cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự...

62
BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI TÓM TẮT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2008-2009, PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ NĂM HỌC 2009-2010 Bản tin Khoa học Cuối tháng 8/2009 nhà trường đã tổ chức tổng kết năm học 2008-2009 nhằm đánh giá tình hình hoạt động và đề ra phương hướng nhiệm vụ cho năm học mới 2009-2010. Tình hình hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học trong năm học 2008-2009 có những điểm nổi bật như sau: Về đào tạo: Trong năm học nhà trường đã triển khai tuyển sinh, đào tạo trên tất cả các bậc học và hình thức từ cao đẳng trở xuống, với 7 chuyên ngành cao đẳng (CĐ) - 1080 sinh viên, 8 chuyên ngành trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) - 808 học sinh và nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng khác theo nhu cầu của các địa phương và doanh nghiệp; trong đó có 3 chuyên ngành CĐ và một số chương trình đào tạo ngắn hạn mới. Công tác giảng dạy và quản lý đào tạo đã được thực hiện đúng quy chế và có chất lượng khá tốt. Cơ sở vật chất phục vụ dạy học, chương trình, đề cương chi tiết học phần và tài liệu học tập cho HSSV được đảm bảo khá đầy đủ theo yêu cầu. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của HSSV được tăng cường, ngày càng nghiêm túc, chặt chẽ. Chất lượng đào tạo được chú trọng và ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thành tích và ưu điểm nêu trên, năm học vừa qua do nhà trường phải đối mặt với nhiều khó khăn khác nhau, đặc biệt là cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên nên vẫn còn một số hạn chế nhất định trong công tác đào tạo. Việc chấp hành quy định trong giảng dạy của một số giảng viên chưa tốt. Công tác quản lý đào tạo trên một vài mặt chưa đạt được hiệu quả cao. Kết quả học tập và rèn luyện của HSSV theo điểm số nhìn chung là thấp hơn năm học trước. Về nghiên cứu khoa học: Từ đầu năm học nhà trường đã triển khai cho cán bộ, giảng viên và HSSV đăng ký đề tài nghiên cứu khoa học. Kết quả đã có 18 đề tài được đăng ký và nhà trường duyệt triển khai thực hiện 9 đề tài. Trong đó có 3 đề tài về phát triển chương trình giáo dục (các chuyên ngành đào tạo bậc CĐ và bồi dưỡng nghề ngắn 1

Transcript of cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự...

Page 1: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

TÓM TẮT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2008-2009, PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ NĂM HỌC 2009-2010

Bản tin Khoa học

Cuối tháng 8/2009 nhà trường đã tổ chức tổng kết năm học 2008-2009 nhằm đánh giá tình hình hoạt động và đề ra phương hướng nhiệm vụ cho năm học mới 2009-2010.

Tình hình hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học trong năm học 2008-2009 có những điểm nổi bật như sau:

Về đào tạo: Trong năm học nhà trường đã triển khai tuyển sinh, đào tạo trên tất cả các bậc học và hình thức từ cao đẳng trở xuống, với 7 chuyên ngành cao đẳng (CĐ) - 1080 sinh viên, 8 chuyên ngành trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) - 808 học sinh và nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng khác theo nhu cầu của các địa phương và doanh nghiệp; trong đó có 3 chuyên ngành CĐ và một số chương trình đào tạo ngắn hạn mới. Công tác giảng dạy và quản lý đào tạo đã được thực hiện đúng quy chế và có chất lượng khá tốt. Cơ sở vật chất phục vụ dạy học, chương trình, đề cương chi tiết học phần và tài liệu học tập cho HSSV được đảm bảo khá đầy đủ theo yêu cầu. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của HSSV được tăng cường, ngày càng nghiêm túc, chặt chẽ. Chất lượng đào tạo được chú trọng và ngày càng được nâng cao.

Bên cạnh những thành tích và ưu điểm nêu trên, năm học vừa qua do nhà trường phải đối mặt với nhiều khó khăn khác nhau, đặc biệt là cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên nên vẫn còn một số hạn chế nhất định trong công tác đào tạo. Việc chấp hành quy định trong giảng dạy của một số giảng viên chưa tốt. Công tác quản lý đào tạo trên một vài mặt chưa đạt được hiệu quả cao. Kết quả học tập và rèn luyện của HSSV theo điểm số nhìn chung là thấp hơn năm học trước.

Về nghiên cứu khoa học: Từ đầu năm học nhà trường đã triển khai cho cán bộ, giảng viên và HSSV đăng ký đề tài nghiên cứu khoa học. Kết quả đã có 18 đề tài được đăng ký và nhà trường duyệt triển khai thực hiện 9 đề tài. Trong đó có 3 đề tài về phát triển chương trình giáo dục (các chuyên ngành đào tạo bậc CĐ và bồi dưỡng nghề ngắn hạn), 1 đề tài về biên soạn bài thực hành, 4 đề tài về sư phạm và 1 đề tài về quản lý giáo dục. Đến cuối năm học đã nghiệm thu được 5 đề tài và tiếp tục hoàn thiện, nghiệm thu trong tháng 9/2009 2 đề tài, còn lại 2 đề tài vì lý do khách quan chuyển tiếp sang năm học 2009-2010.

Bên cạnh việc đăng ký và thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, cán bộ và giảng viên còn có nhiều hình thức hoạt động khoa học khác khá tích cực như viết bài báo đăng trên các tạp chí và Bản tin Khoa học của trường; sinh hoạt học thuật tại khoa/bộ môn; biên soạn lại và phát triển các chương trình giáo dục trình độ TCCN, biên soạn đề cương chi tiết học phần, bài giảng, bài tập, bài thực hành.... phục vụ cho việc dạy và học, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác đào tạo của nhà trường.

Hoạt động nghiên cứu khoa học trong HSSV bắt đầu được triển khai, tuy nhiên kết quả chưa đáng kể. Một số sinh viên bậc CĐ đã tham gia viết bài đăng Bản tin Khoa học.

So với các năm học trước, hoạt động nghiên cứu khoa học trong năm học vừa qua đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, so với tổng số giảng viên và HSSV trong toàn trường thì số lượng người tham gia và số đề tài nghiên cứu khoa học đã thực hiện còn thấp. Kinh nghiệm về nghiên cứu khoa học của giảng

1

Page 2: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

viên và HSSV còn hạn chế. Thời gian và lòng nhiệt tình dành cho nghiên cứu khoa học cũng chưa nhiều...

Trên cơ sở phân tích tình hình, đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ chung của ngành và của trường, công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học trong năm học mới 2009 - 2010 được định hướng như sau:

Về đào tạo: Phấn đấu thực hiện tốt chỉ tiêu tuyển sinh được giao, cụ thể là 1100 sinh viên CĐ chính quy dài hạn, 500 sinh viên CĐ chính quy liên thông, 500 học sinh TCCN chính quy, 400 học sinh TCCN vừa làm vừa học và 1200 học viên đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn. Triển khai đào tạo các chuyên ngành mới như Ngân hàng, Kế toán khách sạn-nhà hàng (bậc CĐ), Kế toán doanh nghiệp (bậc TCCN). Đảm bảo các yếu tố cần thiết cho công tác đào tạo, từ cơ sở vật chất đến chương trình, tài liệu và đội ngũ giảng viên. Tiếp tục tăng cường công tác quản lý đào tạo, khắc phục các hạn chế của năm học vừa qua, nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Nghiên cứu phát triển thêm chuyên ngành đào tạo và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai đào tạo theo tín chỉ từ năm học 2009-2010.

Về nghiên cứu khoa học: Nhà trường tiếp tục hoàn thiện các quy định nội bộ nhằm động viên giảng viên, sinh viên tham gia các hoạt động khoa học. Tổ chức các hoạt động cần thiết nhằm hỗ trợ, thúc đẩy phong trào nghiên cứu khoa học trong nhà trường như phổ biến kết quả của các đề tài, trao đổi kinh nghiệm nghiên cứu khoa học... Phấn đấu có 10 đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường và 1 đề tài cấp trên cơ sở được triển khai thực hiện. Duy trì các hoạt động như sinh hoạt học thuật, viết bài báo và xuất bản Bản tin Khoa học hằng quý, viết giáo trình và tài liệu học tập cho HSSV... Tiếp tục động viên sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học.

Các hướng nghiên cứu được nhà trường khuyến khích đăng ký là giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động đào tạo và quản lý tại trường như: Cải tiến giảng dạy và học tập đối với sinh viên bậc CĐ theo yêu cầu của học chế tín chỉ, triển khai e-learning trong trường, nâng cấp website của trường, tin học hóa hoạt động của thư viện trường, khảo sát, đánh giá chất lượng và cải tiên các chương trình giáo dục hiện nay, nghiên cứu nhu cầu xã hội về đào tạo và bồi dưỡng, nghiên cứu động cơ và hành vi của HSSV trong các hoạt động như học tập, sinh hoạt, công tác xã hội, phát triển các dịch vụ cho HSSV trong trường, cải tiến công tác quản lý giáo dục (trong một số khâu cụ thể như quản lý đào tạo, quản lý hoạt động khoa học, quản lý HSSV, quản lý cơ sở vật chất) ...

Trên cơ sở những thành tích quan trọng đã đạt được trong năm học vừa qua, với lòng hăng say, nhiệt tình và sự tăng cường đội ngũ của nhà trường, tin tưởng rằng năm học 2009-2010 tập thể cán bộ, giảng viên và HSSV toàn trường sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cao hơn năm học vừa qua cả về số lượng và chất lượng.

(Tiếp theo trang 5)Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi HS-SV là “rường cột” của nước nhà, là tương lai của đất nước

phải biết vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống. Mà thực tiễn trước hết, gần gũi nhất, thiết thực nhất là xây dựng khối đoàn kết trong tập thể lớp học của mình. Hãy luôn nhớ lời Bác dạy: “Năm ngón tay cũng có ngón dài, ngón ngắn. Nhưng ngắn dài đều hợp nhau nơi bàn tay” (4), mỗi thành viên trong lớp có một cuộc đời riêng, nhưng tất cả các cuộc đời đều chung sống trong ngôi nhà tập thể lớp.

----------------------------(1): Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t2, tr261(3),(4): Sđd, t10, tr191; t4, tr47(2): Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t12, tr558

2

Page 3: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐẠI ĐOÀN KẾTVÀ VẬN DỤNG ĐỂ XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT

TRONG LỚP HỌC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI Nguyễn Văn Đức - Bộ môn LLCT

Có thể nói rằng, trên thế giới hiếm có một dân tộc nào phải chịu nhiều khổ đau, mất mát như dân tộc Việt Nam, hiếm có dân tộc nào phải chiến đấu với nhiều kẻ thù như dân tộc Việt Nam; nhưng chúng ta đã chiến đấu và chiến thắng. Lý giải cho điều kỳ diệu ấy là ở con người Việt Nam, trong đó nổi bật lên với tinh thần đoàn kết. Tinh thần đoàn kết luôn hiện hữu trong mỗi người dân nước Việt nhưng chỉ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện, thì đại đoàn kết mới được nâng lên ở “tầm tư tưởng”. Trong hệ thống tư tưởng ấy, đặc sắc nhất là cách thức, phương pháp mà Người thực hiện để vận động, tập hợp, quy tụ, đoàn kết mọi người. I. Phương pháp đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn văn hoá ứng xử cổ, kim, Đông, Tây với sự đậm đà, sâu sắc truyền thống văn hoá Việt Nam; là sự hội tụ của phong cách, lối ứng xử đậm chất văn hoá, nhân văn, để thu phục, cảm hoá, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân nhằm phục vụ cho công cuộc giải phóng dân tộc. Có thể khái quát phương pháp đó trên ba nội dung cơ bản sau đây:

Trước hết, phải yêu và tin dân, dùng lời nói chân thành để cảm hoá dân. Theo Người, “cách mạng là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc riêng của một hai người”(1). Nhưng để quần chúng tự nguyện đi theo cách mạng thì trước hết phải tin tưởng, tôn trọng, thương yêu quần chúng. Không nên dùng những lời nói sáo rỗng, “hoa mỹ” để “mị dân” mà phải sử dụng những ngôn từ đơn giản, mộc mạc, ngôn ngữ của cuộc sống để đến với nhân dân. Có như vậy nhân dân mới đoàn kết, tin tưởng, trung thành, gắn bó với cách mạng.

Thứ hai, khoan dung, độ lượng, hướng mọi người vào mục đích chung cao cả. Đức khoan dung, lòng độ lượng, tính vị tha là những phẩm chất nổi bật trong con người của Bác. Bởi từ một xuất phát điểm, Bác luôn quan niệm: con người không phải là thánh thần, vì thánh thần đều thiện cả còn con người có cái thiện, cái ác ở trong lòng, do đó theo Người, phải “làm cho phần tốt của con người nảy nở như hoa mùa xuân, còn phần xấu thì mất dần đi”(2) - muốn làm được điều ấy phải độ lượng, vị tha với con người. Cũng bằng cách đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu phục, cứu vớt và đem lại cuộc sống cho bao mảnh đời lầm lạc; đã cảm hoá và quy tụ được những thành phần, lực lượng, đối tượng khác nhau trong xã hội tạo nên sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc để hướng vào một mục đích chung cao cả đó là: đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng. Thứ ba, chăm lo lợi ích thiết thực của dân, chú trọng nêu gương để thực hành đoàn kết. Để tập hợp mọi người trong khối đại đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến vấn đề lợi ích, đây được xem là sợi dây gắn kết cá nhân trong tập thể. Với mọi công dân nước Việt, Bác nhấn mạnh đến lợi ích chung: “làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ…”(3); với đồng bào theo các tôn giáo phải chăm lo chu đáo, giúp cho họ sống “tốt đời đẹp đạo”; với các nhân sĩ, trí thức, những người có công với cách mạng, những người có hoàn cảnh khó khăn luôn được Người đặc biệt quan tâm… Chính lợi ích đã tạo thành động lực để mọi người sát cánh bên nhau cùng chống kẻ thù chung và đòi quyền lợi cho chính mình.

Để thực hành đại đoàn kết, Hồ Chí Minh còn chú trọng tới phương pháp nêu gương. Theo Người, mọi cán bộ, đảng viên, bộ đội, thanh niên phải đoàn kết chặt chẽ để làm gương cho quần chúng nhân dân; cấp trên phải đoàn kết để làm gương cho cấp dưới; các bậc phụ huynh, các cụ phụ lão cũng phải giữ gìn đoàn kết để noi gương cho con cháu… Thực tế cho thấy, có những con người trước tấm gương

3

Page 4: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

nhân cách của Bác đã sẵn sàng từ bỏ vinh hoa phú quý để đi theo tiếng gọi của non sông, hoặc đã trở về với dân tộc, đem sức của mình phụng sự cách mạng.II. Nhìn lại thực trạng khối đoàn kết trong lớp học ở trường Cao đẳng Thương mại chúng ta thấy vẫn còn nhiều điều đáng quan tâm.

Bởi lẽ, điều đầu tiên chúng ta có thể khẳng định với nhau rằng: một lớp học cũng chính là một mặt trận, một xã hội thu nhỏ. Trong một tập thể lớp cũng là sự tập hợp của những học sinh-sinh viên (HS-SV) đến từ những vùng miền khác nhau, có hoàn cảnh gia đình, xuất thân, đặc điểm tâm sinh lý, tính cách, sở thích và xu hướng khác nhau. Đặc biệt với trường ta, HS-SV phần lớn là ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên, nơi mà thiên tai khắc nghiệt đã “vắt cạn” sức con người, nơi mà sự học của con cái phải đánh đổi quá nhiều mồ hôi, nước mắt của ba mẹ… với thực tế khó khăn của hoàn cảnh gia đình có tác động rất lớn đến tâm sinh lý, tính cách, xu hướng của các em, làm cho các em thiếu đi sự tự tin vốn có trong việc hoà đồng để đoàn kết với các bạn trong lớp.

Hơn nữa, Miền Trung và Tây Nguyên là khu vực trãi dài trên hai miền đất nước với những không gian văn hoá khác nhau và cũng chính bởi tính chất của văn hoá vùng miền dường như đã tạo nên một rào cản vô hình giữa các em. Ngoài ra, với các nghành đào tạo thuộc các khối nghành kinh tế - thương mại nên HS-SV của trường là những con người có tư duy thực tế, nhạy bén với thời cuộc với kinh tế thị trường với lối sống hiện đại… nhiều bạn đã có những biểu hiện của lối sống thực dụng, sùng bái cá nhân, coi nhẹ tinh thần tập thể.

Tất cả các lý do kể trên dẫn đến một thực trạng của khối đoàn kết trong lớp là: tình trạng chơi theo nhóm nhỏ của những người “đồng hương”, của những HS-SV thuộc nhóm “sành điệu”, hay đơn giản chỉ là nhóm của những người luôn “phản đối” việc chung, có khi đó là sự lầm lì, vô cảm đáng sợ của một số cá biệt thờ ơ trước hoạt động của lớp… các biểu hiện đó đưa đến một hậu quả chung là tình cảm, sự gắn kết, sức học của lớp đi xuống và nếu không khéo nó sẽ là một “phân tử” làm cho “nguyên tử” Đoàn trường yếu đi.III. Để góp phần khắc phục thực trạng trên, vận dụng phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh, chúng tôi đưa ra một số biện pháp nhằm gắn kết hơn nữa khối đoàn kết trong lớp học ở trường Cao đẳng Thương mại như sau:

- Về phía Nhà trường và Ban Chấp hành Đoàn trường+ Tổ chức sân chơi cho HS-SV trong các dịp lễ tết, lễ hội chung của đất nước hay của Nhà trường.

Với các hình thức như: hội thao, văn hoá văn nghệ, đêm hội văn hoá, hội thi tiếng hát HS-SV… Qua đó, tạo cơ hội để các em tiếp xúc, giao lưu, chia sẽ để hiểu nhau và gắn bó với nhau hơn.

+ Đoàn kết HS-SV thông qua việc hình thành các câu lạc bộ, đội, nhóm. Đây là hình thức tổ chức tập hợp một nhóm HS-SV tự nguyện, có cùng sở thích, mục đích, cùng tham gia sinh hoạt. Như: đội bóng đá, bóng chuyền, câu lạc bộ tiếng Anh, nhóm những người yêu guitar, câu lạc bộ khiêu vũ… mục đích vừa để mỗi cá nhân phát huy khả năng của mình, vừa tạo ra sự gắn kết giữa các nhóm. Qua đó, nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho sinh viên vừa phục vụ lợi ích chung của Đoàn trường.

+ Tập thể Nhà trường phải đoàn kết để nêu gương cho HS-SV. Sẽ thật là một điều vô lý khi chúng ta kêu gọi tinh thần đoàn kết trong sinh viên, còn ngay chính chúng ta: Công đoàn nhà trường, Đoàn Thanh niên, tập thể giáo viên - những người thầy cô của các em lại mất đoàn kết. Do đó, tập thể Nhà trường đoàn kết với nhau sẽ là “tấm gương sống” để các em noi theo. Vì rằng, người ta chỉ có thể dạy cho người khác những cái mà người ta có.

- Về phía Giáo viên chủ nhiệm và Giáo viên bộ môn+ Đoàn kết lớp bằng tình yêu thương, lòng độ lượng và lời nói chân thành với HS-SV. Giáo viên

chủ nhiệm (GVCN) thông qua những giờ sinh hoạt, những câu chuyện kể, để cho sinh viên thấy sự cần thiết phải đoàn kết nhằm xây dựng một tập thể lớp, chi đoàn vững mạnh. Đối với những em chưa ngoan, nên có lòng tin, sự độ lượng, vị tha để giúp em tiến bộ. Giáo viên bộ môn thông qua bài giảng và từ thực tế cuộc sống để phân tích cho các em nhận thức được ý nghĩa của đoàn kết. Việc các em đoàn kết tham gia các phong trào chung của Đoàn điều đó làm cho các em trưởng thành hơn, thấy

4

Page 5: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

cuộc sống có ý nghĩa hơn và tạo được những kỷ niệm đẹp về nhau về thời sinh viên - chặng đường đẹp nhất của cuộc đời.

