Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

31
I. Các lý thuyết mới về thương mại quốc tế: 1. Thương mại dựa trên tính kinh tế theo quy mô: Trình bày: Phạm Quang Tăng 2. Thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ 2.1. Lý thuyết khoảng cách công nghệ: Trình bày: Vũ Thu Hà 2.2. Lý thuyết vòng đời sản phẩm: Trình bày: Trần Thị Quỳnh 3. Lý thuyết thương mại liên quan đến cầu 3.1. Sự phân hóa sản phẩm và thương mại nội bộ ngành 3.2. Giả thuyết Linder Trình bày: Phạm Thu Hà II. Lý thuyết về các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow: Trình bày: Nguyễn Thị Kim Chi III. Lý thuyết vòng luẩn quẩn: Trình bày: Nguyễn Thị Kim Hoàn IV. Lý thuyết cú huých lớn từ bên ngoài: 1

Transcript of Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

Page 1: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

I. Các lý thuyết mới về thương mại quốc tế:

1. Thương mại dựa trên tính kinh tế theo quy mô:

Trình bày: Phạm Quang Tăng

2. Thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ

2.1. Lý thuyết khoảng cách công nghệ:

Trình bày: Vũ Thu Hà

2.2. Lý thuyết vòng đời sản phẩm:

Trình bày: Trần Thị Quỳnh

3. Lý thuyết thương mại liên quan đến cầu

3.1. Sự phân hóa sản phẩm và thương mại nội bộ ngành

3.2. Giả thuyết Linder

Trình bày: Phạm Thu Hà

II. Lý thuyết về các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow:

Trình bày: Nguyễn Thị Kim Chi

III. Lý thuyết vòng luẩn quẩn:

Trình bày: Nguyễn Thị Kim Hoàn

IV. Lý thuyết cú huých lớn từ bên ngoài:

Trình bày: Trương Đức Trọng

1

Page 2: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

CÁC LÝ THUYẾT MỚI VỀ KINH TẾ QUỐC TẾ

Các hoạt động kinh tế quốc tế phát triển ngày càng mạnh mẽ, thực tiễn đã cho thấy nhiều vấn đề mới đặt ra trong quan hệ kinh tế mà các lý thuyết truyền thống chưa giải thích được. Điều này đã đặt ra yêu cầu cấp bách cho việc xây dựng các lý thuyết kinh tế quốc tế mới để giải thích đầy đủ hơn các khía cạnh đa dạng và thường xuyên biến đổi của lĩnh vực kinh tế quốc tế. Các lý thuyết mới này có cách tiếp cận khác với các lý thuyết truyền thống trong lĩnh vực kinh tế quốc tế. Các lý thuyết truyền thống thường coi các chủ thể tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế là các quốc gia chứ không phải các doanh nghiệp mà trên thực tế tình hình diễn ra lại ngược lại. Hơn nữa, các lý thuyết truyền thống về kinh tế quốc tế chủ yếu đề cập đến lĩnh vực thương mại, trong khi đó lĩnh vực kinh tế quốc tế còn có cả lĩnh vực đầu tư, tài chính tiền tệ,di chuyển lao động,... Do đó, có thể xem các lý thuyết mới này đưa ra nhiều cách tiếp cận đa dạng hơn và ở phạm vi lớn hơn so với các lý thuyết truyền thống, mặc dù cho đến này vẫn chưa có một lý thuyết nào giải thích một cách đầy đủ mọi khía cạnh khác nhau của lĩnh vực kinh tế quốc tế.

I. Các lý thuyết mới về thương mại quốc tế

Kinh tế học hiện đại có nhiều lý thuyết mới về thương mại quốc tế nhưng có thể phân thành 3 nhóm, căn cứ vào các cách tiếp cận của chúng: Lý thuyết dựa trên hiệu suất theo qui mô; lý thuyết liên quan đến công nghệ; và lý thuyết liên quan đến cầu.

1.Thương mại dựa trên tính kinh tế theo qui mô

Một trong những lý do quan trọng dẫn đến thương mại quốc tế theo tính kinh tế theo qui mô. Đó là sản xuất được coi có hiệu quả nhất khi được tổ chức trên qui mô lớn. Lúc đó một sự gia tăng đầu vào với tỷ lệ nào đó sẽ dẫn tới sự gia tăng đầu ra( sản lượng) với tỷ lệ cao hơn. Lưu ý rằng các mô hình thương mại truyền thống như: H – O và Ricardo đều dựa trên giả định về hiệu suất không đổi theo qui mô. Trong trường hợp hiệu suất tăng dần thì đường giới hạn khả năng sản xuất thường là một đường cong lồi về phía gốc tọa độ, và khi đó chi phí cơ hội là giảm dần. Điều này cho phép thương mại giữa các nền kinh tế giống nhau diễn ra một cách cùng có lợi.

Hình 1 minh họa cho thương mại dựa trên hiệu suất tăng dần theo qui mô. Giả sử hai nước là Nhật Bản và Mỹ giống nhau về mọi khía cạnh ( công nghệ sản xuất, mức độ trang bị các yếu tố, sở thích). Giả thiết này loại trừ khả năng giải thích thương mại hình thành giữa hai nước bằng lý thuyết H – O. Cả hai nước đều

2

Page 3: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

sản xuất hai mặt hàng là tàu thủy và máy bay. Do giống nhau cho nên hai nước có cùng một đường giới hạn khả năng sản xuất là UV và các đường bàng quan I1,I2,I3.

Hình 1 – Thương mại dựa trên hiệu suất tăng dần theo quy mô.

