Công thức làm văn nghị luận Trong thể làm văn nghị luận...
Transcript of Công thức làm văn nghị luận Trong thể làm văn nghị luận...
1
Công thức làm văn nghị luận
Trong thể làm văn nghị luận thì 2 môn Chứng Minh và Giải Thích là nền tảng cho các
loại còn lại. Binh luận hay Phân tích thực chất cũng là sự kết hợp pha trộn giữa Chứng
Minh và Giải Thích. Khi Phân tích thì phầngiải thích nặng hơn chứng minh, khi Bình
luận thì phần chứng minh nặng hơn giải thích. Do đó, nắm rõ phương pháp Chứng
Minh và Giải Thích sẽ giúp cho việc làm văn trở nên dễ dàng hơn.
Cơ bản của phươngpháp này là các công thức dễ nhớ, dựa vào các công thức này mà
ngườiviết có thể tìm ý, xây dựng khung ý tưởng dồi dào cho bài viết.
Làm văn ai cũng biết có 3 phần Mở bài - Thân bài - Kết Luận
1. Mở bài: là chìa khóa cho toàn bộ bài văn, phần mở bài gồm có 3 phần:
Gợi- Đưa - Báo : tức là GỢI ý ra vấn đề cần làm - sau khi gợi thì ĐƯA vấnđề ra - cuối
cùng là BÁO - tức là phải thể hiện cho biết mình sẽ làm gì.
Khó nhất là phần gợi ý dẫn dắt vấn đề, có 3 cặp /6 lối để giải quyết như sau:
- Tươngđồng / tương phản : đưa ra một vấn đề tương tự/hoặc trái ngược để liêntưởng
đến vấn đề cần giải quyết, sau đó mới tạo móc nối để ĐƯA vấn đềra, cách này thường
dùng khi cần CM-GT-BL về câu nói, tục ngữ, suy nghĩ.
- Xuất xứ / đại ý: dựa vào thông tin xuất xứ/ đại ý để dưa vấn đề ra, cách này thường
dùng cho tác phẩm/tác giả nổi tiếng
- Diễn dịch/ quy nạp: cách này thì cũng khá rõ về ý nghĩa rồi.
2. Thân bài
Thân bài thực chất là một tập hợp các đoạn văn nhỏ nhằm giải quyết một vấn đề
chung. Để tìm ý cho phần thân bài thì có thể dùng các công thức sauđâyđể đặt câu hỏi
nhằm tìm ý càng nhiều và dồi dào càng tốt, sau đó cóthể sử dụng toàn bộ hoặc một
phần ý tưởng để hình thành khung ý cho bàivăn:
Đối với Giải thích: Gì - Nào - Sao - Do - Nguyên - Hậu
Đối với Chứng Minh: Mặt - Không - Giai - Thời - Lứa
2.1 Đối với Giải thích: Gì - Nào - Sao - Do - Nguyên - Hậu
Gì: Cái gì, là gì
Nào: thế nào
Sao: tại sao
Do: do đâu
Nguyên: nguyên nhân
Hậu: hậu quả
hãy tưởng tượng vấn đề của mình vào khung câu hỏi trên , tìm cách giải đápcâu hỏi
trên với vấn đề cần giải quyết thì bạn sẽ có một lô một lốc cácý tưởng
2.2 Đối với Chứng Minh: Mặt - Không - Giai - Thời - Lứa
Mặt: các mặt của vấn đề
Không: không gian xảy ra vấn đề (thành thị, nông thôn, việt nam hay nước ngoài...)
Giai: giai đoạn (vd giai đoạn trước 1945, sau 1945..)
Thời: thời gian - nghĩa hẹp hơn so với giai đoạn (có thể là, mùa thu mùa đông, ùua
mưa mùa nắng, buổi sáng buổi chiều..)
Lứa: lứa tuổi (thiếu niên hay người già, thanh niên hay thiếu nữ...)
2.3 Hình thành đoạn văn từ khung ý tưởng:
2
Sau khi dựa vào công thức bạn hình thành được khung ý tưởng, điều tiếp theo là từ
từng ý tưởng đó ta triển khai ra các đoạn văn hoàn chỉnh. Cáchtriển khai đoạn văn
dùng công thức
Nào - Sao - Cảm
Nào: thế nào
Sao: tại sao
Cảm: cảm xúc, cảm giác, cảm tưởng của bản thân
Cứ như vậy bạn sẽ có nhiều đoạn văn, các đoạn văn này hợp lại là thân bài
3. Kết bài
Có công thức Tóm - Rút - Phấn để thực hiện phần này
Tóm: tóm tắt vấn đề
Rút: rút ra kết luận gì
Phấn: hướng phấn đấu, suy nghĩ riêng của bản thân
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
I/ Giới thiệu chung :
1/ Nguyễn Dữ , quê ở Hải Dương , sống vào thế kỉ 16 , thời kì nhà Lê khủng hoảng ,
các tập đoàn Lê- Trịnh -Nguyễn tranh giành quyền lực . Tác phẩm nổi tiếng của
Nguyễn Dữ là " Truyền kì mạn lục ", gồm 20 truyện viết đan xen giữa biền văn và
thơ ca .
2/ Chủ đề của truyện " Chuyện người con gái Nam Xương " : thể hiện niềm cảm
thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt , đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống
của người phụ nữ VN dưới chế độ PK.
3/ Tóm tắt truyện : Câu chuyện kể về Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam
Xương, tính tình nết na thuỳ mị. Cô lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì
chàng phải đi lính . Nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ chồng già và nuôi con nhỏ . Để dỗ
con, nàng thường chỉ bóng mình trên tường và bảo đó là cha nó . Khi Trương Sinh về
thì con đã biết nói. Đứa bé ngây thơ nói với Trương sinh rằng cha nó đêm đêm vẫn
đến nhà . Trương Sinh sẵn tính ghen, nghi ngờ vợ không chung thuỷ, mắng nhiếc và
đuổi đi. Vũ Nương giãi bày không được. Hàng xóm biện bạch cũng không xong.
Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn . Nàng được tiên rùa Linh Phi rẽ
nước cho xuống sống dưới thuỷ cung . Khi hiểu ra nỗi oan của vợ thì sự đã rồi .
Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng . Vũ Nương hiện về nói lời từ biệt rồi biến
mất .
II/ Đề văn tham khảo :
Đề 1 : Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương
Dàn bài :
1/ Mở bài : Ca dao có câu " Thân em như hạt mưa sa , hạt vào giếng ngọc hạt ra
ruộng cay " . Câu ca dao trên như tiếng than ai oán cho thân phận của người phụ nữ
dưới chế độ phong kiến . Họ là những người có nhiều vẻ đẹp đáng được trân trọng
nhưng số phận của họ thì luôn chịu phải những đắng cay oan nghiệt . Với " Chuyện
người con gái Nam Xương " , Nguyễn Dữ- một nhà văn nổi tiếng ở thế kỉ 16 đã thể
3
hiện niềm thương cảm sâu sắc cho cuộc đời bất hạnh của những kiếp hồng nhan trong
xã hội PK nam quyền .
2/ Thân bài:
* Cảm nhận chung : Câu chuyện về số phận bất hạnh của Vũ Thị Thiết vẫn ám ảnh
người đọc . Đó là sự xót thương, thông cảm cho cuộc đời người phụ nữ đức hạnh,
thuỷ chung mà cuối cùng phải nhận cái chết oan uổng .
Truyện được chia làm 3 phần đều tập trung kể về cuộc đời bất hạnh của Vũ Nương
+ Vẻ đẹp của Vũ Nương
+ Nỗi oan của Vũ Nương
+ Vũ Nương dưới thuỷ cung .
a/ Vẻ đẹp của Vũ Nương: Vũ Thị Thiết là người phụ nữ hoàn hảo, nàng có đầy đủ
những phẩm chất của người phụ nữ theo tiêu chuẩn của chế độ PK " công ,
dung, ngôn,hạnh " . Trong từng hoàn cảnh , những phẩm chất ấy được bộ lộ theo
từng cấp độ khác nhau:
+ Mở đầu t/ p : Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ thuỳ mị nết na , tư
dung tốt đẹp
+ Khi nàng lấy chồng : Biết chồng có tính đa nghi, nàng khéo léo giữ gìn khuôn
phép , không để xảy ra thất hoà . Sự khéo léo chuẩn mực của nàng dường như đã hoá
giải được Trương Sinh nếu như không có sự xa cách
+ Khi tiễn chồng đi lính: nàng dặn dò chu đáo, đằm thắm , thiết tha : " thiếp chẳng
mong được đeo ấn phong hầu ... chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình an ..."
thể hiện tình yêu thương, sự lo lắng của nàng đối với chồng, tình yêu ấy vượt lên
trên mong ước vinh hoa phú quí, tâm tư quen thuộc của phụ nữ phong kiến .
+ Khi xa chồng : nàng ở nhà một mình nuôi mẹ già con dại , hết lòng hiếu nghĩa ân
tình với mẹ chồng và một mực thuỷ chung son sắt với chồng: " Mỗi khi thấy bướm
lượn đầy vườn , mây che kín núi là nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn
được " thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi của người vợ trẻ . Mẹ già vì quá nhớ thương con
trai mà sinh ốm . Vũ Nương hết lòng chăm sóc, thuốc thang chu đáo , lựa lời ngon
ngọt khuyên lơn . Mẹ chồng hết sức cảm động " ...xanh kia quyết chẳng phụ con cũng
như con chẳng phụ mẹ ". Mẹ chồng qua đời , nàng vô cùng thương xót " việc ma chay
tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ ". Thương con, sợ con thiếu thốn tình cảm của
cha, nàng đã chỉ cái bóng mình trên tường và bảo đó là cha nó . Vũ Nương là người
trọn nghĩa vẹn tình , nhưng bà mẹ chỉ có thể tin vào niềm tin mộc mạc của triết lí" ở
hiền gặp lành . Nhưng triết lí ấy đã không thành hiện thực khiến nỗi oan của Vũ
Nương lại càng thêm chua xót .
* Khái quát lại phần I và chuyển ý : Tác giả tập trung làm nổi bật những phẩm chất
quí báu của Vũ Nương . Nàng không chỉ thuỳ mị ... Nàng xứng đáng được hưởng
một hạnh phúc trọn vẹn . Nhưng nàng lại chịu những đắng cay , oan trái , càng
cay đắng và chua xót hơn khi những nỗi oan ấy lại do chính những người thân yêu
nhất của nàng gây ra .
b/ Nỗi oan của Vũ Nương : Trương Sinh trở về bình an như ước nguyện của nàng ,
nhưng giấc mộng xum họp cùng thú vui nghi gia nghi thất lại từ đây mà tan vỡ .
4
+ Trương Sinh nghi ngờ vợ : Đứa con không nhận cha " Ô hay, ông cũng là cha tôi ư
, ông lại biết nói , chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít". Trương Sinh
gặng hỏi, Đản thông tin thêm " Có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi
cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả ". Lời nói ngây thơ
vô tình của con trẻ đã làm nảy sinh mối nghi ngờ trong lòng con người vốn qua
đa nghi, Trương Sinh đinh ninh vợ hư hỏng .
+ Vũ Nương chết oan khuất : Nàng van xin,giãi bày không được , hàng xóm biện
bạch cũng không xong . Nàng bị chồng cho là thất tiết " la um cho hả giận " rồi "
mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi ".Vũ Nương mất tất cả " chồng con rẫy bỏ tiếng
chịu nhuốc nhơ " . Nàng phải chọn cái chết để giãi tỏ lòng trong sạch
+ Nguyên nhân dẫn đến cái chết của Vũ Nương :
Trực tiếp : Lời nói ngây thơ vô tình của bé Đản, sự đa nghi thái quá của Trương
Sinh
Gián tiếp : Chiến tranh phong kiến liên miên dẫn đến sự xa cách
Sâu xa : Chế độ PK nam quyền với nhiều hủ tục khắt khe trói buộc người phụ
nữ , dung túng cho sự hồ đồ, tàn nhẫn của người đàn ông
+ Liên hệ mở rộng : Phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình , luôn chịu
sự lệ thuộc vào đàn ông ( Dẫn chứng bài Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương ), hoặc
phải chịu sự oan khuất ( cái chết của Vũ Nương ) . Khi Trương Sinh tỉnh ngộ thì đã
muộn màng .
c/Vũ Nương dưới thuỷ cung :
* Nhận xét chuyển ý: Trong hoàn cảnh xã hội PK đang cơn khủng hoảng, thì cái chết
của Vũ Nương là không tránh khỏi. Nhưng Nguyễn Dữ đã không đang tâm với kết
thúc đau xót ấy . Chuyện cổ tích Vợ chàng Trương dừng lại ở chỗ bé Đản chỉ cái
bóng và Trương Sinh nhận ra sai lầm nhưng việc đã rồi . Còn Nguyễn Dữ thêm phần
sau với những chi tiết kì ảo ( tóm tắt ngắn gọn đoạn 3).
+ Ý nghĩa của những chi tiết kì ảo : Khác với môtíp của truyện cổ tích, yếu tố kì ảo
không đan xen vào cốt truyện mà được tách riêng thành một phần nhằm :
Giảm đi tính bi kịch của truyện và tạo kết thúc có hậu hơn : Vũ Nương được lập
đàn giải oan
Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương : ở thuỷ cung Vũ Nương
vẫn canh cánh nỗi nhớ nhà, một lòng một dạ hướng về quê hương , khao khát được
giải tiếng oan
Điểm thành công nhất của t/p là ở chi tiết kì ảo cuối, mang tính tố cáo hiện thực sâu
sắc tuy nó không làm thay đổi được hiện thực : Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3
đêm nhưng vẫn không chuộc được lỗi lầm của mình. Vũ Nương không trở về vì cái
xã hội đầy dẫy nhưng bất công không dung chứa nổi cái đẹp , cái trong trắng của
người phụ nữ
d/ Đặc sắc nghệ thuật : Khéo léo trong cách dẫn dắt tình tiết , diễn biến câu chuyện ,
xây dựng câu chuỵên giàu kịch tính , chân thực, sống động , lời trần thuật khách quan,
tự nhiên, hợp lí , sáng tạo đặc sắc.
3/ Kết bài : Qua câu chuyện thương tâm về ..., Nguyễn Dữ bộc lộ niềm thương cảm ...
và khẳng định niềm tin tưởng vào vẻ đẹp truyền thống quí báu của họ . Câu chuyện sẽ
5
mãi sống với thời gian cùng với những giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo
cao cả .
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
I/ Tìm hiểu chung : Ngô gia văn phái thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng tả Thanh Oai (
huyện Thanh Oai- Hà Nội ) . hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du . Tác
phẩm được viết theo thể chí ( tiểu thuyết lịch sử chương hồi ) ,thời Tây Sơn khởi
nghĩa , đánh tan quân Thanh xâm lược . Văn bản thuộc hồi 14
II/ Đề văn tham khảo :Hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung
1/ Mở bài : Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả rất trung thành với vua Lê . Nếu
xét theo quan điểm PK thì vua Quang Trung là kẻ " nghịch tặc " . Thế nhưng trong "
Hoàng Lê nhất thống chí " thì hình ảnh Quang Trung- Nguyễn Huệ lại hiện lên thật
oai phong lẫm liệt với tài cầm quân " bách chiến bách thắng " và nhiều phẩm chất tốt
đẹp khác. Điều đó một phần bởi triều đình nhà Lê đã quá suy yếu, mục nát , mặt khác
có thể chính tài năng và đức độ của vua Quang Trung đã làm thay đổi quan điểm của
nhóm tác giả này , và hình ảnh Quang Trung cùng chiến công hiển hách của ông được
Ngô gia văn phái thể hiện trong tác phẩm một cách chân thực và rõ nét .
2/ Thân bài :
- Đoạn trích thuộc hồi 14 của tác phẩm . Phần đầu đoạn trích cho thấy vua Quang
Trung là người mạnh mẽ, quyết đoán nhưng không hề độc đoán, chuyên quyền .
( Lắng nghe ý kiến thuộc hạ, lên ngôi vua để giữ lòng người rồi mới xuất quân ra Bắc
, hỏi người Cống sĩ ở Nghệ An về việc đánh quân Thanh ntn , chứng tỏ ông rất quan
tâm đến ý dân, lòng dân .)
- Cách ăn nói của vua Quang Trung cũng hết sức thuyết phục: vừa khéo léo, mềm
mỏng lại vừa kiên quyết, hợp tình, hợp lí ( nói với binh sĩ ông cho họ ngồi, lời nói
giản dị, dễ hiểu, lấy lịch sử để nêu gương ,tuyên bố sẽ trừng phạt những kẻ ăn ở hai
lòng)
- Cách ứng xử với các tướng lĩnh mềm mỏng mà kiên quyết : Khi đến Tam Điệp , Sở
và Lân mang gươm tren lưng xin chịu tội , ông thẳng thắn chỉ ra tội của họ nhưng
cũng nói rõ họ là người có công lớn trong việc bảo toàn lực lượng , đợi thời cơ .
- Lời nói, việc làm của vua Quang Trung hợp tình, hợp lí và hợp lòng người : mềm
dẻo, kiên quyết, xét đúng công, đúng tội , đặt lợi ích của quốc gia và của dân chúng
lên trên hết , khiến binh sĩ cảm phục, hết lòng chống giặc.
- Tài dụng binh như thần : Việc tuyển quân, cuộc hành quân tấn công thần tốc của
vua Quang Trung, lời hứa trước lúc xuất quân chứng tỏ tầm nhìn xa trông rộng, tài
thao lược, xử trí nhạy bén, mưu trí ( đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn
cônglàng Hà Hồi , dùng ván phủ rơm ướt để tấn công đồn Ngọc Hồi ) . tài dùng binh
khôn khéo đó khiến quân Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, dẫn tới sự thất bại thảm hại của
chúng " Tôn Sĩ Nghị sợ mất mất, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc
giáp, chuồn trước qua cầu phao " , đám tàn quân thì " giẫm đạp lên nhau mà chạy
trốn "
6
3/ Kết bài : Cuộc đại phá quân Thanh quả là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu
tranh bảo vệ Tổ Quốc của dân tộc ta . Người làm nên kì tích ấy chính là người anh
hùng áo vải Quang Trung -Nguyễn Huệ . Tác giả thật hả hê sung sướng khi truyền đến
cho người đọc những giây phút lịch sử oai hùng đó . Và hình ảnh lẫm liệt của vua
Quang Trung mãi mãi là một bậc thầy về nghệ thuật quân sự với tài thao lược cùng
tấm lòng hết mình vì dân vì nước
TRUYÊN KIỀU
I/ Tìm hiểu chung :
Nguyễn Du( tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên), quê ở làng Tiên Điền huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh) sống trong một thời đại có nhiều biến cố lịch sử : cuối thế kỉ 18,
đầu thế kỉ 19 , chế độ PK khủng hoảng trầm trọng với sự tranh giành của các tập đoàn
PK Lê- Trịnh- Nguyễn , phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, đỉnh cao là
khởi Tây Sơn .Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình đai quí tộc, nhiều đời làm
quan , có truyền thống về văn học . Nguyễn Du từng làm quan dưới triều Nguyễn, đi
sứ Trung quốc, vốn kiến thức sâu rộng ,am hiểu cuộc sống của nhân dân.Sự nghiệp
văn học của Nguyễn Du gồm sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm .
Đoạn trường tân thanh ( Truyện Kiều ) là tác phẩm chữ Nôm xuất sắc nhất của
Nguyễn Du , mượn cốt truyện từ tiểu thuyết Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân (Trung Quốc). Tác phẩm được viết lại bằng chữ Nôm, gồm 3254 câu lục
bát truyền thống .
II/ Tóm tắt Truyện Kiều: Theo bố cục 3 phần
- Gặp gỡ và đính ước : Thuý Kiều là con gái đầu lòng của một gia đình họ Vương
trung lưu lương thiện , sống êm đềm hạnh phúc cùng cha mẹ và hai em là Thuý Vân
và Vương Quan . Kiều là cô gái tài sắc vẹn toàn . Nhân dịp Tết thanh minh, Kiều và
Vân đi tảo mộ ,du xuân . Lúc về gặp Kim Trọng , chàng thư sinh " phong tư tài mạo
tót vời". Giữa Kim Trọng và Thuý Kiều nảy nở mối tình đầu trong sáng , đằm thắm .
Kim Trọng tìm đến trọ học ở gần nhà Kiều . Hai người gặp nhau và tự nguyện đính
ước .
- Gia biến và lưu lạc: Kim Trọng về quê chịu tang chú .Gia đình Kiều bị vu oan, cha
và em trai nàng bị bắt . Kiều nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng rồi quyết định bán
mình để cứu cha và em .Không ngờ, Kiều bị bọn Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà lừa
gạt , đẩy vào lầu xanh. nàng được Thúc Sinh, một khách làng chơi hào phóng, cứu
thoát. Nhưng nàng lại bị Hoạn Thư, vợ cả của Thúc Sinh ghen tuông,đầy đoạ đành
phải trốn đến nương nhờ cửa Phật . Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà- một kẻ
buôn người như Tú Bà. Kiều rơi vào lầu xanh lần thứ 2. Rồi nàng gặp Từ Hải - một
anh hùng đầu đội trời chân đạp đất cứu thoát , lấy nàng làm vợ và giúp nàng báo ân
báo oán .Vì mắc lừa tên tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến nên Từ Hải bị giết. thuý
Kiều phải hầu đàn, hầu rượu cho Hồ tôn Hiến và bị ép gả cho tên thổ quan. Đau đớn,
tủi nhục, nàng trẫm mình xuống sông Tiền Đường nhưng sư Giác Duyên lại cứu lần
thứ hai và gửi nàng nơi cửa Phật .
- Đoàn tụ: Kim Trọng trở lại tìm Kiều . Nghe tin Kiều bán mình, chàng vô cùng đau
xót .Tuy kết duyên với vân nhưng chàng không thể nào quên mối tình đầu say đắm.
7
Chàng lặn lội đi tìm Kiều .Nhờ gặp Giác Duyên , Kim - Kiều gặp nhau, gia đình đoàn
tụ sau 15 năm Kiều lưu lạc. Chiều ý mọi người, Kim- Kiều nối lại duyên xưa nhưng
họ cùng nguyện ước" Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy " .
III/ Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều :
1/ Giá trị nội dung : Hiện thực và nhân đạo
- Hiện thực:
Là bức tranh hiện thực về xã hội bất công, tàn bạo , đặc biệt là ma lực đồng tiền
Phơi bày nỗi thống khổ của người lương thiện đặc biệt là người phụ nữ
- Nhân đạo: Là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người nhất là
người PN
Tiếng nói lên án , tố cáo những thế lực xấu xa
Tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát
vọng chân chính của con người như quyền sống, quyền tự do, công lí và hạnh phúc
2/ Giá trị nghệ thuật : Kiệt tác truyện Kiều là kết tinh thành tựu nghệ thuật văn
học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại
- Ngôn ngữ VHDT và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ
- Nghệ thuật tự sự đã có những phát triển vượt bậc : Dẫn chuyện , miêu tả thiên
nhiên, khắc hoạ tính cách và miêu tả tâm lí nhân vật
Kiều ở lầu Ngưng Bích
Kiệt tác truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ thành công về nghệ thuật
tự sự với cốt truyện đặc sắc, tình tiết hấp dẫn gây xúc động lòng người . Bút pháp tả
cảnh của t ác gỉa thể hiện trong truyện cũng khiến người đọc vô cùng nể phục . Một
trong những điều đáng kính nể ấy là bút pháp tả cảnh ngụ tình mà đoạn trích Kiều ở
lầu Ngưng Bích được cho là một bức tranh tâm cảnh tuyệt vời nhất . Đọan trích gồm
22 câu tả cảnh nơi lầu Ngưng Bích và tâm trạng cô đơn, buồn khổ, nhớ nhà, nhớ
người yêu của Kiều
Sau khi nhận Kiều từ tay Mã giám sinh, Tú Bà buộc nàng tiếp khách nhưng Kiều
không chịu. Mụ đã đánh đập thúc ép nên nàng đã định quyên sinh để mong thóat khỏi
cảnh ô nhục nhưng không được. Tú Bà đành giam lỏng nàng trong lầu Ngưng Bích
nói là để tìm nơi xứng đáng gả chồng cho nàng nhưng kì thật là đợi để thực hiện mưu
ma chước quỷ băt nàng phải làm gái lầu xanh kiếm lợi cho mụ.