+ Đoàn kết lớp thông qua việc phát huy vai trò của lực lượng nồng cốt. Lực lượng nồng cốt (LLNC) ở đây chính là Ban cán sự (BCS) lớp, Ban chấp hành (BCH) Chi đoàn, các cá nhân sống hoà đồng, có “uy tín” với tập thể lớp. Lực lượng này chính là “cầu nối” giữa các thành viên trong lớp, là sợi dây liên kết để tạo nên sự gắn bó giữa các thành viên. GVCN là người bám sát lớp nên biết rõ hơn ai hết khả năng của mỗi sinh viên, nên phải phát hiện, trao đổi, động viên, quán triệt LLNC hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, tác dụng của tinh thần đoàn kết trong lớp. Sau đó, chính GVCN là người hoạch định nội dung công tác của LLNC, thường xuyên sinh hoạt để nắm rõ tình hình hoạt động, vừa bồi dưỡng kỹ năng, kinh nghiệm trong công tác tập hợp sinh viên, giúp đỡ LLNC tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện.

+ Chăm lo lợi ích cho lực lượng nồng cốt, gắn liền với lợi ích của tập thể lớp. Con người ta hành động thường hướng đến lợi ích, đó là lợi ích về mặt vật chất hay về mặt tinh thần. GVCN cần phối hợp với Đoàn trường để tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ BCS, BCH Chi đoàn, để đội ngũ này thành thạo về các kỹ năng thực hành xã hội, kỹ năng hoạt động tập thể… nhằm tăng cường khả năng tập hợp, thu hút, quản lý và nắm bắt diễn biến, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của các thành viên trong lớp. Đồng thời qua quá trình hoạt động của LLNC, GVCN nên phát hiện những cá nhân tiêu biểu giới thiệu với Đoàn trường xem xét, thử thách để kết nạp Đảng. Làm tốt vấn đề này, đây chính là xử lý tốt mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và tập thể.

- Về phía BCS lớp và BCH Chi đoàn+ Trước hết, BCS và BCH Chi đoàn cần có sự thống nhất, nhiệt tình, đi đầu trong mọi việc. Thống

nhất trong mọi hoạt động và chủ trương đưa ra, nhiệt tình để tạo nên “ngọn lửa” trong mỗi thành viên của lớp và đi đầu để tạo nên một tấm gương cho mọi người. Lớp trưởng, Bí thư phải hoạt động “đều tay”, không làm thay nhau, phối hợp nhịp nhàng để đề ra cách thức hoạt động hay cho lớp.

+ Tiếp theo, BCS và BCH Chi đoàn phải gần gũi với các thành viên trong lớp. Không nên có thái độ khinh miệt, xa lánh những thành viên cá biệt, điều đó sẽ gây nên sự chống đối của những thành viên này. Bởi lẽ gần gũi, sự thân thiện, đầm ấm bao giờ cũng mang kết quả tốt hơn là sự thờ ơ, lạnh nhạt.

+ Cuối cùng, để thực sự tạo nên sự gắn kết các thành viên của lớp, BCS và BCH Chi đoàn nên cùng cả lớp tổ chức những buổi sinh hoạt với nhau như: ca hát, đi thăm quan, tổ chức các trò chơi nhỏ, những cuộc thi hay những buổi sinh nhật cho các bạn trong lớp… Qua đó, mỗi thành viên của lớp sẽ cảm nhận được sự quan tâm, thái độ ân cần và sự ấm áp của tình bạn nên sẽ gắn bó hơn.

- Đối với mỗi cá nhân trong tập thể lớp + Nhà trường, GVCN, BCS lớp sẽ không làm được điều gì nếu mỗi cá nhân trong tập thể lớp

không có ý thức về tinh thần đoàn kết, không tự gắn bó với nhau. Do đó, trước hết các em hãy tự giác, xoá bỏ đi mọi mặc cảm, thành kiến về hoàn cảnh gia đình, về đặc điểm văn hoá vùng miền, về tính cách… mà phải chân thành đoàn kết giúp đỡ nhau vì lợi ích chung.

+ Hãy tôn trọng cái riêng của mình nhưng đồng thời cũng đề cao cái chung của lớp, của tập thể. Vì rằng, cuộc sống sẽ không có gì quý hơn khi được quan tâm, được sẽ chia, được yêu thương, được sống trong hơi ấm của tình bạn, của sự gắn bó, được hoà mình vào trong niềm vui chung của tập thể lớp. Các bạn hãy luôn nhớ rằng, mình còn một gia đình thứ hai cần được yêu thương, trách nhiệm, cần sự đoàn kết đó là lớp học của mình.

Sức sống diệu kỳ của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã được chứng minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Phương pháp đại đoàn kết của Người thực sự là một khoa học, nghệ thuật của sự cảm hoá, thu phục lòng người. Đó là nghệ thuật khơi dậy và nhân lên những điều tốt đẹp, nhân bản trong mỗi con người dù cho nó đã bùng cháy như ngọn lửa hay đang âm ủ như hòn than trong đống tro tàn, để nhằm mục đích cuối cùng là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng. (Xem tiếp ở trang 2)

5

Page 6: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

HƯỚNG DẪN PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁCCỦA HỌC SINH THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

Nguyễn Tiền Tiến - Phó Hiệu trưởngKết thúc học lý thuyết và thực hành tại trường, học sinh bắt đầu đi thực tập tốt nghiệp tại các

doanh nghiệp. Kết quả thực tập tốt nghiệp, một mặt là điều kiền để xét tư cách dự thi tốt nghiệp; nhưng quan trọng hơn là để tiếp cận với thực tế, củng cố tay nghề và bớt ngỡ ngàng khi học sinh bắt đầu công tác sau này. Tuy nhiên, quá trình thực tập tốt nghiệp, học sinh thường gặp những khó khăn sau đây:- Thay đổi môi trường làm việc: Từ trường học đến doanh nghiệp gắn liền với hoạt động kinh doanh, có nhiều quan hệ kinh tế xã hội phức tạp (với nhiều người khác nhau về chức vụ, chuyên môn, tuổi tác); phải làm việc độc lập, tự mình xây dựng kế hoạch.- Thay đổi về thu nhận thông tin: Từ thu nhận thông tin thụ động do giáo viên truyền đạt sang tự thu thập, thu thập và khai thác thông tin.

Những thay đổi trên đòi hỏi học sinh phải có phương pháp công tác đúng. Bản “Hướng dẫn phương pháp công tác của học sinh thực tập tốt nghiệp” giúp học sinh bớt ngỡ ngàng với thực tế ở các doanh nghiệp, có phương pháp để hoàn thành tốt nhiệm vụ của đợt thực tập tốt nghiệp.Hướng dẫn phương pháp công tác của học sinh thực tập tốt nghiệp bao gồm 3 bước sau đây: 1. Xây dựng kế hoạch thực tập1.1 Xác định công việc phải làma. Thu thập số liệu và hỏi han tình hình: Là thu thập các số liệu, tình hình cần thiết để viết báo cáo. Chẳng hạn, số liệu về: Đội ngũ lao động, tiền lương bình quân của người lao động..; chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp, thuận lợi và khó khăn hiện nay của doanh nghiệp.b. Ghi chép kết quả vào nhật ký thực tập: Cố gắng ghi nhật ký thực tập hằng ngày các nội dung đã thu thập được. Những ngày không đến doanh nghiệp thì ghi kết quả đọc được từ các tài liệu mượn của doanh nghiệp hoặc các nhận xét rút ra từ các tài liệu đó.c. Đối chiếu với đề cương chi tiết để tiếp tục thu thập số liệu, nhận xét còn thiếu: Nhật ký thực tập là cơ sở để viết báo cáo thực tập tốt nghiệp, vì thế để biết số liệu, tình hình đã đầy đủ chưa thì phải đối chiếu với đề cương chi tiết. Nếu tình hình hoặc số liệu còn thiếu thì tiếp tục thu thập cho đầy đủ.d. Viết từng phần báo cáo thực tập: Báo cáo thực tập chắc chắn phải viết và tu chỉnh nhiều lần, vì thế khi thu thập được số liệu, tình hình phần nào thì tranh thủ viết báo cáo phần đó. e. Xin xác nhận của doanh nghiệp thực tập: Phải có thời gian dự phòng, tránh trường hợp giám đốc, trưởng phòng đi công tác, do đó xin xác nhận sẽ không kịp thời.1.2 Dự kiến mốc thời gian hoàn thành

Dự kiến thời gian để thực hiện các bước công việc nêu trên. Hàng tuần, nhìn vào Kế hoạch thực tập sẽ thấy được tiến độ công việc của mình nhanh hay chậm, để chủ động hơn trong công việc.

Trong thực tế, các công việc nêu trên có thể thực hiện đồng thời. Chẳng hạn, vừa thu thập số liệu, có được số liệu phần nào thì viết báo cáo phần đó.2. Quá trình thực tập2.1 Cách thức tiếp xúc - giao tiếp

Thực chất đây là hoạt động liên quan đến tất cả các công việc, nó là nhân tố ảnh hưởng cơ bản đến sự thành công của quá trình thực tập.a. Trang phục: Đến doanh nghiệp là đến môi trường làm việc, Học sinh thực tập chủ yếu là đến văn phòng, vì vậy phải trang phục lịch sự về kiểu cách và trang nhã về màu sắc. Trường hợp phải xuống cửa hàng, kho,…thì có trang phục chuyên dùng (chẳng hạn, học sinh xăng dầu xuống của hàng bán xăng dầu, học sinh xuất nhập khẩu ra cảng nhận hàng…)

Nên dùng trang phục như khi đi học để mang đến doanh nghiệp nét hồn nhiên và trẻ trung của người học sinh, từ đó gây thiện cảm ngay từ những lần tiếp xúc đầu tiên với doanh nghiệp.

6

Page 7: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

b. Xưng hô, làm quen, gây thiện cảmb1. Xưng hô: Nếu đúng chuẩn mực trong quan hệ công tác thì phải xưng hô anh (chị)-tôi. Tuy nhiên, gặp những người lớn tuổi, học sinh xưng hô anh (chị) sẽ ngại, vì thế ta cứ xưng hô như giao tiếp bình thường, tức là tùy vào tuổi tác của người tiếp xúc để xác định thứ bậc xưng hô cho phù hợp.

Học sinh thực tập thường rụt rè, nói lí nhí trong xưng hô. Điều này có thể làm cho doanh nghiệp cảm thấy học sinh còn non nớt, chua đủ khả năng làm việc. Vì thế, học sinh xưng hô lịch sự nhưng lời nói phải rõ ràng và dứt khoát.b2. Làm quen: Làm quen được tiến hành một cách từ từ. Chuyện trò trong lần đầu tiên chỉ nên giới thiệu những thông tin cơ bản về mình; những lần gặp sau sẽ dần hiểu biết nhau hơn.

Nên làm quen một cách tự nhiên, tức là tùy vào môi trường giao tiếp (không khí vui vẻ, có thời gian rỗi để trò chuyên, gặp đồng hương đang làm ở doanh nghiệp…) để chọn câu hỏi tự nhiên theo câu chuyện và nên biết dừng lại lúc nào là phù hợp, chuyện trò không được làm ảnh hưởng đến công việc của doanh nghiệp.

Mới làm quen không nên nói nhiều. Như vậy, dễ bị nhận xét là không lịch sự, có vẻ suồng sã, để lại ấn tượng không tốt trong người nghe. Sau lời chào hỏi, học sinh giới thiệu đôi nét về mình, rồi nói ít để doanh nghiệp hỏi. Nguyên tắc giao tiếp là người ít tuổi nói ít, lắng nghe và trả lời người nhiều tuổi, nếu không khí buổi nói chuyện trầm lắng thì chủ động nói vài câu tạo không khí ấm cúng, vui vẻ.b3. Gây thiện cảm: Có nhiều cách để gây thiện cảm với doanh nghiệp, sau đây là một vài cách để gây thiện cảm:- Khi thấy một nhân viên đang làm việc bận rộn ở văn phòng (nhân viên này chúng ta đã làm quen và biết được công việc của họ) chúng ta có thể đề nghị: anh (chị) làm vất vả quá, em có thể giúp anh (chị) được gì không?- Có khách đến văn phòng, nhân viên trong phòng đón tiếp, học sinh thực tập chủ động về chỗ ngồi (nếu thiếu ghế thì phải nhường khách), giúp họ pha nước mời khách hoặc dọn dẹp bàn sau khi khách về.- Thỉnh thoảng thấy văn phòng bẩn hoặc không gọn gàng, chúng ta tự giác quét dọn hoặc sắp xếp lại (làm một cách tự nhiên, không gượng ép).- Khi doanh nghiệp có việc đột xuất như: bốc hàng vào kho, chạy hàng khi trời mưa…tùy vào khả năng mà chúng ta tự giác tham gia để họ thấy tinh thần trách nhiệm của chúng ta.- Trong phòng có một nhân viên ốm, một vài nhân viên đi thăm, chúng ta có thể nhân cơ hội đó xin tham gia đi thăm, như vậy sẽ để lại ấn tượng tốt cho doanh nghiệp.c. Nghệ thuật giao tiếpc1.Đặt câu hỏi: Chỉ nên đặt câu hỏi về công việc hoặc những vấn đề kinh tế - xã hội nói chung, tránh những câu hỏi riêng tư, khó trả lời hoặc gây mất lịch sự. Chẳng hạn, chúng ta hỏi một nhận viên trong phòng: Chị được mấy cháu rồi? Khi mà ta chưa được giới thiệu về hoàn cảnh gia đình của họ, câu hỏi này có thể làm cho họ khó xử (chị ta chưa có chồng hoặc không có con.)

Nên đặt những câu hỏi mà người được hỏi dễ trả lời. Thay vì ta hỏi: Quý này doanh nghiệp lãi bao nhiêu chị nhỉ? (câu hỏi đóng), thì ta nên hỏi: Kết quả (tình hình) kinh doanh quý này thế nào chị nhỉ? (câu hỏi mở). Lúc này người được hỏi sẽ có rất nhiều cách trả lời, chứ không bị ràng buộc vào trả lời có lãi hoặc không.c2.Nhận xét: Mọi nhận xét phải thận trọng, tốt nhất là những điều chúng ta thấy , nghe thì chúng ta tự kết luận trong đầu mình. Không nên nhận xét về doanh nghiệp hoặc người của doanh nghiệp; trước mặt một người khác của doanh nghiệp.

Khi được nhân viên của doanh nghiệp nhận xét về doanh nghiệp hoặc một nhân viên khác của doanh nghiệp; thì thái độ chúng ta là lắng nghe, không nên vội vàng bình luận gì khi chưa có đầy đủ thông tin.

Khi được yêu cầu nhận xét về doanh nghiệp hoặc một người nào đó của doanh nghiệp, tốt nhất từ chối bằng những câu tế nhị như: em mới đến chưa biết nhiều về doanh nghiệp nên chưa thể nhận xét được; vấn đề này với em còn mới mẻ quá.

7

Page 8: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

c3.Từ chối: Không phải lúc nào chúng ta cũng thực hiện tất cả những lời đề nghị của doanh nghiệp, có lúc chúng ta phải từ chối. Chẳng hạn, doanh nghiệp yêu cầu chúng ta đứng bán hàng, mua hàng trong thời gian dài hoặc yêu cầu học sinh phải ra cảng nhận hàng hoài. Trong những trường hợp như thế, chúng ta phải biết cách từ chối. Sau đây là một vài cách:

Nhận bán hàng một vài tuần rồi đề nghị để được trở về doanh nghiệp tiếp tục thu thập số liệu và tình hình.

Nhận bán trong vài tuần nhưng nói trước thời gian mà mình có thể đáp ứng để doanh nghiệp chủ động thay thế khi hết thời hạn.

Lo ngại vì công việc mới làm lần đầu, từ đó hỏi han kỹ lưỡng doanh nghiệp về những điều mình chưa biết, chưa rõ để tránh sơ suất sau này; mặc khác, doanh nghiệp cũng thấy cần có người hỗ trợ, giúp đỡ thì học sinh mới hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Nếu doanh nghiệp giao công việc đột xuất cho học sinh vào cuối thời gian thực tập, đó là khi mà học sinh phải viết và hoàn thiện báo cáo, vì thế học sinh chủ động nêu khối lượng công việc chưa hoàn thành để doanh nghiệp thông cảm, không giao việc nữa.3.2 Quá trình thực tậpa. Nêu nhu cầu cho doanh nghiệp biết (về số liệu, về cung cấp tình hình của doanh nghiệp)- Trong buổi đầu đến doanh nghiệp, sau khi chào hỏi và giới thiệu xong thì học sinh phải nêu nhu cầu của mình.- Học sinh đưa đề cương chi tiết báo cáo thực tập tốt nghiệp cùng với 1 bản ghi các tài liệu, báo cáo cần mượn để xem, tình hình cần được doanh nghiệp để họ biết và chủ động giúp đỡ.- Thường thì học sinh phải lấy số liệu trong 3 năm trở lại đây; để viết báo cáo. Những số liệu này có trong các bản báo cáo tổng kết năm, các loại sổ sách ở phòng tổ chức nhân sự, phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng kho vận, phòng marketing.b. Khai thác tình hình, số liệub1. Đối tượng gặp gỡ (Có thể gặp những ai xin số liệu?)

Tùy vào từng chuyên ngành mà có đối tượng gặp gỡ khác nhau. Đối với chuyên ngành kế toán, chủ yếu xin số liệu ở phòng Kế toán; chuyên ngành Xuất nhập khẩu, chuyên ngành Quản trị doanh nghiệp và chuyên ngành Xăng dầu chủ yếu xin số liệu ở phòng kinh doanh. Ngoài ra có thể xin thêm số liệu ở các phòng marketing, phòng kho vận.

Tuy nhiên, bất cứ chuyên ngành nào, cũng cần số liệu sau đây ở phòng tổ chức nhân sự: Quá trình hình thành và phát triển, cơ cấu bộ máy tổ chức, đội ngũ lao động và chất lượng lao động, chức năng, nhiệm vụ, những thuận lợi và khó khăn cơ bản, kết quả đạt được trong những năm gần đây, phương hướng phát triển của doanh nghiệp.b2. Phương pháp làm việc

Sau khi đã nêu nhu cầu, doanh nghiệp sẽ cho học sinh số liệu và tình hình theo nhu cầu của học sinh. Tuy nhiên, trong quá trình thực tập, học sinh còn phải tiếp tục nắm thêm số liệu và tình hình.

Đừng xin số liệu, tình hình một cách lẻ tẻ. Trong khi thự tập, nếu thấy thiếu số liệu nào thì chúng ta ghi vào nhật ký thực tập. Sau đó chúng ta liệt kê thành một bản rồi đề nghị doanh nghiệp cung cấp. Nếu là một nhóm đến doanh nghiệp thực tập thì tập hợp tất cả nhu cầu của nhóm thành một bản rồi đề nghị doanh nghiệp cung cấp luôn một lần . Cách làm này vừa không gây phiền hà cho doanh nghiệp, vừa thể hiện học sinh có phương pháp công tác tốt, làm việc có kế hoạch.