Tàu

Máy bay

Khi chưa có thương mại, hai nước có chung điểm cân bằng, tức cùng sản xuất và tiêu dùng tại điểm E, nơi đường giới hạn khả năng sản xuất tiếp xúc với đường bàng quan I1. Mức giá hàng hóa tương quan giữa hai nước cũng bằng nhau và được biểu thị bằng độ dốc của đường giá cả chung ST.

Khi có thương mại, Nhật Bản thực hiện chuyên môn hóa hoàn toàn việc sản xuất tàu thủy, cụ thể tại điểm sản xuất mới là U. Còn Mỹ thì chuyên môn hóa hoàn toàn việc sản xuất máy bay, tại điểm sản xuất mới là V. Nhật Bản sẽ xuất khẩu RU (hoặc MK) tàu thủy để đổi lấy RN( hoặc KV) máy bay của Mỹ: Hai tam giác thương mại URN và MKV là bằng nhau. Cả hai nước đều có lợi do đạt tới các điểm tiêu dùng cao hơn.

Như vậy, mức giá hàng hóa tương quan giống nhau không cản trở việc hai nước buôn bán một cách có lợi với nhau. Lưu ý là trong mô hình thương mại dựa trên hiệu suất theo qui mô, tỷ lệ trao đổi quốc tế cũng đúng bằng mức giá tương quan trước khi có thương mại, và mỗi nước thực hiện chuyên môn hóa hoàn toàn nhưng với hướng chuyên môn hóa là không xác định. Những điểm này cho thấy sự khác biệt giữa thương mại dựa trên hiệu suất theo qui mô và thương mại dựa trên lợi thế so sánh.

I2

3

U

RS

E

N

T K V0

M

Page 4: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

2. Thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ

Trong các lý thuyết thương mại trước đây, yếu tố công nghệ chưa được xét đến. Ở lý thuyết của Adam Smith và Ricardo: thương mại hình thành trên cơ sở có sự khác biệt về năng suất lao động giữa các quốc gia (chỉ đề cập đến vấn đề lao động). Còn lý thuyết H - O là một mô hình thương mại tĩnh, quyết định thương mại dựa trên tương quan sử dụng các yếu tố sản xuất của quốc gia (lao động và vốn) với công nghệ được giả định là giống nhau giữa các quốc gia.

Trên thực tế, quy mô và trình độ sản xuất của mỗi quốc gia là khác nhau, điều này cơ bản phụ thuộc vào trình độ phát triển công nghệ của mỗi quốc gia. Như các bạn đã biết, Nhật Bản vốn là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1955-1973) khiến cho thế giới hết sức kinh ngạc. Những mặt hàng xuất khẩu chính của Nhật là thiết bị giao thông vận tải, xe cơ giới, hàng điện tử, máy móc điện tử và hóa chất. Vậy bí quyết cho sự phát triển thần kì của Nhật Bản là gì ? câu trả lời chính là các chính sách phát triển phù hợp, đặc biệt là " nghiên cứu và phát triển công nghệ"

Sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghiệp lần 3 (1913-1950) đã làm xuất hiện và phát triển nhanh chóng các ngành năng lượng hạt nhân, hóa dầu, công nghệ tin học, sinh học, ... làm gia tăng đầu tư và buôn bán quốc tế, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thế giới về cơ sở vật chất- kĩ thuật lên một tầm cao mới. Với tiền đề này, các lý thuyết thương mại liên quan đến công nghệ ra đời. Về thực chất, các lý thuyết này cũng theo đuổi cách tiếp cận chủ yếu của lý thuyết Ricardo, nhưng điểm khác biệt ở chỗ : có sự khác biệt về công nghệ sản xuất ở các quốc gia và sự khác biệt này không phải là yếu tố tĩnh tồn tại mãi mãi mà là 1 hiện tượng tạm thời và gắn liền với 1 quá trình động, liên tục phát triển.

2.1 Lý thuyết về khoảng cách công nghệ.

Lý thuyết về khoảng cách công nghệ được nhà kinh tế Posner đưa ra vào năm 1961. Nó dựa trên ý tưởng cho rằng công nghệ luôn thay đổi dưới hình thức các phát minh sáng chế mới và điều này có tác động đến xuất khẩu của quốc gia.

Quá trình tác động của như sau:- Phát minh mới ra đời => sản phẩm mới xuất hiện và trở thành mặt hàng mà

quốc gia phát minh có lợi thế tuyệt đối tạm thời

4

Page 5: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

- Ban đầu, hãng phát minh ra sản phẩm giữ vị trí độc quyền và sản phẩm được tiêu thụ trong thị trường nội địa. Sau 1 thời gian, xuất hiện nhu cầu từ phía nước ngoài và sản phẩm bắt đầu được xuất khẩu

- Dần dần có sự bắt chước công nghệ, sản phẩm được sản xuất ngay ở nước ngoài =>Khi đó xuất hiện lợi thế so sánh về sản xuất sản phẩm này tại các quốc gia

- Khi mà sản phẩm này được nước ngoài sản xuất có hiệu quả hơn thì lợi thế so sánh thuộc về nước ngoài. Quốc gia phát minh không xuất khẩu sản phẩm này nữa mà phát minh 1 sản phẩm mới khác để quá trình mô tả ở trên được lặp lại.

Lưu ý: trong mô hình khoảng cách công nghệ, sản phẩm chỉ được xuất khẩu nếu như thời gian cần thiết để sản phẩm bị bắt chước ở nước ngoài dài hơn thời gian xuất hiện nhu cầu về sản phẩm từ thị trường nước ngoài.

