương phản.
n. Vivid Light
Tương tự như Color Burn nhưng pixel trong lớp phía trên tối hơn 50% xám; tương tự như Color Dodge khi
pixel trong lớp phía trên sáng hơn 50% xám.
o. Linear Light
Tương tự như Linear Burn khi màu ở lớp phía trên tối hơn 50% xám; tương tự như Linear Dodge khi màu
trong lớp phía trên sáng hơn 50% xám.
p. Pin Light
Tương tự như Multiply khi lớp phía trên tối hơn 50% xam; tương tự như Screen khi lớp phía trên sáng hơn
50% xám.
q. Hard Mix
67
Thêm một hiệu ứng Palette giới hạn vào hiệu ứng Vived Light. Nó sẽ posterize kết quả để xuất hiện dưới
dạng một trong tám màu chính; trắng, đỏ, xanh lục, xanh dương, xanh lam, tím thẫm, vàng hoặc đen.
r. Difference
Thể hiện kết quả tính toán hiệu giữa các giá trị pixel. Một hiệu lớn tạo ra một kết quả sáng; một hiệu nhỏ
tạo ra một kết quả tối (không có hiệu tạo ra màu đen). Hữu dụng trong các đánh giá ảnh để thể hiện đo
những điểm khác biệt giữa các phần hiệu chỉnh và một số hiệu ứng đặc biệt.
s. Exelusion
Sử dụng độ tối của lớp phía trên để che giấu hiệu ứng Diffemence (xem Diffemence). Nếu pixel lớp phía
trên tối, kết quả ít có thay đổi; nếu pixel lớp phía trên đen, không có sự thay đổi. Pixel trong lớp phía trên
càng sáng thì hiệu ứng Diffemence tiềm năng càng mạnh. Hầu như được sử dụng cho những hiệu ứng đặc
biệt.
t. Hue
68
Thay đổi sắc màu (Hue) của các pixel trong các lớp phía dưới dựa vào lớp phía trên trong khi không thay
đổi độ bão hoà (Saturation) và độ sáng (Luminosity). Được sử dụng để điều chỉnh màu.
u. Saturation
Thay đổi độ bão hoà của các pixel trong các lớp phía dưới dựa vào lớp phía trên trong khi để nguyên vẹn
Hue và Luminosity. Được sử dụng để điều chỉnh màu.
v. Color
Thay đổi sắc màu và độ bão hòa của các pixel trong các lớp phía dưới dựa vào lớp phía trên trong khi giữ
nguyên vẹn độ sáng. Được sử dụng cho sự điều chỉnh màu và sự tách Luminosity và Color dựa vào lớp.
x. Luminosity
69
Thay đổi độ sáng của các pixel trong các lớp phía dưới dựa vào lớp phía trên trong khi để nguyên vẹn độ
bão hòa và sắc màu. Được sử dụng để điều chỉnh tông màu và tắt Luminosity và Color dựa vào lớp.
Bạn có thể sử dụng những trang này để tham khảo. Các chú thích gợi ý những chế độ mà bạn có thể sử dụng
thường xuyên nhất và thành công nhất. Tuy nhiên, để nêu rõ chúng ở đây, sau đây là những chế độ này:
- Normal
- Multiply
- Screen
- Overlay
- Soft light
- Color
- Luminosity
- Difference
- Darken
- Lighten
Lý do cho sự phụ thuộc vào tập hợp con này là những chế độ khác rất thường là những biến đổi của những
chế độ này và kết quả bạn có được có thể được kiểm soát tốt hơn bằng Opacity (độ mờ đục) hoặc nhân đôi
các lớp với những chế độ này, thay vì đi đến một chế độ ít có khả năng dự đoán trước hoặc phức tạp hơn.
Hãy xem một số ứng dụng thực tiễn của các chế độ lớp để xem bạn có thể sử dụng chúng như thế nào để đạt
được kết quả hữu dụng bắt đầu với việc tách màu và tông màu.
2. Tách màu và tông màu
a. Tách mầu và tông màu
Một trong những kết quả dễ nhất mà bạn có thể dễ dàng hấp thụ khi làm việc với những chế độ lớp là áp
dụng Color và Luminosity. Với hai chế độ này, bạn có thể tách biệt nội dung của một lớp sao cho nó chỉ ảnh
hưởng đến tông màu hoặc chỉ màu. Bạn cũng có thể sử dụng chức năng này để tách biệt nội dung dựa vào
những chế độ đó. Việc tách màu được thực hiện nhanh bằng các phép tính đơn giản dựa vào lớp và sự áp
dụng các chế độ lớp.
1. Mở bất kỳ ảnh.
70
2. Làm phẳng (flatten) ảnh nếu nó chưa làm phẳng (chọn Flatten Image từ menu Layers). Các ảnh được làm
phẳng sẽ chỉ có một lớp Background.
3. Nhân đôi lớp Background và đặt tên cho bản sao là 1 source.
4. Tạo một lớp mới nằm trên lớp 1 Source và đặt tên cho nó là 2 Grayscale.
5. Tô lớp Grayscale bằng 50% xám (chọn Edit | Fill, sau đó xác lập thanh chọn Content Use sang 50%
xám).
6. Thay đổi lớp 2 Grayscale sang chế độ Color. Palette lớp sẽ trông giống như hình dưới đây và ảnh sẽ được
thể hiện ở dạng thang độ xám vì màu xám được áp dụng vào các lớp phía dưới.
7. Tạo một lớp mới nằm ở đầu ngăn xếp lớp và đặt tên cho nó là 3 Luminosity.
71
8. Nhấn Ctrl + Alt + Shift + E để đóng dấu ảnh nhìn thấy được lên lớp mới. Điều này chuyển sự thay đổi
thang độ xám sang lớp mới.
9. Xác lập chế độ sang Luminosity. Điều này hoàn tất việc tách rời thành phần Luminosity. Tắt lớp của 3
Luminosity.
Bây giờ độ sáng (Luminosity) đã được tách khỏi màu và bạn có thể cô lập thay đổi tông màu bằng cách mở
lớp 3 Luminosity và áp dụng các thay đổi bước nơi mà bạn đã rời khỏi.
10. Kích hoạt lớp 2 Grayscale bằng cách nhấp nó trong Palette layers. Chuyển Mode sang Normal (ảnh sẽ
dường như xám phẳng trở lại), sau đó nhấn Ctrl + [ để di chuyển lớp 2 Grayscale bên dưới lớp 1 Source.
Ảnh sẽ có màu trở lại.
11. Thay đổi chế độ lớp 1 Source thành Color. Những gì bạn sẽ thấy là màu được tách ra khỏi tông màu.
12. Tạo một lớp mới nằm trên lớp 1 Source và đặt tên nó là 4 Color
13. Nhấn Ctrl +Alt + Shift + E để đóng dấu ảnh nhìn thấy lên trên lớp mới.
72
14. Thay đổi chế độ của lớp 4 Color thành Color.
15. Tắt lớp Background. Lớp 1 Source và 2 Grayscale và mở lớp 3 Luminosity. Chỉ lớp 4 Color và 3
Luminosity sẽ xuất hiện.
Tất cả những gì đã xảy ra ở đây là sử dụng các chế độ lớp để thấy mộ khung xem khác của ảnh. Khi bạn cô
lập khung xem cho độ sáng (Luminosity), bằng cách sử dụng chế dộ lớp, bạn chụp một bức ảnh chụp nhanh
của độ sáng đó trong một lớp composite – và sau đó làm tương tự đối mới màu xem riêng các thành phần
mới được cô lập sẽ cho thấy chúng chỉ tượng trưng cho ảnh ở một dạng khác. Các lớp Color và Luminosity
mới chứa nội dung tông màu và màu được trích xuất từ ảnh gốc. Bởi vì các chế độ nhằm vào màu và tông
màu một cách riêng biệt, bây giờ bạn có thể điều khiển các thành phần màu và tông màu một cách riêng
biệt. Đây có thể là một ưu điểm lớn trong những tình huống màu phù hợp nhưng tông màu không đúng hoặc
ngược lại. Áp dụng việc hiệu chỉnh màu vào lớp Color (ví dụ, bạn có thể áp dụng sự điều chỉnh Saturation
tách biệt cho màu) và các phần điều chỉnh tông màu Luminosity (bạn có thể áp dụng sự hiệu chỉnh Layers
để mở rộng dãy động của tông màu độc lập với màu).
Ở đây bạn đã sử dụng các chế độ lớp để trích xuất các thành phần riêng biệt cho màu và tông màu. Nhưng
đây chỉ mới là sự bắt đầu của việc tách màu và việc tách biệt các phẩn ảnh. Bây giờ hãy xem các chế độ lớp
được sử dụng cụ thể cho việc hiệu chỉnh.
b. Phép tính làm rõ nét
Các phép tính có thể có nhiều công dụng và sáng tạo, hiển thị hầu hết không rõ ràng ngay tức thì. Một trong
những phép tính lớp thật sự hữu dụng đầu tiên là tạo một hiệu ứng tạo mặt nạ unsharp thủ công. Tạo mặt nạ
unsharp là một tiến trình phòng tối trước khi nó từng là một bộ lọc Photoshop hoặc Elements. Nhà nhiếp
ảnh rửa phim trong phòng tối đặt xen kẽ một âm bản phim mờ của ảnh với bản gốc để cải thiện độ tương
phản nhằm phơi sáng các mép ảnh. Vùng mờ nhắm vào các mép ảnh và kết quả sau khi áp dụng là một diện
mạo sắc nét hơn cho ảnh. Nó đã là mặt nạ được sử dụng để tạo hiệu ứng “unsharp”.
Việc áp dụng mặt nạ unsharp dựa trên lớp sau đây hơi khác nhưng nó là một lựa chọn kỹ thuật số quan
trọng dựa vào cùng một khái niệm. Bạn sẽ vay mượn một chút những gì bạn đã học trong bài tập vừa rồi để
tách biệt các phần hiệu ứng chỉnh tông màu.
1. Mở một ảnh được làm phẳng (flatte) mà bạn muốn áp dụng mặt nạ unsharp hoặc mở ảnh và làm phẳng
nó.
73
2. Nhân đôi lớp Background và đặt tên cho lớp mới là 1 unsharp Mask.
3. Nhân đôi lớp 1 Unsharp Mask và đặt tên cho lớp mới là 2 Color. Thay đổi chế độ của lớp 2 Color thành
Color. Vào lúc này, các lớp Background, 1 unsharp Mask và 2 Color đều có cùng nội dung.
Vai trò của hai lớp được nhân đôi trong ảnh thay đổi đáng kể với sự thay đổi chế độ của chúng. Việc thay
đổi chế độ của lớp Color làm cho lớp Color trở thành một khóa màu: Vị trí ở đầu ngăn xếp lớp với thông tin
màu gốc cho phép tông màu thay đổi bên dưới mà không thay đổi màu gốc. Mặc dù một sự tách biệt màu
thật sự đã khôg được hoàn thành, nhưng việc thay đổi chế độ tách biệt nội dung và hiệu ứng một cách hiệu
quả.
4. Kích hoạt lớp 1 Unsharp Mask bằng cách nhấp vào thumbnail của nó trong Palette layers. Thay đổi Mode
thành Overlay, Opacity thành 50% và sau đó Inverrt (nhấn Ctrl + I). Lớp này được dùng làm âm bản mở.
5. Làm mở lớp Unsharp Mask bằng cách sử dụng Gaussian Blur.
74
Kích cỡ của vùng mờ sẽ phụ thuộc vào độ phân giải của ảnh và lượng chi tiết thì vùng mở càng ít; độ phân
giải càng cao, vùng mở càng lớn. Bắt đầu với 15 pixel cho một ảnh 3x5 với độ phân giải 300 dpi; sử dụng
nhiều pixel hơn trong radius (bán kính) cho các ảnh lớn hơn. Bạn có thể xem các thay đổi khi di chuyển
thanh trượt.
Kết quả của những bước này là một mặt nạ tinh vi dược vào nội dung của ảnh.
75
Nó không phải là một mặt nạ theo nghĩa truyền thống là bạn đã không tạo một vùng chọn nhìn thấy được
bằng các công cụ chọn, tuy nhiên kỹ thuật làm mờ hoặc chế độ (Overlay) làm cho nội dung tự tạo mặt nạ để
nhắm vào hiệu ứng. Đây là một kết quả phức tạp hơn những gì bạn đã đạt được với hớp 2 Color, nhưng điều
đó cũng có thể được xem là một mặt nạ.
Kết quả lớp Unsharp Mask mà bạn đã tạo làm việc giống như âm bản được kẹp vào giữa trong tiến trình
phòng tối (darkroom) hầu như theo cách trái ngược với bộ lọc Unsharp mask: Giảm độ tương phản trong
các ¼ tông màu (quartetones) để lấy các chi tiết từ những vùng tối và vùng sáng Unsharp Mask khiến cho
các vùng tối trở nên tối hơn và các vùng sáng trở nên sáng hơn, khi dẫn đến việc làm mất chi tiết (ngăn chặn
các vùng ảnh). Bởi vì hiệu ứng của thủ tục unsharpening thủ công này dường như trái ngược với bộ lọc
Unsharp Mask, hiệu ứng Unsharp thủ công và hiệu ứng bộ lọc Unsharp Mask có thể được sử dụng với nhau.
Bởi vì bạn có thể sử dụng chúng cùng nhau, bạn có thể tăng cường độ đáng kể những thay đổi tương phản
ảnh và áp dụng việc làm rõ nét nhiều hơn những gì có thể đạt được bằng riêng bộ lọc Unsharp Mask.
Thêm một ưu điểm đối với phiên bản làm rõ nét thủ công là do bản chất của chế độ overlay, kết quả sẽ
không có khuynh hướng thổi tắt (di chuyển các vùng sáng của ảnh sang: RGB: 0, 0, 0) hoặc ngăn cản (di
chuyển các vùng tối của ảnh sang RGB: và màu tại các thái cực (trắng tuyệt đối, đen tuyệt đối) và ở điểm
giữa (50% xám) ít có khả năng thay đổi hơn quartertones (75% và 25% xám). Điều này có thể ngăn bạn làm
hư hại chi tiết trong ảnh và sẽ không gây ra kiểu quầng sáng mà bạn có thể có được với bộ lọc Photoshop.
76
Bài 6 – Vùng chọn trên ảnh
1. Xác định nơi làm việc với các vùng chọn
Bạn có thể thực hiện việc sơn lại chính căn phòng ngủ của bạn để tiết kiệm tiền – và đó là thời điểm để sơn
các cửa sổ. Bây giờ, bạn có thể không muốn sơn trên lớp kính, phải không? Bạn chỉ muốn sơn trên khung
kính trượt, và những vật nằm giữa các ô kính cửa sổ, phải không? Có một số các bạn có thể tránh sơn trên
lớp kính. Bạn có thể sử dụng một chiếc cọ nhỏ và sơn rất cẩn thận. Bạn có thể dùng một chiếc cọ lớn hơn,
sơn nhanh hơn, và làm sạch lớp sơn dôi thừa trên kính sau đó. Bạn có thể sử dụng một băng mặt nạ, bảo vệ
lớp kính, và sơn theo chiều dốc như ý muốn – khi lấy băng ra, lớp kính không bị dính sơn.
Thật không thể tin được, những công việc trên lại có những điểm tương tự với các chọn lựa mà bạn có trong
Photoshop khi bạn cần làm việc chỉ với một phần của ảnh. Bạn có thể phóng to và sử dụng các công cụ, rê
con trỏ qua chỉ các pixel mà bạn muốn thay đổi (giống với việc sử dụng một chiếc cọ sơn nhỏ). Bạn có thể
sử dụng đặc tính History Brush để phục hồi các phần của ảnh theo hiện trạng thay đổi trước. Bạn có thể tách
biệt vùng của ảnh mà bạn muốn thay đổi với một vùng chọn.
Trong bài này, bạn tìm hiểu về việc chuẩn bị thực hiện các thay đổi với các ảnh của bạn hơn là thật sự thực
hiện các thay đổi đó. Bạn có thể cô lập các nhóm pixel trong ảnh theo các cách khác nhau. Ví dụ, bạn có thể
chọn các pixel nằm trong cùng phần của ảnh (bất kể màu), hay bạn có thể chọn các pixel có cùng màu (bất
kể vị trí trong ảnh). Đây là điểm mạnh: Khả năng để chỉ cho Photoshop chính xác các pixel mà bạn muốn
thay đổi. Sau khi tạo vùng chọn, bạn có thể thao tác các pixel theo các cách khác nhau - mọi thứ từ việc tạo
màu và các điều chỉnh tông màu đến làm việc với các bộ lọc sáng tạo của Photoshop nhằm sao chép chúng
một cách đơn giản, vì thế bạn có thể dán chúng vào trong ảnh khác.
Đầu tiên, bạn thực hiện việc “quấn băng trên lớp kính” bằng cách tạo các vùng chọn và sau đó sử dụng các
mặt nạ - các kênh thực sự lưu tữ thông tin vùng chọn. Sau đó, đọc về cách hoạt động với các lớp điều chỉnh
(adjusment layere), chúng là các lớp đặc biệt giúp bạn áp dụng các phần điều chỉnh tông màu và màu xác
thực mà không làm thay đổi bất kỳ pixel nào trong ảnh. Một lớp điều chỉnh cho phép bạn giới hạn việc thay
đổi với một lớp hay một lớp trong ảnh.
2. Một vùng chọn trên ảnh
Khi bạn tạo một vùng chọn trong ảnh, đơn giản bạn đang cô lập một số các pixel, chọn chúng để bạn có thể
thực hiện một điều đó với chúng mà không làm ảnh hưởng tới tất cả pixel khác trong ảnh. Photoshop chỉ
cho bạn phần nào của ảnh nằm trong vùng chọn bằng một đường gạch chấm lóe sáng.
Ví dụ, một phần của ảnh dường như đẹp, nhưng một phần khác của ảnh dường như không đẹp.
77
Bằng việc tạo một vùng chọn và áp dụng một điều chỉnh, bạn có thể làm cho ảnh này có vẻ đẹp hơn. Tất
nhiên, bạn có thể chọn để tạo một vùng chọn khác và áp dụng một điều chỉnh khác:
Các phần điều chỉnh độ sáng tối mà chúng ta đã đề cập ở các bài trước thường được áp dụng với một ảnh
như là một ảnh tổng thể. Tuy vậy, bạn đó thể áp dụng chúng với các vùng đặc biệt của một ảnh. Nhiều tác
vụ bạn thực hiện trong Photoshop không mang tính tổng quát, nhưng tốt hơn là được thực hiện chỉ với các
vùng giới hạn của ảnh. Bạn sử dụng các vùng chọn để thực hiện với phần hạn chế đó.