Khi đưa bản đề nghị, chúng ta nên nói: Chúng em cần một vài số liệu và tình hình đã được liệt kê trong bản này, gửi anh (chị) xem và khi nào có điều kiện thì giúp tụi em. c. Phản hồi thông tin (sau khi đã xem xét số liệu, tình hình) Khi mượn được tài liệu về nhà, chúng ta đọc và sẽ thấy cần có thêm những số liệu cần giải thích những tình hình còn chưa rõ. Lúc này chúng ta cũng ghi chép nhu cầu của mình thành một bản rồi đề nghị doanh nghiệp cung cấp như đã nói ở trên.

8

Page 9: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

d. Viết báo cáo thực tập tốt nghiệpd1. Hoàn chỉnh đề cương chi tiết- Khi đến thực tập ở doanh nghiệp khoản 1-2 tuần, sau khi đã xem xét số liệu và tình hình thực tế, học sinh xây dựng đề cương chi tiết và gửi giáo viên hướng dẫn thông qua. Nếu phải thay đổi lại đề tài thì phải nhanh chóng xin phép giáo viên.- Khi giáo viên đã duyệt đề cương chi tiết thì học sinh phải sửa lại đề cương theo ý kiến giáo viên. Nếu chưa rõ, học sinh có thể gặp trực tiếp hoặc trao đổi qua điện thoại/gửi fax về trường cho giáo viên: 0511.3811179 hoặc gửi email cho giáo viên.d2. Gắn ghi nhật ký với đề cương báo cáo thực tập- Nhìn vào đề cương chi tiết, học sinh biết phải thu thập số liệu và tình hình như thế nào. Vì thế khi viết nhật ký thực tập nên đi theo từng phần, từng nội dung theo đúng trình tự đề cương chi tiết.- Nhiều học sinh nhận thức không đúng về nhật ký thực tập, nên viết đối phó. Nhưng nếu không ghi chép số liệu và tình hình thu thập được vào nhật ký thực tập thì khi viết báo cáo thực tập, học sinh dựa vào nguồn tài liệu nào để viết?- Nhật ký thực tập tốt nghiệp giống như bản thô (sườn) để viết báo cáo thực tập. Nếu ghi chép nhật ký không đầy đủ, chi tiết thì sẽ rất khó khăn trong viết báo cáo, bởi vì những tài liệu mượn của doanh nghiệp sau một thời gian chúng ta phải trả. Giả sử chúng ta có bản photocopy hoặc mượn lại của doanh nghiệp thì cũng không có thời gian để đọc, để hệ thống lại mà viết báo cáo.- Học sinh không thể nghĩ ra ngay những nhận xét, những đánh giá về doanh nghiệp. Như vậy, để có được những nhận xét đó, học sinh phải đọc tài liệu, phân tích, đánh giá, rồi rút ra hoặc nhờ doanh nghiệp cung cấp. Học sinh phải thu thập rồi ghi chép vào nhật ký thực tập.d3. Viết báo cáo thực tập tốt nghiệp (từng phần, tổng thể): - Học sinh phải tuân thủ qui định về viết báo cáo mà giáo viên đã hướng dẫn. Tuân thủ về kết cấu từng phần, về số trang, về đề mục, về những ý chính trong từng đề mục. - Báo cáo thực tập có thể viết tuần tự từng phần theo đề cương chi tiết, nhưng cũng có thể viết từng phần không theo thứ tự của đề cương. Khi chúng ta thu thập được số liệu và tình hình của phần nào thì có thể viết báo cáo của phần đó để tranh thủ thời gian.- Chúng ta thường mất thời gian để chọn từ, đặt câu sao cho vừa ý rồi mới viết báo cáo, cách làm này có lúc mất thời gian vì nếu chưa nghĩ ra thì không thể tiếp tục viết tiếp ý sau. Vì vậy cứ xem bản viết đầu là nháp và cứ mạnh dạn viết. Sau đó đọc lại và sẽ từng bước chỉnh sửa.- Từng phần của báo cáo đều có qui định về số trang, nếu viết dài quá thì sẽ bị trừ điểm; vì thế, học sinh phải chú ý đến số trang của từng phần. Để viết đúng số trang của phần mở đầu là rất khó, chúng ta phải biết cách tóm tắt nhiều câu thành một ý khái quát thì mới có thể viết đúng số trang qui định.- Về nguyên tắc, trong báo cáo thực tập tốt nghiệp không được nêu những vấn đề lý luận đã học. Chẳng hạn, khi viết về nội dung giá cả, chúng ta không được viết vào báo cáo lý thuyết về giá, như: khái niêm, tầm quan trọng, các phương pháp xác định giá… mà đi thẳng vào vấn đề. Chẳng hạn, tại công ty, người ta xác định giá theo các phương pháp sau đây..- Để báo cáo có tính thuyết phục, thì khi trình bày một vấn đề chúng ta nên lấy số liệu thực tế của doanh nghiệp để minh họa. Nếu có thể thì mỗi câu (vấn đề) đều có một vài số liệu để minh họa. Chẳng hạn, khi viết về phương pháp định giá, chúng ta nói doanh nghiệp dùng phương pháp so sánh; chúng ta nêu tiêu chí so sánh rồi lấy số liệu mà doanh nghiệp đã tính để minh họa.- Trường hợp có những tài liệu, bảng biểu, chúng ta không thể viết hết vào báo cáo được vì làm như vậy báo cáo sẽ quá dài. Chúng ta tập hợp những tài liệu đó (Bảng số liệu, bảng so sánh, các hợp đồng thực tế, bảng báo giá…), đánh số thứ tự và kẹp thành một phụ lục đính kèm trang cuối của báo cáo. Trong báo cáo, khi muốn dẫn chiếu đến phụ lục nào, chúng ta ghi: Xem phụ lục số…- Muốn báo cáo có kết quả tốt, chúng ta phải sử dụng công cụ thống kê và tài chính để phân tích số liệu của doanh nghiệp, từ đó rút ra những kết luận xác đáng, có sức thuyết phục.- Phải thận trọng khi viết những kết luận và kiến nghị. Đây là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp cần cân nhắc cẩn thận để có những kết luận và kiến nghị chính xác; có thể trao đổi trước với phòng mà mình trực tiếp thực tập để có những nhận xét xác đáng.

9

Page 10: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

- Khi viết xong tất cả các phần của báo cáo, chúng ta ghép lại và đọc liền một mạch thì sẽ thấy những chỗ thừa, những chỗ lặp, những ý nên chuyển từ phần này sang phần khác. Từ đó, chúng ta sẽ sửa chữa lại. Sửa chữa báo cáo thực hiện làm nhiều lần, mỗi lần sửa một ít cho đến khi hoàn chỉnh.- Trước khi đánh máy chính thức, nếu có điều kiệnt hì nhờ giáo viên hướng dẫn đọc lại lần cuối để xem có phải chỉnh sửa gì nữa không.3. Kết thúc thực tập3.1 Xin xác nhận của doanh nghiệp- Phải có thời gian dự phòng (trưởng phòng hoặc giám đốc doanh nghiệp đi công tác). Thường đưa xác nhận báo cáo trước khi kết thúc nhận thực tập từ 5-7 ngày.- Trường hợp doanh nghiệp đọc báo cáo thấy những điểm không nhất trí, có thể họ sẽ yêu cầu chúng ta viết lại. Lúc này thái độ chúng ta phải thật bình tĩnh, lắng nghe và nếu cần thì trao đổi một cách thẳng thắn, tôn trọng doanh nghiệp nhưng không gây căng thẳng.3.2 Trao đổi - Cám ơn (Góp ý với doanh nghiệp, nếu có)a. Trao đổi: Có những ý kiến mà xét thấy không cần thiết đưa vào báo cáo thì có thể trao đổi riêng với bộ phận mà mình thực tập. Vào đầu cuộc trao đổi nên đặt vấn đề: Trong thời gian thực tập, tụi em thấy có một vài ý kiến cần trao đổi với anh (chị); anh (chị) có thể tham khảo; thời gian đến doanh nghiệp ít quá nên nếu nhận xét không đúng thì mong anh (chị) thông cảm.b. Cám ơn - Trước khi rời doanh nghiệp, học sinh phải đi chào từng người, từng bộ phận mà trong quá trình thực tập mình có liên hệ. Không nên chỉ chào mấy anh chị trong bộ phận mà mình trực tiếp thực tập, nếu làm như vậy những người khác sẽ nghĩ học sinh không có đầu có cuối.- Đối với bộ phận mình trực tiếp thực tập, trước khi chào thì phải cám ơn họ, đồng thời không quên xin lỗi họ nếu trong thời gian thực tập học sinh có làm gì họ không vừa ý hoặc gây phiền hà cho họ.

LÝ THUYẾT PHONG CÁCH HỌC TẬP VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG VÀO DẠY HỌC

Nguyễn Thị Đỗ Quyên - Khoa QTKD1.Phong cách học tập là gì?

Đưa ra một khái niệm thống nhất về phong cách học tập (PCHT) quả là công việc không mấy dễ dàng. Dù rằng lịch sử nghiên cứu PCHT vẫn còn mới mẻ, chỉ chính thức bắt đầu từ thập niên 1960 nhưng với một số lượng lớn công trình nghiên cứu tiếp cận các khía cạnh đa dạng khiến các nhà nghiên cứu không thể đưa ra một khái niệm gượng ép cho tất cả.

Xem xét nhiều khái niệm PCHT của các tác giả khác nhau, chúng tôi nhận thấy rằng: Phong cách học tập được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh “Learning Styles” và có những nội dung cốt lõi sau đây: - PCHT là những đặc điểm riêng của cá nhân; - PCHT bao gồm các đặc điểm về nhận thức, xúc cảm, sinh lý; - PCHT chỉ ra cách thức ưu thế của cá nhân tiếp nhận, xử lý và lưu giữ thông tin trong môi trường học tập; - PCHT tương đối bền vững. Trên cơ sở đó, chúng tôi đưa ra định nghĩa về PCHT như sau làm cơ sở để nghiên cứu những nội dung tiếp theo: “Phong cách học tập là những đặc điểm tâm lý ưu thế, tương đối bền vững của cá nhân, qui định cách tiếp nhận, xử lý và lưu giữ thông tin trong môi trường học tập”.

PCHT từ đâu mà có? Các nhà nghiên cứu cho rằng nguồn gốc của PCHT xuất phát từ cấu tạo gen, kinh nghiệm học tập và ảnh hưởng của nền văn hóa – xã hội mà cá nhân sinh sống. Do đó, khi tìm hiểu về PCHT cần lưu ý hai đặc điểm sau đây:

Đặc điểm 1: PCHT có nguồn gốc sinh học nên người học có thể có một hoặc nhiều PCHT chiếm ưu thế do sự phát triển trội hơn của một hoặc nhiều vùng chức năng khác nhau ở não. PCHT nào chiếm ưu thế cũng đều có điểm mạnh và điểm yếu. Ví dụ, người học hướng ngoại học tập tốt khi được

10

Page 11: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

giao bài tập nhóm, được trao đổi, chia sẻ với bạn học nhưng lại khó tập trung khi phải làm việc một mình. Vì thế, trong một số tình huống hay môi trường học tập đặc trưng thì người học có PCHT phù hợp sẽ thích ứng nhanh hơn. Dunn và Dunn (1979) nhận xét: “Phong cách học là một nhóm các đặc điểm cá nhân có tính sinh học và phát triển mà những cách giảng dạy giống nhau hiệu quả đối với những học sinh này và không có tác dụng với những học sinh khác”.

Đặc điểm 2: PCHT của người học có một số khác biệt theo giới tính, độ tuổi, văn hóa và thành tích học tập. Thực tế và các nghiên cứu đã chứng minh rằng những du học sinh tại Mỹ đến từ các nước Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản có nền văn hóa gần giống nhau, PCHT nhìn chiếm ưu thế, họ giỏi quan sát, phát hiện vấn đề nhanh nhưng lại e ngại với các buổi thảo luận trong nhóm. Ngược lại, PCHT của những sinh viên đã học tập lâu tại Mỹ, có điểm TOEFL cao lại gần giống với sinh viên bản xứ.2.Các mô hình lý thuyết phong cách học tập được sử dụng hiện nay

Như đã đề cập ở trên, lý thuyết nghiên cứu về PCHT khá phong phú. Năm 2003, trung tâm nghiên cứu học tập và kĩ năng tại Anh đã dành 16 tháng để tìm hiểu các lý thuyết PCHT đang dùng trên thế giới hiện nay, và họ thấy rằng có hơn 100 mô hình khác nhau. Trong đó, có 71 mô hình đáng để chú ý, được phân loại thành 5 nhóm: - Nhóm 1: PCHT dựa vào yếu tố gen – môi trường; - Nhóm 2: PCHT phản ánh các đặc điểm bên trong của cấu trúc nhận thức; - Nhóm 3: PCHT là tập hợp các kiểu nhân cách tương đối bền vững; - Nhóm 4: PCHT là các ưu thế linh hoạt trong học tập; - Nhóm 5: PCHT là các chiến lược, định hướng trong học tập. Trong mỗi nhóm lại có nhiều tác giả, mỗi tác giả đưa ra một cách phân loại PCHT riêng. Vì vậy, với giới hạn cho phép của bài báo, chúng tôi chỉ bàn đến 3 cách phân loại PCHT tiêu biểu thuộc nhóm 1, 2 và 4.* Mô hình PCHT theo giác quan của Dunn & Dunn

PCHT theo mô hình này được chia thành 4 loại theo giác quan gồm: nhìn (visual), nghe (auditory), vận động (kinesthetic) và xúc giác (tactile), được gọi tắt là VAKT.

+Người học có ưu thế với PCHT nhìn thường: nhìn chăm chú vào mặt giáo viên; thích nhìn tranh ảnh minh họa trên tường, trong sách,..; nhanh chóng nhận diện chữ viết; thích viết ra các ý ngắn gọn để dễ dàng suy nghĩ; nhớ lại thông tin bằng cách hồi tưởng vị trí trình bày của chúng trên trang giấy.

+Người học có ưu thế với PCHT nghe thường: thích giáo viên hướng dẫn bằng lời; thích đối thoại, thảo luận và đóng kịch; thường giải quyết vấn đề bằng cách nói ra những nội dung đó; thích dùng vần điệu, âm thanh làm đầu mối ghi nhớ tài liệu học tập.

+Người học có ưu thế với PCHT vận động thường: học tốt nhất khi được vận động; cảm thấy khó khăn, khổ sở khi phải ngồi lâu một chỗ; thích vận động cơ thể làm đường dẫn ghi nhớ tài liệu tài học tập.

+Người học có ưu thế với PCHT xúc giác: thích viết và vẽ để ghi nhớ; học tốt hơn khi được tham gia các hoạt động cần đến thao tác tay như dựng mô hình, làm đồ án.* Mô hình PCHT của Witkin

Trong mô hình này, PCHT được xem là đặc điểm cấu trúc của hệ thống nhận thức, chủ yếu dựa vào thói quen tư duy của con người khi tổ chức và thể hiện thông tin. Theo Witkin, có hai loại phong cách nhận thức: phụ thuộc (field dependence) và độc lập (field independence).

+Người học có phong cách nhận thức phụ thuộc: thường gặp khó khăn khi xem xét các yếu tố thành phần trong một tổng thể. Họ dễ bị ảnh hưởng bởi ý kiến của người khác khi giải quyết vấn đề; có khả năng giao tiếp tốt.

+Người học có phong cách nhận thức độc lập: Họ nhanh chóng lọc ra các chi tiết quan trọng trong những nội dung phức tạp, rối rắm. Họ có khuynh hướng dựa vào bản thân và hệ thống quan điểm của riêng mình để giải quyết vấn đề. Kỹ năng giao tiếp của họ không được tốt lắm.* Mô hình PCHT của McCarthy

Trong mô hình này McCarthy phân chia người học thành 4 loại: người sáng kiến (innovative learner), người phân tích (analytic learner), người thực tế (common sense learner) và người năng động (dynamic learner).

11

Page 12: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

+Người sáng kiến: khi học tập thường tìm kiếm những lợi ích phục vụ bản thân, rút ra những giá trị mà họ có thể ứng dụng được, thích giao lưu với mọi người, có khả năng hợp tác tốt và mong muốn kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn.

+Người phân tích: khi học tập thích phát triển trí tuệ của bản thân, tìm hiểu các sự kiện, là người khá kiên nhẫn và nhiều suy nghĩ nội tâm, mong muốn hiểu biết “những điều quan trọng” để làm giàu thêm kho tàng tri thức của thế giới.

+Người thực tế: thích tìm tòi giải pháp, xem xét giá trị của mọi vật nếu chúng hữu dụng, là người thích vận động, thực tế và thẳng thắn; mong muốn làm mọi việc trở thành hiện thực.

+Người năng động: thích tìm kiếm những khả năng tiềm ẩn, đánh giá sự việc; thích thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau; là người sôi nổi, ưa thích mạo hiểm.3.Ý nghĩa và khả năng ứng dụng lý thuyết PCHT vào dạy học

Vậy áp dụng lý thuyết PCHT vào dạy học, học sinh sẽ có được những lợi ích gì? Sue Davidoff và Owen van den Berg (1990) cho rằng với những giáo án đáp ứng PCHT ưu thế của học sinh sẽ đưa đến hệ quả: -Học sinh học tốt hơn và tiếp thu nhanh hơn nếu phương pháp giảng dạy phù hợp với PCHT chiếm ưu thế của người học; -Một khi kết quả học tập tăng lên thì lòng tự tin của người học cũng được củng cố. Điều này sẽ tạo ra những hiệu quả tích cực tiếp theo trong học tập; -Có thể tạo hứng thú học tập trở lại đối với những học sinh đang chán nản với việc học; -Mối quan hệ giữa giáo viên – học sinh được cải thiện bởi học sinh càng đạt được nhiều thành công, càng thích thú với việc học.

Từ những ích lợi đó, McCarthy đã đề xuất một khung giáo án gồm 4 bước giúp giáo viên có thể thỏa mãn các loại PCHT khác nhau trong một bài giảng:

1.Khởi động-Tạo kinh nghiệm-Gợi lại kinh nghiệm(Phù hợp với PCHT của người sáng kiến, nhận thức phụ thuộc, PCHT nhìn, nghe, vận động)

2.Phát triển khái niệm-Tương tác với khái niệm mới-Trình bày và phát triển các lý thuyết và khái niệm mới.(Phù hợp với PCHT của người phân tích, nhận thức độc lập )

4.Ứng dụng-Xây dựng kế hoạch ứng dụng các khái niệm mới.-Thực hiện và chia sẻ với người khác.(Phù hợp với PCHT của người năng động, )

3.Luyện tập-Luyện tập và củng cố khái niệm mới-Luyện tập khái niệm mới với tình huống của bản thân(Phù hợp với PCHT nhìn, nghe, vận động và xúc giác, PCHT của người thực tế)

Tóm lại, áp dụng lý thuyết PCHT vào dạy học là hướng đi thiết thực, mang lại nhiều lợi ích cho người học bởi nó đáp ứng nguyên tắc dạy cơ bản là giảng dạy phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh. Đây cũng là cơ sở lý luận quan trọng để giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hóa người học một cách hiệu quả và khoa học. Cũng lưu ý thêm rằng, kết quả áp dụng sẽ tốt hơn nếu giáo viên lựa chọn mô hình PCHT phù hợp với đặc điểm môn học; đồng thời giúp học sinh ý thức rõ PCHT ưu thế của mình để có phương pháp tự học phát huy và hạn chế tối đa các ưu khuyết điểm trong thói quen học tập.

--------------------------Tài liệu tham khảo1.Nguyễn Thị Đỗ Quyên, Phong cách học tập và ảnh hưởng của nó đến khối lượng ghi nhớ từ vựng tiếng

Anh của học sinh lớp 6 tại thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008.

2. http://www.teachingenglish.org.uk/think/methodology/learning_style.shtml.3. http://www.teachingenglish.org.uk/try/othertry/learning_styles.shtml.

