CHƯƠNG 1 - luan van ngành ngân hàng

59
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1.1. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.1.1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Tín dụng ngân hàng: Tín dụng là một phạm trù kinh tế khách quan nhằm phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó bên chủ thể sở hữu giao một lượng giá trị bằng tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng và chủ thể sử dụng có nhiệm vụ hoàn trả với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu sau một thời gian được xác định. [1] Tín dụng ngân hàng là một giao dịch vay mượn tài sản giữa ngân hàng (bên cho vay) và khách hàng (bên đi vay), trong đó bên đi vay được sử dụng tài sản của bên cho vay trong một khoảng thời gian được thỏa thuận trước và phải hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Nói một cách khác, tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn giữa ngân hàng Page 1

description

Tín dụng là một phạm trù kinh tế khách quan nhằm phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó bên chủ thể sở hữu giao một lượng giá trị bằng tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng và chủ thể sử dụng có nhiệm vụ hoàn trả với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu sau một thời gian được xác định. [1]Tín dụng ngân hàng là một giao dịch vay mượn tài sản giữa ngân hàng (bên cho vay) và khách hàng (bên đi vay), trong đó bên đi vay được sử dụng tài sản của bên cho vay trong một khoảng thời gian được thỏa thuận trước và phải hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Nói một cách khác, tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn giữa ngân hàng và khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.Bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản);- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn;- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc;- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.Vai trò của tín dụng: góp phần phát triển kinh tế; góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả; mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế;Chức năng của tín dụng: tập trung và phân phối lại tài nguyên theo nguyên tắc có hoàn trả; tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông; phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế;Nguyên tắc tín dụng: Vốn vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi; Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả; Vốn vay phải đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hóa tương đương.Hoạt động tín dụng của ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính hoặc các nghiệp vụ tài trợ vốn khác của ngân hàng cho khách hàng theo nguyên tắc thỏa thuận và có hoàn trả.

Transcript of CHƯƠNG 1 - luan van ngành ngân hàng

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI

1.1. Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

1.1.1. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.1.1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

Tín dụng ngân hàng:

Tín dụng là một phạm trù kinh tế khách quan nhằm phản ánh mối quan hệ giao

dịch giữa hai chủ thể, trong đó bên chủ thể sở hữu giao một lượng giá trị bằng tiền

hoặc tài sản cho bên kia sử dụng và chủ thể sử dụng có nhiệm vụ hoàn trả với một

lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu sau một thời gian được xác định. [1]

Tín dụng ngân hàng là một giao dịch vay mượn tài sản giữa ngân hàng (bên

cho vay) và khách hàng (bên đi vay), trong đó bên đi vay được sử dụng tài sản của bên

cho vay trong một khoảng thời gian được thỏa thuận trước và phải hoàn trả vô điều

kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Nói một cách khác, tín

dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn giữa ngân hàng và

khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.

Bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các

đặc trưng sau:

- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là

cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản);

- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản

cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn;

- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách

khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc;

Page 1

- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay

cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.

Vai trò của tín dụng: góp phần phát triển kinh tế; góp phần ổn định tiền tệ và ổn

định giá cả; mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao

lưu quốc tế;

Chức năng của tín dụng: tập trung và phân phối lại tài nguyên theo nguyên tắc

có hoàn trả; tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông; phản ánh và kiểm soát các hoạt

động kinh tế;

Nguyên tắc tín dụng: Vốn vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi; Vốn vay

phải sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả; Vốn vay phải đảm bảo bằng giá trị vật tư

hàng hóa tương đương.

Hoạt động tín dụng của ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ: cho vay, chiết

khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính hoặc các nghiệp vụ tài trợ vốn khác của ngân hàng

cho khách hàng theo nguyên tắc thỏa thuận và có hoàn trả.

Theo Luật các Tổ chức Tín dụng thì:

- Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn huy

động để cấp tín dụng;

- Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận cho khách hàng sử dụng một

khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê

tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác;

- Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho

khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định

theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.

Khái niệm rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân

hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không

đúng hạn cho ngân hàng.

Page 2

A.Saunders và H.Lange định nghĩa: “ Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi

ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự

tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả

số lượng và thời hạn.”.

Theo Timothy W.Koch: Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy

ra khi khách hàng sai hẹn, có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo

thỏa thuận. Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn

xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn (Bank

Management, University of South Caro1ina, The Dryden Press, 1995, page 107).

Còn theo Henie Van Greuning … Sonja Brajovic Bratanovic: Rủi ro tín dụng

được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc hoàn trả

vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có

của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn hoặc tồi tệ hơn

là không chi trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và

ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng (The World Bank).

Căn cứ vào Khoản 01 Điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử

dụng dự phòng để xử lý rủi ro, theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày

22/4/2005 của Thống đốc NHNN thì: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của

tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín

dụng, do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của

mình theo cam kết”

Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ

mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc không

đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ nghĩa trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình

cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo

lãnh, bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và

rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Page 3

1.1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng

Việc phân loại tín dụng dựa trên một số tiêu thức nhất định tùy theo yêu cầu của

khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại chủ

yếu:

Căn cứ vào thời hạn tín dụng:

Phân chia theo thời gian cho vay có 3 loại:

- Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn cho vay đến 12 tháng, chủ yếu được sử dụng

để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn

hạn của cá nhân.

- Tín dụng trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng, thường được sử dụng để

đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản

xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh.

- Tín dụng dài hạn: trên 60 tháng, thường được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu

đầu tư dài hạn như xây dựng nhà ở, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình

thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.

Căn cứ vào hình thức tín dụng:

Dựa vào tiêu chí này tín dụng bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê

tài chính và các hình thức cấp tín dụng khác, trong đó:

- Chiếu khấu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với

giá trị của một giấy nợ trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một giấy nợ chưa

đến hạn.

- Cho vay: là việc ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử

dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả

gốc lẫn lãi, bao gồm các loại sau:

+ Thấu chi: là việc ngân hàng cho phép người vay được chi vượt số dư tiền gửi thanh

toán của mình đến một giới hạn và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được

gọi là hạn mức thấu chi.

Page 4

+ Cho vay từng lần: là hình thức cho vay của ngân hàng đối với các khách hàng ít có

nhu cầu vay thường xuyên.

+ Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho

khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất

kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.

+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Ngân

hàng cho doanh nghiệp vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi bán hàng.

+ Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong

thời hạn tín dụng đã thoả thuận.

- Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực

hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng

nghĩa vụ như cam kết. Phân theo mục tiêu có các loại bảo lãnh như sau:

+ Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ thầu) về việc trả

tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định dự thầu.

+ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất thay

khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn

thất cho bên thứ ba.

+ Bảo lãnh tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước

cho bên thụ hưởng bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không trả.

+ Bảo lãnh vay vốn: là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ chức tín dụng,

các cá nhân…) về việc sẽ trả gốc lãi đúng hạn nếu khách hàng (người đi vay) không trả

được.

+ Bảo lãnh thanh toán: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền theo đúng

hợp đồng kinh tế cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh

toán đủ.

Page 5

- Cho thuê tài chính: là việc ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời

hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê và có

lãi. Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó.

- Các hình thức cấp tín dụng khác: thẻ ghi nợ, bao thanh toán, L/C,…

Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: có 2 loại

- Tín dụng có tài sản bảo đảm: là loại tín dụng được cấp có thế chấp, cầm cố

bằng tài sản (của bên vay hoặc bên thứ ba). Sự bảo đảm này là biện pháp đảm bảo cho

ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai khi khách hàng không có hoặc không đủ khả

năng hoàn trả nợ đúng hạn.

- Tín dụng không có tài sản bảo đảm: là loại tín dụng được cấp dựa trên uy tín

và khả năng tài chính lành mạnh của khách hàng hoặc được bảo lãnh bằng uy tín của

bên thứ ba.

Phân loại theo rủi ro:

Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của

các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời, được phân loại thành 5 nhóm

theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà

nước:

+ Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi

đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản

bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán;

+ Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn

trả nợ;

+ Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ

cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày;

+ Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu

lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày;

Page 6

+ Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời

hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.

Phân loại khác:

- Theo mục đích sử dụng vốn có tín dụng sản xuất, tín dụng tiêu dùng,…

- Theo đối tượng tín dụng sử dụng vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh có tín

dụng vốn lưu động và tín dụng vốn cố định.

- Theo đối tượng cho vay tiêu dùng: tín dụng nhà đất, cho vay mua ô tô, cho vay

du học, …

Cách phân loại này cho thấy tính đa dạng trong sản phẩm tín dụng của ngân

hàng và cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài

trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức, chính sách quản lý phù hợp.

