Chương 6 Đo lườ động môi trường của tăng trưởng kinh tế ...€¦ · Đo...

32
Đo lường tác động môi trường … Chương 6 Đo lường tác động môi trường ca tăng trưởng kinh tế vùng bng mô hình cân đối liên ngành liên vùng Lê Hà Thanh 1 Din đàn Phát trin Vit Nam và Trường Đại hc Kinh tế Quc dân Bùi Trinh & Dương Mnh Hùng Tng cc Thng kê Trong nhng năm qua, Hà Ni đã có nhiu đổi mi vchính sách phát trin kinh tế. Nhng thành tcơ bn đạt được bao gm mc tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 11%, tăng thu hút đầu tư trc tiếp nước ngoài, nâng cao cht lượng đời sng cho nhân dân. Tuy nhiên cùng vi nhp độ tăng trường kinh tế cao và quá trình công nghip hoá đang din ra sâu rng, cũng như cnước, Hà Ni đã và đang phi đối đầu vi vi các vn đề môi trường nghiêm trng như ô nhim nước, ô nhim không khí tcác nhà máy, các hgia đình, lm dng thuc trsâu và phân hoá hc. Để đảm bo phát trin bn vng, Hà Ni cn nhanh chóng gii quyết các vn đề môi trường thông qua nhiu gii pháp như pháp lut, công ngh, chính sách kinh tế và môi trường, nâng cao nhn thc ca các tng lp trong xã hi, và lôi kéo stham gia ca qun chúng. Chiến lược phát trin bn vng cn được xây dng trên cơ shiu biết toàn din vmi quan hgia phát trin kinh tế và cht lượng môi trường. Các chính sách vmôi trường và kinh tế 1 Các tác gixin bày tli cm ơn đối vi Hip hi nghiên cu Kinh tế môi trường và kinh tế lượng – AREES vì đã cho phép sdng mt phn kết qunghiên cu. Các tác gixin chân thành cm ơn TS. Kim Kwang Moon (Đại hc công nghToyohashi, Nht Bn), ông Francisco T. Secretario (Cu chuyên gia ca ADB) vì sgiúp đỡ nhit tình trong quá trình tiến hành nghiên cu này. 193

Transcript of Chương 6 Đo lườ động môi trường của tăng trưởng kinh tế ...€¦ · Đo...

Đo lường tác động môi trường …

Chương 6 Đo lường tác động môi trường của tăng trưởng

kinh tế vùng bằng mô hình cân đối liên ngành liên vùng

Lê Hà Thanh1

Diễn đàn Phát triển Việt Nam và Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Bùi Trinh & Dương Mạnh Hùng

Tổng cục Thống kê

Trong những năm qua, Hà Nội đã có nhiều đổi mới về chính sách phát triển kinh tế. Những thành tự cơ bản đạt được bao gồm mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 11%, tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân. Tuy nhiên cùng với nhịp độ tăng trường kinh tế cao và quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra sâu rộng, cũng như cả nước, Hà Nội đã và đang phải đối đầu với với các vấn đề môi trường nghiêm trọng như ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí từ các nhà máy, các hộ gia đình, lạm dụng thuốc trừ sâu và phân hoá học.

Để đảm bảo phát triển bền vững, Hà Nội cần nhanh chóng giải quyết các vấn đề môi trường thông qua nhiều giải pháp như pháp luật, công nghệ, chính sách kinh tế và môi trường, nâng cao nhận thức của các tầng lớp trong xã hội, và lôi kéo sự tham gia của quần chúng. Chiến lược phát triển bền vững cần được xây dựng trên cơ sở hiểu biết toàn diện về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và chất lượng môi trường. Các chính sách về môi trường và kinh tế

1 Các tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn đối với Hiệp hội nghiên cứu Kinh tế môi trường và kinh tế lượng – AREES vì đã cho phép sử dụng một phần kết quả nghiên cứu. Các tác giả xin chân thành cảm ơn TS. Kim Kwang Moon (Đại học công nghệ Toyohashi, Nhật Bản), ông Francisco T. Secretario (Cựu chuyên gia của ADB) vì sự giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình tiến hành nghiên cứu này.

193

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

nếu được áp dụng kịp thời sẽ giảm nhẹ các tác động môi trường của tăng trưởng kinh tế, ngược lại hậu quả sẽ khôn lường.

Mục đích của chương này bao gồm 2 vấn đề chính. Thứ nhất là mô tả hiện trạng môi trường và nhận thức của các tầng lớp dân cư của Hà Nội (Phần 2 và 3). Thứ hai là giới thiệu mô hình đo lường tác động liên ngành và liên vùng của các hoạt động kinh tế cũng như các tác động môi trường tiềm ẩn của các hoạt động này (Phần 4 và 5). Phần 1 là giới thiệu chung và phần 6 là các kết luận.

1. Gắn kết các tài khoản kinh tế và môi trường

Phân tích và mô tả mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường đã trở thành chủ đề quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững. Chiến lược phát triển bền vững cần được xây dựng dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ giữa 2 yếu tố này. Tăng trưởng hay sự thay đối trong các hoạt động kinh tế tạo nên các biến đổi về môi trường. Sản xuất và thương mại phát triển sẽ có nguy cơ tạo ra nhiều ô nhiễm. Sự thay đổi về mức độ ô nhiễm có tính chất thời gian và không gian. Bất cứ sự thay đổi về quan hệ kinh tế hay chính sách của một ngành sẽ gây ảnh hưởng tới ngành khác và thông qua đó ảnh hưởng tới chất lượng môi trường.

Từ góc độ kinh tế vĩ mô, liên kết các số liệu về tiền tệ và vật lý là cách duy nhất để mô tả mối quan hệ phức tạp giữa kinh tế và môi trường. Trong những năm gần đây, LHQ đã xuất bản sổ tay về hệ thống hạch toán kinh tế môi trường (SEEA). Thực ra đây không phải là vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Năm 1970 Leontief (Leontief, 1970) lần đầu tiên đề xuất ý tưởng đưa các chi phí xử lý chất thải vào mô hình cân đối liên ngành (mô hình I-O). Ý tưởng này được rất nhiều nhà nghiên cứu tiếp thu, phát triển và áp dụng tại hơn 20 quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Tại Việt Nam, từ năm 1996 việc lượng hoá các ảnh hưởng môi trường của tăng trưởng kinh tế vùng đồng bằng sông Hồng thông qua mô hình I-O đã được thực hiện. Vào năm 2000 mô hình tương tự đã được áp dụng cho tp. Hồ

194

Đo lường tác động môi trường …

Chí Minh. Mặc dù mục tiêu, giới hạn nghiên cứu của các công trình trên có nhiều khác biệt song về cơ bản các nghiên cứu đều sự dụng chung 1 phương pháp luận. Việc áp dụng mô hình I-O liên vùng có nhiều lợi ích. Thứ nhất, mô hình này cho phép xem xét ảnh hưởng về mặt không gian của một hoạt động kinh tế cụ thể. Thứ hai, mô hình này là công cụ hữu hiệu trong việc xem xét tác động qua lại giữa các vùng trong cả nước. Thứ ba, mô hình này cho phép tiến hành các dự báo trong dài hạn.

Mặc dù có nhiều ưu điểm song mô hình I-O liên vùng cũng có nhiều khiếm khuyết. So sánh với mô hình I-O quốc gia, mô hình I-O liên vùng đòi hỏi nhiều số liệu về việc luân chuyển các dòng hàng hoá và dich vụ giữa các ngành và các vùng. Trên thực tế có rất nhiều hoạt động không dễ phân định cho một vùng cụ thể nào đó, như việc cung cấp các dịch vụ công của nhà nước. Vấn đề tiếp nữa là rất nhiều công ty có chi nhánh tại nhiều địa phương nhưng trụ sở chính lại đặt tại một địa phương khác. Mặc dù còn nhiều hạn chế, việc áp dụng mô hình I-O liên vùng hỗ trợ cho quá trình ra quyết định một cách chính xác hơn, bởi lẽ nó không chỉ mô tả các quan hệ một cách chuẩn xác mà còn định lượng các quan hệ đó.