Sáu câu đầu là bức tranh thiên nhiên tại lầu Ngưng Bích . Gợi tả hòan cảnh cô đơn
của Kiều. Trước hết là hình ảnh bị giam lỏng : “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”.
Khóa xuân là khóa kín tuổi xuân, ý nói là bị cấm cung. Hai chữ cấm cung cho thấy
Kiều bị giam trong lầu Ngưng Bích như co gái bị cấm cung . Nàng trơ trọi giữa một
khung cảnh thiên nhiên vắng lặng, heo hút , không một bóng người :
“Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung, Bốn bề bát ngát xa trông, cát vàng cồn nọ, bụi
hồng dặm kia”.Câu thơ "Bốn bề bát ngát xa trông” như mở ra trước mắt Kiều một
không gian rợn ngợp. Từ lầu cao nhìn ra là những dãy núi bát ngát điệp trùng xa mờ
và mảnh trăng gần gũi như sắp chạm đầu. Trước mắt nàng là cảnh vật bốn bề xa trông
bát ngát, bên thì từng đụn cát vàng nhấp nhô như sóng lượn , bên thì những đám bụi
hồng trải khắp dặm xa. Cảnh thiên nhiên mênh mông hoang vắng đó càng làm nổi bật
8
hơn nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của Kiều khiến nàng thêm bẽ bàng chua xót :
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya. Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Cụm từ “mây sớm đèn khuya” là chỉ thời gian khép kín. Khuya và sớm, đêm và ngày,
Kiều lẻ loi trơ trọi chỉ biết làm bạn với mây và đèn . Có thể nói đây là lúc nàng cô đơn
tuyệt đối.Trong xúc cảm, trước hết, nàng nhớ đến Kim Trọng. Nàng hình dung ra
người yêu đang sầu tư ngóng đợi. Có lẽ hơn lúc nào hết, trong lúc này, Kiều thương
Kim Trọng vô hạn. Trong tình thương ấy có một chút ân hận , nàng cảm thấy như
mình có lỗi với chàng. Để chàng phải ngày đêm trông ngóng, đau khổ, mòn mõi “rày
trông mai chờ”, Kiều xót xa, ân hận như một kẻ phụ tình. “Tưởng người dưới nguyệt
chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ”.Càng thương nhớ người yêu ,
càng tiếc nuối mối tình đầu không trọn vẹn, Kiều càng thấm thía tình cảnh bơ vơ nơi
đất khách quê người của mình và càng hiểu tấm lòng sắt son của mình đối với chàng
Kim sẽ không bao giờ phai nhạt. “Bên trời góc bể bơ vơ. Tấm son gột rửa bao giờ cho
phai”.
Với người yêu, nàng nhớ thương nuối tiếc . Còn với cha mẹ, Kiều xót xa thương nhớ
khôn cùng “Xót người tựa cửa hôm mai . Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa. Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nỗi nhớ thương ấy của Kiều mới cảm động làm sao . Kiều quả là một người con hiếu
kính cha mẹ . Tuy đã bán mình cứu cha và em khỏi cảnh ngục tù nhưng Kiều vẫn thấy
mình chưa trọn đạo làm con . Nàng hình dung ra bóng song thân già yếu đang ngày
đêm “tựa cửa” ngóng trông mình và xót xa tự nghĩ ai sẽ là người thay mình chăm sóc
cha mẹ. Chỉ với bốn câu thơ độc thọai nội tâm, tác giả đã thể hiện một cách sinh động
và đầy xúc cảm tấm lòng hiếu thảo của Kiều.Trong đọan thơ này , tài năng của thi hào
Nguyễn du còn thể hiện ở chỗ đã đặt tình trước hiếu khi viết về tâm trạng Kiều. Để
nàng nhớ người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ. Điều này thật chuẩn xác và khách
quan vì đối vơi cha mẹ Kiều đã tự bán mình, như vậy cũng đã đền đáp được một phần
chữ hiếu, công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Còn đối với Kim Trọng, Kiều đã
thấy mình lỗi hẹn như một người bạc tình: “Kim lang ơi, hỡi Kim lang. Thôi thôi
thiếp đã phụ chàng từ đây” Cái tinh tế trong tâm lý nhân vật mà Nguyễn Du nhận ra
đã thể hiện một cách cực kỳ chính xác. Tám câu cuối là tâm trạng buồn lo của Kiều
về dự cảm về kiếp người " tài hoa bạc mệnh" sẽ ập đến với cuộc đời nàng . Đến đây,
người đọc càng thán phục Nguyễn Du bởi bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo, một
trong thành công về nghệ thuật của Truyện Kiều . “Buồn trông cửa bể chiều hôm.
Thuyền ai thấp thóang cánh buồm xa xa.Buồn trông ngọn nước mới sa. Hoa trôi man
mác biết là về đâu. Buồn trông nội cỏ dàu dàu. Chân mây mặt đất một màu xanh
xanh”.
“Buồn” và “trông”. Buồn và cô đơn. Cảnh vật dưới con mắt của Kiều lúc này dường
như cũng có hồn, như cũng buồn lây theo tâm trạng của mình Ta chợt nhớ đến một
câu thơ khác mà Nguyễn Du đã từng viết trong truyện Kiều :
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Cụm từ “buồn trông” như một điệp khúc vừa tạo ra nhạc điệu du dương vừa thể hiện
nỗi buồn lớp lớp trào dâng trong lòng Kiều. Có những nét tả thực với “cửa bể, cánh
9
buồm, chân mây, tiếng sóng…” nhưng đều chứa đựng nhiều nghĩa ẩn dụ , gợi mở
những liên tuởng phản ảnh nỗi lòng Kiều . Đặc biệt trong hai câu cuối đoạn, nàng
cảm thấy số phận cô đơn mong manh trong hiện tại và hãi hùng trước tương lai như
bão táp đang chực chờ, đe dọa tấm thân mình : “Buồn trông gió cuốm mặt duyềnh
.Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” . Ngồi trước lầu Ngưng Bích , vậy mà nàng
tưởng như mình đang ở giữa biển khơi, bốn bề ầm ầm sóng vỗ , sóng dữ gào thét,
cuồng nộ, tiếng dội bên tai dâng tràn dội cả vào tâm hồn , dông tố vây bủa nàng như
dự báo những sóng gió cuộc đời sẽ bất ngờ ập đến vùi dập tấm thân nàng .
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đọan tả cảnh ngụ tình hay nhất trong
Truyện Kiều. Hay vì đoạn thơ này không những thể hiện tài năng của Nguyễn Du
trong cách miêu tả nội tâm nhân vật , mà đọc đoạn thơ , ta còn cảm nhận được những
phẩm chất vô cùng quí giá của Kiều : Đó là tấm lòng hiếu thảo, thuỷ chung son sắt .
Không những thế , đoạn thơ còn chứng tỏ cảm hứng nhân đạo sâu sắc trong cây bút
Nguyễn Du , đó là sự trân trọng và quan tâm đến số phận của con người , đặc biệt là
người phụ nữ .Kiều ở lầu Ngưng Bích quả là một bức tranh tâm cảnh đặc sắc làm lay
động lòng người .
Mã Giám Sinh mua Kiều
" Trong tay có sẵn đồng tiền
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì "
( Nguy ễn Du- Truy ện Ki ều )
Quả là trong truyện Kiều , ma lực đồng tiền thật vô cùng ghê gớm . Vì tiền , con
người có thể đánh mất lương tri. Cũng vì tiền , con người có thể bất chấp mọi thủ
đoạn, sẵn sàng chà đạp lên tâm hồn và thể xác của những người lương thiện . Đoạn
trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã vạch trần bộ mặt của những kẻ hám tiền , bất
lương , xảo trá đó , đồng thời thể hiện nỗi xót xa thương cảm trước tình cảnh đáng
thương tội nghiệp , nỗi ê chề, nhục nhã trong tai họa bất hạnh đầu tiên của cuộc đời
Kiều.:
Sau khi gặp gỡ, đính ước cùng Kim Trọng thì thình lình gia đình Kiều gặp tai họa.
Cha và em bị bắt bớ, hành hạ. Không đành lòng để gia đình tan nát, nàng đã tự
nguyện bán mình để lấy tiền lo lót cho bọn tham quan để chuộc cha và em ra khỏi
vòng lao lý. Chẳng may, kẻ đến mua nàng lại là Mã giám sinh, một tên buôn người .
Xuất hiện trong vai một chàng sinh viên đi lấy vợ lẽ, Mã giám sinh đến nhà Kiều đển
dạm hỏi Kiều qua lễ “vấn danh”. Hắn là người phương xa, cả quê quán, lí lịch đều
không rõ ràng. Tuy tuổi đã ngoài bốn mươi nhưng hình thức diện mạo vẫn như trai lơ,
bảnh chọe (Quá niên tạc ngoại tứ tuần. Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao).
Hỗ trợ cho gã "trai lơ" ấy còn có cả một đám tôi tớ lao xao nhâng nháo đi theo. Tất
cả đều được mời vào nhà một cách trang trọng . Thế nhưng ngay từ phút đầu tiên, Mã
đã không giấu được bộ mặt thật của mình. Đặc biệt với cử chỉ thô lỗ, không văn hoá
“Ghế trên ngồi tót sổ sàng”. Chỉ với từ “ngồi tót, tác giả đã vạch mặt gã cho mọi
người thấy rõ đó không phải là “giám sinh” gì cả mà chỉ là một tên vô học, thiếu lịch
sự, thiếu văn hoá, một tên con buôn đúng nghĩa “buôn thịt bán người” .
Tiếp đến là cách Mã nhìn, ngắm Kiều. Không phải là cách thức, tâm trạng của người
10
đi “xem mặt vợ” mà là cách nhìn, xem xét và đánh giá một một mòn hàng “đặc biệt”.
Hắn đã “đắn đo cân sắc cân tài. Ep cung đàn nguyệt, thử bài quạt thơ”. Hắn đã nhấc
lên, đặt xuống, xoay sở đủ điều với Thuý Kiều, coi nàng như một " món hàng " thật
sự. Khi đã tạm hài lòng với “món hàng”, Mã lại che đậy bản chất của mình bằng
những lời khách sáo, my miều, giả dối:“Rằng mua ngọc đến Lam Kiều. Sính nghi xin
dạy bao nhiêu cho tường”Nói là nói vậy chứ không phải như vậy. Bởi ngay sau đó gã
lại bộc lộ tính “con buôn” của mình bằng cách thức “mua bán”, thách giá – trả giá như
ngoài chợ trước “món hàng”: “Cò kè bớt một thêm hai. Giờ lâu ngã giá vàng ngoài
bốn trăm”. Trong khi người ra giá (mụ mối) “ thách” đến “ Chữ trinh đáng giá ngàn
vàng” (!!)Lúc này Mã giám sinh đã hiện nguyên hình là một “con buôn thứ thiệt”, ghê
tởm và đê tiện.Trong đoạn này, nếu hình ảnh Mã giám sinh càng xấu xa, đê tiện bao
nhiêu thì hình ảnh Kiều càng tội nghiệp bấy nhiêu. Là một tiểu thư đài các “phong lưu
rất mực hồng quần”. Kiều đang sống yên vui trong cảnh “Êm đềm trướng rũ màn che”
, lại đang say men hạnh phúc với mối tình đầu vừa chớm nở, trong sạch nhưng cũng
nồng ấm và mãnh liệt thì tai hoạ bất ngờ đổ xuống biến nàng thành món hàng cho bọn
“buôn người” trao tay “cò kè bớt một thêm hai” mua bàn, bán mua. Vốn là một người
con gái thông minh và nhạy cảm, kiều cảm nhận rất sâu sắc tình cảnh của mình trong
lúc này là đáng hổ thẹn , nhục nhã tột cùng. “Nỗi mình thêm tức nỗi nhà. Thềm hoa
một bước lệ sa mấy hàng. Ngại ngùng rợn gió e sương. Nhìn hoa thẹn bóng, soi guơng
mặt dầy”. Trong màn kịch “lễ vấn danh” , dưới tay đạo diễn của mụ mối. Kiều đã nhất
cử nhất động làm theo : đánh đàn, làm thơ như những việc làm máy móc, vô cảm , trơ
lì chịu đựng, đành chấp nhận tất cả, miễn sao đạt được mục đích là “có tiền” để chuộc
cha và em ra khỏi vòng lao lý, để gia đình không tan nát. Với dáng vẻ “Nét buồn như
cúc, điệu gầy như mai”.Hình ảnh của Kiều thật đáng thương, tội nghiệp. Tuy nín lặng
nhưng cô gái này đã không sao giấu được nỗi niềm cay đắng , xót xa và tủi nhục.
Đoạn trích này ta càng thấy rõ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du qua thái độ đau
đớn, xót xa trước thực trạng thân phận và nhân phẩm con người, cụ thể ở đây là Kiều,
bị chà đạp, bị hạ thấp. Ngòi bút bất bình của tác giả phẩn nộ trong từng câu, từng chữ
khi phải nói đến tên “buôn nguời” Mã giám sinh. Cũng có thể nói đây là một lời tố
cáo thực trạng xã hội xấu xa, lời lên án thế lực đồng tiền thật mạnh mẽ
Cảnh ngày xuân
Thiên nhiên vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ cố. Với thiên tài Nguyễn Du, đề
tài ấy càng được ông thể hiện một cách đặc sắc . Trong truyện Kiều, thiên nhiên bốn
mùa đều được ông miêu tả với những đặc trưng rõ nét . Cảnh mùa xuân cũng là một
trong những bức tranh thiên nhiên như thế . Cảnh ngày xuân nằm ở phần đầu của
truyện. Đây là đoạn tiếp liền theo đoạn tả vẻ đẹp hai chị em Kiều. Đoạn này tả cảnh
chị em Kiều du xuân trong tiết Thanh minh. Đó cũng là một nét đẹp lễ hội ngày xuân
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân . Một bức tranh xuân tuyệt tác:
“Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh rợn chân trời. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. ”
Ngày xuân qua đi nhanh như chiếc thoi dệt vải trong khung cửi .Câu thơ này vừa diễn
tả không khí rộn ràng, tươi sáng của cảnh vật trong mùa xuân đồng thời thể hiện tâm
11
trạng nuối tiếc ngày xuân trôi qua nhanh quá. Như thế hai câu đầu vừa nói về thời gian
mà còn gợi tả không gian mùa xuân. Hai câu còn lại là một bức tranh thiên nhiên tuyệt
đẹp.
“Cỏ non xanh tận chân trời. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Bát ngát trải rộng đến tận chân trời là thảm cỏ non tơ xanh rợn. Đó chính là gam màu
nền của bức tranh ngày xuân tươi đẹp. Trên nền thảm cỏ xanh ấy điểm thêm vài bông
lê trắng. Sự phối hợp màu sắc của bức tranh thật hài hòa.Không có gì tuyệt vời hơn
thế . Màu xanh non tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở, cho sức sống đang lên , còn
màu trắng là biểu tượng của sự trong trắng tinh khiết . Tất cả cho thấy ngày xuân ở
đây thật khoáng đạt, mới mẻ, thanh tân, dạt dào sức sống trong một không khí trong
lành, thanh thoát. Từ “điểm” dùng ở đây làm cho bức tranh thêm sinh động, có hồn.
Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh cũng được miêu tả thật sinh động , náo nức:
Gần xa nô nức yến oanh . Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên . Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay"
Tết thanh minh, mọi người cùng nhau đi sửa sang lại phần mộ của người thân . Không
khí thật rộn ràng đựơc thể hiện qua một loạt các từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình .Tất
cả đều góp phần thể hiện cái không khí lễ hội đông vui , một truyền thống tốt đẹp của
những nước Á Đông.
Cảnh vật mùa xuân thì vẫn còn đó, nhưng, cuộc vui nào rồi cũng có lúc phải
tàn , nó để lại trong lòng người những cảm giác bâng khuâng nuối tiếc, đó chính là nội
dung của 6 câu cuối đoạn trích : " Tà tà ... bắc ngang". Cảnh vật, không khí mùa xuân
trong sáu câu này so với mấy câu đầu đã có sự khác biệt. Cái không khí rộn ràng náo
nức của buổi sáng không còn . Mọi thứ đều đã lắng xuống, nhạt dần. Nắng xuân ấm
áp hồng tươi vào buổi sớm giờ đây đã “nhạt” đi, khe suối nhỏ, nhịp cầu bắc ngang tuy
vẫn giữ nét thanh diụ của mùa xuân với mọi chuyển động nhẹ nhàng, nhưng mặt trời
ngả bóng về Tây, bước chân người thẩn thơ lưu luyến, tiếc nuối, dòng nước uốn
quanh. Nhưng tất nhiên thời gian khác thì không gian cũng khác. Nếu cảnh trong bốn
câu đầu là cảnh buổi sáng lúc lễ hôi mới bắt đầu thì ở đây là cảnh chiều tan hội . Tâm
trạng mọi người theo đó cũng khác hẳn. Những từ láy “nao nao”, “tà tà”, “thanh
thanh” đâu chỉ tả cảnh mà còn ngụ tình … Một cái gì đó lãng đãng, bâng khuâng,
xuyến xao và tiếc nuối…Bởi lẽ "Sự vật chảy trôi không ngoái đầu nhìn lại...Sự vật
chảy trôi không quyền nào ngăn cản nổi" ( R. Tagore). Cảnh ngày xuân quả là một
bức tranh xuân không gì so sánh nổi .
Anh thanh niên trong lặng lẽ Sa pa
Sapa, một vùng đất tuyệt vời với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng, với
những chú bò đeo chuông đang thung thăng gặm cỏ. Nhắc đến Sapa, người ta nghĩ
ngay đến những giờ phút thú vị được khám phá những ngọn núi cao, được giải thoát
khỏi cái nóng oi bức và hưởng thụ một không gian thoáng đãng, yên bình. Nhưng,
ngay tại cái nơi mà "chỉ nghe tên đã nghĩ ngay đến chuyện nghỉ ngơi" ấy, vẫn có
những con người âm thầm cống hiến tuổi xuân, tài năng sức lực của mình cho quê
hương đất nước. Hình ảnh những con người đáng quý ấy đã được khắc hoạ thật đẹp,
12
thật nổi bật qua hình ảnh nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn "Lặng lẽ Sapa"-
kết quả cuả chuyến viếng thăm Lào Cai vào mùa hè năm 1970 của Nguyễn Thành
Long.
Truyện ngắn "Lặng lẽ Sapa" được xây dựng với bốn nhân vật: bác lái xe, cô ky sư trẻ,
ông họa sĩ già và anh thanh niên- nhân vật chính của truyện. Anh thanh niên không
được giới thiệu ngay từ đầu truyện mà chỉ được nhắc đến qua lời của bác lái xe. Anh
xuất hiện, trò chuyện với bác họa sĩ và cô ky sư trẻ chỉ trong ba mươi phút, rồi lại
khuất lấp trong cái bạt ngàn, tĩnh lặng của núi rừng Sapa.
Trước khi anh xuất hiện, anh đã được bác lái xe giới thiệu là "một trong những
người cô độc nhất thế gian". Lời giới thiệu của bác lái xe đã gây ấn tượng mạnh và gợi
lên sự tò mò cho tất cả mọi người. Nhưng lời giới thiệu của bác không phải là hoàn
toàn cường điệu. Anh thanh niên sống và làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn
cao 2600 mét, quanh năm chỉ có cây cỏ và sương mù lạnh lẽo. Bốn năm trôi qua, anh
chưa một lần về thăm nhà. Sống trong cái không gian lạnh lẽo chứa đượm nỗi buồn
man mác của Sapa, anh thanh niên luôn phải chịu đựng sự cô đơn. Đó là một thử
thách rất lớn đối với một thanh niên sôi nổi, nhiệt tình như anh. Vậy, điều gì đã giúp
anh vượt qua thử thách khó khăn ấy?
Anh thanh niên có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn về công việc và cuộc
sống.
+ Công việc là niềm vui, niềm đam mê cháy bỏng.
+ Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người.
Anh thanh niên có những hành động cao đẹp.
+ Vượt qua mọi khó khăn thử thách để làm quen với cuộc sống chỉ có một
mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2.600 m.
+ Dồn tất cả thời gian công sức, tự nguyện tự giác hoàn thành xuất sắc công
việc vốn hết sức vất vả và đơn điệu.
Anh thanh niên có phong cách sống rất đáng quý, đáng trân trọng.
+ Tổ chức cuộc sống ngăn nắp, khoa học, phong phú cả về vật chất và tinh thần.
+ Khiêm tốn, cởi mở, chân thành với mọi người.
Đánh giá nhân vật, phát biểu cảm nghĩ : Nhân vật anh thanh niên tiêu biểu cho
những con người lao động mới, sống có lý tưởng, vô tư, lặng thầm, cống hiến hết
mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nhân vật anh thanh niên giúp ta hiểu thêm về thế hệ cha anh đi trước trong một giai
đoạn lịch sử của dân tộc.
Trân trọng, khâm phục những nhân vật đáng quý, đáng mến trong “Lặng lẽ Sa Pa”, ta
nghĩ tới trách nhiệm, hành động của thanh niên chúng ta trong công cuộc bảo vệ và
xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới.
Tình cha con trong chiến tranh qua Chiếc lược ngà
Có câu nói:”Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi
người!”Vì lòng yêu cha,một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận
người khác làm bố,cho dù bị đánh.Vì lòng thương con,một người chiến sy dù ở sa
13
trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa con gái bé bỏng.Có người
nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”.Song nếu đọc
truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,có thể bạn sẽ phải có cái nhìn
khác mới mẻ và chân thực hơn. Câu chuyện khắc họa hình ảnh nhân vật bé Thu đầy
ấn tượng và tinh tế,ca ngợi tình cha con thiêng liêng, vĩnh cửu dù trong chiến tranh.
Nguyễn Quáng Sáng sinh năm 1933 ở An Giang.Thời kỳ kháng chiến chống Pháp
ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.Sau năm 1945, ông tập kết
ra Bắc và bắt đầu viết văn. Có lẽ vì sinh ra va hoạt động chủ yếu ở miền Nam nên các
tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ. Nguyễn
Quang Sáng có lối viết văn giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc, xoay quanh những câu
chuyện đời thường nhưng ý nghĩa. Chiếc lược ngà viết năm 1966 tại chiến trường
Nam Bộ thời chống My , là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Quang Sáng, khẳng định nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc, xây dựng tình huống bất
ngờ và ca ngợi tình cha con thắm thiết, mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.
Truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu .Khi ông Sáu đi
kháng chiên, lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi. Khi ông có dịp về thăm nhà thì con gái
đã lên 8 tuổi.Song bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu
không giống như bức ảnh chụp chung với má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi
cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một tiếng “Ba”. Đến khi bé Thu
nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông hứa sẽ mang về tặng con một
cái lược ngà.Những ngày chiến đầu trong rừng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho con
gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh.Trước khi nhắm
mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình.
Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết
sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây
ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm, ương ngạnh, bướng bỉnh, khi
mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” ,hay khi hất cái
trứng mà ông Sáu gắp cho,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà
bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá
tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính
cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu
đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,mạnh mẽ.Có người cho rằng tác
giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ chính thái độ ngang
ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.
Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong
bức ảnh với má”. Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm
ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu
làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến
tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay
xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sy.Cái cảm giác
đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự
kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào tính cách cứng cỏi
ngoan cường .
