Chuyên đề 2 KỸ NĂNG SOẠN THẢO
Transcript of Chuyên đề 2 KỸ NĂNG SOẠN THẢO
Chuyên đề 2
KỸ NĂNG SOẠN THẢO
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
---------
Hoạt động tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động
khó, yêu cầu kỹ thuật cao, đặc biệt là trong giai đoạn hoàn thiện hệ thống pháp luật
hiện nay. Trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, vai trò của người soạn thảo
văn bản quy phạm pháp luật là hết sức quan trọng. Người soạn thảo với tư cách là
người đặt những “viên gạch” đầu tiên để xây dựng nền móng cho dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật, sẽ có vai trò mang tính quyết định đến chất lượng xây dựng
một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung chuyên đề này tập trung giới
thiệu một số kỹ năng cơ bản trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
I. NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG, BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT
Để thực hiện tốt vai trò trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, trước
hết cần nắm vững những nguyên tắc trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, cụ thể:
1. Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn
bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật
Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy
phạm pháp luật là yêu cầu chung đối với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của
mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nguyên tắc này luôn được chú trọng trong
quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
a) Tính hợp hiến
Tính hợp hiến cuả văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ở chỗ văn bản quy
phạm pháp luật không chỉ phù hợp với các quy định của Hiến pháp mà còn phải
phù hợp với tinh thần và các nguyên tắc của Hiến pháp. Để bảo đảm văn bản quy
phạm pháp luật không trái với quy định của Hiến pháp thì cơ quan soạn thảo văn
2
bản phải nắm rõ và hiểu đúng các quy định cụ thể của Hiến pháp liên quan đến lĩnh
vực điều chỉnh của văn bản đang soạn thảo. Văn bản quy phạm pháp luật không
được trái với tinh thần của Hiến pháp. Ví dụ, nếu Hiến pháp quy định “không phân
biệt đối xử” thì các văn bản quy phạm pháp luật, nếu có tính chất bất bình đẳng
giữa các công dân trước pháp luật thì có thể bị coi là không phù hợp với tinh thần
của Hiến pháp.
b) Tính hợp pháp
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật có nghĩa là văn bản quy
phạm pháp luật do các cơ quan ban hành phải tuân thủ thứ bậc hiệu lực pháp lý của
văn bản trong hệ thống pháp luật, hay nói cách khác là phải phù hợp với văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên đã ban hành.
Ở cấp tỉnh, nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh phải phù hợp với luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết, nghị quyết liên tịch của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định, nghị quyết
liên tịch của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ,... (sau đây gọi
chung là văn bản của cơ quan nhà nước Trung ương). Quyết định của Ủy ban nhân
dân tỉnh phải phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước Trung ương và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh.
Ở cấp huyện, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện phải phù hợp với
văn bản của cơ quan nhà nước Trung ương, nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh
và quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh; quyết định của Ủy ban nhân dân cấp
huyện phải phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước Trung ương, nghị quyết của
Hội đồng nhân dân tỉnh, quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh và nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Ở cấp xã, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã phải phù hợp với văn
bản của các cơ quan nhà nước ở Trung ương, văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã phải
phù hợp với văn bản của các cơ quan nhà nước trung ương, văn bản của Hội đồng
3
nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cấp xã.
Vậy làm thế nào để xây dựng văn bản đảm bảo tính hợp pháp?
Để bảo đảm tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật thì ngay từ khi
soạn thảo cần rà soát, hệ thống hoá một cách đầy đủ các văn bản quy phạm pháp
luật hiện đang có hiệu lực thi hành về lĩnh vực có liên quan để đối chiếu và kiểm
tra tính hợp pháp của văn bản mà mình đang soạn thảo hoặc sắp ban hành.
Tuy nhiên, có một vấn đề thực tế gây khó khăn không ít cho hoạt động này
là hiện nay trong một số lĩnh vực có quá nhiều văn bản pháp luật do các cơ quan
khác nhau ban hành điều chỉnh và trong một số trường hợp, các văn bản chồng
chéo, mâu thuẫn với nhau khiến người soạn thảo văn bản khó xử lý khi xem xét
tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật mà mình đang soạn thảo. Khi đó,
cần thực hiện nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại
Điều 156 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 - sau đây gọi
chung là Luật năm 2015.
c) Tính thống nhất
Văn bản do một cơ quan ban hành không được mâu thuẫn với các văn bản
quy phạm pháp luật khác của chính cơ quan ban hành văn bản đó, văn bản của cơ
quan nhà nước cấp dưới không mâu thuẫn với văn bản do cơ quan nhà nước cấp trên.
Người soạn thảo có trách nhiệm bảo đảm tính thống nhất của văn bản được
soạn thảo với hệ thống pháp luật hiện hành trên cơ sở cân nhắc thứ bậc hiệu lực
của văn bản, sao cho không có mâu thuẫn trong nội tại văn bản (trên thực tế thông
qua hoạt động thẩm định nhận thấy, không ít dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
có sự mâu thuẫn trong nội tại văn bản), giữa văn bản quy định chi tiết và văn bản
được quy định chi tiết. Cũng cần lưu ý rằng, tính thống nhất không có nghĩa là sự
rập khuôn.