Bạn cũng có thể sử dụng các vùng chọn với các công việc khác nhau trong Photoshop. Một trong tác vụ
thông dụng nhất là sao chép từ một ảnh và dán nó vào trong ảnh khác. Bạn có thể thấy một ví dụ ở hình
dưới đây.
Chủ đề của một ảnh (ở phía trái bên trên) được chọn. (Bạn có thể thấy cận cảnh của vùng chọn ở phía phải.
Lệnh menu Edit. Copy sao chép các pixel chọn vào bộ nhớ của máy tính (Clipboard). Sau đó bạn có thể
chuyển đổi sang ảnh khác và sử dụng lệnh Edit | Paste để thả các pixel đó vào trong một ảnh thứ hai (phía
trái bên dưới). Điều chỉnh độ sáng, kích cỡ và vị trí. Có lẽ bổ xung một số bóng bằng cọ Brush.
Bất kỳ pixel nào trong ảnh cũng có thể được chọn, không được chọn, hay được chọn một phần. Ví dụ, nếu
bạn có một vùng chọn và tô nó với màu đỏ, các pixel chọn chuyển sang đỏ, các pixel không được chọn
không thay đổi, và các pixel được chọn một phần có một vệt đỏ. Độ đậm của vệt màu phụ thuộc vào cấp độ
của vùng chọn. (Nói chung, Photoshop sử dụng grayscale 8 bit cho vùng chọn, vì thế có 256 cấp độ khác
nhau của vụng “được chọn”).
3. Feathering và Anti-aliasing
Bạn cần nhớ một vài thuật ngữ rất quan trọng khi bạn tìm hiểu về các công cụ khác nhau và các lệnh mà bạn
thực hiện với các vùng chọn. Cả hai Feathering và Anti-aliasing đều làm cho các mép của vùng chọn mềm
mại hơn bằng việc dùng các pixel trong suốt từng phần hay các pixel màu khác. Điều đó giúp hoà trộn bất
78
kỳ điều gì bạn đang thực hiện với vùng chọn vào trong phần còn lại của ảnh.
Đừng quên tất cả các pixel trong ảnh là những ô vuông được canh thẳng hàng, với các hàng và các cột theo
thứ tự rõ ràng. Khi bạn tạo một đường cong hay đường chéo trong tác phẩm của bạn, các góc của các pixel
phô ra. Feathering và Anti-aliasing sẽ giúp che đậy các góc này. Bạn cũng có thể sử dụng feathering để tạo
các vùng chọn mềm mại hơn, lớn hơn với một cạnh mờ nhạt. và sử dụng feathering để tạo một vùng chọn
nhạt, mềm mại.
Luôn có feathering ở cả hai phía của biên vùng chọn. Và đừng áp dụng cứng nhắc số mà bạn nhập trong
trường feather trên thanh Options – đó chỉ là những dẫn chung, không phải một giá trị chính xác. Một
feather 15 pixel cho công cụ Flliptical Marquee có thể cung cấp cho bạn 50 hay 60 pixel trong suốt từng
phần, một nửa ở mỗi phía của biên vùng chọn. Ngay cả một feather 1 pixel cũng cung cấp cho bạn một
vùng chọn với một pixel “mềm” ở mỗi phía.
Anti-aliasing thì tương tự với feathering ở chỗ nó dùng để làm mềm các cạnh: nó được thiết kế để ẩn các
góc của các pixel dọc theo các đường cong và các đường chéo. Bạn sử dụng anti-aliasing với type. Bạn sẽ
thường thấy rằng anti-aliasing là tất cả những gì bạn cần để giữ cho các mép của các vùng chọn đẹp;
feathering không được yêu cầu. Anti-aliasing là một tuỳ chọn yes/aliasing, có anti-aliasing, và có feather 1
pixel.
Với việc thu phóng 10% (về phía trái bên trên), đường đầu tiên dường như lỗi lõm dọc theo các mép.
Đường bên dưới dường như mềm mại, và không có tiêu điểm. Và đường ở giữa thì sao? Khi được phóng
đến 600%, bạn có thể thực sự thấy chúng có răng cưa và mềm mại. Ở vùng giữa, bạn thấy anti-aliasing sử
dụng các pixel xám nhạt và các pixel có độ xám đều được đặt xen nhau dọc theo cạnh giữa các pixel đen.
Với việc thu phóng 100% (ở phía trái bên trên), mắt bạn sẽ chỉ nhìn thấy một cạnh đen thẳng.
Nói chung, sử dụng anti-aliasing chỉ với mỗi vùng chọn (ngoại trừ hình chữ nhật hay hình vuông), và sử
dụng feathering khi bạn muốn thực sự làm mềm các cạnh để tạo một hiệu ứng đặc biệt.
4. Tạo các vùng chọn với các công cụ
Photoshop cung cấp cho bạn tám công cụ với mục đích chính là giúp bạn tạo các vùng chọn. Bạn cũng sử
dụng các công cụ này để thay thế các vùng chọn bằng cách thêm vào, loại bớt ra, và cắt với một vùng chọn
hiện có. Tám công cụ chọn được phân chia thành ba nhóm:
- Bốn công cụ Marquee
- Ba công cụ lasso
- Một công cụ Magic Wand
a. Các công cụ chọn marquee
Bạn có bốn công cụ chọn marquee mặc dù bạn sẽ sử dụng chỉ hai công cụ trong số chúng. Hình dưới đây
minh họa các công cụ chọn marquee, cùng với cấu hình thanh Options của mỗi công cụ.
79
Bạn rê các công cụ Rectangular Marquee và Elliptical Marquee rất hữu ích để tạo các vùng chọn. Nhấp và
rê theo bất kỳ hướng nào để tạo vùng chọn của bạn. Sau khi bạn bắt đầu rê, nhấn giữ phím Shift (trong khi
vẫn còn rê) để ép buộc các tỉ lệ. Khi bạn ép buộc các tỉ lệ của một vùng chọn, bạn tạo một hình vuông hay
hình tròn hơn là một hình chữ nhật hay một ê lip. Nếu bạn bắt đầu rê một vùng chọn và nhấn phím Alt,
vùng chọn tự canh giữ ngay trên điểm bạn nhấp. Các phím Shift và Alt có thể được dùng cùng lúc. Nhấn
giữ phím Shift trước khi bạn nhấp và rê các phần bổ xung của vùng chọn vào bất kỳ vùng chọn hiện có nào.
Nhấn giữ phím Alt trước khi rê các phần loại bỏ khỏi vùng chọn mới từ bất kỳ vùng chọn hiện có nào.
Các công cụ Single Row Marquee và Single Column Marquee được nhấp một cách đơn giản tại điểm nơi
bạn muỗn một vùng chọn 1 pixel, chạy từ cạnh sang cạnh (side – to – side) hay từ đỉnh xuống đáy (top-to-
bottom). Các công cụ này tạo các vùng chọn mở rộng với chiều rộng đầy đủ hay chiều cao đầy đủ của ảnh.
Bạn có thể sử dụng các công cụ này để tạo một vùng chọn giống như lưới mà bạn có thể tô màu. Hay bạn có
thể không bao giờ sử dụng chúng.
Hãy lướt qua các thanh Options ở hình trên, bốn nút ở phía trái của thanh Options mà bạn có thể sử dụng
với bất kỳ các công cụ nào, xác định các công cụ hỗ tương với một vùng chọn hiện có.
- New Selection: Khi bạn chọn nút đầu tiên, bất kỳ vùng chọn nào bạn thực hiện sẽ thay thế một vùng chọn
hoạt động (huỷ chọn bất kỳ vùng chọn trước). Với một công cụ chọn, nếu bạn nhấp bên trong một vùng
chọn hoạt động khi tuỳ chọn đầu tiên kích hoạt, bạn có thể rê vùng chọn đó trong ảnh của bạn mà không di
chuyển bất kỳ pixel nào. (Khi bạn chưa thực sự tạo một vùng chọn, các công cụ này luôn luôn thực hiện
một vùng chọn mới, bất kể nút nào được kích hoạt).
- Add To: Khi bạn có một vùng chọn hoạt động và cần bổ xung vào vùng chọn đó, sử dụng nút thứ hai (hay
đơn giản là nhấn giữ phím Shift trong khi đang rê).
- Subtract From: Khi bạn có một vùng chọn và cần huỷ chọn chỉ một phần của nó, sử dụng nút thứ ba. Ví
dụ, bạn tạo một vùng chọn tròn và muốn cắt phần giữa để tạo một dạng donut. Nhấp vào nút thứ ba, và sau
đó rê trong vùng chọn gốc để huỷ chọn lỗ donut.
80
- Intersect With: Bạn có một vùng chọn, nhưng bạn muốn giữ chỉ một phần của vùng chọn. Bạn có thể xác
lập công cụ chọn của bạn để loại bỏ từ vùng chọn hiện có, hay bạn có thể giao với vùng chọn ban đầu và
huỳ chọn một số các vùng đồng thời.
Hình dưới minh họa cách bốn nút hoạt động. Ở phía trái, bạn nhìn thấy tuỳ chọn được chọn cho công cụ
vùng chọn marquee hoạt động. Kế tiếp là một vùng chọn ban đầu. Ở cột thứ ba, bạn nhìn thấy vùng chọn
khác đang được tạo (với công cụ vùng chọn được rê từ phải bên dưới sang trái bên trên). Sau cùng, ở phía
phải, bạn nhìn thấy kết quả của sự kết hợp cả hai vùng chọn.
b. Các công cụ chọn lasso
Bạn có ba công cụ chọn Lasso có sẵn trong Photoshop CS6. Trên thanh Options, cả ba công cụ chọn lasso
cung cấp cho bạn cùng các đặc tính cơ bản mà bạn thấy trong các công cụ vùng chọn marquee, như ở hình
dưới đây.
Bạn có thể thêm vào, loại bỏ bớt, hay giao với một vùng chọn hiện có. Bạn cũng có các tuỳ chọn feathering
và anti-aliasing có sẵn.
Các vùng chọn điều khiển
Quan sát trong menu xổ xuống Style trên thanh Options có hai tuỳ chọn đáng lưu ý: Fixef Aspect Ratio và
Fixed Size. Sử dụng tuỳ chọn Fixef Aspect Ratio với công cụ Rectangular Marquee hay công cụ Elliptical
Marquee thúc đẩy vùng chọn với mối liên hệ chiều cao và chiều rộng mà bạn xác định trong thanh Options.
Điều này tuyệt vời cho việc tạo một ảnh mà bạn cần với một kích cỡ đặc biệt, vừa khít trong một khung ảnh
chuẩn. Công cụ chọn sẽ không định lại kích cỡ ảnh cho bạn, nhưng bạn có thể tạo vùng chọn và sử dụng
lệnh Image | Crop, sau đó sử dụng lệnh Image | Image size để định lại kích cỡ với các kích thước và độ phân
giải đã yêu cầu.
81
Tuỳ chọn Fixed Size thay đổi hoạt động của công cụ. Sau khi bạn nhập chiều rộng và chiều cao chính xác
trong thanh Options, định vị trí con trỏ ở góc trái bểntên của vùng mà bạn muốn chọn và nhấp một lần –
vùng chọn được tạo ở phía phải bên dưới của điểm. Đừng lo về độ chính xác bởi vì bạn có thể rê marquee
chọn vào đúng vị trí sau đó. Hãy lướt qua nút nằm ở giữa các trường Width và Height trên thanh Options.
Khi bạn đang sử dụng style Fixed AspectRatio hoặc Fixed size, nhấp nút đó để hoán chuyển các giá trị ở hai
trường.
Các công cụ lasso khác với một công cụ marquee như thế nào? Hãy đọc để tìm hiểu.
- Công cụ Lasso: Công cụ lasso là một công cụ freeform (dạng tự do); với công cụ này bạn nhấp và rê nó
đến bất cứ nơi nào bạn muốn tạo vùng chọn. Bạn có thể rê quanh và quay trở về điểm khởi đầu hoặc bạn có
thể nhả nút chuột bất kỳ nơi đâu, và vùng chọn của bạn kết thúc cùng với một đường thẳng từ điểm đó đến
vị trí nơi bạn khởi đầu vùng chọn của bạn. Nếu bạn nhấn giữ phím Alt trong khi rê, bạn sẽ chuyển đổi tạm
thời sau công cụ Polygon Lasso.
- Công cụ Polygon Lasso: Thay vì, bạn nhấp - nhấp và nhấp để tạo các đoạn vùng chọn thẳng, tại bất kỳ
góc nào với bất kỳ khoảng cách nào. Khi bạn định vị trí con trỏ thẳng với điểm khởi đầu của bạn, một
đường tròn nhỏ xuất hiện về phía phải bên dưới của con trỏ để xác định rằng bạn trở về vị trí khởi đầu. Hay
đơn giản nhấp đúp để kết thúc vùng chọn. Nếu bạn nhấp và giữ phím Alt trong khi rê, tạm thời bạn sẽ
chuyển đổi đến công cụ Lasso thông thường, nó cho phép rê vùng chọn theo bất kỳ cách nào mà bạn muốn.
Việc sử dụng phím Alt cho phép bạn chuyển đổi tới lui giữa việc rê theo dạng tự do của công cụ Lasso và
các biên vùng chọn thẳng của công cụ Polygon Lasso.
- Công cụ Magnetic Lasso: Khi bạn cần chọn quanh một chủ thể có sự tương phản tốt với nền của nó, công
cụ Magnetic Lasso có thể thực hiện một công cụ tuyệt vời. Ứng viên hoàn hảo cho công cụ này là một đối
tượng đơn giản trên một nền rất phẳng. Tuy vậy, bạn có thể sử dụng nó chỉ với bất kỳ ảnh nào nơi các cạnh
của vùng mà bạn muốn chọn khác biệt đáng kể với phần còn lại của ảnh. Nhấp và rê công cụ dọc theo mép
của chủ thể. Nếu công cụ bỏ sót mép, sao lưu và rê dọc theo mép lần nữa. Nếu mép tạo một sự thay đổi bất
chợt theo hướng, nhấp nút chuột để thêm một điểm neo. Nếu công cụ đặt một điểm neo không đúng chỗ,
sao lưu và sau đó nhấn Delete/Backspace để loại bỏ điểm.
Công cụ Magnetic Lasso hoạt động bằng cách nhận dạng sự khác nhau về màu dọc theo các mép, sử dụng
tất cả các kênh màu có sẵn. Từ thanh Options, sử dụng trường Width để giúp công cụ nhận ra độ rộng của
một vùng mà nó có thể tìm thấy một mép. Trường Edge Contrast cho công cụ biết mép phải khác biệt như
thế nào trong khi tìm kiểm. Sử dụng trường Frequency để chọn số các điểm neo mà công cụ xác lập trong
khi bố trí vùng chọn.
82
c. Công cụ Magic Wand
Công cụ Magic Wand chọn các pixel tương tự về màu với pixel mà bạn nhấp với công cụ.
Giống với các lệnh vùng chọn khác, bạn có thể thêm vào loại bỏ bớt, hay giao với vùng chọn hiện có, và
bạn có thể chọn anti-aliasing. Ở hình ảnh phía dưới, bạn có thể thấy ba tuỳ chọn bổ xung, duy nhất giữ các
công cụ chọn. Tolerance xác định các pixel bao quanh phải tương hợp như thế nào với màu đích để được
đưa vào trong vùng chọn. Khi bạn chọn hộp kiểm Contiguous, chỉ các pixel được nối kết với vị trí mà bạn
nhấp theo các pixel cùng màu là được chọn. Tuỳ chọn Sample All Layers cho phép bạn tạo một vùng chọn
có các pixel màu tương tự trên mỗi lớp hiển thị trong ảnh không phải chỉ lớp hoạt động hiện hành.
- Ở hình ảnh trên, bạn có thể thấy kết quả của việc nhấp cùng vị trí, sử dụng bốn xác lập Tolerance khác
nhau. Ở phía trái bên trên, Magic Wand được xác lập với dung sai (Tolerance): 10, ở phía phải bên trên,
Tolerance: 20, ở phía trái bên dưới, Tolerance: 50, và ở phía phải bên dưới, Tolerance: 100. Bạn có thể thấy
rằng dung sai càng cao, dãy của màu được chọn càng rộng. Khi bạn sử dụng một xác lập Tolerance thấp,
bạn chọn chỉ với các pixel trong ảnh rất tương tự với pixel mà bạn nhấp. Một xác lập Tolerance caocung
cấp cho bạn một dãy màu rộng hơn, nó có thể hay không thể phù hợp với vùng chọn mà bạn đang tạo.
5. Các lệnh chọn
Bạn có khoảng hơn mười lệnh menu khi chọn các pixel trong tác phẩm của mình. Một số lệnh nằm gần ở
phía trên của menu Select khá đơn giản và được đặt tên đúng. Hình dưới minh họa một danh sách về các
lệnh Select.
83
a. Các lệnh chọn chủ yếu
Các lệnh gần phía trên của menu Select là các đặc tính mà bạn có thể thường sử dụng. (Có lẽ không phải là
lệnh Reselect). Việc ghi nhớ các phím tắt bàn phím của chúng sẽ giúp bạn tiết kiệm rất nhiều thời gian.
- Select All (Ctrl+A): Select All để thực hiện chính xác những gì tên này ám chỉ đến – nó tạo một vùng
chọn của tất cả các pixel trong ảnh của bạn trên lớp hoạt động (hay trong mặt nạ lớp hoạt động)
- Deselect (Ctrl+D): Sử dụng lệnh Deselect để đảm bảo rằng không có các pixel nào được chọn. Đây là
một lệnh tiện lợi khi một bộ lọc hay lệnh điều chỉnh không hoạt động.
- Reselect (Ctrl+Shift+D): Đây là một lệnh khá hay cho những lúc bạn đang tạo một vùng chọn khá phức
tạp, và vô ý huỷ chọn. Chỉ sử dụng Reselect để phục hồi vùng chọn gần đây nhất.
- Inverse (Ctrl+Shift+I): Lệnh Inverse đảo ngược vùng chọn, nghĩa là phần đã được chọn sẽ bị huỷ chọn,
và cái gì không được chọn trở nên được chọn. (Đừng quên sử dụng phím Shift – không có nó, bạn đảo
ngược các màu trong ảnh của bạn hơn là vùng chọn!)