12

Page 13: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG KIÊM TOÁN

Trần Thị Hòa - Khoa KTTC

Phân tích tài chính (PTTC) được xem là một công cụ không thể thiếu đối với các kiểm toán viên (KTV) trong công tác kiểm toán. Bởi lẽ, thông qua PTTC các KTV có thể xác định tính trung thực, độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính (BCTC) và thực trạng tài sản của các chủ thể trong quan hệ kinh tế trên cơ sở phương pháp luận khoa học đáng tin cậy. Trong trường hợp một bộ phận, một khoản mục có giá trị không đáng kể so với tổng thể các thông tin tài chính và không có các dấu hiệu biến động bất thường, đồng thời mức độ rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát thấp, đôi khi KTV chỉ cần áp dụng phương pháp PTTC là đã có thể rút ra những nhận xét cần thiết mà không cần áp dụng thêm kỹ thuật kiểm toán nào khác.1. Đặt vấn đề

Phân tích tài chính thuộc phương pháp phân tích đánh giá tổng quát của phương pháp kiểm toán cơ bản. Bằng cách so sánh, xác định tỷ lệ tương quan giữa các chỉ tiêu, các khoản mục khác nhau, các mối quan hệ tài chính để xác định những tính chất hay những sai lệch không bình thường trong bảng cân đối kế toán và các BCTC khác của doanh nghiệp. Chẳng hạn tỷ lệ lãi gộp, tỷ lệ luân chuyển hàng tồn kho thay đổi từ 30% năm trước xuống 10% của năm nay thì đó là một sự thay đổi lớn mà các KTV phải lưu tâm. Sự thay đổi này có thể do khách quan nhưng cũng có thể là sự gian lận của các nhà quản lý và các cán bộ nghiệp vụ trong doanh nghiệp. Do vậy, để phân tích và đánh giá trung thực các thông tin tài chính doanh nghiệp thì PTTC được xem là công cụ không thể thiếu của các KTV chuyên nghiệp. Phân tích các tỷ số tài chính không những giúp các KTV trong giai đoạn lập kế hoạch, giai đoạn thực hiện một hợp đồng kiểm toán mà còn giúp các KTV đánh giá, kết luận hợp đồng kiểm toán trên cơ sở các chứng cứ khoa học đáng tin cậy.2. Phân tích tài chính trong hoạt động kiểm toán

2.1. Vai trò của PTTC trong hoạt động kiểm toánKể từ khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì nhu

cầu về kiểm toán đã trở nên tất yếu. Trong hoạt động kiểm toán thì phân tích hoạt động kinh tế nói chung và PTTC nói riêng đóng một vai trò hết sức quan trọng, thể hiện trên hai phương diện:

Một là, qua PTTC sẽ đánh giá được các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, tình hình tài sản, tình hình vốn và nguồn vốn, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, cấu trúc tài chính doanh nghiệp. Tiếp xúc với bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp là bước bắt buộc của KTV ở giai đoạn ký hợp đồng kiểm toán cũng như trong quá trình kiểm toán. Việc kiểm tra đánh giá khái quát tình hình tài chính thông qua BCTC đóng vai trò định hướng đối với KTV để đưa ra những quyết định đúng đắn trong quá trình kiểm toán. Thông qua việc chuyển dữ liệu tài chính trên BCTC thành những thông tin hữu ích sẽ giúp cho KTV lên kế hoạch kiểm tra được chính xác, tìm ra được những sai sót trọng yếu trong hệ thống kế toán.

Trình tự phân tích của KTV trong giai đoạn làm quen với hoạt động của doanh nghiệp thường bao gồm các động tác sau:

- So sánh số liệu hiện hành với số liệu của kỳ trước;- So sánh số liệu thực hiện với số liệu kế hoạch hoặc dự đoán;- So sánh số liệu thực hiện với số định mức (hoặc tiêu chuẩn tối ưu);- So sánh số liệu thực tế với số bình quân chung hoặc bình quân của ngành.Mục đích của việc áp dụng trình tự phân tích như trên là xác định những hiện tượng bất thường

trong hoạt động và trong báo cáo của doanh nghiệp. Như vậy, nếu như việc xem xét đánh giá tổng quát trước tình hình tài chính của doanh nghiệp được tổ chức đúng đắn thì sẽ làm giảm độ sai sót của KTV trong quá trình kiểm toán.

13

Page 14: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

Hai là, PTTC được xem như là một dạng dịch vụ của KTV hay công ty kiểm toán. Bởi lẽ PTTC là một công cụ hữu hiệu để các đối tượng quan tâm có một sự nhìn nhận khoa học, đầy đủ và sâu sắc về tình hình tài chính doanh nghiệp để đưa ra các quyết định quan trọng. Cụ thể:

- Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: PTTC là cơ sở để đưa ra các quyết định tài chính nói riêng và quyết định quản trị nói chung. Bởi lẽ, qua việc PTTC, KTV sẽ giúp nhà quản trị tạo các chu kỳ đánh giá đều đặn về các hoạt động kinh doanh quá khứ, tiến hành cân đối tài chính, đánh giá khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, rủi ro tài chính của doanh nghiệp…Việc phân tích còn định hướng cho các quyết định của giám đốc như: quyết định đầu tư, quyết định tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần. Ngoài ra, PTTC còn giúp cho nhà quản trị có các dự báo tài chính cũng như các công cụ kiểm soát quản lý dựa trên các chứng cứ có cơ sở khoa học.

- Đối với các nhà đầu tư: Qua việc PTTC, KTV giúp cho các cổ đông quan tâm trực tiếp đến tính toán giá trị của doanh nghiệp vì họ đã giao vốn cho doanh nghiệp và có thể phải chịu rủi ro. Ngoài ra, PTTC còn giúp các nhà đầu tư đánh giá khả năng sinh lời và lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp.

- Đối với người cho vay: Qua việc PTTC, KTV giúp người cho vay ngắn hạn biết khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp, giúp người cho vay dài hạn biết khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Thông qua PTTC, KTV còn giúp họ có một tầm nhìn về cơ cấu tài chính, biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp.

- Đối với cơ quan quản lý khác như thuế, thống kê, cơ quan quản lý cấp trên : PTTC cung cấp các thông tin cần thiết cho công tác quản lý có liên quan.

Tóm lại, qua việc phân tích, mổ xẻ BCTC ở nhiều góc độ khác nhau mà KTV cung cấp cho các khách hàng những thông tin tài chính hữu ích, đáp ứng mục tiêu của từng khách hàng bằng những phương pháp có cơ sở khoa học. Lịch sử phát triển của kiểm toán cho thấy phần dịch vụ về phân tích chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong hoạt động của các công ty kiểm toán. Khách hàng không những quan tâm đến thực trạng tài chính của doanh nghiệp mà còn quan tâm đến triển vọng tăng trưởng và cả những hậu quả có thể xảy ra từ các quyết định của doanh nghiệp. 2.2. Các thông tin cần thiết trong PTTC

Các thông tin chung: Thông tin về tăng trưởng, suy thoái kinh tế; thông tin về lãi suất ngân hàng, trái phiếu kho bạc, tỷ giá ngoại tệ; thông tin về tỷ lệ lạm phát; các chính sách kinh tế của chính phủ.

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều nhân tố thuộc môi trường vĩ mô nên việc kết hợp các thông tin này sẽ giúp KTV đánh giá đầy đủ hơn tình hình tài chính và dự báo những cơ hội kinh doanh cũng như nguy cơ tiềm tàng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến sự khác nhau giữa sự biến động của lợi nhuận trước thuế và lãi vay với lợi nhuận sau thuế, từ đó làm cho các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu cũng có sự thay đổi khác nhau.

Các thông tin theo ngành: Sự phát triển của bất cứ doanh nghiệp nào cũng đặt trong sự phát triển chung của ngành đó. Các thông tin về hoạt động của ngành bao gồm: sự thay đổi của qui trình công nghệ, định hướng phát triển của ngành, giá trị và cơ cấu các khoản đầu tư, độ lớn và sự phát triển của thị trường, thực trạng và triển vọng của các đối thủ cạnh tranh, nguy cơ xuất hiện các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng…

Các thông tin trên sẽ làm rõ hơn nội dung các chỉ tiêu tài chính trong từng ngành, lĩnh vực kinh doanh, đánh giá rủi ro của doanh nghiệp. Tất cả các thông tin này có thể được cập nhật thông qua các tạp chí kinh tế, kỹ thuật và nghề nghiệp, theo hệ thống ngành dọc và thể hiện trong các BCTC mang tính định kỳ của các doanh nghiệp.

Các thông tin trong nội bộ doanh nghiệp: Nguồn thông tin quan trọng nhất trong doanh nghiệp đối với công tác PTTC của KTV là các BCTC của doanh nghiệp qua các kỳ. Các BCTC bao gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính.

14

Page 15: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

Bên cạnh hệ thống BCTC, tài liệu của kế toán chi tiết và các báo cáo kế toán quản trị cũng là những thông tin cần thiết để KTV tham khảo trong quá trình PTTC. Tuy nhiên, việc khai thác số liệu ở mức độ nào là tùy thuộc vào mục tiêu phân tích và khả năng tiếp cận thông tin của KTV. 2.3. Các phương pháp sử dụng trong PTTC

Để công tác PTTC trong hoạt động kiểm toán có hiệu quả, các KTV thường sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích như: phương pháp so sánh, phương pháp chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích, phương pháp liên hệ cân đối, phương pháp loại trừ, phương pháp tương quan và phương pháp hồi quy. 2.4. Nội dung PTTC

PTTC là một phần của phân tích hoạt động kinh tế nói chung. Nội dung chủ yếu của nó bao gồm:- Phân tích các chỉ tiêu tuyệt đối của lợi nhuận;- Phân tích các chỉ tiêu tương đối về tỷ suất lợi nhuận;- Phân tích tình hình tài chính, khả năng tự chủ tài chính, khả năng thanh toán;- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn vay;- Dự đoán tình hình tài chính của doanh nghiệp trong tương lai.Tùy theo kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp, KTVcó thể tính toán, phân tích nhiều hoặc một số

tỷ số cần thiết cho công tác kiểm toán. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp khác nhau các tỷ số tài chính cũng khác nhau, thậm chí trong một doanh nghiệp ở những thời điểm khác nhau cũng có các tỷ số tài chính không giống nhau. Do đó, người ta coi các tỷ số tài chính là những biểu hiện đặc trưng nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Khi sử dụng các tỷ số tài chính cần lưu ý là các tỷ số tự nó không có nghĩa, chúng chỉ có nghĩa khi được so sánh.

Sau đây là một số tỷ số thường dùng trong kiểm toán:- Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán: tỷ số khả năng thanh toán hiện thời, tỷ số khả năng thanh

toán nhanh, tỷ số khả năng thanh toán dài hạn, số vòng thu hồi nợ, số vòng luân chuyển hàng tồn kho.- Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời: tỷ số khả năng sinh lời của tài sản, tỷ số hiệu quả kinh doanh. - Nhóm tỷ số về cấu trúc tài chính: tỷ số đầu tư, tỷ số nợ, tỷ số tự tài trợ.Ngoài ra, kỹ thuật phân tích các tỷ số tài chính còn có thể sử dụng để nghiên cứu các mối quan hệ

giữa thông tin tài chính và những thông tin phi tài chính, các thông tin không có nghiệp vụ, thống kê cung cấp. Điều này giúp KTV có thể phát hiện nhiều sai sót và những vấn đề bất thường. Chẳng hạn, có thể so sánh quan hệ giữa chi phí tiền lương và số lượng lao động của doanh nghiệp, so sánh giữa số tồn kho của một số loại vật tư với khả năng chứa đựng của hệ thống kho hàng trong đơn vị…

2.5. Tổ chức công tác PTTC trong quá trình kiểm toán Qua công tác PTTC, KTVcó thể nhận dạng những sai sót của BCTC và có thể áp dụng trong cả ba

giai đoạn của quá trình kiểm toán:- Giai đoạn lập kế hoạch của một hợp đồng kiểm toán: Trong giai đoạn lập kế hoạch, phương pháp PTTC giúp KTV nhìn nhận doanh nghiệp một cách

toàn diện và xác định các yếu tố bất thường (nếu có) một cách nhanh chóng, để định hướng và xác định phạm vi kiểm tra, rút ngắn được thời gian kiểm toán. Chẳng hạn: Đối với nhóm tỷ số về khả năng sinh lời, tỷ lệ doanh thu trên tài sản cố định năm sau tăng vọt hơn năm trước thì có nguy cơ là con số tài sản cố định đã bị ghi trội. Như vậy, kỹ thuật phân tích còn giúp KTV “chuẩn đoán” được nhanh những khu vực có thể có sai sót để làm trọng tâm cho cuộc kiểm toán. Các thông tin thu được do áp dụng phương pháp phân tích còn giúp KTV quyết định nội dung, thời gian và phạm vi sử dụng các phương pháp kiểm toán khác. Áp dụng phương pháp PTTC trong khi lập kế hoạch kiểm toán có thể sử dụng cả số liệu tài chính và các thông tin phi tài chính.

- Giai đoạn thực hiện một hợp đồng kiểm toán: Trong giai đoạn này, PTTC được sử dụng như một phương pháp kiểm tra cơ bản, nhằm thu thập

các bằng chứng để chứng minh cho một cơ sở dẫn liệu cá biệt, có liên quan đến số dư tài khoản hoặc một loại nghiệp vụ nào đó. Các bằng chứng về các cơ sở dẫn liệu, các khoản mục trong BCTC có thể

15

Page 16: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

thu thập được khi tiến hành thử nghiệm chi tiết các nghiệp vụ, số dư hoặc sử dụng phương pháp phân tích hay kết hợp cả hai phương pháp. Khi sử dụng phương pháp phân tích cho mục đích này, KTVcần xem xét các vấn đề sau:

+ Mục đích của phương pháp phân tích và mức độ KTVcó thể tin cậy vào phương pháp phân tích.+ Tính hữu dụng của các thông tin tài chính và các thông tin không có tính chất tài chính.+ Độ tin cậy của các thông tin hiện có. Chẳng hạn: kinh nghiệm cho thấy là kế hoạch thu - chi

thường được lập một cách thận trọng hơn các kế hoạch khác.+ Tính so sánh của các thông tin hiện có. Ví dụ: Số liệu của một ngành rộng sẽ không thể so sánh

được với số liệu của một doanh nghiệp chuyên sản xuất các sản phẩm đặc biệt.+ Các kinh nghiệm mà KTV đã thu thập được trong kỳ kiểm toán trước về hiệu lực của qui chế

kiểm soát nội bộ và các dạng vấn đề đã phát sinh trong các kỳ trước để điều chỉnh số liệu kế toán. Với một hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém, việc áp dụng đơn thuần phương pháp phân tích để đưa ra kết luận là hết sức nguy hiểm.

- Giai đoạn hoàn thành (đánh giá, kết luận) một hợp đồng kiểm toán: Khi hình thành kết luận tổng quát về tổng thể các thông tin tài chính, KTV nên áp dụng phương

pháp phân tích để đánh giá tổng quát vào cuối cuộc kiểm toán. Các kết luận rút ra từ kết quả áp dụng phương pháp phân tích để củng cố cho các kết luận đã hình thành trong kiểm tra từng yếu tố riêng biệt của các thông tin tài chính và giúp KTV đi tới một kết luận tổng quát về tính hợp lý của các thông tin tài chính (tất nhiên các kết luận này cũng xác định những phần việc yêu cầu sử dụng thêm các phương pháp kiểm toán khác).

Ngoài ra, kỹ thuật phân tích còn giúp KTV thử lại khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp trước khi ký báo cáo kiểm toán.3. Kết luận

PTTC có thể được hiểu như quá trình kiểm tra, xem xét các số liệu tài chính hiện hành và quá khứ, nhằm mục đích đánh giá, dự tính các rủi ro cũng như tiềm năng trong tương lai phục vụ cho các quyết định tài chính và đánh giá doanh nghiệp một cách chính xác. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, PTTC phát triển nhanh chóng do nhiều nguyên nhân: nhu cầu quản lý doanh nghiệp và tập đoàn tăng lên, sự phát triển của tập đoàn tài chính, các hoạt động về tái cơ cấu vốn, sự thành lập các tập đoàn quốc gia và đa quốc gia… PTTC đã trở thành một trong các dịch vụ chủ yếu của KTV và các công ty kiểm toán, dịch vụ này chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng doanh thu của các công ty kiểm toán. Mặc dù, trong những năm qua ngành kiểm toán Việt Nam đã không ngừng phát triển về cả lý luận lẫn thực tiễn nhưng nó vẫn còn là một lĩnh vực mới mẽ, nên trong vấn đề nghiên cứu còn rất nhiều khó khăn, rất nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện để hoạt động kiểm toán ngày càng tốt hơn và PTTC chính là một trong các công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho lĩnh vực kiểm toán.

Đánh giá, phân tích tổng quát là phương pháp kiểm toán có hiệu quả cao vì thời gian ít, chi phí thấp mà tác dụng lại cao. Kỹ thuật phân tích cung cấp các dữ liệu có độ tin cậy cao cho hoạt động kiểm toán nên thường được các KTV cấp cao tiến hành và thường là kỹ thuật được áp dụng đầu tiên cho mọi cuộc kiểm toán. Những sai sót trọng yếu, những yếu tố bất thường được phát hiện trong quá trình phân tích, so sánh, xác định tỷ lệ tương quan giữa các tỷ số tài chính có thể sẽ được đề cập trong bài viết tiếp theo với một BCTC cụ thể.

Tài liệu tham khảo1. Ngô Thế Chi (2006), Đọc và phân tích BCTC của doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội.2. Josette Peyrard (2005), PTTC doanh nghiệp, NXB Thống kê, Hà Nội.3. Nguyễn Quang Quynh (2007), Kiểm toán tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội.4. Trương Bá Thanh, Trần Đình Khôi Nguyên (2006), Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh- Phần 2, NXB Giáo dục.5. Đoàn Ngọc Trai (2007), Bài giảng Kiểm toán lớp Cao học Kế toán.

16

Page 17: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

TIM HIỂU VỀ UCP No.600 ĐỐI VỚI GIẢNG VIÊN VÀ HỌC SINH, SINH VIÊNCHUYÊN NGÀNH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Nguyễn Tiến Đà - Khoa QTKD * UCP-DC là gì ?

Hiện nay có rất nhiều tài liệu viết về UCP-DC đặc biệt là sự thay đổi của UCP.No 600 so với UCP.No 500. Tuy nhiên, có nhiều lý do cần có sự giới thiệu về khía cạnh này ở nội bộ nhà trường có đào tạo bậc trung cấp và cao đẳng chuyên ngành Thương mại quốc tế. Thứ nhất, các tài liệu viết đều ở khía cạnh rất rộng và thường dành cho giảng viên, sinh viên đại học. Thứ hai, trong chương trình giảng dạy ở các trường, ngay cả trường đại học, UCP chỉ được giới thiệu như là một văn bản chứ không thành một bài học đầy đủ, nên việc hiểu biết nó tùy thuộc vào khả năng tra cứu và liên hệ với nhiều môn nghiệp vụ khác trong chuyên ngành. Thứ ba, các tài liệu viết về UCP rất chuyên sâu nên không có một sự giới thiệu mang tính tổng quát đến học sinh, sinh viên (HSSV) và giảng viên chuyên ngành của nhà trường. Thứ tư, sự nhìn nhận và hiểu biết đầy đủ về tầm quan trọng của UCP trong thanh toán quốc tế còn hạn chế nên ảnh hưởng đến khả năng truy cập, tìm hiểu. Cuối cùng, UCP thực sự quan trọng đối với thanh toán bằng L/C trong các hợp đồng ngoại thương đối với cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như nhân viên ngân hàng có liên quan.