Mục tiêu cơ bản của nghiên cứu này là giới thiệu mô hình đo lường tác động liên ngành và liên vùng của các hoạt động kinh tế cũng như các tác động môi trường tiềm ẩn của các hoạt động này. Nghiên cứu này sẽ tập trung chủ yếu tại Hà Nội. Ô nhiễm nước được xem là vấn đề bức xúc nhất của thành phố. Chỉ tiêu được sử dụng để phản ánh mức độ ô nhiễm là nhu cầu oxi sinh hoá (BOD). Đặc biệt nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp phân rã nhân tử liên vùng do Miyazawa (1976) đề xuất nhằm xác định ảnh hưởng môi trưởng của các hoạt động phát triển tại các khu vực khác nhau. Trong nghiên cứu này, nhận thức của các tầng lớp trong xã hội cũng được phân tích như một yếu tố làm gia tăng mức độ phức tạp của các vấn đề môi trường ở Hà Nội. Dựa trên các kết quả phân tích, tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm cải thiện chất lượng môi trường tại Hà Nội.

195

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

2. Vài nét về vấn đề ô nhiễm nước ở Hà Nội

Hà Nội nằm ở tọa độ 20057’ Bắc và 105035’- 106025’ Đông, có chiều dài từ Bắc tới Nam là 93km, chiều rộng từ Đông sang Tây là 30km. Hà Nội thuộc đới khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm trung bình khoảng 81-82%, nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 23-240C, lượng mưa trung bình khoảng 1500mm. Hàng năm có khoảng 9-10 trận bão tràn qua Hà Nội. Hướng gió chính ở Hà Nội là Đông Nam vào mùa hạ và Đông Bắc vào mùa đông. Hà Nội thuộc vùng châu thổ sông Hồng trong đó, khu vực đô thị và các quận liền kề nằm giữa sông Hồng và sông Nhuệ. Mực nước sông Hồng dao động trong khoảng từ 2 tới 12m với tốc độ dòng chảy trung bình từ 380-436m3/s. Mực nước sông Nhuệ vào khoảng 5.35-5.63m. Đây là 2 sông chính cung cấp nước cho các hoạt động nông nghiệp. Bên cạnh đó, Hà Nội có 4 con sông nhỏ khác với chức năng điều hòa và thoát nước thải cho cả thành phố là sông Tô Lịch, sông Sét, sông Lừ và sông Kim Ngưu.

Với vị trí địa lý tương đối thuận lợi, Hà Nội là không chỉ là thủ đô của cả nước mà còn là đầu mỗi giao thương đường bộ, đường sắt và đường hàng không. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Hà Nội vào khoảng 11%/năm kể từ 1990. GDP bình quân đầu người của Hà Nội năm 2004 đạt khoảng 18,2 triệu đồng theo giá hiện hành. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng đã giúp Hà Nội trở thành trung tâm thương mại của cả nước. Hệ thống nhà hàng, khách sạn và văn phòng đại diện đã và đang được xây dựng và hoàn thiện.

Kinh tế tăng trưởng nhanh luôn gắn liền với những ảnh hưởng tiêu cực về môi trường. Ô nhiễm nguồn nước, không khí, lạm dụng phân hoá học và thuốc trừ sâu là những ví dụ cụ thể về những hệ quả không mong muốn từ phát triển kinh tế của Hà Nội, trong đó, ô nhiễm nguồn nước đã và đang là vấn đề nghiêm trọng nhất. Trên thực tế, chất lượng nước mặt của các sông và hồ quanh Hà Nội đã và đang xuống cấp nghiêm trọng. Nồng độ BOD5, NH4+ và COD trong nước mặt cao hơn gấp từ 2 tới 10 lần nồng độ tối đa cho phép. Nồng độ NO3, TSS, tổng coliform, photpho cũng cao hơn tiêu chuẩn cho

196

Đo lường tác động môi trường …

phép từ 2-20 lần. Sông Nhuệ và 4 con sông nhỏ khác đã và đang được xem xét cải tạo do tình trạng ô nhiễm quá cao.

Hệ thống thoát nước ở Hà Nội là một hệ thống phức tạp, kết hợp nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước mưa hoạt động theo cơ chế tự chảy. Nước thải từ Hà Nội được dẫn vào những con sông nhỏ và hòa vào dòng chảy của sông Nhuệ sau khi được đưa về đầm chứa ở Thanh Liệt. Các con sông nhỏ cũng chính là nguồn cung cấp nước tưới tiêu cho các quận huyện Thanh Trì và Từ Liêm. Sông Tô Lịch, từng là một dòng sông xanh hiền hòa phục vụ cho giao thông đường sông nay đã trở thành một dòng mương đen. Hệ thống ao hồ – một nét hấp dẫn riêng của Hà Nội cũng đã và đang đối mặt với nguy cơ ô nhiễm bởi sự xâm thực của nước thải. Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Hồ Trúc Bạch, Hồ Bảy Mẫu và các hồ khác đang trong tình trạng phú dưỡng.

Bảng 1: Chất lượng nước ở các hồ Hà Nội

Các chỉ số Hồ Tây Hồ Bảy Mẫu Hồ Hoàn Kiếm

Hồ Thủ Lệ

Nhiệt độ, 0C 20-30 20-31 20-30 20-30

DO, mg/l 6.44 1.0 6.0 3.20

COD, mg/l 34.00 310.00 281.00 110.00

BOD, mg/l 8.10 81.0 126.0 -

NH4+ 0.56 3.50 - -

NO2- 0.09 3.60 - -

PO43+ 0.48 0.80 0.10 0.15

Nguồn: Hà Nội DOSTE, Hiện trạng và đánh giá tác động môi trường Hà Nội

Hàng ngày, khoảng 500.000m3 nước thải chưa qua xử lý được thải trực tiếp vào hệ thống thoát nước của Hà Nội trong đó hơn 100.000 m3 là nước thải của các nhà máy. Phần còn lại là nước thải sinh hoạt và nước thải bệnh viện. Hệ thống thoát nước của Hà Nội yếu kém vốn chỉ phù hợp với chức năng thoát nước mưa đã góp phần làm cho mức độ ô nhiễm ngày một gia tăng.

197

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Nước thải sinh hoạt

Dân số Hà Nội đang tăng lên nhanh chóng. Hiện tại, Hà Nội có khoảng 3,12 triệu dân trong đó có 1,95 triệu người sinh sống trong khu vực nội thành. Bên cạnh đó, hàng ngày có hơn 12 ngàn du khách và hàng ngàn công nhân từ các tỉnh thành lân cận tới Hà Nội kiếm việc làm. Khối lượng nước thải sinh hoạt của Hà Nội khoảng 350.000 m3 ngày đêm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng nước thải của thành phố. Nước từ rác thải, các nhà vệ sinh không đúng qui cách là nguồn gây ô nhiễm chủ yếu. Khối lượng chất thải trung bình trên đầu người là 6-12g nitơ, 2-3g photpho và hơn 400 loại vi khuẩn khác trong đó có hàng trăm loại có khả năng gây hại cho sức khỏe con người. Nước thải sinh hoạt có nồng độ nitơ, photpho, vi khuẩn đặc biệt là coliform rất cao. Nước thải, nước đọng và nước cống là nơi trú ngụ lý tưởng cho các loại vi khuẩn, muỗi và côn trùng gây hại có khả năng gây ra bệnh dịch trên diện rộng.

Nước thải công nghiệp

Nước thải công nghiệp là tác nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội. Khoảng 274 nhà máy lớn tọa lạc trong thành phố trong đó có 68 nhà máy gây ô nhiễm nặng cùng với 540 doanh nghiệp dịch vụ, 450 hợp tác xã thủ công và hơn 3350 doanh nghiệp nhỏ đã cộng hưởng làm chất lượng môi trường ở Hà Nội ngày càng xuống cấp. Hàng ngày có hơn 100.000 m3 nước thải công nghiệp chưa qua xử lý được đưa thẳng vào hệ thống thoát nước với hàng tấn hóa chất độc hại có hàm lượng metal, chất hữu cơ và vô cơ cao. Nồng độ BOD và COD cao đã làm giảm lượng oxy hòa tan trong nước, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của thủy sinh vật và nguồn nước. Phần lớn các nhà máy ở Hà Nội đang sử dụng thiết bị công nghệ lạc hậu, không có hệ thống xử lý nước thải. Lượng chất thải từ các nhà máy lạc hậu cao hơn nhiều lần so với định mức công nghệ. Các doanh nghiệp gây ô nhiễm thường thiếu vốn và không có khả năng tiếp cận với công nghệ phù hợp. Do đó, vấn đề ô nhiễm vẫn là một bài toán chưa có lời giải đối với Hà Nội.