Lý thuyết trên có thể giải thích cho 2 dạng thương mại:

- Thứ nhất: nếu như cả 2 quốc gia có tiềm năng công nghệ như nhau thì vẫn có thể hình thành quan hệ thương mại. Vì phát minh sáng chế trong chừng mực nào đó là 1 quá trình ngẫu nhiên, vai trò tiên phong của 1 nước trong 1 lĩnh vực nào đó sẽ được đối lại bởi vai trò tiên phong của nước kia trong lĩnh vực khác. Dạng thương mại này thường diễn ra giữa các nước công nghiệp phát triển như Nhật -Mỹ, từng diễn ra trong thời kì hoàng kim của cộng đồng các nước châu Âu (EU) ..

- Thứ hai: quan hệ thương mại hình thành khi 1 nước tỏ ra năng động về mặt công nghệ hơn nước kia. Khi đó, nước thứ nhất thường xuất khẩu những mặt hàng mới công nghệ phức tạp hơn để đổi lấy những mặt hàng đã chuẩn hóa từ nước thứ 2. Dần dần, các mặt hàng mới này lại trở nên chuẩn hóa, nhưng với tính ưu việt về công nghệ cho nên nước thứ nhất lại cho ra đời các sản phẩm mới khác. Mặt khác, các nước kém năng động hơn vẫn mắc lại ở mức độ năng động công nghệ thấp. Dạng thương mại này thường diễn ra giữa 1 nước công nghiệp phát triển với nước chậm phát triển hơn như Nhật - Việt Nam...

Các yếu tố quyết định vai trò tiên phong của 1 nước trong lĩnh vực công nghệ:

- Thể chế: công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm của 1 nước cần được khuyến khích bởi những bộ luật thích hợp về phát minh sáng chế, bản quyền và thuế.

5

Page 6: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

- Nguồn lực thích hợp cho công tác nghiên cứu phát triển: đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao như các nhà khoa học và kỹ sư và không thể thiếu nguồn vốn dồi dào

- Tồn tại thị trường thích hợp với sản phẩm mới: do các sản phẩm mới thường được sản xuất với chi phí rất cao trong giai đoạn đầu nên cần phải có 1 thị trường quy mô lớn và sức mua cao cho sản phẩm.

Những yếu tố cơ bản trên cho thấy rằng các phát minh sáng chế thường ra đời ở các nước giàu có và phát triển.

Đánh giá lý thuyết:

Ưu điểm

- Đề cao vấn đề công nghệ - 1 vấn đề chìa khóa trong sự phát triển bùng nổ của nền kinh tế thế giới

- Giải thích được sự tác động của công nghệ đến thương mại quốc tế

- Giải thích quá trình thương mại liên quan đến các quốc gia giàu có, có lợi thế công nghệ phát triển

- Chỉ ra rằng lợi thế so sánh có thể thay đổi theo từng giai đoạn, dẫn đến sự thay đổi cơ cấu sản xuất của các quốc gia.

Nhược điểm

- Phát minh ra đời ở nước nào thì chỉ có nước ấy có lợi thế sản xuất trong 1 thời gian dài, bỏ qua sự chuyển giao công nghệ

- Chưa giải thích được sự trao đổi quốc tế giữa các quốc gia không có lợi thế công nghệ

- Các nước không phát minh ra công nghệ mới hay là nước kém năng động về công nghệ tỏ ra yếu thế, chịu thiệt hơn trong thương mại quốc tế.

2.2. Lý thuyết vòng đời sản phẩm: ( Product life-cycle theory)

Lý thuyết vòng đời sản phẩm (các đại diện là Vernon và Hirsch) cũng có những ý nghĩa tương tư như lý thuyết về khoảng cách công nghệ.

Một sản phẩm mới được phát minh đầu tiên ở một nước có nền công nghệ hàng đầu ví dụ như Mỹ, họ sản xuất sản phẩm này ban đầu để phục vụ cho thị trường nội địa và sau đó xuất khẩu sang các nươc khác, họ là những người xuất khẩu ròng sản phẩm. Ở giai đoạn sản phẩm trưởng thành và được tiêu chuẩn hóa

6

Page 7: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

thì sản phẩm đã được sản xuất rộng rãi ở nhiều nước khác và sự cạnh tranh ngày càng cao hơn với công nghệ sản xuất sản phẩm đã được lan truyền và mô phỏng rộng rãi ở nhiều nước, lượng xuất khẩu ròng của nước phát minh sản phẩm sẽ ngày càng giảm. Cuối cùng, việc sản xuất sản phẩm sẽ được diễn ra ở các nước đang phát triển và xuất khẩu ngược trở lại các nước phát triển và nước đã phát minh ra sản phẩm (thông qua quá trình đầu tư trực tiếp của các nước phát triển vào các nước đang phát triển), nước phát minh ra sản phẩm cũng như các nước phát triển khác trở thành những nước nhập khẩu ròng sản phẩm này. 