1.1.1.3. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng

Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và

người đi vay. Ngân hàng và người đi vay hoạt động tuân theo sự chi phối với những

điều kiện cụ thể của môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh là đối tượng thứ

ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh

gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng

cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Sự tiếp cận các yếu tố, nguyên nhân

gây rủi ro sau đây giúp chúng ta nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan

hơn, từ đó sẽ đưa ra được những đề xuất phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro trong kinh

doanh của NHTM một cách hữu ích, thiết thực hơn.

Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan:

Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng

khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp thường

xuyên phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị

trường.

- Rủi ro từ môi trường kinh doanh:

Page 7

Sự cạnh tranh giữa các NHTM trong nước và các ngân hàng nước ngoài có tiềm

lực mạnh (về vốn, quy mô, công nghệ, sản phẩm, chất lượng dịch vụ) khiến cho các

ngân hàng trong nước gặp phải nguy cơ rủi ro các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn

sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.

Nền kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công

nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), vốn rất

nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế

giới biến động xấu.

Hàng lậu, hàng giả làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân

hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men,

đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm,… là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng

lậu ở nước ta.

Sự cạnh tranh và lợi nhuận kỳ vọng đối với các nhà đầu tư làm chuyển dịch vốn

từ ngành này qua ngành khác. Việc thiếu quy hoạch và điều tiết hợp lý của Nhà nước

dẫn đến sự gia tăng vốn đầu tư quá mức vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa,

lãng phí tài nguyên quốc gia.

- Rủi ro do môi trường pháp lý:

+ Các chính sách, quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng vẫn đang trong quá

trình hoàn thiện để tiếp cận các chuẩn mực, quy tắc quốc tế. Nhiều khi các quy định

pháp luật được ban hành dựa trên ý chí chủ quan của cơ quan ban hành thay vì dựa trên

các căn cứ khoa học;

+ Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương:

Việc thực thi pháp luật để hỗ trợ hoạt động ngân hàng chưa hiệu quả, đặc biệt là

trong việc cưỡng chế thu hồi nợ. Theo quy định thì trong trường hợp khách hàng không

trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay. Tuy nhiên trên

thực tế, các NHTM không thể cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo

cho ngân hàng để xử lý nếu khách hàng không hợp tác mà phải xử lý qua con đường tố

Page 8

tụng… dẫn đến tình trạng NHTM không dễ giải quyết được nợ tồn đọng dù có tài sản

bảo đảm.

+ Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN:

Hoạt động thanh tra ngân hàng và năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa theo

kịp sự phát triển của hệ thống Ngân hàng. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát

chậm đổi mới, khả năng kiểm soát thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh

tra ngân hàng chủ yếu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn, cảnh báo

phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Những sai phạm về cho vay, cấp tín dụng ở một số

NHTM có thể đã được ngăn chặn nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý kịp thời.

- Rủi ro do hệ thống thông tin:

Những thách thức cho hệ thống ngân hàng là việc thiếu thông tin tương xứng để

làm cở sở trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế, do đó nếu các

ngân hàng chạy mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin chưa cân xứng

sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.

Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ, đáng tin cậy về doanh nghiệp

và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) cũng chỉ cung cấp thông

tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm

doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, chưa đáp

ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin.

Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan:

- Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay:

+ Do sự thay đổi của chính sách, pháp luật ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp;

+ Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:

+ Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ

thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân

hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức

Page 9

nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp

khác.

+ Khả năng quản lý kinh doanh kém:

Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa

phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi

mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo

đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên

nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải

thành công trên thực tế.

+ Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:

Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm

chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Việc ghi chép các sổ sách kế toán vẫn

chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Khi cán bộ ngân

hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh

nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì

sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để

phòng chống rủi ro tín dụng.

- Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng:

+ Do các quy trình, quy định thiếu chặt chẽ, chưa đầy đủ; bộ máy quản trị và kiểm soát

rủi ro hoạt động chưa hiệu quả;

+ Cho vay và đầu tư vốn quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế hoặc

một địa bàn nào đó;

+ Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ

dẫn đến cho vay hoặc đầu tư không hợp lý;

+ Do không phát hiện khách hàng vay vốn thiếu năng lực pháp lý, năng lực tài

chính,...;

+ Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:

Page 10

Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh

chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên,

do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh.

+ Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:

Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề

kiểm soát rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng

một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm

khi được bố trí trong công tác tín dụng.

+ Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:

Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định

trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay.

Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để

đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất

của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của

khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa

khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội

kinh doanh.

+ Sự hợp tác giữa các NHTM còn lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả:

Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ

thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều

ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi

ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.

Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai

trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các

ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý.

Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan

hoặc khách quan. Đó là những nguyên nhân khách quan từ môi trường kinh doanh, môi

Page 11

trường pháp lý và do hệ thống thông tin. Nguyên nhân chủ quan là từ phía khách hàng

vay và ngân hàng cho vay.

Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM

nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên

quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô

hình phát triển. Đối với các ngân hàng khả năng phát hiện và hạn chế rủi ro tín dụng

phụ thuộc vào năng lực của bộ máy quản trị rủi ro tín dụng. Năng lực quản trị rủi ro tín

dụng của ngân hàng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng, cán bộ phê duyệt

tín dụng và các nguồn lực kiểm tra giám sát của ngân hàng. Do vậy biện pháp phòng

ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí

cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc.

Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản trị rủi ro tín dụng của

ngành ngân hàng coi như đã đi được hơn một nửa.

1.1.1.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng không những mang lại hậu quả xấu cho các ngân hàng mà còn

tác động xấu đến cả nền kinh tế do tính chất dây chuyền của nó.

Đối với ngân hàng thương mại

Rủi ro tín dụng tác động trực tiếp lên hoạt động của NHTM, làm cho NHTM

mất cả vốn lẫn lãi và không thể hoàn trả được vốn huy động từ công chúng khi đáo

hạn.

Rủi ro tín dụng làm lợi nhuận ngân hàng giảm, thiệt hại đến tài sản đồng thời

làm giảm lòng tin của dân chúng, tạo ra dư luận không tốt, và khi đó dân chúng có thể

kéo đến rút tiền hàng loạt đưa tới nguy cơ làm phá sản ngân hàng.

Đối với nền kinh tế xã hội

Hoạt động của ngân hàng mang tính hệ thống và có liên quan sâu rộng tới hoạt

động của mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Rủi ro tín dụng xảy ra không chỉ ảnh

hưởng đến riêng một NHTM nào mà nó sẽ ảnh hưởng đến cả hệ thống do sự lây lan

tâm lý sợ hãi trong công chúng về sự an toàn của đồng vốn đã ký thác vào ngân hàng.

Page 12

Trong khi đó không phải lúc nào các ngân hàng cũng dự trữ đủ lượng tiền mặt để đối

phó với những đợt rút tiền ồ ạt của dân chúng, cả hệ thống ngân hàng có khi sụp đổ chỉ

trong vài giờ, thiệt hại đối với nền kinh tế không tính hết được và không dễ khắc phục

hậu quả chỉ trong vài năm

1.1.2. Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

Đối với bất cứ một hoạt động kinh doanh nào, khi rủi ro xảy ra đều kéo theo nó

những ảnh hưởng khó lường và hậu quả của chúng cũng không dễ dàng khắc phục. Với

rủi ro trong hoạt động tín dụng cũng vậy. Chính vì thế, quản trị rủi ro được coi là hoạt

động trọng tâm trong các tổ chức tài chính – ngân hàng bởi kiểm soát và quản lý rủi ro

chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn huy động. Mặt

khác, nền kinh tế thị trường nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra các cơ hội

đầu tư và kinh doanh mới. Do đó, quản trị rủi ro là một nhu cầu tất yếu đặt ra trong quá

trình tồn tại và phát triển của NHTM.

Quản trị rủi ro tín dụng là hoạt động trong đó những nghĩa vụ, biện pháp,

phương pháp quản trị có quan hệ lẫn nhau được thực hiện nhằm đảm bảo rủi ro tín

dụng trong phạm vi ngân hàng có thể chấp nhận được. [2]

Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách và biện

pháp quản lý tín dụng nhằm đạt mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, tuy

nhiên đó cũng là công việc rất khó khăn và phức tạp.

Chủ thể của hoạt động quản trị rủi ro trong ngân hàng là sự thống nhất của nhiều

cấp độ: của Hội đồng quản trị của ngân hàng, của Ban Giám đốc, của bộ phận quản lý

tín dụng và ngay bản thân mỗi cán bộ tín dụng của ngân hàng.