14
Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh, gan góc, tình cảm có sâu sắc,mạnh
mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi với tất cả nét hồn nhiên, ngây
thơ của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động
với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ, thiêng liêng những tâm tư tình
cảm vô giá ấy. Khi bị ba đánh, bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi
lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”.Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy
những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ
nhận ra mình có lỗi? Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống
xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua
sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ con
bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ về,dỗ dành. Có một sự đối
lập trong những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi
,nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. Song khi “Chiều đó,
mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”,cái cá tính cố chấp một cách trẻ con
của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế. Dù như thế thì bé Thu vẫn
chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi.
Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha, thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu
tính cảm. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay giờ trỗi dậy,vào cái giây phút
mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1
tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy
chưa hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ
chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống. Nó gần như chưa có chút ấn tượng
nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi
nhường nào, cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình
cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.
Khi đến ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể
bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó,
dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình , nó cũng muốn chạy lại
và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ đứng
nguyên ở đấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó. Và rồi đến khi cha nó
chào nó trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó
không nén nổi tình cảm như trước đây nữa, nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa kêu vừa
chạy xô đến nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ
ba nó”,” nó hôn ba nó cùng khắp: hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má
của ba nó nữa”.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã
dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên
trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được
nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi
cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng
liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con
có cha. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm, có cá tính mạnh
mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ của một đứa bé 8 tuổi : Nhân vật bé
Thu.
15
Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu,truyện ngắn “Chiếc lược ngà”
ca ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ. Bên cạnh hình ảnh bé Thu, hình ảnh ông
Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh, vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia
chiến đấu,bỏ lại gia đình,quê hương;và đặc biệt ông là người yêu con tha thiết. Sau
ngần ấy năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng
là được gặp con và nghe con gọi một tiếng cha. Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy
sinh một nỗi éo le là bé Thu không nhận cha. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì dường
như sự lạnh lùng ,bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm da diết nhất
trong lòng ông. Còn gì đau đớn hơn một người cha giàu lòng thương con mà bị chính
đứa con gái ấy từ chối. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi
nổ làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay ông dồn nén, chứa chất trong lòng.
Có lẽ ông biết rằng mình cũng không đúng vì suốt bảy năm trời chẳng thể về thăm
con, chẳng làm gì được cho con, nên nhân những ngày này ông muốn bù đắp cho con
phần nào. Giá như không có cái bi kịch ấy, giá như bé Thu nhận ra ông Sáu sớm hơn
thì có thể ông Sáu và bé Thu sẽ có nhiều thời gian vui vẻ, hạnh phúc. Nhưng sợ rằng
một câu truyện như vậy sẽ chẳng thể gây được cảm động cho người đọc với những
xúc cảm khác nhau, có lúc dồn nén, có lúc lại thương xót, có lúc lại “mừng mừng tủi
tủi” cho ông Sáu khi mà bé Thu cất tiếng gọi “Ba”,tiếng gọi muộn màng nhưng lại có
ý nghĩa đẹp đẽ! Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường,quen với
cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình. Những giọt nước
mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu
tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự!(“Không ghìm được xúc động
và không muôn cho con thấy mình khóc,anh Sáu một tày ôm con,một tay rút khăn lau
nước mắt”).”Ba về!Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ
của con gái bé bỏng trong giây pút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha thì đó là
mơ ước đầu tiên và duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông. Tình cảm ông
Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự
tay làm chiếc lược ngà cho con.” Khi tìm được khúc ngà ông Sáu sung sướng như trẻ
con vớ được quà”,” Ông thận trọng tỉ,mỉ…”,”Ông gò lưng khắc từng nét…”Một loạt
hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm. Tất cả tình yêu, nỗi nhớ
con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu
đứa con bé nhỏ của mình. Lòng yêu con đã biến một người chiến sy trở thành một
nghệ nhân sáng tạo tài tình, dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời. Cuối
truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi, móc lấy cây lược,đưa cho bác Ba và nhìn
một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn g trối điều gì, chỉ có một ánh mắt với
niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời
hứa duy nhất của mình với con.Tình cảm của ông sáu khiến người ta phải thấy ấm
lòng và cảm động sâu sắc.
Người mất, người còn nhưng kỷ vật duy nhất, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn
tại, chiếc lược ngà vẫn còn ở đây. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn
sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé
Thu;và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con.Có
thể chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng
16
của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện, và
cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con. (Nhan đề của chuyện cũng là
“Chiếc lược ngà”!)
Cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập là những người đã khuất, là tổ
ấm gia đình không còn trọn vẹn.(Người đọc có thể bắt gặp tình huống này một lần nữa
ở truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”). Đó thật sự là tội ác,những đau thương
mất mát mà chiến tranh tàn bạo đã gây ra.Chính chiến tranh đã làm cho con người
phải xa nhau, chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng, chiến tranh khiến cuộc
gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,bị thử thách ,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc
nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh
trên chiến trường. Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu
vô ích,làm nhà nhà li tán,người người xa nhau vĩnh viễn. Song cái chúng ta thấy lại
không có sự bi lụy ma là sức mạnh, lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao
liên dũng cảm, mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau
để cùng đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng,
“Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại, thành công trong việc xây
dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con. Nhân vật ông
Ba-người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng, phải là người từng
trải, sống hết mình vì cách mạng kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với
những con người giàu tình yêu,nhân hậu mà rất kiên cường, bất khuất, nhà văn mới có
thể nhập hồn được vào các nhân vật, sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh
động,bất ngờ, hơn nữa lại có giọng văn dung di,cảm động!
Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại,nhưng từ chính trong gian khổ khốc
liệt,có những thứ tình cảm đẹp vẫn nảy nở: tình đồng chí, tình yêu đôi lứa,tình cảm gia
đình,và cả tình của một người cha với con gái. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một
áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng,với những con người giàu
tình cảm và đẹp đẽ,như nhân vật bé Thu.
Truyện ngắn làng-KimLân
Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945
với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn
quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện
tinh thần kháng chiến của người nông dân
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở
chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công
một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể,
người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình
cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
B- Thân bài
1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê
hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu
làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình
cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện
17
sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. ở ông Hai tình cảm chung
đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.
a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.
- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
- Cái làng đó với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật
chất và tinh thần.
b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình
cảm.
- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê
việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái khong khí
“đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường
hầm bí mật,…” đã xong chưa?
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bình luận, náo nức trước tin
thắng lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy,
hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây
không bước sớm”.
c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong
tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt,
không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm
mặt xuống mà đi.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta
rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại
không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt
ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.
- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cái tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông
thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Không khí nặng nề bao
trùm cả nhà.
- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay
gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có
tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung
thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu
thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như
cắt.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất
khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời
thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách
căng thẳng này:
+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”
nữa là ông, bố của nó.
+ Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi
cho bố con ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
18
Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn
theo giặc).
Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của
kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng,
bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ
dám đơn sai.
d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột
cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi
sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng
chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.
3. Nhân vật ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí
tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ
chiều sâu tâm trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối
thoại và độc thoại.
Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá
tính nhân vật nên rất sinh động.
C- Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc,
chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình
thường.
- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nét mới
trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến
chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong
những thành công đáng quý.
Cảm nhận về tình quê của nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “ Bến quê” của
Nguyễn Minh Châu.
“Quê hương mỗi người chỉ một/ Như là chỉ một mẹ thôi/ Quê hương nếu ai không
nhớ/ Sẽ không lớn nổi thành người” (trích Quê hương- Đỗ Trung Quân). Quê hương
vốn rất gần gũi, bình dị nhưng cũng rất đổi thiêng liêng trong tình cảm mỗi người Việt
Nam. Muôn ngàn tình cảm của con người sẽ hội tụ trong tình yêu quê hương đất nước.
Bởi thế, quê hương đã trở thành đề tài muôn thuở trong thơ ca Việt Nam. Truyện ngắn
“Bến quê” của Nguyễn Minh Châu là tác phẩm tiêu biểu đã để lại nhiều ấn tượng sâu
sắc trong lòng đọc giả. Truyện là tình quê của Nhĩ – nhân vật chính của truyện, một
tình yêu quê hương, đất nước vẻ mới lạ trong văn học Việt Nam.
“Bến quê” là tình cảm mà Nguyễn Minh Châu đã gởi gắm qua nhân vật Nhĩ - một
người từng đi đến khắp nơi tận cùng của Trái đất nhưng đến cuối đời, căn bệnh hiểm
nghèo buộc chân anh vào chiếc giường bệnh, không thể nhúc nhích được. Trong hoàn
19
cảnh đặc biệt này, anh mới nhận ra những nét gần gũi, bình dị của quê hương mình.
Vào buổi sáng đầu thu, nằm trên giường bệnh cảnh vật thiên nhiên hiện ra trước mắt
anh đẹp biết bao. Nhĩ đưa mắt nhìn từ gần ra xa, từ thấp lên cao qua ô cửa sổ nhà
mình. Mấy bông hoa bằng lăng như đậm hơn. Thấp thoáng phía xa là con sông Hồng
với những tia nắng chiếu xuống, nước sông có màu vàng thau đẹp lạ thường. Mọi thứ
tưởng chừng rất đỗi quen thuộc lại trở nên hết sức lạ lẫm trong mắt Nhĩ- Cảnh vật đẹp
quá làm Nhĩ cứ ngắm hoài một cách say mê. Bỗng Nhĩ thấy “vòm trời như cao hơn”,
“dòng sông như rộng ra’. Cảnh vật vẫn hiện hữu bao lâu nay như thế đấy chứ? Đó chỉ
là cái nhìn của một con người có dự cảm sắp phải đi xa, đến một nơi rất xa, xa lắm….
Phải chăng Nhĩ đã nhận ra bằng trực giác của mình một điều: mình không còn sống
được bao lâu nữa? Dự đoán của Nhĩ như thực hơn, rõ hơn sau những câu hỏi anh đã
hỏi Liên- vợ mình: “Hôm nay đã là ngày thứ mấy rồi nhỉ?”. Hình như Liên đã hiểu
những gì Nhĩ đang nghĩ nên chị không trả lời. Không phải ngẫu nhiên mà những bông
hoa bằng lăng trong mắt Nhĩ trở nên đậm sắc hơn, tiếng đất lở ở bãi bồi bên kia sông
lại vang đến tại Nhĩ hay Nhĩ hỏi Liên nhưng câu như thế nó dự báo về quãng đời còn
lại của Nhĩ một cách thật kín đáo, thầm lặng. Những hình ảnh mang tính biểu tượng
được Nguyễn Minh Châu sử dụng khá thành công. Một con người luôn đi đến những
nơi xa lạ như Nhĩ mà lại bị bó chân trên giường bệnh thì không đau khổ nào bằng.
Nhưng chính những ngày này Nhĩ mới được sống bởi lẽ anh đã nhìn rõ được hình ảnh
của quê hương. Đó là những bông hoa bằng lăng, là con sông, là bãi bồi, là vòm trời
quê hương… Lần đầu tiên Nhĩ thấy Liên mặc áo vá. Người vợ mà mà bấy lâu nay anh
chưa quan tâm hết mực nay hiện ra trước mắt anh hình ảnh, một dáng dấp tần tảo, chịu
đựng, giàu đức hy sinh. Mọi sinh hoạt của Nhĩ đều nhờ vào sự chăm sóc của Liên.
Đến lúc này anh mới thấy thương và yêu vợ mình hơn bao giờ hết. Dù bao năm tháng
đã qua đi nhưng nét đẹp của Liên không hề thay đổi cũng như quê hương vậy, vẫn
chan chứa nghĩa tình. Quê hương mình sao đẹp thế? Nhĩ càng ngắm càng yêu quê
hương, yêu thương những gì gần gũi, bình dị của quê mình. Khát khao cuối cùng của
Nhĩ là được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông Hồng nhưng anh biết điều này không
thể. Anh đã nhờ con anh- Tuấn thực hiện ước nguyện này giúp anh. Nhưng nghịch lý
thay! Con anh cũng không làm được điều mà cha mình mong muốn. Tuấn chưa hiểu
được ý muốn của cha và ra đi một cách miễn cưỡng. Và anh sa vào đám phá cờ thế
trên đường để thoả mãn nhu cầu ham chơi, thích khám phá của mình. Nhĩ không trách
Tuấn bởi lẽ anh cũng từng như thế. Hoạ chăng chỉ có những người từng trải như anh
mới hiểu hết được sự đời, mới thấy được những gì mình cần phải làm? Lúc này, Nhĩ
mới nhận ra một triết lý. Con người khó tránh khỏi cái “vòng vèo”, “chùng chình” trên
đường đời để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Những nghịch lý trong
cuộc đời mỗi người không ai có thể lường hết được. Và hai tình huống nghịch lý trong
truyện này cũng là một minh chứng để mỗi người biết cách sống tốt hơn, sống đẹp
hơn.
Mong ước cuối cùng của Nhĩ không thể thực hiện được. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ
một cách xa xăm, đầy mê say. Anh mãi mê hướng mắt theo cánh buồm. Hành động
cuối cùng của Nhĩ: “đu mình ra ngoài cửa sổ, đưa bàn tay ra ngoài vẫy vẫy như đang
ra hiệu cho một ai đó” có vẻ kỳ quặc. Nhưng có thể Nhĩ đang nôn nóng thúc giục con
20
trai mình hãy nhanh chóng để lỡ chuyến đò; hay đó là một sự đánh thức con người
hãy sống khẩn trương, sống có ích, đừng sống vô bổ và tránh xa những cái “vòng
vèo”, “chùng chình” trong cuộc đời. và Nhĩ cũng ra đi trong niềm tiếc nuối. Bến
quê”- nơi neo đậu cuối cùng của mỗi con người. Nhĩ đã mãi mãi vào cõi vĩnh hằng
nhưng trong anh còn chứa bao tiếc nuối. Hoàn cảnh đặc biệt đã đánh thức Nhĩ để anh
nhận ra được những giá trị gần gũi, bình dị của quê hương, để anh thêm yêu quê
hương mình. Con người ta ai cũng thế, bao lần vấp ngã trên đường đời nhưng chủ yếu
là họ có vực dậy mà đi tiếp không. Nhân vật Nhĩ trong truyện đã theo duổi những ước
mơ xa vời nơi chân trời tươi đẹp nhưng anh lại đánh mất hình ảnh của quê hương, của
người thân. Đến lúc Nhĩ nhận ra mọi sự việc thì đã quá muộn màng. Cuộc sống đối
với Nhĩ chỉ toàn là vô vị chỉ khi cuối đời thì phần người chan chứa thi vị trong anh
mới thực sự rõ nét. Dù mãi mãi lìa xa quê hương nhưng anh như được đất mẹ che chở
đến ngàn thu, đây cũng là một niềm hạnh phúc.
Truyện ngắn “Bến quê” khép lại để cho người đọc cảm thấy ngậm ngùi cho cuộc đời
một con người. Nhưng bài học triết lý sâu xa của truyện còn âm ỉ mãi. Trong cuộc
sống có bao lần ta mắc phải cái “vòng vèo”, “chùng chình” của đường đời, hãy sống
sao cho thật có ích, phải biết trân trọng những giá trị gần gũi, bình dị của quê hương
bởi lẽ dù cho ta có đi đến nơi nào thì quê hương vẫn là điểm dừng chân cuối cùng của
cuộc đời mỗi con người. Tình yêu quê hương sẽ là nguồn sinh lực thúc đẩy mỗi chúng
ta hướng tới những ước mơ, khát vọng đích thực trong hương thơm lộng gió của cuộc
đời.
Phân tích nhân vật Phương Định - Truyện: Những ngôi sao xa xôi.
Chúng ta đã từng tự hào về hình ảnh những chiến sĩ lái xe hiên ngang trong Bài
thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật . Lê Minh Khuê, một nhà văn trẻ
thuộc thế hệ thanh niên xung phong thời chống My lại giúp ta được chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của các cô gái trong 1 tổ trinh sát ở tuyến đường Trường Sơn đầy máu lửa nhưng
cũng thật anh hùng . Sự gặp gỡ của những nhân vật này đã giúp người đọc có 1 cảm
nhận đẹp đẽ về tuổi trẻ VN trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ . Nhưng cái tạo
nên sự hấp dẫn của Những ngôi sao xa xôi là sự am hiểu cặn kẽ cuộc sống và tâm lí
tình cảm cùng với những suy nghĩ của những con người trẻ tuổi ở Trường Sơn .
Truyện được kể qua lời 1 nhân vật cũng là nhân vật chính : Phuơng Định .
Đoạn trích trong tác phẩm kể về công việc vô cùng gian khổ của 3 cô gái tổ trinh
sát mặt đường . Duới ngòi bút hết sức chân thực cùng với những tâm tư suy nghĩ của 1
nhà văn nữ và bằng những cảm nhận của những năm tháng hoạt động ở Trường Sơn ,
Lê Minh Khuê đã giúp chúng ta thấy rõ những cô gái mang chí khí bà Trưng Bà Triệu
xung phong ra tiền tuyến. Và chiến trường Trường Sơn huyền thoại được làm nên
bằng xương máu, bằng mồ hôi cùng với bao chiến tích phi thường của những cô gái
VN anh hùng . Ba cô ở trong 1 cái hang dưới chân cao điểm . Nơi máy bay giặc Mĩ
đánh phá dữ dội . Nơi tưởng như ko có sự sống, ko có lá xanh ,cành cây bị tước khô
21
cháy , chỉ có thần chết chờ chực ,thần kinh căng như chão.Thứ sẵn có duy nhất ở đây
là những quả bom: nó sẽ nổ và làm sao đừng để nó cướp đi sinh mạng của mình .
Công việc của các cô là san lấp mặt đường và phá bom - một công việc hết sức quan
trọng và vô cùng nguy hiểm . Để tái hiện lại cảnh phát bom vô cùng nguy hiểm, nhà
văn đã sử dụng những chất liệu hết sức chân thực: cảm nhận của Phương Định . Định
dùng lưỡi xẻng đào đất bỏ gói thuốc mìn xuống, châm ngòi vào dây mìn rồi chạy
nhanh về chỗ nấp . Chị thao thổi còi , bom nổ , mảnh bom xé ko khí, nổ váng óc ,
ngực đau nhói . Chỉ đọc qua mà đã thấy sự nguy hiểm căng thẳng ko thể nào kể xiết .
Bom nổ, hầm sập, Nho bị thương, chị Thao nghẹn ngào và Phương Đinh hát . Cuộc
sống thường nhật của họ là vậy đó : Đến đây ta mới hiểu ý nghĩa sâu xa của lời hát
"Tiếng hát át tiếng bom " nó quan trọng đến nhường nào .Mỗi ngày họ phá bom đến 5
lần ngày nào ít cũng 3 lần . Và họ cũng nghĩ đến cái chết nhưng đó là cái chết rất mờ
nhạt, ko cụ thể, chỉ cháy bỏng 1 điều “ liệu mìn có nổ không" . Đây quả là những hiện
thực quá khắc nghiệt của chiến trường Trường Sơn thời chống My . Đó cũng là những
cảm xúc chân thật của chính tác giả trong những năm tháng ở Trường Sơn .Thế
nhưng , trong hoàn cảnh sống vô cùng
khắc nghiệt đó,hình ảnh Phương Định hiện lên vô cùng đáng yêu đáng mến, một cô
gái Hà Nội xinh xắn nhưng chỉ khiêm tốn nhận mình là "khá" với "hai bím tóc dày,
tương đối mềm" , "cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn", còn đôi mắt, đôi mắt
tuyệt đẹp_đôi mắt mà các anh lái xe vẫn hết lời khen ngợi "Cô có cái nhìn sao mà xa
xăm!".Một vẻ đẹp thật nữ tính và có chiều sâu! Bước chân vào chiến trường,hành
trang duy nhất mang theo là những kỉ niệm về những ngày tháng hồn nhiên của thời
thiếu nữ bên gia đình trong "một căn nhà nhỏ" để rồi cô chợt nhớ nhà, nhớ mẹ,"nhớ
những ngôi sao to trên bầu trời thành phố",nhớ "cái vòm tròn nhà hát" hoặc "bà bán
kem..."...Tất cả như ùa về trong giây lát. Phải chăng chính những kỉ niệm hồn
nhiên,trong sáng của thời thiếu nữ nơi quê nhà thân thương ấy đã làm dịu mát lòng cô
ngay giữa chiến trường bom đạn ác liệt? Phương Định còn rất thích hát, cô thích "dân
ca quan họ mềm mại dịu dàng","thích Ca-chiu-sa của Hồng Quân Liên Xô", thích
"dân ca Ý trữ tình giàu có" , cô hát với một niềm lạc quan , yêu đời tha thiết , tiếng hát
át tiếng bom, và cái ác liệt của chiến tranh cũng đâu thể ngăn cản được niềm vui thích
rất đỗi ngây thơ đến trẻ con của Định , cô "vui thích cuống cuồng" khi bắt gặp một
trận mưa đá trên cao điểm. Chao ôi, có ai ngờ rằng ở người con gái tưởng chừng như
kiêu kì ấy lại có một tình đồng chí , đồng đội gắn bó keo sơn ruột thịt như chị em hơn
bao giờ hết , và "thực tình trong suy nghĩ của cô những người đẹp nhất , thông minh ,
can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên
mũ".Chẳng những Phương Định là một cô gái có tâm hồn trong sáng, nhiều mơ
ước,nhiều xúc cảm mà cô còn là một nữ thanh nien xung phong hết sức can trường
quả cảm nữa.Đáng khâm phục biết bao khi người con gái đất Hà thành ấy đã rời chiếc
ghế nhà trường xung phong vào phục vụ tuyến đường Trường Sơn máu lửa để rồi từng
ngày chạy trên cao điểm,từng giờ từng phút đếm bom rơi,bom nổ , ước lượng khối đất
đá lấp vào hố bom,tậm chí phá bom nếu cần,thật nguy hiểm bởi ngày ngày phải đối
mặt với Tử thần nhưng dường như cô không hề quan tâm đến cái chết,cô luôn đặt
nhiệm vụ lên hàng đầu và hoàn thành tốt công việc. Đọc "Những ngôi sao xa xôi" ta
22
như thấy được ở người con gái ấy hình ảnh của cả thế hệ thanh niên xung phong trong
kháng chiến chống Mĩ cứu nước . Những trang văn của Lê Minh Khuê đã khép lại
nhưng hình ảnh một cô gái Hà Nội với "hai bím tóc dày" đang "ngồi bó gối mơ màng"
bên khung cửa sổ vẫn còn mãi trong lòng người đọc. Nhà văn đã dựng nên 1 tượng đài
về khí phách anh hùng lẫm liệt . Đó là hình ảnh những cô nữ thanh niên xung phong
không tiếc máu xương, sẵn sàng cống hiến sức lực và tuổi trẻ của mình cho sự nghiệp
cứu nước. Phương Định , chị Thao, Nho đã sáng ngời lên trong khói lửa bom đạn .
Chiến công thầm lặng của họ bất tử với năm tháng như những người anh hùng ở ngã 3
Đồng lộc , như lớp lớp thanh niên Việt Nam đã
"Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai."
( Tố Hữu )
Và như nhà thơ Lâm Thị Mĩ Dạ đã từng ca ngợi trong" Khoảng trời và hố bom":
Em nằm dưới hố sâu
Như những khoàng trời đã nằm gần trong đất
Đêm đêm tâm hồn em toả sáng
Những vì sao ngời chói lung linh.
Phân tích bài thơ "Đồng Chí"
Không biết bao mùa thu đã trôi qua kể từ mùa thu Tháng Tám của dân tộc, chiến
tranh đã đi qua trên mảnh đất Việt thân yêu, để lại với đời mùa thu nay tươi đẹp của
hòa bình, hạnh phúc và để lại với lòng người bao chiến công của những chiến sĩ mùa
thu xưa – những mùa thu của cuộc kháng chiến chống Pháp với những con người
“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”(Tây Tiến_Quang Dũng). Họ đã dựng nên tượng
đài bất hủ trong thơ ca về người chiến sĩ Cách mạng. Hình ảnh người lính năm xưa đi
vào thơ ca một cách tự nhiên chân thực như chính họ_những con người quê hương
mộc mạc, giản dị."Đồng chí" là một trong những bài thơ như vậy!