2. Bảo đảm đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật
4
Luật năm 2015 quy định cụ thể về thẩm quyển, hình thức, trình tự, thủ tục
xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của từng chủ thể từ Quốc hội đến
Ủy ban nhân dân cấp xã. Việc tuân thủ về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục
là nguyên tắc bắt buộc trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Ngay trong Luật năm 2015, tại Điều 2 cũng quy định “Văn bản có chứa quy
phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự,
thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật”.
Thẩm quyền về nội dung, tại Điều 27 Luật năm 2015 quy định Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh được ban hành nghị quyết để: (1) Quy định chi tiết những vấn đề
được cơ quan nhà nước cấp trên giao; (2) Quy định chính sách, biện pháp bảo đảm
thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên; (3) Biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an
ninh ở địa phương; (4) Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
Theo Điều 28 Luật năm 2015 thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ban hành
quyết định để: (1) Quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; (2) Biện pháp thi hành Hiến pháp,
luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cùng cấp về phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa
phương; (3) Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương.
Hội đồng nhân dân cấp huyện ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân cấp
huyện ban hành quyết định để quy định những vấn đề được luật giao (Điều 30 Luật
năm 2015).
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật - sau đây gọi chung là Luật năm 2020 (có hiệu lực thi hành từ
01/01/2021), sửa đổi, bổ sung Điều 30 Luật năm 2015 như sau:
- Mở rộng phạm vi ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho cấp huyện,
cấp xã. Theo đó, ngoài trường hợp được ban hành văn bản quy phạm pháp luật để
quy định những vấn đề được luật giao như quy định của Luật hiện hành, Luật năm
5
2020 đã bổ sung trường hợp Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp
xã ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quy định những vấn đề được “nghị
quyết của Quốc hội giao”.
- Mở rộng nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện để phù hợp với quy định về phân cấp tại
khoản 2 Điều 13 Luật Tổ chức Chính quyền địa phương (việc thực hiện phân cấp
phải được thể hiện bằng văn bản quy phạm pháp luật). Cụ thể, Luật năm 2020 đã
bổ sung quy định Hội đồng nhân dân cấp huyện ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân
dân cấp huyện ban hành quyết định để thực hiện việc phân cấp cho chính quyền
địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới theo quy định của Luật Tổ chức chính
quyền địa phương.
3. Bảo đảm tính minh bạch trong văn bản quy phạm pháp luật
Công khai, minh bạch là một đòi hỏi tất yếu trong hoạt động lập pháp của
nhà nước pháp quyền. Để đảm bảo tính minh bạch trong văn bản quy phạm pháp
luật, cần tuân thủ hai nguyên tắc: Thứ nhất, phải thể hiện sự tham gia của người
dân, đặc biệt là các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm
pháp luật trong quá trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Thứ
hai, văn bản quy phạm pháp luật cần được công khai cho người dân trước khi văn
bản đó được áp dụng, thi hành.
Công khai, minh bạch trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt
là trong giai đoạn soạn thảo, là một trong những điều kiện để bảo đảm văn bản quy
phạm pháp luật mang tính khả thi và thực sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của
người dân.
4. Bảo đảm tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ thực hiện, yêu
cầu về giới và thủ tục hành chính
a) Tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời
Tính khả thi của dự thảo văn bản, bao gồm sự phù hợp giữa quy định của dự
thảo văn bản với yêu cầu thực tế, trình độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo
6
đảm để thực hiện. Nếu văn bản phản ánh chính xác, kịp thời những vấn đề đặt ra từ
thực tiễn, chứa đựng nội dung phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
và yêu cầu quản lý nhà nước thì sẽ tạo “đòn bẩy” cho kinh tế phát triển. Ngược lại,
trường hợp văn bản không phù hợp, không phản ánh đầy đủ các hướng vận động
của đời sống xã hội, của kinh tế - xã hội là nguyên nhân làm giảm sút hiệu quả của
quản lý nhà nước, kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội.
Ngoài ra, yêu cầu khi soạn thảo văn bản cần bảo đảm việc thực thi văn bản
phải tiết kiệm, hiệu quả. Nội dung này được thể hiện ở các khía cạnh: Chi phí tài
chính của Nhà nước, doanh nghiệp phải bỏ ra để thực thi văn bản phải là thấp nhất;
không làm thay đổi lớn đối với tổ chức, bộ máy, nhân sự của các cơ quan hiện hành.
b) Bảo đảm việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án, dự thảo văn bản
Nội dung của các quy định được xây dựng trong văn bản quy phạm pháp
luật không được gây bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới; tạo cơ hội phát
triển như nhau cho nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
c) Bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính
Theo quy định tại khoản 4 Điều 14 Luật năm 2015: Cấm quy định thủ tục
hành chính trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân
dân , trừ trường hợp được giao trong luật.