Mục đích chung nhất của quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo rủi ro trong phạm

vi ngân hàng có thể chấp nhận đựơc. Mà mục đích này phụ thuộc vào mục đích hoạt

động của ngân hàng là tối đa hoá giá trị mà ngân hàng hi vọng đựoc xác định trong

điều kiện biến động của môi trường kinh doanh.[4]

Page 13

Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản trị rủi ro của NHTM

bao gồm: những đánh giá mức độ rủi ro, thực thi những giải pháp quản trị hạn chế khả

năng xảy ra rủi ro. Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng gắn chặt với hoạt

động của cấp tín dụng.

Hiện nay vẫn có sự phân biệt chưa rõ ràng giữa quản trị và quản lý rủi ro tín

dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Quản lý rủi ro tín dụng là: việc tổ chức,

điều khiển và thực hiện các hoạt động, các quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng

nhằm đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất mà ngân hàng có thể

chấp nhận được. Công tác quản lý này được thực hiện ngay từ khi xem xét hồ sơ xin

vay vốn, thẩm định khách hàng, ký kết hợp đồng tín dụng và việc thực hiện giải ngân

và kiểm soát khi cho vay đến việc thu nợ và xử lý nợ quá hạn. Đó cũng không phải là

một vấn đề dễ dàng thực hiện.

1.1.2.2. Nội dung Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại

Nhận biết rủi ro tín dụng

Ngân hàng cần có phương pháp nhận ra những dấu hiệu rủi ro tín dụng để từ

chối cho vay (trong trường hợp trước khi cho vay) hoặc để ngăn ngừa xử lý kịp thời

(trong trường hợp đã cho vay). Có thể sắp xếp các dấu hiệu của rủi ro tín dụng theo các

nhóm sau:

* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:

- Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của

khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng

gồm: Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối; khó khăn trong thanh toán lương;

sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi…

- Các hoạt động vay: Mức độ vay thường xuyên gia tăng; thanh toán chậm các

khoản nợ gốc và lãi; thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn; yêu cầu các khoản

vay vượt quá nhu cầu dự kiến.

- Phương thức tài chính: Sử dụng nhiều các khoản tài trợ thương mại cho các

hoạt động phát triển dài hạn; chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất, ví dụ:

Page 14

thường xuyên sử dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả (factoring); giảm các

khoản phải trả và tăng các khoản phải thu; các hệ số thanh toán phát triển theo chiều

hướng xấu; có biểu hiện giảm vốn điều lệ.

* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng:

- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành.

- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản trị, điều

hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán.

- Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: Được hoạch định bởi

HĐQT hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm; HĐQT hoặc Giám đốc

điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật; Thiếu quan

tâm đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ; Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên;

lập kế hoạch xác định mục tiêu kém, xuất hiện các hành động nhất thời, không có khả

năng đối phó với những thay đổi.

- Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người quản lý

không thuộc gia đình; cho thành viên của gia đình chưa được đào tạo, huấn luyện đầy

đủ đảm đương cương vị then chốt.

- Có tranh chấp trong quá trình quản lý.

- Có các chi phí quản lý bất hợp lý: Tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn tượng

như thiết bị văn phòng quá hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền, Ban Giám đốc có

cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân.

* Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh:

- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Doanh nghiệp bị ám ảnh bởi một khách

hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; Ban Giám đốc cắt giảm lợi nhuận

nhằm có được những hợp đồng lớn.

- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: Bị ám ảnh bởi một sản phẩm mà không chú

ý đến các yếu tố khác.

Page 15

- Sự cấp bách không thích hợp như: Do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung ra sản

phẩm dịch vụ quá sớm, các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế, tạo

mong đợi trên thị trường không đúng lúc...

* Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật thương mại:

- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất; thay đổi thị hiếu; cập nhật kỹ thuật

mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.

- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.

- Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.

* Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán:

- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các báo

cáo tài chính.

- Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy: Sự gia tăng không cân đối về

tỷ lệ nợ thường xuyên; khả năng tiền mặt giảm;tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc

không có.số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ được kéo

dài; hoạt động lỗ…

- Những dấu hiệu phi tài chính khác: Những vấn đề về đạo đức, dáng vẻ của nhà

kinh doanh; sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh; kho lưu trữ hàng hoá quá

nhiều, hư hỏng và lạc hậu.

Phân tích rủi ro tín dụng

- Tỷ lệ thu nợ

TLTN= DSTNDSCV

×100%

Đánh giá hiệu quả trong hoạt động thu nợ của Ngân hàng, phản ánh trong thời

kỳ nhất định với doanh số cho vay nhất định thì Ngân hàng sẽ thu về đựơc bao nhiêu

đồng vốn, tỷ lệ này càng cao càng tốt.

- Tỷ lệ rủi ro tín dụng

Page 16

TLRRTD= DN

∑TScó×100 %

Nếu tỷ lệ này càng cao chứng tỏ khi đó các khoản mục tín dụng chiếm một tỷ

trọng lớn trong tài sản có của Ngân hàng, mà nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ có vai trò

quan trọng hàng đầu và thu về khoản lợi nhuận chủ yếu đối với tất cả các Ngân hàng

Thương mại. Do đó khi tỷ lệ dư nợ trên tổng tài sản có của Ngân hàng càng lớn cũng

tức là Ngân hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hơn từ lãi vay, tuy nhiên cấp tín dụng

cũng là ngiệp vụ mang lại nhiều rủi ro hơn so với đầu tư vào các tài sản có khác, vì thế

mức độ rủi ro mà Ngân hàng có thể gặp phải cũng sẽ lớn hơn.

- Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ

Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng.

TLNQH / DN= NQH

∑ DN×100 %

Thể hiện chất lượng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, tỷ lệ này càng

thấp thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại.

Tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn càng thấp càng tốt và ngược lại, nó thể hiện

chính sách tín dụng cũng như khả năng quản lý rủi ro của ngân hàng.

Theo Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc

NHNN Việt Nam về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về việc phân loại

nợ, trích lập và sử dụng, dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của

TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của

Thống đốc NHNN Việt Nam.

Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng tín dụng ngân hàng càng kém và

ngược lại tỷ lệ nợ quá hạn càng thấp chứng minh được chất lượng tín dụng ngân hàng

càng tốt. Hiện nay, NHNN đang khống chế tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của các

TCTD ở mức tối đa là 5% trên tổng dư nợ

Page 17

Nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn mà khách hàng không trả được mà

không được gia hạn. Đây là những khoản nợ chứa nhiều rủi ro mà trên thực tế phần lớn

khoản nợ quá hạn đều có vấn đề, có khả năng mất vốn. Vì vậy, ngân hàng thường theo

dõi rất chi tiết các khoản nợ này và phân chia những khoản nợ này như sau:

* Theo khả năng thu hồi:

Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ quá hạn nhưng thời gian

quá hạn ngắn và ý thức trả nợ của khách hàng được đánh giá là tốt.

Tỷ lệ NQH có khả năng thu hồi = NQH có khả năng thu hồi / Tổng NQH

Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là mức độ cao hơn của nợ quá hạn có

khả năng thu hồi, thông thường là các khoản nợ nhóm 5 - nợ có khả năng mất vốn,

gồm:

- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên

theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả

nợ được cơ cấu lại lần thứ hai.

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá

hạn hoặc đã quá hạn.

- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.

Tỷ lệ NQH không có khả năng thu hồi = Tổng dư nợ nhóm 5 / Tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi càng cao, rủi ro càng thấp. Và ngược lại,

tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi càng cao, rủi ro càng cao.

* Theo mức độ bảo đảm: gồm NQH có Tài sản đảm bảo và NQH không có tài

sản đảm bảo

Tỷ lệ NQH có TSBĐ = NQH có TSBĐ / Tổng NQH

Tỷ lệ NQH không có TSBĐ = NQH không có TSBĐ / Tổng NQH

Page 18

Đối với một khoản vay, tài sản bảo đảm có ý nghĩa quan trọng. Nó vừa tạo áp

lực buộc người vay vốn phải tuân thủ các điều kiện vay vốn, tạo sức ép cho họ sử dụng

vốn hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đầy đủ. Nó còn là nguồn thu hồi, đảm bảo an toàn cho

các khoản vay khi khách hàng không thanh toán các khoản nợ. Tỷ lệ nợ quá hạn có tài

sản bảo đảm càng cao thì mức độ rủi ro của ngân hàng càng thấp. Ngược lại, tỷ lệ nợ

quá hạn không có tài sản bảo đảm càng cao thì ngân hàng càng chịu

Đo lường rủi ro tín dụng

Tuy rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lí rủi ro tín dụng

nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân nảy

sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng cụ thể hóa thành những dấu hiệu chính phát sinh trong

hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng:

* Nợ quá hạn:

- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Nợ quá hạn là khoản nợ mà

khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.

- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ: Nợ khó đòi là khoản nợ quá

hạn đã qua một thời kì gia hạn nợ.

Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro

tín dụng khác nhau. Các quan điểm khác nhau, các tính toán khác nhau về kì hạn nợ và

nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng.

+ Thứ nhất, do kì hạn nợ không đúng: Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan

tâm thích đáng đến chu kì kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ

yếu, họ đặt kì hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro. Kì hạn nợ không phù hợp với chu kì thu

nhập của người vay. Khi đến hạn người vay dĩ nhiên sẽ không thể trả nợ được, gây nợ

quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe dọa tài chính đối với người vay, buộc họ phải

trả thêm khoản “ phụ phí ” để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất phạt.

+ Thứ hai, do đảo nợ hoặc giãn nợ: Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn

trả có thể được đảo nợ để làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che giấu với ngân

hàng cấp trên, hoặc để không phải chịu lãi phạt, khách hàng và nhân viên ngân hàng

Page 19

thỏa thuận vay khoản mới để trả khoản nợ cũ. Nhân viên ngân hàng cũng có thể thực

hiện giãn nợ đối với các khoản nợ mà chắc chắn người vay không trả được. Những

hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro tín

dụng.

+ Thứ ba, do chính sách cho vay: Rất nhiều các khoản vay khó đòi không thể thu hồi

bằng phát mại tài sản ( doanh nghiệp nhà nước, người nghèo, tài sản không rõ ràng…).

Những khoản cho vay này hầu hết là cho vay theo chỉ thị của chính phủ. Khi chính phủ

chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của ngân hàng, trở

thành tài sản ảo.Việc xử lí các khoản nợ này là rất phức tạp. Nhiều ngân hàng loại

chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh ( khi được chính

phủ đồng ý). Tuy nhiên chúng thực sự đe dọa thu nhập của các ngân hàng nếu chính

phủ không tìm được nguồn bù đắp.

* Các chỉ tiêu khác: Bên cạnh nợ quá hạn, nhà quản lí ngân hàng còn sử dụng

các hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản, lập

hồ sơ khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay…

- Các khoản cho vay có vấn đề: Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ

quá hạn song trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài

trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay

có vẫn đề được xây dựng dựa trên quy định của ngân hàng.

- Điểm của khách hàng: Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản

xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng… ngân hàng lập hồ

sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc điểm cao, rủi ro tín

dụng thấp; khách hàng loại C hoặc điểm thấp, rủi ro cao. Chỉ tiêu này được xây dựng

dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng xây dựng. Điểm của ngân hàng cho thấy rủi

ro tiềm ẩn.

- Mất tính ổn định vĩ mô: Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình

hình chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác

động xấu đến người vay. Do mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem là một nội dung

quan trọng phản ánh rủi ro tín dụng.

Page 20

- Tính kém đa dạng của tín dụng: Đa dạng hóa là biện pháp hạn chế rủi ro.

Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung

tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao

hơn so với đa dạng hóa.

1.1.2.3. Một số phương pháp quản trị rủi ro tín dụng

Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & Poor

RRTD trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp hạng khoản

cho vay. Việc xếp hạng này được thực hiện bởi một số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong

đó có Moody và Standard & Poor là những dịch vụ tốt nhất.

Bảng 1.1 : Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & Poor

Nguồn Xếp hạng Tình trạng

Standard & Poor Aaa Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất*

Aa Chất lượng cao*

A Chất lượng trên trung bình*

Baa Chất lượng trung bình*

Ba Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ

B Chất lượng dưới trung bình

Caa Chất lượng kém

Ca Chất lượng dưới trung bình

C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu

Moody AAA Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất*

AA Chất lượng cao*

A Chất lượng trên trung bình*

BBB Chất lượng trung bình*

BB Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ

Page 21

B Chất lượng dưới trung bình

CCC Chất lượng kém

CC Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ

C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu

Nguồn: Quản trị ngân hàng thương mại (2007).PGS.TS.Trần Huy Hoàng.

Đối với Moody’s xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor’s thì

cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody’s) và AA (Standard &

Poor’s) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đó, chứng

khoán trong 4 loại đầu được xem như loại chứng khoán nên đầu tư, còn các loại chứng

khoán bên dưới được xếp hạng rác rưởi (junk). Nhưng do có mối quan hệ giữa rủi ro và

lợi nhuận nên tuy việc xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) nhưng có lợi nhuận

cao nên đôi lúc khách hàng chấp nhận đầu tư vào các loại chứng khoán này.

Quản trị rủi ro theo Basel

Sau hàng loạt vụ sụp đổ của các ngân hàng vào thập kỷ 80, một nhóm các Ngân

hàng Trung ương và cơ quan giám sát của nhóm G10 (bao gồm cac thành viên đến từ

Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, LuxeNgân hàng Liên Việtourg, Hà Lan, Tây Ban

Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh và Mỹ) đã tập hợp tại thành phố Basel, Thụy Sĩ vào

năm 1987 tìm cách ngăn chặn xu hướng này. Sau khi nhóm họp, các cơ quan này đã

quyết định hình thành Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on

Banking supervision), đưa ra các nguyên tắc chung để quản lý hoạt động của các ngân

hàng quốc tế.

Năm 1988, Uỷ ban này đã phê duyệt một văn bản đầu tiên lấy tên là Hiệp ước

về vốn của Basel (Basel I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một

mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu

này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này

cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó. Mục

đích của Basel I nhằm:

- Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.

Page 22

- Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm

cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.

Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế

chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng.

Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm

1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã

không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày

càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.

Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới

thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel

(Basel II) đã chính thức được ban hành.

Trong Basel II, Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà

thực chất là đưa ra các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả

và an toàn trong hoạt động tín dụng. Như vậy trong xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín

dụng, nguyên tắc Basel có một số điểm cơ bản:

+ Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng

và bộ phận phê duyệt tín dụng tín dụng cũng như trach nhiệm rạch ròi của các bộ phận

tham gia.

+ Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng.

+ Xây dựng một hệ thống quản lý và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì một quá

trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và quản lý rủi

ro tín dụng.

Tại Basel III, các nhà quản lý ngân hàng các nước thuộc Ủy ban Basel về giám

sát ngân hàng đã đồng thuận một quy định mới có tính lịch sử về quản lý ngân hàng

nhằm xây dựng hệ thống tài chính toàn cầu ổn định hơn.

Theo quy định mới, gọi là Hiệp định Basel III, buộc các ngân hàng có hoạt động

quốc tế phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 7%, cao hơn nhiều lần so với tiêu chuẩn 2%

Page 23

hiện hành và cao hơn cả tỷ lệ 4% mà các ngân hàng Mỹ áp dụng sau khi kiểm tra sức

chịu đựng của ngân hàng vào năm 2009.

Các nhà quản lý tin rằng, tỷ lệ vốn dự trữ càng cao, ngân hàng càng ít bị rủi ro

phá sản hay sụp đổ và cũng ít rủi ro gây rối loạn cho toàn hệ thống.

Quy định này cũng được cho là sẽ giúp hệ thống ngân hàng toàn cầu được kết

nối chặt chẽ với nhau tránh tích tụ nợ và rủi ro quá mức từng làm đảo lộn thị trường tài

chính Wall Street và gây chấn động nền kinh tế thế giới vừa qua, buộc các chính phủ

phải dùng tiền thuế của người dân để cứu nguy các tổ chức tài chính.

Mặc dù quy định mới liên quan tới nhiều phép tính phức tạp, nhiều sản phẩm tài

chính xa lạ, nhưng theo giới phân tích, nó sẽ có tác động lan tỏa tới mọi hoạt động tài

chính, mọi doanh nghiệp và người tiêu dùng khắp thế giới, chi phối các hoạt động cho

vay và thẻ tín dụng.

Tuy nhiên, để tránh gây áp lực lên công cuộc hồi phục kinh tế đang rất chập

chờn trên khắp thế giới, các nhà quản lý ngân hàng đồng ý rằng việc tăng tỷ lệ dự trữ

bắt buộc sẽ được triển khai dần dần trong khoảng thời gian tám năm, chậm hơn một

năm so với đề xuất của Mỹ nhưng sớm hơn một năm so với đề xuất của Đức. Theo

thỏa thuận này, một số thay đổi sẽ được áp dụng ngay từ năm 2013, nhưng một số thay

đổi khác sẽ chỉ có hiệu lực hoàn toàn vào năm 2019.