198

Đo lường tác động môi trường …

Nước thải bệnh viện

Nước thải bệnh viên đặc biệt nguy hại và cần được quản lý hiệu quả. Nghiên cứu của NIOEH (2003) cho thấy, Hà Nội luôn phải đón nhận một lượng nước thải khổng lồ từ bệnh viện có tiềm năng gây ô nhiễm cao. Hầu hết các bệnh viện ở Hà Nội không có hệ thống xử lý nước thải. Một số bệnh viện đã lắp đặt hệ thống này nhưng vẫn chưa đưa vào sử dụng bởi chi phí vận hành quá cao hoặc không có hệ thống thoát nước phù hợp. Bảng 2 thể hiện hệ thống nước thải của 14 bệnh viện ở Hà Nội.

Bảng 2: Tình hình quản lý nước thải tại các bệnh viện ở Hà Nội

Nước thải TT Bệnh viện

Diện tích (ha)

Số giường Hàng

ngày (m3/ngày)

Hệ thống xử lý

1 Bệnh viện Bạch Mai 14,00 1.000 450 Không có

2 Bệnh viện Saint Paul 1,92 500 300 Không có

3 Bệnh viện Đống Đa 2,00 300 160 Không có

4 Bệnh viện y học dân tộc 250 100 Không có

5 Viện K 150 30 Không có

6 Bệnh viện Hữu Nghị 2,00 350 700 Có

7 Viện Nhi 450 600 Có

8 Bệnh viện Phụ sản 2,20 200 120 Không có

9 Viện Mắt TW 0,25 220 148 Không có

10 Viện 108 10,00 600 350 Có

11 Viện Lao 3,30 375 200 Có

12 Bệnh viện Việt Đức 3,00 600 300 Có

13 Bệnh viện Hai Bà Trưng 375 Có

14 Bệnh viện đường sắt 300 170 Không có

Nguồn: Nghiên cứu của NIOEH (2003), Quản lý chất thải bệnh viện

199

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Nước thải từ hoạt động nông nghiệp

Hiện nay nhiều loại hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng một cách rộng rãi và phổ cập trong sản xuất nông nghiệp nhằm tăng sản lượng và năng suất cây trồng. Các loại phân hóa học có nồng độ ammoniac, nitơrat, photpho cao là nguyên nhân gây nên hiện tượng phú dưỡng của các hồ, ao và sông ngòi. Các loại thuốc trừ sâu gây nguy hại cho sinh vật bởi thành phần độc tố cũng được nông dân sử dụng khá phổ biến. Bên cạnh đó, nông dân ngoại thành Hà Nội có thói quen sử dụng các loại phân bắc, phân chuồng trong hoạt động nông nghiệp. Hoạt động nay tiềm ẩn nguy cơ cao đối với sức khoẻ con người.

Nói tóm lại, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ở Hà Nội đã và đang tạo ra sức ép lớn đối với môi trường. Tuy mới ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, vấn đề môi trờng ngày càng trở nên trầm trọng ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. Công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý hạn chế, sự thiếu hiểu biết về chất lượng môi trường là những yếu tố cơ bản làm cho chất lượng môi trường ngày càng xuống cấp ở Hà Nội.

3. Nhận thức xã hội về các vấn đề môi trường

Có thể khẳng định, công tác bảo vệ môi trường không phải là công việc riêng của các ngành chức năng. Bản thân nó, với tính chất và phạm vi rộng lớn của mình cần được sự quan tâm, sự tham gia tự nguyện và tích cực của nhiều tầng lớp trong xã hội.

Tuy nhiên đại đa số quần chúng ít cảm nhận được lợi ích thu được từ việc bảo vệ môi trường. Ngay cả trong đội ngũ các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và cộng đồng, nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường còn rất mơ hồ và chưa đầy đủ. Có thể lấy Hà Nội là một ví dụ cụ thể.

200

Đo lường tác động môi trường …

Sự quan tâm của Chính phủ

Vấn đề môi trường lần đầu tiên được chính thức đề cập ở cấp độ nhà nước vào những năm 1990 trước việc suy giảm chất lượng môi trường nghiêm trọng do các hoạt động kinh tế ở Việt Nam. Mặc dù trên thức tế những suy tính về vấn đề môi trường đã được nhắc tới vào khoảng những năm 1960, song quyền được hưởng chất lượng môi trường trong sạch chỉ được bổ sung vào Hiến pháp năm 1992. Tiếp sau đó, hàng loại các văn bản pháp luật liên quan tới môi trường được ban hành và các cơ quan quản lý được thành lập. Năm 1993, Ban quản lý môi trường trực thuộc Thủ tướng Chính phủ được nâng cấp thành Bộ Khoa Học Công nghệ môi trường (MOSTE). Năm 1992, Luật môi trường chính thức được thông qua với các điều khoản cụ thể liên quan tới chất lượng nước, không khí, chất thải rắn v.v..

Tuy nhiên sự quan tâm của các cấp lãnh đạo đó có lẽ vẫn chưa thật đầy đủ. Chỉ lấy đơn cử 1 trong số rất nhiều vấn đề của quản lý nhà nước về môi trường là hệ thống tổ chức quản lý trong lĩnh vực bảo về môi trường để minh chứng.

Theo thống kê sơ bộ, hiện nay cả nước đã có hơn 300 đơn vị, tổ chức kinh tế xã hội đang hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến công tác bảo vệ môi trường. Hệ thống tổ chức quản lý ở Trung ương đã được hình thành tương đối đồng bộ từ Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường trước đây, nay là Bộ Tài nguyên và môi trường đến các Cục, Vụ, Viện nghiên cứu ở các bộ, tổng cục ở địa phương. 64 tỉnh thành trong cả nước đều có các đơn vị Sở, Chi cục, Công ty hoặc đơn vị tương đương quản lý và thực thi nhiệm vụ làm sạch môi trường. Các đơn vị này là lực lượng nòng cốt cho công tác bảo vệ môi trường ở địa phương. Tuy nhiên hệ thống quản lý môi trường còn nhiều bất cập, cơ cấu tổ chức quản lý còn chưa tương xứng với nhiệm vụ đặt ra. Một điều thật đáng ngạc nhiên là số lượng cán bộ của Cục Môi trường chỉ có khoảng 70 người, số cán bộ quản lý ở các tỉnh trung bình là 2-4 người. Tính chung trên cả nước tỷ lệ cán bộ quản lý môi trường là 4 người rên 1 triệu dân, trong khi đó tại các nước lân cận tỷ lệ này cao hơn nhiều lần, ví dụ như Trung Quốc 20 người/1 triệu dân, Thái Lan – 30 người, Campuchia – 100 người.

201

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Tại Hà Nội, số cán bộ của phòng quản lý môi trường chỉ có 15 người. Theo nghị định 67CP về phí nước thải, hơn 20.000 doanh nghiệp tại Hà Nội sẽ phải trả khoản phí này. Tuy nhiên, tổng phí nước thải thu được tại Hà Nội trong năm 2004 là 0, và số phí dự kiến thu được trong 6 tháng đầu năm 2005 là 600 triệu đồng. Trong khi đó, số phí thu được tại tp. HCM, Bình Dương, Sóc Trăng, Quảng Ninh cao hơn rất nhiều. Điều này thể hiện sự quá tải trong công tác quản lý tại Hà Nội. Ngoài ra, vấn đề thu phí và và quản lý phí không thuộc chức năng của cơ quan quản lý môi trường.