Để khắc phục khó khăn, vướng mắc, Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung Điều
14 và Điều 172 của Luật năm 2015 như sau:
- Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 14 (các hành vi bị nghiêm cấm): “4. Quy
định thủ tục hành chính trong thông tư, thông tư liên tịch, quyết định của Tổng
Kiểm toán nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban
nhân dân, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt, trừ trường hợp được luật, nghị quyết của Quốc hội giao
hoặc trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật này.”.
7
- Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 172 (hiệu lực thi hành) của Luật năm 2015:
“4. Những quy định về thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều 14 của Luật này
được ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì tiếp tục được áp dụng cho đến
khi bị bãi bỏ bằng văn bản khác hoặc bị thay thế bằng thủ tục hành chính mới.
Trường hợp sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật có quy định thủ tục
hành chính được ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì không được
làm phát sinh thủ tục hành chính mới hoặc quy định thêm thành phần hồ sơ,
yêu cầu, điều kiện, tăng thời gian giải quyết thủ tục hành chính đang áp dụng.”.
Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành
chính thì khi soạn thảo văn bản, cơ quan chủ trì soạn thảo, người soạn thảo cần
phải đánh giá được sự cần thiết, tính hợp lý và chi phí tuân thủ thủ tục hành chính
trong dự án, dự thảo văn bản phải thấp nhất.
5. Một số nguyên tắc khác như: Bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an
ninh, bảo vệ môi trường; công khai dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý
kiến trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; không
làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế ...
Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật phải tuân thủ các yêu cầu về quốc
phòng, an ninh, bảo vệ môi trường. Việc lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động
của văn bản, của các cơ quan, tổ chức liên quan, của chuyên gia, nhà khoa học, ...
phải đảm bảo dân chủ, công khai về đối tượng, nội dung, hình thức lấy ý kiến, giải
trình và tiếp thu ý kiến tham gia. Các quy định của văn bản quy phạm pháp luật
phải đảm bảo phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
II. KỸ NĂNG CHUNG KHI SOẠN THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT
1. Xác định tên văn bản quy phạm pháp luật
Tên của văn bản là một thông tin ngắn gọn về loại hình văn bản và nội dung
của văn bản bằng một số ít từ nối với nhau. Tên văn bản bao gồm tên loại và tên
8
gọi văn bản.
Tên loại văn bản là tên của từng loại văn bản. Đối với văn bản QPPL của
chính quyền địa phương bao gồm: Nghị quyết, quyết định. Tên gọi văn bản là một
câu ngắn gọn hoặc một cụm từ, phản ánh khái quát nội dung chủ yếu của văn bản.
Ví dụ: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về hỗ trợ giá thuê mặt bằng
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa
bàn tỉnh. Trong đó, Nghị quyết là tên loại văn bản, hỗ trợ giá thuê mặt bằng cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn
tỉnh là tên gọi văn bản.
2. Xác định căn cứ ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Căn cứ ban hành văn bản là các văn bản quy phạm pháp luật sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn đang có hiệu lực;
- Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn đã được công bố
hoặc ký ban hành chưa có hiệu lực nhưng phải có hiệu lực trước hoặc cùng thời điểm
với văn bản được ban hành.
Căn cứ ban hành văn bản bao gồm văn bản quy phạm pháp luật quy định
thẩm quyền, chức năng của cơ quan ban hành văn bản đó và văn bản quy phạm pháp
luật có hiệu lực pháp lý cao hơn quy định nội dung, cơ sở để ban hành văn bản.
* Lưu ý:
- Đối với văn bản quy định chi tiết, phải nêu cụ thể điều khoản giao quy định
chi tiết tại phần căn cứ ban hành văn bản. Trường hợp văn bản quy định chi tiết
nhiều điều khoản hoặc vừa quy định chi tiết các điều khoản được giao vừa quy
định các nội dung khác thì không nhất thiết phải nêu cụ thể các điều khoản được
giao quy định chi tiết tại phần căn cứ ban hành văn bản.
- Thông thường, qua rà soát sẽ có nhiều văn bản khác nhau liên quan trực
tiếp, gián tiếp đến nội dung văn bản mà chúng ta đang soạn thảo. Trong trường hợp
như vậy, người soạn thảo cần phải lựa chọn những căn cứ chính liên quan trực tiếp
9
đến hình thức, thẩm quyền, nội dung mà văn bản được quy định.
- Đối với văn bản chỉ đạo của Đảng, khi soạn thảo cần bám sát, quy phạm
hoá các nội dung chỉ đạo trong các văn bản đó nhưng không liệt kê các văn bản
này trong phần căn cứ ban hành văn bản.
3. Xây dựng bố cục văn bản quy phạm pháp luật
Mỗi văn bản quy phạm pháp luật có thể có bố cục khác nhau, phụ thuộc vào
phạm vi điều chỉnh của văn bản đó.