Phần kế tiếp của menu Select chứa ba lệnh (All Layers, Deselect Layers, và Similar Layers) không dùng các
pixel nhưng lại dùng cới các lớp trong ảnh của bạn. Sử dụng các lệnh này với các ảnh nhiều lớp.
b. Lệnh Color Range
Trong nhóm khá nhỏ, ngay chính giữa của menu Select, là lệnh Color Range. Kiểm tra các bông hoa màu
cam từ hình trước. Thay vì nhấn Shift+ nhấp với Magic Wand, bạn có thể chọn màu cam nhanh chóng và dễ
dàng với lệnh Color Range.
84
Ở hình trên, bạn đã nhấp và rê qua một số vùng cam trong ảnh với công cụ Eyedropper ở giữa. (Bạn cũng
có thể nhấp một lần với Eyedropper ở bên trái và sử dụng các Eyedropper khác để thêm và loại bỏ các màu
từ vùng chọn). Thanh trượt Fuzziness gần phía trên xác định một màu phải gần giống như thế nào mà bạn
đã rê để đưa vào trong vùng chọn.
Đây là một vài cách mà bạn có thể có được một diện mạo tốt hơn tại vùng chọn khi tạo nó. ở hình dưới đây,
bạn thấy các tuỳ chọn (có sẵn từ menu Selection Preview).
Grayscale (ở phía trái bên trên) và Black Matte (ở phía phải bên trên) thực hiện một công việc tốt để biểu
thị rằng nền sẽ được chọn từng phần nếu bạn nhấp OK. (Giảm xác lập Fuzziness hay sử dụng Eyedropper ở
phía phải để nhấp vào trong các vùng của hàng rào mà lẽ ra chúng không được chọn). White Matte (ở phía
trái bên dưới) thực hiện một công việc tuyệt vời để biểu thị rằng đầu của một số lá bên dưới các hoa cũng sẽ
được chọn (Bỏ qua điều đó và Alt+rê với công cụ Lasso sau đó để huỷ chọn vùng). Do bởi màu đề tài của
ảnh này, khung xem trước Quick Mask đỏ (phía phải bên dưới) hầu như không có tác dụng cho ảnh này
(mặc dù nó thường tốt với các ảnh khác không có các màu đỏ và cam.
Menu pop-up ở phía trên của hộp thoại Color Range cho phép bạn chọn giữa các màu RGB (red/green/blue-
đỏ/xanh lá cây/xanh da trời) và CMY (cyan/magenta/yellow – màu lục lam/đỏ thẫm/vàng), cũng như các
điểm màu không thuộc gam màu trong ảnh (các màu không thể được tái tạo trong không gian màu được
chọn). Khi bạn chọn một trong các xác lập trước từ menu ở trên, thanh trượt Fuzziness không có sẵn, giới
hạn giá trị của đặc tính.
c. Các lệnh chỉnh sửa vùng chọn
Nhóm kế tiếp của các lệnh trong menu Select thật sự chứa năm lệnh tách biệt (Feather và bốn lệnh Modify),
mỗi lệnh với hộp thoại một trường.
85
- Feather: Feathering, đây là tuỳ chọn mà chúng ta đã đề cập ở đầu bài này, dùng để làm mềm các cạnh của
một vùng chọn. Thông thường khi cắt và dán một vùng chọn hay di chuyển một vùng chọn trong một ảnh,
bạn muốn Feather 1 pixel hay 2 pixel. Feather có thể được dùng với bất kỳ vùng chọn nào ngoại trừ khi bạn
sử dụng lệnh Select All.
- Border: Nằm sâu bên trong menu con Modify, lệnh Border tạo một vùng chọn với chiều rộng bạn đã
chọn. Ở hình trên, bạn thấy vùng chọn gốc (trái), đường biên 4 pixel (tâm), và đường biên được tô với đen
(phải). Biên thì có sẵn với tất cả vùng chọn (bao gồm Select), nhưng khi toàn thể canvas được chọn, bạn chỉ
thấy đường biên ở bên trong của vùng chọn gốc mà thôi.
- Smooth: Điều này có thể xảy ra khi bạn nhấp với công cụ Magic Wand để tạo một vùng chọn, bạn thấy tất
cả các loại của các vùng 1 hoặc 2 pixel nhỏ trong vùng chọn chưa được chọn. Có lẽ các vùng chọn với vài
pixel chỉ hơi nằm ngoài dãy Tolerance cho công cụ đó. Đừng lo! Sử dụng lệnh Smooth và một bán kính 1
hay 2 pixel để chụp lấy các vùng chọn có pixel chưa được chọn. Smooth cũng có thể xoá bỏ các mép răng
cưa dọc theo bên ngoài của vùng chọn.
- Expand: Lệnh Expand di chuyển biên vùng chọn ra hướng ngoài với một số các pixel đã xác định. Hãy
cẩn thận, nếu vùng chọn ban đầu của bạn bao gồm các góc nhọn hay các điểm bởi việc sử dụng Expand sẽ
86
cho tròn chúng. (Trong Palette Paths, chuyển đổi vùng chọn của bạn một đường dẫn, định tỉ lệ đường dẫn,
chuyển đổi đường dẫn trở lại một vùng chọn).
- Contract: Lệnh Contract thu nhỏ vùng chọn của bạn theo lượng đã xác định.
Nếu bạn tạo theo cách riêng của bạn xuống menu Select, bạn sẽ gặp các lệnh Grow và Similar, chúng hơi
giống như công cụ Magic Wand với Contiguons (Grow) và không có Contiguous (Similar) đã chọn trên
thanh Options. Thực tế chúng sử dụng xác lập Tolerance của công cụ magic Wand. Grow bổ xung vào vùng
chọn của bạn bất kỳ pixel nằm kề nào với màu phù hợp, và Similar dường như đi qua toàn bộ ảnh để tìm các
pixel có màu tương tự. Sử dụng Grow và Similar khi vùng chọn ban đầu hầu như chỉ chứa một màu duy
nhất. Việc sử dụng các lệnh này với một vùng chọn có nhiều màu khác nhau thường dẫn đến phần lớn ảnh
được chọn
d. Biến đổi hình dạng của các vùng chọn
Khi làm việc với các vùng chọn, bạn có thấy có những lúc vùng chọn không tương hợp theo nhu cầu của
bạn. Ví dụ, công cụ Elliptical Marquee có thể tạo các vùng chọn hình oval, nhưng các vùng chọn hình oval
này lại thẳng đứng hoặc nằm ngang. Bạn phải làm gì nếu bạn cần một vùng chọn hình oval tại một góc, như
là những gì bạn nhìn thấy ở hình dưới đây.
87
Đó là lệnh Select Transform thực thi. Tạo vùng chọn ban đầu của bạn, chọn lệnh Transform Selection, sau
đó vùng chọn cho phù hợp với nhu cầu của bạn.
Ở hình trên, bạn thấy vùng chọn không chỉ bị quay mà còn bị nghiêng và hơi bị biến dạng. Bạn có thể thao
tác một vùng chọn bằng bất kỳ cách nào bạn thấy hài lòng với lệnh Transform Selection. Hình dưới đây
minh họa các dạng biến đổi khác nhau.
88
Dưới đây là những điều bạn thấy ở ảnh trên:
- Ở phía trái bên trên (Top left): Đây là vùng chọn ban đầu.
- Ở giữa bên trên (Top center): Nhấp một điểm neo trên bất kỳ cạnh nào của hộp biên và rê để thay đổi
chiều cao hay chiều rộng của vùng chọn.
- Ở phía phải bên trên (top right): Định vị trí con trỏ bên ngoài hộp biên và rê để quay.
- Ở bên trái chính giữa (Middle left): Rê bất kỳ điểm neo gốc nào để thao tác chiều rộng và chiều cao của
vùng chọn đồng thời.
- Ở tâm giữa (Middle center): Nhấn giữ phím Shift trong khi rê một điểm neo gốc để tránh biến dạng vùng
chọn trong khi thay đổi kích cỡ.
- Ở phía phải giữa (Middle right): Nhấn giữ phím Alt trong khi rê một điểm neo gốc, và bạn kết thúc việc
định tỉ lệ ảnh dựa trên dấu thập ở tâm của hộp biên. (Bạn có thể rê trỏ chữ thập bất kỳ nơi đâu, ngay cả bên
ngoài hộp biên, để thay đổi điểm biến đổi). Bạn có thể sử dụng phím Shift với Alt.
- Ở trái bên dưới (bottom left): Nhấn giữ phím Ctrl và rê bất kỳ điểm neo ở cạnh để làm nghiêng.
- Ở giữa bên dưới (Bottom right): Nếu bạn nhấn Ctrl+rê hai hoặc bốn điểm neo gốc, bạn có thể thêm phép
phối cảnh vào vùng chọn. Ví dụ, bạn có thể tô vùng chọn đã biến đổi này với màu, di chuyển vùng chọn,
giảm tỉ lệ, hoặc tô lại.
e. Các lệnh chọn liên quan đến mặt nạ
Ở cuối menu Select, bạn thấy hai lệnh mà bạn sử dụng để lưu trữ các vùng chọn của bạn để dùng sau này và
để dùng lại chúng. Khi bạn lưu một vùng chọn, bạn tạo một kênh alpha trong ảnh. Kênh alpha (alpha
channel), giống như một kênh màu, là một dạng biểu diễn grayscale của ảnh. Các vùng trắng trong kênh
alpha biểu thị các vùng được chọn khi kênh được tải như là một vùng chọn. Các vùng chọn đen trong kênh
biểu thị là các vùng chưa được chọn. Xám biểu thị feathering và các pixel được chọn từng phần khác.
6. Các mặt nạ
Trong Photoshop, một mặt nạ (mask) là một kênh (trong Palette Channels) lưu trữ thông tin về một vùng
chọn hay về sự hiển thị lớp. (Khi bạn nói về vùng chọn đã được lưu như là các mặt nạ, bạn có thể ám chỉ
đến chúng như là các kênh alpha). Bất kỳ lúc nào bạn tạo một vùng chọn phức tạp, hãy nghĩ đến việc lưu trữ
nó như là một kênh alpha có chính xác không? Điều đó phụ thuộc vào lượng thời gian bạn có. Nếu việc đó
khiến bạn mất khoảng một hay hai phút để làm bất kỳ điều gì trong Photoshop, bạn nên tiết kiệm.
a. Lưu và tải các vùng chọn
Tạo một kênh alpha từ một vùng chọn thì đơn giản như việc sử dụng lệnh Select | Save | Selection và chọn
một tên cho kênh mới. Nếu bạn có nhiều tài liệu cùng các kích thước pixel mở trong Photoshop, bạn có thể
chọn bất kỳ các tài liệu có sẵn nào cho kênh mới.
89
Nếu bạn thực sự đã lưu một vùng chọn như một kênh alpha, bạn có thể chọn để có hai vùng chọn hỗ tương
trong một kênh duy nhất. Như ở hình dưới đây, các chọn lựa Operation song song với các chọn lựa mà bạn
thấy trên thanh Options khi làm việc với các công cụ chọn.
Bạn có thể thay thế kênh đã chọn, thêm vào kênh hiện có, loại bỏ từ kênh hiện có, hay giao nhau với kênh
hiện có.
Khi bạn cần làm việc với một vùng chọn đã lưu, chọn Select | Load | Selection hay đơn giản nhấn Ctrl+nhấp
thumbnail của kênh alpha trong Palette Channels - hoặc kích hoạt vùng chọn.
Hộp thoại Load Selection cung cấp cùng các đặc tính chủ yếu mà bạn thấy cho Save/Selection. Khi tải một
vùng chọn, bạn có thể thêm vào, loại bỏ khỏi, hay giao với một vùng chọn hoạt động. Bạn cũng có thể đảo
ngược một vùng chọn khi tải bằng cách chọn hộp kiểm invert. Sử dụng hộp kiểm để tạo cùng kết quả như
việc tải vùng chọn và chọn Select | Invert, nhưng nó nhanh hơn và dễ dàng hơn.
90
b. Hiệu chỉnh một kênh alpha
Các kênh alpha, giống như các kênh màu, là các dạng biểu diễn grayscale. Bạn có thể hiệu chỉnh chúng
giống như bạn sẽ làm với bất kỳ ảnh grayscale nào. Nhấp vào kênh trong Palette Channels để làm nó kích
hoạt và hiển thị. Bạn thấy nó trong cửa sổ ảnh như là một dạng biểu diễn grayscale (hay đen và trắng) của
vùng chọn đã lưu. Nếu bạn muốn xem ảnh trong khi bạn làm việc trên kênh, nhấp trong cột phía trái (cột
eyeball) về phía trái của kệnh RGB (hay CMYK). Kênh alpha sau đó xuất hiện như là một vệt phủ chồng đổ
ở phía trên ảnh. Hình dưới đây minh họa những gì mà màn hình dường giống với màn hình hiển thị kênh
alpha (trái) và cách nó xuất hiện khi kênh alpha hoạt động và sau đó kênh RGB cũng hiển thị. (Phải quan sát
nhanh sự khác nhau trong Palette Channels).
Sau đây là một số điều mà bạn có thể muốn làm với một kênh alpha hoạt động:
- Làm mờ kênh alpha: Làm mờ kênh alpha (các lệnh Filter | Blur) thì giống với feathering một vùng chọn
– nó làm mềm các mép. Một trong những sự khác nhau lớn là bạn có thể thấy ở khung xem trước của việc
làm mờ, điều này có vẻ tốt hơn là suy đoán có bao nhiêu feathering bạn cần.
- Tạo độ rõ nét cho kênh alpha: Làm sắc các vùng chọn đã lưu (Filter | Sharpen) làm cho các cạnh sạch
hơn và chính xác hơn.
- Tô trong kênh alpha: Tô với công cụ Grush, sử dụng đen, trắng và xám trong kênh để làm thay đổi vùng
chọn. Tô với trắng để thêm các vùng vào vùng chọn đã lưu; tô với đen để loại bỏ các vùng khỏi vùng chọn;
tô với các bóng xám để chọn từng phần các vùng của ảnh. Bạn có thể hiệu chỉnh một kênh alpha bằng cọ
Brush rất chính xác, thêm và loại bỏ các pixel nằm rải rác như tạo các mép chính xác.
- Sử dụng các cấp độ hay các đường cong trên kênh alpha: Nếu vùng chọn đã lưu có feathering hoặc các
vùng khác của từng phần (các màu xứm trong kênh alpha), bạn có thể thao tác chúng với một tính năng điều
91
chỉnh Levels hay Curves (từ menu Image | Adjustments). Tính năng điều chỉnh Levels đặc biệt phù hợp cho
việc điều khiển feathering dọc theo một mép.
- Áp dụng một hay nhiều bộ lọc vào một kênh alpha: Sử dụng các bộ lọc mỹ thuật trên một vùng chọn đã
lưu để tạo các hiệu ứng đặc biệt, như là các đường biên và các khung.
c. Làm việc trong chế độ Quick Mask
Vì bạn muốn tạo một vùng chọn, lưu nó như là một kênh alpha, làm cho kênh alpha hoạt động, nhấp vào cột
eyeball để làm cho kênh RGB hiển thị vì thế bạn có thể thấy những gì bạn đang thực hiện, hãy tô bên trong
và áp dụg các bộ lọc vào kênh alpha, làm cho kênh RGB kích hoạt, tải kênh alpha như là vùng chọn và thực
hiện điều gì có vẻ sáng tạo với nó.
Với chế độ Quick Mask của Photoshop, bạn tạo một vùng chọn cơ bản, nhấp Q trên bàn phím để nhập chế
độ Quick Mask, hiệu chỉnh vùng chọn như thể nó là một mặt nạ, sau đó nhấn lại Q. Bạn không phải bắt đầu
với một vùng chọn! Trong chế độ Quick Mask, mặt nạ của bạn xuất hiện trên màn hình như là một lớp phủ
đỏ, có vẻ giống một kệnh alpha xuất hiện khi kênh RGB hiển thị. Tô, áp dụng các bộ lọc hay các phần điều
chỉnh, hoặc tạo các vùng chọn - bất kỳ điều gì bạn có thể thực hiện với một ảnh grayscale, bạn có thể thực
hiện trong chế độ Quick Mask.
Theo mặc định, bạn tô với đen trong chế độ Quick Mask trên các vùng mà bạn không muốn được chọn, tô
với trắng trên các vùng mà bạn muốn được chọn, và tô với các bóng xám trên các vùng mà bạn muốn được
chọn từng phần.
Thêm các mặt nạ vào các lớp
Khi ảnh của bạn có nhiều lớp, bạn có thể ẩn từng phần các lớp với các mặt nạ lớp (layermask). Các mặt nạ
lớp và các kênh alpha có nhiều điểm chung. Các mặt nạ lớp là các vùng chọn được lưu như các kênh, bạn có
thể sơn trong mặt nạ lớp, bạn có thể áp dụng các bộ lọc và tính năng điều chỉnh vào mặt nạ lớp… Hãy nhớ
rằng một mặt nạ lớp xuất hiện trọng Palette Channels chỉ khi bạn chọn lớp của nó trong Palette Layers.
(trong Palette Layers, bạn sẽ thấy thumbnail mặt nạ lớp ở phía phải của thumbnail layer). để hiệu chỉnh một
mặ nạ lớp, nhấp thumbnail của nó trong Palette Layers, sau đó hiệu chỉnh nó như bạn sẽ thực hiện với một
kênh alpha. (Nhớ nhấp vào thumbnail lớp, sau đó để kích hoạt chính lớp đó).
Cách dễ nhất để thêm một mặt nạ lớp là tạo một vùng chọn của các pixel mà bạn muốn hiển thị trên lớp và
sau đó nhấp nút Add Layer Mask ở phía dưới của Palette Layes (nút thứ ba từ phía trái). Bạn cũng có thể
tạo một vùng chọn và chọn Layer | Layer Mask | Reveal Selection hay Layer | Add Layer Mask | Hide
Selection. Menu đó cũng cung cấp Reveal All và Hide All cũg như các lệnh để ẩn hay xoá mặt nạ lớp. Bạn
cũng có thể áp dụng mặt nạ lớp nó xoá bất kỳ các pixel ẩn nào trên lớp đó.
Một lớp được đặt tên là Background trong Palette Layers không thể có bất kỳ vùng trong suốt nào, vì thế
bạn không thể thêm một mặt nạ lớp vào. Không có vấn đề gì! Đơn giản chỉ nhấp đúp tên lớp trong Palette
Layers và đặt lại tên lớp. Công việc đó biến đổi nó thành một lớp thông thường.