Vernon và Hirsch lập luận rằng các nhân tố cần thiết cho việc sản xuất một hàng hóa, sản phẩm sẽ thay đổi theo vòng đời của sản phẩm đó. Việc phát minh một sản phẩm mới là một công việc tốn kém và nhiều rủi ro, cần những công nhân có trình độ chuyên môn cao và có lẽ chỉ có những người có thu nhập cao mới có khả năng tiêu thụ nên việc sản xuất sản phẩm trong giai đoạn đầu tập trung tại các nước giàu có, phát triển. Khi bản thân sản phẩm và qui trình sản xuất dần được chuẩn hóa, cũng như khi thời hạn của các bằng phát minh sáng chế đã hết hiệu lực thì các nước khác cũng bắt đầu gia nhập thị trường nếu họ có lợi thế trong việc sản xuất sản phẩm này so với nước sản xuất đầu tiên, ví dụ về mặt chi phí sản xuất chẳng hạn. Khi công nghệ sản xuất đã được hoàn toàn chuẩn hóa và có thể sử dụng lao động phổ thông thì chúng ta có thể trông đợi vào việc địa điểm sản xuất sẽ được chuyển sang các nước đang phát triển là những nước có lợi thế về nguồn nhân công rẻ, dồi dào.

7

t0

t1 t2 t3 t4

XK nhân công

Nước phát minh

Các nước phát triển

t

Các nước kém phát triển

Page 8: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

3. Lý thuyết thương mại liên quan đến cầu:

3.1. Sự phân hóa sản phẩm và thương mại nội bộ ngành:

Thương mại nội bộ ngành là hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời các sản phẩm về cơ bản là giống nhau, nói cách khác là các sản phẩm phân hóa. Ví dụ: Nhật Bản xuất xe Toyota sang Mĩ đồng thời nhập xe Ford từ Mĩ về.

Sự phân hóa sản phẩm là sự thể hiện tính đa dạng của nhu cầu đối với các sản phẩm. Có hai cách tiếp cận trong việc giải thích sự đa dạng của nhu cầu sẽ tạo ra thương mại quốc tế:

- Cách thứ nhất cho rằng các dạng biến tướng khác nhau của cùng một loại sản phẩm đòi hỏi tỷ lệ các yếu tố sản xuất dùng để sản xuất ra chúng cũng khác nhau. Khi đó, theo lý thuyết H-O, mỗi quốc gia sẽ sản xuất dạng sản phẩm nào phù hợp nhất với mức độ trang bị các yếu tố sản xuất của quốc gia đó. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không lý giải được mức tăng trưởng nhanh chóng của thương mại nội bộ ngành.

- Cách thứ hai gắn liền sự phân hóa sản phẩm với hiệu suất tăng dần theo quy mô. Cách thức hiệu quả nhất để cung cấp các dạng biến tướng của các sản phẩm là thực hiện chuyên môn hóa sản xuất từng dạng biến tướng sau đó tiến hành trao đổi. Cách tiếp cận này dựa trên hai giả thuyết quan trọng:

+ Tồn tại nhu cầu đối với các dạng biến tướng khác nhau của các sản phẩm.

+ Nhu cầu đó không thể được thỏa mãn một cách tốt nhất trong phạm vi thị trường nội địa vì tính kinh tế theo quy mô.

Như vậy lợi ích do thương mại nội bộ ngành đối với các sản phẩm phân hóa đem lại bao gồm khả năng đa dạng hóa diện mặt hàng mà người tiêu dùng có thể tiếp cận, và việc giảm bớt chi phí và giá cả của hàng hóa sản xuất ra nhờ hiệu suất tăng dần theo quy mô.

3.2. Giả thuyết Linder:

Năm 1961, nhà kinh tế học người Thụy Điển Linder đã đưa ra giả thuyết cho rằng yếu tố quan trọng dẫn đến thương mại quốc tế nội bộ ngành là mức thu nhập bình quân đầu người. Thông thường thì các sản phẩm sản xuất trong nước có khả

8

Page 9: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

năng cạnh tranh cao trên thị trường nội địa vì đây là thị trường quan trọng với họ, và hơn nữa khi sản xuất trong nước họ không phải chi trả cước phí vận chuyển và thuế quan. Để tối đa hóa lợi nhuận, các nhà sản xuất nội địa sẽ chọn sản xuất những dạng sản phẩm có thị phần lớn nhất, và như vậy đáp ứng của nhà tiêu dùng trong nước.

Ban đầu thì sản phẩm làm ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường trong nước. Đến một thời điểm nhất định nhu cầu đối với sản phẩm đó từ thị trường bên ngoài sẽ xuất hiện và sản phẩm bắt đầu được xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu sẽ là những quốc gia nơi có sở thích và mức thu nhập tương tự như quốc gia xuất khẩu. Mức thu nhập giữa các quốc gia càng giống nhau thì càng có nhiều cơ hội để mở rộng thương mại nội bộ ngành giữa các quốc gia đó với nhau.

Giả thuyết Linder chỉ được áp dụng đối với các sản phẩm chế biến. Còn thương mại hàng nguyên vật liệu và hàng thô thì chủ yếu do mức độ trang bị các yếu tố sản xuất quyết định, theo như kết luận của lý thuyết H-O. Một trong những kết luận của giả thuyết Linder là thương mại quốc tế hàng chế biến chủ yếu được thực hiện giữa các nước có mức thu nhập bình quân giống nhau. Điều này lý giải tại sao phần lớn thương mại quốc tế lại mang tính chất nội bộ ngành và được tiến hành giữa các nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế có thể kể ra nhiều trường hợp ngoại lệ đối với giả thuyết nói trên. VD: những nước không theo đạo thiên chúa như Nhật Bản và Hàn Quốc lại là những nước xuất khẩu cây thông Noel nhân tạo( mặt hàng không có thị trường trong nước).