Hầu hết, việc thanh toán của các doanh nghiệp ngoại thương hiện nay đạt hiệu quả thấp, thời gian thanh toán thường bị vi phạm, chứng từ thanh toán thường bị sai sót thường xuyên, khả năng đòi tiền bằng bộ chứng từ thanh toán bị giảm hiệu quả rõ rệt, tranh chấp về thanh toán thường xảy ra và phần thiệt hại luôn thuộc về người bán... do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có một nguyên nhân hết sức cơ bản là sự hiểu biết và vận dụng về UCP.

Trong khả năng giới hạn về phạm vị bài viết, chúng tôi chỉ mong muốn giới thiệu những nét cơ bản về UCP, những điểm thay đổi mới nhất của UCP.No 600 so với UCP No.500, nhấn mạnh tầm quan trọng của nó để qua đó các giảng viên chuyên ngành liên quan và HSSV trong nhà trường có cơ sở tham khảo, nghiên cứu sâu hơn.

UCP-DC (Uniform Customs Practice - Documentary Credit): dịch sang tiếng Việt Nam là Quy tắc thống nhất về thực hành tín dụng chứng từ - dùng cho thanh toán bằng L/C (Letter of Credit). UCP do phòng Thương mại quốc tế ICC (International Commerce Chamber) phát hành. ICC được thành lập vào năm 1919 có trụ sở tại Pa-ri (Pháp). Với mục tiêu ban đầu là thúc đầy thương mại quốc tế vào thời điểm mà chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa bảo hộ đe dọa nghiêm trọng hệ thống thương mại thế giới. Trên tinh thần đó, UCP được ban hành lần đầu tiên vào năm 1933 (UCP số 82) nhằm thống nhất những quan niệm trong thực hành Thư tín dụng (L/C) giảm thiểu sự xung đột pháp luật giữa các giới thương nhân các quốc gia với nhau và giữa họ với ngân hàng trong vấn đề thanh toán liên quan đến L/C. Đến nay đã có trên 180 nước trên thế giới và khu vực áp dụng UCP cho thấy sự thành công của quy tắc này. UCP là quy tắc của một tổ chức quốc tế phi chính phủ (ICC), chứ không phải là luật pháp quốc tế hay luật pháp quốc gia.

UCP được sửa đổi lần thứ nhất vào năm 1951. (UCP số 151)UCP được sửa đổi lần thứ hai vào năm 1962. (UCP số 222)UCP được sửa đổi lần thứ ba vào năm 1974. (UCP số 290)UCP được sửa đổi lần thứ tư vào năm 1983. (UCP số 400)UCP được sửa đổi lần thứ năm vào năm 1993. (UCP số 500)UCP được sửa đổi lần thứ sáu vào năm 2007. (UCP số 600) Có hiệu lực từ ngày 01/07/2007.(Số kèm theo UCP là số hiệu văn bản ấn hành, còn được viết tắt là UCP No...)

17

Page 18: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

* Vai trò, tầm quan trọng của UCP-DC:Thanh toán Tín dụng chứng từ (Documentary Credit: DC) hay còn gọi là phương thức thanh toán

bằng L/C là phương thức thanh toán phổ biến trong thanh toán quốc tế hiện nay, chiếm 60%. Ơ Việt Nam ta chiếm đến 80% (theo GS.TS Võ Thanh Thu, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh), nguyên nhân là do phương thức này đảm bảo cho người bán chắc chắn thu được tiền và người mua chắc chắn nhận được hàng như ý muốn. Nhưng muốn điều đó thực hiện được, người bán phải lập đúng bộ chứng từ thanh toán (Documentary Payment) theo đúng nội dung L/C mà người mua đã yêu cầu ngân hàng mở ra, đồng thời việc lập chứng từ đúng cũng chứng minh rằng người bán đã giao hàng đúng và đó là lý do bảo vệ quyền lợi của người mua (người nhập khẩu - NK).

Như vậy, đối với ngân hàng thông báo,UCP tạo ra cơ sở chung nhất trong việc phục vụ kiểm tra chứng từ thanh toán của doanh nghiệp xuất khẩu (XK) bằng L/C, bảo vệ quyền lợi cho người XK. Đối với ngân hàng phát hành, L/C tạo cơ sở cho ngân hàng kiểm tra chứng từ đảm bảo quyền lợi nhập hàng của người nhập khẩu.

Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu (XNK):UCP là cẩm nang giúp doanh nghiệp NK mở L/C chính xác, kiểm tra chứng từ thanh toán của

người XK để nhập được hàng theo nguyện vọng nhập hàng của mình. Giúp doanh nghiệp XK lập chứng từ thanh toán đúng với yêu cầu của L/C để được ngân hàng thanh toán tiền hàng.

UCP còn là tài liệu giúp cho các doanh nghiệp giám sát các dịch vụ ngân hàng đối với mình.UCP còn là căn cứ để doanh nghiệp kiện, khiếu nại về thanh toán làm ảnh hưởng đến quyền lợi

của doanh nghiệp mình.* Nhưng chú ý cần thiết khi sử dụng UCP:

- Xin nhắc lại rằng UCP không phải là luật pháp quốc tế vì vậy nó không mang tính chất bắt buộc các bên trong hợp đồng ngoại thương phải áp dụng. Việt Nam đã công nhận và tuyên bố áp dụng, nếu áp dụng thì dẫn chiếu đến UCP trong thư tín dụng của mình.

- Hiện nay là UCP No 600, nhưng không có nghĩa là các UCP trước đó hết hiệu lực, các bên có quyền sử dụng bất cứ UCP nào nếu muốn dẫn chiếu nó vào thư tín dụng.

- Các bên không có nghĩa vụ phải thực hiện đúng từng điều quy định của UCP, nếu thỏa thuận thống nhất có quy định khác so với nội dung một số điều trong UCP thì ghi rõ quyết định đó trong L/C để ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên.

- UCP bản gốc bằng tiếng Anh do Phòng Thương mại quốc tế ICC phát hành mới có giá trị dẫn chiếu và tranh chấp, các loại bảng dịch sang các thứ tiếng chỉ có giá trị tham khảo.

- UCP chỉ áp dụng trong thanh toán quốc tế, không áp dụng trong thanh toán nội địa.- UCP không phải là văn bản duy nhất điều tiết thanh toán tín dụng chứng từ. Một số văn bản sau

đây vẫn có giá trị điều tiết các hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ: + ISP 98 (the International Standby Practices 98) Quy tắc thực hành thư tín dụng dự phòng Quốc

tế 98.+ eUCP (the UCP Supplement for Electronic Presentation) Phụ lục của UCP về xuất trình chứng

từ điện tử.+ ISBP (International Standard Banking Practice for the examination of documents under

documentary credit) Tập quán ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế áp dụng cho việc kiểm tra chứng từ trong phương thức tín dụng chứng từ.

* Nguyên nhân thay đổi của UCP No.600 so với UCP No.500:- Sự tiến bộ không ngừng về trình độ kinh doanh quốc tế trong suốt hơn 10 năm qua kể từ 1993

(UCP No.500).- Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự ra đời của thương mại điện tử, sự xuất

hiện thanh toán bằng chứng từ điện tử ngày càng phổ biến.- Sự bùng nổ của hệ thống ngân hàng cùng với trình độ phục vụ tiên tiến.

18

Page 19: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

- Ngoại thương ngày càng phát triển mạnh, các liên kết khu vực và liên kết quốc tế liên quan đến thương mại quốc tế phát triển nhanh.

- Thanh toán bằng L/C vẫn ngự trị, tuy nhiên hệ thống chứng từ theo phương thức thanh toán L/C của UCP No.500 đã trở nên không đáp ứng kịp, có nhiều bất cập cho các nhân viên ngân hàng khi phục vụ quá trình thanh toán.

- Theo thông lệ, giống như cách làm với INCOTERMS, cứ sau 10 năm phải đổi mới để kịp thay thế những lạc hậu bổ sung những điểm mới.* Nhưng điểm thay đổi cơ bản của UCP No.600 so với UCP No.500:

- Thứ nhất, ngôn ngữ dùng trong UCP No.600 rõ ràng, dể hiểu hơn, việc giải thích và khái niệm, định nghĩa cũng rõ ràng hơn.

- Thứ hai, UCP.No 600 gồm 39 điều ngắn gọn hơn so với 49 điều của UCP No.500. - Thứ ba, đưa vào 3 điều khoản mới là 2; 3 và 5.- Thứ tư, chỉnh sửa các điều khoản, cụ thể: 4; 5; 7; 8; 9; 10; 12; 13; 14; 16; 17; 18; 19; 20; 21;

22; ..; 38.Mặc dù có nhiều thay đổi nhưng chúng ta cần nắm vững rằng: UCP No.600 quy định những vấn đề

cơ bản về phương thức thanh toán bằng L/C bao gồm: Các đối tượng kinh doanh XNK liên quan đến thanh toán L/C; Các ngân hàng, vai trò của nó; Các thuật ngữ thanh toán cần được các bên thống nhất; Thủ tục mở L/C; Quy định về các chứng từ, cơ quan lập, nội dung các chứng từ; số lượng chứng từ, các thuật ngữ trong các chứng từ, chứng từ thanh toán hợp lệ, không hợp lệ; Chứng từ của các phương thức vận tải; Trị giá thanh toán; Vận dụng tập quán trong thanh toán bằng L/C v.v... những nội dung này hết sức quan trọng nhưng trong chương trình đào tạo chính quy các giáo viên không thể nào có đủ thời gian cho phép để đề cập hết.

Do vậy, chúng tôi thiết nghĩ rằng đối với giáo viên yêu cầu bắt buộc là phải nắm vững nội dung của UCP tuy rằng việc đưa những nội dung nào là cần thiết kết hợp vào từng phần của bài giảng các học phần về thanh toán L/C là tùy vào khả năng và nghệ thuật của họ, nhưng hướng dẫn cho HSSV làm bài tập, thực hành như: mở L/C; kiểm tra L/C, lập chứng từ thanh toán mà không nắm vững UCP thì thật là thiếu sót.

Đối với HSSV, tuy giáo viên không giảng đầy đủ về UCP trên lớp học, hay phải chờ ngoại khóa về chuyên đề này, nhưng trách nhiệm của các em là phải tìm đọc theo sự hướng dẫn của giáo viên, việc này cần tạo thành một thói quen tự giác như truy cập hàng ngày các văn bản pháp luật vậy. Nếu các em cho rằng chỉ trông chờ vào bài giảng của thầy cô ở lớp mà thôi thì khi ra trường công tác e rằng sự đa dạng trong các loại hình kinh doanh sẽ làm các em bối rối về xử lý các vấn đề liên quan đến thanh toán bằng L/C như nói ở trên, lúc đó hoặc tự ta gây ra thiệt hại cho doanh nghiệp hoặc phải nhờ đến dịch vụ thanh toán thuê và như vậy niềm tin của doanh nghiệp vào người cán bộ XNK bị giảm đi rất nhiều.------------------------------

Tài liệu tham khảo* Văn bản UCP No.500; UCP No.600 bằng Tiếng Anh và Tiếng Việt. * Cẩm nang sử dụng UCP No.600; GS-TS Nhà giáo ưu tú Đinh Xuân Trình; NXB Lao động Xã

hội, Hà Nội, 2008.* Hướng dẫn đọc để hiểu UCP No.600; GS-TS Võ Thanh Thu; NXB Thống kê, 2007.* Các chứng từ trong thanh toán bằng L/C (liên hệ Gv. Nguyễn Tiến Đà).

19

Page 20: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

VẤN ĐỀ TÍNH THIỆT HẠI PHÁT SINHDO CÓ SỰ VI PHẠM HỢP ĐỒNG

Đặng Xuân Trường - Bộ môn CBĐiều 302 Luật Thương mại 2005 có quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại như sau: “Bồi thường

thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Gía trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đi vào phân tích một số vấn đề liên quan đến việc tính thiệt hại phát sinh do có sự vi phạm hợp đồng.

I. Phương pháp tính thiệt hại

1. Giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng: Xác định theo thực tế. Ví dụ: Giao xi măng bị vón cục, giao thiếu gạo, giao gạo bị ẩm ướt…, giá trị tài sản mất mát hư hỏng là giá trị xi măng bị vón cục, gạo bị thiếu hoặc bị ẩm ướt.

2. Chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại: Đây là những chi phí trên thực tế bên bị vi phạm phải bỏ ra trước để ngăn chặn hoặc hạn chế những thiệt hại phát sinh từ việc vi phạm hợp đồng. Ví dụ: Trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá, bên vận chuyển đưa phương tiện đến chậm làm phát sinh chi phí lưu kho…

3. Các khoản tiền phạt và bồi thường thiệt hại mà bên bị vi phạm phải trả cho bên thứ ba là hậu quả trực tiếp của việc vi phạm hợp đồng gây ra. Trên thực tế đây là khoản thiệt hại khó xác định vì thế chúng ta phải chú ý những vấn đề sau: a) Bên bị vi phạm có thể lập hợp đồng giả tạo (hợp đồng không có thật) với bên thứ ba để đòi bồi thường; b) Đã có phán quyết của Toà án hay Trọng tài về việc bồi thường thiệt hại giữa bên bị vi phạm và bên thứ 3 hay chưa; c) Bên thứ ba chưa kiện đòi bên bị vi phạm phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng hoặc tiền bồi thường thiệt hại

Từ những phân tích trên chúng tôi đi tới kết luận cơ sở pháp lý của việc tính khoản thiệt hại trên là phải có hành vi thực tế liên quan đến việc thanh toán tiền giữa bên bị vi phạm và bên thứ ba hoặc có một phán quyết của Toà án hoặc Trọng tài về việc người bị vi phạm phải trả tiền phạt và bồi thường thiệt hại cho bên thứ ba.

4. Những thu nhập mà trong điều kiện bình thường bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Trong trường hợp này chúng ta cũng phải xem xét, phân tích cụ thể phương án kinh doanh của bên bị vi phạm. Phải đặc biệt lưu ý những phương án kinh doanh bất hợp lý, không có tính khả thi hoặc các hợp đồng giả tạo mà bên bị vi phạm đưa ra.

II. Nguyên tắc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại

1. Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại có nghiã vụ chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.

2. Thiệt hại bao nhiêu bồi thường bấy nhiêu và theo mức độ lỗi của bên bị vi phạm.3. Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị hàng hóa bị tổn thất và khoản lợi đáng ra

được hưởng.4. Bên đòi bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để ngăn chặn và hạn chế tổn thất

kể cả khoản lợi được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng những biện pháp này thì bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt tiền bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ hạn chế được.

Ví dụ: Công ty A ký hợp đồng mua sắt thép của công ty B, nếu công ty B không thực hiện thì công ty A có thể mua sắt thép của một công ty khác (trên thực tế là vào thời điểm đó công ty A hoàn toàn có thể mua được sắt thép của một công ty khác) nhằm hạn chế thiệt hại. Nếu công ty A không thực hiện sẽ không được bồi thường toàn bộ các thiệt hại.

20

Page 21: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ HÀNG XUẤT KHO Nguyễn Thị Thương - Lớp: KT1.2

I. Đặt vấn đề- Về nguyên tắc, hàng hoá nhập kho giá nào thì ghi xuất kho giá đó, nhưng trong quá trình hạch toán, giá cả hàng hoá, vật tư luôn luôn biến động. Do vậy, để phù hợp với thực tế, đơn vị kế toán tính giá thực tế hàng hoá xuất kho theo 1 trong 4 phương pháp được quy định trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS 02), bao gồm:

+ Phương pháp bình quân + Phương pháp đích danh+ Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO)+ Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO)

- Việc tính giá hàng tồn kho phụ thuộc vào đơn giá mua của hàng hoá trong các thời kỳ khác nhau. Nếu hàng hoá được mua với đơn giá ổn định từ kỳ này sang kỳ khác thì việc tính giá hàng xuất kho sẽ rất đơn giản, nhưng nếu hàng hoá giống nhau được mua với các đơn giá khác nhau thì cần phải xác định xem cần sử dụng đơn giá nào để tính trị giá hàng xuất kho cuối kỳ.- Mỗi doanh nghiệp có quyền lựa chọn một phương pháp tính giá khác nhau, dựa trên những ưu nhược điểm của mỗi phương pháp phù hợp với tình hình của doanh nghiệp.II. Phương pháp tính trị giá hàng xuất kho1. Phương pháp bình quân (đơn giá bình quân)- Theo phương pháp này trị giá hàng xuất kho trong kỳ được tính theo đơn giá bình quân trong cả kỳ dự trữ:+ Đơn giá bình quân (mặt hàng) = + Trị giá hàng xuất kho trong kỳ = Đơn giá bình quân x Số lượng hàng xuất trong kỳ.+ Trị giá hàng tồn kho cuối kỳ = Trị giá hàng tồn đầu kỳ + Trị giá hàng nhập trong kỳ - Trị giá hàng xuất kho trong kỳ.- Vì chịu sự ảnh hưởng của giá hàng tồn kho đầu kỳ và giá nhập trong kỳ nên phương pháp bình quân có khả năng che giấu sự biến động của giá. - Phương pháp bình quân có cách tính đơn giản, dễ làm, ít tốn công sức, nhưng số liệu không chính xác. Phương pháp này thường phù hợp với phương pháp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ .2. Phương pháp đích danh- Theo phương pháp này, trị giá hàng xuất kho được xác định trên cơ sở số lượng hàng xuất mỗi lần và đơn giá nhập thực tế của lô hàng được xuất.+ Trị giá hàng tồn cuối kỳ = Số lượng hàng tồn ở các lần nhập x Đơn giá thực nhập của lô hàng tồn+ Trị giá hàng xuất trong kỳ = Trị giá hàng tồn đầu kỳ + Trị giá hàng nhập trong kỳ - Trị giá hàng tồn cuối kỳ- Phương pháp đích danh có thể được ủng hộ vì nó hoàn toàn làm tương xứng giữa chi phí và doanh thu. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ được sử dụng với các loại hàng hoá có giá trị cao, có tính tách biệt. Hàng hóa được xác định theo đơn chiếc hoặc từng lô và giữ nguyên từ lúc nhập vào đến lúc xuất ra. Khi xuất hàng nào thì xác định theo giá đích danh lô hàng đó. - Phương pháp đích danh cho ra số liệu chính xác nhất nhưng chỉ có thể vận dụng khi việc theo dõi hàng bán, nhập - xuất trong kho được chặt chẽ và theo dõi sát từng lô hàng hàng còn lại và số hàng xuất bán.

21

Trị giá hàng tồn đầu kỳ + Trị giá hàng nhập trong kỳSố lượng hàng tồn đầu kỳ + Số lượng hàng nhập trong kỳ

Page 22: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

- Phương pháp này thường phù hợp với phương pháp kiểm kê hàng tồn kho là phương pháp kê khai thường xuyên.3. Phương pháp FIFO- Phương pháp này đặt trên giả thiết là lô hàng nào nhập kho trước thì xuất trước và lấy đơn giá nhập của lần đó để tính trị giá xuất kho.- Giá trị hàng tồn kho cuối cùng là giá của những lần nhập sau cùng; vì vậy sẽ đảm bảo cho giá trị hàng tồn kho trình bày trên sổ sách kế toán và trên báo cáo tài chính (BCTC) được sát với hiện tại.- Xét trong nền kinh tế thị trường lạm phát, giá cả ngày càng tăng lên làm cho giá trị hàng tồn kho cuối kỳ cao mà không phản ánh theo giá trị thực. Giả sử hàng tồn kho của những năm trước được sử dụng để xác định giá vốn hàng xuất mà giá vốn thấp thì sẽ làm tăng lợi nhuận gộp; điều này có thể gây ảnh hưởng đến lợi nhuận thực của doanh nghiệp và tiềm ẩn tăng khoản thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.