Trong Palette Layes, một mặt nạ lớp được liên kết với lớp – có nghĩa là nếu bạn rê lớp, mặt nạ sẽ di chuyển
cùng với nó. Bạn cũng có thể huỷ liên kết hay liên kết lại mặt nạ và lớp bằng cách nhấp biểu tượng hoặc
khoảng cách giữa các thumbnail của chúng trong Palette Layers.
d. Tạo các lớp với đường dẫn vector
Một lớp cũng có thể được tạo mặt nạ với một đường dẫn vector. Các mặt nạ vector có các cạnh rất chính
xác, và bạn có thể hiệu chỉnh chúng như một đường dẫn với công cụ Direct Selection. Một lớp (ngoại trừ
92
lớp Background) có thể vừa có một mặt nạ lớp dựa trên pixel thông thường vừa có một mặt nạ vector. Để
biểu thị trong tác phẩm của bạn, pixel trên lớp đó phải nằm trong cả mặt nạ lớp và mặt nạ vector. Khi một
lớp vừa có một mặt nạ lớp vừa có một mặt nạ vector, thumbnail mặt nạ vector xuất hiện về phía phải trong
Palette Layers
7. Các điều chỉnh
Nhiều lệnh của Photoshop dùng để điều khiển tông màu và màu của ảnh. Nhiều lệnh này cũng có sẵn là các
lớp điều chỉnh. Một lớp điều chỉnh áp dụng việc điều chỉnh như là lệnh tương đương, nhưng việc sử dụng
một lớp điều chỉnh có vài ưu điểm chính:
- Các phần điều chỉnh có thể điều chỉnh được: Bạn có thể mở lại một hộp thoại của lớp điều chỉnh tại bất
kỳ thời điểm nào để thay đổi các xác lập.
- Các phần điều chỉnh có thể huỷ bỏ: Bạn có thể xoá một lớp điều chỉnh, loại bỏ thay đổi từ ảnh của bạn.
- Các phần điều chỉnh ẩn: Nhấp vào cột eyeball ở phía trái của lớp điều chỉnh trong Palette Layers để ẩn
tạm thời việc thay đổi đó.
- Các phần điều chỉnh có thể tinh chỉnh được: Bạn có thể thay đổi độ mờ và chế độ hoà trộn của các lớp
điều chỉnh để tinh chỉnh hiệu ứng.
- Các phần điều chỉnh có thể giới hạn: Bạn có thể thêm các mặt nạ lớp và các mặt nạ vetor vào các lớp
điều chỉnh của bạn để giới hạn hiệu ứng của chúng chỉ với một số các pixel bên dưới, và sau đó bạn có thể
hiệu chỉnh các mặt nạ khi cần thiết.
Do bởi tính linh động, nói chung bạn sẽ muốn sử dụng các lớp điều chỉnh hơn là các lệnh điều chỉnh trong
các ảnh. Tất nhiên, bạn vẫn cần menu Image | Adjustments cho một số lệnh không thể được thêm vào qua
một lớp điều chỉnh.
a. Thêm một lớp điều chỉnh
Bạn có thể thêm một lớp điều chỉnh thông qua menu ở cuối Palette Layers (nhấp nút thứ tư từ phía trái, và
sau đó di chuyển con trỏ đến type của lớp điều chỉnh mà bạn muốn thêm vào) hay thông qua menu con
Layer | New Adjustment Layer.
93
94
Cách chọn lựa thì như nhau. Khi bạn chọn phần điều chỉnh đặc biệt mở. Việc chọn phần điều chỉnh qua
menu Layers hiển thị hộp thoại New Layer đầu tiên. Bạn có thể thấy tất cả các bit khác nhau và các phần
nhỏ trên hình ảnh.
Ba tuỳ chọn đầu tiên trong menu mà bạn mở từ Palette Layers là fill layers các lớp được tô hoàn toàn với
một màu, gradient, hay mẫu. Bạn có thể thêm một lớp trống mới và sử dụng lệnh Edit | Fill để thực hiện một
điều tương tự hay thêm một lớp qua menu Layer | New Fill Layer.
b. Giới hạn các phần điều chỉnh
Hãy quan sát hộp thoại New Layer ở hình trước. Chú ý thao tác bằng tay với hộp kiểm Use Previous Layer
to Create Clipping Mask. Khi bạn đánh dấu hộp kiểm để chọn tuỳ chọn, lớp điều chỉnh mới sẽ bị cắt xén -
giới hạn với một lớp ngay bên dưới nó trong Palette Layer. (Đó là lớp hoạt động khi bạn thêm một lớp điều
95
chỉnh vào). Nhấn giữ phím Alt trước khi chọn một phần điều chỉnh từ bên dưới của Palette Layer để thấy
hộp thoại này. Và sau khi thêm một lớp điều chỉnh, bạn có thể xén cắt với lớp bên dưới bằng cách nhấp đúp
Alt + nhấp đường nằm giữa hai lớp trong Palette Layer.
Hình trên biểu thị sự khác nhau giữa một lớp điều chỉnh bị cắt xén (trái) và một lớp điều chỉnh chưa được
cắt xén (phải). Khi chưa bị cắt xén phần điều chỉnh được áp dụng vào tất cả các lớp bên dưới hơn là vào
một lớp nằm ngang bên dưới.
Ở phía trái của hình ảnh trên, phần điều chỉnh Hue/Saturation được áp dụng chỉ với lớp phía trên - lớp được
đặt tên là Symbol. Ở phía phải, lớp điều chỉnh không bị cắt xén, và vì thế nó thay đổi cả lớp Symbol và lớp
Background. Với cách này, thumbnail trong Palette Layer biểu thị màu đồng ban đầu của lớp Symbol trước
khi thêm lớp điều chỉnh Hue/Saturation. Sử dụng các lớp điều chỉnh để làm đẹp ảnh là một niềm vui mà bạn
có thể cảm nhận được.
Trong Palette Layer ở phía trái của hình ảnh trước, bạn có thể thấy biểu tượng các chiếc nhẫn cưới giữa lớp
điều chỉnh và lớp Symbol ngay bên dưới. Đó là biểu tượng mà bạn thấy khi nhấn Alt nhấp để cắt xén (hay
không cắt xén) các lớp.
Bởi vì chúng là các lớp, bạn có thể sử dụng một mặt nạ lớp để áp dụng một lớp điều chỉnh chỉ với một phần
của lớp. Bạn sẽ thấy việc tạo một vùng chọn của vùng nơi bạn muốn phần điều chỉnh thực hiện trước khi
chọn lớp điều chỉnh sẽ dễ dàng hơn - mặt nạ sẽ tự động được tạo từ vùng chọn đó.
96
Bài 7 - Kết hợp ảnh với các lớp
1. Kết hợp các phần nhỏ với các lớp
Bạn tạo một vùng chọn trong một ảnh, sao chép, chuyển sang một ảnh khác, và dán. Ở đó bạn có ảnh ghép
cơ bản. Khá đơn giản, phải không? Dù bạn kết hợp hai ảnh, hoặc tạo một tác phẩm phức tạp liên quan đến
hàng chục thành phần, thủ thuật là tạo một ảnh ghép với diện mạo tự nhiên. Các kỹ thuật then chốt là hoà
trộn các mép của các vùng chọn và tương hợp màu giữa các thành phần.
a. Tìm hiểu các lớp
Khi bạn kết hợp các ảnh, bạn làm việc với các lớp. Hãy nghĩ các lớp trọng Photoshop như là các thành phần
có thể xếp chồng được, mỗi lớp giữ một phần của ảnh. Nơi một lớp bên trên trong suốt thì các lớp bên dưới
sẽ lộ ra. Nơi lớp bên trên có các pixel không trong suốt thì các pixel đó sẽ tạo khối hoặc hỗ tương với các
pixel ở lớp bên dưới. (Bạn điều khiển sự hỗ tương với các chế độ hoà trộn và độ mờ đục).
Hãy quan sát hình ảnh trên Palette Layers hiển thị các lớp riêng biệt và nội dung của chúng. Các thành phần
riêng biệt hợp lại để tạo một ảnh đơn.
Bạn có thể thao tác nội dung của một lớp riêng biệt – di chuyển, định lại kích cỡ, xoá, tô, hay điều chỉnh
màu và tông màu - để phù hợp với các nhu cầu của bạn và tính mỹ thuật. Bạn có thể liên kết hai hay nhiều
lớp để chúng duy trì các vị trí của chúng trong mối tương quan với nhau khi bạn di chuyển chúng. (Shift-
nhấp để chọn các lớp; sau đó nhấp nút Link ở bên dưới của Palette Layers - một ký hiệu Link xuất hiện ở
phía phải của các lớp đã liên kết khi kích hoạt trong Palette Layers). Ví dụ, bạn có thể có một lớp type mà
bạn muốn vẫn còn được canh giữ trong một hình chữ nhật. Liên kết hai, và bạn có thể di chuyển hình chữ
nhật và type cùng nhau mà không làm chúng chênh ra khỏi nhau.
Cột bên trái trong Palette Layers, được gọi là cột eyeball (eyeball column) cho phép bạn ẩn một lớp, làm
cho nội dung của lớp không hiển thị. Các pixel vẫn còn ở đó; chúng vẫn chưa hiển thị. Nhấp vào biểu tượng
eyeball để ẩn lớp và sau đó nhấp vào vùng trống ở cột bên trái để làm cho lớp hiển thị lại. Bạn cũng có thể
ẩn và hiển thị các lớp điều chỉnh, nó cho phép bạn thấy sự tác động của chúng trên ảnh.
Một khái niệm chính về các lớp được minh họa tốt ở hình trên. Một lớp càng cao hơn ở thứ tự ngăn xếp (thứ
tự của các lớp trong Palette từ trên xuống), nó sẽ càng “phô ra trước” nhiều hơn.
Bạn cũng có thể tạo các nhóm, chúng là hai hay nhiều lớp được gói cùng nhau trong Palette Layers để bạn
có thể làm việc với chúng. (Ở các phiên bản trước của Photoshop, bạn có các xác lập lớp. Nói chung, các
nhóm tương đương với các tập hợp lớp cả về hình dạng và chức năng). Như bạn thấy trong Palette Layers ở
hình ảnh trên, bạn có thể có các nhóm đã xếp lồng: một nhóm bên trong một nhóm.
b. Sử dụng các chế độ hoà trộn cơ bản
97
Menu pop-up ở góc trái bên trên của Palette Layers cung cấp gần hai chục chế độ hoà trộn khác. Một chế độ
hoà trộn của lớp xác định các cách pixel trên lớp đó tương hỗ với các pixel hiển thị trên các lớp bên dưới.
Bởi vì một lớp đã đặt tên Background không thể có lớp bất kỳ bên dưới nó bạn không thể thay đổi chế độ
hoà trộn của các lớp nền. Chuyển đổi một lớp nền thành một lớp thông thường bằng việc thay đổi tên của
lớp trong Palette Layers chỉ cần nhấp đúp vào một tên lớp trong Palette Layers và gõ nhập để đạt lại tên lớp.
Ở hình ảnh dưới, các gradient đen - trắng và cầu vồng (rainbow) sử dụng chế độ hoà trộn được biểu thị bởi
khung viền text (bạn có thể thấy các gradient gốc trong Normap stripe). Normal, Multiply, Screen, Overlay,
và Luminosity là các chế độ quan trọng mà bạn có thể sử dụng thường xuyên.
98
Khi làm việc với các chế độ hoà trộn lớp, luôn luôn nhớ rằng bạn có thể sử dụng các thanh trượt Opacity và
Fill của lớp để xác định diện mạo và sự hiển thị của lớp.
Menu pop-up với chế độ hoà trộn của Palette Layers được phân chia thành sáu phần, dựa trên cơ sở khá rời
rạc về cách các pixel ở lớp bên trên tác động đến các pixel ở lớp bên dưới. Đây là một phần quan sát nhanh
về cách bạn sử dụng các chế độ hoà trộn lớp chính:
- Normal: Photoshop chọn Normal theo mặc định. Các pixel ở lớp bên trên hoàn toàn ẩn các pixel ở các lớp
bên dưới (tất nhiên chủ thể với các xác lập Opacity và Fill). Sử dụng Normal để hiển thị nội dung của lớp
mà không có bất kỳ sự hỗ tương nào với các lớp bên dưới.
- Multiply: Chế độ hoà trộn Multiply làm đậm nơi lớp bên trên của sẽ tối và bỏ qua trắng. Sử dụng
Multiply khi bạn muốn lớp bên trên được làm đậm nhưng không làm mờ lớp bên dưới và cũng cho các bóng
và các hiệu ứng đỏ đậm.
- Screen: Chế độ hoà trộn Screen – trái ngược với chế độ hoà trộn Multiply - sử dụng các pixel nhạt hơn để
làm nhạt các pixel bên dưới. Sử dụng nó cho các điểm sáng và các hiệu ứng đỏ nhạt.
- Overlay: Overlay làm việc như sự kết hợp của Multiply và Sceen. Sử dụng nó khi bạn đang làm việc với
một lớp bên trên chứa các pixel vừa đậm vừa nhạt mà bạn muốn hỗ tương với các pixel ở các lớp bên dưới.
- Soft Light: Soft Light là một chế độ hoà trộn tinh vi. Cũng giống như Overlay, nơi các pixel của lớp bên
trên đậm, các lớp bên dưới được làm đậm; nơi chúng sáng, lớp bên dưới được làm sáng. Soft Light cũng
giống như việc bổ xung một vùng sáng lan truyền đến lớp bên dưới - hữu dụng cho việc thêm một ít sắc thái
vào lớp bên dưới.
- Hard Light: Chế độ hoà trộn Hard Light gần giống như một phiên bản nổi bật hơn của Soft Light. Sử
dụng nó để thêm nhiều sắc thái hơn vào lớp bên dưới. hard Light làm việc tốt với các màu mà không có độ
sáng quá mạnh.
99
- Diference: Nơi lớp bên trên (sử dụng chế độ hòa trộn Difference) và lớp bên dưới hoàn toàn giống như
nhau, bạn sẽ thấy màu đen. Nơi hai lớp khác nhau, bạn thấy sự chói sáng hoặc màu. Ví dụ, sử dụng
Difference (tạm thời) khi cố canh thẳng hàng hai bức ảnh phù chồng nhau. Xác lập ảnh bên trên với chế độ
hoà trộn Difference, di chuyển lớp bên trên đến khi các vùng của lớp phủ chồng hiển thị đen, và sau đó
chuyển đổi sang chế độ hoà trộn của lớp bên trên trở lại Normal.
- Color: Khi lớp bên trên được xác lập với Color, sự bão hoà và sự chói sáng của lớp bên dưới vẫn còn
được giữ lại và màu của lớp bên trên được sử dụng đến. Nếu bạn muốn tạo một ảnh màu từ một ảnh
grayscale, chuyển đổi ảnh sang RGB (Imge | Mode | RGB), thêm một lớp mới, thay đổi chế độ hoà trộn của
lớp bên trên với Color và tô trên lớp bên trên.
- Luminosity: Khi lớp bên trên được xác lập với Luminosity, màu và độ bão hoà của lớp bên dưới vẫn còn
giữ lại, và sự chói sáng của lớp bên trên được áp dụng đến. Bởi vì nói chung độ tối và sáng cung cấp kết
cấu, nên hãy sử dụng chế độ hoà trộn này để tạo chi tiết ở lớp bên dưới.
c. Độ mờ đục, độ trong suốt, và các mặt nạ lớp
Chế độ hoà trộn giúp xác định cách các pixel ở một lớp bên trên hỗ tương với các pixel ở một lớp bên dưới,
nhưng các pixel bên trên phải hiển thị trước khi chúng có thể thực hiện bất kỳ hỗ tương nào. Khi quan sát
bất kỳ pixel nào trên một lớp, bạn phải xem xét bốn yếu tố về độ trong suốt:
- Liệu xem pixel có bất kỳ màu nào để khởi đầu
- Giá trị Opacity
- Giá trị Fill
- Nên xem có mặt nạ lớp không
Khi bạn thêm một lớp và tô trên nó, ví dụ, bạn tô màu một số các pixel tuy nhiên để lại các pixel khác trong
suốt. (Mỗi lớp mỗi ảnh được tô hoàn toàn với các pixel, hoặc hiển thị hoặc không hiển thị). Nếu chẳng có gì
được thực hiện để tô màu một số pixel, chúng vẫn còn trong suốt và các lớp bên dưới có thể nhìnthấy qua
phần của lớp bên trên. Hình dưới các chữ upper layer nằm ở trên một lớp tách biệt phía trên lớp chứa các
chữ Lower Layer. Nơi lớp bên trên có các pixel trong suốt, lớp bên dưới hiển thị xuyên qua.
Một lớp được đặt tên Background trong Palette Layers có thể không có các pixel trong suốt.
Việc giảm thanh trượt Opacity hay Fill trong Palette Layers (hay hộp thoại Layer Style) làm cho tất cả các
pixel hiển thị trên lớp trở nên trong suốt một phần: các pixel trên các lớp bên dưới có thể được nhìn thấy
qua các pixel của lớp bên trên. (Thanh trượt Opacity điều khiển các pixel trên lớp và bất kỳ layer style nào,
thanh trượt Fill chỉ làm việc trên các pixel, không phải trên layer style).
d. Tạo các nhóm cắt xén (clipping)
Trong Photoshop, đây là một cách khác để giới hạn tính hiển thị của các pixel ở một lớp bên trên: Các nhóm
cắt xén. Việc cắt xén một lớp bên trên đến lớp bên dưới sẽ tạo một mặt nạ ở lớp bên trên. Sự mờ đục của
các pixel ở lớp bên dưới được áp dụng với các pixel ở bên trên. Nơi lớp bên dưới trong suốt, lớp bên trên
(bất chấp với nội dung gốc) trở nên trong suốt. Trong Palette Layers, Alt-nhấp đường nằm giữa hai lớp để
cắt xén lớp bên trên tới lớp bên dưới. (Khi bạn nhấn giữ phím Alt, con trỏ quay trở về biểu tượng các nhẫn
cưới). Hình dưới đây minh họa các hình được tạo với một nhóm cắt xén.
100
Sau khi Alt-nhấp đường nằm giữa Layer 0 và lớp được đặt tên GARDENS, lớp bên trên chỉ hiển thị trong
text ở lớp bên dưới. Lớp bên trên được thụt vào phía phải trong Palette Layers, với một mũi tên hướng
xuống, để cho bạn biết rằng nó được cắt xén tới lớp bên dưới. Chú ý rằng thumbnail của lớp bên trên trong
Palette Layers hiển thị toàn bộ lớp, không phải chỉ vùng hiển thị.