Từ nay đến năm 2015 chẳng hạn, các ngân hàng phải tích lũy vốn sao cho

nguồn vốn dự trữ phải bằng hoặc nhiều hơn 4,5% so với tài sản, sau năm 2015 phải xây

dựng quỹ dự phòng 2,5%, sao cho đạt được tỷ lệ dự trữ tối thiểu 7% vào ngày

01/01/2019.

Ngân hàng nào không xây dựng quỹ dự phòng hoặc tỷ lệ dự trữ không đạt mức

tối thiểu mà Basel III quy định, cơ quan quản lý sẽ bắt buộc họ phải trích lợi nhuận để

gia tăng vốn, giảm nguồn tiền dùng để chia cổ tức hay thưởng cho giới quản trị. Một số

người tin rằng, quy định mới có thể buộc nhiều ngân hàng phải thu hẹp dư nợ tín dụng

hoặc bán bớt tài sản để cải thiện tình trạng vốn.

Page 24

1.1.2.4. Các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng của Uỷ ban giám sát Ngân hàng

Basel

- Thiết lập một môi trường tín dụng thích hợp

+ Phê duyệt và xem xét chiến lược rủi ro tín dụng theo định kỳ, xem xét những vấn đề

như: mức độ rủi ro chấp nhận được, mức độ khả năng sinh lời.

+ Thực hiện chiến lược chính sách tín dụng. Xây dựng các chính sách tín dụng, xây

dựng các quy trình tín dụng cho các khoản vay riêng lẻ và toàn bộ danh mục tín dụng

nhằm xác định, đánh giá, kiểm soát rủi ro tín dụng.

+ Xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong tất cả các sản phẩm và hoạt động mới đều

trải qua đầy đủ các thủ tục, các quy trình đã được phê duyệt.

- Hoạt động theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý

+ Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm: những biểu hiện của người vay, mục tiêu, cơ

cấu tín dụng

+ Thiết lập hạn mức tín dụng tổng quát cho từng khách hàng, từng nhóm khách hàng.

+ Có các quy trình rõ ràng được thiết lập cho việc phê duyệt các khoản tín dụng mới.

+ Việc cấp tín dụng cần dựa trên cơ sở quản lý chặt chẽ các khoản vay, làm giảm bớt

rủi roc ho vay đối với các bên có liên quan.

- Duy trì một quy trình quản lý, đánh giá và kiểm soát tín dụng có hiệu quả

+ Áp dụng quy trình quản lý tín dụngcó hiệu quả và đầy đủ đối với các danh mục tín

dụng.

+ Có hệ thống kiểm soát đối với các điều kiện liên quan đến từng khoản tín dụng

+ Xây dựng và sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ

+ Hệ thống thông tin kỹ thuật phân tích giúp ban quản lý đánh giá rủi ro tín dụng cho

các hoạt động trong và ngoài bảng cân đối kế toán.

+ Có hệ thống nhằm kiểm soát đối với cơ cấu tổng thể của danh mục tín dụng, chất

lượng danh mục tín dụng.

Page 25

+ Xem xét ảnh hưởng của những thay đổi về điều kiện kinh tế có thể xảy ra trong

tương lai.

- Đảm bảo quy trình kiểm soát đầy đủ đối với rủi ro tín dụng

+ Thiết lập hệ thống xem xét tín dụng độc lập và liên tục, cần thông báo kết quả cho

HĐQT và ban quản lý cấp cao.

+ Quy trình cấp tín dụng cần phải được theo dõi đầy đủ, cụ thể.

+ Có hệ thống quản lý đối với các khoản tín dụng có vấn đề.

1.1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng là một loại rủi ro đặc thù của ngân hàng, do hoạt động tín dụng

là một đặc thù của ngành ngân hàng. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng cũng

có những điểm khác biệt với các loại rủi ro khác. Nhân tố tác động đến rủi ro tín dụng

gồm các nhân tố môi trường, khách hàng, ngân hàng.

Các nhân tố môi trường:

Trước hết đó là các vấn đề về chính sách vĩ mô của chính phủ đóng vai trò quyết

định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền

tệ, tín dụng của ngân hàng thương mại nói riêng.

Trong một nền kinh tế, chính phủ ra đưa ra các chính sách tiền tệ và ngân hàng

là đơn vị thực hiện các chính sách đó. Tuy nhiên, những chính sách đó có thể có lợi

cho ngân hàng, nhưng cũng có thể có hại. Khi mà ngân hàng nhà nước thay đổi lãi suất

huy động, hoặc tỷ lệ dự trứ bắt buộc... nó làm thay đổi mọi kế hoạch của ngân hàng.

Khi mà lãi suất huy động tăng lên làm cho ngân hàng gặp khó khăn trong việc cho vay.

Với mức lãi suất huy động cao thì lãi suất đối với hoạt động tín dụng cũng phải được

đẩy lên để đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc

khách hàng trả lãi và gốc cho ngân hàng là rất khó, và rủi ro tín dụng cao lên.

Tuy nhiên ngoài các yếu tố trên về mặt pháp lý, cũng là một nhân tố ảnh hưởng

tới vấn đề rủi ro trong tín dụng. Khi mà các quy định về quy trình trong hoạt động tín

dụng không được quy định chặt chẽ và hợp lý. Nó sẽ không chỉ gây khó khăn cho hoạt

Page 26

động tín dụng, mà còn tạo khả năng rủi ro xảy ra. Khi mà quy định hợp lý và chặt chẽ

nó sẽ hạn chế được những trường hợp xấu trong hợp đồng tín dụng.

Thứ ba, yếu tố chính trị và xã hội tác động tới hoạt động tín dụng của ngân

hàng. Chúng ta đã từng chứng kiến cuộc khủng hoảng kinh tế của Thái Lan khi có đảo

chính trong nội bộ chính phủ. Khi mà tình hình chính trị bất ổn làm sáo trộn mọi vấn

đề trong xã hội và cả các hoạt động tín dụng tại ngân hàng. Tình trạng này làm cho các

doanh nghiệp sản xuất bị gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, như vậy khả năng

thanh toán cho ngân hàng là không thể. Vì vậy rủi ro tín dụng khi mà tình hình chính

trị bất ổn là rất cao, tuy nhiên nước ta là một nước có nền chính trị xã hội tương đối ổn

định.

Ngoài các yếu tố trên, còn có các yếu tố tự nhiên như thiên tai, dịch bệnh, bão

lũ... Đây là những yếu tố bất khả kháng, yếu tố này không thể lường trước được. Bản

thân các doanh nghiệp vay vốn cũng không thề dự tính được. Trong các năm gần đây

chúng ta đều được chứng kiến tai họa xảy đến đối với các doanh nghiệp chăn nuôi, khi

mà vốn liếng của họ bị thiêu huỷ hết do dịch cúm gia cầm. Rất nhiều gia đình vay vốn

ngân hàng để chăn nuôi nhưng nay bị mất trắng. Họ gần như không có khả năng thanh

toán nợ cho ngân hàng. Đồng nghĩa với điều đó là việc ngân hàng mất vốn hay rủi ro

tín dụng xảy ra.

Các nhân tố ảnh hưởng từ phía khách hàng

Đối với các doanh nghiệp kinh nghiệm và năng lực kinh doanh đang còn ờ trình

độ thấp, thì hầu hết các doanh nghiệp này đều không nắm bắt được thông tin kịp thời,

thiếu thích nghi với cạnh tranh. Khi được vay vốn kinh doanh thì dự án này sẽ gặp

nhiều khó khăn, khả năng xảy ra rủi ro là rất cao. Như vậy rủi ro tín dụng đối với ngân

hàng sẽ rất lớn.

Nhân tố không lành mạnh từ phía khách hàng là việc khách hàng lừa đảo, sử

dụng vốn sai mục đích, trốn tránh trách nhiệm uỷ quyền và bảo lãnh. Khi mà khách

hàng lừa đảo họ lợi dụng các điểm yếu và kẽ hở của ngân hàng. Họ lập các phương án

kinh doanh giả, cùng các giấy tở thế chấp giả mạo hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng với

cùng một bộ hồ sơ. Đối với trường hợp bảo lãnh và uỷ quyền xảy ra chủ yếu đối với

Page 27

các công ty lớn. Một số công ty, công ty lớn đứng ra bảo lãnh uỷ quyền cho các chi

nhánh trực thuộc thực hiện vay vốn của ngân hàng để tránh sự kiểm tra giám sát của

ngân hàng vào hoạt động và kinh doanh. Tuy nhiên khi đơn vị chi nhánh không trả

được nợ thì đơn vị bảo lãnh không chịu đứng ra thực hiện nghĩa vụ của mình.