Bảng 3: Tình hình thu phí nước thải tại một vài địa phương (triệu đồng)

Tỉnh/Thành phố Ngày bắt đầu có hiệu lực

Tổng phí thu được năm

2004

Dự tính tổng phí trong 6 tháng đầu

năm 2005 1 Hà Nội 01/05/2004 0 600

2 Bình Dương 01/01/2004 800 1250

3 Đồng Nai 01/01/2004 1730 2000

4 Tp. Hồ Chí Minh 01/01/2004 290 2427

5 Quảng Ninh 01/01/2004 983 2250

6 Thái Nguyên 02/03/2004 395 638

7 Thừa Thiên Huế 01/01/2005 0 0

8 Hải Dương 01/01/2005 0 50

Nguồn: MONRE, Cục Môi trường

Một bất cập khác của công tác quản lý môi trường tại Hà Nội là đặt ra những mục tiêu môi trường quá kì vọng. Gần đây, UBND Thành phố Hà Nội đã phê duyệt “Chương trình hành động về bảo vệ môi trường của Thủ đô”. Theo đó, đến năm 2010, 20-25% tổng số nước thải của Hà Nội sẽ được xử lý hoàn toàn, 80% số KCN sẽ phải lắp đặt hệ thống xử lý nước thải. Tuy nhiên trên thực tế, tồn tại một khoảng cách quá lớn giữa khả năng và nhiệm vụ. Theo số liệu của Sở tài nguyên môi trường Hà Nội, mỗi ngày có khoảng 500.000 m3 nước thải được thải vào hệ thống cống của Thủ đô, trong đó có 100.000 m3 nước thải công nghiệp. Con số này sẽ đạt mức 700.000 m3 đến năm 2020. Phần lớn các nhà máy đều thải trực tiếp không qua xử lý. Có hơn 40 nhà máy lắp đặt hệ thống xử lý nước thải nhưng không vận hành. Kết quả điều tra của

202

Đo lường tác động môi trường …

Sở tài nguyên môi trường Hà Nội trong năm 2004 cho thấy, 90% cơ sở công nghiệp hoạt động trên địa bàn Hà Nội không có hệ thống xử lý nước thải. Toàn thành phố mới chỉ có 3 nhà máy xử lý nước thải tập trung với công suất hạn chế và phần lớn đang trong giai đoạn thi công. Có thể nói, bất cứ kế hoạch nào nếu bỏ qua yếu tố này khó trở thành hiện thực.

Có thể nói, vấn đề môi trường ở Hà Nội mới chỉ dừng lại ở chủ trương, chính sách, định hướng mà chưa tạo nên một sự quan tâm đích thực từ phía các nhà hoạch định chính sách.

Nhận thức môi trường của các doanh nghiệp

Mặc dù phát triển bền vững không chỉ thuộc trách nhiệm của riêng một ai, nhưng có thể thấy các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nguồn động lực chính thúc đẩy phát triển xã hội, phải gánh chịu những phần trách nhiệm to lớn nhất. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là làm sao vẫn tiếp tục phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo lợi nhuận và tăng trưởng, đồng thời vẫn đáp ứng những nhu cầu cấp thiết mà xã hội đặt ra. Phần lớn các nhà kinh doanh và các nhà quản lý luôn luôn giả định rằng lợi nhuận, tăng trưởng kinh tế là mong muốn cuối cùng và không có giới hạn.

Thực tế cho thấy từ trước đến nay, những định hướng chiến lược của công ty phụ thuộc rất nhiều vào các sức ép khác nhau như sức ép về sản xuất, sức ép về nhân sự và gần đây nhất là sức ép về thông tin và môi trường. Những thay đổi cơ bản trong chiến lược công ty có thể nhận thấy khá rõ nét thông qua mối quan tâm của các cổ đông về vấn đề môi trường và cả niềm tin rằng có một công ty “Xanh” là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cắt giảm chi phí và là chìa khoá mở rộng cánh cửa thị trường. Xu hướng hiện nay cho thấy các công ty đã và đang bắt đầu coi quản lý môi trường như là một công cụ mang tính chiến lược nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh.

Tại Việt Nam vấn đề môi trường chủ yếu được các công ty có vốn đầu tư nước ngoài quan tâm. Các doanh nghiệp Nhật Bản là những người luôn tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường, đặc biệt là là tiêu chuẩn nước thải. Một vài doanh nghiệp còn tự đặt ra các tiêu chuẩn cao hơn mức qui định của nhà

203

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

nước. Tại Khu công nghiệp Thăng Long hệ thống quản lý môi trường được xây dựng dựa trên kinh nghiệm của Nhật Bản. Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng cao đã góp phần cải thiện chất lượng môi trường tại Hà Nội.

Các doanh nghiệp nhà nước là những doanh nghiệp gây ô nhiễm nhất. Theo số liệu thống kê 90% các cơ sở sản xuất công nghiệp chưa có trạm xử lý nước thải. Hầu hết các khu công nghiệp cũ không có trạm xử lý nước thải tập trung. Nước thải công nghiệp phần lớn được xử lý sơ bộ rồi thải thẳng vào nguồn nước mặt gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Ngay cả những doanh nghiệp tiêu biểu về môi trường việc tuân thủ 100% các qui định vẫn là câu hỏi lớn2.

Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thoát khỏi thói quen bao cấp. Đại đa số các doanh nghiệp vẫn cho rằng, bảo vệ môi trường là công việc của nhà nước. Chương trình “Sản xuất sạch hơn” là một ví dụ điển hình.

Chương trình sản xuất sạch hơn (SXSH) được đưa vào Việt Nam từ năm 1996. Chương trình này thực sự phổ biến rộng rãi và áp dụng trình diễn kỹ thuật từ năm 1998 trong các ngành công nghiệp khác nhau. SXSH cho phép nâng cao hiệu suất sản xuất và giảm rủi ro đối với con người và môi trường. Đối với quá trình sản xuất, SXSH bao gồm giảm tiêu thụ nguyên liệu, năng lượng cho một đơn vị sảm phẩm, loại bỏ tối đa các vật liệu độc hại, giảm lượng và mức độ độc hại của tất cả các dòng chất thải trước khi ra khỏi quá trình. Đối với sản phẩm, SXSH tập trung vào việc làm giảm các tác động tới môi trường trong suốt vòng đời của sản phẩm kể từ khi khai thác nguyên vật liệu thô đến khi thải bỏ cuối cùng. Tiềm năng của SXSH được thể hiện trong Bảng 4.

Lợi ích từ SXSH là to lớn. Nó cho phép giảm thiểu các vấn đề môi trường trong bối cảnh trình độ công nghệ thấp, nguồn lực đầu tư cho môi trường còn hạn chế. Tuy nhiên sau gần 7 năm áp dụng và triển khai trong công nghiệp, cho đến nay mới có 130 doanh nghiệp thuộc 28 tỉnh và thành phố tham gia

2 Tháng 7/2006 Sở tài nguyên môi trường Hà Nội đã tiến hành thanh tra 9 nhà máy thải nước thải trực tiếp ra sông Nhuệ và sông Đáy. Trong số 9 nhà máy có duy nhất 1 nhà máy đạt chuẩn cho phép.

204

Đo lường tác động môi trường …

các dự án trình diễn ở các cấp độ khác nhau trong khuôn khổ các dự án quốc gia và quốc tế tài trợ. Hiện tại mới khoảng gần 1% số doanh nghiệp tại tp. HCM áp dụng SXSH. Con số này ở Hà Nội thấp hơn rất nhiều, trong khi đó 90% các vụ khiếu kiện về môi trường đều có liên quan tới các cơ sở sản xuất công nghiệp.