II. Lý thuyết về các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow.

1. Nội dung

Lý thuyết này do nhà kinh tế học người Mỹ, giáo sư Walter William Rostow đưa ra. Lý thuyết được trình bày trong cuốn “ các giai đoạn tăng trưởng kinh tế” (the stages of Economic Growth – 1961) nhằm nhấn mạnh các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Theo Rostow quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia được chia làm 5 giai đoạn và ứng với mỗi một giai đoạn là một dạng cơ cấu ngành đặc trưng thế hiện bản chất phát triển của giai đoạn ấy. Cụ thể từng giai đoạn phát triển được phân tích như sau:

9

Page 10: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

Giai đoạn 1: Giai đoạn xã hội truyền thống.

- đặc trưng của giai đoạn này là: sản xuất nông nghiệp giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chiếm từ 80-85% trong tổng số lực lượng của toàn xã hội. Năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công. Tích lũy gần như là con số 0. Hoạt động chung của xã hội kém linh hoạt, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cung tự cấp.

- Tuy vậy, xã hội truyền thống cũng không hoàn toàn tĩnh tại, mức sản lượng có thể vẫn tăng lien tục do diện tích đất canh tác được mở rộng, hoặc do áp dụng những cải tiến trong sản xuất như xây dựng hệ thống thủy lợi hay áp dụng giống cây trồng mới.

- Song nhìn chung, nền kinh tế vẫn không có sự biến đổi mạnh. Cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì này là cơ cấu nông nghiệp thuần túy.

Giai đoạn 2: Giai đoạn chuẩn bị cất cánh.

Đây được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống và sự cất cánh, với những nội dung cơ bản là chuẩn bị những điều kiện tiên quyết để cất cánh. Những điều kiện đó là:

- Những hiểu biết về khoa học kỹ thuật bắt đầu được áp dụng vào sản xuất trong cả nông nghiệp và công nghiệp

- Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến phù hợp với những yêu cầu mới của sự phát triển.

- Nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vốn.

- Giao lưu hàng hóa trong và ngoai nước phát triển đã thúc đẩy sự hoạt động trong ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc.

Tuy vậy, tất cả những hoạt động này chưa vượt qua được phạm vi giới hạn của một nền kinh tế với những đặc trưng truyền thống, năng suất thấp. Cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn này là cơ cấu nông- công nghiệp.

Giai đoạn 3: Giai đoạn cất cánh.

Đây là giai đoạn trung tâm của sự phân tích các giai đoạn phát triển của Rostow. Theo ông thì giai đoạn cất cánh diễn ra trong khoảng thờigian từ 20 đến 30 năm.

10

Page 11: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

Cất cánh là giai đoạn mà đất nước bắt đầu phát triển hiện đại và ổn định, lực cản của xã hội truyền thống và các thế lực chống đồi sự phát triển bị đẩy lùi, các lực lượng tạo ra sự tiến bộ về kinh tế đang lớn mạnh và trở thành lực lượng thống trị xã hội.

Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh là:

- Huy động được nguồn vốn đầu tư càn thiết, tỷ lệ tiết kiêm tăng lên ít nhất phải chiềm 10 % trong thu nhập quốc dân thuần túy. Ngoài vốn đầu tư trong nước, nguồn vốn đàu tư nươc ngoài dóng vai trò quan trọng.

- Khoa học – Kỹ thuật tác động mạnh vào cả nông nghiệp và công nghiệp. Công nghiệp giữ vai trò đầu tàu, có tốc độ tăng trưởng nhanh, đem lại lợi nhuận lớn, lợi nhuận lại được tái đầu tư phát triển sản xuất, sản xuất mở rộng thu hút công nhân, kích thích phát triển khu vực đô thị và lĩnh vực dich vụ

- Khu vực nông nghiệp được áp dụng kỹ thuật mới và được thương mại hóa tạo ra sự thay đổi trong nhận thức và lối sống của người nông dân.

- Hệ thống hỗ trợ tăng trưởng phải được chú trọng phát triển. Hệ thống ngân hàng, các thị trường vốn và hệ thống dịch vu phát triển. Năng lực kinh doanh tư nhân sẽ được xem xét như một chuẩn mực để đánh giá mức độ tăng trưởng.

Cơ cấu ngành kinh tế của giai đoạn này: công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ.

Giai đoạn 4: Giai đoạn trưởng thành.

Theo Rostow giai đoạn trưởng thành kéo dài tới 60 năm. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là:

- Tỷ lệ đầu tư tăng liên tục, cao tới 20% thu nhập quốc dân thuần túy.- Khoa học- kỹ thuật mới được áp dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động

kinh tế.- Nhiều ngành công nghiệp mới hiện địa phát triển.- Nông nghiệp được cơ giới hóa, đạt được năng suất lao động cao.- Nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nước hòa

dòng vào thị trường quốc tế.Cơ cấu ngành KT trong giai đoạn này: công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp.

11

Page 12: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

Giai đoạn 5: giai đọan tiêu dùng cao.

Trong giai đoạn này có hai xu hướng cơ bản về kinh tế:

- Thứ nhất, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, dân cư giàu có dẫn đến sự gia tăng nhu cầu tiêu dung hàng hóa và dịch vụ tinh vi, cao cấp.

- Thứ hai, cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ dân cư đô thị và lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn cao.

Về mặt xã hội, các chính sách kinh tế hướng vào phúc lợi xã hội nhằm tạo ra nhu cầu cao về hàng hóa tiêu dung lâu bền và các dịch vụ xã hội của nhóm dân cư.

Theo Rostow đây là giai đoạn dài nhất, và ông cho rằng người Mỹ cần khoảng 100 năm đẻ chuyển từ giai đoạn trưởng thành tới mức cuối cùng này. Và cơ cấu ngành trong giai đoạn này có dạng dịch vụ- công nghiệp.