Các nhân tố từ ngân hàng

Lợi nhuận của ngân hàng chủ yếu thu được từ hoạt động tín dụng. Đó là nguồn

thu chính của các ngân hàng do đó, việc tăng lợi nhuận tức là phải tăng quy mô của

hoạt động tín dụng lên. Như vậy đồng nghĩa với rủi ro tín dụng tăng lên. Việc mở rộng

tín dụng lên thì việc giám sát và kiểm tra các hợp đồng tín dụng trở lên yếu kém đi.

Việc giám sát của các cán bộ tín dụng đối với các hợp đồng tín dụng lơi lỏng, và việc

tuân thủ các quy trình tín dụng cũng bị lơ là.

Trình độ và năng lực của cán bộ tín dụng yếu kém, đây cũng là một nhân tố gây

ra rủi ro trong tín dụng. Một người cán bộ yếu kém về năng lực, khi tiếp nhận hồ sơ

của khách hàng thì khả năng phân tích và thẩm định dự án không đúng về dự án. Trong

trường hợp này nhân viên tín dụng có thể bị khách hàng lừa gạt, hoặc lựa chọn dự án

tài trợ không chính xác. Như vậy khả năng mất vốn rất cao. Điều đó đòi hỏi đội ngũ

cán bộ phải có năng lực cao.

Quy trình tín dụng đối với các ngân hàng là một bí mật riêng. Quy trình tín dụng

chưa chặt chẽ hoặc quá cụ thể, quá linh hoạt điều có thể là nhân tố gây ra rủi ro tín

dụng. Những vấn đề nổi cộm hiện nay trong các quy trình tín dụng là đánh giá lại giá

trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố.

Nhân tố do sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng gây ra trong quá

trình thu hút khách hàng. Đó là việc thẩm định khách hàng trở nên sơ sài, chủ quan.

Thậm chí có nhiều ngân hàng liều lĩnh chấp nhận rủi ro cao, nhằm đạt được mức lợi

nhuận cao mà bất chấp những hợp đồng tín dụng không lành mạnh, thiếu an toàn.

Ngoài ra còn có nhiều nhân tố khác ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng thuộc về ngân

hàng như: chất lượng thông tin và xử lý thông tin trong ngân hàng, cơ cấu tổ chức và

quản lý đội ngũ cán bộ, năng lực công nghệ...

Page 28

1.1.3. Sự cần thiết phải tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM

1.1.3.1. Trên góc độ của nền kinh tế

Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài

chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, các doanh

nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho

vay vẫn là quyền sở hữu của những người gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi rủi ro

tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt mà quyền lợi của người gửi tiền

cũng bị ảnh hưởng.

Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các

cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi

tiền ở các ngân hàng hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng,

làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng gặp phải rủi ro hay phá

sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền

trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các

ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy

thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro

tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia

đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc

khủng hoảng tài chính châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ

đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước

phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh

tế các nước có liên quan.

Rủi ro tín dụng xảy ra đồng nghĩa với khoản đầu tư của người vay tiền không có

hiệu quả tức là không có lợi ích đầu tư của người vay tiền đối với ngân hàng và xã hội.

Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có tính xã hội hoá cao, có

nhiều mối quan hệ phức tạp với nhiều chủ thể. Khi một ngân hàng bị thua lỗ, phá sản

sẽ gây tâm lý hoang mang lan rộng nhanh chóng khiến nhiều người khách hàng gửi

tiền có thể rút tiền hàng loạt gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động ngân hàng, trường hợp

Page 29

xấu nhất có thể gây đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng. Theo thời gian nếu có khôi

phục được cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn. Ở nước ta hiện

nay, nếu một NHTM gặp khó khăn tài chính di rủi ro tín dụng xảy ra ngoài mong đợi,

ngân hàng có thể nhận được sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước. Lúc này Ngân sách Nhà

nước phải tăng chi cho khoản mục này và cắt giảm chi tiêu cho các khoản mục khác, sẽ

làm ảnh hưởng tới mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh đó, đặc điểm hoạt động của hệ thống NHTM là huy động vốn nhàn rỗi

trong nền kinh tế để cấp tín dụng cho các tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu

cầu về vốn. Khi RRTD xảy ra, không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của

người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.

Khi một ngân hàng gặp phải RRTD hay bị phá sản, vì tâm lý lo sợ nên để bảo

toàn tài sản của mình, người gửi tiền ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho hệ

thống ngân hàng gặp khó khăn trong vấn đề chi trả và có nguy cơ mất khả năng thanh

toán, dẫn đến bị phá sản và nền kinh tế bị tê liệt.

RRTD có thể xảy ra với nhiều mức độ khác nhau, ngân hàng gặp phải rủi ro về

lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, ngân hàng bị mất vốn khi khách hàng

không có khả năng chi trả. Nếu tình trạng này kéo dài mà không khắc phục được, ngân

hàng sẽ bị phá sản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng nói riêng và nền

kinh tế nói chung. Do đó, yêu cầu đặt ra cho các nhà quản trị ngân hàng là phải thận

trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong quá trình cho vay.

1.1.3.2. Trên góc độ ngân hàng

RRTD là nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự tổn thất về vốn của các NHTM

Thường thu nhập của các NHTM được đem lại chủ yếu là từ nguồn thu nhập

của hoạt động tín dụng. Thực tế, RRTD là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự tổn thất về

vốn cho các NHTM. Vì vậy, RRTD được xem là một trong những nhân tố hết sức quan

trọng, đòi hỏi các ngân hàng phải có khả năng phân tích, đánh giá và QTRRTD hiệu

quả. Một khi ngân hàng chấp nhận nhiều khoản cho vay có RRTD cao thì ngân hàng có

khả năng phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn hay tính thanh khoản thấp. Điều này có

Page 30

thể làm giảm HĐKD cũng như lợi nhuận của ngân hàng, thậm chí có thể dẫn đến phá

sản. Cho nên, các NHTM cần phải chú trọng hơn nữa đến QTRRTD để có những giải

pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa và hạn chế tối đa RRTD xảy ra.

QTRRTD là thước đo năng lực kinh doanh của các NHTM

Tình hình kinh tế ngày càng có nhiều biến động, thị trường tài chính, tiền tệ và

ngân hàng cũng diễn biến phức tạp hơn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là RRTD. Mặc dù,

trước khi cho vay nhân viên ngân hàng đã tìm hiểu thị trường và dự đoán những rủi ro

có thể xảy ra nhưng sự tiên liệu, phát hiện rủi ro tiềm ẩn và ứng phó của nhân viên

ngân hàng là có giới hạn, trên thực tế RRTD phát sinh do nhiều nguyên nhân, có thể do

nguyên nhân khách quan, chủ quan hay do bất khả kháng… Vì vậy, QTRRTD phải

được xem là một nghiệp vụ chủ đạo và là thước đo năng lực kinh doanh của các

NHTM để ngăn ngừa và hạn chế tối đa những tổn thất do RRTD gây ra.

QTRRTD tốt là một lợi thế cạnh tranh của các NHTM

QTRRTD được thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng sàn lọc được những

khách hàng có năng lực pháp lý tốt, năng lực tài chính tốt, có tiềm năng phát triển…

nhằm giúp cho việc tài trợ vốn của ngân hàng thực sự mang lại hiệu quả, và sẽ tạo điều

kiện thuận lợi cho các NHTM trong quá trình cạnh tranh.

1.2. Cơ sở thực tiễn quản trị rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại

tại Việt Nam

1.2.1. Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng của một số NHTM Việt Nam

Trong thời gian gần đây, đã có một sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu tổ chức bộ

máy và quy trình cấp tín dụng của một số ngân hàng Việt Nam. Giờ đây, đến một số

ngân hàng (Vietcombank, ACB…), chúng ta không còn thấy Phòng tín dụng, là bộ

phận trước đây tiếp xúc khách hàng và tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn để xem xét

quyết định cho vay. Chúng ta sẽ được làm quen với một khái niệm mới là Phòng Quan

hệ khách hàng, là đầu mối tiếp xúc và tiếp nhận đầy đủ các yêu cầu của khách hàng để

Page 31

các bộ phận chức năng xem xét phê duyệt. Những thay đổi cơ bản trong mô hình quản

lý rủi ro tín dụng đang được các ngân hàng này áp dụng là:

- Hoàn thiện bộ máy quản trị rủi ro tín dụng từ Hội sở chính đến các chi nhánh

với sự phân cấp rõ ràng về mức phán quyết, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận,

đồng thời xây dựng các chính sách quản lý rủi ro tín dụng, chính sách phân bổ tín

dụng, chính sách khách hàng, xây dựng danh mục đầu tư …

- Chuyển đổi mô hình quản lý theo chiều ngang sang mô hình theo chiều dọc.