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc sinh năm 1926 tại Cam Lộc-Hà Tĩnh, là một
trong những nhà thơ trưởng thành qua 2 cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.Ngôn
ngữ chọn lọc, hàm súc với cảm xúc dồn nén là những gì ta thường bắt gặp trong
những sáng tác của ông. Bài thơ "Đồng chí" (1948)_tác phẩm được sáng tác bằng
chính những trải nghiệm của thơ trong những năm KC với những cảm xúc sâu
xa,mạnh mẽ.Cùngvới "Nhớ" của Hồng Nguyên,"Tây Tiến" của Quang Dũng,"Đồng
chí" được coi là một trong những bài thơ xuất sắc nhất về đề tài người lính.
"Đồng chí"_nhan đề giàu ý nghĩa."Đồng chí” không chỉ đơn thuần là những người
cùng chung lý tưởng ,chí hướng mà với nhan đề này nhà thơ đã ca ngợi tình cảm gắn
bó keo sơn, sự sẻ chia ngọt bùi giữa những người lính từ nông dân,t ình đồng chí giúp
họ vượt qua khó khăn gian khổ.TÌnh đồng chí luôn tỏa sáng trên mọi bước đường, mọi
hoàn cảnh đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người lính."Đồng chí " còn là kết tinh cao đẹp
nhất của mọi tình cảm thiêng liêng khác.
Cơ sở tạo dựng nên tình đồng chí giữa những người lính đã được nhà thơ thể hiện
rất rõ ở khổ thơ đầu.Thật vậy, họ là những người lính chân lấm tay bùn,khoác lên
23
mình chiếc áo lính ra đi từ những miền quê nghèo lam lũ "Quê hương anh nước mặn
đồng chua/Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá". Đất nước có chiến tranh,lòng yêu nước
tiềm ẩn trong mỗi con người trỗi dậy, họ cầm súng lên đường theo tiếng gọi thiêng
liêng của tổ quốc.Tiếng gọi thiêng liêng ấy như sợi dây vô hình đã kéo những người
lính gần lại với nhau, để họ từ những người "xa lạ" về đây chung một chiến hào, để rồi
từ đó gắn bó thân thiết với nhau"Súng bên súng,đầu sát bên đầu", những "đêm rét
chung chăn" họ bộc bạch , thủ thỉ tâm tình và đôi bạn "tri kỉ" bắt nguồn từ đó.Câu thơ
đối xứng với nhau diễn tả sâu sắc sự giao hòa giao cảm giữa những người bạn tri âm
tri kỉ và trên nữa là tình "đồng chí".Câu thơ thứ bảy chỉ vẹn vẹn có một từ mà như một
hơi thở tạo nên sự trầm lắng tha thiết, nó như thể một nút nhấn trong bản đàn dưới đôi
bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ. "Đồng chí" đã lí giải sâu sắc cho tất cả những gì mà
trước đây từng "xa lạ" "tự phương trời chẳng hẹn quen nhau", giờ đây lại trở thành
những người bạn gắn bó máu thịt. "Đồng chí" _ hai tiếng sao mà thân thương thế, mỗi
lần họ goi nhau bằng hai tiếng hết đỗi thân thương trìu mến ấy thì mọi khoảng cách ,
ranh giới bị xóa nhòa, họ trở thành những người bạn, người thân và trên hết là những
chiến sĩ cùng chung lí tưởng : đứng lên giải phóng quê hương giải phóng ách nô lệ.
Phải chăng tình đồng chí vang lên là kết tinh đẹp đẽ nhất của tình bạn , tình thân , tình
người? Hai tiếng "đồng chí" tưởng chừng như ngắn ngủi ấy lại ẩn chứa bao ý nghĩa
sâu xa, đặc biệt nó có vai trò như một chiếc bản lề khép lại khổ thơ đầu mở ra trước
mắt người đọc khổ thơ tiếp theo.
Đồng chí còn là cảm thông sâu sắc tâm tư nỗi niềm của nhau, những người lính
họ hiểu nhau đến từng nỗi niềm sâu xa,thầm kín của đồng đội mình "Ruộng nương
anh gửi bạn thân cày/Gian nhà không mặc kệ gió lung lay".Từ "mặc kệ" trong câu thơ
đã thể hiện sâu sắc chiều sâu trong tâm hồn người lính, mang dáng dấp của một bậc
trượng phu vì nghĩa lớn dứt áo ra đi bỏ lại sau lưng quê hương với bộn bề công việc
cùng nỗi nhớ của mẹ già,vợ trẻ,đứa con thơ,nhưng không đằng sau hành động tưởng
chừng như dứt khoát ấy là biết bao những bịn rịn,vấn vương. Gác bỏ tình riêng vì
nghĩa lớn, họ quyết chí lên đường nhưng vẫn nặng lòng với quê hương làng xóm, có lẽ
vì vậy mà hình ảnh "giếng nước gốc đa" như làm sống lại trong lòng người lính cái
bóng dáng quê nhà thân thương để rồi tình yêu và nỗi nhớ quê da diết cùng trỗi dậy
tiếp thêm sức mạnh để người chiến sĩ tiếp tục chiến đấu. Đó phải chăng chỉ là tình
cảm của người lính nơi chiến hào gửi về hậu phương hay đó còn là tình cảm của quê
hương, của những người ở lại gửi ra tiền tuyến? Bước chân vào cuộc chiến đấu, họ đã
phải đối mặt với bao chông gai thử thách, khó khăn gian khổ,ai đi lính chẳng từng ít
nhất một lần bị cơn sốt rét rừng hành hạ, dày vò tàn phá cơ thể "Anh với tôi biết từng
cơn ớn lạnh/Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi",câu thơ như nhắc lại một kỉ niệm của
người lính nơi chiến hào,chắc hẳn bạn đọc vẫn chưa quên hình ảnh người lính Tây
Tiến với cơn sốt rét đến xanh da,trụi tóc"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/Quân
xanh màu lá giữ oai hùm". Những người lính , họ không những phải vật lộn chiến
thắng bệnh tật mà họ còn phải đối mặt với sự thiếu thốn về quân trang quân dụng "áo
anh rách vai",quần tôi lại có "vài mảnh vá","chân không giày" hay trong "Nhớ" của
Hồng Nguyên ta lại bắt gặp hình ảnh người lính đang "Lột sắt đường tàu/Rèn thêm
đao kiếm/Áo vải chân không/Đi lùng giặc đánh", có thế ta mới thấm thía nỗi gian lao
24
vất vả của người lính.Trong khó khăn gian khổ họ vẫn nở nụ"cười"của niềm lạc quan,
yêu đời,chính cuộc sống khó khăn thiếu thốn ấy đã làm ngời sáng lên vẻ đẹp phẩm
chất của anh bộ đội cụ Hồ.Trong cái lạnh của rừng đêm, hai người lính trận mạc
chẳng có gì cả,họ chỉ có đôi bàn tay "nắm lấy bàn tay",trong cử chỉ thân thương ấy ẩn
chứa bao xúc động nghẹn ngào không nói lên lời của người lính, họ truyền cho nhau
sức mạnh của niềm tin,nghị lực để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Và dường như
hơi ấm từ đôi bàn tay ấy như lan tỏa rồi làm ấm dần cả bài thơ.Có thể nói, bằng những
câu thơ miêu tả chân thực, nhà thơ Chính Hữu đã phản ánh sự khốc liệt cùng bao gian
nan thử thách của chiến tranh, đồng thời cũng cho ta thấy được chất thơ trong những
gì bình dị, đời thường nhất mà nổi bật lên đó là biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội
thiêng liêng và cao cả.
Tình đồng chí,đồng đội là sợi chỉ dỏ xuyên suốt trong mạch cảm xúc của bài
thơ và tạo nên những nốt ngân tuyệt vời ở ba câu thơ cuối. Bước vào cuộc chiến
tranh, người lính đã phải trải qua bao khó khăn, với thực tại khốc liệt , nghiệt ngã.
Những người lính họ quên sao những đêm đông giá rét, phải đối mặt với sự giá lạnh
đến tê người của "rừng hoang sương muối". Nhưng chính ở cái nơi mà sự sống và cái
chết chỉ còn là gang tấc, họ vẫn "Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" vẫn luôn kề vai
sát cánh bên nhau, vẫn chủ động đón nhận thử thách thậm chí cả sự hinh sinh, trong
cái lạnh của rừng đêm có cái ấm áp , nồng hậu của tình đồng chí, cái trong trẻo của lí
tưởng cách mạng. Tác giả Chính Hữu đã bất ngờ khép lại bài thơ của mình bằng hình
ảnh "Đầu súng trăng treo", hai hình ảnh tưởng chừng như trái ngược nhau . Nhưng
không , đó là sự kết hợp hài hòa giữa cảm hứng hiện thực và lãng mạn,thể hiện cái tài
tình của nhà thơ. Đọc câu thơ , ta như cảm nhận được sự đối lập giữa "súng" và
"trăng", đằng sau khẩu súng trường ấy,người ta thấy được cái khốc liệt nghiệt ngã của
chiến tranh , vẫn câu thơ ấy ta cũng đồng thời thấy được vẻ đẹp êm ái dịu hiền của
"trăng" hòa bình. "Súng" và "trăng" đi liền kề trong câu thơ gợi lên trong lòng người
đọc biết bao liên tưởng thú vị về sự hòa quyện giữa "súng" và "trăng", giữa hiện thực
và lãng mạn, giữa thực tại và mộng mơ, giữa cứng rắn và dịu hiền, giữa chiến sĩ và thi
sĩ. Đó như một biểu tượng đẹp đẽ của tâm hồn con người Việt Nam , vừa can trường
quả cảm nhưng cũng rất đỗi lãng mạn và đầy mộng mơ. Những người lính cầm súng
chiến đấu cho vầng trăng hòa bình , hơn ai hết họ hiểu rằng bảo vệ quê hương đât
nước chính là bảo vệ gia đình người thân. Phải chăng chính vì thế, mà người lính sẵn
lòng chấp nhận và đối mặt với mọi khó khăn thử thách để giành lại cuộc sống ấm no
hạnh phúc? Trang thơ của Chính Hữu đã khép lại từ rất lâu rồi nhưng người đọc vẫn
thấy đâu đây cái dư vị ngân nga về bức tranh và nhất là biểu tượng của tình đồng chí
đồng đội thiêng liêng cao đẹp.
Phân tích hình ảnh " Đầu súng trăng treo " trong bài " Đồng chí" của Chính
Hữu
Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. ở
truyền thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những
mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế
25
nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hữu kết
tinh thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình.
Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”. Thế
mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng
không thiếu nétl ãng mạnđó.Đầu súng trăng treo- đó là một hình ảnh tả thực một bức
tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm
thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình
ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau
vời vợi bỗng hoà quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải
tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người
lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi
sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ… Giờ đây, người chiến sĩ như không còn
vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm
ánh trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay
“đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm
nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn
và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh
nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể là
giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặckệ”,vẫn say sưa với ánh
trăng Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng toả sáng làm ngời
ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng
đội thiêng liêng của những ngươì linh. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội
tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ
đội Cụ Hồ.Đầu súng trăng treo- hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và
trưng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh của thanh bình
hạnh phúc. Súng là con người, trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn
hiến. Súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi
sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí
tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự
thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng
tượng xem: giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính
đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay
nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ
quan bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.Cái thần của câu thơ “Đầu súng
trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét
lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ “lên” cũng không phù hợp, vì nó là hiện
tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu
nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết
được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”vốn
chẳng hề thơ mộng . Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại
“đêm nay” trong một không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và
lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút.
Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng
26
trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba
chiều. ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và
trong hội hoạ nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này:
“ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên
trên quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa. Ai bỏ quên ở
phía chân trời…”. Nhưng có lẽ cô kết nhất, hay nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.
Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hun lấy hình ảnh “Đầu súng
trăng treo” làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là
biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạng nhưng không
thoát li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người
cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ
lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế
lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam nhưng
chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng hình ảnh Đầu súng trăng treo của ChínhHữu.
Nếu như Elsa Trioslet – nữ văn sĩ Pháp có nói “Nhà văn là người cho máu” thì tôi
hãnh diện nói với văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để tạo nên và gởi vào đó bao
nhiêu khát vọng để đến hôm nay đã thành hiện thưc.
Hình tượng người lính trong bài thơ "Tiểu đội xe không kính"
"Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai"
Phải chăng hai câu thơ trên chính là lời ngợi ca tha thiết nhất về hình ảnh thế hệ thanh
niên thời chống My . Họ chính là những chàng trai, cô gái đã không tiếc tuổi xuân của
mình , không tiếc sức lực và xương máu, hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng
Miền Nam, thống nhất đất nước. Một trong những hình ảnh đáng khâm phục đó chính
là các chiến sĩ lái xe trong bài thơ" Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tién
Duật, một tác giả đã từng lăn lộn trong các chiến hào trên con đường Trường Sơn
huyền thoại thời chống My .
Đề tài xe cộ hiếm xuất hiện trong thơ ca từ cổ chí kim. Nếu có thì đó là những chiếc
xe tam mã trong thơ của pus-kin một cách đầy lãng mạn. Còn với Phạm Tiến Duật lại
đưa một hình ảnh thực là những chiếc xe không kính vào thơ. Với hai câu mở đầu tác
giả đã giải thích nguyên nhân về việc xe không có kính " Không có kính không phải ví
xe không có kính/ Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Hai câu thơ này có vẻ giống
như văn xuôi vì từ cách đặt câu cho đến số lượng từ ngữ đều không vần. Hai câu này
được viết với một giọng thản nhiên. Câu thơ thứ nhất có tới ba từ không:" Không có
kính không phải vì xe không có kính" chỉ để thông báo một điều là hiện nay xe không
có kính. Nguyên nhân của việc không có kính này được giải thích ngay ở câu thơ thứ
hai. Không có kính vì bom giật bom rung. Hai câu thơ không chỉ nhằm miêu tả một
chiếc xe khác lạ mà còn diễn tả sự dữ dội của chiến tranh. Chiến tranh là bom đạn, là
mất mát. Các động từ mạng giật, rung, vỡ diễn đạt sự khốc liệt của chiến tranh theo
cấp số nhân.---Xe không chi không kính mà còn không có đèn. Chắc hẳn những chiếc
xe chở hàng ra chiến trường không chỉ bị bom giật bom rung bởi vậy xe không chỉ
không có kình mà còn không có đèn. Cuộc kháng chiến chống Mĩ thời kì đầu của đất
27
nước ta rất ác liệt. Từ việc hành quân đến việc chở hàng, vận chuyển vũ khí đều phải
tiến hành vào ban đêm. Khí thế ấy được Tô Hữu viết trong câu thơ:" Đêm đêm rầm
rập như là đất rung". Chính vì thws mà việc không có đèn khiến cho việc chuyên chở
bằng xe càng gian khổ hơn.--- Thế rồi bom rơi đạn lạc làm cho xe lại không có mui.
Như vậy chiếc xe đã trở nên biến dạng. Xe không có kính, không có đèn, không có
mui thế nhưng thùng xe thì chỉ bị xước bởi đơn giản những chiếc xe vận tải mà không
có thùng xe thì không thể chở đựoc đạn dược, lương thực ra chiến trường. Bởi vậy
thùng xe chỉ đựoc miêu tả là có vết xước mà thôi. Có nhà phê bình đã bình luận đây là
vết xước đáng yêu chứ không phải là thủng, là không có. Có thể nói rằng hình ảnh
chiếc xe không kinh, không đèn, không mui không phải là hiếm trong chiến tranh
nhưng không phải nhà thơ nào cũng nhận ra được và biến nó thành hình ảnh thơ độc
đáo.So với những câu thơ viết về những chiếc xe thì số lượng những câu thơ viết về
người lính nhiều hơn nhưng hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật
những hình ảnh của người chiến sĩ lái xe. Những chiếc xe không kinh, không đèn,
không mui là hình ảnh để người lính bộc lộ những phẩm chất hiên ngang, yêu đời,
tinh nghịch, giàu ý chí chiến đấu.
Trước hết là tinh thần hiên ngang cho thấy thái độ coi thường hiểm nguy của
người lính. Trên những chiếc xe không kính, không đèn, không mui người lính vẫn
vững tay lái:" Ung dung buồng lái ta ngồi". Không chỉ hiên ngang chấp nhận khó khăn
mà người lính còn hiên ngang chấp nhận nguy hiểm. Nào là gió vào xoa mắt đắng,
nào là sao trời và cánh chim ùa vào buồng lái. Song những người chiến sĩ không hề
run sợ mà vẫn đối mặt với những thử thách, giữ vững trận địa là buồng lái. Tác giả sử
dụng biện pháp đảo ngữ. Vị ngữ ung dung được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự tự
tin, bình thản của những người lính lái xe. Ngoài ra còn các điệp từ" nhìn thấy" được
nhắc lại nhiều lần biểu hiện 1 nét đặc trưng của người chiến sĩ, thi sĩ vừa tập trung
hoàn thành nhiệm vụ vừa không quên hướng tới vẻ đẹp thiên nhiên. Thiên nhiên
không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lãng mạn: bầu trời có sao, có cánh chim mà còn có
sự khốc liệt của bụi, của gió, của mưa như là 1 sự thách thức. Không có kính đương
nhiên là có bụi, có mưa, có gió. Chỉ có điều cách diễn đạt của tác giả làm cho chúng ta
thấm thía độ ngang tàng, bất chấp của người lính lái xe đó là " ừ thì", là "chưa cần".
Như vậy trước khó khăn gian khổ mà người lính không 1 lời kêu ca. Lời thơ lúc này
nhẹ nhõm, trôi chảy, nhịp nhàng giống như hình ảnh chiếc xe bon vun vút ra chiến
trường.
Tâm hồn sôi nổi, tình đồng chí đồng đội sâu sắc được thể hiện qua những câu thơ
khổ 3,5,6. Ta thấy những chiến sĩ lái xe là những chàng trai trẻ vui tính. Bom đạn
không làm mất đi sự tinh nghịch. hóm hỉnh. Họ đã " phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn
nhau mặt lấm cười ha ha". Tiếng cười của những chàng trai như 1 khúc nhạn vui xua
đi khó khăn, gian khổ và giựo cảm giác nhẹ nhõm, thanh thản. Họ hồn nhiên tếu táo
nhưng ho cũng thậy đoàn kết. Càng khó khăn gian khổi họ càng gắn bó keo sơn.
Không chỉ chia nhau từng điếu thuốc mà trong bom đạn nguy hiểm những người lính
lái những chiếc xe không kình đã tụ hopk lại thành 1 tiểu đội. Tiếu đội này không phải
là tiểu đội 1 hay tiểu đội 2 mà là tiểu đội xe không kính. Nếu trong bài thơ đồng chí
những người lính thương nhau tay nắm lấy bàn tay thù những người lính trong bài thơ
28
này bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. 1 cái bắt tay qua cửa kính đã vỡ không chỉ là 1 chút
đùa vui mà còn đủ làm ấm lòng, đủ động viên nhau. Cái bắt tay giúp con người xít lại
gần nhau trong nhiều cái chung: chung hoàn cảnh, chung bếp lửa, chung bát đũa và
nhất là chung con đường nơi vô vàn thách thức hiểm nguy phía trước. Ta thấy dù
trong khoảng khắc nào của cuộc hành quân những người lính cũng luôn động viên,
chào hỏi nhau. Trên đường đi họ bắt tay nhau qua cửa kính, lúc nghỉ cùng nhau châm
điếu thuốc, đến bữa ăn cùng chung bát đũa. Tất cả nhận nhau là người cùng 1 gia
đình, để rồi họ lại cùng nhau lên đường:" lại đi lại đi trời xanh thêm". Câu thơ này
không chỉ chan chứa hy vọng về 1 tương lai tốt đẹp đang tới gần mà còn thể hiện tinh
thần lạc quan của người lính. Một số biện pháp tu từ trong bài thơ như: đảo vị trí các
từ trong cụm từ ( phì phèo châm điếu thuốc), hoán dụ ( Những chiến xe từ trong bom
rơi/ Đã về đây họp thành tiểu đội), điệp ngữ ( lại đi lại đi) đã góp phần khảng định vẻ
đẹp tâm hồn của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Ngoài ra họ còn là những con người có ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước. Cùng với những người lính, những chuyến xe chở hàng ra
chiến trường trải qua mưa bom bão đạn không có kính rồi không có đèn rồi thùng xe
có xứơc. Chỉ trong 2 câu thơ mà điệp từ không được nhắc lại 3 lần, 1 mặt để nhấn
mạnh sự khó khăn, mức độ ác liệt của chiến trường, mặt khác lại khẳng định quyết
tâm của những người lính. Xe dù không có kính, dù không có đèn thì xe vẫn bon ra
chiến trường. Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng xe nhưng không thể đè bẹp
được tinh thần chiến đấu của những người lính lái xe. Xe chạy không chỉ vì có 1 động
cơ máy móc mà còn có 1 động cơ tinh thần " vì miền Nam phía trước". Đối lập với tất
cả những cái không có ở trên là 1 cái có đó là trài tim, là sức mạnh tinh thần đã giúp
người lính chiến thắng bom đạn kẻ thù. Trái tim ấy đã thay thế cho tất cả những thiếu
thốn: không kính, không đèn, không mui để tiến lên phía trưốc cho miền Nam thân
yêu. Hầu như trong tất cả những bài thơ đều có 1 từ quan trọng nêu lên chủ đề bài thơ
gọi là nhãn tự của bài thơ. Trong bài thơ này từ trái tim cũng được coi là nhãn tự của
bài thơ. Từ này hội tụ vẻ đẹp, sức mạnh của người lính. Như vậy trái tim người lính là
sức mạnh tinh thần tỏa sáng rực rỡ cho người lính thêm sức mạnh để hướng tới miền
Nam.
Cảm nhận về Ánh trăng (Nguyễn Duy)
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề
tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu
như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ
quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái
ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng”
của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.
Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu
lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái
mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng”
là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri
kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh
cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
29
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của
nhà thơ và trong chiến tranh:“Hồi nhỏ sống với đồng ,với sông rồi với bể, hồi chiến
tranh ở rừngvầng trăng thành tri kỉ” . Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra
trong cái không gian êm đềm và trong sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn
mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc
sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết.
Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà
khó có thể quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách
gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp
xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa
tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho
tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ
trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù.
Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và
cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi
cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng
năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời
người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù,
người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được: “Trần trụi với thiên
nhiên,hồn nhiên như cây cỏ, ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho
âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang
tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất
hồn nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và
giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của
những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài
làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:“Từ hồi về thành phố,
quen ánh điện, cửa gương, vầng trăng đi qua ngõ, như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại
trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người
không thể kháng cự lại sự thay đổi đó. Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần
với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó,
người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể
quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không
quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung
động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép
nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn
thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu
sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những
giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính,
khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt
vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản
30
củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy
ra buộc người lính phải đối mặt:“Thình lình đèn điện tắt ,phòng buyn- đinh tối om,
vội bật tung cửa sổ, đột ngột vầng trăng tròn” Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn
được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái
thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ
và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ
năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn
tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta.
“Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách
móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó
cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn
thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đóan biết trước được. Không ai
mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như
một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những qunh co, uốn khúc . Và chính
trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì
là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đới.
Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó! “Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng, như là đồng là bể, như là sông là rừng. ”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không
bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt
người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong
tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha
của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy
như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có
“sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng
nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào!
Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm
tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến
tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn
ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm
hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở
chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào
lòng người.Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:“Trăng cứ
tròn vành vạnh, kể chi người vô tìnhánh trăng im phăng phắc, đủ cho ta giật mình”.