Photoshop CS6 cho phép bạn biểu thị các thumbnail của lớp theo một cách mới. Trước đây, toàn bộ lớp,
bao gồm tất cả các vùng trong suốt, được biểu thị trong thumbnail. Mặc dù cách đó cung cấp cho bạn một
sự chỉ định tốt về nội dung của lớp đặc biệt lớn hay nhỏ thế nào nằm trong ảnh. Các ảnh nằm trong lớp với
nội dung thì ít hiển thị trong thumbnail. Bằng cách dùng Palette Options (từ menu Palette Layers) hay nhấp
phải vùng trống ở bên dưới của Palette, bạn có thể chọn để hiển thị một thumbnail chứa chỉ các vùng không
trong suốt của lớp.
e. Để các thành phần đã ghép có vẻ tự nhiên
Một trong các vấn đề chủ yếu khi ghép hai ảnh là cường độ hơi yếu đối với các mép của thành phần mà bạn
đang thêm vào ảnh gốc. Cường độ đó, được gọi là feathering, làm cho các mép của ảnh có vẻ dần theo
khoảng cách. Có nhiều cách để tạo feather một vùng chọn bao gồm:
- Sử dụng trường Feathering trên thanh Options trước khi bạn sử dụng một công cụ chọn.
- Chọn Select | Feater sau khi bạn tạo một vùng chọn.
- Áp dụng một độ mờ kênh alpha của một vùng chọn đã lưu trong Palette Layers (hay đối với một mặt nạ
lớp)
Trường hợp màu giữa hai lớp cũng là một vấn đề quan trọng để có một diện mạo tự nhiên
Bạn cũng cần lưu ý đến phối cảnh (perspective) và tỉ lệ (scale). Khi một thành phần trong ảnh ghép của bạn
đường như quá lớn hay quá nhỏ, hay khi nó dường như gặp sự cố, hãy dùng lệnh Edit | Transform. Các lệnh
Scale và Rotate tự giải thích.
Lệnh Edit | Transform | Warp mới bổ xung một lưới đơn giản trên nội dung của lớp hay vùng chọn. Bạn
nhấp và rê các đường chỉ hướng cho các góc của lưới và tại phần giao nhau của các đường lưới để làm biến
đổi tác phẩm của bạn. Bạn cũng có thể sử dụng Warp với các đường dẫn và các lớp hình dạng.
2. Bộ lọc Vanishing Point
Khi kết hợp các ảnh để tạo quang cảnh, bạn có thể thấy cần thêm kết cấu hay một mẫu dọc theo một đối
tượng, giả sử là một đối tượng ba chiều. Ví dụ, bạn có thể thêm một hộp sản phẩm vào một bức ảnh chụ nhà
bếp và cần thêm một lôg ở phía trước hộp. Hay có lẽ bạn sẽ tạo một căn phòng thậm chí có thể là một lâu
đài cao trên một ngọn đổi… Sử dụng Photoshop CS6 mới với đặc tính Vanishing Point để “ánh xạ” một
mẫu sang các bề mặt nghiêng như là các bức tường, sàn nhà, toà nhà, và họp. Vanishing Point, sử dụng
thông tin mà bạn cung cấp, tự động xác định góc, tỉ lệ, và phối cảnh đứng (Vanishing Point thì khá phức
tạp, vì thế để các công việc được đơn giản hơn bạn có thể muốn sử dụng với các lệnh Paste và Edit |
Transform).
Để sử dụng Vanishing Point, bạn thực hiện theo các bước dưới đây:
1. Sao chép mẫu:
Mở bất kỳ file mẫu nào (hay kết cấu hay màu hay lôgô hay bất kỳ cái gì) mà bạn sẽ thêm vào các bức tường
hay các mặt trong ảnh, tạo một vùng chọn, sau đó chọn Edit | Copy. Bây giờ bạn có thể đóng file mẫu lại.
2. Tạo một vùng chọn trong ảnh làm việc của bạn.
Nhận dạng nơi bạn muốn mẫu áp dụng. Nếu bạn đang làm việc với các bức tường, tạo một vùng chọn chứa
bức tường nhưng không bao gồm các cửa sổ và cửa đi.
101
3. Mở Vanishing Point mở, hiển thị ảnh của bạn.
4. Tạo các mặt phẳng trên ảnh trong cửa sổ Vanishing Point
a) Chọn công cụ Create Plane (công cụ thứ hai kể từ trên xuống phía trái của cửa sổ)
b. Nhấp vào ảnh nơi bạn muốn đặt ba góc của mặt phẳng, sau đó di chuyển con trỏ đến góc thứ tư.
Bạn thấy mặt phẳng mở rộng dọc theo hai cạnh cuối.
c. Khi con trỏ nằm đúng vị trí, nhấp để tạo mặt phẳng.
Nếu mặt phẳng vàng hay đỏ ngoại trừ xanh, nó không được cạnh thẳng hàng chín xác. Rê các góc của mặt
phẳng để cạnh thẳng hàng lại chúng, sử dụng công cụ Edit Plane (công cụ ở phía trên bên trái). Rê các điểm
neo ở cạnh ra ngoài để mở rộng lưới của mặt phẳng để chứa toàn bộ bức tường hay một mặt bên.
d. Tạo các mặt phẳng vuông góc bằng cách nhấn giữ phím Ctrl và rê điểm neo cạnh tại điểm nơi hai mặt
phẳng giao nhau.
Nếu góc của mặt phẳng thứ hai hơi nằm ngoài một chút, rê một trong các điểm neo góc để điều chỉnh góc.
Ở hình dưới, bạn thấy hai mặt phẳng vuông góc với nhau.
5. Dán mẫu.
a. Nhấn Ctrl+V để dán mẫu của bạn vào trong Vanishing Point.
Mẫu của bạn được dán ở góc phía trái bên trên của cửa sổ Vanishing Point.
b. Chọn công cụ Marquee (công cụ thứ ba kể từ trên xuống) và rê mẫu vào trong mặt phẳng.
Mẫu tự động chấp nhận hướng của mặt phẳng. Nếu cần, nhấn T trên bàn phím, sau đó quay và định tỉ lệ
mẫu.
6. Sao chép lại mẫu.
Trừ khi mẫu của bạn vừa khít, bạn cần sao chép lại nó để tô mặt phẳng. Với công cụ Marquee đã chọn, nhấn
giữ phím Alt. Sau đó nhấp và rê trong mẫu để sao chép lại nó. Lặp lại khi cần thiết để tô mặt phẳng. Như
bạn thấy ở hình dưới, bạn có thể sao chép lại một mẫu nhỏ tương đối để tô một vùng lớn.
102
Nếu độ sáng trong ảnh gốc của bạn thay đổi, xác lập menu pop – up Healing (ở đầu cửa sổ, chỉ với công cụ
Marquee kích hoạt) sang Luminance. điều đó giúp duy trì độ sáng ban đầu trên mẫu hay kết cấu mới.
7. Nhấp OK để thoát khỏi Vanishing Point và áp dụng mẫu hay kết cấu cho ảnh của bạn.
Sau khi thoát khỏi Vanishing Point, bạn có thể cần thực hiện một số việc tinh chỉnh ảnh của bạn với công cụ
Clone Stap (phụ thuộc vào độ chính xác mà bạn có khi rê). Bạn cũng cod thể cần thêm một lớp và tô một
vùng sáng và tổi để tái tạo độ sáng ban đầu trong cảnh.
Đây là một số thủ thuật để làm việc với Vanishing Point:
- Tạo các mặt phẳng chính xác, sau đó rê: Nhấp ở bốn góc của bất kỳ vùng nhận dạng nào của mặt phẳng
– có lẽ một cửa sổ và rê các điểm neo cạnh hướng ra ngoài (hay hướng vô trong) để nhận dạng toàn bộ mặt
phẳng.
- Sử dụng phím X để thu phóng: Nhấn và giữ phím X trên bàn phím để xem trước vùng thu phóng để hiển
thị vùng mà bạn đang làm việc. Nhả phím X để thu nhỏ lại.
- Nhấn phím T để biến đổi: Sau khi dán mẫu của bạn, bạn có thể nhấn T trên bàn phím và sau đó định tỉ lệ
và quay mẫu đã dán của bạn.
- Sử dụng phím Shift để rê trong lúc canh thẳng hàng: Nhấn giữ phím Shift trong khi Alt-rê để sao chép
lại mẫu của bạn. Điều này duy trì phần mới được canh thẳng hàng với phần cũ.
- Sao chép các thành phần trong ảnh: Tạo một vùng chọn với công cụ Marquee và Ctrl+Alt-rê đến vùng
bạn muốn đặt bản sao.
- Dán trên các đối tượng trong Vanishing Point: Tạo mặt phẳng. Sử dụng công cụ Marquee để chọn một
vùng mà bạn muốn thay thế, sau đó nhấn giữ phím Ctrl và rê đến một vùng mà bạn muốn dán vào trong
vùng chọn marquee.
- Tô chép trong Vanishing Point: Xác định mặt phẳng, chọn công cụ Stamp, và Alt-nhấp tại điểm nguồn.
Nhả phím Alt và di chuyển con trỏ đến điểm nơi bạn muốn bắt đầu sao chép. Khi khung xem trước được
cạnh thẳng hàng chính xác, nhấp và rê để sao chép.
- Sơn trong phối cảnh: Với một mặt phẳng đã xác định, công cụ Brush trong Vanishing Point thu nhỏ hay
phóng to phụ thuộc vào phối cảnh mặt phẳng của bạn.
- Làm việc trên một lớp trống: Bạn có thể thêm một lớp trống trong Palette Layers trước khi vào
Vanishing Point. Kết quả của bạn được thêm vào lớp mới, điều này cho bạn làm việc với chế độ hoà trộn và
độ mờ đục để trộn mẫu của bạn vào trong mẫu gốc.
3. Kết hợp các ảnh tự động
103
Bạn có vài đặc tính trong Photoshop CS6 tự động kết hợp hai hay nhiều ảnh lại thành một ảnh đơn. Bạn có
thể kết hợp các ảnh phủ chồng thành một bức ảnh toàn cảnh, hay bạn có thể kết hợp nhiều độ phơi sáng của
cùng ảnh chụp thành một ảnh có độ phơi sáng tốt. Bạn thấy cả Photomerge và Merge to HDR trong một
menu File | Automate của Photoshop.
a. Tạo bức ảnh toàn cảnh
Đôi khi một ảnh chụp nhanh không mô tả đúng một cảnh. Đối với các trường hợp này, chụp một loạt các
ảnh và kết hợp chúng thành một bức ảnh toàn cảnh lớn với Photomerge.
Bước đầu tiên trong việc sử dụng Photomerge là chụp các ảnh phù hợp. Đây là một số thủ thuật.
- Sử dụng một giá đỡ với tầm ngấm thích hợp: Sử dụng một giá đỡ, đảm bảo giá đỡ đứng vững và có tầm
ngấm sao cho các ảnh riêng biệt được canh thẳng chính xác.
- Tắt tính năng phơi sáng tự động: Nếu bạn sử dụng đặc tính phơi sáng tự động của camera, mỗi ảnh thực
sự được phô bày khác bởi vì độ sáng trong khung. Thay vào đó, hãy phơi sáng bức ảnh chính giữa (hay
quan trọng nhất) và sử dụng cùng các xác lập cho tất cả các ảnh chụp.
- Đừng sử dụng auto – focus ống kính thu phóng: Auto-focus có thể thay đổi thừa số thu phóng của ống
kính. Thay vào đó, xác lập ống kính đến tiêu cự bằng tay sau khi sử dụng auto-focus trên bức ảnh quan
trọng nhất của bạn.
- Phủ chồng theo 25%: Một phần tư của mỗi ảnh chụp được phủ chồng để Photomerrge có đủ nét tương tự
giữa các ảnh lân cận.
Khi làm việc với các ảnh được phơi sáng chính xác và có sự phủ chồng phù hợp, Photomerge được tự động
hoá hoàn toàn. Bạn mở Perspective, chọn các ảnh bạn muốn sử dụng, nhấp OK, đợi và quan sát điều kỳ diệu
khi các thành phần được đặt theo thứ tự, được canh thẳng hàng và được hoà trộn. Đôi khi Photomerge yêu
cầu một sự trợ giúp nhỏ, và bạn cần rê ác phần nhỏ theo vị trí. (Đặt các ảnh theo thứ tự chính xác trong ngăn
ở bên trên trước khi rê chúng vào trong cửa sổ chính để canh thẳng hàng). Sau đó Photomerge cố tạo một
tổng thể duy nhất.
Sử dụng nút Save Composition As ở phía phải bên trên của cửa sổ Photomerge để lưu toàn cảnh, và bạn có
thể quay trở lại sau đó để kết thúc thực hiện các thay đổi. Và hãy lưu ý đặc biệt đến hộp kiểm Keep as
Layers ở phía phải bên dưới. Lựa chọn hộp kiểm này để bạn có thể canh thẳng hàng sau đó khi cần thiết và
sử dụng các phần điều chỉnh để tinh chỉnh sự hoà trộn.
Khi tạo một bức ảnh toàn cảnh của một căn phòng hay một cảnh khác, hãy sử dụng tuỳ chọn Perspective.
Theo mặc định Vanishing Point (điểm xa nhất) được giả định nằm ở tâm. Nếu không, chọn công cụ Set
Vanishing Point (thứ ba trên phía trái) và nhấp ảnh đúng. Khi bạn sử dụng tuỳ chọn Perspective, ảnh của
bạn có thể xuất hiện ngay chính giữa. Cho phép tuỳ chọn Cylindrical Mapping để cho thấy đỉnh, đáy và
khoảng cách cảm nhận được.
104
b. Kết hợp các độ phơi sáng cho các ảnh
Một tính năng khá chuyên biệt, lệnh Photoshop CS6 Merge to HDR tạo một ảnh ghép của hai hay nhiều độ
phơi sáng của cùng ảnh chụp, chụp các phần được phơi sáng tốt nhất của mỗi ảnh. Ví dụ, bạn có thể chụp
hai ảnh của một căn phòng, một ảnh được phơi sáng cho chính căn phòng và ảnh khác được phơi sáng để
chụp chi tiết của hiện trường bên ngoài cửa sổ. Merge to HDR lấy phần đẹp nhất của cả hai ảnh và tạo một
ảnh đơn. Sau đây là cách thực hiện.
1. Chọn lệnh File | Automate | Mere to HDR Pro.
Hộp thoại Merge to HDR xuất hiện.
2. Chọn các ảnh để sử dụng.
Đảm bảo hộp kiểm Attempt to Automatically Align Source Images được đánh dấu.
105
3. Nhấp OK để mở Merge to HDR.
Ở góc phải bên trên của cửa số Merge to HDR là tuỳ chọn Git Depth được tạo một ảnh 16 bit hay thậm chí
một ảnh 8 bit có thể sử dụng được hơn là các ảnh 32 bit/mặc định kênh HDR. Bạn cũng có thể điều chỉnh
ảnh bằng cách rê thanh trượt Set White Point Preview. Nói chung, thanh trượt nằm bên dưới cạnh phải của
histogram, nơi histogram bắt đầu xuất hiện.
Ở hình dưới đây, bạn thấy hai ảnh nguồn ở phía trái bên dưới. Ảnh được trộn ở chính giữa sử dụng các vùng
sáng của hai hình ảnh gốc để tạo nhiều chi tiết ảnh.
Nếu bạn chọn để sử dụng tuỳ chọn 32 bit/kênh, bạn có thể lưu ảnh ra một trong ba dạng file dưới đây:
- PSD (Photoshop)
- PSB (Dạng Large Document của Photoshop, nếu được kích hoạt trong Preferences của Photoshop)
- TIFF
Nhớ rằng không có nhiều chương trình sử dụng các ảnh 32 bit/kênh, và thậm chí các tính năng hiệu chỉnh
của bạn trong Photoshop cũng giới hạn.
4. Thêm các hiệu ứng mỹ thuật và sáng tạo
Chắc chắn bạn muốn tô màu nâu cọ một lớp, sử dụng bộ lọc Add Noise (Gaus sian Distribution,
Mônchrrome), và sau đó áp dụng một bộ lọc Motion Blur để tạo một hiệu ứng xớ gỗ hơn là bạn áp dụng
một bộ lọc đã tô xá vào một ảnh CMYK, áo dụng nó với một kênh, và sau đó với ba kênh riêng biệt nhờ sử
dụng Ctrl+F. Sau đây là một số thủ thuật sáng tạo thường được sử dụng.
a. Làm nhẵn da hoàn toàn
106
Khi bạn nhìn thấy các ảnh chụp lôi cuốn, bạn biết đó là những bức ảnh của những người đẹp dường như cực
kỳ hoàn hảo. Một trong những điều bạn không thấy là kết cấu của da. Không có nếp nhăn. Thực tế, da xuất
hiện với độ nhẵn hoàn toàn.
Đây là cách bạn có thể đạt đến hiệu ứng đó mà không làm mờ:
1. Mở một bản sao của ảnh.
Bất cứ khi nào bạn sử dụng một kỹ thuật để thực hiện các thay đổi hoàn hảo với các pixel trong ảnh, bạn
nên làm việc trên một bản sao. Điều này giúp bạn bảo toàn ảnh gốc, nó không những giúp bạn tránh khỏi sai
sót mà còn giữ ảnh gốc nguyên vẹn khi dùng các kỹ thuật và thủ thuật khác trong tương lai.
2. Thêm một lớp mới bằng cách nhấp núp New Layer trong Palette Layers,
3. Tạo một vùng chọn.
Vùng chọn nên cách xa vùng gương mặt, và nên định kích cỡ ít nhất một nửa chiều rộng và chiều cao trên
gương mặt.
4. Tô vùng chọn với màu.
Nhấn Alt-Backspace để tô nó với một foreground: Sau đó huỷ chọn.
5. Chọn Healing Brush và xác lập điểm nguồn.
Đảm bảo rằng tuỳ chọn Use All Layers được chọn thanh Options và Aligned được huỷ chọn. Alt-nhấp ở
tâm của vùng chọn đã tô.
6. Tô trên da.
Nhấp và rê với Healing Brush thay kết cấu da bằng kết cấu của vùng nguồn (nhẵn). Sử dụng các nét tô ngắn
theo đường viền của gương mặt. Chắc rằng bạn không tô trên chân mày, mũi, môi, và các vùng khác có chi
tiết quan trọng.
b. Chuyển từ một ảnh chụp sang một bức vẽ
Bạn có hàng chục cách để tạo một hiệu ứng “họa sĩ” trong Photoshop. Sau đây là một trong những ảnh
thường được sử dụng.