Ngoài ra, các chi phí liên quan đến giá trị hàng tồn kho được ghi nhận trong kỳ, khi xác định kết quả lãi lỗ sẽ không sát với thực tại. Bên cạnh đó, phương pháp tính toán phức tạp, dễ nhầm lẫn.4. Phương pháp LiFo- Phuơng pháp này đặt trên giả thiết là lô hàng nào nhập kho sau thì ghi xuất ra trước và lấy đơn giá nhập của lần nhập mới nhất để tính cho trị giá hàng xuất. Lô nào xuất xong thì xoá sổ.- Cơ sở khoa học của phương pháp này là do doanh nghiệp hoạt động liên tục, phải có hàng hoá thay thế cho hàng tồn kho được xuất; mỗi khi xuất hàng, hàng hoá thay thế sẽ được nhập vào. Như vậy, việc xuất hàng đã tạo ra sự thay thế của hàng hoá. Nếu chi phí và thu nhập tương xứng với nhau thì trị giá vốn của hàng hoá thay thế phải phù hợp với doanh số đã gây ra sự thay thế này. Do vậy, chi phí của lần nhập gần nhất sẽ tương đối sát với trị giá vốn của hàng hoá thay thế. - Khi giá cả có xu hướng tăng lên, giúp cho đơn vị kinh doanh giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp do lúc đó lợi nhuận giảm, chi phí hàng hoá cao nhất. Vì ưu điểm này mà doanh nghiệp đã sử dụng để đạt mục tiêu giảm thuế. Tuy nhiên, trong điều kiện không có những ảnh hưởng về thuế, phương pháp này tạo kẽ hở cho nhà quản lý để gian lận lợi nhuận.- Thực hiện phương pháp LIFO đảm bảo được yêu cầu của nguyên tắc phù hợp.- Xét trong điều kiện giá cả ngày càng tăng cao, thì phương pháp này làm cho giá trị hàng tồn kho cuối kỳ thấp mà không phản ánh theo giá trị thực ở hiện tại. Vì vậy, chỉ tiêu hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán (BCĐKT) không phản ánh sát với giá thị trường tại thời điểm báo cáo, dẫn đến giá trị tài sản lưu động của doanh nghiệp bị ghi nhận thấp hơn so với giá trị thực tế của nó. Vì giá vốn hàng bán được xác định cao hơn nên thu nhập thuần sẽ có kết quả thấp, tạo nên sự hiểu lầm về khả năng sinh lời của doanh nghiệp, dẫn đến việc phản ánh không đúng bản chất kinh tế trên BCTC.- Chi phí quản lý hàng tồn kho của doanh nghiệp có thể lên cao vì mua thêm hàng hoá nhằm tính vào giá vốn hàng bán những chi phí mới nhất với giá cao nhất (nhất là trong trường hợp có lạm phát). Điều này trái ngược với xu hướng quản lý hàng tồn kho một cách có hiệu quả. Giá trị hàng tồn kho được phản ánh thấp hơn giá trị của nó, vốn lưu động cũng thấp hơn so với thực tế khả năng thanh toán của doanh nghiệp.III. Các nguyên tắc kế toán- Vì cách lựa chọn phương pháp tính giá hàng xuất kho có ảnh hưởng đến các BCTC; một số doanh nghiệp có thể có khuynh hướng mỗi năm chọn lựa lại một lần. Mục đích là làm sao để doanh nghiệp có thể lập BCTC thuận lợi nhất. Nếu điều này được phép, người xem báo cáo khó xác định sự thay đổi kết quả kinh doanh là do hoạt động hiệu quả hơn hay từ việc thay đổi phương pháp kế toán. Nguyên tắc nhất quán giúp điều này không thể xảy ra. Nó đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng các phương pháp kế toán giống nhau mới so sánh được các BCTC qua các năm.- Khi chọn phương pháp tính giá nào thì doanh nghiệp phải công khai trong phần ghi chú báo cáo. Đây là một yếu tố quan trọng để người đọc hiểu chính xác các báo cáo.

22

Page 23: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

IV. Kết luậnViệc nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp tính giá hàng xuất kho giúp phân biệt và hiểu rõ hơn

về những ưu, nhược điểm của mỗi phương pháp. Việc xác định giá hàng xuất kho đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý được giá mua và chi phí mua để đảm bảo đúng yêu cầu về số lượng và chất lượng hàng hoá với chi phí bỏ ra là hợp lý nhất.

Trong nền kinh tế có lạm phát, khi giá mua tăng qua các kỳ, phương pháp FIFO sẽ cho kết quả giá vốn hàng bán thấp nhất, lợi nhuận cao nhất. Ngược lại, phương pháp LIFO sẽ cho kết quả giá vốn hàng bán cao nhất và lợi nhuận thấp nhất. Như vậy, có thể nói phương pháp đơn giá bình quân sẽ nằm giữa hai phương pháp FIFO và LIFO. Còn kết quả phương pháp đích danh thì hoàn toàn phụ thuộc vào sản phẩm nào được thực tế tiêu thụ.

Mặc dù phương pháp LIFO có những ưu điểm nhất định nhưng nhìn chung áp dụng phương pháp LIFO sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực như đã trình bày ở trên.

SỬ DỤNG VBA TRONG EXCEL XÂY DỰNG HÀM TÍNH KHẤU HAO TÀI SẢN CỐ ĐỊNH THEO PHƯƠNG PHÁP

SỐ DƯ GIẢM DẦN

Nguyễn Ngọc Nhân - Lớp KT1.3

Tính khấu hao là một việc làm thường xuyên giúp các nhà quản lý nhằm nắm bắt được yếu tố chi phí để xác định đúng đắn giá thành sản phẩm và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Công việc tính toán sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn rất nhiều và có được thông tin một cách chính xác nếu biết dựa vào các hàm trong Excel như SLN, DB…Tuy nhiên, ngoài các hàm trên, trong Excel còn trang bị cho một công cụ rất linh hoạt giúp cho người sử dụng máy tính có thể tự xây dựng các hàm theo ý riêng của mình, đó là ngôn ngữ lập trình VBA (Visual Basic Application).

Bài viết này sẽ trình bày việc tính khấu hao theo phương pháp số dư giảm dần với 3 hàm tự tạo (Function User):

+ YearOfBreak: Hàm xác định năm mà mức khấu hao chuyển từ phương pháp số dư giảm dần sang phương pháp bình quân giá trị còn lại.+ Depreciation: Hàm tính khấu hao TSCĐ trong năm t.+ NetValue: Hàm tính giá trị còn lại của TSCĐ ở cuối năm t nào đó.

Thực hiện :1. Mở bảng tính mới.2. Chọn Tools->Macro->Visual Basic Editor (Hoặc nhấn Alt+F11).3. Nhấp chuột phải vào bảng tính của bạn tại cửa sổ VBA project.

23

Page 24: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

Hình 1

4. Chọn Insert > chọn Module. Xuất hiện của sổ Book1-Module1 (code)5. Nhập vào khung soạn thảo (vùng trắng) các đoạn mã hàm.

Hình 2

Public Function YearOfBreak(cost As Double, life As Integer, rate As Double) As IntegerDim ret As Integer Gia tri tro veDim depX As Double muc kh nam theo pp so du giam danDim depY As Double muc kh nam theo gia tri con lai / so nam con laiDim i As IntegerFor i = 1 To lifedepX = (cost * ((1 - rate / life) ^ (i - 1))) * (rate / life)depY = (cost * ((1 - rate / life) ^ (i - 1))) / (life - i + 1)If depX <= depY Then

24

Vùng nhập mã hàm

Page 25: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

ret = iExit ForEnd IfNext iYearOfBreak = retEnd Function

Public Function Depreciation(cost As Double, life As Integer, rate As Double, year As Integer) As Doublecost la nguyen gia cua tai san co dinhlife la so nam su dung cua tai san co dinhrate he so dieu chinhyear la nam can tinh-------------------------Dim YearBreak As IntegerDim YearsAfBreak As Integer so nam con lai sau diem breakDim NetAtBreak As Double GTCL dau nam breakDim ret As Double Gia tri tro veIf life < year Or year < 1 ThenExit FunctionEnd IfYearBreak = YearOfBreak(cost, life, rate)If year < YearBreak Thenret = cost * ((1 - rate / life) ^ (year - 1)) * (rate / life)ElseNetAtBreak = cost * ((1 - rate / life) ^ (YearBreak - 1))YearsAfBreak = life - YearBreak + 1ret = NetAtBreak / YearsAfBreakEnd IfDepreciation = retEnd Function

Public Function NetValue(cost As Double, life As Integer, rate As Double, year As Integer) As Doublecost la nguyen gia cua tai san co dinhlife la so nam su dung cua tai san co dinhrate he so dieu chinhyear la nam can tinh--------------------------Dim YearBreak As IntegerDim YearsAfBreak As Integer so nam con lai sau diem breakDim NetAtBreak As Double GTCL dau nam breakDim ret As Double Gia tri tro veIf life < year ThenNetValue = 0Exit FunctionEnd IfIf year <= 0 ThenNetValue = costExit Function

25

Page 26: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

End IfYearBreak = YearOfBreak(cost, life, rate)

If year < YearBreak Thenret = cost * ((1 - rate / life) ^ year)ElseNetAtBreak = cost * ((1 - rate / life) ^ (YearBreak - 1))YearsAfBreak = life - YearBreak + 1ret = NetAtBreak - NetAtBreak * (year - YearBreak + 1) / YearsAfBreakEnd IfNetValue = retEnd Function

Chú ý: Các đoạn gạch chân chỉ mang tính chú thích không có trong đoạn mã hàm.- Để sử dụng các hàm tính khấu hao ở tất cả các bảng tính thì bạn phải tạo Add-in. 1. Đóng cửa sổ VBA.2. Vào menu File, chọn Save Book1(Ctrl + S), chọn (*.xla) ở khung Save as type3. Đặt tên file (ví dụ: Macrokhauhao)4. Nhấp nút Save

- Để gắn add-in vào Excel, bạn trở lại cửa sổ làm việc của Excel, vào Tools -> Add-in, nhấn Browse, chọn file .xla (Macrokhauhao.xla) vừa tạo rồi OK.Bây giờ lấy một ví dụ để minh họa cho việc ứng dụng 3 hàm tự tạo vừa rồi:

VD: Tại một doanh nghiệp đưa vào sử dụng một TSCĐ có nguyên giá 10.000.000 (VNĐ), thời gian sử dụng là 5 năm. Tinh mức khấu hao phải trích hàng năm.

1. Mở bảng tính mới và soạn theo mẩu sau (Hình 3):

Hình 3

2. Nhập công thức:- Nhập Nguyên Giá (NGi ) 10.000.000 vào ô B7- Thời gian sử dụng (Tsdi) 10 vào ô C7- Tính tỷ kệ khấu hao TKi ở ô D7: D7= 100/C7

Xác định hệ số điều chỉnh Hđc ở ổ E7 căn cứ theo quyết định 206/2003/QĐ-BTC.26

Page 27: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

+ Tsdi 4 : Hđc là 1,5+4 < Tsdi 6 : Hđc là 2+ 6 < Tsdi : Hđc là 2,5E7=IF($C$7>6,2.5,IF($C$7>4,2,IF($C$7>0,1.5,"Ko hợp lệ !")))

- Tính tỷ lệ khấu hao điều chỉnh:Công thức: TKđ = TKi(%) x Hđc

F7= D7*E7 Kết quả tính được như hình 4

Hình 4

- Tính mức khấu hao hàng năm Mi:Sử dụng hàm: Depreciation(cost, life, rate, year)+ cost là nguyên giá+ life là năm sử dụng+ rate là hệ số điều chỉnh+ year là năm cần tínhCông thức D12= Depreciation($B$7,$C$7,$E$7,$B12)

Hình 5

27

Page 28: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

- Tính khấu hao lũy kế: tại E12 nhập công thức =sum($D$12:$D12)- Tính giá trị còn lại cuối năm:Sử dụng hàm Netvalue(cost, life, rate, year)Công thức F12= Netvalue($B$7,$C$7,$E$7,$B12)

Hình 6 3. Sao chép công thức ở dòng 12 xuống tương ứng với số năm sử dụng, cuối cùng ta được bài

toán tính khấu hao hoàn thiện như hình sau:

Hình 7Sau này khi muốn tính khấu hao cho một TSCĐ nào đó chỉ cần nhập nguyên giá và thời gian sử

dụng vào, sao chép công thức hợp lý thì excel cho bạn kết quả nhanh chong và chính xác.Trên đây đã mô tả quy trình xây dựng các hàm tự tạo để tính khấu hao TSCĐ theo phương pháp số

dư giảm dần bằng VBA trong Excel, ngoài ra bằng quy trình trên có thể xây dựng một số hàm khác để người làm máy tính giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình làm việc mà bản thân Excel không trang bị hoặc không cung cấp các hàm, như trường hợp nhân viên kế toán viết phiếu thu-chi có thể xây dựng hàm đổi số ra chữ khi in phiếu. Tuy nhiên để thực hiện được điều này, đòi hỏi người sử dụng phải có kiến thức cơ bản về lập trình trong VBA mới thực hiện được.

Tài liệu tham khảo:- Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định.- http://danketoan.com/forum/archive/index.php/t-81666.html

28

Page 29: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

TRAO ĐỔI VỀ GIÁO DỤC ĐIỆN TỬ E-LEARNING

Nguyễn Tri Vũ, Hồ Bích Thảo - Phòng KH&ĐN

“Công nghệ thông tin cũng sẽ làm thay đổi rất lớn việc học của chúng ta. Những người công nhân sẽ có khả năng cập nhật các kỹ thuật trong lĩnh vực của mình. Mọi người ở bất cứ nơi đâu sẽ có khả năng tham gia các khóa học tốt nhất được dạy bởi các giáo viên giỏi nhất.” (The Road Ahead, Bill Gates)

Nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn kinh tế tri thức. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục đào tạo sẽ là nhân tố sống còn quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, công ty, gia đình và cá nhân. E-learning chính là một giải pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này.1. Khái niệm E-learning

E-learning (Electronic Learning) là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông; trong đó, nội dung học có thể thu được từ: website, đĩa, video, audio, v.v… thông qua máy tính hay tivi; người dạy và học có thể giao tiếp với nhau qua mạng dưới các hình thức: Thư điện tử (e-mail), thảo luận trực tuyến (chat), diễn đàn (forum)…2. Đặc điểm của E-learning

Thứ nhất, nó dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông hay công nghệ mạng, kĩ thuật đồ họa, kỹ thuật mô phỏng, công nghệ tính toán.

Thứ hai, hiệu quả của E-Learning cao hơn so với cách học truyền thống do E-Learning có tính tương tác cao dựa trên multimedia, tạo điều kiện cho người học trao đổi thông tin dễ dàng hơn cũng như đưa ra nội dung học tập phù hợp với khả năng, sở thích.

Thứ ba, E-Learning đang trở thành xu thế tất yếu trong nền kinh tế tri thức. Hiện nay, E-Learning đang thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nước trên thế giới; có rất nhiều tổ chức, công ty hoạt động trong lĩnh vực E-Learning ra đời.3. Tình hình phát triển và ứng dụng E-learninga. Trên thế giới

Trên thế giới E-learning phát triển không đồng đều: mạnh nhất là ở khu vực Bắc Mỹ, triển vọng ở châu Âu và đang hòa nhập ở châu Á.

Tại Mỹ, theo các chuyên gia phân tích của Công ty Dữ liệu quốc tế (International Data Corporation, IDC), cuối năm 2007 có khoảng 90% các trường đại học, cao đẳng Mỹ đưa ra mô hình E-learning, số người tham gia học tăng 43% hàng năm trong khoảng thời gian 2004-2007. Ơ các công ty, việc xây dựng và triển khai E-learning thay cho phương thức đào tạo truyền thống đã mang lại hiệu quả cao.

Cộng đồng châu Âu: IDC ước đoán rằng thị trường E-learning của châu Âu tăng tới 10 tỷ USD trong năm 2008 với tốc độ tăng 96%/năm. Giữa các nước châu Âu có nhiều sự hợp tác đa quốc gia trong lĩnh vực E-learning như dự án xây dựng mạng xuyên châu Âu. Đây là mạng E-Learning của 36 trường đại học hàng đầu châu Âu thuộc các quốc gia như Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Anh, Pháp cùng hợp tác với công ty E-Learning của Mỹ Docent nhằm cung cấp các khoá học về các lĩnh vực: khoa học, nghệ thuật, con người phù hợp với nhu cầu học của sinh viên đại học, sau đại học và các nhà chuyên môn.

Tại châu Á, E-learning vẫn chưa nhiều thành công vì một số lý do: các quy tắc, luật lệ bảo thủ, tệ quan liêu, sự ưa chuộng đào tạo truyền thống của văn hóa châu Á, ngôn ngữ không đồng nhất, cơ sở hạ tầng nghèo nàn và nền kinh tế lạc hậu ở một số quốc gia. Nhưng, đó chỉ là những rào cản tạm thời do nhu cầu đào tạo đang trở nên ngày càng không thể đáp ứng được bởi các cơ sở giáo dục truyền thống buộc các quốc gia châu Á đang dần dần phải thừa nhận tiềm năng không thể chối cãi mà E-

29

Page 30: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

learning mang lại. Các nước có nền kinh tế phát triển đang có những nỗ lực ứng dụng E-learning tại quốc gia mình như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan,Trung Quốc.b. Ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, các hội nghị, hội thảo về công nghệ thông tin, giáo dục đều có đề cập nhiều đến vấn đề E-learning và khả năng áp dụng vào môi trường đào tạo như: Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và triển khai E-learning” do Viện Công nghệ Thông tin Đại học Quốc gia Hà Nội và Khoa Công nghệ Thông tin Trường Đại học Bách khoa Hà Nội phối hợp tổ chức vào tháng 03/2007. Đây là hội thảo khoa học chuyên đề về E-learning đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam. Các trường đại học ở Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu, triển khai E-learning về các phần mềm hỗ trợ đào tạo và cho các kết quả khả quan: Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Đà Nẵng... Trung tâm Tin học Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai cổng E-learning nhằm cung cấp một cách có hệ thống các thông tin E-Learning trên thế giới và ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, một số công ty phần mềm đã tung ra sản phẩm hỗ trợ đào tạo: Công ty cổ phần GK với thương hiệu VietnamLearning www.vietnamlearning.com.vn cung cấp các giải pháp đào tạo trực tuyến tổng thể (E-learning Solutions) cho các doanh nghiệp lớn và các khóa học cho đối tượng là các cá nhân. Việt Nam đã gia nhập mạng E-Learning châu Á: Asia E-learning Network-AEN www.asia-elearning.net với sự tham gia của Bộ Giáo dục và Đào tạo.4. Triển khai E-Learning tại trường Cao đẳng Thương mạia. Tầm quan trọng của việc triển khai E-Learning

E-Learning giúp cho cán bộ, giảng viên, sinh viên toàn trường hoàn toàn có thể học tập bất cứ khi nào (ban ngày hay ban đêm); tại bất cứ đâu (ở nhà, văn phòng làm việc hay thư viện nội bộ). Với sinh viên, nó mở ra một thế giới học tập mới, dễ dàng, linh hoạt và chủ động hơn nhiều. Ví dụ: Giảng viên có thể gửi bài giảng điện tử cho sinh viên qua email hoặc website của Trường www.cdtm.edu.vn trước khi lên lớp; tại lớp, giảng viên chỉ tập trung hướng dẫn sinh viên lĩnh hội những kiến thức quan trọng hoặc thảo luận thay vì thuyết trình toàn bộ nội dung bài giảng và đọc chép.