Việc sắp xếp bố cục chặt chẽ, logic bảo đảm tính hiệu quả của văn bản, dễ
dàng truyền tải được mục đích của văn bản mà không tốn nhiều thời gian của người
đọc, làm cho người đọc tiếp thu nhanh và hiểu rõ ý nghĩa của các quy định cụ thể.
Tuỳ theo nội dung, văn bản có thể được bố cục theo 6 phương án sau:
- Phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm;
- Phần, chương, mục, điều, khoản, điểm;
- Chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm;
- Chương, mục, điều, khoản, điểm;
- Chương, điều, khoản, điểm;
- Điều, khoản, điểm.
4. Trình bày nội dung văn bản
a) Việc sắp xếp các quy định về cùng một vấn đề trong phần, chương,
mục, tiểu mục nên theo thứ tự sau đây để dễ đọc, hiểu, tra cứu
- Quy định chung được trình bày trước quy định cụ thể;
- Quy định về nội dung được trình bày trước quy định về thủ tục;
- Quy định về quyền và nghĩa vụ được trình bày trước quy định về chế tài;
- Quy định phổ biến được trình bày trước quy định đặc thù;
- Quy định chung được trình bày trước quy định ngoại lệ.
10
Các khái niệm và quy định liên quan cũng phải được nhóm lại với nhau để
bảo đảm trật tự từ, cụm từ, mệnh đề.
b) Bố cục một văn bản quy phạm pháp luật, cách sắp xếp vị trí của các
điều, khoản, nhóm các vấn đề trong văn bản có thể được thực hiện như sau
- Phần chung nằm ở phần đầu của văn bản gồm các quy định về: Phạm vi
điều chỉnh, đối tượng áp dụng (tuy không bắt buộc nhưng đây là cơ sở để phát triển
các điều khoản tiếp theo và để người đọc thấy được tinh thần chung của văn bản);
định nghĩa/giải thích các thuật ngữ; các nguyên tắc chung hoặc các quy định chung
khác (nếu cần).
- Phần nội dung chính: Các quy định về hành vi xử sự của đối tượng áp dụng;
các quy định về chế tài; các quy định về nguồn lực bảo đảm thi hành văn bản.
- Phần các quy định về thi hành văn bản và các quy định khác: Điều khoản
sửa đổi, bãi bỏ; điều khoản về thời điểm có hiệu lực/chấm dứt hiệu lực của văn
bản; điều khoản chuyển tiếp.
* Lưu ý:
Văn bản quy phạm pháp luật không quy định chương riêng về thanh tra,
khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm nếu không có nội dung mới (khoản 3
Điều 8 Luật năm 2015).
5. Xây dựng đề cương sơ bộ, đề cương chi tiết
Đề cương tốt là nền tảng cho dự thảo văn bản tốt. Do đó, xây dựng đề cương
cũng cần phải bài bản, bám sát kết quả khảo sát, đánh giá, tổng kết vấn đề thực
tiễn, đánh giá tác động, các chính sách, giải pháp,...
Đề cương sơ bộ cần phải có những nội dung sau:
- Xác định rõ phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của văn bản;
- Xác định rõ bố cục của văn bản quy phạm pháp luật, gồm có những đơn vị
gì (phần, chương, mục, tiểu mục...);
- Xác định cụ thể tên từng phần, chương, mục, tiểu mục;
11
- Các nội dung cơ bản sẽ được quy định tại các phần, chương, mục, tiểu mục đó;
- Xác định hiệu lực của văn bản.
Đề cương chi tiết được phát triển trên cơ sở các phần chương, mục của đề
cương sơ bộ. Trong đề cương chi tiết, các ý tưởng, chính sách sẽ được làm rõ hơn
với những nội dung tương đối cụ thể. Tuy nhiên, trong đề cương chi tiết không cần
xác định rõ các điều, khoản cụ thể mà chỉ cần xác định các điều cần phải có trong
các chương, mục, tiểu mục của đề cương để mọi người góp ý.
6. Xây dựng điều khoản định nghĩa
Điều khoản định nghĩa trong văn bản quy phạm pháp luật thường có tên gọi
là “Giải thích từ ngữ”. Định nghĩa pháp lý của một từ có thể khác với định nghĩa
của từ đó trong từ điển ngôn ngữ. Định nghĩa trong từ điển ngôn ngữ thường mang
tính mô tả còn định nghĩa pháp lý lại mang tính mệnh lệnh. Các định nghĩa pháp lý
có thể thay đổi ý nghĩa của một từ trong từ điển nên cần sử dụng chúng một cách
thận trọng.
Điều khoản định nghĩa nên đặt ở phần đầu của văn bản. Trong trường hợp
phạm vi áp dụng định nghĩa chỉ giới hạn đối với một phần, chương, mục, tiểu mục
hay bộ phận khác của văn bản thì nên đặt các định nghĩa tại phần đầu của phần,
chương, mục, tiểu mục hay bộ phận đó.