Câu hỏi: Hiện nay, Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển nào?

2. Đánh giá

Ưu điểm:- Lý thuyết nay có ý nghĩa lớn trong việc xác định trình độ phát triển của

mỗi quốc gia trong từng giai đoạn

- Lý thuyết này gợi ý về sự thúc đẩy hoàn thành những tiền đề cần thiêt nào đó trong sự phát triển của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn

Nhược điểm: - Lý thuyết Rostow bị phê phán là quá tham vọng do nó cố mô tả một cách

đầy đủ lô trình kinh tế của mỗi quốc gia. Chẳng hạn nhiều nước phát triển bộc lộ tính hai mặt là tình trạng công nghệ lac hậu được sử dụng trong một số ngành công nghiệp và các phương pháp sản xuất thủ công vẫn còn tiếp tục duy trì trong một số ngành công nghiệp khác.

- Tương tự các con số thực tế đã chỉ ra rằng không có thời kì tăng trưởng từ 20 đến 30 năm

12

Page 13: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

- Mô hình cất cánh có tính chất quá đột ngột trong khi chính các nước như: Anh, Đức, Thụy Điển và Nhật Bản lại là những nước theo đuổi mô hình tăng trưởng chậm, ổn định.

- Cách tiếp cận của lý thuyết không lấy đặc thù của mỗi nước làm điểm xuất phát.

- Lý thuyết của Rostow chỉ nghiên cứu sự tăng trưởng chứ chưa di sâu vào nghiên cứu phát triển kinh tế, trong khi phát triển kinh tế mới là điều mà các quốc gia hướng tới.

III. Lý thuyết vòng luẩn quẩn

Chúng ta biết rằng 4 nhân tố cơ bản trong quá trình tăng trưởng và phát triển của 1 quốc gia là : nhân lực, tài nguyên, tư sản, kĩ thuật. Trong điều kiện cụ thể của các quốc gia nghèo thì cả 4 nhân tố này đều ở trong tình trạng khan hiếm & chất lượng thấp.

+Về nhân lực: Ở các nước nghèo, thu nhấp thấp, mức sống thấp.. Lao động tập trung quá nhiều ở trong ngành nông nghiệp, tình trạng thất nghiệp trá hình cao. +Về tài nguyên: Ở các nước nghèo, tài nguyên rải rác ở nhiều nơi,khả năng phát huy được hiệu quả KT của tài nguyên là thấp.. +Về tư bản: Nhìn chung, các nước nghèo ít tư bản. Muốn có tăng trưởng thì phải có đầu tư, muốn có đầu tư phải có tư bản. Để đáp ứng những nhu cầu về vốn đầu tư thì trước đây các nước nghèo thường đi vay. Nhưng trong đk hiện tại thì hầu hết các nước nghèo đều là những con nợ khổng lồ, khả năng vay vốn là khó khăn. +Về kĩ thuật: Tại các nước nghèo thì lạc hậu về kĩ thuật, kĩ thuật vẫn còn thô sơ và đơn giản.

1, Nội dung

Lý thuyết vòng luẩn quẩn giải thích nguyên nhân của tình trạng nghèo đói ở các nước đang phát triển là nơi đang đối mặt với công cuộc xoá đói giảm nghèo. Theo lý thuyết này, nguyên nhân của tình trạng đói nghèo của các nước đang phát triển nằm ngay trong sự tương tác giữa cung và cầu trong vòng tròn khép kín cung - cầu của nền kinh tế của chúng.

13

Page 14: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

Thứ nhất, về phía cung

Tại các nước đang phát triển, mức sống nói chung là rất thấp đối với đại đa số dân chúng. Với thu nhập như vậy, nó chỉ đáp ứng đủ một phần nhu cầu tiêu dùng của con người. Ta biết là để có nguồn vốn tích luỹ cần phải hy sinh tiêu dùng. Nhưng khó khăn ở chỗ, đối với những nước đang phát triển, nhất là những nước có thu nhập thấp, việc giảm tiêu dùng là rất khó khăn nên việc tiết kiệm bị hạn chế. Và tỷ lệ tiết kiệm thấp là trở ngại lớn cho việc hình thành các nguồn vốn đầu tư =>vốn đầu tư thấp.

Hơn nữa, tại các nước đang phát triển, kỹ thuật sản xuất là thủ công, lạc hậu lại thiếu vốn đầu tư nên dẫn tới năng suất tính trên đầu người thấp. Hậu quả là năng suất thấp khó có thể cải thiện được mức thu nhập => thu nhập vẫn thấp => tỷ lệ tích luỹ thấp => vốn đầu tư thấp => năng suất thấp.

Đó chính là một vòng luẩn quẩn.

Sơ đồ: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ

14

Tiết kiệm

thấp

Năng suất

thấp

Thu nhập thấp

Tiêu dùng

thấp

Vốn đầu tư thấp

Page 15: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

Thứ hai,về phía cầu

Do thu nhập quá thấp => tiêu dùng thấp = > cầu về hàng hoá của người dân cũng thấp => không hấp dẫn những nhà đầu tư có tiềm năng + việc thiếu nguồn vốn đầu tư = > năng suất thấp = > thu nhập thấp sẽ diễn ra.