Theo mô hình này, các nghiệp vụ kinh doanh chính, trong đó có hoạt động cấp tín

dụng, được quản lý tập trung tại Hội sở chính, các chi nhánh chủ yếu làm chức năng

bán hàng.

- Phân tách bộ phận tín dụng thành các bộ phận chuyên môn khác nhau như

quan hệ khách hàng (tập trung chủ yếu vào hoạt động tiếp thị, tiếp xúc khách hàng,

khởi tạo tín dụng), bộ phận quản lý rủi ro tín dụng (thực hiện thẩm định tín dụng độc

lập và ra các ý kiến về cấp tín dụng cũng như giám sát quá trình thực hiện các quyết

định tín dụng của bộ phận quan hệ khách hàng), bộ phận tác nghiệp (thực hiện lưu trữ

hồ sơ, nhập hệ thống máy tính và quản lý khoản vay…). Các ngân hàng thương mại cổ

phần như ACB, VIB, VPB, SCB… đã và đang tiến hành quá trình cơ cấu lại bộ máy

kinh doanh tín dụng theo hướng này để phân định rõ chức năng đề xuất và thẩm định

tín dụng nhằm đảm bảo tính khách quan trong hoạt động cấp tín dụng. Với sự tư vấn

của Ngân hàng ING (Hà Lan), Vietcombank đã triển khai mô hình quản lý tín dụng

mới trong toàn hệ thống từ tháng 7/2006. Các ngân hàng thương mại quốc doanh khác

như BIDV, Vietinbank cũng đang tiến hành chuyển đổi theo mô hình này.

Tuy nhiên, quá trình này đang diễn ra một cách khó khăn và theo các chuyên gia

thì vẫn còn một chặng đường dài nữa các ngân hàng thương mại Việt Nam mới đạt

được một mô hình quản trị rủi ro tín dụng hiện đại theo đúng nghĩa. Trước hết, khó

khăn lớn nhất xuất phát từ yếu tố con người bởi sự thay đổi mô hình tổ chức đã ảnh

hưởng đến quyền hạn của các cán bộ có liên quan đến quá trình cấp tín dụng. Thật khó

khăn khi phải thay đổi, phải tiếp nhận cái mới, đặc biệt khi mà sự thay đổi đó ảnh

hưởng đến quyền lực mà trước đây người ta có được. Giờ đây, một quyết định tín dụng

Page 32

không phụ thuộc vào một cá nhân mà là sự đồng thuận của các lãnh đạo các bộ phận

chức năng có vai trò độc lập trong quá trình tác nghiệp. Đây là một lực cản không nhỏ

trong quá trình triển khai mô hình này trên thực tế.

Khó khăn thứ hai có thể kể đến là môi trường thông tin, trong đó tính minh

bạch, chính xác, rõ ràng của các thông tin và độ tin cậy của các cơ quan cung cấp tại

Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân

hàng Nhà nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong cung

cấp thông tin về khách hàng, thực hiện phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, cung

cấp các thông tin cảnh báo…, góp phần quan trọng cho sự phát triển của ngành ngân

hàng Việt Nam vì mục tiêu an toàn, hiệu quả nhưng những đòi hỏi về thông tin của các

ngân hàng vẫn chưa được đáp ứng một cách đáng tin cậy, nhanh chóng và kịp thời. Các

thông tin về báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa bị bắt buộc phải qua kiểm toán

nên độ chính xác của các báo cáo chưa cao. Việc tìm kiếm thông tin cực kỳ khó khăn

và tình trạng thông tin bất cân xứng vẫn là một tồn tại chưa thể khắc phục được trên thị

trường tài chính Việt Nam. Quy trình cấp tín dụng mới lại yêu cầu tách bạch chức năng

bán hàng và chức năng thẩm định tín dụng, do đó, cán bộ thẩm định không tiếp xúc

khách hàng (để đảm bảo tính khách quan) nên phải có đầy đủ các thông tin để có thể

đưa ra các quyết định tín dụng đúng đắn và hợp lý.

Khi triển khai mô hình mới, sự phân tách bộ phận quan hệ khách hàng, quản lý

rủi ro tín dụng và quản lý nợ đã tạo nên những khối chức năng độc lập nhưng lại chưa

đảm bảo mối dây liên kết chặt chẽ, đôi khi còn xuất hiện tỵ hiềm, cản trở nhau trong

tác nghiệp. Trách nhiệm của các bộ phận tham gia vào hoạt động tín dụng chưa thật rõ

ràng, đặc biệt là trách nhiệm pháp lý trong điều kiện tình trạng hình sự hóa các quan hệ

kinh tế vẫn đang tồn tại khá phổ biến, đã dẫn đến sự e ngại trong các quyết định cấp tín

dụng và làm ảnh hưởng đến không chỉ hoạt động của bản thân ngân hàng đó mà còn

đến cả nền kinh tế bởi khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của công chúng sẽ trở

nên khó khăn hơn và mất nhiều thời gian hơn. Sự hỗ trợ của hệ thống thông tin tín

dụng cũng như khả năng tiếp cận khách hàng và cung cấp thông tin cần thiết của bộ

phận quan hệ khách hàng chưa đáp ứng được các yêu cầu chính xác và giảm thiểu tình

Page 33

trạng thông tin bất cân xứng, do đó, những lo ngại của bộ phận quản lý rủi ro tín dụng

trong các quyết định rủi ro gia tăng.

Mặc dù có nhiều trở ngại trong xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng nhưng

không thể phủ nhận được những ưu điểm của mô hình mới này mang lại trong quản trị

rủi ro bởi đã thực hiện sự tách bạch giữa bộ phận tiếp thị và bộ phận thẩm định giúp

cho các quyết định cho vay mang tính khách quan hơn, cũng như nhờ sự chuyên môn

hóa sâu hơn theo chức năng mà việc thực hiện phân tích và phản biện tín dụng sâu sắc

và chính xác hơn, giúp nhận dạng các rủi ro tiềm năng và có các biện pháp phòng ngừa

thích hợp… Thêm vào đó, chính sự giám sát của bộ phận quản lý rủi ro đối với quan hệ

khách hàng trong quá trình thực hiện các quyết định cấp tín dụng đã tạo nên cơ chế

kiểm tra và giám sát liên tục, song song trong quá trình cho vay, phát hiện và giảm

thiểu được những rủi ro sau khi cho vay mà cơ chế kiểm tra nội bộ của các ngân hàng

hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế.

HD Bank

HDBank là một trong những ngân hàng đầu tiên đã công bố thực hiện thành

công hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ gồm 9 bộ chỉ tiêu xếp hạng dành cho 4 đối

tượng khách hàng: định chế tài chính, tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh và cá nhân. Việc

ứng dụng hệ thống này sẽ giúp HDBank đánh giá được chất lượng tín dụng, phân

nhóm khách hàng cũng như lượng hóa tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng, quản

trị chất lượng tín dụng hiệu quả và toàn diện. Tính đến nay, tỷ lệ nợ xấu của HDBank

đã được kiểm soát ở mức trên 1%/năm

Đồng thời, HDBank đã xây dựng được khối quản trị rủi ro và kiểm soát tuân thủ

theo theo tiêu chuẩn quốc tế gồm các phòng ban (Quản lý rủi ro, Thẩm định giá, Pháp

chế, Kiểm tra kiểm soát nội bộ, Xử lý nợ,..). Các phòng ban này liên kết chặt chẽ với

nhau tạo thành quy trình thẩm định khép kín thực hiện các hoạt động quản trị rủi ro tín

dụng và rủi ro phi tín dụng như: rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá, pháp lý, rủi ro nhân

lực và các hoạt động khác. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng đã hoàn thành chuẩn hóa

nhiều văn bản nội bộ, quy trình xét duyệt thẩm định, đẩy mạnh công tác giám sát từ xa,

xây dựng bộ tiêu chuẩn quản trị rủi ro, đơn giản thủ tục vay, thời gian giải ngân nhanh

Page 34

chóng (chỉ trong ba ngày với những hồ sơ hợp lệ) góp phần đem lại sự tín nhiệm và hài

lòng cho khách hàng.

Vietinbank

Trước xu thế phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, thể chế tín dụng

đã có những thay đổi quan trọng, đó là: chuyển từ lãi suất cố định, sang lãi suất khung

và đến nay là lãi suất thoả thuận; tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại;

bổ sung các nghiệp vụ tín dụng mới; mở rộng đối tượng tiếp cận tín dụng; trao quyền

tự chủ tự chịu trách nhiệm cho các NHTM....