Sử dụng điều khoản định nghĩa trong trường hợp như:
- Trong văn bản có thuật ngữ chuyên môn cần phải làm rõ nội dung thì thuật
ngữ đó phải được giải thích;
- Trong văn bản có những từ ngữ được sử dụng nhiều lần;
- Khi muốn hạn chế hoặc mở rộng nghĩa thông thường của từ hoặc cụm từ;
- Khi tránh lặp lại quá nhiều lần trong một văn bản, cần có cả một danh mục
dài hoặc những quy định dài để giải thích, mô tả làm rõ ý của từ ngữ, khái niệm
phức tạp nào đó, nhất là các quy định đó được lặp đi lặp lại nhiều lần trong văn bản;
- Để tự động cập nhật các thay đổi theo ngôn ngữ của luật. Ví dụ: Dân số là
12
số lượng người dân sinh sống trên một địa bàn cụ thể theo số liệu điều tra dân số
chính thức mới nhất.
* Một số điểu lưu ý khi sử dụng định nghĩa
- Không định nghĩa một khái niệm hay thuật ngữ đã rõ nghĩa, ví dụ: Năm
dương lịch;
- Không định nghĩa một thuật ngữ không được sử dụng, thuật ngữ chỉ sử
dụng một lần trừ trường hợp đó là thuật ngữ phức tạp có thể hiểu khác nhau;
- Không được lồng ghép luật nội dung vào phần định nghĩa;
- Không sử dụng khái niệm được định nghĩa trong phần định nghĩa. Ví dụ
nên tránh: Người cấp giấy phép là người chịu trách nhiệm cấp giấy phép của Sở,
ngành ... Nên định nghĩa theo hướng: Người cấp giấy phép là cán bộ Sở/ngành có
trách nhiệm phê duyệt đơn xin cấp giấy phép để thực hiện các hoạt động ...;
- Tránh sử dụng quá nhiều định nghĩa;
- Một từ hay cụm từ được sử dụng trong luật không nên được định nghĩa
trong các văn bản dưới luật vì mục đích của luật, trừ khi trong luật có ủy quyền
quy định.
7. Kỹ thuật viện dẫn trong văn bản quy phạm pháp luật
Viện dẫn trong văn bản là để cho văn bản ngắn gọn, đơn giản, tránh phải
nhắc lại toàn bộ văn bản, điều, khoản, điểm cụ thể; bảo đảm sự thống nhất trong
nội dung của văn bản. Trong một số trường hợp, một số nội dung chỉ có thể quy
định bằng cách viện dẫn.Ví dụ như: Biểu đồ, bảng biểu, biểu mẫu và những nội
dung mà không thể hiện được bằng văn xuôi.
Điều 75 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật quy định cụ thể về kỹ thuật viện dẫn văn bản như sau:
- Khi viện dẫn văn bản có liên quan, phải ghi đầy đủ tên loại văn bản, số, ký
hiệu văn bản; ngày, tháng, năm thông qua hoặc ký ban hành văn bản; tên cơ quan,
13
người có thẩm quyền ban hành văn bản và tên gọi văn bản.
- Trường hợp viện dẫn phần, chương, mục, tiểu mục của một văn bản quy
phạm pháp luật thì phải xác định cụ thể phần, chương, mục, tiểu mục của văn bản đó.
- Trường hợp viện dẫn đến điều, khoản, điểm thì không phải xác định rõ đơn
vị bố cục phần, chương, mục, tiểu mục có chứa điều, khoản, điểm đó.
- Trường hợp viện dẫn đến phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm
của một văn bản thì phải viện dẫn theo thứ tự từ nhỏ đến lớn và tên của văn bản;
nếu viện dẫn từ khoản, điểm này đến khoản, điểm khác trong cùng một điều hoặc
từ mục, điều này đến mục, điều khác trong cùng một chương của cùng một văn bản
thì không phải xác định tên của văn bản nhưng phải viện dẫn cụ thể.
8. Xây dựng điều khoản chuyển tiếp trong văn bản quy phạm pháp luật
Về nguyên tắc, văn bản quy phạm pháp luật có đầy đủ hiệu lực vào thời
điểm có hiệu lực của văn bản nếu như không có quy định gì khác.
Điều này có nghĩa là vào thời điểm đó văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ pháp lý đã hình thành trước đó và những quan hệ pháp lý hình
thành từ thời điểm văn bản có hiệu lực không có sự khác nhau. Nhưng thông
thường thì từ một sự chuyển giao thẳng từ một thực trạng pháp lý này sang một
thực trạng pháp lý khác là không thể, vì các lý do khác nhau phải chú ý tới các
quan hệ pháp lý đang tồn tại. Vì thế ở đây cần phải có quy định chuyển tiếp, trong
đó sẽ quy định xử lý như thế nào đối với các mối quan hệ pháp lý đang tồn tại từ
trước đó.
Quy định chuyển tiếp được sử dụng trong văn bản nhằm xử lý các mối quan
hệ pháp lý đang tồn tại trước khi văn bản được ban hành. Khi một văn bản bị sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ hay thay thế, cần cân nhắc liệu văn bản hay điều khoản mới có
thể có hiệu lực kể từ ngày dự kiến mà không gặp khó khăn nào không, hoặc liệu
điều khoản chuyên tiếp có cần không.