Bảng 4: Tiềm năng của sản xuất sạch hơn

Các thông số Khả năng tiết kiệm (%)

Tiêu thụ nước Tiêu thụ điện và năng lượng Các nguyên liệu tạo chất thải nguy hại Tải lượng COD trong chất thải Tải lượng BOD trong chất thải TSS trong chất thải Kim loại nặng Giảm khí hiệu ứng nhà kính

40 – 70 20 – 50

50 – 100 30 – 75 50 – 75 40 – 60 20 – 50 20 – 50

Nguồn: Trung tâm sản xuất sạch Việt Nam

Việc công khai hóa hiện trạng môi trường của các doanh nghiệp nhằm tạo áp lực xã hội cho công tác bảo vệ môi trường dường như cũng chưa tạo được một động lực đáng kể cho việc cải thiện chất lượng môi trường tại các cơ sở sản xuất kinh doanh. Chương trình phân hạng doanh nghiệp đã được tiến hành thử nghiệm từ năm 2002. 50 doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp thực phẩm và dệt nhuộm đã được lựa chọn từ 216 cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn Hà Nội. Các tiêu chí được sử dụng để phân hạng thể hiện trong Bảng 5.

205

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Bảng 5: Tiêu chí phân hạng doanh nghiệp

Tiêu chí Nội dung

Tiêu chí 1

Tiêu chí 2

Tiêu chí 3

Tiêu chí 4

Tiêu chí 5

Tiêu chí 6

Tiêu chí 7

Tiêu chí 8

Tiêu chí 9

Tuân thủ TCVN 5945-1995 đối với BOD, COD, TSS, độ màu và độ pH

Sự khiếu tố của cộng đồng

Sự cố môi trường do cơ sở gây ra

Có lắp đặt hệ thống xử lý nước thải

Thực hiện tự quan trắc môi trường và hệ thống thông tin

Khối lượng nước sử dụng

Sự hợp tác của doanh nghiệp

Áp dụng chương trình sản xuất sạch hơn

Có chứng chỉ ISO 14000 về môi trường

Nguồn: Sở Khoa học Công nghệ môi trường Hà Nội

Các doanh nghiệp được xếp hạng theo 5 loại : Xuất sắc, khá, đạt, chưa đạt, kém.

Kết quả thu được trong quá trình khảo sát thật đáng quan ngại. Trong số các doanh nghiệp được khảo sát, không có doanh nghiệp nào đạt lọai khá và xuất sắc. Số doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn chỉ chiếm 10%, số doanh nghiệp chưa đạt chiếm 58% và kém chiếm 32%.

Bảng 6. Kết quả phân hạng doanh nghiệp

Tổng số Xuất sắc Khá Đạt Chưa đạt

Kém

Giai đoạn 1 Tổng số 50 0 0 5 29 16 % 100 0 0 10 58 32 Giai đoạn 2 Tổng số 50 1 1 10 24 14 % 100 2 2 20 48 28

Nguồn: Báo cáo tổng kết thực hiện phân hạng 50 doanh nghiệp công nghiệp thực phẩm và dệt nhuộm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Hanoi DOSTE

206

Đo lường tác động môi trường …

Thực tế cho thấy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đa phần còn khó khăn và chưa ổn định. Khả năng đầu tư cho mục tiêu dài hạn trong đó có môi trường là hạn chế. Tuy nhiên phải ý thức một cách rõ ràng rằng, bản chất của các vấn đề môi trường cũng chính là các vấn đề sản xuất, kinh doanh. Điều chỉnh quá trình hoạt động sản xuất/ công nghệ là việc thường ngày của doanh nghiệp hướng tới những lợi ích lâu dài, tăng cường hiệu quả của doanh nghiệp. Đây là những phẩm chất và đòi hỏi trong xu thế phát triển hiện nay nhằm tạo khả năng đáp ứng những đòi hỏi về tiêu chuẩn môi trường cách chủ động hơn, phù hợp hơn.

Có thể kết luận rằng phần lớn các doanh nghiệp ở Hà Nội chưa có mối quan tâm đích thức về vấn đề môi trường. Môi trường vẫn chưa được các doanh nghiệp nhìn nhận như một khả năng sinh lời, một cơ hội kinh doanh mà thường bị xem xét như một gánh nặng cần né tránh.

Ý thức về môi trường của người dân

Một trong những vấn đề được sự đồng thuận cao là người dân phải được đặt vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển và việc bảo vệ môi trường cần phải trở thành ý thức hệ của mọi người. Đó chính là lý do tại sao nâng cao ý thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường là vấn đề trọng tâm thường thấy trong nhiều dự án quốc tế và chính phủ ở Hà Nội. Từ khi Luật Bảo vệ Môi trường có hiệu lực, một số tiến bộ nhất định trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã đạt được. Ở Hà Nội, thói quen của cộng đồng về bảo vệ môi trường đã được cải thiện. Người dân thôi không vứt rác ra đường để tránh gây ô nhiễm, bắt đầu thu rác làm phân xanh, và sẵn sàng áp dụng sản xuất công nghệ sạch. Rất nhiều nơi ở Hà Nội, đặc biệt ở vùng ngoại thành, việc bảo vệ môi trường được qui định tại các cụm dân cư. Người dân địa phương đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hoạch định và giám sát việc thực hiện các quy định đó. Đáng tiếc là việc bảo vệ môi trường vẫn chưa được thấm nhuần trong tất cả suy nghĩ và hành vi thường xuyên của tất cả mọi người.

207

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Một khảo sát nhỏ đã được tác giả tiến hành mùa hè 2005 tại Hà Nội dựa trên phiếu điều tra. Phần đầu yêu cầu các đối tượng điều tra đánh dấu mức độ quan trọng mà mọi người cho là phù hợp nhất đối với từng câu hỏi về các vấn đề môi trường. Phần hai yêu cầu đối tượng mô tả tình trạng môi trường tại địa phương mình đang sinh sống. Khảo sát được tiến hành tại 5 quận/huyện. 3 trong số đó tại quận nội thành bao gồm quận Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Thanh Xuân, và hai huyện ngoại thành là Gia Lâm và Thanh Trì. Trong mỗi quận/huyện 15 hộ gia đình được lựa chọn ngẫu nhiên với tổng số mẫu là 75 hộ.

Phần lớn những người trong diện khảo sát (98%) nhất trí rằng ngày nay vấn đề môi trường đang trở thành nguy cơ và cần phải được giải quyết. Đa số (67%) cho rằng nếu phát triển bền vững không được thực hiện một cách đúng đắn thì chất lượng môi trường sẽ trở nên tồi tệ hơn. Tuy nhiên mức độ nghiêm trọng của vấn đề môi trường thay đối theo địa phương. Kết quả khảo sát cho thấy vấn đề đáng quan ngại nhất ở vùng ngoại thành Hà Nội là ô nhiễm nước do lạm dụng phân hoá học và thuốc trừ sâu, trong khi vấn đề chủ yếu trong nội thành là ô nhiễm nước và không khí. Nhìn chung, ô nhiễm nước được xem là quan trọng nhất trong các vấn đề về môi trường ở Hà Nội. Kết quả khảo sát cho thấy có hai nhóm đối tượng: Nhóm quan tâm và nhóm không quan tâm đến chất lượng môi trường. Nhóm người quan tâm đến chất lượng môi trường bày tỏ mong muốn tham gia vào các hoạt động môi trường. Điều đó có nghĩa là nếu mọi người thực sự quan tâm, họ có thể tham gia một cách tích cực hơn và có khả năng đương đầu với những khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề về môi trường.

Tuy nhiên, 45% số người khảo sát cho rằng mặc dù vấn đề môi trường là quan trọng nhưng vấn đề cần phải giải quyết trước tiên là phát triển kinh tế. Tỷ lệ người trong nội thành đồng ý với ý kiến trên là 35%, trong khi số này ở ngoại thành là 60%. Những phản hồi từ phiếu điều tra cho thấy tại các nước đang phát triển như Việt Nam, một tỷ lệ tương đối lớn dân cư chỉ coi trọng vấn đề phát triển kinh tế. Hơn nữa, ý thức của người dân về vấn đề môi trường không thể cao trong khi mức sống đang ở mức thấp (Nguyễn Văn Thường, 2005).