Như vậy, một nước nghèo là do nó quá nghèo không thể tạo ra thị trường cho các hoạt động đầu tư lớn để vượt qua được tình trạng đói nghèo

2. Đ ánh giá

a,Ưu điểm:

- Lý thuyết này đã cho ta thấy thực tế rằng dân cư của các nước kém phát triển thường rơi vào tình trạng nghèo đói và ở các nước kém phát triển thì tỷ lệ tiết kiệm là thấp.

b, Nhược điểm:

- Sai lầm của quan điểm này là xem xét tiềm năng tiết kiệm ở các nước kém phát triển theo mức sống ở các nước phát triển. Ở những nước kém phát triển thì tiềm năng tiết kiệm sẽ thấp hơn các nước phát triển, điều đó không có nghĩa là tỷ lệ tiết kiệm của các nước kém phát triển thấp. Ví dụ như các tầng lớp có thu nhập cao vẫn có thể tăng được tỉ lệ tiết kiệm của mình.

- Phần tiết kiệm cá nhân thường chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng mức tiết kiệm ở các nước kém phát triển, trong khi đó các khoản tiết kiệm của các doanh nghiệp, tiết kiệm của chính phủ là các nguồn tiết kiệm khác không thể bỏ qua. Hơn nữa, các nước nghèo có thể vay vốn của nước ngoài để đầu tư phát triển thì vốn đầu tư của nước này sẽ tăng.

Ví dụ: Việt Nam để tăng đầu tư và phát triển kinh tế cần một số vốn rất lớn trong khi nguồn vốn trong nước lại không đủ. Việt Nam đã đi vay nước ngoài và đã có đủ vốn để đầu tư,

15

Page 16: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

- Ngoài ra, việc coi các thị trường ở các nước đang phát triển là những thị trường không hấp dẫn các nhà đầu tư là không hoàn toàn hợp lí vì chính các thị trường này lại rất thuận lợi cho việc gia nhập của các doanh nghiệp vào thị trường (chi phí gia nhập thấp,cạnh tranh không quá gay gắt và chính phủ thường có những ưu đãi).

Ví dụ : Việt Nam là một nước đang phát triển, còn nghèo và lạc hậu nhưng lại rất hấp dẫn đối với việc đầu tư của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài như Nhật Bản, Mỹ.. Tính đến cuối tháng 8 năm 2008, Nhật Bản có 1019 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 16,9 tỷ USD, đứng thứ 2/81 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, sau Đài Loan. Tuy nhiên lại đứng đầu về vốn đầu tư thực hiện, đến nay, tổng vốn đầu tư thực hiện của Nhật Bản tại Việt Nam là 5,2 tỷ USD, bằng 30,5% tổng vốn đầu tư đăng ký của Nhật Bản tại Việt Nam.

=> Điều này chứng tỏ rằng các nước kém phát triển rất thu hút các nhà đầu tư.

IV. Lý thuyết về cú huých lớn từ bên ngoài:

Trong khi Rostow cố gắng làm rõ lý thuyết phát triển kinh tế của mình thì cuộc tranh luận chính sách kinh tế ở giữa những năm 1950 – 1960 lại hướng vào vấn đề nên tập trung phát triển vào tất cả các khu vực kinh tế trong nước hay chỉ tập trung vào các khu vực chủ đạo của nền kinh tế như khu vực công nghiệp, khu vực nông nghiệp hay khu vực dịch vụ.

Trong cuộc tranh luận kinh tế vĩ mô đó, quan điểm về một sự phát triển toàn diện và cân bằng của Ragnar Nurkse thể hiện qua lý thuyết “Cú huých lớn từ bên ngoài” (Big Push Theory) là một lý thuyết quan trọng và rất đáng chú ý.

1. Tiểu sử nhà kinh tế Ragnar Nurkse:

Ragnar Nurkse (1907-1959) sinh ra Estonia, đầu những năm 1930 ông cùng gia đình đến nhập cư tại Canada, từ năm 1945 ông chuyển tới Hoa Kỳ làm việc và giảng dạy tại Đại học Columbia thuộc thành phố Newyork.

16

Page 17: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

Nurkse là một trong những học giả hàng đầu trong các lĩnh vực kinh tế quốc tế, tài chính quốc tế và kinh tế phát triển. Ông đã có nhiều năm làm việc trong các lĩnh vực kinh tế - tài chính với tư cách cố vấn cho Chính phủ, cũng như đảm nhiệm các vị trí quan trọng trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế.

Cống hiến quan trọng của Ragnar Nurkse cho kinh tế học đó là các lý thuyết về sự phát triển cân bằng (Balanced Growth), đồng thời ông cũng phát triển học thuyết Rostenstein-Rodan để xây dựng lên lý thuyết cú huých lớn từ bên ngoài (Big Push) nhấn mạnh đến vai trò của vốn và tích lũy tư bản với phát triển kinh tế.

2. Tư tưởng cơ bản:

Những quan điểm xuất phát làm nền tảng để phát triển các lý thuyết của Ragnar Nurkse:

- Cái nhìn bi quan về xuất khẩu: xuất khẩu không phải là yếu tố lâu dài để phát triển kinh tế.

- Quá trình gia tăng với khối lượng lớn của công nghệ mới, máy móc, sự cải tiến trong quá trình sản xuất chính là chìa khóa cho phát triển kinh tế.

- Muốn đạt được điều đó cần phải công nghiệp hóa trên phạm vi quốc gia. Thực hiện những khoản đầu tư có quy mô trong công nghiệp (ví dụ: mở rộng tổng cung) sẽ tạo ra quy mô lớn về tổng cầu (cung mới tạo cầu mới, cầu mới sẽ lại tạo ra cung mới) từ đó dẫn tới sự phát triển cân bằng (Balanced Growth).