Quy định chuyển tiếp được quy định thành điều riêng tại phần cuối của văn
bản, được đặt tên là “Quy định chuyển tiếp” hoặc quy định thành khoản riêng tại
14
các điều cần phải có quy định chuyển tiếp hoặc quy định thành khoản riêng tại điều
quy định về hiệu lực.
II. KỸ THUẬT SOẠN THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
1. Trình bày văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều
Văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều là văn bản sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ,
thay thế một hoặc một số quy định của văn bản hiện hành sau khi được ban hành.
a) Tên gọi
Tên gọi của văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều gồm tên loại văn bản có
kèm theo cụm từ “sửa đổi, bổ sung một số điều của” và tên đầy đủ của văn bản
được sửa đổi, bổ sung một số điều.
Ví dụ: Quyết định số 02/2019/QĐ-UBND sửa đổi, bổ sung một số điều của
Quy định về giá cước vận chuyển hàng hóa bằng phương tiện vận tải trên địa bàn
tỉnh Bắc Kạn ban hành kèm theo Quyết định số 07/2017/QĐ-UBND ngày
15/02/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn.
b) Bố cục của văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều
Nội dung văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của một văn bản được bố cục
thành các điều theo thứ tự:
- Điều quy định về nội dung sửa đổi, bổ sung;
- Điều quy định về việc bãi bỏ hoặc thay đổi từ ngữ liên quan đến nhiều
điều, khoản trong văn bản hiện hành;
- Điều quy định về trách nhiệm tổ chức thực hiện (nếu có);
- Điều quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản.
Các khoản quy định nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ được sắp xếp
theo thứ tự tương ứng với trật tự các điều, khoản của văn bản được sửa đổi, bổ sung.
c) Cách đánh số thứ tự của điều, khoản bổ sung
15
Việc đánh số thứ tự của điều, khoản bổ sung được thực hiện như sau:
- Căn cứ vào nội dung bổ sung để xác định vị trí của điều, khoản bổ sung
trong văn bản được sửa đổi, bổ sung;
- Đánh số thứ tự của điều, khoản bổ sung bằng cách ghi kèm chữ cái theo
bảng chữ cái tiếng Việt vào sau số chỉ điều, khoản đứng liền trước đó;
- Số thứ tự của chương, mục, tiểu mục, điều, khoản được bổ sung được thể
hiện gồm phần số và phần chữ. Phần số được thể hiện theo số thứ tự của chương,
mục, tiểu mục, điều khoản trong văn bản được sửa đổi, bổ sung. Phần chữ được
sắp xếp theo thứ tự trong bảng chữ cái tiếng Việt;
- Số thứ tự của điểm được bổ sung được thể hiện gồm phần chữ và phần số.
Phần chữ được thể hiện theo thứ tự của điểm trong văn bản được sửa đổi, bổ sung.
Phần số được sắp xếp theo thứ tự bắt đầu từ số 1.
d) Cách trình bày văn bản sửa đổi, bổ sung
Việc trình bày văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều không được làm thay
đổi, trật tự các điều, khoản không bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ của văn bản
hiện hành.
2. Trình bày văn bản sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản
- Văn bản sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản là văn bản sửa đổi, bổ sung, thay
thế, bãi bỏ đồng thời các quy định của nhiều văn bản có liên quan.
- Tên của văn bản sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản: Tùy theo nội dung được
sửa đổi, bổ sung, tên của văn bản sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản được thể hiện
như sau: Tên loại văn bản kèm theo cụm từ “sửa đổi, bổ sung một số điều” văn bản
được sửa đổi, bổ sung có cùng nội dung sửa đổi, bổ sung liên quan được khái quát
hoặc liệt kê cụ thể tên văn bản được sửa đổi, bổ sung.
Ví dụ: Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính.
16
- Bố cục của văn bản sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản: Tùy theo nội dung văn
bản sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản có thể bố cục thành các điều khác nhau, mỗi
điều chứa đựng nội dung được sửa đổi, bổ sung của một văn bản, trừ điều quy định
về trách nhiệm, tổ chức thực hiện, thời điểm có hiệu lực của chính văn bản sửa đổi,
bổ sung nhiều văn bản đó.
Nội dung các điều, khoản của văn bản sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản phải
xác định rõ tên văn bản, điều, khoản, điểm của các văn bản liên quan được sửa đổi,
bổ sung. Tên điều của văn bản là quy định chỉ dẫn việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ,
thay thế của từng văn bản cụ thể. Một điều có thể được bố cục thành các khoản;
khoản có thể được bố cục thành các điểm.