208

Đo lường tác động môi trường …

Mặt khác, cách biệt trong phát triển kinh tế giữa các địa phương không phải là nguyên nhân duy nhất tạo ra sự cách biệt trong ý thức của mọi người về vấn đề môi trường và bảo tồn. Khảo sát cho thấy ở quận Hoàn Kiếm thu nhập hàng tháng của hộ gia đình cao hơn những quận khác trong Hà Nội, nhưng ý thức của người dân về việc bảo vệ môi trường lại trái ngược với điều đó. Vì vậy, có thể lập luận rằng mức độ phát triển kinh tế không phải là yếu tố duy nhất tác động đến ý thức của người dân. Những yếu tố khác là sự khác nhau về trình độ học vấn và mức độ nghiêm trọng của vấn đề môi trường tại các vùng.

Vai trò của cộng đồng, hội liên hiệp phụ nữ, đoàn thanh niên và các tổ chức khác trong việc bảo vệ môi trường được đánh giá cao và khẳng định ở Hà Nội kể cả nội và ngoại thành. Một ví dụ với tần số nhắc lại cao (90%) trong phiếu điều tra của trường hợp tại xã Văn Điển. Trước sức ép của cộng đồng, chính quyền và ban ngành địa phương đã bắt buộc những người gây ra ô nhiễm phải tuân thủ luật pháp.

Căn cứ vào kết quả khảo sát, chúng tôi có thể kết luận rằng phần lớn mọi người đều có ý thức về vấn đề môi trường nhưng kiến thức chưa thật sâu rộng. Điều này phụ thuộc vào vị trí địa lý, trình độ học vấn và nhiều yếu tố khác. 80% số người được khảo sát cho rằng bảo vệ môi trường là trách nhiệm của chính phủ và chỉ có công nghệ hiện đại mới giải quyết được các vấn đề môi trường. Mối quan hệ giữa Chính phủ - Doanh nghiệp và cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường chưa được nhìn nhận và thực hành đầy đủ.

4. Khung phân tích tác động môi trường của tăng trưởng kinh tế vùng

Phần này sẽ tập trung nghiên cứu khung phân tích tác động môi trường của tăng trưởng kinh tế vùng dựa tên mô hình I-O liên vùng giữa Hà Nội, Tp. HCM và ROV. Việc xây dựng mô hình I-O liên vùng giữa Hà Nội, Tp. HCM

209

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

và ROV dựa trên mô hình do GS. Miyazawa đề xuất năm 1976, được phát triển bởi Miller và Blair năm 1985, Sonis và Herwing năm 1993.

Mô hình I-O liên vùng sử dụng trong nghiên cứu này là một cách phát triển mô hình I-O do AREES thực hiện năm 2005. Tác động liên vùng của các hoạt động kinh tế có thể mô phỏng theo hình sau:

Hình 1. Tác động liên vùng trong mô hình I-O 3 vùng

Theo mô hình trên, hoạt động kinh tế của vùng 1 sẽ dẫn đến sự gia tăng nhu cầu cuối cùng tại vùng 1. Việc gia tăng nhu cầu cuối cùng của vùng 1 dẫn đến sự gia tăng đầu ra của vùng này. Điều này thúc đẩy các hoạt động thương mại của vùng 2 và vùng 3. Tác động này gọi là tác động lan toả. Nhằm thoả mãn nhu cầu của vùng 1, các vùng 2 và 3 phải mở rộng sản xuất của mình. Đến lượt mình điều này có thể tạo ra sự gia tăng thêm về nhu cầu tại vùng 1. Và kết quả là sản lượng của vùng 1 lại tăng lên. Tác động bổ sung này được gọi là tác động ngược liên vùng.

Về mặt toán học, quan hệ cơ bản của mô hình I-O được viết như sau:

210

Đo lường tác động môi trường …

( ) YAIX 1−−= (1)

với

X vector tổng đầu ra,

(I-A)-1

ma trận nghịch đảo Leontief và

Y vector tổng nhu cầu cuối cùng

Để xây dựng bảng I-O liên vùng, chúng tôi giả định nền kinh tế Việt Nam được tạo bởi 3 vùng: Hà Nội, Tp. HCM và phần còn lại của Việt Nam (ROV). Như vậy ma trận A có thể được viết lại như sau:

⎥⎥⎥

⎢⎢⎢

⎡=

333231

232221

131211

AAAAAAAAA

A (2)

Trong phương trình (2) mỗi phần tử là một ma trận cho bởi Aij

với i là vùng

sản xuất và j là vùng tiêu thụ. Theo đó A11

, A22

và A33

là ma trận nội tại của

Hà Nội, Tp. HCM và ROV, các ma trận còn lại là ma trận thương mại giữa các vùng. Ví dụ, ma trận A

21 cho biết Hà Nội sử dụng các các sản phẩm của

Tp. HCM.

Tương tự như vậy, phương trình (1) có thể được viết lại dưới dạng ma trân liên vùng như sau:

211

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

⎥⎥⎥

⎢⎢⎢

⎥⎥⎥

⎢⎢⎢

−−−−−−−−−

=⎥⎥⎥

⎢⎢⎢

⎡−

333231

232221

1312111

333231

232221

131211

333231

232221

131211

YYYYYYYYY

A1AAAA1AAAA1

XXXXXXXXX

(3)

Trong trường hợp này, X11

cho biết sản lượng tạo ra tại vùng 1 do nhu cầu

cuối cùng của vùng 1, X12

cho biết sản lượng của vùng được tạo ra do nhu

cầu cuối cùng của vùng 2. Tương tự như vậy, nếu mỗi vùng có n ngành thì ma trận nghịch đảo Leontief cỡ 3nx3n sẽ được phân rã một cách tương tự.

Các ma trận (1 - A11

), (1 - A22

) và (1 - A33

) đo lường tác động của của mỗi

vùng do sự thay đổi về nhu cầu của chính vùng đó. Cột tổng của các ma trận này cho biết tác động nội vùng, các ma trận còn lại cho biết tác ngược liên vùng.

Về cơ bản mô hình I-O liên vùng có thể mở rộng để đo lường các tác động môi trường của các hoạt động kinh tế. Hệ số phát thải của các ngành phụ thuộc chủ yếu vào mức độ phát thải trực tiếp của các hoạt động sản xuất. Tuy nhiên đầu ra của ngành này lại là đầu vào của các ngành khác do vậy sự phát triển của một ngành có thể tạo ra tác động môi trường của ngành khác.

Hệ số phát thải môi trường sử dụng trong mô hình này được hình thành thông qua 3 bước sau. Bước 1: ước tính mức độ phát thải cho cả nước và từng vùng nghiên cứu. Bước 2: Phân bổ mức độ phát thải cho từng ngành. Sự phân bổ này phụ thuộc vào bản chất của chất gây ô nhiễm và đặc điểm của từng ngành. Bước 3: Tính hệ số phát thải của từng ngành tại từng vùng nghiên cứu.

Ma trận hệ số chất thải trực tiếp có thể viết dưới dạng sau: *V

212

Đo lường tác động môi trường …

⎥⎥⎥

⎢⎢⎢

=*3

*2

*1

*

V000V000V

V (4)

Với:

*1V , và ma trận hệ số chất thải trực tiếp của các vùng 1, 2

và 3 tương ứng.

*2V *

3V

Ma trận chất thải tạo bởi nhu cầu cuối cùng được viết lại:

V = V*X = V*. B.Y (5)

Với

V ma trận tổng số chất thải tạo ra bởi các phần tử của nhu cầu cuối cùng và thương mại liên vùng,

V* ma trận hệ số chất thải trực tiếp

X ma trận đầu ra

B = (I-A)-1 ma trận nghịch đảo liên vùng

V có thể phân rã thành V1, V2, V3.

V1 là ma trận tổng tác động của chất thải phát sinh tại vùng 1, V2 là ma trận tổng tác động của chất thải phát sinh tại vùng 2 và V3 là ma trận tổng tác động của chất thải phát sinh tại vùng 3.

Đối với mỗi vùng ma trận tác động liên vùng bao gồm 3 phần tử: tác động bên trong, tác động lan tỏa và tác động ngược liên vùng.