1. Mở một bản sao của ảnh
2. Chọn các bóng và độ mở.
Mở Palette Channels và Ctrl-nhấp kênh ở phía trên (RGB hay CMYK hay Lab) để tạo một vùng chọn phụ
thuộc vào độ chiếu sáng của mỗi pixel.
107
Sử dụng phím tắt Ctrl+Shift+I để biến đổi vùng chọn (chọn các bóng hơn là các điểm nổi bật). Áp dụng
Gaussian Blur nhẹ, có lẽ 1 hay 2 pixel, để làm mờ chi tiết trong các vùng tối hơn (Nhớ rằng bạn có thể sử
dụng phím tắt Ctrl+H để làm cho biên vùng chọn biến mất, đây không phải là một thủ thuật)
3. Chọn các điểm nổi bật và độ sắc nét.
Sử dụng phím tắt Ctrl+Shift+I để đảo ngược lại vùng chọn (chọn các điểm nổi bật). Áp dụng bộ lọc Sharpen
| Smart Sharpen với các xác lập ban đầu của Amount: 200% và Radius: 2 pixels (Điều chỉnh các giá trị để
trường hợp nội dung của ảnh và khiếu mỹ thuật của bạn).
108
Hộp thoại của bộ lọc xuất hiện như hình dưới đây:
4. Thêm một kết cấu canvas vào ảnh.
Huỷ chọn với phím tắt Ctrl+D (Để kết cấu được áp dụng vào toàn bộ ảnh), sau đó sử dụng bộ lọc Filter
Gallery | Texturizer để thêm kết cấu canvas, cải tiến hiệu ứng “họa sĩ”.
109
Hộp thoại bộ lọc xuất hiện
c. Tạo một dạng phác thảo từ một ảnh chụp
Mô phỏng một bức vẽ trong Photoshop là tuyệt vời, nhưng đôi khi bạn có thể cần một bản phác thảo.
Photoshop có vài bộ lọc thực hiện tốt việc tạo các bản phác thảo bằng bút chì. Đây là một cách dễ để tạo các
đường nét phác thảo từ một ảnh chụp.
1. Mở một bản sao của ảnh.
110
Đây là một kỹ thuật huỷ tạo nó tạo ra các thay đổi vĩnh viễn cho các pixel trong file, vì thế hãy làm việc từ
một bản sao để bảo đảm an toàn.
2. Áp dụng bộ lọc với Quality: High và Mode: Normal, và sử dụng các xác lập để loại bỏ tất cả chi tiết nhỏ
trong ảnh nhưng vẫn duy trì các mép và các chi tiết quan trọng trên ảnh.
Hộp thoại bộ lọc xuất hiện như hình dưới đây:
111
3. Xác định các mép với Smart Blur.
Mở lại hộp thoại Smart Blur và xác lập menu pop-up Mode sang Edge Only. Điều chỉnh các thanh trượt đến
khi khung xem trước white-on-black hiển thị lượng chi tiết phù hợp bạn muốn có trong ảnh sau cùng sau đó
nhấp OK.
112
4. Biến đổi các màu.
Sử dụng phím tắt Ctrl+Shift+I để hoán đổi đen và trắng trong ảnh.
5. Làm mờ các đường.
Áp dụng Gausian Blur 1 hay 2 pixel để làm mềm các mép của các đường.
113
Hộp thoại bộ lọc xuất hiện như hình dưới
6. Điều chỉnh độ dày của các đường với Levels.
Hộp thoại Level xuất hiện như hình dưới:
114
Trong hộp thoại Levels, rê mục điều khiển thanh trượt giữa sang trái phải đến khi bạn cảm thấy hài lòng với
diện mạo của ảnh. Nếu muốn bạn có thể tinh chỉnh lại bản phác thảo với bộ lọc Sharpen | Unsharp Mask.
Hộp thoại bộ lọc xuất hiện như hình dưới:
115
116
Bài 8 – Tinh chỉnh ảnh và tạo hiệu ứng
1. Hoàn chỉnh các bức chân dung
Đôi khi bạn chụp các bức ảnh đẹp và đôi khi bạn chụp các bức ảnh không đẹp, xétvà tính nghệ thuật đó là
điều tất nhiên. Mặc dù chụp với độ xác thực tuyệt đối là mục tiêu cảu một số nhà mỹ thuật và phần lớn các
nhiếp ảnh gia, nhưng bạn và Photoshop có thể làm cho các bức ảnh của mình có vẻ đẹp hốn với thực tế.
Trong bài học này, bạn sẽ tìm hiểu một số kỹ thuật cơ bản để xử lý các lỗi thường gặp phải của một nhiếp
ảnh gia. Bạn sẽ tìm hiểu cách để loại bỏ hiệu ứng mắt đỏ (red-eye) xấu xuất hiện khi đèn chớp camera của
bạn phản chiếu các mạch máu ở phía sau của mắt. Bạn cũng sẽ học một số thủ thuật để loại bỏ các nếp
nhăn, làm trắng răng và làm cho các đường eo gãy gọn hơn. Và ở phía cuối bài bạn cũng sẽ học cách để loại
bỏ một số khiếm khuyết lớn hơn trong các ảnh. Và ở bài này, bạn sẽ sử dụng các ví dụ thực tế, các loại ảnh
mà bạn có thể làm việc với chúng sau này.
2. Làm cho các ảnh đẹp hơn
Bạn có thể làm nhiều điều trong Photoshop để cải thiện các ảnh của mình chẳng hạn chỉnh sửa các lỗi
khiếm khuyết khi chụp ảnh người. Dù đó là bức chân dung được chụp trong studio hay một ảnh chụp nhanh,
bạn cũng cần tinh chỉnh đôi chút để làm cho chủ thể trong bức ảnh của bạn có vẻ đẹp hơn. Về mặt lý thuyết
mặc dù bạn có thể làm cho hầu như bất kỳ người nào cũng có vẻ đẹp hơn so với thực tế nhờ sử dụng
Photoshop, nhưng bạn phải nhờ cân bằng giữa việc cải thiện với độ xác thực. Luôn luôn làm việc trên một
bản sao của ảnh. Bạn cũng nên nhớ lưu các bản sau tách biệt tại các bước khác nhau trong tiến trình hiệu
chỉnh. Khách hàng có thể nói anh ta muốn các nẹp răng được loại bỏ khỏi răng của mình, nhưng sau khi bạn
đưa ra sản phẩn hoàn tất, anh ta có thể thay đổi ý định.
a. Loại bỏ mắt đỏ
Khi một chủ thể nhìn thẳng vào camera và đèn chớp của camera nháy lên kết quả thường có mắt đỏ. Điều
này xảy ra khi ánh sáng (đèn chớp) chiếu vào các mạch máu ở phía sau của một mắt và làm cho chủ thể có
một diện mạo hơi xấu. Trong số nhiều cách để giảm thiểu sự cố này là dùng Photoshop CS6 với công cụ
Red Eye mới.
Phóng to và nhấp một lần với công cụ để quan sát vệt đỏ biến mất, để lại các vệt sáng tự nhên và một con
mắt hoàn hảo. Như bạn thấy ở hình dưới đây, các xác lập mặc định thì tuyệt vời ngay cả đối với các trường
hợp nghiêm trọng của mắt đỏ.
117
Công cụ Red Eye tìm thấy vệt đỏ, không phải xanh. Đối với mắt xanh (green-eye) (trong các ảnh của các
con vật) và các phản chiếu quá sáng từ các mép, sử dụng cọ Brush.
Xác lập màu tiền cảnh sang đen; trong thanh Options, chọn chế độ Luminosity và Opacity (một độ mờ đục)
khoảng 50%. Sử dụng một cọ với đường kính phải lớp hơn cọ thường và một cọ có độ cứng khoảng 75%.
Nhấp một lần và đánh giá kết quả; nếu cần thết, giảm Opacity đến 20% và nhấp lại.
Đây là một thủ thuật chỉnh red-eye/green-eye: Công cụ Sponge, xác lập đến Desaturate trong thanh Options,
thực hiện tốt việc chỉnh các trường hợp của mắt đỏ (red-eye).
b. Làm mờ các nếp nhăn
Ở bài trước có một ví dụ minh họa về cách sử dụng công cụ Dodge để làm mờ nhạt các vệt nhăn mà không
118
loại bỏ chúng hoàn toàn. Photoshop có nhiều cách để giảm thiểu hay loại bỏ các nếp nhăn. Các công cụ
mạnh nhất cho công việc này là Healing Brush, công cụ Patch, và Clone Stamp.
Cả Healing Brush và công cụ Patch đều làm việc bằng cách sao chép kết cấu từ một vùng này sang vùng
khác. Ví dụ, bạn có thể sao chép nếp da thẳng sang vùng da bị nhăn, làm thẳng các nếp nhăn trong khi vẫn
duy trì tông màu và màu chung của vùng. Để làm việc với Healing Brush, hãy nhấp Alt+nhấp vùng mà bạn
muốn sao chép, sau đó nhấp và rê qua vùng mà bạn đang chỉnh sửa. Khi bạn chọn tuỳ chọn Aligned từ
thanh Options bạn duy trì mối liên hệ giữa điểm mà bạn đang chỉnh sửa và vùng mà bạn rê. Cho dù bạn di
chuyển con trỏ đến đâu, điểm nguồn vẫn cùng khoảng cách và hướng. Tuy vậy, khi sửa chữa các vùng cùng
khuôn mặt, bạn có thể thấy nó dễ dàng hơn để xoá hộp kiểm Aligned. Mỗi lần bạn nhả nút chuột, bạn lại bắt
đầu từ điểm nguồn. Bằng cách sử dụng các nét ngắn, bạn có thể chỉnh sửa từ cùng vùng nguồn đến bất kỳ
vùng nào của ảnh.
Để làm việc với công cụ Patch, tạo một vùng chọn (sử dụng bất kỳ các kỹ thuật chọn của Photoshop) và sau
đó rê với công cụ Patch. Phụ thuộc vào tuỳ chọn mà bạn chọn từ thanh Options, bạn có thể hoặc chọn và rê
vùng bị tổn hại hoặc một vùng đẹp (Chọn Source từ thanh Options), hay bạn có thể chọn một vùng đẹp và
rê đến vùng bị tổn hại (chọn Destination). Bạn có thể sử dụng cả hai Healing Brush và công cụ Patch để áp
dụng một kết cấu đã xác định trước. Công việc này có thể thực hiện bằng tay cho việc thêm một kết cấu
không thực hiện có trong ảnh của bạn.
Cũng giống với Healing Brush, bạn nhấn Alt - nhấp với Clone Stamp để xác lập vùng mà bạn đang sao chép
và sau đó tô trên một vùng để thực hiện sự thay đổi. Healing Brush sao chép kết cấu, nhưng Clone Stamp
sao chép các pixel, thay thế hoàn toàn vùng mà bạn rê. (Tất nhiên, đó là chủ thể với chế độ hào trộn và độ
mờ đục mà bạn chọn từ thanh Options). Tương tự với Healing Brush, Clone Stamp cung cấp tuỳ chọn
Aligned.
119
Hình trên biểu thị sự so sánh về sự hạn chế nếp nhăn khi sử dụng Healing Brush và Clone Stamp được xác
lập sang Normal và độ mờ dục 100%. (Nếu bạn sử dụng Clone Stamp để sửa chữa da, hạn chế độ mờ đục
và đảm bảo chọn một vùng nguồn của độ sáng và màu da tương tự).
c. Giảm thiểu chỗ lồi trong ảnh bằng kỹ thuật số
Bạn có thể sử dụng công cụ Clone Stamp để giảm bớt chỗ nhô ra ở đường eo hoặc bên dưới một bắp tay,
nhưng bạn có thể thấy dễ dàng hơn để tạo một vùng chọn và quay mép bên ngoài hướng vô trong một chút.
Ở hình trên tạo một vùng chọn với công cụ Lasso chứa một số nền và da (hay áo). Ctrl+T để vào Free
Transform (hay sử dụng lệnh Edit | Transform | Rotate). Rê điểm quay (point of rotation) (ký hiệu chữ thập
nhỏ ở giữa hộp biên) lên phía trên của hộp biên, sau đó định ví trí con trỏ phải nằm bên ngoài hộp biên và rê
để quay. Khi bạn đã hài lòng, nhấn Enter để chấp nhận sự biến đổi.
Khi xử lý các cằm đôi, cách tốt nhất là giảm thiểu hơn là xoá bỏ nó. Việc đặt một chiếc cổ gầy dưới một
gương mặt béo sẽ tạo vẻ không tự nhiên. Bạn có thể xén bớt các phần ngoài của cằm thứ hai một chút bằng
cách sử dụng chế độ quay, nhưng dựa vào công cụ Burn để làm sậm nó. Bằng việc làm sậm chỗ thịt dư dưới
cằm, bạn làm nó xuất hiện dưới dạng bóng – và dưới cằm thực.
Sử dụng công cụ Dodge (nếu cần) để ẩn bất kỳ nếp gấp nào liên quan với chiếc cằm béo. Xác định lại cằm
120
và các đường nét tự nhiên nhưng nhớ rằng kết quả không phải có vẻ tự nhiên mà còn phải làm cho khách
hàng của bạn chấp nhận được.
Khi làm việc với các công cụ Burn và Dodge, đừng quên giảm các xác lập Exposure trong thanh Options –
15%-20% thì đủ mạnh cho loại công việc này. Bạn cũng sẽ muốn điều chỉnh giữa Highlights và Midtones
(xác lập Range Burn trong thanh Options) khi tạo một bóng giả trên một cằm đôi bằng công cụ Burn. Phóng
to khi thực hiện loại công việc này, nhưng cũng mở một cửa sổ thứ hai qua Window | Arrange | New
Windows dùng cho [tên file] để theo dõi sự tác động tổng thể của các thay đổi.
Bạn có thể sử dụng đặc tính Fiter | Liquify… của Photoshop để kéo, đẩy, xoán, làm nhăn, phồng lên, và
thao tác các pixel theo dạng và vị trí bạn cần.
Hình ảnh khi sử dụng công cụ trong menu Filter
Thực sự chẳng có gì mạnh hơn khi thực hiện việc cấu hình lại một hình ảnh. Ở hình trên, bạn thấy khuôn
mặt đã được co lại cho phù hợp, và thanh thoát hơn.
121
d. Sự phải chiếu qua kính
Các loại kính đeo mắt thường là một cơn ác mộng của nhiếp ảnh gia! Sự phản chiếu qua kính thường là các
điểm nổi bật phản chiếu (specular highlights) có nghĩa là các vùng trắng trong suốt tuyệt đối không có chi
tiết nào trong chúng. Để đánh giá chính xác sự phản chiếu đèn trong cá kính đeo mắt, mở Palette Info và di
chuyển con trỏ qua vùng. Nếu bạn thấy một sự thay đổi đáng chú ý giữa các giá trị RGB trong Palette Info,
bạn có thể phục hồi vùng này bằng công cụ Burn.
Nếu Palette Info biểu thị các giá trị RGB là 255/255/255 hoặc tương đương, vùng này không có chi tiết. Sử
dụng công cụ Clone Stamp để sao chép trên vùng từ phần khác của ảnh. (Hay bạn có thể sử dụng ảnh khác
như là điểm nguồn cho Clone Stamp).
e. Làm trắng răng
Nói chung răng không thực sự trắng lắm. Hãy quan sát các bóng ngà và vàng trong răng. Sử dụng công cụ
Dodge để làm sáng răng. Từ thanh Options, xác lập công cụ với Midtones (không phải Highlights) và một
Exposure có lẽ 30% dùng cho các răng cửa.
Sau đó chuyển đổi đến Shadows và làm sáng các răng cửa, răng hàm hiển thị phía sau. đừng phóng đại quá.
Hình trên minh họa hàm răng của những người bình thường, hàm răng của những người bình thường “được
cải thiện”, và hàm răng của các diễn viên Hollywood. Cân bằng phần điều chỉnh của bạn theo các nhu cầu
của khách hàng.
3. Giảm nhiễu trong các ảnh
Việc chuyển từ phòng tối sang dạng kỹ thuật số đã giúp tiết kiệm khá nhiều tiền để sửa phim và các phí tổn
xử lý nhưng lại bổ xung một tập hợp các thách thức mới vào mỹ thuật và ngành kinh doanh nhiếp ảnh. Có lẽ
dẫn đầu trong số các lỗi thường gặp của kỹ thuật chụp ảnh số là hiện tượng nhiễu. Đỏ, xanh, và xanh da trới
(hay sáng và tối) lẫn trộn trong một ảnh có thể hư một ảnh kỹ thuật số. Nhiễu thường thấy rõ ở các vùng
bóng và trên với các màu tối trong các ảnh của bạn.
Nếu camera cho phép bạn chọn một xác lập ISO, bạn có thể giảm nhiễu trong các ảnh bằng cách sử dụng
ISO thấp. Đôi khi bạn cần chụp nhanh như các sự kiện thể thao. Tuy vây, khi bạn có một chọn lựa, sử dụng
122
một ISO thấp để giảm nhiễu. Việc dùng giá đỡ chân khi chụp cũng giúp giảm nhiễu rất nhiều.
a. Giảm nhiễu
Photoshop CS6 bổ xung một tính năng mới để giúp tránh nhiễu. Bạn thấy bộ lọc Reduce Noise mới dưới
menu Filter | Noise.
Như bạn thấy ở hình dưới, nó thực hiện rất tốt trung hoà các pixel đỏ, xanh, và xanh da trời ngẫu nhiên
trong khi bảo tồn chi tiết trong ảnh.
Chú ý rằng Reduce Noise cũng cung cấp một tuỳ chọn Remove JPEG Artifact. Khi lưu trong dạng file
JPEG, bạn điều hoà giữa chất lượng ảnh và kích cỡ file nhỏ hơn. File càng nhỏ, khả năng gây tổ hại việc
nén đối với ảnh của bạn càng lớn. Nói chung sự tổn hại này biểu thị chính nó như là các đường hiển thị giữa
các khối của các pixel đỏ 8 pixel vuông.
Bạn cũng sẽ thấy công cụ Color Replacement tiện lợi cho việc giảm tiếng ồn, đặc biệt trong các vùng có
màu khá đồng đều. Alt + nhấp phải trong vùng để xác lập màu tiền cảnh; sau đó tách biệt vùng bị nhiễu.