III. KỸ NĂNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ KHI SOẠN THẢO VĂN BẢN
1. Tầm quan trọng của diễn đạt ngôn ngữ trong văn bản quy phạm
pháp luật
Để pháp luật dễ hiểu, được hiểu đúng đối với mọi đối tượng thì ngôn ngữ
diễn đạt trong văn bản quy phạm pháp luật đóng vai trò quan trọng. Nhiệm vụ của
người soạn thảo là phải diễn đạt văn bản bằng ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, tránh
để cho người đọc hiểu và áp dụng theo nhiều cách khác nhau. Văn bản quy phạm
pháp luật không phải chỉ để dành cho cán bộ, công chức nhà nước thực thi văn bản
mà còn dành cho các đối tượng chịu sự tác động của văn bản (trực tiếp hoặc gián
tiếp), họ có các trình độ, năng lực khác nhau.
Việc sử dụng ngôn ngữ rất có ý nghĩa đối với việc chuyển tải nội dung văn
bản. Cũng là chọn cách diễn đạt nhưng nếu không bảo đảm chặt chẽ thì sẽ dẫn tới
sự tùy tiện của nhà chức trách khi thi hành văn bản. Nếu người soạn thảo không sử
dụng ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu thì chính những người có thẩm quyền xem xét,
thông qua văn bản cũng hiểu khác đi.
Đối với các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, nếu ngôn ngữ
không rõ ràng, trong sáng thì họ có thể hiểu khác đi và không thi hành pháp luật
theo mong muốn của người soạn thảo.
17
2. Yêu cầu về ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật
Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản là tiếng Việt, chính xác, phổ thông. Không
dùng từ ngữ địa phương, từ ngữ cổ. Từ ngữ nước ngoài chỉ được sử dụng khi
không có từ ngữ tiếng Việt tương ứng để thay thế.
Văn bản phải sử dụng ngôn ngữ viết, cách diễn đạt phải rõ ràng, đơn giản,
dễ hiểu. Trong văn bản có thuật ngữ chuyên môn cần phải làm rõ nội dung thì
thuật ngữ đó phải được giải thích. Từ ngữ viết tắt chỉ được sử dụng trong trường
hợp cần thiết và phải giải thích nội dung của từ ngữ đó tại lần xuất hiện đầu tiên
trong văn bản. Đối với văn bản sử dụng nhiều từ viết tắt, cần quy định riêng một
điều giải thích toàn bộ các từ viết tắt trong văn bản.
Từ ngữ được sử dụng trong văn bản phải thể hiện chính xác nội dung cần
truyền đạt, không làm phát sinh nhiều cách hiểu; trường hợp dùng từ có thể hiểu
theo nhiều nghĩa thì phải giải thích theo nghĩa được sử dụng trong văn bản. Không
sử dụng từ nghi vấn, các biện pháp tu từ trong văn bản. Từ ngữ phải được sử dụng
thống nhất trong văn bản. Yêu cầu về tính chính xác bao gồm:
- Ngôn ngữ văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác về chính tả, nghĩa là
viết đúng các âm, vần, tiếng, từ, chữ viết hoa, viết tắt, tên riêng tiếng Việt, tên
riêng tiếng nước ngoài...theo chuẩn quốc gia.
- Ngôn ngữ văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác về nghĩa của từ bao
gồm cả nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp, khi soạn thảo văn bản quy phạm pháp
luật cần có thói quen sử dụng từ điển thường xuyên thì việc biểu đạt nội dung
người viết cần thể hiện mới chính xác. Thêm nữa, trong văn bản quy phạm pháp
luật, mỗi từ được sử dụng phải được hiểu và chỉ được hiểu theo một nghĩa nhất
định. Không được sử dụng từ đa nghĩa để tránh tình trạng có nhiều cách hiểu khác
nhau về cùng một quy định của pháp luật.
Ví dụ: Phá hại - phá hoại - phá hủy. Các từ này đều có nghĩa là làm cho hư
hỏng, thiệt hại nhưng cần nắm bắt chính xác nghĩa của từng từ để sử dụng cho
chính xác. Cụ thể:
18
Phá hại là làm cho hư hại, thường là hoa màu;
Phá hoại là làm cho bị hư hỏng, cho thiệt hại nặng (có tác động của con người).
Phá hủy là làm cho bị hư hỏng nặng, không dùng được nữa hoặc không còn
tồn tại.
- Ngôn ngữ văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác trong cách viết câu
và sử dụng dấu câu. Trong cách hành văn của văn bản quy phạm pháp luật nên viết
những câu ngắn gọn, rõ ràng, đủ hai thành phần nòng cốt (chủ ngữ và vị ngữ) để
bảo đảm tính chính xác cho ý câu diễn đạt. Câu văn ngắn gọn mới dễ hiểu và dễ thi
hành. Để viết được như vậy, người viết cần có vốn từ sâu rộng, nắm vững cách
thức kết hợp các từ sao cho thật chặt chẽ, logic để tạo thành câu đúng ngữ pháp và
thể hiện đúng mục đích của chủ thể ban hành văn bản. Ngoài ra, dấu chấm câu phải
được đặt hợp lý mới đạt được hiệu quả tối đa.
- Ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm tính nghiêm
túc. Khi soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, người viết chú ý không sử dụng
khẩu ngữ, tiếng lóng, tiếng tục; tránh dùng những từ thô thiển, thiếu nhã nhặn, đả
kích hoặc châm biếm. Đồng thời, nên tránh sử dụng các yếu tổ ngôn ngữ mang sắc
thái biểu cảm (dấu chấm than, dấu chấm hỏi, văn tả cảnh, văn vần, lối viết văn hoa,
sáo rỗng).
- Ngôn ngữ văn bản phải có tính phổ thông và được sử dụng thống nhất.
Ví dụ: Việc sử dụng từ “ngày” và “ngày làm việc” trong văn bản quy định
về khoảng thời gian thực hiện.
Ngôn ngữ phổ thông là ngôn ngữ được sử dụng thường xuyên trên phạm vi
toàn quốc. Ngoài ra, việc sử dụng thuật ngữ chuyên ngành cũng cần phải thận
trọng, bởi các từ ngữ đó không phải đều dễ đối với mọi đối tượng. Trường hợp bắt
buộc phải dùng những thuật ngữ không quen với người đọc thì cần có phần giải
thích từ ngữ. Thêm nữa, việc phân chia sắp xếp các đơn vị nội dung trong văn bản
cũng nhằm bảo đảm tính phổ thông: Đi từ khái quát đến cụ thể, từ vấn đề quan
19
trọng đến vấn đề ít quan trọng hơn là hướng tư duy, cách diễn đạt theo thói quen
phổ biến của người Việt.
- Ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu. Từ ngữ
diễn đạt trong văn bản phải được trình bày để bất kỳ ai với trình độ, năng lực khác
nhau đều hiểu được. Đánh giá sự dễ hiểu của văn bản theo các tiêu chí sau: Đơn
giản, ngắn gọn, mạch lạc. Đặc biệt quan trọng đối với văn bản quy phạm pháp luật
là tính mạch lạc, tức là tính chính xác và rõ ràng của diễn đạt. Để soạn thảo văn
bản được dễ hiểu hoặc để dễ hoàn thiện chúng về mặt ngôn ngữ, phải chú ý ba vấn
đề: Lựa chọn từ ngữ, cấu trúc câu và bố cục văn bản.
3. Sử dụng một số từ ngữ đặc biệt
Khi trình bày ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật cần lưu ý một số
vấn đề sau:
- Quy định rõ ràng các hành vi được làm, không được làm, có thể làm.
Ví dụ: Về hành vi không được làm: “Không được sử dụng hộ chiếu ngoại
giao, hộ chiếu công vụ để đi nước ngoài với mục đích cá nhân” (khoản 5 Điều 5
Quyết định số 09/2019/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh về quản lý hộ chiếu
ngoại giao, hộ chiếu công vụ của cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Bắc Kạn).
- Quy định rõ thứ tự ưu tiên khi áp dụng.
Ví dụ: Trong trường hợp có nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ cùng một nội
dung, đối tượng thụ hưởng thì được áp dụng một chính sách hỗ trợ có lợi nhất.
- Sử dụng từ “và” nếu trong một quy định nhiều điều kiện đồng thời được
đưa ra hoặc một sự việc mang tới nhiều hậu quả pháp lý.
Ví dụ: Người mua và người bán; khoản 1, 2 và 3 Điều 2 của Quyết định này ...
- Sử dụng từ “có thể” để chỉ quy phạm pháp luật tuỳ nghi.
Ví dụ: Trong trường hợp cần thiết, các cơ quan chuyên môn có thể thành lập
Tổ soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
4. Sử dụng từ viết tắt trong văn bản
20
Về nguyên tắc, không sử dụng từ ngữ viết tắt trong văn bản quy phạm pháp
luật. Nếu việc viết tắt trong bảng biểu, mục lục là không tránh khỏi thì khi lần đầu
tiên sử dụng viết tắt phải viết đầy đủ bằng chữ rồi mở ngoặc viết từ viết tắt sẽ sử
dụng thay thế sau đó.
Ví dụ: Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật(sau đây viết tắt là Nghị định 34).
5. Xây dựng câu trong văn bản
- Sử dụng câu ngắn, đơn giản, dễ hiểu. Khi soạn thảo văn bản quy phạm
pháp luật, sử dụng câu ngắn sẽ dễ hiểu hơn câu dài. Trường hợp cần xây dựng câu
dài thì phải bảo đảm tính mạch lạc của câu. Khi xây dựng câu cần phải chú ý một
số điểm sau: Nội dung quan trọng nên đặt ở vị trí trung tâm của câu về mặt ngữ
pháp; một câu chỉ nên thể hiện một ý tưởng.
- Đặt câu ở thể chủ động, tránh dùng thể bị động.
Ví dụ: Thay vì sử dụng câu “người bị thiệt hại được bồi thường” thì nên dùng
câu “người nào gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường”. Bởi việc dùng thể
bị động có thể không làm rõ trách nhiệm của đối tượng phải thực thi pháp luật.
- Đối với văn bản quy phạm pháp luật, cần chú ý đặt câu ở thời hiện tại vì
văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội hiện tại, nhằm
làm thay đổi các hành vi xử sự đang diễn ra./.