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí.
“Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy
suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc,trăng chỉ
nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho "ta" giật mình. Ánh trăng như một tấm gương
để cho con người soi mình qua đó, để con người thức tỉnh lương tri. Con người có thể
chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng những giá trị
văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi
người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy
31
thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy
nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ
không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ
năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện
những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm
tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc/./
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy( Bài 2)
Trăng- Hình ảnh giản dị, quen thuộc đã chắp cánh cho những hồn thơ bay bổng để
rồi những tác phẩm tuyệt vời được ra đời. Nếu Chính Hữu đã treo lên một bức tranh
tuyệt đẹp, lãng mạn qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo” thì “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy lại mang một tính chất triết lý thầm kín. Đó là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”.
Đối với nhà thơ, đây là vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng
dửng dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh. Nó như hồi chuông gióng lên, đánh
thức tâm hồn u tối trong mỗi con người. Có thể nói, với mỗi chúng ta, vầng trăng là
một vật thể bình thường mà thiên nhiên, đất trời ban tặng. Nhưng với Nguyễn Duy,
vầng trăng không những là hình ảnh của quê hương mà nó còn là người bạn tri âm, tri
kỷ, là quá khứ nghĩa tình, chan chứa yêu thương, là một quan toà lương tâm trong tận
sâu thẳm tâm hồn nhà thơ. “Hồi nhỏ sống với đồng/ Với sông rồi với bể/ Hồi chiến
tranh ở rừng/ Vầng trăng thành tri kỷ”. Tuổi thơ tác giả được gắn bó với “vầng trăng”,
“với đồng”, “với sông” rồi “với bể”. Những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với mỗi
người dân quê Việt Nam. Đến lúc đi chiến đấu trăng lại như người bạn thân luôn sát
cánh bên người lính, cùng người lính trải nghiệm sương gió, bom đạn của chiến tranh,
của đời lính. Tình cảm gắn bó bao lâu, nay chỉ biết hợp thành hai “tri kỷ”. Một tình
bạn thật đẹp, thật cao cả và trong suy nghĩ của người lính: “Ngỡ không bao giờ
quên/Cái vầng trăng tình nghĩa”. Nhưng rồi năm tháng gian khổ qua đi, nay người lính
năm nào đã xa làng quê thanh bình của tuổi thơ về với thành phố cùng với những tiện
nghi sinh hoạt: “Từ hồi về thành phố/ Quen ánh điện đi qua ngõ/ Vầng trăng đi qua
ngõ/ Như người dưng qua đường”. Những kỷ niệm tuổi thơ hồn nhiên, những ngày
khó khăn trong chiến trường cùng “vầng trăng” đã đi vào dĩ vãng. Người lính năm xưa
đã vô tình lãng quên quá khứ, quên người bạn “tri kỷ” của mình. Dẫu bạn- đồng chí,
có đi ngang qua ngõ thì cũng chỉ là một thoáng lướt qua. Một phần vô tâm của con
người đã lấn át lí trí người lính. Nhưng trong một hoàn cảnh đặc biệt “Đèn điện tắt”,
người lính phải giật mình sững sờ: “Đột ngột vầng trăng tròn”. “Vầng trăng” lại tìm
đến và đối mặt với người lính. Người bạn năm xưa đã tìm đến ? Bao lâu nay người
lính đã quên mất rồi! Nhưng, “đột ngột”- một sự xuất hiện không dự báo trước.
“Trăng cứ tròn vành vạnh/ Kể chi người vô tình/ Ánh trăng im phăng phắc/ Đủ cho ta
giật mình”. Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng- hay quá khứ nghĩa tình vẫn
tràn đầy, viên mãn, thuỷ chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp, quá khứ
vẫn toả sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”,
một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một
32
sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không có một tiếng động nhưng
lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chính là quan toà
lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng
là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ im lặng thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh,
đánh thức con người sau một cơn mê dài đầy u tối.
Chỉ với một “vầng trăng” - “vầng trăng” của Nguyễn Duy cũng có thể làm được
những điều tưởng chừng như không thể. “Ánh trăng” là cội nguồn quê hương, là nghĩa
tình bè bạn, là quan toà lương tâm, là sự thức tỉnh của con người. Trăng vẫn đẹp, quá
khứ vẫn còn và con người vẫn có nhiều cơ hội sửa chữa sai lầm.
Mỗi con người chúng ta có thể đến một lúc nào đó sẽ lãng quên quá khứ, sẽ vô tình
với mọi người nhưng rồi sự khoan dung và độ lượng của quê hương sẽ tha thứ tất cả.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi mãi soi sáng để đưa con người hướng tới tương
lai tươi đẹp. Đạo lí sống thuỷ chung, nghĩa tình với quá khứ, với quê hương sẽ đưa lối
mỗi chúng ta đến với cuộc đời hạnh phúc ở tương lai.
Đoàn thuyền đánh cá
Năm 1958, trong không khí phấn khởi thi đua của toàn miền Bắc tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhà thơ Huy Cận trong 1 dip đi thực tế ở Hòn Gai đã sáng tác bài
thơ "Đoàn thuyền đánh cá". Với âm hưởng vừa khỏe khoắn, vừa sôi nổi lại vừa phơi
phới bay bổng, bài thơ đã ca ngợi sự giàu đẹp cuả vùng biển quê hương và tinh thần
lao động hăng say, phấn khởi của người lao động hăng hái làm việc cho đất nước.
Với đôi mắt quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và nghệ
thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ ra 1 khung cảnh lao động tuyệt đẹp. Mở đầu bài thơ,
tác giả giới thiệu không gian và thời gian đoàn thuyền đánh cá ra khơi:
"Mặt trời xuống biển... ....sập cửa". Một bức tranh thiên nhiên đẹp, có cái thoáng
rộng của ko gian và thời gian của 1 ngày đang khép lại. Trong cái mênh mông ấy nổi
bật lên hình ảnh mặt trời đc ví như "hòn lửa" đỏ rực gợi tả màu sắc sinh động của buổi
hoàng hôn trên biển đang chuyển về đêm. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ
trụ trong khoảnh khắc đã phủ bóng tối mịt mùng, còn những con sóng như chiếc "then
cài" của ngôi nhà vĩ đại ấy. Biện pháp nhân hóa "sóng đã cài then, đêm sập cửa" khiến
thiên nhiên như những con người biết hoạt động, biết nghỉ ngơi. Cảm hứng vũ trụ, các
biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa đã tạo nên những vần thơ đẹp cho người đọc nhiều
ấn tượng. Khi vũ trụ đi vào trang thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu hoạt động :
"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi câu hát căng buồm cùng gió khơi"
Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ mà là cả 1 đoàn thuyền, một sức mạnh mới của
cuộc đời đổi thay đang bắt đầu căng buồm. Từ "lại" trong cụm từ "lại ra khơi" là sự
khẳng định nhịp điệu lao động của người dan chài đã ổn định, đã đi vào nề nếp. Đoàn
thuyền ra khơi với khí thế căng trào. Cảnh tượng ấy thể hiện wa nghệ thuật tương
phản: giữa cảnh ngày tàn với đêm mở ra, giữa cái tĩnh (vũ trụ) và cái động (con
người).Nhạc điệu cũng có sự đối lập: tả vũ trụ với những vần trắc liên tiếp (lửa-cửa)
như khép lại, và những vần bằng (khơi-khơi) như mở ra, ngân nga kéo dài . Sự đối lập
33
ấy giúp người đọc cảm nhận đc nỗi vất vả của việc đánh cá về đêm. Công việc đánh
cá ban đêm trên biển là công việc nặng nhọc, đầy bất trắc nhưng đoàn quân xông trận
vẫn cất cao tiếng hát. Tiếng hát vút lên cùng với những cánh buồm lộng gió."Câu căng
buồm cùng gió khơi". Một chi tiết lãng mạn đầy sáng tạo đc xây dựng bằng trí tưởng
tượng, liên tưởng, khiến ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh thổi căng cánh
cánh buồm đẩy thuyền rẽ sóng ra khơi. Cánh buồm no gió, no tiếng hát biểu hiện niềm
lạc quan, phấn khởi, nhiệt tình lao động của đoàn thuyền. Vẫn nhịp thơ sôi nổi, hào
hứng, khổ thơ tiếp theo là nội dung lời hát thể hiện tâm tư người lao động:"Hát rằng
cá bạc biển Đông lặng". Đó chính là ước mơ của bất kỳ người dân biển nào, ước mơ
trời yên bể lặng, mong mỏi đánh bắt đc nhiều cá và là niềm say mê sự giàu đẹp của
quê hương.Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng đôn hậu của những ngư dân từng
trải qua nhiều nắng gió, bão tố trên biển. Lời thơ là một trường liên tưởng nối tiếp với
những hình ảnh so sánh, nhân hóa sinh động: "Cá thu...muôn luồng sáng"
Từng đàn cá thu lao trên mặt biển như "đoàn thoi" trong máy dệt. Con thoi mang
sợi tơ dệt vải thì cá thu mang ánh sáng phản chiếu lấp lánh dệt nên muôn luồng sáng
lung linh, kỳ ảo trên thảm biển. Và từ đó, tác giả lại liên tưởng : "Đến dệt lưới ta, đoàn
cá ơi!". Thật là 1 sự tưởng tượng độc đáo. Từ hình ảnh đoàn cá "dệt biển" mà kêu gọi
"đến dệt lưới ta" đã nói lên ước vọng đánh bắt đc nhiều cá. Quả thật, sự say mê vẻ đẹp
của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn, vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh
cho con người chinh phục thiên nhiên. Những từ ngữ trong khổ thơ:"cá bạc", "cá
thu","đoàn cá", "dệt biển", "dệt lưới" khiến câu hát như 1 điệp khúc nhấn mạnh sự
giàu đẹp của biển cả quê hương . Hai khổ thơ có giá trị tạo hình đặc sắc, vẽ lại bức
tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng và màu sắc, tràn đầy sức sống mãnh
liệt. Trong đó con người đã hòa hợp với thiên nhiên hùng vĩ, bao la và thậm chí, vượt
qua cả thiên nhiên nữa.
Mở đầu khổ thứ ba là hình ảnh đoàn thuyền lướt đi giữa trờ cao biển rộng có cái
lâng lâng, sảng khoái lạ thường: "Thuyền ta lái gió.... .....biển bằng"
Hai câu thơ đẹp như 1 bức tranh Iồng lộng trời mây, mênh mông biển cả. Hình ảnh
đoàn thuyền được làm đẹp thêm bởi 1 sức tưởng tượng kỳ lạ, giàu chất lãng mạn: gió
là người, trăng là cánh buồm. Cách nói như vậy giúp ta cảm nhận được thuyền và con
người như hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lâng lâng trong cái thơ mộng của trời,
biển, gió, trăng. Từ "lướt" đặc tả cảnh đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường;
thiên nhiên cùng góp sức với con người trên cn đường lao động và khám phá. Tư thế
ra khơi nhẹ nhàng, thoải mái, đầy khí thế đó chỉ có ở những con người vừa thoát khỏi
kiếp sống nô lệ, được làm chủ sản xuất, làm chủ đất trời, sông biển của mình. Nhưng
lao động ko fải là 1 cuộc du ngoạn. Hai câu thơ tiếp khắc họa hình ảnh 1 trận đánh, 1
cuộc chiến đấu với thiên nhiên bằng tất cả trí tuệ và năng lực nghề nghiệp. Nhịp thơ
trở nên hối hả, lôi cuốn: "Ra đậu dặm xa dò bụng biển ....lưới vây giăng"
Bên cạnh cái ung dung, sảng khoái của người dân chài, ta vẫn cảm nhận được nỗi
vất vả của họ. Họ phải vượt bao dặm biển trong trời đêm, rồi phải "dò bụng biển", tìm
ra bãi cá, "dàn đan thế trận" để bủa lưới bắt cá. Lúc này, mỗi thủy thủ là 1 chiến sĩ, 1
chiến sĩ trên biển và con thuyền, mái chèo, lưới, các ngư cụ khác chính là vũ khí của
họ. Huy Cận phải có sự am hiểu sâu sắc về nghề chài lưới này và lòng thông cảm với
34
người lao động mới vẽ nên bức tranh vừa hiện thực, sinh động mà lãng mạn ấy.
Bức tranh lao động đươc tô điểm bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ
đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:"Cá nhụ...vàng choé"
Bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ dẫn ta vào một cõi huyền ảo của
biển trời với bao nhiêu loài cá mang màu sắc lung linh kì ảo dưới ánh trăng. Nghệ
thuật liệt kê và điệp từ "cá" như khắc họa rõ từng đừơng nét, góp phần làm biển trở
nên thơ mộng vô cùng. Cách diễn tả như vậy giúp ta cảm nhận cái giàu đẹp của biển,
vì tất cả ánh sáng, màu sắc đều là của cá và do cá tạo nên. Con cá song là 1 nét vẽ tài
hoa. Vẩy đen, hồng, lấp lánh trên biển như nước lân tinh chan hòa trong ánh trăng
"vàng choé". Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối
màu sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như 1 bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như
những nàng tiên trong vũ hội.Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm
thanh.Nhìn bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm: "Đêm thở :sao lùa
nước Hạ long". Biển đêm như được nhân hóa như một sinh vật của đại dương: nó
"thở". Nhịp thở của đêm là tiếng sóng vỗ rì rào, cao thấp. Sao phản chiếu lấp lánh trên
từng đợt sóng "lùa", mặt nước càng làm tiếng thở có vẻ kỳ ảo. Nó là sự độc đáo, mới
lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Lao động trong 1 khung cảnh nên thơ như vậy quả là thú
vị. Cùng với chất lãng mạn, bay bổng, người dân chài cất lời hát tả lại công việc lao
động với niềm tự tin và yêu đời mãnh liệt:"Ta hát bài ca....trăng cao". Bài hát căng
buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biến lao động cực
nhọc thành niềm vui. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm chất thơ mộng của bức
tranh. Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, nhưng đây ko phải là con người mà
ánh trăng: trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ vào mạn thuyền thành hình ảnh "nhịp
trăng" gõ thuyền. Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hình ảnh lãng mạn,
giàu chất thơ. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển cả và con người là cái nhìn tươi tắn,
lạc quan, ông như hòa nhập vào công việc, vào con người, vào biển cả. Và cảm xúc
dâng trào, tác giả cất lên tiếng hát ca ngợi biển:"Biển cho ta cá......thưở nào"
Biển giàu, biển đẹp, biển đem hạnh phúc đến cho con người. Biển hào phóng cho
con người nhiều tôm cá, muối, hải sản... Biển như lòng mẹ đã nuôi sống dân ta từ bao
đời nay. Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân thành có âm hưởng ca dao. Hình ảnh so
sánh "như lòng mẹ" quen thuộc, có sức truỳen cảm mãnh liệt, thể hiện tình yêu biển,
yêu đời chan chứa của những con người gắn bó với biển từ bao đời, bao thế hệ.
bóng đêm đang dần tàn, một đêm trôi wa thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào
hứng, hăng say. Trên bầu trời, sao đã thưa và mờ. Ngày đang đến, nhịp độ lao động
ngày càng khẩn trương, Cảnh kéo lưới đc miêu tả đầy ấn tượng.
"Sao mờ kéo lưới.... ....chùm cá nặng" . Nhịp thơ 2-2-3 phù hợp với nhịp lao động
khẩn trương. Hình ảnh "kéo xoăn tay" miêu tả dáng nười dân chài choãi chân, nghiêng
mình trụ vững, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn trông mới đẹp làm
sao! Trong cái "chùm cá nặng" như có sức ẩn chứa bao niềm vui tươi, sung sướng của
người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được.
Lưới kéo lên, những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh màu sắc.
Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá 'lóe rạng đông".
Nghệ thuật dùng từ của tác giả thật điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới
35
ánh bình minh đều được miêu tả tuyệt đẹp . "Vẩy bạc đuôi vàng ... đón nắng hồng"
Câu thơ có màu sắc rực rỡ, nó mang lại thi vị, vẻ hấp dẫn riêng cho việc kéo lưới
bình thường. Câu thơ cuối nhịp gọn, dứt khoát:"Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng"
Lời thơ giản dị biểu hiện niềm thư thái của con người: lưới xếp nghỉ, kéo buồm lên,
trở về trong buổi bình minh. "Nắng hồng" ko những khắc họa đc vẻ đẹp tươi sáng của
bầu trời mà còn thể hiện đc lòng êu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng của 1 ngày mới,
một cuộc đời mới đang chào đón mọi người."Câu hát căng buồm... ...muôn dặm phơi"
Bài thơ kết thúc bằng 1 hình ảnh đẹp của 1 ngày mới, khi đoàn thuyền trở về với cá
đầy ắp:mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi .. Mở đầu bài thơ là hình ảnh "mặt trời
xuống biển và kết thúc bài thơ là hình ảnh "mặt trời đội biển" nhô lên giữa những
sóng nước mênh mông. Thiên nhiên thật tráng lệ, không khí lao động tràn trề hứng
khởi bởi niềm vui chiến thắng, với thái độ nhiệt tình, lòng yêu lao động sâu sắc .
Khép lại bài thơ là một tương lai tươi sáng hơn trong công cuôc xây dựng đất nước.
"ĐTĐC" là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bằng bút pháp lãng mạn, nhịp
thơ khỏe với trí tưởng tượng mới mẻ, độc đáo, HC đã ca ngợi sự giàu đẹp của biển
quê hương, và đặc biệt là hình ảnh người lao động được miêu tả với nhiều vẻ đẹp: sự
sảng khoái của người làm chủ đất nước, nhiệt tình lao động với tất cả tình yêu biển,
yêu nghề. Vì vậy, đọc bài thơ ta càng thêm yêu đất nước và con người lao động VN
Bếp lửa (Bằng Việt)
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ
hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất,
nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc
đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên
bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm
trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận
điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành
trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “ Bếp lưả” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19
tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về
người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của
người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước.
Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất
khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:
“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói ”
Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập
chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng
tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà
đã trải qua “ biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa
nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu
thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy,
trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu
36
thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm
mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được vàcung chính t? đó,
sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ.
Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm
tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ
thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi
thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có bá tiên,
có phép màu thí trong câu chuyện của băng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm
đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không
khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che
" Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói... Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! ” . Chính
“mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói
ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức
ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy
“sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng
của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa... tha thiết thế . “Cháu cùng bà nhóm lửa”,
nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng .Chính hình ảnh bếp lửa
quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức
khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như
giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng
là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho
cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm
bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về
trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ nững cánh đồng
xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ
niệm của đứa cháu trải dài hơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của nỗi nhớ
thương.
Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác
giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống
Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm: “Mẹ cùng cha bận công tác không về... trên
những cách đồng xa”. Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời
làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời
gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.?
cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ
mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu.
Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một
khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đoiá với
Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của
riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong
những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn,
giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái,
những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về
37
cách sống, đạo làm người. Nững bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời
còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thất sự một chỗ dựa
vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu be ùbỏng. Cho nên khi bây giờ
nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người
cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,... Thi sĩ
bổng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện
nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ
“bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi,
gắn bó, quấn qúit không rời. Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả
của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà
cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt,
nhà bị giặc đốt cháy rụi...“Năm giặc đốt làng ... vẫn được bình yên!’
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền
vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần
cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị
đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong còn, bà dù có đau khổ thế nào
cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn,
dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng
chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này
kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất
chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào
trong để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà
của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam ,
người mẹ Việt Nam anh hùng yêu nước , giàu đức hi sinh, thương con qúy cháu.
Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn, một
ngọn lửa: “Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,... niềm tin dai dẳng”.
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa
của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn
lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có
ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu. Những dòng thơ cuối bài cũng chính
là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thớ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cũng là
bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản:“ Nhóm bếp lửa ấp iu,
nồng đượm”. Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở
cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà
cháu.“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã
truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng
không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩ tình, những năm tháng khó khăn
mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia
nhau từng củ sắn, củ mì.“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra
với mọi người , phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.
" Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa "
38
Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà bà còn là người nuôi
dưỡng tâm hồn trẻ thơ , làm thức dậy ở tuổi thơ đạo lí làm người . Người bà có trái
tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn
đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh
những người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
“Tiếng gà trưa Mang bao nhiêu hạnh phúc... nằm mơ, Giấc ngủ hồng sắc trứng.”
Suốt dọc bài thơ, mười lấn xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới
bà.Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vao
bãi biễn xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng
nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành một người không thể
thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn
luôn hướng lòng mình về bà:“Giờ cháu đã đi xa... bà nhóm bếp lên chưa?”
Xa vòng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trơì mới, chính tình cảm cuả hai bà
chaú đã sươỉ ấm lòng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu
nhỏ cuả bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vần luôn nhớ về góc bếp,
nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đưá cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào
quên được, vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu đã trưởng thành .
Đọc xong bài thơ, nhắm mắt laị tưởng tưởng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh
bếp lưả hồng và dáng ngươì bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này hiện
lên thật sống động, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy...” (Văn Giá). Bài thơ Bếp
lưả sẽ sống maĩ trong lòng bạn đọc nhờ sưc truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã
khơi dạy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những ngươì
đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng cuả ta /./
Nói với con- YPhương )
Y Phương, nhà thơ dân tộc Tày, góp vào thơ Việt Nam một giọng thơ lạ, đậm chất
miền núi, lối tư duy bằng hình ảnh. "Nói với con" là thi phẩm tiêu biểu cho phong
cách thơ của Y Phương. Bài thơ có hai mươi tám dòng với những câu thơ dài ngắn
đan xen nhau tạo sự linh hoạt về nhịp điệu , thể hiện thế giới tình cảm muôn màu ,
muôn điệu của người miền núi.Bài thơ là khúc tâm tình của một người cha dành cho
con, cho bản làng quê hương.....Là người dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên nơi núi rừng
đại ngàn phóng khoáng . Bởi th ế cách nói ,cách viết của ông cũng thể hiện sự mộc
mạc, giản dị, cụ thể, giàu sức khái quát và cũng giàu chất thơ .Thơ ông đậm chất suy
tư, giàu trải nghiệm về lẽ sống, đạo lý làm người, về sự gắn bó với quê hương đất
nước. Nói với con là bài thơ viết về tình cảm gia đình, quê hương và ước vọng của cha
mẹ gửi vào những thế hệ sau có rất nhiều tác phẩm., là lời tâm tình, dặn dò của người
cha đối với con, đi từ tình cảm của gia đình mà mở rộng ra là tình cảm quê hương đất
nước , từ những kỉ niệm gần gũi, thân thương mà nâng lên thành lẽ sống, đó là tình
cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống
39
Nhan đề bài thơ là lời dặn dò tâm tình của người cha đối với con - mượn lời nói với
con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, gợi về sức sống mạnh mẽ,
bền bỉ của quê hương, dân tộc mình. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh một mái ấm hạnh
phúc, người con được nuôi dững, chở che trong vòng tay ấm áp của cha mẹ.Lời thơ rất
đặc biệt, nói bằng hình ảnh, cách hình dung cụ thể để diễn tả ý trừu tượng của người
miền núi khiến câu thơ mộc mạc mà gợi cảm: bước chân đ ầu đời của con đã được sự
nâng niu dìu dắt của cha mẹ .Cha nói với con lời đầu tiên đó để nhắc nhở con về tình
cảm gia đình là cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người
Sau khi nh ắc nh ở con v ề cội nguồn sinh d ưỡng , cha còn nói với con về sự bảo
bọc của quê hương trong việc nuôi dưỡng tâm hồn con người :
" Người đồng mình ... cho những tấm lòng "
Con trưởng thành trong cuộc sống lao động cần cù, tươi vui, nên thơ của quê
hương. Cuộc sống đầm thắm nghĩa tình đó được diễn tả bằng những hình ảnh về
cuộc sống lao động tài hoa, yêu đời , diễn tả sự gắn bó quấn quýt của quê hương .