E-Learning giúp việc học tập trở nên thú vị hơn, hấp dẫn hơn và thuyết phục hơn, đặt biệt là đối với các môn học khó và dễ nhàm chán nhờ các slide, hình ảnh, video và audio minh họa một cách sinh động.

Cán bộ, giảng viên và sinh viên cần giao tiếp, cộng tác và chia xẻ kiến thức thì E-Learning có thể giúp chúng ta thu được những kết quả chắc chắn và lâu dài, không chỉ thông qua nội dung mà đồng thời bằng cả cộng đồng mạng trực tuyến, hỗ trợ “học tập thông qua nhận xét và thảo luận”.

E-Learning cho phép sinh viên tự quản lí được tiến trình học tập của mình theo cách phù hợp nhất. Chúng ta có nhiều cách học khác nhau như đọc, xem, khám phá, nghiên cứu, tương tác, thực hành, giao tiếp, thảo luận, chia xẻ kiến thức. Với E-Learning sinh viên có thể truy cập tới rất nhiều nguồn tài nguyên phục vụ cho học tập. Như vậy, mỗi người đều có quyền chọn lựa hình thức học tập phù hợp nhất với khả năng và điều kiện của mình.

E-Learning giúp cho việc học tập vẫn có thể được tiến hành gần như đồng thời trong quá trình làm việc. Thực tế, 70% dung lượng học tập diễn ra trong quá trình làm việc như: tìm kiếm thông tin, đọc tài liệu, trao đổi với đồng nghiệp. Ví dụ: Cán bộ nào đó muốn câu trả lời ngay lập tức cho một vấn đề khó khăn, họ có thể truy cập www.google.com

Với E-Learning chúng ta trở nên năng động hơn. Cán bộ của trường có thể dùng quỹ thời gian của mình để làm việc ngoài văn phòng (tại nhà, tại cơ sở đào tạo ở xa, quán cafe hay một địa điểm nào đó có kết nối internet). E-Learning đóng một vai trò rất quan trọng trong giảm thiểu lượng thời gian dành cho đào tạo cán bộ, giảng viên, học sinh - sinh viên (HSSV).b. Tình hình ứng dụng và một số kết quả bước đầu về việc triển khai E-learning

Nhờ sự chỉ đạo, động viên của lãnh đạo Nhà trường cùng với việc đầu tư, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ (gồm máy tính, máy chiếu, các thiết bị nghe nhìn, phòng học multimedia, hệ thống mạng nội bộ kết nối internet, website của trường...) việc trao đổi thông tin, quản lý, giảng dạy và học tập của cán bộ, giảng viên và HSSV đã được thực hiện nhanh chóng, thuận lợi hơn, góp phần nâng

30

Page 31: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

cao hiệu suất công việc và chất lượng đào tạo. Sinh viên có thể tiếp cận được nhiều thông tin về trường, lớp, các môn học, học phần và những hoạt động khác thuận tiện hơn. Việc xây dựng mạng nội bộ có kết nối internet đã tạo điều kiện cho các phòng ban trao đổi thông tin dễ dàng và linh hoạt. Địa chỉ email của một số phòng như Phòng Đào tạo: [email protected], phòng Công tác HSSV: [email protected], phòng Khoa học và Đối ngoại: [email protected] và thư mục chia sẻ dữ liệu dùng chung trên mạng Lan: \\Server1\Public đã giúp cho việc trao đổi tài liệu thông tin được thuận tiện và nhanh chóng. Thông qua website www.cdtm.edu.vn, cán bộ và giảng viên khi đi công tác xa có thể nắm bắt kịp thời thông tin về hoạt động của Trường như lịch công tác, các văn bản tài liệu, các cuộc họp…; sinh viên về quê nghỉ hè, nghỉ Tết có thể xem được kết quả học tập, thi học kỳ, thi tốt nghiệp…; hoặc các tân sinh viên trong thời gian chờ nhập học có thể nghiên cứu trước các chương trình đào tạo của Trường. Các giảng viên đã tích cực tìm tòi và ứng dụng các phầm mềm Tin học như Microsoft Office, Fact, Misa… để biên soạn bài giảng và thực hành giảng dạy các lớp HSSV.

Như vậy, bước đầu E-Learning đã được triển khai tại Trường Cao đẳng Thương mại và điều này đã góp phần đáng kể nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý đào tạo của nhà trường.

Tuy nhiên, việc phát triển E-Learning ở trường chúng ta mới chỉ ở giai đoạn ban đầu, còn nhiều việc phải làm và những khó khăn lớn phải vượt qua. Đầu tiên là khắc phục sự chênh lệch về chỉ số phát triển hay khả năng ứng dụng công nghệ thông tin không đồng đều của cán bộ, giảng viên, HSSV. Hơn nữa, mật độ sử dụng Internet còn thấp, việc khai thác thông tin và tìm kiếm, phổ biến tài liệu học tập trực tuyến chưa có hiệu quả cao; đa số HSSV vẫn còn học theo phương pháp truyền thống: học những gì có được trong vở mà giảng viên truyền đạt. Ngoài ra, vấn đề đầu tư kinh phí cho việc biên soạn chương trình, tài liệu học tập, mua sách, trang thiết bị, đảm bảo chất lượng đường truyền Internet, tăng thêm đầu máy tính, ứng dụng các phần mềm E-Learning và đào tạo huấn luyện cũng cần được quan tâm nhiều hơn.c. Hướng phát triển E-Learning

Để E-Learning trở nên phổ biến và có tác động tích cực hơn đối với Nhà trường, chúng tôi đề xuất đầu tư nhiều hơn nữa về phần cứng như trang bị thêm máy vi tính, nâng cấp hệ thống mạng và ứng dụng mạng không dây cho các phòng học, phòng đa phương tiện, phòng hội nghị, hội thảo, phòng họp, phòng làm việc và thư viện trường; đồng thời ứng dụng các phần mềm để phục vụ cho công tác quản lý (đào tạo, hành chính, kế toán…) của Nhà trường và đặc biệt là các phần mềm quản lý đào tạo trực tuyến, triển khai các chương trình đào tạo từ xa, đào tạo theo tín chỉ…

Website của trường cần được phát triển thành môi trường trao đổi thông tin thuận tiện cho cán bộ, giảng viên, HSSV với thông tin đa dạng và thường xuyên được cập nhật; hình thành cơ sở dữ liệu khoa học phục vụ cho học tập, giảng dạy và nghiên cứu (gồm giáo trình, tài liệu tham khảo và các thông tin dữ liệu khác).

Nhà trường cần khuyến khích đội ngũ giảng viên tham gia biên soạn giáo trình điện tử, mở thêm các lớp tập huấn, bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm để nhận thức và kỹ năng về E-Learning.

Vì E-Learning bao gồm 4 yếu tố liên kết chặt chẽ với nhau là sinh viên, nội dung, công nghệ và sự hướng dẫn nên bên cạnh những việc phải làm nêu trên, Nhà trường cần phát huy hơn nữa tính chủ động tự học của HSSV, lôi cuốn người học tham gia E-Learning một cách tích cực

Tóm lại, Giáo dục điện tử E-Learning là một hướng phát triển mới; nó đã, đang và sẽ là cuộc cách mạng quan trọng nhất, không thể thiếu trong Nhà trường nên chúng ta hãy tích cực hơn nữa để E-Learning ngày càng hiện thực hơn và hiệu quả hơn, góp phần phát triển sự nghiệp đào tạo của Trường.

Hơn bao giờ hết, đầu tư cho E-Learning là đầu tư cho sự phát triển!

31

Page 32: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

NHÃN HÀNG HÓA

THÔNG ĐIỆP TỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG Trương Bích Ngọc - Khoa QTKD

Ngày 30 tháng 8 năm 2006, chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/2006/NĐ-CP về nhãn hàng hóa (có hiệu lực thi hành từ ngày 13/3/2007). Theo nghị định nhãn hàng hóa bắt buộc phải thể hiện các nội dung bao gồm tên hàng hóa; tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa; chỉ tiêu chất lượng chủ yếu và xuất xứ hàng hóa. Trong đó, xuất xứ hàng hóa phải ghi rõ nơi sản xuất hoặc chế biến, xuất xứ phải kèm theo tên nước hay vùng lãnh thổ sản xuất ra hàng hóa đó. Đối với hàng hóa sản xuất tại Việt Nam để lưu thông trong nước đã ghi địa chỉ của nơi sản xuất thì không cần phải ghi xuất xứ hàng hóa. Tên hàng hóa ghi trên nhãn do tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh tự đặt và tự chịu trách nhiệm. Ngoài những nội dung này thì tùy theo tính chất của mỗi loại hàng hóa sẽ phải thể hiện trên nhãn các nội dung bắt buộc khác; ví dụ sản phẩm liên quan đến an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người như thực phẩm, phụ gia thực phẩm, đồ uống, mĩ phẩm, dược phẩm…phải thể hiện các nội dung định lượng, ngày sản xuất, hạn sử dụng, thành phần hoặc thành phần định lượng, thông tin cảnh báo vệ sinh, an toàn, hướng dẫn sử dụng, hướng dẫn bảo quản…Các sản phẩm như đồ chơi trẻ em, sản phẩm dệt may, da giày, sản phẩm nhựa, cao su…phải thể hiện thành phần, thông số kĩ thuật, thông tin cảnh báo vệ sinh, an toàn và các nội dung khác theo qui định.

Nhãn hàng hóa phải được gắn trên hàng hóa, bao bì thương phẩm của hàng hóa ở vị trí khi quan sát, có thể nhận biết rõ ràng, đầy đủ các nội dung qui định của nhãn mà không phải tháo rời các chi tiết, các phần của hàng hóa.

Các nội dung bắt buộc thể hiện trên nhãn hàng hóa phải được ghi bằng tiếng Việt, trừ một số trường hợp về tên quốc tế hoặc tên khoa học của thuốc, hóa chất, thành phần hoặc thành phần định lượng của hàng hóa không dịch ra được tiếng Việt, tên và địa chỉ của doanh nghiệp nước ngoài sản xuất hoặc nhượng quyền sản xuất hàng hóa. Đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam mà trên nhãn chưa thể hiện hoặc thể hiện chưa đầy đủ những nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt thì phải có nhãn phụ thể hiện những nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt và giữ nguyên nhãn gốc của hàng hóa, nội dung ghi bằng tiếng Việt phải tương ứng với nội dung ghi trên nhãn gốc. Nhãn phụ được hiểu không phải là nhãn gốc bằng tiếng nước ngoài mà là nhãn ghi bằng tiếng Việt với 8 nội dung bắt buộc được dán, đính hoặc kèm theo hàng hóa cung cấp cho người mua trước hoặc sau khi đã hoàn thành thủ tục nhập khẩu tại hải quan. Nhãn phụ không làm che lấp phần nhãn nguyên gốc bằng tiếng nước ngoài. Các hàng hóa có tính chất sử dụng phức tạp và đòi hỏi tính an toàn, có kèm theo tài liệu thuyết minh hướng dẫn sử dụng bằng tiếng nước ngoài đều phải có bản dịch ra tiếng Việt và kèm theo bản gốc tiếng nước ngoài để cung cấp cho người mua. Tên của thành phần cấu tạo hàng hóa là chất hóa học, trên nhãn phụ phải ghi bằng tiếng Việt hoặc ghi bằng tiếng La tinh hoặc bằng công thức hóa học.

Thời gian qua đã có nhiều vụ việc sai phạm về ghi nhãn hàng hóa gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, nếu không muốn nói là cố tình lừa dối người tiêu dùng như:1. Ghi nhãn sản phẩm “Knorr-đảm đang” trên bao bì là “tự nhiên hơn bột ngọt” hay “dùng đảm đang thay thế bột ngọt/mì chính” trong khi thành phần của sản phẩm này vốn đã chứa 30% là bột ngọt/mì chính.2. Sữa tươi tiệt trùng của Vinamilk được ghi là sữa tươi nguyên chất trong khi hàm lượng sữa tươi trong sản phẩm không đảm bảo hoặc thực chất là sữa tươi hoàn nguyên từ sữa bột.3. Vụ việc mới đây, người tiêu dùng ở TP.HCM và nhiều địa phương khác trong cả nước đã vô cùng kinh hoàng trước thông tin về một số chủng loại sữa bột bày bán có hàm lượng chất đạm còn thua cả củ sắn. Điều đáng nói, trong những loại sữa ấy có khá nhiều loại lâu nay được người tiêu dùng tín

32

Page 33: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

nhiệm. Cụ thể “sữa bột béo Hà Lan” do công ty TNHH Tân Thanh Ngọc, trụ sở tại 9/8 Nguyễn Chí Thanh, P.13, Q.11 đưa ra thị trường, hàm lượng đạm chỉ có 0,5% trong khi ghi trên nhãn là 24%; sữa “Holland gold” hàm lượng đạm ghi là 20%, kiểm tra chỉ có 1,2%; sữa “Gold” hàm lượng đạm ghi 26%, kiểm tra chỉ 1,8%...Trong khi đó, một bác sĩ chuyên gia dinh dưỡng nói: “đã gọi là sữa thì hàm lượng đạm không thể dưới 10%”

Trong các vụ việc này thông tin trên nhãn là không đúng với bản chất của sản phẩm, vi phạm nghiêm trọng qui định về ghi nhãn hàng hóa và vi phạm pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Với tình hình thị trường luôn biến động như hiện nay đòi hỏi các cấp, các ngành phối hợp kiểm tra giám sát chặt chẽ việc ghi nhãn hàng hóa các sản phẩm lưu thông trên thị trường, ngăn chặn các hành vi sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng các doanh nghiệp cố tình quảng cáo sai sự thật, thông tin không chính xác, không rõ ràng trên nhãn hàng hóa gây sự hiểu lầm cho người tiêu dùng, vi phạm lợi ích của người tiêu dùng hoặc gây thiệt hại cho những nhà sản xuất chân chính khác. Đồng thời các doanh nghiệp phải thực hiện ghi nhãn hàng hóa đúng các qui định của Nhà nước, tôn trọng quyền lợi của người tiêu dùng, cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác cho khách hàng; qua đó vừa quảng bá cho sản phẩm vừa bảo vệ nhà sản xuất, kinh doanh và tạo uy tín trên thị trường.

GIỚI THIỆU VỀ TIÊU CHUẨN IS0 9001 PHIÊN BẢN MỚI NĂM 2008

Nguyễn Tri Vũ - Phòng KH&ĐN

Hiện nay, hầu hết các chương trình giáo dục của Trường Cao đẳng Thương mại đều có học phần về quản trị chất lượng, cả bậc trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng. Các học phần này có dẫn chiếu và giới thiệu cho người học về Tiêu chuẩn ISO 9000 nhằm mục đích trang bị kiến thức cơ bản về hệ thống quản lý chất lượng để vận dụng vào thực tiễn công tác sau khi ra trường. Nay, với sự ra đời của bộ tiêu chuẩn mới ISO 9001:2008, Bản tin Khoa học gửi đến bạn đọc, chủ yếu là HSSV một số thông tin tóm tắt về tiêu chuẩn này để tham khảo.

Sơ lược về Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 được Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế công bố năm 1987. Đây là bộ tiêu

chuẩn về hệ thống chất lượng; nó không phải là tiêu chuẩn hay qui định kỹ thuật về sản phẩm. Sự ra đời của nó đã tạo ra một bước ngoặt trong hoạt động tiêu chuẩn và chất lượng trên thế giới nhờ nội dung thiết thực và sự hưởng ứng rộng rãi, nhanh chóng của nhiều nước, đặc biệt là các doanh nghiệp.

Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ở cơ sở mình, đồng thời cũng là phương tiện mà bên mua có thể căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định của sản xuất và chất lượng sản phẩm trước khi ký hợp đồng. ISO 9000 đưa ra các chuẩn mực cho một hệ thống chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất , kinh doanh và dịch vụ. ISO 9000 hướng dẫn các tổ chức cũng như các doanh nghiệp xây dựng một mô hình quản lý thích hợp và văn bản hoá các yếu tố của hệ thống chất lượng theo mô hình đã chọn.

Triết lý của ISO 9000 về quản lý chất lượng là ''nếu hệ thống sản xuất và quản lý tốt thì sản phẩm và dịch vụ mà hệ thống đó sản xuất ra sẽ tốt''. Các doanh nghiệp và tổ chức hãy “viết ra những gì cần làm; làm những gì đã viết; chứng minh là đã làm và soát xét, cải tiến”.

ISO 9000 có 8 nguyên tắc: 1) Hướng vào khách hàng; 2) Sự lãnh đạo; 3) Sự tham gia của mọi người; 4) Cách tiếp cận theo quá trình; 5) Cách tiếp cận theo hệ thống đối với quản lý; 6) Cải tiến liên tục; 7) Quyết định dựa trên sự kiện; và 8) Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng.

Tính đến nay, ISO 9000 đã trải qua 4 lần công bố, bổ sung và thay thế là vào các năm 1987, 1994, 2000 và gần đây nhất là ngày 14/11/2008. Trong đó, ISO 9001:2000 đã thay thế cho bộ 3 tiêu chuẩn ISO 9001, 9002 và 9003 (năm 1994). ISO 9001:2000 có tiêu đề là Hệ thống quản lý chất lượng - Các

33

Page 34: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

yêu cầu, không gọi là Hệ thống đảm bảo chất lượng như lần ban hành thứ nhất và thứ hai. Tiêu chuẩn ISO 9004:2000 cũng đồng thời được ban hành trên cơ sở soát xét lại tiêu chuẩn ISO 9004:1994. ISO 9004:2000 đươc sử dụng cùng với ISO 9001:2000 như là 1 cặp thống nhất các tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng. ISO 9004:2000 đưa ra các chỉ dẫn về đối tượng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ở một phạm vi rộng hơn.

Phiên bản năm 1994

Phiên bản năm 2000

Phiên bản năm 2008 Tên tiêu chuẩn

ISO 9000:1994 ISO 9000: 2000 ISO 9000: 2005 HTQLCL – Cơ sở & từ vựng ISO 9001: 1004 ISO 9001: 2000

(bao gồm ISO 9001/ 9002/ 9003)

ISO 9001: 2008 Hệ thống quản lý chất lượng (HTQLCL) – Các yêu cầu ISO 9002: 1994

ISO 9003: 1994ISO 9004: 1994 ISO 9004: 2000 Chưa có thay đổi HTQLCL - Hướng dẫn cải tiến ISO10011:1990/1 ISO 19011: 2002 Chưa có thay đổi Hướng dẫn đánh giá HTQLCL/

Môi trường

Mặc dù việc chứng nhận theo tiêu chuẩn ISO 9001 là không bắt buộc nhưng ước tính đến nay đã có hơn một triệu chứng chỉ ISO 9001 đã được cấp cho các tổ chức thuộc các lĩnh vực tư nhân hoặc nhà nước cho sản xuất và dịch vụ (kể cả giáo dục đào tạo) tại khoảng 175 quốc gia và nền kinh tế.

Nhưng nét mới của Tiêu chuẩn ISO 9001:2008Trên cơ sở những tiến bộ về quản lý chất lượng, những kinh nghiệm đã đạt được, Tiêu chuẩn ISO

9001:2008, Quality management system- Requirements (Hệ thống quản lý chất lượng- Các yêu cầu), là bản hiệu đính toàn diện nhất bao gồm việc đưa ra các yêu cầu mới và tập trung vào khách hàng. (Tiêu chuẩn ISO 9004:2000, Hệ thống quản lý chất lượng - Hướng dẫn cải tiến, cũng đang được hiệu đính và dự kiến sẽ được công bố vào năm 2009.)

So với phiên bản năm 2000, ISO 9001:2008 có sự tinh chỉnh, gạn lọc hơn là thay đổi toàn diện. Nó không đưa ra các yêu cầu mới nào, vẫn giữ nguyên các đề mục, phạm vi và cấu trúc của tiêu chuẩn. Nó vẫn thừa nhận và duy trì 8 nguyên tắc ban đầu của ISO.