Bước phát triển chính sách tín dụng của VietinBank là quá trình kế thừa, phát

huy giá trị sẵn có, thay đổi để thích nghi với sự biến động của môi trường kinh tế, xã

hội và phù hợp pháp luật trong từng thời kỳ, tiếp cận nhanh chóng xu thế mới, thông lệ

quốc tế, các phương pháp quản lý tiên tiến... Giá trị cốt lõi là chuyển từ tư duy bao cấp

sang tư duy tín dụng thị trường. Theo đó tín dụng đã hướng tới phục vụ nhu cầu hợp lý

của khách hàng, tạo ra lợi nhuận trên cơ sở chấp nhận rủi ro đi kèm, các quyết định tín

dụng dựa trên đánh giá lợi ích, rủi ro và có biện pháp kiểm soát rủi ro.

VietinBank đã chuyển đổi mô hình tổ chức bộ máy tín dụng trong toàn hệ thống

với các chức năng độc lập, vừa đảm bảo tính chuyên nghiệp cao, vừa tăng cường khả

năng giám sát giữa các chức năng, theo đó chức năng nghiên cứu tham mưu ban hành

chính sách tín dụng được tách biệt với chức năng quản lý khách hàng, thẩm định và đề

xuất tín dụng (Phòng khách hàng); thẩm định rủi ro và quản lý danh mục tín dụng

(phòng Quản lý rủi ro); theo dõi, quản lý các khoản nợ bị suy giảm khả năng trả nợ

(Phòng quản lý nợ có vấn đề); kiểm tra, giám sát tín dụng độc lập (Ban kiểm tra, kiểm

soát nội bộ). Nhờ đó, quá trình đổi mới chính đã mang lại những kết quả quan trọng.

Bên cạnh đó, Vietinbank còn thực hiện chính sách tăng trưởng tín dụng linh

hoạt trong từng thời kỳ, giải quyết có hiệu quả tình trạng thừa vốn, tình trạng tăng

trưởng tín dụng nóng; ứng xử tín dụng hợp lý với các đối tượng cấp tín dụng cụ thể,

tuân thủ danh mục tín dụng đã được thiết lập, có ưu tiên cho các khu vực kinh tế phát

triển, khách hàng có năng lực tài chính mạnh, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, ít

chịu rủi ro; Nâng cao tiêu chuẩn lựa chọn khách hàng, phương án, dự án kinh doanh,

Page 35

tăng cường biện pháp quản lý tín dụng đối với khách hàng, trích lập dự phòng rủi ro

đầy đủ và tích cực xử lý nợ xấu.

Nhờ đó, quy mô tín dụng của VietinBank tăng bình quân hàng năm 31% đến

nay tăng gần 170 lần so với lúc mới thành lập), đáp ứng được các nhu cầu vốn hợp lý

của nền kinh tế, góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước. Cơ cấu tín dụng theo địa bàn, đối tượng khách hàng, mục đích sử dụng vốn,

ngành hàng, kỳ hạn cấp tín dụng, hình thức bảo đảm tiền vay.... được điều chỉnh theo

hướng tích cực. Chất lượng tín dụng được nâng cao và trở thành một trong những Ngân

hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất.

Vietinbank chú trọng quản lý điều hành tập trung bằng cơ chế, chính sách, quy

trình tín dụng, thực hiện phân quyền cho các cá nhân, đơn vị trong quá trình thực hiện.

Hoạ động tín dụng được diễn ra thống nhất trong toàn hệ thống, đảm bảo các giới hạn

chấp nhận rủi ro thông qua các tiêu chuẩn cấp tín dụng, cũng như các biện pháp quản

lý tín dụng, đảm bảo rằng dù khách hàng quan hệ tín dụng ở bất cứ chi nhánh nào,

cũng được hưởng lợi các sản phẩm tín dụng như nhau. Đồng thời, các cá nhân, đơn vị

được quyền chủ động thực hiện thông qua việc phân cấp, uỷ quyền của Hội đồng Quản

trị, Tổng giám đốc và các cấp có thẩm quyền trên cơ sở phù hợp với môi trường, chất

lượng hoạt động, xếp hạng tín dụng của từng đơn vị và năng lực, trình độ, kinh nghiệm

quản lý của người được uỷ quyền.

VIB

Tại VIB, cơ cấu quản trị được xác định rõ ràng giữa Hội đồng Quản trị (HĐQT)

và Ban điều hành, trong đó HĐQT xác định chiến lược và Ban điều hành là người thực

thi chiến lược, nếu không “rõ ràng” điều này sẽ dấn đến mâu thuẫn về quyền lợi. Bên

cạnh đó, những ủy ban độc lập như Ủy ban tín dụng độc lập, được Chủ tịch HĐQT trao

quyền và có thành viên HĐQT tham gia, không chỉ giúp HĐQT nắm vững được tình

hình thực tế về tình hình tín dụng mà còn đảm bảo tính minh bạch, chất lượng tín dụng

tại VIB

Trên thực tế, quản lý rủi ro tại Việt Nam thường phải đối mặt với vấn đề có quá

ít hoặc quá nhiều dữ liệu nhưng không phù hợp cho quá trình phân tích đánh giá cơ hội

Page 36

hoặc dự phòng rủi ro. Để khắc phục vấn đề này, tại VIB có những phòng ban chuyên

trách, mô hình đồng nhất, nhất quán từ các đơn vị kinh doanh đến bộ phận hỗ trợ. Mô

hình 3 tầng lớp bảo vệ ( Đợn vị kinh doanh – Đơn vị quản lý – Kiểm toán nội bộ) giúp

VIB tăng cường vài trò quản lý và kiểm tra hoạt động của các đơn vị kinh doanh nói

riêng và của toàn hệ thống nói chung, đồng thời phòng ngừa lỗ hổng do các hình thức

rủi ro gây ra như: chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố. Hiện tại, VIB đang dần dần

thay đổi văn hóa của quản trị rủi ro từ “kiểm soát” sang “hợp tác” mà không ảnh hưởng

đến chất lượng rủi ro tín dụng.

1.2.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn chi nhánh Tam Đảo

Qua kinh nghiệm của một số Ngân hàng trong quản trị tín dụng có thể rút ra một

số bài học cho ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Tam Đảo:

Một là, xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản trị rủi ro tín dụng

Đảm bảo tính độc lập trong xử lý các khoản cho vay giữa Cán bộ tín dụng (cán

bộ khách hàng), cán bộ quản lý nợ với cán bộ quản lý rủi ro tín dụng, cán bộ thẩm

định. Tùy theo quy mô của chi nhánh, cấp chi nhánh cũng cần phải có đội ngũ cán bộ

quản lý rủi ro tín dụng chuyên trách.

Hai là, thực hiện đổi mới dần đi đến cải tổ toàn diện

Đổi mới luôn là một yêu cầu để theo kịp với thực tiễn; thông qua đổi mới dần

từng bước tiến tới cải tổ toàn diện đối với các yếu tố có ảnh hưởng tác động đến năng

lực quản trị rủi ro bao gồm hoạch định và xây dựng chiến lược, mục tiêu và chính sách

quản trị rủi ro.

Ba là, thường xuyên đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ

Để nâng cao năng lực đánh giá, phân tích RRTD cho cán bộ thẩm định RRTD,

cán bộ rủi ro chuyên trách nhằm từng bước xây dựng đội ngũ chuyên gia về quản trị

RRTD vì theo kinh nghiệm của Citibank thì không có phương pháp phân tích phức tạp,

hiện đại nào có thể thay thế được kinh nghiệm và đánh giá của chuyên môn về quản trị

rủi ro.

Page 37

Bốn là, chú trọng hơn nữa đến việc đầu tư và nâng cấp hệ thống công nghệ

thông tin

Công nghệ thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động ngân

hàng. Tuy nhiên tốc độ tiến bộ của công nghệ thông tin là rất nhanh, do đó cần chú

trọng hơn nữa đến việc đầu tư và nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin nhằm phục vụ

tích cực hơn nữa cho việc phân tích, đánh giá, đo lường RRTD, thực hiện chấm điểm

tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế, giám sát độc lập khoản vay, chú trọng thực hiện phân

nhóm khách hàng.

Kết luận chương 1:

Đề tài đã hệ thống hóa cơ sở lý luận những vấn đề cơ bản về tín dụng và rủi ro

tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Đề tài cũng nghiên cứu bản chất,

các hình thức tín dụng, nguyên nhân rủi ro tín dụng, các biện pháp quản trị rủi ro tín

dụng và chỉ ra ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng và nền kinh tế, nêu ra

một số phương pháp phân tích rủi ro tín dụng. Đề tài cũng đã nêu lên những vấn đề

trọng yếu trong việc quản trị rủi ro tín dụng, những bài học kinh nghiệm và việc áp

dụng các mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam. Những nội dung

này là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả nghiên cứu chương 2 dưới đây.

Page 38