Không chỉ có người dân quê hương , mà rừng núi thiên nhiên thơ mộng cũng che chở
và nuôi dưỡng con về tâm hồn và lối sống . Quả là con người nơi quê hương yêu
thương nhau thật trong sáng, hạnh phúc. Quê hương mang vẻ đẹp truyền thống văn
hóa, tinh thần và sự gắn bó giữa người dân quê hương thật ấm áp, giàu nghĩa tình.
Quê hương đằm thắm nghĩa tình , giàu truyền thống văn hoá đẹp, còn người dân quê
hương thì có những đức tính cao đẹp . Đó cũng là lời mà người cha muốn nói với con
Cuộc sống nhiều vất vả, khó khăn nhưng người đồng mình có 1 sức sống mạnh mẽ,
khoáng đạt, bền bỉ gắn bó với quê hương dẫu còn cực nhọc, đói nghèo :
" Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đ ói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc."
Tuy cuộc sống còn nhiều gian khổ khó khăn , nhưng tâm hồn của họ luôn lạc quan,
vui vẻ, yêu đời. Đó là tâm thế, bản lĩnh của con người Việt Nam, mộc mạc nhưng giàu
chí khí và niềm tin vượt lên trên mọi khó khăn thử thách .
Không chỉ thế, người đồng mình còn có sức mạnh và ý chí lớn lao, hay phải chăng
chính tinh
thần đoàn kết đã giúp họ làm nên tất c ả :
" Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương ... nhỏ bé đâu con."
Mong ước của cha: con luôn nghĩa tình, thủy chung với quê hương, biết vượt qua mọi
khó khăn, gian khổ, chấp nhận gian lao, thử thách bằng ý chí, niềm tin của mình. Biết
tự hào, gắn bó với truyền thống quê hương. Trước thử thách, khó khăn không được
sống tầm thường, hèn kém mà cần có ý chí , nghị lực vươn lên trong cuộc sống .
" Người đồng mình tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé đựơc
Nghe con "
Tình cảm của cha: tình yêu thương tha thiết, trìu mến, niềm tin tưởng thế hệ trẻ nối
tiếp truyền thống tốt đẹp của quê hương, khuyên con bài học đạo lí làm người, lẽ sống
40
ở đời, biết giữ lấy cốt cách của người đồng mình .Tình cảm quê hương đất nước là
tình cảm thiêng liêng, nuôi dưỡng và nâng đỡ trở lên lớn lao , kiêu hãnh
Với phương thức biểu cảm , thể thơ tự do , giọng thơ: thiết tha, trìu mến, tâm tình,
lời thơ: giản dị, chắc nịch mà lay động thấm thía làm mát tâm hồn mỗi chúng ta bởi
chất thơ hồn nhiên, đậm đà hình ảnh: cụ thể. khái quát mà giàu chất thơ, bài thơ thể
hiện sự gắn bó từ tình cảm gia đình, quê hương đến lúc đi xa, hình ảnh quê hương trở
thành hành trang tinh thần không thể thiếu trong mỗi con người .Bài thơ là sự chuyển
giao thế hệ, thể hiện tình cảm gia đình ấm áp,ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống
mạnh mẽ của dân tộc, gợi nhắc tình cảm gắn bó với quê hương và ý chí vươn lên.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác - Viễn Phương
“Viếng lăng Bác” là bài thơ giàu chất trữ tình đằm thắm, thiết tha , được Viễn
Phương sáng tác trong dịp đến thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Bác Hồ - vị cha già
kính yêu của dân tộc.Với niềm xúc động chân thành, nhà thơ đã bày tỏ lòng kính yêu,
biết ơn sâu sắc, niềm thương nhớ Bác khôn nguôi:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác…
….. Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
( Tháng 4/1976 )
Hòa cùng nguồn cảm xúc dạt dào của nhà thơ, chúng ta sẽ cảm nhận và rung động
sâu xa trước tình cảm chân thành, thắm thiết của người con miền Nam đối với Bác Hồ
kính yêu.
Như một người con xa, nay mới có dịp được trở về viếng thăm “người cha” đã
khuất, Viễn Phương vô cùng bồi hồi, xúc động:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát…
Trong tâm trạng của người con miền Nam “mong Bác nỗi mong cha”, nhà thơ bày
tỏ tình cảm chân thành, tha thiết của mình đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. Tác
giả xưng “con” biểu lộ tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng đối với Bác.
Giờ đây, đứng trước lăng mộ của Người, trong lòng nhà thơ dâng trào bao xúc động,
nghẹn ngào. Nguồn cảm xúc ấy cứ dâng trào mãnh liệt:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Từ cảm “ôi” đã diễn tả niềm cảm xúc sâu xa của nhà thơ trước cảnh tượng thiêng
liêng nơi lăng Bác.
Hình ảnh gợi tả “hàng tre xanh xanh” thật gần gũi, thân thương, biểu tượng cho
làng quê Việt Nam tràn đầy sức sống dồi dào, mãnh liệt. Dù có phải trải qua bao “bão
táp mưa sa” nhưng hàng tre vẫn xanh tươi, vẫn vươn lên mạnh mẽ. Từ bao đời nay, tre
đã trở thành biểu tượng cho con người Việt Nam có chí khí cao cả, có sức sống bền bỉ,
dẻo dai, kiên cường, bất khuất:
“Loài tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã thẳng như chông lạ thường.”
( Tre Việt Nam – Nguyễn Duy )
41
Trong tâm hồn nhà thơ thì hình ảnh hàng tre đứng quanh lăng Bác biểu tượng cho
toàn thể dân tộc Việt Nam đã hợp thành đội ngũ trang nghiêm, chỉnh tề, vững vàng
bên lăng Bác. Dù trong hoàn cảnh nào, cả dân tộc vẫn giữ trọn tấm lòng thành kính
hướng về Bác.
Với tấm lòng thành kính Viễn Phương tiếp tục suy tưởng khi đứng trước lăng Bác,
ngợi ca công ơn của Người:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của thiên nhiên, nguồn ánh sáng rực
rỡ, vĩnh viễn, bất tận trên thế gian này. Ánh sáng mặt trời đem lại sự sống cho con
người và vạn vật
Từ hình ảnh thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng và sáng tạo một hình ảnh ẩn dụ tinh
tế, tài tình, độc đáo, “mặt trời trong lăng rất đỏ” để ca ngợi công ơn to lớn và sự cao
cả, vĩ đại của Bác. Trong tâm hồn Bác ngời sáng một vầng hào quang rực rỡ như
nguồn sáng của mặt trời đã đem lại sự sống cho con người, vạn vật. Đó cũng chính là
vầng hào quang chói lọi của lí tưởng cách mạng mãi mãi soi sáng cho dân tộc Việt
Nam vững bước trên con đường phía trước, con đường vươn tới một tương lai tốt đẹp
– một đất nước Việt Nam giàu mạnh.
Trong trái tim của Bác còn tỏa sáng tình yêu thương nồng ấm, thiết tha đối với dân
tộc và đất nước. Nhu nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Bác ơi! Tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”
Với niềm xúc động chân thành, Viễn Phương đã bày tỏ lòng yêu kính, biết ơn sâu
sắc đối với Bác:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Hình ảnh tiêu biểu, sinh động “dòng người đi trong thương nhớ” gợi lên trước mắt
người đọc cảnh nhân dân từ mọi miền đất nước về thủ đô Hà Nội để viếng thăm lăng
Bác.
Trong tình cảm nhớ thương, biết ơn Bác vô hạn, họ kết thành những “tràng hoa” đời
tuyệt đẹp thành kính dâng lên Bác. Những tràng hoa tươi thắm ấy tượng trưng cho
muôn triệu cuộc đời nở hoa dưới ánh sáng mặt trời rực rỡ của Bác. Cả dân tộc đời đời
tưởng nhớ và ghi khắc trong lòng công ơn to lớn của Bác.
Với lòng biết ơn vô hạn, Viễn Phương đã sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, giàu ý nghĩa
tượng trưng “bảy mươi chín mùa xuân” để ca ngợi sự cống hiến, hi sinh cao cả của
Bác Hồ kính yêu. Cuộc đời của Người là “bảy mươi chín mùa xuân” tươi đẹp, cống
hiến trọn vẹn cho dân tộc, cho đất nước. Suốt hơn nữa thế kỉ, Bác đã chiến đấu, hy
sinh để đem lại độc lập tự do cho dân tộc, đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân. Sự cống hiến của Bác thật cao cả, vĩ đại! Vì vậy Bác còn sống mãi
trong niềm ngưỡng mộ, tôn kính của nhân dân.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
42
Bác đang yên nghỉ giữa lòng quê hương, đất nước thân yêu. Tác giả đã chọn lọc
một hình ành đặc sắc, sinh động, giàu sức gợi cảm “vầng trăng sáng dịu hiền” để ca
ngợi tâm hồn trong sáng cao đẹp tuyệt vời của Bác. Trong cảm nhận của nhà thơ, Bác
mãi mãi là một vầng trăng ngời ngời tỏa sáng tình yêu thương cho con người và cuộc
đời.
Hình ảnh của Bác vừa vĩ đại, vừa bình dị và gần gũi. Bác được ví như vầng trăng
vĩnh hằng của trời đất, tượng trưng cho sự bất tử của Bác. Vị cha già kính yêu của dân
tộc còn sống mãi cùng non sông, đất nước, sống mãi trong tâm trí mỗi người dân đất
Việt.
Trong tình cảm của dân tộc thì Bác vẫn còn sống mãi nhưng trong thực tế, Bác đã
vĩnh biệt chúng ta. Vì vậy, nhà thơ vô cùng đau đớn thương tiếc Bác:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Viễn Phương đã sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” rất tinh tế và giàu sức gợi cảm
để ca ngợi sự bất tử của Bác. Bác đã đi xa nhưng sự nghiệp cách mạng cao cả của
Người vẫn luôn tồn tại như bầu trời cao xanh kia. Hình ảnh Bác vẫn mãi soi sáng, sát
cánh cùng non sông đất nước, trong tâm hồn dân tộc. Nhưng sự thật vẫn là sự thật,
Bác đã ra đi, Viễn Phương nghe mà “nhói ở trong tim”. Hình ảnh “nghe nhói ở trong
tim” đã diễn tả chân thực, giàu cảm xúc nỗi nghẹn ngào, tiếc thương, đau đớn của tác
giả. Đó là nỗi đau của người con miền Nam bao năm mong ước được gặp Bác và cũng
là nỗi đau chung của cả dân tộc. Bác ra đi là một mất mát lớn lao không gì bù đắp
được. Dân tộc đã mất đii một vị lãnh tụ vĩ đại, một người cha già kính yêu. Cảm xúc
ấy dường như đã len lỏi vào từng câu từng chữ, khiến người đọc cũng không khỏi
nghẹn ngào.
Khi tạm biệt Bác để trở về miền Nam , trong lòng nhà thơ dâng trào một nỗi buồn
thương da diết:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Hình ảnh chứa chan cảm xúc “thương trào nước mắt” diễn tả cái cảm xúc đang
dâng trào mãnh liệt trong lòng tác giả. Nhà thơ lưu luyến, nhớ thương, xúc động,
nghẹn ngào, không muốn rời xa người cha già kính yêu
Với tất cả tấm lòng thành kính, biết ơn Bác, người con miền Nam đã bày tỏ ước
nguyện tha thiết của mình:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Điệp ngữ “muốn làm” được đặt ở đầu 3 câu thơ liên tiếp nhau gắn liền với hình ảnh
“con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương” và “cây tre trung hiếu” thể hiện ước nguyện giản
dị, chân thành và sâu sắc của nhà thơ. Trước anh linh của Bác, người con miền Nam
xin hứa luôn giữ mãi phẩm chất cao đẹp, trong sáng, cốt cách của con người Việt Nam
để mãi mãi xứng đáng là lớp cháu con của Bác.
Hình ảnh nhân hóa sinh động giàu sức biểu cảm “cây tre trung hiếu” gợi lên hình
ảnh những người con trung kiên, hiếu nghĩa, một lòng vì nước vì dân. Tác giả nguyện
sống xứng đáng là người con trung hiếu của dân tộc. Lời hứa đó thể hiện tình cảm
43
thành kính thiêng liêng của người con miền Nam và của nhân dân cả nước thành tâm
hướng về Bác vô hạn.
Bài thơ giàu chất trữ tình đằm thắm, thiết tha. Với những hình ảnh ẩn dụ tinh tế,
giàu tính thẩm mĩ và các biện pháp tu từ đặc sắc… đã thể hiện tình cảm chân thành,
thiết tha, sâu sắc của nhà thơ và đồng bào miền Nam đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ muôn
vàn kính yêu của dân tộc.
Bác tuy đã đi xa nhưng những phẩm chất cao đẹp, sự cống hiến to lớn, cao cả và sự
nghiệp cách mạng vĩ đại của Bác sẽ luôn sống trong hàng triệu trái tim của những
người con đất Việt.
Là những HS còn ngồi trong ghế nhà trường, là thế hệ tương lai tiếp bước cha ông,
chúng em sẽ nguyện cố gắng thật nhiều, trong học tập lẫn rèn luyện đạo đức, để thực
hiện được ước mong của Bác Hồ kính yêu:
“Tuổi xanh vững bước lên phơi phới
Đi tới như lòng Bác hằng mong.”
Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
“Nếu là con chim, chiếc lá, Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà
không trả, Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”(Tố Hữu)
Tố Hữu – nhà thơ cùng quê hương xứ Huế với Thanh Hải – đã viết trong bài “Một
khúc ca xuân” những lời tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiếtấy . Đó là “lặng
lẽ dâng cho đời”. Còn Thanh Hải khi viết bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” trước lúc ra đi,
không những đã giải bày những suy ngẫm mà còn mong ước được dâng hiến một mùa
xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân vĩ đại của đất nước Việt Nam.
Sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc My ngay chính trên quê hương ruột thịt
của mình. Ở địa diểm nào, hoàn cảnh nào ông cũng thể hiện được lẽ sống của mình.
Đó là sự giản dị, chân thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như
chính cuộc sống và tâm hồn ông. Chúng ta có thể coi bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là
món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc về cõi vĩnh hằng. Chính
vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một
Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước và còn là một Thanh
Hải sống cho thơ và sống cho đời.Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời
những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn
nào của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ vẫn
nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến cho đời.
Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:
“Mọc giữa dòng sông xanh, Một bông hoa tím biếc.
Ơi con chim chiền chiện, Hót cho mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi, Tôi đưa tay tôi hứng”.
Một nét đặc trưng nơi xứ Huế là hình ảnh màu tím. Một màu tím thật gợn nhẹ như
màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím
thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cảm xúc về mùa xuân mở ra thật ngỡ ngàng,
44
bất ngờ, không gian như tươi tắn hơn, trẻ trung hơn, thánh thoát hơn:
Trong không gian vang vang vui tươi của tiếng chim càng đậm đà chất Huế hơn nhờ
dùng đúng chỗ những ngôn từ đặc trưng xứ Huế. Một từ “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ
“chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào
nhạc điệu của thơ. Từ “giọt” được hiểu theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên
thềm”, giọt mưa xuân, giọt sương sớm hay cả tiếng hót của những chú chim chiền
chiện. Nhưng đối với khung sắc trời xuân thì giọt xuân càng làm tăng thêm vẻ đẹp và
sự quyến rũ của nó. Một từ “hứng” cũng đủ diễn tả sự trân trọng của nhà thơ đối với
vẻ đẹp của trời, của sông, của chim muông hoa lá; đồng thời cũng thể hiện cảm xúc
trọn vẹn của Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời.
Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã chuyển cảm nhận về mùa xuân của
cuộc sống, nhân dân và đất nước. Với hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”,
biểu tượng của hai nhiệm vụ: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động tăng gia để xây
dựng đất nước với những câu thơ giàu hình ảnh và mang tính gợi cảm:
“Mùa xuân người cầm súng, Lộc giắt đầy trên lưng.
Mùa xuân người ra đồng, Lộc trải dài nương mạ.
Tất cả như hối hả, Tất cả như xôn xao…”
Hình ảnh mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và
người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của tổ quốc thân
yêu.Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ như nhấn mạnh và kết thúc một
khổ thơ bằng dấu ba chấm. Phải chăng dấu ba chấm như còn muốn thể hiện rằng: đất
nước sẽ còn đi lên, sẽ phát triển, sẽ đến với một tầm cao mới mà không có sự dừng
chân ngơi nghỉ. Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu
hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả
và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức
sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:
“Đất nước bốn ngàn năm, Vất và vào gian lao
Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước”
Đó chính là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất nước, dân tộc.
Những giọng thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say đắm lòng người.
Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang
bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân
của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng;
với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch
tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất
nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:
“Ta làm con chim hót, Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca, Một nốt trầm xao xuyến”
Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo
và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy?
Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm
con chim hót, một cành hoa để hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một
nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là
45
tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất
nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt
trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”.
Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi
người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì
lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời: bởi vậy,
xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả :
“Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc”.
Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng phải luôn biết cố
gắng hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê hương, đất nước mến yêu của chính
mình. Già - cống hiến tuổi già, trẻ - cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng
trước chính bản thân mình.Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần
thơ như lời tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến
cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời và bài thơ này
là một trong những bài thơ cuối cùng. “Một mùa xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh
Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.
Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha
thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với
quê hương, đất nước, một câu chân tình thắm thiết:“Mùa xuân ta ... đất Huế”
Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn
chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ này cũng chính là những
điều đúc kết cả cuộc đời của ông. Ông đã giải bày, tâm tình những điều sâu kín nhất
trong lòng, và chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập
với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.
Bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết,
giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ, giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng,
cảm xúc của tác giả. Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và
quan trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải
thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự,
gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ ước nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là
sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một
mùa xuân nho nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung và bài
thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được
tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.
Sang thu - Hữu Thỉnh
Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi bút theo
những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo những con đường
dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của văn chương…
Nói về đề tài mùa thu, một tác giả đã nhận định: “Đề tài "Mùa Thu" bao giờ cũng có
46
vẻ là dễ viết. Mùa thu dường như luôn luôn nấp sẵn trong ngòi bút của chúng ta, nhất
là những ngòi bút thơ: hễ động bút là mùa thu cứ chực đổ ùa ra trên mặt giấy. Tưởng
như với đề tài thơ mộng muôn thuở này có thể dễ dàng chắp bút. Chỉ đến khi bắt đầu
cầm bút ngồi trước mặt giấy, tôi mới thấy đề tài này thật là khó” Tại sao lại có nghịch
lí trong kinh nghiệm của người sáng tác như vậy? Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn
thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi bút theo những lối mòn quen thuộc của truyền
thống thơ thu. Mà hút theo những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử
lộ của văn chương…Sang thu của Hữu Thỉnh xuất hiện khi trước nó đã có rất nhiều
bài thơ nổi tiếng đông tây kim cổ: Thu hứng (Đỗ Phủ), Chùm thơ thu (Nguyễn
Khuyến), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)… Nhưng nó vẫn có cái hay, cái độc đáo riêng
của một hồn thơ sâu lắng, nhạy cảm khi mùa thu tới.
Ngay từ tiêu đề, tác giả đã tự xác định một thời điểm miêu tả: thời điểm giao mùa.
Đó không phải là chính thu, khi bầu trời xanh ngắt lơ lửng những tầng cao, không
phải cuối thu, khi nắng trời đã nhuộm đỏ lá bàng, hay khi cái rét mùa đông đã lẩn vào
trong gió…Sang thu nghĩa là mới chớm thu thôi, cái tứ kết buộc hệ thống hình ảnh
trong bài cũng chỉ gói gọn trong chút “chớm” mỏng manh đó.
Đặc biệt ở góc độ miêu tả tạo vật. Không hề có một từ định tính để miêu tả thế giới
thu. Có hương ổi, mùi hương vừa đặc trưng cho mùa vừa đặc trưng cho làng thôn ngõ
xóm. Nhưng hương ổi “thơm” như thế nào thì thi sĩ hoàn toàn không miêu tả. Có gió,
nhưng gió se chứ không phải là gió lạnh. Se gợi một động thái, hơn là gợi một cảm
giác. Làn sương giăng phủ ngõ thôn chẳng được đặc tả ở mức độ (mù mịt) hay màu
sắc (trắng mờ)... Dòng sông, cánh chim, hay đám mây cũng không tô điểm cho phong
cảnh thu bằng những gam màu đặc trưng của nó. Truyền thống thơ thường kiến trúc
ngôi nhà thu bằng những chất liệu quen thuộc như cúc, liễu, ngô đồng hay màu trời,
sắc nước…Hữu Thỉnh hầu như khơi gợi cảm giác về mùa trong trạng thái mơ hồ của
tạo vật. Thành công nổi bật nhất của bài cũng là ở một hệ thống những động từ miêu
tả rất giàu cảm giác: “phả”, “se”, “chùng chình” “dềnh dàng” “bắt đầu vội vã” “vắt
nửa mình”… “Chùng chình” trước hết gợi tả chính xác những làn sương như ngưng
lại và nhẹ nhàng tỏa lan ngõ xóm. Dòng nước thu vốn trong trẻo và sâu hút làm người
ta khó mà thấy rõ được sự chuyển động nó nên cảm giác sông lững lờ trôi cũng rất
hiện thực. Đám mây như tấm khoăn voan của người thiếu nữ, duyên dáng nối hai mùa
là một liên tưởng thực sự độc đáo. Song trên hết, hệ thống động từ toàn bài còn đặc
sắc ở chỗ, nó không chỉ miêu tả chính xác trạng thái của tạo vật mà còn thổi vào tạo
vật những cảm giác rất người. Tinh tế và sống động sao một buổi sáng chớm thu,
sương như người khách ngập ngừng nơi đầu ngõ, gió se lại bởi chút lạnh xa xăm,
những cánh chim vội vã tìm về phương ấm áp…Song thời điểm chớm thu không phải
chỉ hiển hiện ở những dấu hiệu mơ hồ trong trạng thái biến chuyển của cảnh vật, mà ở
cả chút ngỡ ngàng bâng khuâng của lòng người: “Bỗng nhận ra hương ổi”; “Hình như
thu đã về”…Tiếp tục thể hiện những dấu hiệu mùa thu rõ rệt hơn nhưng ý nghĩa của
khổ cuối không chỉ dừng lại ở đó:"Vẫn còn bao nhiêu nắng, Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ, Trên hàng cây đứng tuổi"
Con người cảm thấy biết bao biểu hiện khác biệt của thời tiết khi mùa thu tới: mưa
và sấm thưa dần, không còn dữ dội nữa. Sang thu, tất cả các dấu hiệu của mùa hạ vẫn
47
còn nhưng đã giảm dần mức độ, cường độ… Hàng cây như đã quá quen với nắng lửa
mưa giông, được gọi một cách hình ảnh là “hàng cây đứng tuổi”. Chính các từ “bất
ngờ”, “đứng tuổi” khiến ý nghĩa của câu thơ không dừng lại ở nét nghĩa tả thực mà có
chiều sâu hơn. Nắng, mưa, sấm chớp… hay là những vang động của cuộc đời? Trong
tương quan ấy, hàng cây tượng trưng cho con người từng trải mà bao dâu bể biến đổi
không còn đáng ngạc nhiên. Cảnh như sâu lắng hơn bởi liên tưởng suy tư về mùa thu
đời người. Không hiểu sao, khi đọc bài thơ này, tôi chợt thấy nhớ rất nhiều những
năm tháng đã qua của mình. Miền kí ức tuổi thơ được đánh thức bởi mùi hương ổi,
bởi ngõ xóm thân quen ấy. Và có lẽ cũng nhờ giọng điệu êm nhẹ dễ cuốn người đọc
vào dòng cảm xúc, suy nghĩ tự nhiên của tác giả. Nét độc đáo nhất của bài là những
hình ảnh chính xác và giàu sức gợi tạo nên một bức tranh thu giản dị mà sống động.