Nội dung lý thuyết:

- Theo Ragnar Nurkse: Mọi cố gắng phát triển kinh tế nên nhằm vào mục tiêu sử dụng đồng bộ các nguồn vốn để mở rộng tất cả các ngành công nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước. Ông cho rằng chỉ có nỗ lực tổng thể thống nhất như vậy mới đẩy các nước đang phát triển ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ do giới hạn về nguồn cung về vốn vì tỷ lệ tiết kiệm thấp.

- Nguồn vốn phục vụ cho các khoản đầu tư này không thể tạo ra một cách từ từ, chúng phải được tạo ra cùng một lúc vì cần phải có một động lực

17

Page 18: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

đủ lớn để vượt qua những trở ngại đối với sự phát triển kinh tế chẳng hạn như những trở ngại do thiếu cơ sở vật chất hạ tầng.

→ Từ đó ông cho rằng các nguồn lực trong nền kinh tế cần được phân phối vào tất cả các khu vực công nghiệp và phát triển hạ tầng cơ sở (cách tiếp cận cân bằng) nhằm tạo ra một cú huých lớn. Điều này cũng tương tự như một chiếc xe bị sa lầy, nó không thể vượt qua khỏi vũng lầy nếu chỉ nhận được các lực tác động để kéo nó ra khỏi vũng lầy một cách từ từ. Nó cần có một cú huých đủ mạnh!

3. Đánh giá lý thuyết:

Lý thuyết phát triển cân bằng nhằm tạo ra cú huých lớn bị phê phán trên một số phương diện:

- Lý thuyết này cho rằng cần sử dụng nguồn vốn để đầu tư vào tất cả các ngành công nghiệp của cả nước tuy nhiên ý tưởng này bị phê phán do nó bỏ qua quan điểm kinh tế về lợi ích chung xuất phát từ quá trình chuyên môn hóa trong quá trình phát triển kinh tế.

- Tính phi thực tế: Lý thuyết này yêu cầu một quốc gia phải có đủ nguồn lực để đầu tư vào tất cả các ngành của nền kinh tế cùng một lúc, đây là điều khó xảy ra.

- Giả định tất cả các quốc gia đều bắt đầu từ con số 0 trong khi trên thực tế các nền kinh tế của chúng ta có thể có một số thế mạnh về lịch sử hoặc tiềm lực đầu tư nhất định.

- Thực tiễn phát triển kinh tế ở một số quốc gia trên thế giới tạo ra mối hoài nghi lớn với lý thuyết của Ragnar Nurkse, điển hình là việc một số quốc gia đã có những tiến bộ vượt bậc trong phát triển kinh tế vào những năm 1960 và những năm 1970 mà không cần có sự cố gắng đồng bộ trong việc đầu tư vào tất cả các khu vực như lý thuyết phát triển cân bằng đã đề nghị.

Tuy còn nhược điểm trên nhiều khía cạnh nhưng lý thuyết phát triển cân bằng và cú huých lớn từ bên ngoài đã đóng góp đáng kể vào việc xây dựng hệ thống các lý thuyết trong kinh tế phát triển.

18

Page 19: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

Lý thuyết của Nurkse đã nhìn thấy và nhấn mạnh đến vai trò của đầu tư trong tăng trưởng kinh tế, mặt khác việc đặt vấn đề đầu tư toàn diện cho khu vực công nghiệp được xem như gợi ý quan trọng, là một phần ý tưởng trong mô hình 2 khu vực mà Arthur Lewis phát triển sau đó ít lâu.

19

Page 20: Chương 3 - Các lý thuyết mới về KTQT

Tổng kếtTừ những lý thuyết thương mại quốc tế ban đầu của Adam Smith và

David Ricardo cho đến sự phát triển học thuyết thương mại dựa trên tỷ lệ các yếu tố sản xuất của Heckscher - Ohlin, kinh tế học quốc tế đã có một bước phát triển khá dài và bền vững. Những kiến thức về cơ chế vận hành của các quan hệ kinh tế quốc tế cho phép các quốc gia lựa chọn con đường phát triển phù hợp nhất với tiềm lực sẵn có của quốc gia mình. Tuy nhiên, khi thương mại càng phát triển, nhiều hiện tượng và vấn đề mới đã đặt ra cho các nhà kinh tế nhiều nghi vấn, sự cần thiết phải phát triển những lý thuyết kinh tế quốc tế mới rõ rang đang trở nên vô cùng cấp thiết.

Bước sang những năm giữa thế kỷ XX nhiều lý thuyết mới về kinh tế quốc tế đã ra đời. Chúng ta đã đề cập tới một số lý thuyết quan trọng:

o Lý thuyết thương mại dựa trên tính kinh tế theo quy mô

o Lý thuyết thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ

o Các lý thuyết thương mại liên quan đến yếu tố cầu.

o Lý thuyết các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow

o Lý thuyết vòng luẩn quẩn

o Lý thuyết cú huých lớn từ bên ngoài

Những lý thuyết này đã thể hiện một cách tiếp cận hoàn toàn mới so với cách tiếp cận truyền thống và là điểm sáng của kinh tế học đương thời. Tuy có những bước phát triển đáng ghi nhận như vậy nhưng có thể thấy các lý thuyết trên vẫn thiếu cách giải thích bản chất của các mối quan hệ kinh tế quốc tế một cách tổng quát với tư cách là một thực thể kinh tế thống nhất. Đó cũng chính là điều kiện cho các lý thuyết hiện đại hơn ra đời và là sự bổ sung cho kinh tế học quốc tế trong giai đoạn mới.

20