ISO 9001:2008 chủ yếu là làm sáng tỏ các yêu cầu đã nêu trong ISO 9001:2000 nhằm khắc phục những khó khăn trong việc diễn giải, áp dụng và đánh giá. Nó cũng có một số thay đổi hướng vào việc cải tiến nhằm tăng cường tính tương thích (nhất quán) với tiêu chuẩn ISO 14001:2004 về hệ thống quản lý môi trường. Những điểm tiến bộ mới của phiên bản 2008 là:- Nhấn mạnh sự phù hợp của sản phẩm;- Cải thiện tính tương thích với các tiêu chuẩn khác;- Làm rõ hơn các quá trình bên ngoài;- Diễn đạt rõ hơn các yêu cầu: 6.4 Môi trường làm việc; 8.2.1 - Đo lường sự thỏa mãn của khách hàng; - Bổ sung tầm quan trọng của rủi ro;- Quy định chính xác hơn các yều cầu: Tầm quan trọng của rủi ro; 5.5.2 Đại diện lãnh đạo; 6.2.2

Hiệu lực của các năng lực đã đạt được; 8.5.2. Hiệu lực của các hành động khắc phục; 8.5.3 Hiệu lực của các hành động phòng ngừa.

Theo thông báo chung của ISO và Diễn đàn công nhận quốc tế (IAF), tiêu chuẩn mới không yêu cầu các tổ chức đã áp dụng ISO 9001:2000 phải có nhiều điều chỉnh cho HTQLCL đã được xây dựng để có thể phù hợp với các yêu cầu trong ISO 9001:2008. Việc chuyển đổi theo tiêu chuẩn mới cũng là một cơ hội tốt cho các tổ chức nhìn nhận lại thực trạng áp dụng các yêu cầu của ISO 9001:2000, từ đó thực hiện các hoạt động cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả của HTQLCL. Các tổ chức đã áp dụng HTQLCL theo ISO 9001:2000 có hai tiếp cận để lựa chọn cho chuyển đổi chứng nhận: TUÂN THỦ hay CẢI TIẾN HIỆU QUẢ. Thời hạn để các tổ chức chuyển đổi từ ISO 9001:2000 sang ISO 9001:2008 tối đa là 24 tháng (đến ngày 14/11/2010).

34

Page 35: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

TUÂN THỦ nghĩa là thực hiện đúng và đầy đủ các yêu cầu của ISO 9001:2008. Cách tiếp cận này phù hợp với các tổ chức đã hoàn toàn thỏa mãn với hiệu quả của việc áp dụng HTQLCL hiện tại, hoặc với các tổ chức mới chỉ quan tâm đến việc được chứng nhận mà chưa thực sự coi trọng các giá trị về quản lý và cải tiến chất lượng mà HTQLCL có thể mang lại.

Áp dụng ISO 9001:2008 theo cách tiếp cận CẢI TIẾN HIỆU QỦA thích hợp với các tổ chức mà hiệu quả của HTQLCL còn thấp. Trong trường hợp này, chuyển đổi theo ISO 9001:2008 không chỉ là để tuân thủ mà còn quan trọng hơn là áp dụng HTQLCL một cách thực chất, trên cơ sở thực hiện tốt yêu cầu về cải tiến và nâng cao hiệu quả. Quá trình này đòi hỏi tổ chức phải thực hiện tốt nhiều việc hơn so với cách tiếp cận tuân thủ.

Việc lựa chọn tiếp cận thứ nhất hay tiếp cận thứ hai cho dự án chuyển đổi HTQLCL theo ISO 9001:2008 là quyết định của mỗi tổ chức, phụ thuộc vào tình trạng của hoạt động quản lý chất lượng, nhu cầu nội bộ và mong muốn của lãnh đạo tổ chức.

Để hiểu rõ hơn về ISO 9001:2008, các chuyên gia và tổ chức có thể nghiên cứu “Tài liệu giới thiệu và hỗ trợ: Hướng dẫn các yêu cầu về tài liệu theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008” của Tiểu ban kỹ thuật ISO/TC176/SC2 (thuộc Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế) theo địa chỉ http://www.iso.org/iso/isocatalogue/management_standards/iso_9000_iso_14000/iso_9001_2008.htm

Việc tham khảo tài liệu này không chỉ hữu ích cho các đơn vị chuẩn bị hoặc đang xây dựng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008, mà còn cung cấp nhiều thông tin có giá trị cho các tổ chức vị đang áp dụng HTQLCL có mong muốn có những điều chỉnh cho phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn mới.

Tại Việt Nam, Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC 176 đang tiến hành soát xét lại TCVN ISO 9001:2000, dự kiến phiên bản tiêu chuẩn quốc gia mới nhất TCVN ISO 9001 sẽ được công bố trong năm nay.

Common Idioms in BusinessA BAD DECISION

Bad decisions can even put a small company back to square one

Đỗ Thị Bích Thuận - Bộ môn NN Dialogue: A: I think we make a big mistake going into this new market so soon. I told Bill not to jump the

gun, but he wouldn’t listen.B: I know you did. Bill is an impatient guy. He should hold his horses. We may get burned here,

and it could be an expensive mistake.A: I try to block this decision, but Bill did an end run and went straight to the president and

convinced him it was a good idea.B: I think the president was unrealistic in this case. Bill probably convinced him he could have his

cake and eat it, too, but I think he blew it when he gave Bill the O.K.A: This could put the company back to square one. I agree that this decision was really off base. B: At least nobody can pass the buck on this mistake. The responsibility belongs to the president on

this one. Vocabulary: 1. Market (n): thị trường- dull market: thị trường ế ẩm- lively market: thị trường sôi động- domestic market: thị trường nội địa - foreign market: thị trường nước ngoàiEx: We must find new (foreign) markets for our products. (Chúng ta phải tìm thị trường mới ở nước ngoài cho các sản phẩm của chúng ta.)

35

Page 36: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

2. To block (v): cản trở, ngăn cảnEx: Progress in the negotiations was blocked by their intransigence. (Sự tiến triển trong các cuộc đàm phán bị cản trở do thái độ không nhân nhượng của họ.)3. To convince (v): thuyết phụcEx: What convinced you to vote for him? (Điều gì đã thuyết phục bạn bỏ phiếu cho anh ta?) 4. realistic (adj): thực tế ≠ unrealistic: không thực tế, ảo tưởngEx: Be realistic! You can’t expect a high salary if you’re inefficient.(Hãy nên thực tế! Bạn không thể mong có được mức lương cao nếu như bạn không có năng lực)Ex: She is an unrealistic person. (Cô ta là một con người hay ảo tưởng)5. Patient (adj): kiên nhẫn ≠ impatient: nôn nóng, sốt ruộtEx: You have to be patient with difficut customers. (Với các khách hàng khó tính bạn cần phải kiên nhẫn.) Ex: Don’t be so impatient! (Đừng quá sốt ruột như thế!)6. At least: ít nhất, ít raEx: She may be slow but at least she’s reliable. (Có thể cô ta chậm chạp nhưng ít ra cô ta là người đáng tin cậy.)7. Responsibility (n): trách nhiệm Ex: The manufacturers disclaim all responsibility for damage caused by customers’ misuse. (Các nhà sản xuất không chịu mọi trách nhiệm về thiệt hại do việc sử dụng không đúng của khách hàng gây ra.)- Responsible (adj): chịu trách nhiệmEx: You must make yourself personally responsible for paying these bills. (Bạn phải tự chịu trách nhiệm thanh toán các hoá đơn này.) Idioms in Business English: 1. Jump the gun: do something too soon; do something before it is appropriate: vội vàng, bộp chộpEx: Don’t jump the gun. We need more information before we make a final decision. (Đừng vội vàng. Chúng ta cần có thêm thông tin trước khi đưa ra quyết định sau cùng.)2. Hold one’s horses: slow down or stop for a minute: chậm rãi, từ từEx: I told him to hold his horses. I think he needs to think it over before he intends to make a change. (Tôi đã bảo anh ta nên từ từ.Tôi nghĩ anh ta cần phải suy xét kỹ trước khi anh ta có ý định thay đổi.)3. Get burned: lose money; get emotionally hurt: đánh mất hết tiền bạcEx: He got burned in that deal. He no longer wants to invest in business. (Ông ta đã mất hết tiền bạc trong vụ buôn bán đó. Ông ta không còn muốn đầu tư kinh doanh nữa.) 4. Do an end run: go around someone to accomplish something: chạy chọt, luồn láchEx: I hate that guy. He always likes doing an end and going straight to the boss. (Tôi ghét gã đó. Hắn ta luôn thích luồn lách và chạy thẳng lên sếp.)5. Have one’s cake and eat it, too: win it all; get everything one wishes for: được tất cảEx: He got a promotion, a raise and a job he likes. He had his cake and eat it, too.6. Blow (blew- blown) it: make a big mistake: mắc sai lầm lớnEx: He blew it when he bought that stock. He lost a lot of money. (Ông ta đã sai lầm lớn khi mua cổ phần đó. Ông ta đã bị mất khá nhiều tiền.)7. Be back to square one: have to start over again: làm lại từ đầuEx: The information is lost, so she is back to square one. (Thông tin đó bị mất, vì vậy cô ấy phải làm lại từ đầu.) 8. Off base: incorrect or inappropriate: không chính xác, thiếu cơ sởEx: I don’t understand where he’s getting the information. His comments in the meeting sounds really off base. (Tôi không hiểu là anh ấy đang lấy thông tin đó từ đâu nữa. Những lời bình luận của anh ấy thật sự nghe có vẻ thiếu cơ sở.) 9. Pass the buck: give or hand off a problem to someone else: đùn đẩy Ex: He didn’t want to deal with the problem, so he passed the buck to his colleague. (Anh ấy không muốn giải quyết vấn đề đó, nên anh ấy đã đùn đẩy sang cho đồng nghiệp của mình)

36

Page 37: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

XỬ LÝ MỘT SỐ TINH HUỐNG KHI SỬ DỤNG MÁY CHIẾU HIỆU SONYTrần Kiêm Hồng - Khoa KTTC

Trong công tác giảng dạy, máy chiếu (projector) cùng với máy tính là những công cụ hỗ trợ vô cùng quan trọng. Nó góp phần nâng cao hiệu quả tiết giảng nhờ các hình ảnh, biểu đồ, bảng biểu thể hiện trên màn hình; giúp cho sinh viên có cách nhìn trực quan, sinh động và giảng viên phần nào giảm bớt các hoạt động vẽ, viết, có nhiều thời gian hơn để tập trung cho việc trao đổi và truyền đạt kiến thức. Thực tế, một số giảng viên do ít tiếp xúc và sử dụng máy chiếu nên có lúc còn lúng túng trong quá trình sử dụng. Dưới đây là một số thao tác sử dụng máy chiếu rất bổ ích cho giảng viên. 1.Thao tác sử dụng trên máy chiếu hiệu SONY

Một số nút chức năng điều khiển trên bề mặt máy chiếu SONY

Hình 1: Máy chiếu hiệu SONY và vị trí các nút Nút Input: Chọn đường tín hiệu từ bên ngoài truyền vào máy chiếu; I/O: Bật/ tắt đèn chiếu;

Menu: Ẩn/hiện bảng menu điều khiển; Push Enter: Chọn một menu trong bảng điều khiển; chọn lệnh điều khiển; tăng giảm giá trị cần điều chỉnh.

Thao tác cơ bản:- Ẩn/hiện (vào/ra) bảng Menu: Nhấn phím Menu; khi bảng Menu hiện ra thì Menu thứ 1 (Picture

Setting) sẽ tự động được chọn (Hình 2). Phía bên phải liệt kê các lệnh điều khiển trong Menu

Hình 2: Bảng Menu xuất hiện trên màn hình khi nhấn nút Menu- Muốn chọn 1 Menu bất kỳ trong danh sách của bảng : Nhấn nút Push Enter theo chiều - Chuyển từ Menu đang chọn sang danh sách lệnh hoặc ngược lại: Nhấn nút Push Enter theo chiều

- Chọn lệnh trong danh sách các lệnh: Nhấn nút Push Enter theo chiều hoặc - Chuyển sang chế độ điều chỉnh các thông số của lệnh được chọn: Nhấn nút Push Enter theo chiều

thẳng đứng chuyển sang chế độ điều chỉnh; nhấn đẩy nút Push Enter theo chiều để điều chỉnh tăng giảm; nhấn nút Push Enter theo chiều thẳng đứng để lưu các thông số vừa điều chỉnh.

37

Nút Input

Nút I/ONút Menu

Nút Push Enter

Picture Setting (Tên Menu đang được chọn)

Các lệnh trong menu đang được chọn

1

2

3

4

5

6

Picture Mode --------------Picture adjust---------------

Danh sách các Menu

Page 38: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

- Giới thiệu các Menu trong bảng Menu:Menu thứ

1: Tên: Picture Setting Các lệnh: Picture Mode

Picture adjust

Menu thứ 2:Tên: Adjust Signal

Menu thứ 3:

Tên: Set SettingCác lệnh: Smart APA On/off

Auto input searchPower savingIR Receiver Front&Rear

Panel key lock On/off

Menu thứ 4:Tên: Menu settingCác lệnh: Status On/off

Language EnglishMenu position Center

Menu thứ 5:

Tên: Install settingCác lệnh: V Keystone 50

Image Flip offBackground BlackLamp mode HighHigh Altitude mode OnSecurity Off

Menu thứ 6:Tên: InformationCác lệnh: VPL-ES3Serial No: 301667

fH47,96 KHz (tần số quét ngang)fV59,50 KHz (tần số quét dọc)1024x768 (độ phân giải hình ảnh)

Lamp Timer786 H (Thời gian sử dụng)

-Ví dụ thao tác điều chỉnh khung màn hình bị méo gối do độ lệch của chùm ánh sáng từ đến đến màn chiếu:

Hình 3: Méo gối do chênh lệch độ cao giữa máy chiếu-màn chiếu

oNhấn nút Menu

oNhấn phím Push Enter theo chiều đến Menu thứ 5oNhấn nút Push Enter theo chiều chọn lệnh V KeystoneoNhấn nút Push Enter theo chiều thẳng đứng chuyển sang chế độ điều chỉnh; nhấn đẩy nút

Push Enter theo chiều để điều chỉnh tăng giảm, đồng thời quan sát màn hình khi hình cân đối thì dừng lại; nhấn nút Push Enter theo chiều thẳng đứng để lưu các thông số vừa điều chỉnh

oNhấn nút Menu để kết thúc

2. Xử lý tình huống khi không có tín hiệu truyền sang máy chiếu

Trong quá trình sử dụng, đối với một số đèn chiếu và máy tính laptop khi cắm dây dẫn tín hiệu vào thì tự động xuất hình ra đèn chiếu, nhưng cũng có trường hợp đèn chiếu không có hình ảnh sau khi cắm dây dẫn tín hiệu vào. Khi đó bạn cần phải tiến hành thao tác như sau:

- Đối với một số dòng máy tính như NEC, ACER, khi bạn xuất hình ra máy chiếu thì chỉ có hình trên đèn chiếu mà không có hình trên màn hình máy tính. Cần kích phải trên Desktop chọn Graphic Options - Output To - Intel Dual Display Clone - Notebook + Monitor.(Intel Dual Display Clone là trong trường hợp card màn hình chip Intel, đối với card màn hình của hãng khác bạn sẽ chọn tên tương ứng trong menu ngữ cảnh Graphic Options - Output To...)

38

Page 39: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

- Tùy vào nhà sản xuất máy tính và thế hệ máy khác nhau mà bạn sử dụng tổ hợp các phím khác nhau, bạn có thể tham khảo danh sách bên dưới:

Nhà sản xuất Xuất hình ra đèn chiếu Trả hình ảnh về màn hình

Acer Ctrl + Alt + Esc Ctrl + Alt + EscAdvanced Logic Research Ctrl + Alt + V  Ctrl + Alt + V Altima Systems, Inc Fn + F7 Fn + F7

Ambra #Fn + F12Fn + F5F2 và chọn

Fn + F12Fn + F5F2 và chọn

AST #*

Fn + F5Fn + F11Tự độngFn + D từ Dos

Fn + F5Fn + F11Tự độngFn + D từ Dos

Austin Ctrl + Alt Ctrl + Alt

Compaq *# Ctrl + Alt + <Fn + F4

Ctrl + Alt + <Fn + F4

Dell #

Ctrl + Alt + <Ctrl + Alt + F10Fn + F8Fn + DFn + F12

Ctrl + Alt + <Ctrl + Alt + F10Fn + F8Fn + DFn + F12

Hewlett Packard Fn + F5 Fn + F5

IBM ThinkPad #Fn + F1Fn + F5Fn + F7

Fn + F1Fn + F5Fn + F7

Panasonic Fn + F2 Fn + F2

Toshiba *#Fn + F5Ctrl + Alt + EndFn + End

Fn + F5Ctrl + Alt + HomeFn + Home

Ghi chú: * là các dòng máy có thể xuất hình tự động, # tùy vào dòng máy mà có phím sử dụng khác nhau. Như vậy, trong hầu hết các dòng máy đều sử dụng phím Fn kết hợp với các phím F... khác. Phím

Fn nằm ở dòng cuối cùng của bàn phím và chỉ có trên laptop.Khi dụng tất cả các cách xuất hình trên đây mà vẫn không xuất hình ra máy chiếu được, bạn tắt máy, khởi động lại, trong lúc khởi động nhấn giữ phím F8, xuất hiện màn hình chọn các phương thức khởi động, chọn Enable VGA Mode. 

39

Page 40: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

Hy vọng với những thông tin trên, giảng viên có thể vận dụng để khắc phục các sự cố thường gặp trong quá trình giảng dạy có sử dụng máy tính-máy chiếu. Chúc quý thầy cô thành công.

Tài liệu tham khảo: Http://www.tckt.edu.vn

DỊCH TOÀN BỘ NỘI DUNG TRANG WEB VỚI GOOGLENguyễn Văn Hà - Trung tâm ĐT&BD

Hiện nay, hầu như tất cả những người truy cập Internet đều biết đến và sử dụng công cụ tìm kiếm trực tuyến nổi tiếng thề giới Google. Trong bài viết này, tôi muốn chia sẻ một chức năng mới của Google; đó là “dịch tự động”. Google.com có thể dịch nội dung một văn bản và đặc biệt là dịch được toàn bộ nội dung của một trang web, kể cả các trang có link từ trang được dịch.

Đầu tiên ta truy cập: Http://www.google.com.vn/. Tiếp theo kích chọn mục công cụ ngôn ngư

- Để thực hiện dịch nội dung của một văn bản ta thực hiện sao chép văn bản vào khung + Chọn mục ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích+ Kích chọn mục dịch để thực hiện dịch

Kết quả sẻ cho khung tương ứng bên phải- Để thực hiện dịch một trang Web ta thực hiện:

+ Nhập địa chỉ trang web (sao chép - dán địa chỉ trang web cần dịch)+ Kích chọn mục dịch để thực hiện dịch

Kết quả sẻ cho chúng ta toàn bộ giao diện trang đa được dịch Với trang web được dịch từ google thì các trang được link đến từ trang này đều được dịch khi

chúng ta kích vào đường link.

40

Kích vào đây

Nội dung văn bản cần dịch

Nhập địa chỉ trang web

Page 41: cdtm.edu.vncdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/0.File tong hop … · Web viewChẳng hạn, sự thay đổi về chính sách tín dụng, chính sách thuế sẽ dẫn đến

BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

Thông qua nội dung bài viết ngắn này, hy vọng mọi người có thể xem các web với ngôn ngữ nước ngoài một cách thuận lợi. Chúc mọi người thành công.

41