Đây xứng đáng là một bài thơ thu hay trong thế giới thi ca!
Mây và sóng của Ta-go
Ta go là nhà thơ nổi tiếng Ấn Độ .Ông là người châu Á đầu tiên được giải Nô ben
văn học . Gia tài ông để lại vô cùng đồ sộ và phong phú . Trong đó bài thơ Mây và
Sóng được xem là 1 kiệt tác được in bằng tiếng Anh trong tập Măng non. Bài thơ gồm
có 2 phần đó là rủ rê em bé sống trên mây và rủ rê em bé sống trên sóng . Qua đó thể
hiện được vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ
Đây là bài thơ trữ tình nó như 1 khúc hát đồng dao và qua đây ta bát gặp câu chuyện
kể của em bé đối với mẹ về người trên mây và người trên sóng đã mời mọc rủ rê em
bé đi chơi. Trước hết là lời của ngừơi trên mây : " bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến
lúc chiều tà . Bọn tớ chơi với bình minh vàng bọn tớ chơi với vầng trăng bạc "
Tác giả hình dung ra em bé ngước mặt lên bầu trời cao và em bé lắng nghe lời nói
trên 9 tầng mây cao vời vợi . Mây đã đựơc nhân hóa và tưởng tượng ra lời nói rủ rê
mời mọc rất thân tình . Và mây đã trờ thành đối tượng giao tiếp lúc này . Lời rủ của
mây hết sức là hấp dẫn "được chơi từ sáng sớm cho đến chiều tà . Lời rủ quá lôi cuốn
khiến cho cậu bé phải hỏi lại: Nhưng làm thế nào mình lên đó đươc ! Người sống trên
mây đã bày vẽ em b é hãy đi đến tận cùng của thế giới . đưa tay lên trời cậu sẽ được
nhấc bổng lên 9 tầng mây . Chúng ta bắt gặp cả 1 bức tranh thiên nhiên đẹp: nào là
bình minh vàng, vầng trăng bạc là nơi tận cùng trái đất . Giơ tay lên sẽ có người nhấc
bổng lên 9 tầng mây . Qua bức tranh này chúng ta cảm nhận được cả 1 không gian bao
la của trời cao đối với trẻ thơ . Không gian ấy là thế giới thần tiên thường chỉ gặp
trong truyện cổ tích hay nó chỉ ở trong mơ của trẻ thơ . Lời rủ rê đầy hấp dẫn của mây
có phải chăng là ước muốn của trẻ em được đi đến tận cùng trái đất được bay bổng lên
trời được khám phá thiên nhiên đầy bí ẩn . Qua những vần thơ ta thấy Tago phải là
nhà thơ rất yêu thiên nhiên, rất yêu trẻ thơ và có tâm hồn vô cùng bay bổng thì mới
thể hiện được những ước mơ diệu kì đến như vậy. Thơ Tago là bài ca về tình nhân ái,
thể hiện khát vọng hạnh phúc tự do. Không chỉ có vậy, em bé không chỉ có ước mơ
được bay lên tận cùng trái đất mà muốn chu du khắp dại dương Lời rủ của người sống
trên sóng còn hâp dẫn hơn :" Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ
ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nào ". Ta hình dung em bé đang
48
đứng trước bờ biển , đại dương với em bé là vô cùng bao la vô tận . Em b é th ích thú
lắm nên đã hỏi làm thế nào mình ra ngoài ấy được . Đại dương đã trả lời " hãy đến rìa
biển cả con sẽ được sóng nâng đi . Một lần nữa chúng ta lạị như lạc trong 1 thế giới cổ
tích đầy hấp dẫn, ta thấy được sự giao cảm của tâm hồn trẻ thơ với bức tranh thiên
nhiên . Không chỉ có bầu trời cao xanh rộn rã mà còn có đại dương mêng mông sâu
thẳm .Tất cả đều hấp dẫn và ta tưởng tượng em bé sẽ quên hết những gì sau lưng
mình và đi theo ti ếng g ọi c ủa s ự đam m ê ấy . Nh ưng, làm sao có thể rời mẹ mà đi
được Mẹ đã níu chân em ở lại bằng " buổi chiều mẹ luôn một mình ở nhà làm sao rời
mẹ mà đi được “ Thế giới thiên nhiên bí ẩn hấp dẫn thật đấy ! nhưng còn 1 thứ hâp
dẫn hơn , đó là tình mẹ . Tago dẫn chúng ta đến với giấc mơ tuyệt vời của tuổi thơ
,đó là sự sáng tạo trong trò chơi của em bé: Con là mây và mẹ sẽ là trăng ,Con là sóng
mẹ sẽ là bên bờ kì lạ . Cái độc đáo trong trờ chơi này là có mây là có trăng Tr ăng và
mây chung 1 bầu trời . Mây và tr ăng luôn kề cận bên nhau . Có sóng là có bờ sóng vỗ
về vào bờ như mẹ vỗ về con vào lòng mẹ .
Cả bài thơ cho ta thấy sự giao cảm thần tiên của em bé với thiên nhiên tuyệt đẹp Cả
bài thơ l à bức tranh về thiên nhiên g ần g ũi . Cả bài thơ là sự s áng tạo c ủa em bé
trong tr ò chơi, v ừa để vui và vừa đựơc được gần mẹ . Từ vẻ đẹp mộng mơ ấy bài thơ
đã có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc .Trước hết là tác giả đ ã ca ngợi tình mẹ bao la vĩ
đại .Mẹ chính là điểm tựa tinh thần để đưa con đi đến với những chân trời mơ ước .
Thế mới biết lời hát " Không ai yêu con bằng mẹ, không ai yêu mẹ bằng con " có ý
nghĩa sâu sắc đến nhường nào
Mây và sóng của Ta-go( B ài 2)
Văn học muôn đời vẫn đầy ắp tình thương . Nhiệm vụ của nó là thể hiện và ca
ngợi những tình cảm đẹp đẽ trong cuộc sống của con người . Chính vì vậy tình mẫu tử
được đưa vào thơ ca và trở thành chủ đề không bao giờ vơi cạn . Mây và sóng là một
trong những bài thơ đó . Với thi pháp độc đáo thi phẩm đã ngợi ca tình cảm của đứa
con dành cho mẹ . Sức gợi cảm của bài thơ kho chỉ là nghệ thuật đặc sắc mà còn chiều
sâu của ý nghĩa của một vẻ đẹp chan chứa tình cảm thiêng liêng của con người .
Bài thơ là lời kể của em bé , được chia thành 2 phần có nhịp điệu giống nhau ,
nhưng các từ ngữ hình ảnh có sự khác biệt mới mẻ và mức độ tình cảm của em bé
dành cho mẹ phát triển ngày càng sâu sắc mạnh mẽ hơn . Chính điều này làm nên sức
hấp dẫn của bài thơ .Phần thứ nhất của bài thơ , em bé kể về việc mình được rủ đi chơi
và em đã từ chối ; phần thứ hai là sáng tạo ra trò chơi của em bé . Tình yêu quý cha
mẹ là điều không mới mẻ nhưng ở đây tình cảm bộc lộ một cách không giống lẽ
thường mà nó vượt qua mọi thử thách , vượt qua mọi cám dỗ ở đời . Hai phần của bài
thơ đứng cạnh nhau, giúp chúng ta hiểu rõ về tình mẫu tử sâu sắc và trọn vẹn tình cảm
của em bé dành cho mẹ . Những trò chơi trên mây , dưới sóng được mời chào rất lí thú
và hấp dẫn trên nền của bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và thơ mộng đã gợi lên trong
lòng con người sự ham mê khó có thể cưỡng lại được …. Chúng ta tưởng tượng
những trò chơi đó chỉ có thể có ở xứ sở thần tiên hay ở cõi thiên đường huyền bí :
49
" Bọn tớ chơi từ lúc thức dậy cho đến lúc chiều tà
Bọn tớ chơi với bình minh vàng, bọn tớ chơi với vầng trăng bạc …"
Trẻ em ai chẳng thích chơi, nhất là khi trò chơi lại thú vị và lôi cuốn như thế . Vậy
mà những lạc thú vui chơi nào đã dừng lại! Càng về sau chúng càng rủ rê , chèo kéo
tha thiết hơn, sôi nổi hơn, hết lần này đến lần khác , và mỗi lần lí thú hơn hấp dẫn
hơn: Bọn tớ ca hát từ sáng sớm ... mà ko biết từng đến nơi nao"
Thật là những thú vui đến trong mơ cũng khó thú vị hơn, lời mời ngọt ngào, ngay
cả người lớn cũng khó cưỡng nổi nữa là trẻ con . Chúng ta nghe lời hỏi của đứa bé để
thấy Ta-go am hiểu tâm lí trẻ em như thế nào : Nhưng làm thế nào mình lên đó được ?
Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được ?
Những lời hỏi thể hiện mong muốn được chơi của bé . Vậy mà bỗng chốc em lại từ
chối tất cả chỉ vì 1 lý do đơn giản nhưng tràn ngập tình yêu thương .Hoặc :
Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà , làm sao có thể rời mẹ mà đi được ?
Lời khước từ ngây thơ nhưng chân thật đó như 1 minh chứng cao đẹp cho tình mẫu
tử thiêng liêng và sâu sắc của nv trữ tình trong t/p của Ta-go . Những thú vui dù hấp
dẫn, dù đáng mơ ước đến đâu cũng ko thể vượt qua hình ảnh ấm áp của mẹ trong trái
tim em bé . Dường như em bé hiểu rằng , khi được ở bên mẹ thì cuộc sống sẽ đẹp đẽ
hơn bất cứ xứ sở thần tiên nào . Em hiểu được niềm hạnh phúc của tình yêu thương và
sự nâng niu chiều chuộng của mẹ sẽ đem lại cho em những điều cần thiết hơn và cả
những thứ vui hấp dẫn khác trên cõi đời này . Em bé đã sớm nhận thức được những
trò chơi trên mây dưới sóng với bạn bè trong chốc lát làm sao có thể thay thế những
giây phút được kề cận bên mẹ . Được gần gũi bên người mẹ thân yêu thay vì những
thú vui chốc lát chính là niềm hạnh phúc của sự hi sinh .
Nếu bài thơ chỉ dừng lại đó thì Ta-go cũng ko thể vượt lên biên giới mà đến với
chúng ta , với năm châu bạn bè được . Ở phần thứ hai với trí tưởng tượng và tình cảm
tha thiết, em bé đã nghĩ ra trò chơi hết sức thú vị . Dựa trên những thú vui thần tiên
mà em vừa nghe kể để sáng tạo ra trò chơi cho riêng mình . Ở đó cũng có mây và
trăng , c ũng có sóng biển và bến bờ kì lạ …. Nhưng điều quý giá nhất trong
những trò chơi của em bé là có cả mẹ nữa .Từ chối niềm vui riêng của mình để vui
cùng mẹ là cả 1 quá trình diễn biến tâm lí sinh động và thú vị , đặc biệt cho cả 2 mẹ
con . em hiểu sâu sắc rằng niềm vui của mình chỉ trở nên trọn vẹn khi có mẹ ở bên và
ngược lại . 2 mẹ con ko chỉ chơi với mây và sóng mà chính họ đã hóa thân vào mây và
sóng: "Con là mây và mẹ sẽ là trăng Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ"
Đây không còn là trò chơi bình thường nữa mà là trò chơi muôn đời bền vững và
trường tồn , không bao giờ nhàm chán . Bởi lẽ trong đó hình ảnh đẹp tuyệt vời của 2
mẹ con quấn quýt bên nhau trong tình yêu lớn lao và cao cả : Con lăn, lăn, lăn mãi rồi
sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ . Dư âm của tiếng cười như những giọt pha lê ngân
mãi trong lòng chúng ta bởi niềm vui bất tận của tình mẫu tử thiêng liêng và kì diệu .
Niềm vui đó được ủ kín, như của chỉ riêng 2 mẹ con mà người ngoài ko ai tìm được:
Và ko ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào .Tình mẫu tử thiêng liêng và cao
quý đã hòa vào vũ trụ và cuộc sống xung quanh . Nó hiện hữu ở mọi nơi trên thế gian
để khẳng định tình yêu thương có sức mạnh biến đổi ko lường .
Qua câu chuyện thần tiên giản dị đó , bài thơ còn gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc .
50
Nó ko chỉ là lời ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng mà còn gửi gắm nhiều suy ngẫm về
cuộc sống . Cũng như những trò chơi trên mây dưới sóng , cuộc sống có rất nhiều cám
dỗ mà mỗi con người rất khó vượt qua . Nhưng người ta hoàn toàn có thể vượt qua
những thử thách ấy = sức mạnh tình cảm tốt đẹp trong cuộc đời . Tình mẹ con là 1
trong những chỗ dựa ấm áp nhất, vững chắc nhất của con người . Nó là ngọn lửa khơi
nguồn sáng tạo, nó làm thăng hoa vẻ đẹp tinh thần muôn đời bất diệt của nhân loại .
Cũng như em bé đã hướng lòng mình vào sự vĩnh cửu của tình mẫu tử; chúng ta luôn
tin tưởng vào sức mạnh trường tồn của tình cảm con người . Nhờ đó con người có đủ
dũng cảm đối mặt với mọi cám dỗ, mọi thử thách trong cuộc sống bộn bề gian khó
Ta-go đã lựa chọn 1 đề tài rất độc đáo cho thi phẩm của mình, tình yêu thương đầy
hi sinh và sự sáng tạo của đứa con đối với mẹ - điều mà từ trước tới nay rất ít người đề
cập . Và ông đã thành công trong việc mô tả, ngợi ca nó bằng hình thức đối thoại
trong lời kể của em bé , đưa vào bài thơ những bức tranh thiên nhiên thơ mộng đầy
sức sống . Bài thơ đã thành công khi thể hiện những suy ngẫm sâu sắc, tâm hồn và trái
tim thơ mộng của con người .
I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ NLXH
1. Cấu trúc:
+ Một bài văn nghị luận xã hội thường bao gồm 3 phần
- Giải thích khái niệm xã hội
- Bàn luận về vấn đề đặt ra.
- Liên hệ bản thân.
+ Cấu trúc này thay đổi linh hoạt tuỳ theo từng đề bài cụ thể.
2. Lưu ý
+ Bài văn nghị luận xã hội không khó tìm ý nhưng vấn đề của các em là thường thiêú
hiểu biết đời sống nên dễ bị động và lúng túng.
+ Sức mạnh của nghị luận xã hội nằm ở dẫn chứng sinh động, cụ thể được đưa ra
nhuần nhuyễn, phù hợp với luận cứ => Cần thường xuyên cập nhật thông tin.
+ Vấn đề nghị luận xã hội có tính chất mềm dẻo, cho học sinh nhiều khả năng sáng
tạo => không có một dàn bài chi tiết duy nhất đúng cho một đề văn.
* Dàn ý bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
1. Mở bài: - Giới thiệu
- Nêu tư tưởng, đạo lí cần nghị luận
2. Thân bài
-Luận điểm 1: Giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lí (Bằng cách giải thích các từ ngữ,
các khái niệm..)
- Luận điểm 2: Phân tích các mặt đúng của tư tưởng đạo lí (Dùng dẫn chứng từ cuộc
sống và văn học để chứng minh)
- Luận điểm 3: Bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng đạo lí
(Dùng dẫn chứng từ cuộc sống và văn học để chứng minh)
- Luận điểm 4: Đánh giá ý nghĩa tư tưởng đạo lí đã nghị luận.
3. Kết bài: - Khái quát lại vẫn đề cần nghị luận.
- Nêu ý nghĩa và rút ra bài học nhận thức từ tư tưởng đạo lí đã nghị luận
51
II. Dàn bài và đoạn văn tham khảo
Đề:
Nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi nói: “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý tưởng
thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc
sống”.
Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lý tưởng và lý tưởng riêng của mình.
1. Tìm hiểu đề:
- Nội dung: Suy nghĩ về vai trò của lý tưởng nói chung đối với mọi người và lý tưởng
riêng của mình.
+ Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường; không có lý tưởng thì không có cuộc sống.
+ Nâng vai trò của lý tưởng lên tầm cao ý nghĩa của cuộc sống.
+ Giải thích mối quan hệ lý tưởng và ngọn đèn, phương hướng và cuộc sống.
- Phương pháp nghị luận: Phân tích, giải thích, bình luận, chứng minh.
- Phạm vi tư liệu: Cuộc sống.
2. Lập dàn ý:
a. Mở bài:
Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề tư tưởng, đạo lý cần nghị luận.
b. Thân bài: (gợi ý)
- Lý tưởng là gì? Tại sao nói lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường? Ngọn đèn chỉ đường là
gì? Nó quan trọng như thế nào?
(Lý tưởng giúp cho con người không đi lạc đường. Khả năng lạc đường trước cuộc
đời là rất lớn nếu không có lý tưởng tốt đẹp.)
- Lý tưởng và ý nghĩa cuộc sống:
Lý tưởng xấu có thể làm hại cuộc đời của một người và nhiều người. Không có lý
tưởng thì không có cuộc sống.
- Lý tưởng tốt đẹp , thực sự có vai trò chỉ đường.
- Lý tưởng riêng của mỗi người.
Vấn đề bức thiết đặt ra cho mỗi học sinh tốt nghiệp THPT là chọn ngành nghề, một
ngưỡng cửa để bước vào thực hiện lý tưởng.
c. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề.
- Nêu ý nghĩa và rút ra bài học nhận thức từ tư tưởng đạo lí đã nghị luận.
Đề tham khảo
Đề: Anh (chị), hãy trình bày quan điểm của mình trước cuộc vận động “Nói không với
những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”.
1. Tìm hiểu đề.
- Nội dung bình luận: hiện tượng tiêu cực trong thi cử hiện nay.
- Kiểu bài:nghị luận xã hội với các thao tác bình luận, chứng minh…
- Tư liệu: trong đời sống xã hội.
2. Lập dàn ý (gợi ý)
a) Mở bài.
Nêu hiện tượng, trích dẫn đề, phát biểu nhận định chung…
52
b) Thân bài.
- Phân tích hiện tượng.
+ Hiện tượng tiêu cực trong thi cử trong nhà trường hiện nay là một hiện tượng xấu
cần xoá bỏ, nó làm cho học sinh ỷ lại, không tự phát huy năng lực học tập của mình…
+ Hiện tượng lấy tỉ lệ để nâng thành tích của nhà trường.
+ Hãy nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.
- Bình luận về hiện tượng.
+ Đánh giá chung về hiện tượng.
+ Phê phán các biểu hiện sai trái:
. Thái độ học tập gian lận.
. Phê phán hành vi cố tình vi phạm, làm mất tính công bằng của các kì thi.
c) Kết bài.
- Kêu gọi học sinh có thái độ đúng đắn trong thi cử.
- Phê phán bệnh thành tích trong giáo dục.
Đề 1: Suy nghĩ về hiện tượng nghiện Karaoke và Internet trong một bộ phận giới
trẻ hiện nay.
+ Giải thích:
- Nghiện
- Karaoke
- Internet
+ Vai trò, ý nghĩa của Karaoke và Internet đối với đời sống của con người, nhất là của
giới trẻ.
- Bối cảnh xã hội: kỉ nguyên của công nghệ.
- Vai trò của Karaoke: giải toả căng thẳng, liên kết bạn bè.
- Ý nghĩa của Internet: pho tri thức đồ sộ, bách khoa toàn thư về mọi lĩnh vực; công cụ
và phương pháp học tập hữu hiệu; cung cấp những tiện ích giảm thiêủ thời gian cho
con người (mua sắm, kết nối); giải trí…
+ Thực trạng nghiện Karaoke và Internet ở một bộ phận giới trẻ.
+ Tác hại của việc nghiện Karaoke và Internet:
- “Đánh cắp” thời gian của chính mình.
- Ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển nhân cách và tâm hồn.
+ Phương hướng khắc phục.
+ Liên hệ bản thân.
Đề 2: AIDS và thanh niên.
+ AIDS là gì?
+ Thực trạng căn bệnh:
- Thế giới
- Việt Nam
- Nguyên nhân
+ Giải pháp.
+ Liên hệ: làm gì để tuyên truyền, góp sức ngăn chặn đại dịch này?
Đề 3 : An toàn giao thông
53
+ Vai trò của giao thông và an toàn giao thông.
+ Thực trạng an toàn giao thông nước ta.
+ Hậu quả do mất an toàn giao thông gây ra.
+ Nguyên nhân của tình trang mất an toàn giao thông.
- Hiểu biết, ý thức kém
- Cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn.
- Tha hoá của một số cán bộ thực thi quản lí an toàn giao thông.
+ Giải pháp:
+ Liên hệ với tư cách là một người tham gia giao thông hang ngày.
Đề 4: Ô nhiễm môi trường
+ Khái niệm môi trường.
+ Vai trò của môi trường đối với đời sống con người.
+ Thực trạng:
- Thế giới
- Việt Nam
+ Hậu quả:
- Cản trở sự phát triển kinh tế
- Gây ra những căn bệnh hiểm nghèo, đe doạ nghiêm trọng đời sống con người.
Đề 5: Bình luận câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”
+ Giải thích:
- Từ “nguồn”
- Cả câu.
+ Bình luận:
- Tại sao uống nước phải nhớ nguồn (đưa ra các phản đề để khẳng định tính tất yếu
của “nhớ nguồn”)
- Biểu hiện của nhớ nguồn
+ Liên hệ bản thân.
Tại sao nói “Rừng là lá phổi của Trái đất”?
Rừng là “vệ sĩ” của giới tự nhiên, là trụ cột đảm bảo cân bằng sinh thái. Nó có thể
duy trì sự cân bằng lượng oxy và cacbonnic trong không khí, giảm nhẹ ảnh hưởng của
các chất thải, khí độc gây nên ô nhiễm, làm trong sạch môi trường, vì vậy nên nó được
xem là “Lá phổi của Trái đất”.
Lượng oxy trong không khí có vai trò rất lớn đối với đời sống của mọi sinh vật trên
Trái đất. Chúng ta có thể nhịn ăn, nhịn uống nhưng không thể ngừng hô hấp. Hầu hết
lượng oxy trên Trái đất này được sinh ra nhờ vào thực vật xanh trong rừng. Trong quá
trình quang hợp, những thực vật này đã hút khí cacbonic và thải ra khí oxy. Tuy
nhiên, những thực vật cũng cần phải hô hấp, nhưng dưới sự chiếu xạ của ánh nắng, tác
dụng quang hợp của chúng phải lớn gấp 20 lần so với tác dụng hô hấp. Vì vậy mọi
người gọi thực vật xanh là “Nhà máy sản xuất thiên nhiên” của oxy. Cây cối thông
qua quá trình quang hợp đã hút lượng khí cacbonic và thải ra môi trường lượng khí
oxy. Nhờ đó mà con người và sinh vật mới có thể duy trì được sự sống của mình, khí
hậu mới được ổn định. Có người làm một phép tính, cây dẻ cao 33 mét có khoảng 110
54
nghìn lá. Diện tích là 340m2. Một khu rừng có khoảng hơn 10 triệu cây thì diện tích lá
cây che phủ là rất lớn, khả năng quang hợp cao. Mỗi một năm, hệ thực vật trên Trái
đất nhận 400 tỷ tấn cacbonic và thải ra 200 tỷ tấn oxy. Như vậy cho thấy nếu không có
rừng, con người cũng như hệ sinh vật sẽ chẳng thể tồn tại được.
Rừng giữ vai trò lớn trong việc làm sạch hoá bầu không khí. Những thực vật rừng
có khả năng loại trừ toàn bộ những khí thải độc hại như: SO2, HF, Cl… SO2 là loại
khí rất độc, có mặt ở nhiều nơi. Khi nồng độ SO2 trong không khí lên tới 10 ppm sẽ
dẫn đến một số chứng bệnh như tim đập mạnh, loạn nhịp khó thở… Rừng có thể hấp
thụ khí SO2 đó và chuyển chúng thành những thành phần cấu tạo nên các axit gốc
amin trong các thân cây v.v… F cũng là một loại khí có hại với cơ thể con người. Nếu
chúng ta ăn phải hoa quả, thực phẩm, rau có hàm lượng F cao sẽ bị nhiễm độc, sinh
bệnh. Trong rừng có rất nhiều loại cây có thể hấp thụ thể khí này. Trung bình cứ một 1
ha cây ngân hoa có thể hấp thụ 11,8 kg F, 1 ha cây dâu tây là 4,3 kg F và 1 ha cây liễu
thì hấp thụ 3,9 kg F.