213

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Vn = V1n + V2

n + V3n (6)

Với V1n = V1

* + V1’ n là tác động bên trong

trong đó V1* ma trận hệ số chất thải trực tiếp của vùng n

V1’ n ma trận hệ số chất thải gián tiếp của vùng n

V2n ma trận tác động lan toả

V3n ma trận tác động ngược liên vùng

Nhìn chung, vấn đề ô nhiễm môi trường có thể chia thành 4 nhóm (1) ô nhiễm nước (2) ô nhiễm không khí (3) Chất thải rắn (4) các loại ô nhiễm khác. Tuy nhiên việc chọn lựa các tiêu chí môi trường phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của các khu vực nghiên cứu.

Nói tóm lại, mô hình hạch toán môi trường I-O liên vùng cho phép phân tích các tác động liên ngành và liên vùng, đồng thời cho phép xác định những nhân tố ảnh hưởng xuất phát từ nội tại cũng như bên ngoài các vùng đó.

5. Kết quả nghiên cứu

Phần này trình bày những kết quả nghiên cứu đạt được dựa trên mô hình I-O liên vùng đặc biệt chú trọng tới Hà Nội.

Nhân tử môi trường nội vùng được thể hiện trong bảng 7. Bảng này được chia thành nhiều cột gồm tác động nội vùng, tác động bên trong, tác động lan toả. Ví dụ, tại cột tác động nội vùng của Hà Nội, hệ số đối với ngành Nguyên liệu sản xuất là 0.000455. Điều này có nghĩa là cứ tạo ra 1 triệu đồng nhu cầu cuối cùng của ngành này tại Hà Nội thì sẽ tạo ra đồng thời 0.000455 tấn BOD trong đó 0.000387 tấn BOD thải ra tại Hà Nội và 0.000068 tấn còn lại thải ra

214

Đo lường tác động môi trường …

tại các địa phương khác. Số liệu tương tự của Tp. HCM và phần còn lại của Việt Nam là 0.000538 và 0.010850, cho thấy cứ mỗi triệu đồng nhu cầu cuối cùng về Nguyên liệu sản xuất của Tp. HCM và ROV sẽ tạo ra 0.000538 và 0.010850 tấn BOD. Đối với hầu hết các ngành nghiên cứu, nhân tử nội vùng của ROV đều cao hơn Hà Nội và Tp. HCM.

Về tác động bên trong của mỗi vùng, rất dễ nhận thấy phần lớn các tác động môi trường nảy sinh đều chủ yếu giới hạn trong phạm vi địa phương sản xuất. Nhân tử bên trong cao hơn rất nhiều so với nhân tử lan toả. Tác động môi trường nội vùng chiếm tới 54-84% tác động môi trường của Hà Nội, 63-86% của Tp. HCM và 61-86% của ROV. Nếu xét trên góc độ địa lý, điều này hoàn toàn hợp lý. Nguồn ô nhiễm càng gần, tác động môi trường càng lớn.

Tuy nhiên ngoài tác động bên trong do ô nhiễm gây ra, các hoạt động kinh tế cũng có thể tạo ra nhiều vấn đề môi trường cho các địa phương khác. Sẽ rất lý thú nếu so sánh giá trị của nhân tử bên trong với nhân tử nội vùng thể hiện trong bảng 7. Như đã thấy, nhân tử nội vùng cao hơn nhân tử bên trong bởi nhân tử nội vùng bao gồm cả nhân tử lan toả. Ví dụ, khi nhu cầu cuối cùng của Hà Nội gia tăng, Hà nội sẽ cần thêm đầu vào từ các địa phương khác ngoài Hà Nội. Theo đó, sản xuất của các địa phương này sẽ gia tăng theo. Các tác động môi trường cũng diễn ra theo phương thức như vậy. Do đó bất cứ sự thay đổi nào về nhu cầu cuối cùng của Hà Nội cũng có thể tạo ra áp lực về môi trường cho các địa phương khác. Mặc dù tác động môi trường lan toả của Hà Nội, tp. HCM và ROV tương đối nhỏ so với tác động nội vùng, nhưng trong chừng mực nào đó điều này cũng thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các vùng.

Đối với phần lớn các ngành công nghiệp, tác động môi trường của chúng đối với Hà Nội thấp hơn so với Tp. HCM và ROV. Khi RGDP của Hà nội tăng lên 1 triệu đồng thì sẽ tạo ra trung bình 0.000337 tấn BOD tại Hà Nội. Con số tương tự ở Tp. HCM là 0.000372 tấn BOD và ROV là 0.010528 tấn BOD. Điều thể hiện sự phát triển của từng vùng có thể gây ra những đặc điểm khác nhau về môi trường cho chính địa phương đó. Hà Nội phát triển ít gây ô

215

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

216

Đo lường tác động môi trường …

nhiễm cho mình hơn so với Tp HCM và phần còn lại của Việt Nam. Nếu xem xét dưới góc độ kinh tế thông qua việc so sánh chỉ tiêu nhân tử đầu ra (OM) giữa Hà Nội, Tp. HCM và ROV có thể thấy đối với tuyệt đại bộ phận các ngành nghiên cứu chỉ tiêu OM của Hà Nội cao hơn hẳn các địa phương khác. Điều đó có nghĩa sự phát triển kinh tế của các ngành ở Hà Nội có tác động kích thích tăng trưởng các ngành khác cũng tại Hà Nội cao hơn so với các địa phương. Như vậy sự tăng trưởng của Hà Nội so với Tp. HCM và phần còn lại của Việt Nam xét về chất lượng đạt hiệu quả cao cả về kinh tế và môi trường.

iBảng 8: Nhân tử đầu ra của một số ngành tại Hà Nội, Tp. HCM và ROV

Nhân tử đầu ra Mã

ngành Ngành Hà Nội Tp. Hồ Chí

Minh ROV

1 Nông & ngư nghiệp 1.488 1.253 1.325

2 Lâm nghiệp 1.481 1.204 1.179

3 Khai khoáng 1.563 1.208 1.258

4 Chế biến thực phẩm, nước ngọt, thuốc lá 1.569 1.825 2.028

5 Các hàng hoá tiêu dùng khác 1.562 1.536 1.902

6 Nguyên liệu sản xuất 1.530 1.340 1.492

7 Hàng hoá vốn 1.566 1.264 1.655

8 Xây dựng 1.594 1.307 1.495

9 Giao thông 1.533 1.267 1.357

10 Thương mại 1.580 1.249 1.382

11 Y tế, giáo dục, dịch vụ xã hội 1.496 1.200 1.272

12 Các dịch vụ khác 1.495 1.238 1.471

Theo như quan sát, ngành gây ô nhiễm nhất ở Hà Nội là Nguyên liệu sản xuất

và sản hàng tiêu dùng với chỉ số ô nhiễm dao động trong khoảng từ 0,000347

đến 0,000455. Tình hình tương tự cũng quan sát được tại Tp. HCM. Đối với

ROV, tình hình có sự khác biệt. Ngành gây ô nhiễm nhất là Chế biến thực

phẩm, sản xuất nước ngọt và thuốc lá với chỉ số ô nhiễm cao hơn 0,017.

217

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Tuy nhiên vấn đề thú vị hơn cả là tác động thương mại giữa các vùng và tình

hình ô nhiễm. Hình 3 chỉ rõ tác động của Hà Nội tới Tp. HCM, ROV và

ngược lại. Dễ dàng nhận thấy Hà Nội có quan hệ mật thiết với ROV hơn so

với Tp. HCM. Ví dụ, nếu nhu cầu cuối cùng của ngành Chế biến thực phẩm,

sản xuất nước ngọt và thuốc lá của ROV tăng thêm 1 triệu đồng thì sẽ mức

độ ô nhiễm ở Hà Nội sẽ tăng thêm 0,004020 tấn BOD và Tp. HCM – là

0,003437 tấn. Tác động ở Hà Nội rõ nét hơn so với Tp. HCM. Mặt khác ảnh

hưởng của Hà Nội và Tp. HCM tới ROV là rất thấp. Điều này thể hiện các

nền kinh tế nhỏ luôn phụ thuộc các nền kinh tế có qui mô lớn hơn cả về kinh

tế và môi trường. Hà Nội cần nhiều đầu vào từ các địa phương khác hơn các

địa phương khác cần từ Hà Nội. Do vậy Hà Nội cũng chịu nhiều ảnh hưởng

hơn về môi trường từ các địa phương khác hơn.