Khi bạn di chuyển từ vùng này sang vùng khác trong ảnh, Alt - nhấp để chọn một màu foreground (tiền
cảnh) mới.
b. Loại bỏ hiện tượng nhiễu độ sáng
Ngoài những vết đốm nhỏ đỏ, xanh, và xanh da trời của hiện tượng nhiễu kỹ thuật số, bạn có thể gặp hiện
123
tượng nhiễu độ sáng, đây là những đốm nhỏ sáng và tối rải rác qua ảnh của bạn. Bộ lọc Surface Blur mới
của Photoshop CS6 có thể sử lý nhiễu dộ sáng, nhưng bạn có nhiều điều khiển hơn qua kết quả khi làm việc
với bộ lọc Blur | Smart Blur.
Không giống với Surface Blur Smart Blur cho phép bạn gõ nhập các phân số cho cả hai giá trị Radius (bán
kính) và threshold.
124
Đôi khi sự khác nhau giữa một blur 1. 5 pixel và một blur 2 là sự bảo vệ chi tiết đẹp trong ảnh của bạn.
4. Loại bỏ các thành phần không cần thiết khỏi ảnh gốc
Đôi khi một bức ảnh tất đẹp lại có chứa một thành phần nào đó mà bạn lại muốn tẩy xoá nó khỏi ảnh, như là
các đường dây điện thoại ở các khoảng cách xa, một toà nhà, hay có lẽ là một người bạn muốn tẩy xoá đi.
Nói khác đi, mọi thứ trong ảnh rất đẹp, nhưng ảnh dường như sai bởi vì góc độ của ảnh được chụp.
Photoshop cung cấp cho bạn các công cụ và các kỹ thuật khác nhau để cắt xén, sao chép, làm sạch và thậm
chí chỉnh sửa phối cảnh.
a. Loại bỏ các thành phần không mong muốn
Có lẽ cách dễ nhất để loại bỏ một thành phần ra khỏi một ảnh là xén (crop) ảnh: có nghĩa là, cắt bớt một
phần của ảnh. Kỹ thuật này thì dễ nếu một mẩu rác hay bất kỳ điều gì xảy ra nằm ở góc ảnh và cắt xén sẽ
không làm hỏng tác phẩm của bạn. Tuy vậy, khi bạn phải che đậy hơn là cắt xén, hãy xem xét cả cloning
(nhân bản) và copy/paste (sao chép/ dán)
Một trong những vấn đề quan trọng khi sử dụng công cụ Clone Stamp là phải để ý đến công việc. Phóng to
để bạn có thể làm việc chính xác nhưng sử dụng Window | Arange | New Window cho lệnh [filename]. Giữ
cửa sổ thứ hai được thu nhỏ vì thế bạn có thể kiểm soát tiến độ khi làm việc. Bạn cũng muốn giữ một bản
sao của ảnh gốc mở cho việc tham chiếu. Bạn có thể tạo một bản sao của file bằng lệnh Image | Duplicate
hoặc bằng cách nhấp nút trái ở phía dưới của Palette History một bản sao của file bằng lệnh Image |
Duplicate hoặc bằng cách nhấp nút trái ở phía dưới của Palette History.
Ở hình ảnh dưới, bạn thấy ảnh gốc ở phía trái, ảnh sau khi chỉnh sửa bên phải, vùng chỉnh sửa nằm trong
khung mầu trắng.
125
- Làm việc trên một lớp tách biệt: Trước khi sao chép (cloning), nhấp nút New Layer ở bên dưới của
Palette Layers và nhấp nút Sample All Layers trên thanh Options. Bằng cách sao chép với lớp mới, bạn bảo
vệ chính bạn khỏi các sơ suất (bạn có thể luôn xoá phần của lớp bên trên) và có thể hiển thị, ẩn lớp công
việc của bạn để kiểm tra tiến độ. Nếu ảnh thực sự có nhiều lớp và bạn muốn sao chép chỉ một, ẩn các lớp
khác trong palelle Layers bằng cách nhấp các biểu tượng eyeball trong cột bên trái.
- Nếu màu hay mẫu dồng bộ, sao chép gần: Ví dụ, nếu bạn đang loại bỏ một đường dây điện bên bầu trời
xanh đẹp, sao chép từ phía phải bên trên và bên dưới đường dây điện để bạn có được sự tương hợp màu tốt
nhất. Đối với các thành phần lớn hơn, hay tinh vi hơn, bạn có thể sao chép chỉ một nửa, sao chép một nửa từ
một phía và một nửa còn lại ở mặt kia.
- Để tránh một mẫu có thể nhận ra, sao chép xa: Ở hình trên, chúng ta đã sao chép phía trên tay vịn xe
đạp ở góc phía bên dưới của ảnh từ các vị trí khác nhau để tránh tạo bất kỳ bản sao chép lại có thể nhận ra
nằm gần kề các cụm hoa hay các tảng đá. Tuy vậy, bạn nên thử sao chép từ các vùng có cùng khoảng cách
kể từ ống kính với vùng mà bạn đang sao chép, Nếu bạn sao chép từ khoảng cách xa vào trong tiền cảnh,
bạn sẽ có một sự tương hợp sai về kích cỡ có thể nhận ra và có lẽ có sự khác nhau về tiêu điểm.
- Để sao chép các vùng, hay các đối tượng, sử dụng Aligned: Ở hình trên, chúng ta đã sao chép các mảng
của các bông hoa dại, cỏ, và đá. Bằng cách sử dụng tuỳ chọn Aligned, mối liên hệ giữa điểm mà chúng ta đã
tạo mẫu và điểm mà chúng ta đã sao chép được giữ lại khi nhả nút chuột. Để chọn một điểm nguồn mới,
hãy nhấn Alt+nhấp.
- Để lặp lại một mẫu hay kết cấu, đừng sử dụng Aligned: Nếu bạn có một đối tượng đặc biệt, kết cấu hay
mẫu mà bạn muốn sao chép lại trong nhiều vùng, bạn có thể xoá chọn hộp kiểm Aligned trên thanh Options.
Mỗi lần bạn nhả nút chuột, điểm nguồn quay trở về vị trí, chính xác nơi bạn đã nhấn Alt + nhấp. Bạn có thể
sao chép cùng phần của ảnh vào trong nhiều vị trí khác nhau khi bạn chọn.
Bạn có thể thay đổi độ mờ đục và chế độ hoà trộn của công cụ. Nói chung, khi bạn che giấu một thành phần
nào đó trong ảnh, hãy sử dụng chế độ hoà trộn Normal và độ mờ đục 100%. Tuy nhiên, bạn cũng có thể
nhân bản với các chế độ hoà trộn khác và giảm độ mờ đục thay vì che giấu để đạt được các hiệu ứng đặc
biệt.
Điều chỉnh kích cỡ cọ. Nhấn các dấu ngoặc vuông mở và đóng (ở phía bên phải chữ P trên bàn phím chuẩn)
để giảm và tăng đường kính cọ mà không phải mở Palette Brushes.
Kiểm tra các xác lâp Hardness và Spacing của cọ. Để đạt được kết quả nhẵn nhất cho phần nhân bản chung,
hãy giảm xác lập Hardness của cọ xuống khoảng 25%. Nếu bạn cần một mép rõ ràng hơn cho cọ, bạn đừng
nhân bản với xâc lập Hardness trên 90%. Thay vào đó, bạn hãy vào Palette Brushes và xác lập Spacing sang
1% để bảo đảm mép càng nhẵn càng tốt.
Các thách thức lớn hơn thường cần đến các biện pháp linh động hơn, chẳng hạn như nhân đôi các lớp và các
mặt nạ lớp.
126
Sau đây là các bước cần thực hiện để loại bỏ con mèo ra khỏi đám cỏ trong bức ảnh.
1. Quyết định phần nào cần loại bỏ và cách tốt nhất để che lấp nó. Trong trường hợp ở đây, chúng ta sẽ loại
bỏ con mèo ở bên trái.
2. Tạo một vùng chọn của vùng bạn sẽ che lấp.
Chúng ta sẽ dùng vùng chọn hình chữ nhật đưa vào mọi thứ ở phía bên phải con mèo.
3. Sao chép sang một lớp mới.
Sử dụng tổ hợp phím Ctrl+J để sao chép vùng chọn sang một lớp mới.
4. Định vị trí lớp mới.
Sử dụng công cụ Move để trượt lớp mới phía trên vùng bạn muốn loại bỏ.
5. Xóa phần hình ảnh thừa.
Hình ảnh ở đây là con mèo trên bãi cỏ chúng ta dùng công cụ Eraser để xóa hình ảnh con mèo. Do đã dịch
chuyển phần cỏ ở Layer mới phía dưới sang vị trí con mèo nên khi xóa chúng ta sẽ thấy lộ ra phần cỏ mới
phù hợp với hình ảnh.
6. Tìm và điều chỉnh các hiện tượng khác thường.
Nếu có những điểm khác thường bạn tiếp tục điều chỉnh cho từng vị trí.
7. Xén (crop).
Quan sát lại ảnh giữa bên dưới ở hình ảnh, bạn thấy vùng cần được xén, nằm ngoài phía phải. Bằng cách
dùng vùng chọn hình chữ nhật của mọi thứ bạn muốn lưu và lệnh Image | Crop, sự thay đổi đã hoàn tất.
b. Loại bỏ hiện trạng nghiêng: Chỉnh sửa phối cảnh
Khi bạn chụp một bức ảnh tại một góc, có lẽ chụp theo hướng lên trên của một toàn nhà, bạn có được ảnh
foreshorteng (ảnh thu nhỏ lại ở mặt trước) với một phần ở xa của chủ thể thu nhỏ lại. Bạn có thể sử dụng
127
lệnh Photoshop Edit | Transform | Perspective để chỉnh sửa lỗi. Tạo một vùng chọn, chọn lệnh Perspective,
sau đó rê hướng ra ngoài trên một góc của cạnh để thu nhỏ lại (hay hướng vô biên trong ở góc của cạnh để
phóng lớn ra). Khi các đường dọc và ngang trong ảnh thẳng, nhấn tổ hợp phím tắt Ctrl+T để vào chế độ
Free Transform. Làm cho một chủ thể cao hơn. Như bạn thấy ở hình phía dưới, việc chỉnh sửa phối cảnh
chính xác cũng yêu cầu một phần điều chỉnh chiều cao. Nhấn Return/Ener khi kết thúc.
Bạn cũng cố thể sử dụng công cụ Perspective Crop của Photoshop để chỉnh sửa phối cản. Để có kết quả tố
nhất, định vị trí bốn góc của hộp biên ở các góc thấy được của một thành phần trong ảnh mà nó sẽ là hình
chữ nhật hay hình vuông; sau đó rê các núm điều khiển mặt hướng ra ngoài để mở rộng hộp biên bao quan
ảnh của bạn. Nhấn Enter khi đã hoàn tất. Hình dưới minh họa công cụ Crop thực hiện tốt việc điều chỉnh
chiều cao vừa khít trong phối cảnh.
c. Quay các ảnh chính xác
Nằm ẩn dưới Eyedropper trong Toolbox của Photoshop là công cụ Measure. Nói chung, bạn sử dụng nó kết
hợp với Palette Info để tìm các khoảng cách và các góc trong ảnh của bạn. Bạn cũng có thể sử dụng nó để
đảm bảo rằng bạn áp dụng một độ quay chính xác cần thiết cho ảnh. Chọn công cụ Measure, rê nó dọc theo
bất kỳ đường thẳng ngang hay dọc trong ảnh, sau đó chọn Image | Rotate Canvas | Aribitrary. Góc của công
cụ Measure sẽ đợi bạn trong hộp thoại, vì thế bạn chỉ cần nhấp OK để quay ảnh của bạn một cách chính
xác.
5. Tạo bong bóng trong bức ảnh
(Sưu tầm tại: http://www.tinhoc24h.info)
Trong phần này chúng tôi sẽ trình bày những bước cơ bản để tạo hình ảnh bong bóng trong bức ảnh bằng
công cụ Brush quen thuộc.
Trước tiên, chúng ta cần tạo mới 1 văn bản với kích thước 600 x 600 px, độ phân giải 72 pixel/inch, chế
độ Background Contents là White:
128
Lựa chọn công cụ Elliptical Marquee Tool từ bảng điều khiển Tool, hoặc nhấn nút M 2 lần:
Nhấn và giữ phím Shift + Alt (Windows) hoặc Shift + Option (Mac) và bắt đầu vẽ từ phần giữa, kéo dần
ra bên ngoài. Chúng ta sẽ có hình tròn đầu tiên:
Mở tiếp menu Layer và chọn New > Layer via Copy hoặc nhấn phím tắt Ctrl + J (Windows) / Command
+ J (Mac):
129
Photoshop sẽ thực hiện thao tác copy phần nội dung bên trong vùng chọn sang 1 lớp mới và đặt tên
là Layer 1, ngay bên trên Layer gốc trong bảng điều khiển:
Sau đó, nhấn vào biểu tượng Layer Styles ở phía dưới:
Chọn phần Inner Glow từ menu hiển thị:
130
Cửa sổ điều khiển Layer Style của Photoshop xuất hiện, các bạn thay đổi chế độ Blend
Mode từ Screen thành Multiply, có tác dụng chuyển phần Inner Glow thành Inner Shadow. Chọn tiếp
chức năng Color Swatch bên dưới chữ Noise và lấy màu đen. Và cuối cùng là chuyển Size trong
phần Elements trong khoảng 40 px.
Các bạn đừng vội nhấn OK và thoát khỏi hộp thoại Layer Style, vì chúng ta vẫn còn việc cần làm tại đây.
Đây là kết quả tạm thời của quá trình này:
131
Tiếp đó, đánh dấu check vào ô Gradient Overlay (chọn trực tiếp vào dòng chữ, chứ không phải chỉ chọn ô
checkbox):
Quá trình này sẽ thay đổi thay đổi cột giữa trong bảng hộp thoại Layer Style thành Gradient Overlay. Tại
đây, các bạn hãy chú ý phần Gradient và thay đổi lại sao cho giống hình dưới:
Tiếp theo, hộp thoại Gradient Editor hiển thị, chúng ta sẽ chọn phần Gradient có tên là Black, White như
dưới đây. Sau đó nhấn OK:
Quay trở lại hộp thoại Layer Style, tiếp tục thay đổi Style từ Linear thành Radial:
Và kết quả của chúng ta sau khi thực hiện những bước trên sẽ trông giống như thế này:
132
Vẫn mở bảng Layer Style, các bạn chọn phần giữa của hình tròn nhấn giữ chuột và kéo di chuyển tới góc
trên bên trái. Sau đó nhấn OK và đóng cửa sổ Layer Style:
Tiếp tục, chọn biểu tượng New Layer để tạo thêm 1 lớp mới:
Và sử dụng công cụ Brush Tool:
133
Chọn thông số Foreground là màu đen (hoặc nhấn phím D để thay đổi về lựa chọn mặc định), chuyển sang
chế độ Small, Soft - Edge round brush, và nhấn vào phần dưới của hình tròn để tạo thêm 1 điểm nữa như
hình dưới:
Nhấn và giữ phím Ctrl (Windows) hoặc Command (Mac) và chọn trực tiếp phần Preview Thumbnail của
Layer 1, chúng ta sẽ có toàn bộ phần lự chọn bên ngoài:
Chọn tiếp menu Filter > Distort > Pinch:
134
Bảng điều khiển chính của hiệu ứng Pinch hiển thị, thay đổi thông số Amount về phía cuối cùng bên trái:
Nhấn OK để áp dụng thay đổi và đóng của sổ, sau đó nhấn tiếp Ctrl + F (Windows) hoặc Command + F
(Mac) 2 lần để áp dụng hiệu ứng này thêm 2 lần nữa. Sau đó, nhấn Ctrl + D (Windows) hoặc Command +
D (Mac) để bỏ vùng chọn:
Kết quả tạm thời của chúng ta
135
Khi đã hoàn thành phần cơ bản của hình bong bóng, hãy lưu lại dưới dạng Brush. Mở menu Edit > Define
Brush Preset:
Hộp thoại Brush Name hiển thị, các bạn đặt tên là Bubble rồi nhấn OK:
Tiếp theo, mở bức ảnh chúng ta cần gán bong bóng vào. Ví dụ tại đây:
Nhấn vào biểu tượng New Layer ở phía dưới bảng điều khiển để tạo thêm lớp mới bên trên ảnh nền:
Chọn tiếp Brush Tool từ thanh điều khiển Tool, nhấn chuột phải (Windows) hoặc Control + click
(Mac) tại bất cứ nơi nào trên bức ảnh để mở bảng Brush Preset picker, chọn thành phần cuối cùng trong
danh sách và nhấn Enter (Windows) hoặc Return (Mac) để đóng cửa sổ này lại:
136
Tiếp tục, nhấn F5 để mở Brush, tại đây có chứa tất cả các lựa chọn của Brush Dynamics cho phép chúng
ta điều khiển hành động của Brush khi vẽ. Cũng trong bảng điều khiển Brushes đang mở, các bạn nhấn
trực tiếp vào phần Shape Dynamics:
Tăng thông số Size Jitter tới 100%, thực hiện tương tự như vậy với Roundness Jitter, và cuối cùng
là Minimum Roundness thành 25%:
Tiếp tục, chọn trực tiếp phần Scattering bên dưới Shape Dynamics, tại đây các bạn thay đổi tham
số Scatter tới khoảng 250% và đóng cửa sổ này lại:
137
Như vậy là chúng ta đã hoàn thành ¾ chặng đường, phần còn lại là to màu cho những phần bong bóng này.
Hãy đảm bảo rằng phần Foreground color đã được đổi về màu trắng (nhấn phím X):
Ở chế độ mặc định, công cụ Brush đang lựa chọn có kích thước hơi to quá, do vậy các bạn nhấn phím [ để
thay đổi. Sau đó chọn Layer 1 và bắt đầu vẽ. Nếu cảm thấy không hài lòng với sản phẩm của mình, hãy
nhấn phím tắt Ctrl + Z (Windows) / Command + Z (Mac) để quay lại bước trước, hoặc Ctrl + Alt + Z
(Windows) / Command + Option + Z (Mac) để quay trở lại nhiều bước.
Hãy cố gắng thực hiện sao cho thật tự nhiên
Nhưng tại bước này, hình ảnh bong bóng của chúng ta trông có vẻ hơi quá sắc nét so với môi trường nước.