Rừng cũng là máy hút bụi khổng lồ của con người. Do trên mỗi phiến lá có một lớp
lông dày nên nó có thể chặn lại những chất gây ô nhiễm, lọc và hấp thụ lại chúng làm
trong sạch môi trường. Các nhà khoa học đưa ra số liệu: trung bình 1 năm, cứ 15 mẫu
đất trồng cây tùng có thể loại trừ được 36 tấn khói bụi trong không khí, 1 m2 cây phù
du có thể ngăn được 3,39 tấn bụi thải. Trong rừng cành và lá cây tương đối rậm rạp
um tùm nên làm giảm sức gió. Do vậy nên số bụi thải công nghiệp trong không khí đã
bị giữ lại gần hết, sau một trận mưa lớn, số bụi còn lại được trở về với đất, nhờ vậy mà
không khí được trong lành và mát mẻ hơn. Lá cây sau khi được sạch bụi lại tiếp tục
quá trình giữ bụi và chu trình làm sạch không khí mới được bắt đầu.
Rừng quả thật là “Lá phổi của Trái đất”, không có rừng, tất cả mọi sinh vật trên Trái
đất này kể cả con người sẽ không thể hô hấp, khó có thể sinh tồn và phát triển.
Tuổi trẻ và tương lai của đất nước
Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc
lập, Bác Hồ thiết tha căn dặn : “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không,
dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu được hay không, chính là nhờ một phần ở công học tập của các em”. Lời dạy của
bác giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai trò của tuổi trẻ đối với tương lai của đất nước.
Thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển, nâng cao không ngừng của văn hóa, kinh tế, đất
nước. Để có thế bắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì cần sự chung sức,
đồng lòng của tất cả mọi người, mà lực lượng chủ yếu chính là tuổi trẻ. Bởi tuổi trẻ là
lực lượng nòng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân vật chính góp phần tạo nên cái thế,
cái dáng đứng cho Tổ Quốc Việt Nam. Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cũng khao khát
được sống hạnh phúc, mỗi người luôn tìm cho mình một lẽ sống hay nói đúng hơn là
một lý tưởng sống. Và nhất là tuổi trẻ hiện nay, những người nắm trong tay vận mệnh
của đất nước phải xác định được cho mình một lý tưởng sống đúng đắn. Trong thời kì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tuổi trẻ chúng ta được đặt ra câu hỏi: sống như thế nào
để có ích cho xã hội? Tuổi trẻ là nhân tố quyết định sự tồn vong của đất nước, vì thế
lý tưởng sống của chúng ta là xây dựng đất nước, xây dựng Chủ nghĩa Xã Hội, nối
55
tiếp cha ông bảo vệ Tổ Quốc và đi lên vì sự tiến bộ của nhân loại.
Tuổi trẻ là những người chủ tương lại của đất nước, là chủ của thế giới, động lực
giúp cho xã hội phát triển. Chính vì vậy mà các bạn thanh thiếu niên cần phải sống có
lý tưởng cao đẹp. Hãy nhớ rằng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không,
dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không đó là
nhờ vào công học tập của các em” lời nhắn như thiêng liêng ấy phải được thực hiện!
Các bạn hãy cố lên!
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
(Hồ Chí Minh)
Và thời nào cũng vậy, thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong, xông pha vào
những nơi gian khổ mà không ngại khó. Điều đó đã được thể hiện rất rõ trong thời
chiến. Những người con của đất nước đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình - cái
tuổi 20 đầy ước mơ ấy - cho Tổ quốc với lý tưởng sống thật cao đẹp và thánh thiện.
Đấy là những thanh niên của gần 40 năm trước, còn lớp thanh niên ngày nay thì sao?
Vâng! Đấy chính là chúng ta. Các bạn ạ! Chúng ta nên biết một điều: nếu như lớp
người đi trước đã quên mình cho thế hệ sau được độc lập, no ấm thì ngày nay, tuổi trẻ
chúng ta sẽ tiếp tục duy trì truyền thống đó. Và một điều quan trọng là bạn đừng xem
đấy là nghĩa vụ để rồi miễn cưỡng thực hiện. Chúng ta hiểu rằng: được sinh ra là một
hạnh phúc và được sống tự do, no đủ đó là món quà quý báu, vô giá mà quê hương và
xã hội đã ban tặng cho chúng ta. Hạnh phúc không tự nhiên mà có. Mà đó là xương
máu, tâm huyết của biết bao con người trên đất nước này. Họ là ai? Họ là những con
người yêu quý quê hưong đất nước. Họ cho rằng được hiến dâng cho quê hương là
hạnh phúc, là niềm tự hào, là vinh dự quý báu.
Thế thì sao chúng ta không học theo họ. Mọi suy nghĩ, hành động đều bắt nguồn từ ý
nghĩ. Ý nghĩ, tư tưởng là nền móng cơ bản dẫn việc làm, lối sống của thế hệ trẻ. Mỗi
một thời đại, mỗi một hoàn cảnh lịch sử mà thanh niên nuôi dưỡng những ước vọng,
những lý tưởng sống và suy ngẫm riêng. Chúng ta không bác bỏ, không phủ nhận quá
khứ, lịch sử hào hùng, thế hệ trẻ ngày ấy đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung
của đất nước. Đó là lý tưởng muốn được chiến đâu, hi sinh cho độc lập, tự do tổ quốc,
cho tự hào dân tộc. Nhưng chúng ta không thể lấy thước đo của ngày hôm qua áp
dụng vào ngày hôm nay, cũng không thể đem thế hệ trước so sánh, áp dụng cho thế hệ
sau. Đơn giản vì mỗi thế hệ có một môi trường riêng, một nhận thức, một hoàn cảnh
và một sứ mệnh riêng. Vì vậy “Không có chuyện lớp trẻ ngày nay quay lưng với quá
khứ!” (Tổng bí thư Đỗ Mười ). Tuổi trẻ hiện nay đã khẳng định tiếng nói và lý tưởng
sống của mình chính là phấn đấu tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh”. Với riêng mỗi cá nhân, đã sinh ra trong đời, ai trong
chúng ta cũng khao khát được sống hạnh phúc. Hơn thế nữa, từ đáy lòng của con
người luôn ước ao có được một cuộc sống bình an, vui tươi, không lo âu buồn phiền,
không đau khổ oán than, muốn an hưởng sự may lành hơn là bất hạnh, giàu sang hơn
là nghèo nàn.
56
Còn nhớ năm 2005, trên báo chí luôn nhắc đến gương người Việt trẻ Nguyễn
Phương Ngọc - người dám ước mơ đứng trên bục cao nhất của “Trí Tuệ Việt Nam”.
Phương Ngọc sinh năm 1983 tại Hải Phòng cuối cùng đã đoạt Giải công nghệ cuộc thi
“Trí Tuệ Việt Nam 2004”. Đã giành giải nhất phần thi thuật toán tại cuộc thi Imagine
Cup 2005 (cuộc thi quy tụ 17 nghìn sinh viên từ 90 quốc gia trên thế giới) do Tập
đoàn Microsoft tổ chức tại Yokohama (Nhật Bản).
Phải nói rằng Việt Nam chúng ta có khá nhiều thuận lợi, vừa được thiên nhiên ưu đãi,
vừa có nhiều nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú.
Không những thế, con người Việt Nam bao đời nay với đức tính cần cù, siêng năng,
chịu khó vừa lao động sản xuất, vừa anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Lịch
sử Việt Nam với 4000 năm dựng nước và giữ nước đã khẳng định rằng: dân tộc Việt
Nam là một dân tộc anh hùng với truyền thống đấu tranh bất khuất. Hơn nữa, tuổi trẻ
mọi thời đại chính là niềm tự hào dân tộc vì mỗi khi đất nước lâm nguy thì Việt Nam
lại xuất hiện những anh hùng trẻ tuối dũng cảm, tài trí. Điều đó cho thấy rằng tuổi trẻ
Việt Nam luôn suy nghĩ, lo lắng và quan tâm đến vận mệnh của dân tộc và luôn phát
huy truyền thống anh hùng.
Mỗi người trong chúng ta ai cũng từng đi qua tuổi trẻ - tuổi của sức mạnh phi thường
với sự căng tràn bầu nhiệt huyết, tuổi không chịu khuất phục trước khó khăn, và sẵn
sàng chấp nhận hi sinh vì đất nước. Tuổi trẻ cả nhân loại đang ra sức tìm kiếm và xây
dựng những thứ tưởng chừng như viễn tưởng nhưng nay lại trở thành hiện thực, như
những thành tựu trong ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học... Họ có đủ
điều kiện để phát huy hết khả năng nội lực của chính mình, họ có tự do trong suy nghĩ
và hành động, họ có sự dân chủ trong mọi ý tưởng và lý tưởng, họ có được sự tôn
trọng về thực quyền sáng tạo. Vậy thì tiềm năng và tương lai phát triển của mỗi quốc
gia đều mong đợi và đều đặt niềm tin vào tuổi trẻ.
Tuổi trẻ Việt Nam những năm gần đây đã khẳng định được sức mạnh của chính
mình trong mọi lĩnh vực như : kinh tế, khoa học kĩ thuật, giáo dục,... Ngày càng xuất
hiện nhiều nhà kinh doanh trẻ năng động; những nhà khoa học tài năng; đặc biệt là
những thành tích của học sinh, sinh viên Việt Nam tham dự các kì thi Olympic khu
vực và quốc tế như Nguyễn Phương Ngọc - đã giành giải nhất phần thi thuật toán tại
cuộc thi Imagine Cup 2005.
Như đã nói ở trên, chúng ta lại càng thấy rõ tầm quan trọng của tuổi trẻ đối với tương
lai của đất nước, các bạn hãy đề ra lý tưởng sống cho mình để có thể đưa nước ta ra
tình trạng kém phát triển, tiến nhanh trên con đường xây dựng và bảo vệ đất nước Việt
Nam ngày càng giàu mạnh.
Học đi đôi với hành
- Luận điểm 1:"Giải thích "Học và hành":
+Bạn nên giải thích học là gì?Vì sao phải học
+Giải thích "Hành" là gì?Vì sao phải thực hành?
-Luận điểm 2:Giải thích vì sao "Học phải đi đôi với hành"
+Học đi đôi với hành có tác dụng như thế nào với người học?
+Học xong kiến thức và thực hành thì sẽ như thế nào?Có giúp chúng ta học tốt hơn
57
ko?
+Nếu chỉ học kiến thức thôi mà không có thực hành thì vốn kiến thức mình vừa học
được sẽ như thế nào?Có thật sự trở thành của mình không?
-Luận điểm 3:Khẳng định lại tính đúng đắn của phương châm ấy
+Nêu lên tầm quan trọng của "Học đi đôi với hành:
+Suy nghĩ của bản thân về phương châm trên
+Lời khuyên của bạn với mọi người?
Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục
Trong cuộc sống đang bộn bề, biến chuyển hằng ngày như hiện nay thì xã hôi, đất
nước đang cần đến một lực lượng thanh niên học sinh giỏi giang, tài đức. Và ngay từ
bây giờ, học sinh- được xem là những mầm non tương lai, là người kế thừa công cuộc
phát triển đất nước đang ra sức học tập, rèn luyện hết sức mình. Nhưng trái lại bên
cạnh đó, lại có một số học sinh đang học với không đúng khả năng của mình, và điều
này đã tạo điều kiện cho một “ căn bệnh” xâm nhập vào học đường đang hoành
hoành, gây xôn xao ngành giáo dục nói riêng và xã hội nói chung. Vâng, đó chính là
bệnh thành tích trong giáo dục.
Thật vậy, học sinh đến trường học qua loa đối phó, nưng điểm số và kết quả học tập
thì rất cao- đó là những biểu hiện cụ thể, triệu chứng của bệnh “ chuộng” thành tích.
Nhiều lúc ta cảm thấy ngạc nhiên trwocs lối hcọ của một số hoc sinh, lên lớp thì
nghệch ngoạc vài chữ, ngáp lên ngáp xuống, học theo kiểu “ cưỡi ngựa xem hoa”, về
nhà thì vở vất đầu giường. Thế nhưng, hok hiểu sao cứ đến kì thi lại có hok ít người
rất tự tin cầm bút vào phòng thi, rốt cuộc “ may mắn” làm sao, điểm vẫn trên trung
bình, danh sách học sinh tiên tiến, học sinh giỏi ở các trường vẫn “ thừa thắng xông
lên”. Tại sao lại có sự mâu thuẫn đến như vậy?Thật là khó lí giải. Họ thông minh đến
nỗi không cần học bài , hiểu bài cũng có thể thi, làm kiểm tra điểm cao à. Và rồi khi
bước vào kì thi đại hoc thật sự, kết quả lại khiến nhiều người sửng sốt, bất ngờ. Có
chăng chỉ là những học sinh tiêu biểu đó đã gặp may mắn trong khi quay cóp, tài liệu
hay là do thái độ ỷ lại vào bạn bè, sự dễ dãi của một số thầy cô trong các kì thi,...
Có thể thầy cô không nỡ nhìn học sinh của mình buồn khi nhận những con điểm kém,
kết quả tồi nên họ đã làm ngơ trước một vài điều hay là với tâm lí sợ trò học không
giỏi một phần là do thầy cô dạy không hay, có trường hợp nhiều học sinh đỗ xô đi học
một giáo viên A, B,.. nào đó không chỉ đơn thuần là giáo viên đó dạy giỏi, giảng hay
mà còn vì giáo vien đó “ thương” học trò và biểu hiện ra đó là cho học sinh biết trước
những đề kiểm tra, khi cho điểm thi lại hết sức nhẹ nhàng với học trò “ tại gia” của
mình. Xin nói thẳng chính vì thương kiểu đó mà đã có không ít những kết quả sai
lệch, học giả nhưng điểm thật. Và những thầy cô đó có thật sự thương học sinh của
mình mà đang huỷ hoại dần vốn kiến thức và ý thức học tập của hcọ sinh, dần dần họ
cứ nghĩ rằng cứ có thật nhiều tiền mua quà chăm sóc thầy cô hay có một chỗ ngồi êm
ấm trong nơi học thêmt hì sẽ dễ dàng với việc học, thi, kiểm tra. Thật là sai lầm!
Ông bà ta đã từng nói: “Không học thì làm sao có tương lai”. Tương lai đó không
htể mua bằng tiền, bằng những mẹo vặt khi làm bài hay sự nài nỉ của một ai đó...
58
Tương lai là do chính bản thân mình nắm lấy, mình bắt giữ, phải đổ mồ hôi, nước mắt
trong học tập thật sự thì mới có một tương lai tươi sáng.
Trong kì thi đại học vừa qua đã có không ít “ sĩ tử” thành “tử sĩ” chỉ vì học không
đúng với bản thân, hổng kiến thức trầm trọng, thế nhưng trong các năm học trứoc hay
thi tốt nghiệp vẫn luôn là “ giỏi”. Chính lúc bước vào kì thi chung của cả nước, kì thi
đại học gắt gao thì khả năng của mỗi học sinh mới được thể hiện thật sự chính xác, ai
giỏi có cố gắng thì sẽ đậu, ai mà chỉ biết mánh khoé, học giả dối thì phải nhận kết quả
thấp,hi vọng rằng họ sẽ không than vãn là “ học tyài thi phận”. Không biết rằng trước
kết quả đáng buồn của học sinh mình, thầy cô có hối hận hay không, vì đã quá dễ dãi
trong việc dạy dỗ học sinh của mình.
Chắc mọi người vẫn chưa quên vụ” chạy trường, lớp điểm” ở trường Lê Quý Đôn
vừa qua gây xôn xao trong bộ giáo duc và cả xã hội hay là kì thi tốt nghiệp năm ngoái
có trường thi tốt nghiệp đạt o%, tức là không một học sinh nào đậu. Không biết là nên
thất vọng bao nhiêu cho đủ đây, trước hậu quả mà bệnh thành tích đã gây ra trong nhà
trường.
Tuy nhiên, nói cho công bằng trách nhiệm cũng không nên đỏ hết cho thầy cô, đó còn
là sự học buông thả của một số học sinh, không chuyên tâm vào học hành, chỉ biết học
đối phó, qua loa và cách dạy có thể chưa hợp lí, làm học sinh thích thú...
Không thể để khối u nhột- bệnh thành tích này hoành hành và phát triển trong học
đường. Gia đình và thầy cô giáo cần kiểm tra về kiến thức và việc học của học sinh
chặt chẽ hơn nữa, tạo ra nhiều phương pháp học khiến học sinh thích thú nên hạn chế
những lối học “thầy đọc, trò chép” khô khan. Hơn hết quan trọng nhất là ý thức của
mỗi hcọ sinh, sự nỗ lực và cố gắng của từng bạn, lúc đầu có thể khó khăn nhưng về
sau bạn có thể có được niềm vui đích thực khi đón nhận những điểm số tốt xứng đáng
với sức mình bỏ ra. Hiện nay ngành giáo dục và xã hội ta đang páht động cuộc vận
động “Chống tiêu cực trong giáo dục và bệnh thành tích” hay khẩu hiệu “Ba không”
trong học đường...Mọi người, mọi trường đang tham gia hưởng ứng một cách tích
cực, học sinh chúng ta hãy hòa mình vào đó. Hãy từ biệt căn bệnh thành tích trong nhà
trường. Sống và học tập hết mình để xứng đáng trở thành những người kế thừa và phát
triển đất nước. bác Hồ đã từng nói “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay không đó là nhờ phần lớn ở công học tập của các cháu”.
Quyết tâm bài trừ bệnh thành tích trong nhà trường.
TỰ HỌC , MÔT NHU CẦU TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI
I/ * Tại sao phải tự học ?
"Học,Học nữa , Học mãi "
1_ thế nào là tự học ?
Tự học là tự nguyện không ai bắt buộc mà chính mình tự tìm tòi , khám phá
, học hỏi để hiểu biết thêm ."không thầy đố mày làm nên ","học thầy không tày học
bạn ". Nhưng chính bản thân ta tự vận động , tự học thì vẫn tốt hơn . Dù có thầy hay
không có thầy , ta không cần biết . Người tự học hoàn toàn làm chủ chính mình và biết
59
mình cần gì , học gì tùy ý , muốn học lúc nào cũng được, đó là điều kiện đầu tiên rất
quan trọng .
2_ Tự học là nhu cầu tất yếu của loài người : chúng ta có bản năng tò mò muốn hiểu
rõ hơn về bản thân và vạn vật xung quanh ... vì vậy loài người mới văn minh làm chủ
được chính mình và làm chủ cả mọi vật . Nên có người đã nói khôi hài rằng :" con
người chỉ hơn loài vật ở chỗ là biết hỏi :'TẠI SAO ???'
Bất kỳ ai cũng có tính tò mò muốn hiểu biết thêm nhưng phần lớn trong số họ có tính
lười biếng , lười suy nghĩ , không chịu khó tìm tòi học hỏi mà chỉ thích những thú vui
dễ tìm . Và một khi đã thỏa thuê thì chẳng cần bồi dưỡng đạo đức , tinh thần nữa nên
số người tự học rất ít và người nào kiên tâm tự học thì sớm muộn gì cũng vượt lên hẳn
người khác , không giàu hơn thì cũng được kính trọng hơn .
3_ Tự học rất cần thiết : .trước tiên nó cần thiết vì lẽ : bổ sung cho kiến thức còn thiếu
ở trường
. mỗi ngày sự hiểu biết của con người càng tăng lên không tự học thì không theo kịp
và bị tụt hậu , trở thành con người thừa của xã hội.
. tự học là thước đo giá trị về tri thức , đạo đức , tình thần giữa con người với nhau ...
b . khi làm bất kỳ nghành nghề nào thì sự tự học luôn cần thiết , chẳng hạn : một bác
sĩ y khoa , một dược sĩ , một tiến sĩ luật khoa nếu không biết tự học thì khi mới ra
trường có biết gì về sử ký , địa lý ...hơn một cậu tú đâu . và nghành chuyên môn của
họ đã có thể giúp ích gì được nhiều đâu .
Vì thế , họ phải tự học để mở mang đầu óc , trau dồi cho nghề nghiệp và nhất là để ta
tu dưỡng tâm tính , tức là bổ sung một chõ khuyết lớn trong nền giáo dục mà họ đã
được hấp thụ trên ghế nhà trường .
c .phương pháp dạy ở trường mang tính chất nhồi sọ , môn gì cũng cần phải thuộc như
một con vẹt , cần nhớ như một cái máy , nhớ cho thật nhiều . Tới môn toán mà cũng
không dạy cách phân tích mà lại bắt học thuộc lòng cách chứng minh các định lý ,
mệnh đề ...
người ta ít vận dụng cái đầu , không làm cho nó động não chẳng khác nào đào tạo ra
các con rôbốt không hơn không kém . Nếu ta muốn làm con người chứ không phải
mãn đời là một cái máy thì điều tất nhiên là ta phải TỰ HỌC...
4*Ích lợi của sự tự học :
_ trong đời sống ngày nay chúng ta thường thấy biết bao nhiêu người bỏ nghề chính
sinh nhai một cách rất lương thiện bằng một nghề phụ , nghề mà hồi trước họ tự học
để tiêu khiển . Chẳng hạn tôi có biết một người nhờ tự học cắt tóc trong một lúc nhàn
rỗi mà bây giờ trở thành một tay hớt tóc chuêyn nghiệp mặc dầu ông không có một
cửa tiệm nào cả , ông chỉ hớt tóc ngoài hè phố , một người khác nữa gần nhà tôi làm
công tác dạy hôn nhân cho các bạn trẻ bước vào cuộc sống vợ chồng , những điều ông
biết được là do sự kiên tâm tự học , khả năng nói chuyện giữa đám đông của ông rất
tốt , ông có cách giao tiếp rất thu hút người nghe ! vì sao ông làm được vậy ?
vì ông đọc rất nhiều sách và do tính cần cù tìm tòi , sáng tạo để có những buổi thuyết
trình không bị nhàm chán ,ông xen vô những câu chuyện hài hước làm cho mọi người
cảm thấy bớt vô vị ... mà ông có được thành công như ngày nay .
Tôi không nhớ một triết gia Trung Quốc nào đã nói :" Người ta chỉ biết sự ích lợi của
60
những cái hữu ích mà không biết sự ích lợi của những cái vô ích " chí lý thay lời ấy ...
và đến thời buổi bây giờ , lời nói ấy còn bị bỏ ngỏ , người ta chỉ biết đến cái lợi trước
mắt , cái lợi mà mang lại cho họ nhiều tiền tài danh vọng còn những cái tưởng chừng
như đơn giản , vô ích thường bị bỏ qua một cách không thương tiếc .
ít nhiều bạn trẻ bây giờ luôn cho rằng lối sống hưởng thụ là cách để tận hưởng cuộc
sống , vì thế họ lao vào cuộc sống này như một con thiêu thân để rồi nghĩ lại thì đã
muộn .: " đời người chỉ bằng gang tay ai hay ngủ ngày chỉ còn nửa gang "
cuộc sống là những trãi nghiệm từ khó khăn này đến khó khăn khác . Do đó tự học là
cách hết sức cần thiết , và là đôi chân cho người ta đứng vững trước những sóng gió
của cuộc đời , chẳng còn cách nào khác ngoài tự học , chính mình vượt qua những khó
khăn đó để vững bước theo kịp thời đại ."Anh nói cho tôi biết anh học những gì, tôi sẽ
nói cho anh biết anh có thành công hay không ?"