Việc xem xét sự khác biệt về tác động môi trường của các ngành khác nhau

cũng hết sức quan trọng. Nó cho thấy, tác động tổng thể của sự thay đổi nhu

cầu cuối cùng không chỉ phụ thuộc vào địa điểm phát sinh mà còn phụ thuộc

vào đặc điểm các ngành cụ thể. Mặc dù nghiên cứu chỉ giới hạn trong 16

ngành nhưng ngành Chế biến thực phẩm, sản xuất nước ngọt và thuốc lá có

tác động môi trường cao nhất kể cả cấp độ nội vùng và liên vùng. Điều này

ngụ ý, bất cứ sự thay đổi dù rất nhỏ trong ngành này sẽ dẫn tới các tác động

to lớn về môi trường tại cấp độ địa phương cũng như quốc gia.

Một vấn đề cũng đáng quan tâm là chất lượng môi trường của các vùng nói

riêng và Việt Nam nói chung bị tác động không chỉ bởi các hoạt động kinh tế

trong phạm vi quốc gia nghiên cứu mà còn chịu tác động của các hoạt động

xuất nhập khẩu. Trong giai đoạn 2001-2005 hoạt động xuất nhập khẩu của

Việt Nam tăng trưởng với tốc độ cao, song Việt nam vẫn là nước nhập siêu.

Mặc dù cán cân thương mại đã được cải thiện đáng kể nhưng năm 2005 theo

dự báo sự chênh lệch giữa nhập khẩu và xuất khẩu là 4,65 tỷ USD. Tuy nhiên

trong nghiên cứu này do hạn chế về nguồn số liệu việc xem xét ảnh hưởng

của yếu tố nhập khẩu tới chất lượng môi trường của Hà Nội, Tp. HCM và

218

Đo lường tác động môi trường …

ROV chưa được đề cập tới. Song về mặt định tính có thể thể thấy đây là một

yếu tố không nhỏ tác động tiêu cực tới tình hình môi trường ở Việt Nam

Hình 3: Tác động liên vùng

6. Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho phép rút ra một số kết luận về chiến lược phát triển của Hà Nội.

Thứ nhất, phần lớn các đối tượng hữu quan tại Hà Nội từ các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp đến cộng đồng dân cư đều nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề môi trường. Tuy nhiên, đại bộ phận đều cho rằng đối

219

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

với các nước đang phát triển như Việt Nam vấn đề phát triển kinh tế phải được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa nhận thức về môi trường của các đối tượng trong xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với doanh nghiệp, nhân tố quan trọng là hình thức sở hữu. Đối với cộng đồng dân cư, nhận thức phụ thuộc vào địa điểm cư trú, thu nhập và trình độ học vấn.

Thứ hai, các đối tượng hữu quan phần lớn tin rằng bảo vệ môi trường là trách nhiệm của chính phủ và chỉ có công nghệ hiện đại mới giải quyết được các vấn đề môi trường. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là sự thiếu hiểu biết sâu sắc về vấn đề môi trường. Mối quan hệ giữa Chính phủ - Doanh nghiệp và cộng đồng trong quản lý môi trường rất mờ nhạt. Nhìn chung, môi trường chưa thật sự được coi là vấn vấn đề ưu tiên trong chiến lược phát triển của Thủ đô. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự xuống cấp nhanh chóng của chất lượng môi trường tại Hà Nội.

Thứ ba, bằng cách sử dụng mô hình I-O liên vùng, chúng tôi đã đưa ra khung đo lường tác động môi trường của tăng trưởng kinh tế vùng. Lấy Hà Nội làm ví dụ cụ thể, nghiên cứu đã chỉ ra những tác động tiêu cực về môi trường của các hoạt dộng kinh tế của Hà Nội tới các địa phương khác và ngược lại. Mặc dù mới chỉ là nghiên cứu ban đầu, nhưng kết quả phân tích phần nào cũng làm rõ hơn quan hệ tương hỗ giữa các vùng, vốn là một chủ đề được quan tâm trong quá trình hoạch định chính sách.

Cuối cùng, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, chiến lược phát triển của mỗi địa phương phải đặt trong mối quan hệ với các địa phương khác. Chiến lược phát triển của Hà Nội, Tp. HCM hay bất cứ tỉnh/ thành phố nào phải thống nhất với các địa phương khác và của cả nước. Chiến lược phát triển của Việt Nam tương tự phải là một hợp phần của chiến lược phát triển của cả khu vực Đông Nam Á cũng như thế giới. Bất cứ chiến lược phát triển nào nếu bỏ qua yếu tố này chắc hẳn sẽ khó thành công.

220

Đo lường tác động môi trường …

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Anh:

1. Akita Takahiro, and Mitsunari Ogawa (2000), Trade Energy and the Environment: An International Environmental Input-Output Analysis of CO2 Emissions between China and Japan, Journal of Econometric Studies of Northeast Asia, Vol.2, No.1, pp.41-84. (UNU/IAS Working Paper No. 77, Institute of Advanced Studies, United Nations University, January).

2. Akita, Takahiro (1998), An Environmental I-O Structural Decomposition Analysis of Chinese SO2 Emissions: A Comparison with Japanese Emission Levels, UNU/IAS Working Paper No. 55, Institute of Advanced Studies, United Nations University, August.

3. B. Madsen, C.Jensen-Butler, J. Birk Mortensen, A.M. Bruun Christensen, eds (1996), Modeling the Economy and the Environment, Springer-Verlag Berlin.

4. Hewings, G.J.D., M. Sonis, M. Madden and Y. Kimura, eds (1999), Understanding and Interpreting Economic Structure, Springer.

5. Kwan Moon, K., Secretario, F. and Dakila, C.G. (2002), Structural Analysis of the Metro-Manila Economy Based on Inter-regional Input-output Approach, Tokyo, Japan.

6. Leontief, W. (1970), Environmental repercussions and the economic Structure – An input-Output Approach, Review of Economics and Statistics, Vol.LII, pp.262-271.

7. Miller, Ronal E., and Peter D. Blair (1985), Input-output Analysis: Foundations and Extension, Prentice Hall, New Jersey.

8. Miyazawa, K. (1976), Input-output Analysis and the Structure of Income Distribution, Heidenlberg, Springer-Verlag, Berlin.

221

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

9. Sonis, M., and G.J.D. Hewings (1993), Hierarchies of Regional Sub-structures and their Multiplier within Input-output Systems: Miyazawa Revisited, Hitotsubashi Journal of Economics, Vol.34, pp.33-44.

10. South Asia Regional Committee for START and Netherlands Foundation for the Advancement of Tropical Research (2000), Land-Ocean Interactions in the Coastal Zone, LOICZ Reports and Studies, No.17.

Tiếng Việt: 1. Bùi Trinh (2001), Mô hình cân đối liên ngành và các ứng dụng, Nhà

xuất bản Thống kê, Hà Nội

2. Nguyễn Văn Thường (2005), Những rào cản đối với phát triển kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội

3. Sở Khoa học, Công nghệ & Môi trường Hà Nội (1996-2004), Hiện trạng và đánh giá tác động môi trường của Hà Nội

4. Tổng cục Thông kê (2003), Bảng cân đối liên ngành (Input – Output: IO) của Việt Nam năm 2000, Nhà xuất bản thống kê

5. Viện kỹ thuật nhiệt đới và bảo vệ môi trường (1998), Đánh giá tác động môi trường của quá trình phát triển kinh tế xã hội của Tp. HCM, Biên Hoà, Vũng Tàu

6. Viện y học lao động và vệ sinh môi trường (2003), Quản lý chất thải rắn tại Hà Nội

222

Đo lường tác động môi trường …

223

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

224

Giấy phép xuất bản số: 680-2006/CXB/06-178/LĐXH, do Nhà xuất bản Lao động - Xã hội cấp ngày 11 tháng 12 năm 2006. In 500 cuốn, khổ 16x24cm. Thiết kế tại Công ty In Hoàng Minh.