138
Để khắc phục vấn đề này, nhấn Ctrl + J (Windows) / Command + J (Mac) để nhân đôi lớp bong bóng này
lên:
Sau đó, áp dụng hiệu ứng Gaussian Blur qua menu Filter > Blur:
Bảng điều khiển của Gaussian Blur hiển thị, thay đổi giá trị của Radius thành 8:
Nhấn OK, và hình ảnh của những chiếc bong bóng sẽ trông tự nhiên hơn rất nhiều:
139
Để hoàn thiện tác phẩm của chúng ta, các bạn hãy tạo thêm 1 lớp mới, và sử dụng Brush kích thước lớn để
thêm các luồng bong bóng, có tác dụng làm cho người xem cảm nhận được toàn cảnh của bức tranh khi ở
dưới nước:
6. Tạo hiệu ứng ảnh lồng nhau
Trong bài này chúng tôi sẽ trình bày 1 số bước cơ bản để tạo hiệu ứng ảnh lồng nhau. Mục đích chính của
chúng ta là hướng sự tập trung của người xem vào đối tượng chính, sau khi được chỉnh sửa sẽ nằm gọn bên
trong 1 khung ảnh khác.
Ảnh mẫu được sử dụng trong bài viết này
Trước tiên, chúng ta sẽ nhân đôi lớp ảnh gốc bằng chức năng Duplicate Layer hoặc sử dụng phím tắt Ctrl
+ J (Windows) hoặc Command + J (Mac), sau đó chương trình sẽ tự đổi tên lớp mới thành Layer 1:
140
Và để dễ phân biệt và xử lý trong các bước sau, các bạn nên đổi tên các lớp khác nhau. Ở đây, chúng tôi sẽ
đổi Layer 1 thành Smaller version:
Tiếp theo, chúng ta cần phải tạo thêm 1 lớp mới bên dưới Smaller version. Chọn Smaller version, giữ
phím Ctrl (Windows) hoặc Command (Mac) và chọn biểu tượng New Layer ở phía cuối bảng điều khiển:
Và Photoshop sẽ tạo mới 1 Layer nằm giữa 2 Layer có sẵn:
Tương tự như trên, chúng ta sẽ tiến hành đổi tên để dễ phân biệt với các lớp khác, ở đây là Clipping mask:
141
Từ giờ trở đi, chúng ta chủ yếu thao tác trên Layer mới này. Tiếp theo, các bạn chọn công
cụ Rectangle hoặc nhấn phím U:
Dùng công cụ này và vẽ 1 hình tứ giác xung quanh đối tượng chính:
Sau đó, các bạn sẽ thấy lớp Clipping mask từ 1 Layer bình thường đã trở thành Layer vector shape:
Tiếp theo, nhấn phím Alt (Windows) hoặc Option (Mac) và di chuyển đường kẻ giữa 2 lớp Smaller
version và Clipping mask, cho tới khi biểu tượng của con trỏ chuyển thành hình vuông với mũi tên đi
xuống.
142
Trông có vẻ như chưa có gì khác với bức ảnh của chúng ta, nhưng trong bảng điều khiển, các bạn có thể
thấy lớp Smaller version đã lùi 1 ít vào bên phải, nghĩa là nó đang được cắt bằng lớp vector shape ở ngay
bên dưới:
Vẫn tại lớp Clipping Mask này, các bạn nhấn biểu tượng Layer Styles ở bên dưới và chọn Stroke:
Cửa sổ Layer Style hiển thị, các bạn thay đổi thông số thiết lập theo hình sau:
Ở đây có 3 lựa chọn được thay đổi, đầu tiên là mục Stroke Size – có tác dụng tạo đường viền với kích cỡ
như vậy bao quanh vùng lựa chọn. Tiếp theo là Position – chuyển thành Inside để những hiệu ứng xuất hiện
phía bên trong đường viền, thay đổi Color thành white để đổ màu vào khoảng trống của đường viền:
143
Cũng trong bảng điều khiển Layer Style này, hãy chọn mục Drop Shadow – lưu ý rằng chỉ nhấn vào dòng
chữ Drop Shadow, không đánh dấu vào ô check box bên cạnh.
Việc này sẽ thay đổi lựa chọn giữa của hộp thoại Layer Style từ Stroke thành Drop Shadow. Tiếp tục, các
bạn thiết lập Opacity trong khoảng 50%, Angle thành 130° và Distance - 10 pixels:
Tiếp theo, các bạn có thể cân nhắc việc sử dụng Free Transform để xoay góc hoặc thay đổi kích thước của
đường viền xung quanh nếu muốn. Nhấn phím tắt Ctrl + T (Windows) hoặc Command + T (Mac) để bắt
đầu, nhấn và giữ nút Shift trong khi thao tác để giữ nguyên tỉ lệ của khung hình:
144
Khi cảm thấy vừa ý, nhấn Enter (Windows) hoặc Return (Mac) để áp dụng thay đổi của quá trình này.
Nếu tìm được góc xoay hợp lý với khung cảnh xung quanh, bức ảnh sẽ trở nên sống động hơn rất nhiều.
Tiếp theo là công đoạn phức tạp, sử dụng công cụ Eyedropper để lấy màu trong vùng ảnh nhỏ:
Ví dụ như tại đây, chúng ta sẽ chọn vùng màu trên chiếc mũ bảo hiểm:
Khi tiến hành lấy màu mẫu thì các bạn để ý rằng màu Foreground color của thanh công cụ đã chuyển
thành màu xanh nước biển:
145
Chọn lớp Layer1 và nhấn New Adjustment Layer trong bảng điều khiển và chọn tiếp Hue/Saturation:
Hộp thoại Hue/Saturation hiển thị, các bạn đánh dấu vào ô Colorize:
Nhấn OK để áp dụng thay đổi, chúng ta sẽ thấy hiệu ứng xuất hiện trên bức ảnh như sau:
146
Khi đã hoàn thành bước này có nghĩa là chúng ta đã gần đạt được mục đích, chỉ còn 1 bước nữa là áp dụng
hiệu ứng Radial Blur vào ảnh nền. Nhưng trước đó, các bạn cần nhân đôi lớp ảnh nền 1 lần nữa, nhấn Ctrl
+ J (Windows) hoặc Command + J (Mac), đổi tên lớp vừa tạo thành Radial Blur:
Tiếp theo, các bạn nhấn Filter > Blur > Radial Blur, hộp thoại Radial Blur sẽ hiển thị. Tại đây, chúng ta
thiết lập các thông số kỹ thuật như sau: Blur Method – Zoom, Quality – Best, Amount – 40, mục Blur
Center chỉ định hiệu ứng sẽ “xuất phát” từ vị trí nào trong vùng chọn:
Nhấn OK, và kết quả của chúng ta tại bước này sẽ trông giống như sau:
147
Tùy từng bức ảnh và thông số thiết lập khác nhau, như ví dụ ở đây, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra hiệu
ứng Blur hơi quá nhiều, do vậy sẽ cần thêm 1 số thao tác hòa trộn với lớp Background. Rất đơn giản, các
bạn chỉ cần thay đổi thông số Opacity trong khoảng 60% là vừa đủ:
Và đây là kết quả của chúng ta sau khi hoàn tất toàn bộ các bước hướng dẫn trên:
7. Tạo hiệu ứng phóng to trong bức ảnh
Trong bài này chúng tôi sẽ hướng dẫn các bạn một số thao tác cơ bản để tạo hiệu ứng phóng to với bất kỳ
bức ảnh nào. Cụ thể tại đây, chúng ta sẽ sử dụng bộ lọc Radial Blur của Photoshop, và một số thủ thuật với
Layer Mask và Gradient Tool.
148
Ảnh mẫu được sử dụng trong bài thử nghiệm của chúng ta:
và kết quả đạt được sau khi áp dụng:
Trước tiên, các bạn phải nhân đôi lớp Layer gốc của bức ảnh, để những thao tác sau được áp dụng trên 1 lớp
riêng biệt. Chọn menu Layer và New > Layer via Copy, hoặc sử dụng phím tắt Ctrl + J (Windows) /
Command + J (Mac) trên bàn phím:
Khi nhìn vào bảng điều khiển chính, chúng ta sẽ thấy 2 Layer: một ở dưới (Layer gốc) và Layer 1 (tạo mới)
ở trên:
149
Lựa chọn Layer 1 và mở menu Filter > Blur > Radial Blur:
Cửa sổ điều khiển Radial Blur của Photoshop hiển thị với 2 lựa chọn chính trong phần Blur Method là
Spin và Zoom. Tại đây, chúng ta sẽ sử dụng Zoom với thông số Amount là 50 và Quality – Best:
Nhấn OK để áp dụng hiệu ứng và đóng cửa sổ này lại, chúng ta sẽ có tác phẩm tạm thời như sau:
150
Tùy thuộc vào cấu hình máy tính và các thiết lập khác thì quá trình áp dụng này sẽ diễn ra nhanh hoặc chậm
Nếu cảm thấy chưa hài lòng với kết quả này, hãy sử dụng chức năng Undo Radial Blur trong
mục Edit hoặc nhấn phím tắt Ctrl + Z (Windows) / Command + Z (Mac):
Sau đó, áp dụng lại hiệu ứng trên bằng tổ hợp phím Ctrl + Alt + F (Windows) hoặc Command + Option
+ F (Mac), chọn giá trị Amount khác, thay đổi vị trí trong ô Blur Center... thực hiện các bước này cho đến
khi bạn cảm thấy vừa ý.
Tuy nhiên, vấn đề chính khi chúng ta sử dụng hiệu ứng này là Blur đã che phủ toàn bộ bức ảnh, không thực
sự phù hợp với ý tưởng của bài thử nghiệm. Cụ thể, tại đây, chúng ta cần làm rõ phần khuôn mặt của em bé,
chứ không phải tất cả khung cảnh. Vẫn chọn Layer 1, nhấn vào biểu tượng Layer Mask ở dưới khay hệ
thống:
Khi nhìn vào bức ảnh chính, mọi người sẽ không thấy hiện tượng gì xảy ra. Nhưng trong cửa sổ điều khiển
chính của Layer, các bạn sẽ nhìn thấy 1 hình chữ nhật màu trắng bên cạnh, đó là đã tạo thành công lớp
Layer Mask:
151
Tiếp theo, lựa chọn công cụ Gradient Tool từ bảng Tools hoặc nhấn nút G trên bàn phím:
Sau đó, nhấn chuột phải trong Windows hoặc Control + click (Mac) tại bất cứ vị trí nào trên bức ảnh để
hiển thị bảng Gradient Picker, tại đây các bạn chọn phần Black to White (xếp thứ 3 từ trái sang phải, hàng
trên cùng):
Để làm hiển thị rõ phần khuôn mặt, chúng ta sẽ phải kéo chuột từ phần giữa ra bên ngoài. Cụ thể, ở đây
chiếc mũi được chọn làm phần trung tâm, từ từ kéo chuột từ đây ra bên ngoài bên trái (theo hình dưới):
Do thao tác này được thực hiện trên phần Layer Mask, do vậy sẽ không có sự thay đổi nào trên Layer 1.
Thay vào đó, kết quả này sẽ được hiển thị trực tiếp trên lớp Layer Mask vừa tạo:
152
Mặc dù chúng ta không thể nhìn thấy phần Gradient trong cửa sổ chính, nhưng lại rất rõ ràng qua Layer
Mask. Phần diện tích màu đen bên trong được ẩn đi, và các thành phần Gradient này trở nên sáng hơn về
các góc, còn toàn bộ phần màu trắng chính là những gì chúng ta đang nhìn thấy:
Trong trường hợp hiệu ứng Blur này quá “mạnh”, hãy giảm độ Opacity của Layer 1 xuống tới mức phù hợp.
Cụ thể tại đây, chúng tôi thay đổi về mức 70%:
Và đây là kết quả hoàn thiện của chúng ta:
153
8. Tạo hiệu ứng gợn nước trong bức ảnh
Trong bài này chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu và thực hành những bước cơ bản để tạo bức ảnh với mặt nước
đang chuyển động và gợn sóng. Thực chất, Photoshop đã có sẵn 1 số bộ lọc để tạo hiệu ứng như trên, nhưng
người sử dụng sẽ không thể đoán được từ tên của filter đó (không phải Ripple hoặc Ocean Ripple) nếu
không tham khảo bài viết dưới đây.
Ảnh mẫu được sử dụng tại bài thử nghiệm này
Và đây là kết quả sau khi chúng ta hoàn thành:
154
Trước tiên, chúng ta sẽ vẽ 1 vùng bất kỳ trên bức ảnh, nơi những gợn nước sẽ xuất hiện. Chọn công
cụ Elliptical Marquee Tool tại thanh menu hoặc nhấn phím M 2 lần:
Sau đó, di chuyển vùng lựa chọn này vào vị trí phù hợp của bức ảnh, tùy từng đối tượng và các thành phần
xuất hiện mà chúng ta sẽ có những sự lựa chọn khác nhau. Ví dụ tại đây:
155
Giữ nguyên vùng lựa chọn này, các bạn nhấn Ctrl + J (Windows) hoặc Command + J (Mac) 2 lần để tạo
2 bản sao khác nhau:
Để tiếp tục, chúng ta cần tạm ẩn phần Layer trên cùng (ở đây là Layer 1 copy) bằng cách nhấn vào biểu
tượng hình con mắt phía bên trái:
Và làm việc với lớp ngay bên dưới:
156
Tiếp tục, giữ phím Ctrl (Windows) hoặc Command (Mac) và chọn lớp cần thao tác (tại đây là Layer 1):
Quá trình này sẽ tạo ra 1 vùng chọn lựa khác bao quanh phần chính của Layer 1, nghĩa là vùng lựa chọn bên
ngoài mà các bạn vừa vẽ tại bước trên sẽ xuát hiện trở lại. Lý do tại sao chúng ta lại phải làm như thế này
trước khi áp dụng hiệu ứng từ filter là vì nếu làm ngược lại thì Photoshop sẽ áp dụng toàn bộ hiệu ứng lên
tất cả các lớp và ảnh gốc:
Và đây là phần chính của quá trình này, đó là việc áp dụng hiệu ứng sao cho hợp lý. Để tạo được hiệu quả
như ý muốn, chúng ta cần sử dụng filter có tên là ZigZag (không phải là Ripple hoặc Ocean Ripple). Các
bạn chọn Filter > Distort > ZigZag trong danh sách hiển thị:
157
Bộ lọc này làm việc bằng cách biến những chi tiết trong vùng lựa chọn thành những gợn sóng nước. Tại
phần dưới của bảng điều khiển là mục Style – các cách tương ứng để tùy chỉnh hiệu ứng của Photoshop. Có
3 lựa chọn chính: Around Center, Out From Center và Pond Ripples (mặc định), tương ứng với đó là 3
hiệu ứng khác nhau, và phụ thuộc và diện tích của vùng lựa chọn mà người sử dụng sẽ đưa ra phương án áp
dụng phù hợp nhất của riêng họ:
Phần điều khiển Amount có tác dụng thay đổi “cường độ” của các gợn nước sẽ xuất hiện, trong khi thông
số Ridges ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng của gợn nước. Hãy chú ý và dựa vào cảm giác, trực quan của
riêng mình để quyết định phương án nào là thích hợp hơn cả (hiệu ứng sẽ không được áp dụng thật sự cho
đến khi bạn nhấn nút OK). Trong bài thử nghiệm này, chúng tôi áp dụng ZigZag 2 lần với thông số Ridges
12,Amount 70 và Style là Pond Ripples:
158
Nhấn OK, và chúng ta sẽ có kết quả tương tự như sau:
Sau đó, chúng ta sẽ cho hiển thị lại lớp Layer trên cùng (ở đây là Layer 1 copy) để tiến hành bước tiếp
theo:
Tại đây, chúng ta sẽ áp dụng bộ lọc ZigZag lại lần nữa. Nhấn phím tắt Ctrl + Alt + F (Windows) hoặc
Command + Option + F (Mac) để sử dụng bộ filter vừa dùng gần đây nhất. Cụ thể lần này vùng áp dụng
hiệu ứng sẽ là phần trung tâm của “vũng nước” vừa tạo ra ở bước trên, do vậy hãy chuyển
mục Style về Out From Center, Ridges thành 4 và Amount thành 100:
159
Nhấn OK để áp dụng sự thay đổi và đóng cửa sổ ZigZag. Chúng ta sẽ có kết quả tương tự như hình dưới
đây:
Sau đó, chọn menu Select > Transform Selection:
160
Tính năng Transform Selection này tương tự như Free Transform của Photoshop ngoại trừ quá trình ảnh
hưởng đến vùng lựa chọn bên ngoài. Giữ Shift + Alt (Windows) hoặc Shift + Option (Mac) và chọn phần
góc trên bên trái của vùng lựa chọn (có dạng hình chữ nhật), sau đó kéo dần vào phía trung tâm bức ảnh cho
tới khi diện tích còn khoảng 50 – 60% kích thước gốc. Nhấn Enter (Windows) hoặc Return (Mac) để áp
dụng sự thay đổi:
Tiếp tục, chọn menu Select > Inverse hoặc sử dụng phím tắt Shift + Ctrl + I (Windows) hoặc Shift +
Command + I (Mac):
Quá trình này sẽ làm đảo ngược vùng lựa chọn, khi đến bước này, chúng ta nhấn Backspace
(Windows) hoặc Delete (Mac) để xóa toàn bộ thành phần xung quanh trung tâm của vũng nước đó.
Nhấn Ctrl + D (Windows) hoặc Command + D (Mac) để loại bỏ vùng chọn:
Tiếp theo, chọn menu Layer > Merge Down hoặc nhấn phím tắt Ctrl + E (Windows) hoặc Command + E
(Mac):
Và sau đó, chúng ta sẽ có 1 Layer mới vừa tạo:
161
Tuy nhiên, việc áp dụng hiệu ứng của bộ lọc ZigZag phía trên đã tạo ra những chi tiết gợn sóng nước với
nhiều hình răng cưa, do vậy bức ảnh nhìn sẽ không thật sự tự nhiên. Hãy làm “mềm” những chi tiết này
bằng Gaussian Blur (menu Filter > Blur > Gaussian Blur):
Bảng điều khiển Gaussian Blur của Photoshop hiển thị, điều chỉnh giá trị của Radius thành 0.4:
Nhấn OK, và bức ảnh sẽ trông giống như dưới đây:
162
Tùy vào từng bức ảnh và những chi tiết cụ thể, các bạn hãy linh hoạt trong việc tạo thêm gợn sóng nước và
áp dụng hiệu ứng ZigZag sao cho thật sự hiệu quả. Và dưới đây là kết quả của chúng ta sau khi thực hiện
quá trình như trên: