Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

35
Câu 1: Hãy phân tích chức năng thế giới quan & phương pháp luận của triết học .Triết học có vai trò như thế nào đối với việc học tập các môn chuyên nghành của anh (chị) ? Câu 2: Trình bày chức năng thế giới quan & chức năng phương pháp luận của triết học. Vì sao chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan & phương pháp luận khoa học Câu 3: Hãy phân tích làm rõ vì sao Đảng cộng sản Việt Nam lại lấy chủ nhĩa Mác – Lê Nin , tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng & kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng Vì sao để đạt hiệu quả cao trong một lĩnh vực hoạt động nào đó,người ta vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu , đồng thời phải có tri thức triết học đúng đắn khoa học? Câu 4: Phân tích phạm trù vật chất theo quan điểm của triết học Mác-LêNin, rút ra ý nghĩa phương pháp luận & sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mói của nước ta hiện nay Câu 5: Hãy phân tích nội dung, cơ sở lý luận triết học của nguyên tắc tính khách quan trong việc xem xét sự vật.Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng nguyên tắc này như thế nào trong quá trình đổi mới đát nước. Câu 6: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất & ý thức, ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ đó.Sự vận dụng của ĐCS trong sự nghiệp đổi mói đất nước Câu7: Hãy phân tích nội dung , cơ sở lý luận triết học của nguyên tắc toàn diện trong xem xét sự vật . ĐCSVN đã vận dụng nguyên tắc này trong quá trình đổi mới đất nước ntn? Câu8: Hãy phân tích nội dung , cơ sở lý luận triết

Transcript of Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

Page 1: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

Câu 1: Hãy phân tích chức năng thế giới quan & phương pháp luận của triết học .Triết học có vai trò như thế nào đối với việc học tập các môn chuyên nghành của anh (chị) ?Câu 2: Trình bày chức năng thế giới quan & chức năng phương pháp luận của triết học. Vì sao chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan & phương pháp luận khoa học Câu 3: Hãy phân tích làm rõ vì sao Đảng cộng sản Việt Nam lại lấy chủ nhĩa Mác – Lê Nin , tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng & kim chỉ nam cho mọi hoạt động của ĐảngVì sao để đạt hiệu quả cao trong một lĩnh vực hoạt động nào đó,người ta vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu , đồng thời phải có tri thức triết học đúng đắn khoa học?Câu 4: Phân tích phạm trù vật chất theo quan điểm của triết học Mác-LêNin, rút ra ý nghĩa phương pháp luận & sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mói của nước ta hiện nayCâu 5: Hãy phân tích nội dung, cơ sở lý luận triết học của nguyên tắc tính khách quan trong việc xem xét sự vật.Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng nguyên tắc này như thế nào trong quá trình đổi mới đát nước.Câu 6: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất & ý thức, ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ đó.Sự vận dụng của ĐCS trong sự nghiệp đổi mói đất nướcCâu7: Hãy phân tích nội dung , cơ sở lý luận triết học của nguyên tắc toàn diện trong xem xét sự vật . ĐCSVN đã vận dụng nguyên tắc này trong quá trình đổi mới đất nước ntn? Câu8: Hãy phân tích nội dung , cơ sở lý luận triết học của nguyên tắc phát triển trong xem xét sự vật .ĐCSVN đã vận dụng nguyên tắc này trong quá trình đổi mới đất nước ntn?Câu 9: Hãy phân tích nội dung , cơ sở lý luận triết học của nguyên tắc lịch sử -cụ thể trong xem xét sự vật .ĐCSVN đã vận dụng nguyên tắc này trong quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa ở nước ta ntn?Câu10: Hãy phân tích quan điểm triết học của Mac _ LeNin về sự thống nhất giữa lí luận & thực tiễn, sự vận dụng vào quá trình học tập của sinh viên. Câu11: Phân tích luận điểm của V.I Lênin: Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là sự thống nhất của các mặt đối lập , như thế là nắm đ.c hạt nhân của phép biện chứng , nhưng ở đây cần có sự giải thích &

Page 2: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

một sự phát triển thêm. Câu12: Phân tích luận điểm của V.I Lênin: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng & từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của quá trình nhận thức TGiới , của sự nhận thức chân lý khách quan. Câu13: Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ SX với trình độ phát triển của lực lượng SX & sự vận dụng quy luật này của ĐCSVN trong quá trình đổi mới đất nước. Câu14: Phân tích nội dung phạm trù hình thái kinh tế - XH & sự vận dụng của ĐCSVN trong sự nghiệp xây dưng CNXH ở nước ta. Câu15: Phân tích những quan điểm cơ bản của triết học Mác –LêNin về vấn đề con người & sự vận dụng của ĐCSVN trong quá trình xây dựng con người ở nước ta hiện nay.

hương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hộiSaturday, 24 May 20081. Triết học là gì?

1.1. Triết học và đối t ượng nghiên cứu của triết học

a. Khái niệm “Triết học”, nguồn gốc của triết học

            Triết học ra đời gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN) tại một số trung tâm văn minh cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp.

            Theo ng ười Ấn Độ, triết học đọc là darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng, là con đường suy ngẫmđể dẫn dắt con ng ời đến với lẽ phải. Còn ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ "triết". Đó không phải là sự miêu tả, mà là quá trình tranh luận để tìm bản chất của đối tượng. 

           Ở ph ương Tây, thuật ngữ "Triết học" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "Philôsôphia”, nghĩa là "yêu mến sự thông thái". Triết học đ ợc xem là hình thái cao nhất của tri thức, có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật. 

            Khái quát lại, triết học là một hình thái ý thức xã hội; là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con ng ời về thế giới; về vị trí, vai trò của con ng ời trong thế giới ấy.

Page 3: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

Với quan niệm đó, triết học cổ đại không có đối tượng nghiên cứu riêng của mình, mà đ ợc xem là "khoa học của mọi khoa học".

            Từ thế kỷ XV - XVI đến thế kỷ XVIII, các bộ môn khoa học chuyên ngành, nhất là khoa học thực nghiệm phát triển mạnh mẽ, dần dần tách ra khỏi triết học, từng bước làm phá sản tham vọng muốn đóng vai trò "khoa học của mọi khoa học" của một số học thuyết triết học lúc bấy giờ, đặc biệt là triết học Hêghen.

            Đầu thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đã đoạn tuyệt hoàn toàn với quan niệm trên và xác định đối t ợng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trư ờng duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quan niệm macxit cho rằng:"Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con ng ời đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và t ư duy".

            Khác với các khoa học cụ thể chỉ đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới, triết học xem xét thế giới nh  một chỉnh thể và đem lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Mặc dù có sự khác nhau giữa các hệ thống triết học, nh ưng điểm chung của chúng là đều nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ của con ng ời nói chung, của tư duy nói riêng với thế giới.

            Như  vậy, với tư  cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, khái quát nhất, triết học không thể ra đời cùng với sự xuất hiện của xã hội loài nư ời. Triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau:

            Thứ nhất, lao động đã phát triển đến mức có sự phân chia lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động chân tay, tạo điều kiện và khả năng nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết,  thành lý luận và trên cơ sở đó triết học đã ra đời. Đó là khi chế độ Công xã nguyên thuỷ đã bị thay thế bằng chế độ Chiếm hữu nô lệ - chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết học tự nó đã mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp xã hội nhất định.

            Thứ hai, con ng ời đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu t ượng hóa để có thể rút ra đ ợc cái chung từ vô số các sự vật và hiện t ợng riêng lẻ, xây dựng nên các học thuyết, lý luận.

Page 4: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

            Điều đó khẳng định rằng, với t  cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học đã ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu của thực tiễn quy định.

            1.2. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan

            Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con ngư ời về thế giới, về bản thân con ng ười, về cuộc sống và vị trí con người trong thế giới đó.

            Đặc tính của t ư duy con ng ời là muốn đạt tới sự hiểu biết hoàn toàn, đầy đủ; song tri thức mà con ng ời đạt đ ợc luôn luôn là có hạn. Quá trình tìm hiểu về quan hệ giữa con người với thế giới đã hình thành nên những quan niệm nhất định, trong đó có sự hoà quyện thống nhất giữa cảm xúc và trí tuệ, tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi đã trở thành niềm tin định h ớng cho hoạt động của con người.

            Khác với thế giới quan thần thoại và tôn giáo, thế giới quan triết học dựa vào tri thức, là sự diễn tả quan niệm của con nư ời d ưới dạng hệ thống các quy luật, phạm trù đóng vai trò là những nấc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Với ý nghĩa đó, triết học đ ợc xem là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó.

2. Vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

2.1. Vấn đề cơ bản của triết học

            Ngay từ thời cổ đại đã nảy sinh vấn đề quan hệ giữa linh hồn con ng ời với thế giới bên ngoài. Triết học ra đời cũng giải quyết vấn đề đó, nh ng ở tầm khái quát cao hơn là mối quan hệ giữa tw duy và tồn tại. Theo Ăngghen: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa t  duy với tồn tại"( C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, t.21, tr.403); bởi vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và xuất phát điểm để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Đồng thời sẽ là tiêu chuẩn để xác định lập tr ờng thế giới quan của các triết gia và các học thuyết của họ.

            Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

            Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có tr ớc, cái nào có sau, cái nào quyết định cái

Page 5: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

nào?

            Mặt thứ  hai: ý thức con ng ời có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan hay không? Nghĩa là con ng ời có khả năng nhận thức hay không?

            Việc trả lời hai câu hỏi trên đã dẫn đến sự hình thành các tr ờng phái  và các học thuyết triết học khác nhau.

2.2. Các tr ờng phái triết học

2.2.1. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

            Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân chia các học thuyết triết học thành hai tr ờng phái triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

            a. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có tr ớc, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con ng ời và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con ng ười; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.

            Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử phát triển của nó luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, tồn tại d ới nhiều hình thức khác nhau.

                        + Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới. Hạn chế của nó là còn mang tính trực quan, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể. Ví dụ nh  quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit...

                        + Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII: Do ảnh h ởng của Cơ học cổ điển nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của ph ơng pháp t  duy siêu hình, máy móc - ph ơng pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nh ng CNDV siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ nh  quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII.

                        + Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó đ ợc V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết

Page 6: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

triết học tr ớc đó và vận dụng các thành tựu của khoa học đ ơng thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục đ ợc những hạn chế của chủ nghĩa duy vật tr ớc đó, thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực l ợng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.

            b. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có tr ớc và quyết định giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.

            Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ yếu là:

                        + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức con ng ời, khẳng định mọi sự vật, hiện t ợng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể. Ví dụ quan niệm của Beccơly.

                        + Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nh ng đó không phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có tr ớc và tồn tại độc lập với con ng ời, quyết định sự tồn tại  của tự  nhiên, xã hội và t  duy. Nó th ờng đ ợc mang những tên gọi khác nhau nh  ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.Ví dụ quan niệm của Platon, Hêghen.

            Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực l ợng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên hệ với khoa học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực l ợng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc nhận thức của nó là sự tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi thế giới vật chất.

            Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của t  duy triết học. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ t  tởng giữa các giai cấp đối lập trong xã hội.

            c. Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận(duy vật hoặc duy tâm) giải thích thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có các nhà triết học nhị nguyên luận. Họ xuất phát  từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần để giải thích mọi hiện t ợng của thế giới. Theo họ, thế giới vật chất sinh ra từ nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Họ muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nh ng cuối cùng họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không phụ thuộc vào vật chất.

Page 7: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

2.2.2. Thuyết không thể biết

            Khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, đại đa số các nhà triết học( cả duy vật và duy tâm) đều thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con ng ời, nh ng với những cách lý giải trái ng ợc nhau. Chủ nghĩa duy vật xuất phát từ chỗ coi vật chất có tr ớc, ý thức có sau và là sự phản ánh thế giới vật chất đã thừa nhận con ng ời có thể nhận thức đ ợc thế giới khách quan và các quy luật của nó. Còn chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có tr ớc và quyết định vật chất nên nhận thức không phải là sự phản ánh thế giới, mà chỉ là sự tự nhận thức, tự ý thức về bản thân ý thức. Họ phủ nhận thế giới khách quan là nguồn gốc của nhận thức.

            Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con ng ời đ ợc gọi là thuyết không thể biết. Họ cho rằng, con ng ời không thể hiểu đ ợc đối t ợng hoặc nếu có hiểu thì chỉ là hình thức bên ngoài; bởi vì tính xác thực của các hình ảnh về đối t ợng mà các giác quan của con ng ời cung cấp trong quá trình nhận thức không đảm bảo tính chân thực. Tiêu biểu là quan niệm của Beccơly, Hium.

3. Phương pháp biện chứng và ph ương pháp siêu hình

Một vấn đề rất quan trọng mà triết học phải làm sáng tỏ là: các sự vật, hiện t ợng của thế giới xung quanh ta tồn tại nh  thế nào?

Vấn đề này có nhiều cách trả lời khác nhau, nh ng suy đến cùng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình.

3.1. Ph ương pháp siêu hình

- Nhận thức đối t ợng trong trạng thái cô lập, tách rời đối t ợng khỏi các chỉnh thể khác; giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.

- Nhận thức đối t ợng trong trạng thái tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về số lượng và nguyên nhân biến đổi nằm ở bên ngoài sự vật.

Nh ư vậy, phư ơng pháp siêu hình là ph ơng pháp xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại với một t  duy cứng nhắc, "chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại..mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của những

Page 8: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh.. mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ thấy cây mà không thấy rừng".(Sđd, t.20, tr.37).

3.2. Ph ương pháp biện chứng

- Nhận thức đối tư ợng trong trạng thái liên hệ với nhau, ảnh h ởng lẫn nhau và ràng buộc lẫn nhau.

- Nhận thức đối t ượng trong trạng thái vận động, biến đổi và phát triển; đó là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện t ợng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn bên trong của chúng.

            Như  vậy, ph ương pháp biện chứng là phư ơng pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt, "không chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ giữa chúng, không chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh..mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật, không chỉ thấy cây mà còn thấy cả rừng".

Phư ơng pháp biện chứng đã phát triển trải qua ba giai đoạn và đ ợc thể hiện qua ba hình thức lịch sử của phép biện chứng: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật.

            - Trong phép biện chứng tự phát thời cổ đại, các nhà biện chứng cả ph ơng Đông và phương Tây đã thấy các sự vật, hiện t ợng trong vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Nh ng đó mới chỉ là cái nhìn trực quan, ch a phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.

            - Trong phép biện chứng duy tâm, mà đỉnh cao là triết học cổ điển Đức (ng ời khởi x ớng là Cantơ và ng ời hoàn thiện là Hêghen), lần đầu tiên trong lịch sử t  duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của ph ơng pháp biện chứng. Nh ng đó là phép biện chứng duy tâm, bởi nó bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần; thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm tuyệt đối.

            - Trong phép biện chứng duy vật, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách làhọc thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển d ới hình thức hoàn bị nhất.

4. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội

Page 9: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

            Vai trò của triết học trong đời sống xã hội đ ợc thể hiện qua chức năng của triết học như chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục, như ng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phư ơng pháp luận.

4.1. Chức năng thế giới quan và ph ơng pháp luận của triết học

            Trong cuộc sống của con ng ời và xã hội loài ng ời, thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bằng một hệ thống quan niệm về thế giới, con ng ời tìm cách khám phá những bí mật của giới tự nhiên. Có thể ví thế giới quan nh  một thấu kính, qua đó con ng ời nhìn nhận, xét đoán mọi sự vật, hiện t ợng của thế giới xung quanh và tự xem xét chính mình. Từ đó, xác định thái độ, cách thức hoạt động, sinh sống của chính mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.

            Triết học ra đời với t  cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển nh  một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.

            Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời của một lĩnh vực đặc thù của khoa học lý thuyết và triết học - Đó là ph ương pháp luận. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.

            Xét theo phạm vi tác dụng, ph ơng pháp luận  có thể chia thành ba cấp độ:

+ Phương pháp luận ngành (hay ph ơng pháp luận bộ môn) là ph ơng pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.

            + Phương pháp luận chung là ph ơng pháp luận đ ợc sử dụng cho một số ngành khoa học.

            + Phương pháp luận chung nhất là ph ơng pháp luận đ ợc dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định các ph ơng pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con ng ười.

            Với tư  cách là hệ thống tri thức chung nhất của con ngư ời về thế giới và vai trò của con ng ời trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và t  duy, triết học thực hiện chức năng ph ơng pháp luận chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một

Page 10: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

nguyên tắc trong việc xác định ph ơng pháp, là một lý luận về ph ơng pháp.

4.2. Vai trò của triết học Mác - Lênin

            Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của t ư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng nh  đời sống xã hội và t ư duy con ng ời.

            Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và ph ơng pháp biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và t ư duy. Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về ph ơng pháp mà còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định h ớng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát điểm của ph ơng pháp luận.            Nh  vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và ph ơng pháp luận thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại".            Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Ng ợc lại, triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và ph ơng pháp luận đúng đắn cho sự phát triển khoa học.            Ngày nay, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa triết học Mác - Lênin và khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Lý luận triết học sẽ khô cứng và lạc hậu nếu tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành. Ng ợc lại, nếu không đứng vững trên lập tr ờng duy vật khoa học và thiếu t ư duy biện chứng thì tr ớc những phát hiện mới, ng ời ta dễ mất ph ơng h ớng và đi đến những kết luận sai lầm về mặt triết học.

            Đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đổi sâu sắc; việc nắm vững triết học Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực t ư duy sáng tạo của mình, tránh những sai lầm do chủ nghĩa chủ quan và ph ơng pháp tư  duy siêu hình gây ra.            Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi vậy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần tránh cả hai khuynh hớng sai lầm: hoặc xem th ờng triết học hoặc là tuyệt đối hóa vai trò của triết học. Nếu xem th ờng triết học sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, dễ mất ph ơng h ớng, thiếu chủ động và sáng tạo. Còn nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên lý, quy luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong những tr ờng hợp riêng, dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.

Page 11: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

ự ra đời và phát triển của Triết học Mác - LêninSự ra đời và phát triển của Triết học Mác - Lênin

Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người. 

1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học MácNhìn chung, có hai nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối với triết học Mác thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:

1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội1.1.1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành những cuộc đấu tranh giai cấp.

1.1.2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử

Page 12: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào năm 1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX, là phong trào cách mạng to lớn có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang tính giai cấp.

Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.

Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh nhanh chóng đạt được thắng lợi.

Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph. Ăngghen khái quát xây dựng những quan điểm triết học.

1.2. Nguồn gốc lí luận và tiền đề khoa học tự nhiên

1.2.1. Nguồn gốc lí luận

Page 13: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học Mác.

Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết triết học của Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.

Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là A.Smít và Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học.

Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết học Mác. Các Mác và Ph.Ăng ghen đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (quan điểm về vai trò của nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở hữu v.v...) và khắc phục tính không tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để xây dựng những quan điểm duy vật lịch sử.

Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lí luận của triết học Mác cần tìm hiểu không chỉ trong triết học Đức mà trong cả chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế chính trị học Anh.

1.2.2. Tiền đề khoa học tự nhiênGiữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng có mối quan hệ khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri

Page 14: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

thức do các khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học có những phát minh mang tính chất vạch thời đại thì tạo ra sự thay đổi của triết học.

Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, Thuyết tế bào, thuyết tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những sự vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân loại cần phải xây dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát minh của mình, khoa học đã cung cấp những tri thức để Các Mác và Ph.Ăng ghen khái quát xây dựng phép biện chứng duy vật.

Như vậy, triết học Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời sống thực tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại đã tạo ra.

2. Quá trình hình thành và phát triển triết học Mác - LêninSự hình thành và phát triển triết học Mác - Lênin trải qua một quá trình. Quá trình trải qua các giai đoạn sau: Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của Các Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa; giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển lí luận triết học; giai đoạn Lênin bảo vệ hoàn thiện và tiếp tục phát triển triết học Mác.

2.1. Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của Các Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa

2.1.1. Sự chuyển biến tư tưởng của Các Mác

Các Mác (5/5/1818 - 14/3/1883) sinh trưởng trong một gia đình trí thức (bố

Page 15: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

là luật sư) ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng có nhiều ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp và đạo Kitô là tôn giáo độc tôn.

Những ảnh hưởng tốt của giáo dục gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã giúp Các Mác hình thành tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu tự do. Phẩm chất đó không ngừng được bồi dưỡng và đã trở thành định hướng cho cuộc đời sinh viên và đưa Các Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng. Cũng vì thế, trong tình hình lúc đó, triết học Hêghen với tinh thần biện chứng cách mạng của nó được Các Mác xem là chân lý. Trong thời gian học ở khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Béc lin (1836 - 1841) ông say mê nghiên cứu triết học, nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người, thực hiện dân chủ, vươn tới tự do. Năm 1837 Các Mác tập trung nghiên cứu triết học Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen trẻ”.

Sau khi nhận bằng tiến sỹ triết học (8/1841), Các Mác chuẩn bị vào giảng dạy triết học ở trường đại học và dự định xuất bản một tạp chí với tên gọi “Tư liệu của chủ nghĩa vô thần”. Nhưng dự định đó không được thực hiện vì nhà nước phong kiến Phổ thực hiện chính sách đàn áp những người dân chủ cách mạng. Ông và một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển sang hoạt động chính trị đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền tự do dân chủ; đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng của ông. Như vậy lúc này, trong tư tưởng của Các Mác có sự mâu thuẫn giữa thế giới quan duy tâm với tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần. Mâu thuẫn bước đầu được giải quyết khi Các Mác làm việc ở báo Sông Ranh, ở đây lúc đầu là cộng tác viên sau trở thành linh hồn của tờ báo và ông đã làm cho nó trở thành cơ quan ngôn luận của phái dân chủ cách mạng.

Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở Các Mác có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng lao động. Lúc này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa được hình thành, ông đấu tranh bảo vệ “quần chúng nghèo khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân đạo. Với tinh thần nhân đạo, ông tập trung phê phán các chính sách của nhà nước Phổ, nhà nước đó chỉ là “cơ quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích cá nhân”. Trong quá trình phê phán đó Các Mác đã nhận thấy hoạt động của nhà nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã chứng minh.

Page 16: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý tưởng tự do trong thực tế đã giúp Các Mác hình thành khuynh hướng duy vật, nhận thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm. Lúc này tinh thần dân chủ cách mạng sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tư biện. Vì thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm (1843), Các Mác đặt cho mình nhiệm vụ duyệt lại một cách có phê phán quan niệm duy tâm của Hêghen trước hết về xã hội và nhà nước. Ông đã viết tác phẩm “góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong khi thực hiện phê phán ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học Phoi Ơ Bắc. Song với tinh thần phê phán ông đã thấy những mặt hạn chế, nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi của Phoi Ơ Bắc. Sự phê phán sâu rộng triết học Hêghen, việc khái quát kinh nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân văn của triết học Phoi Ơ Bắc đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm triết học của Các Mác.

Cuối tháng 10 - 1843, Các Mác sang Pari. ở đây, không khí chính trị sôi sục và tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển biến dứt khoát quan điểm của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Trong bài báo “lời nói đầu của cuốn sách góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, Các Mác đã phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa và hạn chế của cuộc cách mạng tư sản chỉ là “cuộc cách mạng bộ phận”; đồng thời ông khẳng định, chỉ có cuộc cách mạng do giai cấp vô sản thực hiện mới là “cuộc cách mạng triệt để”. Các Mác nêu rõ: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Với bài báo này và một số bài báo khác đăng trong tạp chí Niên giám Đức - Pháp năm 1844 đánh dấu bước hoàn thành quá trình chuyển biến lập trường, quan điểm của Các Mác.

2.1.2. Sự chuyển biến tư tưởng của Ph.Ăngghen

Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở tỉnh Ranh. Khi còn là học sinh trung học đã có thái độ căm ghét sự chuyên quyền và độc đoán của bọn quan lại phong kiến. Việc nghiên cứu triết học trong thời gian ở Béc lin, khi làm nghĩa vụ quân sự đã hướng ông đi vào con

Page 17: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

đường khoa học. Song, chỉ thời gian gần hai năm sống ở Manchestơ (Anh) từ mùa thu 1842 khi nghiên cứu đời sống kinh tế và chính trị nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1844 trên tạp chí Niên giám Đức - Pháp, Ph.Ăngghen đăng một số bài báo: "Bản thảo góp phần phê phán kinh tế - chính trị học", "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh". 

Các tác phẩm đó cho thấy ở Ăngghen, quá trình chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản đã hoàn thành. Quá trình này diễn ra độc lập với Các Mác. Trong các bài báo này, ông đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản để phê phán kinh tế chính trị học của A.Xmit và Đ.Ricacdo.

2.2. Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

Sự nhất trí về quan điểm và lập trường đã dễn đến tình bạn vĩ đại giữa Các Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.

Thời gian từ năm 1844 đến năm 1848 là quá trình hai ông từng bước xây dựng những nguyên lý triết học của mình.

Năm 1844 qua tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" Các Mác tiếp tục phê phán triết học duy tâm của Hêghen, đồng thời cũng vạch ra mặt tích cực của nó là phép biện chứng. Các Mác thông qua phân tích sự tha hóa của lao động đã cắt nghĩa: Sở hữu tư nhân trong xã hội tư bản trở thành nguyên nhân của sự tha hóa của lao động và của con người, biến sức lao động trở thành hàng hóa. Các Mác chỉ rõ: Muốn khắc phục sự tha hóa ấy phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân. Việc giải phóng người công nhân khỏi sự tha hóa là sự giải phóng con người nói chung.

Page 18: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

Trong tác phẩm này Các Mác đã luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát triển của xã hội. Mặc dù luận chứng này chưa chín muồi về mặt lý luận, song đã cho phép phân biệt quan niệm của Các Mác về chủ nghĩa cộng sản với những quan niệm của chủ nghĩa bình quân vốn có của các môn phái chủ nghĩa cộng sản không tưởng. Theo Các Mác, chủ nghĩa cộng sản dựa trên sự phát triển cao của nền sản xuất xã hội là nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản.

Trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" do Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung năm 1845 đã nêu rõ sự phê phán của hai ông đối với "phái Hêghen trẻ" đứng đầu là anh em nhà Bauơ về quan điểm lịch sử. Hai ông đã trình bày một số nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như: Quan điểm về vai trò của sản xuất vật chất đối với xã hội, v.v.

Năm 1845 - 1846, Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức". Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học đương thời ở nước Đức hai ông đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống. Nội dung của tác phẩm đã trình bày rõ những quan điểm với tư cách là luận điểm xuất phát như: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống, đó là những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ" và quan điểm: "Quan điểm duy vật lịch sử khi xem xét lịch sử xã hội phải xuất phát từ con người". Trong tác phẩm này cũng đã trình bày rõ hệ thống quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người.

Trong thời gian này Các Mác viết tác phẩm: "Luận cương về Phoiơbắc" (8/1845) nêu rõ quan điểm xuyên suốt đó là: vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã hội. Đồng thời cũng đưa ra quan điểm về bản chất của con người: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội".

Với tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc" và nhất là tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” quan niệm duy vật lịch sử đã hình thành. Quan niệm đó tạo cơ sở lý luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy trong hệ tư tưởng Đức, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản được hai ông trình bày như là một hệ quả trực tiếp của quan niệm duy vật lịch sử cho nên

Page 19: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

chủ nghĩa cộng sản chưa được diễn đạt thành luận điểm cụ thể. Song, một điều quan trọng là Các Mác và Ăngghen đã xây dựng phương pháp tiếp cận khoa học để nhận thức chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1847, Các Mác viết tác phẩm: "Sự khốn cùng của triết học". Ở đây ông trình bày tiếp các nguyên lý của triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và trình bày các luận điểm để viết tác phẩm tư bản.

Năm 1848, Các Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tuyên ngôn cộng sản” là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, của phong trào cộng sản thế giới. Trong đó trình bày một cách triệt để thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Với tác phẩm Tuyên ngôn cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung đã hình thành và sẽ được Các Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung phát triển trong thời gian sau.

2.3. Giai đoạn Các Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết họcTừ sau “Tuyên ngôn cộng sản”, học thuyết triết học Mác tiếp tục được phát triển trong sự gắn bó hơn nữa với thực tiễn cách mạng vô sản mà hai ông là lãnh tụ. Bằng hoạt động của mình, hai ông đã đưa phong trào cách mạng của giai cấp vô sản từ tự phát thành phong trào tự giác; chính qua đó, học thuyết triết học của hai ông không ngừng được phát triển.

Các Mác đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào đấu tranh cách mạng để khái quát tìm ra những kết luận, qua đó bổ sung và phát triển lý luận. Điều đó được biểu hiện qua nội dung của một số tác phẩm như: "Đấu tranh giai cấp ở Pháp", "Nội chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh Gôta". Đặc biệt qua bộ Tư bản, ông đã trình bày những tất yếu phát triển của nền sản xuất xã hội, lịch sử thay thế các hình thái kinh tế xã hội v.v.

Trong khi đó, Ăngghen đã khái quát các thành tựu khoa học để viết các tác phẩm như: “Chống Đuyrinh”, “ Biện chứng của tự nhiên”, “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”v.v.. Trong các tác phẩm đó, ngoài việc phê phán các quan điểm triết học duy tâm, siêu hình và duy vật

Page 20: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

tầm thường, ông đã trình bày học thuyết triết học Mác dưới dạng hệ thống lý luận hoàn thiện hơn.

2.4. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác

Chủ nghĩa Mác và triết học Mác sau khi trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh nó đã trực tiếp đi vào đời sống xã hội, trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Vì thế, nội dung của nó được lan truyền nhanh chóng ở các quốc gia thuộc châu Âu, trong đó có nước Nga. Nhưng sau khi Các Mác và Ph.Ăngghen mất, phong trào cộng sản thế giới có nguy cơ bị những người của phái chủ nghĩa xã hội dân chủ chi phối. Những người này tuyên truyền những luận điểm để bác bỏ những giá trị của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Tình hình đó cũng diễn ra ở nước Nga trong thời cuối của thế kỷ XIX và những năm đầu của thế kỷ XX.

Những năm cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX trong khoa học tự nhiên có những phát minh mới, nhất là việc tìm ra điện tử và cấu tạo của nguyên tử làm đảo lộn căn bản quan niệm vật lý học cổ điển, dẫn tới "cuộc khủng khoảng vật lý". Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa Makhơ (duy tâm chủ quan) công kích chủ nghĩa duy vật của Mác. Nước Nga sau khi cuộc cách mạng 1905-1907 thất bại, những người theo chủ nghĩa Makhơ tăng cường hoạt động lý luận, họ viện cớ "bảo vệ chủ nghĩa Mác" để xuyên tạc triết học Mác.

Do vậy, Lênin đã viết hàng loạt các tác phẩm như: "Những người bạn dân là thế nào" và "Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy", "Sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruve", để vạch trần bản chất phản cách mạng của bọn dân tuý Nga và phê phán những luận điểm duy tâm chủ quan về lịch sử của họ. Trong cuộc đấu tranh đó, Lênin đã bảo vệ chủ nghĩa Mác và còn làm phong phú thêm quan điểm duy vật lịch sử, nhất là lý luận về hình thái kinh tế xã hội.

Năm 1900 Lênin viết tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” để vạch rõ quan điểm duy tâm, siêu hình của những người theo chủ nghĩa Ma Khơ và chỉ rõ tác hại của nó đến phong trào cách mạng ở Nga. Trong tác phẩm, Lênin đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa duy

Page 21: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử dựa trên sự phân tích, khái quát những thành tựu khoa học mới nhất. Lênin xây dựng định nghĩa vật chất với tính cách là phạm trù triết học, đồng thời còn làm rõ thêm nhiều vấn đề về lý luận nhận thức mác xít.

Năm 1914-1915, Lênin nghiên cứu nhiều tác phẩm triết học, đặc biệt quan tâm nghiên cứu về phép biện chứng của Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy vật, nhất là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Thông qua đó, Lênin chuẩn bị lý luận cho cuộc cách mạng 1917. Tinh thần sáng tạo của tư duy biện chứng đã giúp cho Lênin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác về triết học như: vấn đề về nhà nước nước, bạo lực cách mạng, chuyên chính vô sản, lý luận về đảng kiểu mới. Lênin đã là tấm gương mẫu mực trong việc bảo vệ và phát triển triết học Mác. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là cụ thể, có khi Lênin đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan điểm nào đó của mình về chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều. Chính vì vậy mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đã gắn liền với tên tuổi của Lênin và từ đó triết học Mác mang tên triết học Mác - Lênin.

2.5. Vận dụng và phát triển triết học Mác - Lênin trong điều kiện thế giới hiện nay Đặc điểm của thời đại hiện nay là sự tương tác giữa hai quá trình cách mạng - cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng xã hội, đã tạo nên sự biến đổi rất năng động của đời sống xã hội. Trong điều kiện đó, quá trình tạo ra những tiền đề của chủ nghĩa xã hội diễn ra trong các nước tư bản phát triển được đẩy mạnh như một xu hướng khách quan. Sự ra đời của công ty cổ phần từ cuối thế kỷ trước đã được Các Mác xem là "hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa" sang "phương thức sản xuất tập thể". Song, hiện thực khách quan đó đã vượt khỏi giới hạn nhận thức chật hẹp của chủ nghĩa giáo điều tồn tại trong một số người. Tính biện chứng của sự tiến hóa xã hội diễn ra trong những mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cũng là một trong những nguồn gốc nảy sinh những khuynh hướng sai lầm khác nhau, thậm chí đi tới "xét lại" trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Điều này đã được Lênin phân tích, chỉ rõ: Do không nắm vững phép biện chứng duy vật, có những cá nhân

Page 22: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

hay nhóm người luôn phóng đại khi thì đặc điểm này, khi thì đặc điểm nọ của sự phát triển tư bản chủ nghĩa; khi thì "bài học" này, khi thì "bài học" nọ của sự phát triển ấy, thành lý thuyết phiến diện, thành một hệ thống sách lược phiến diện.

Sự khủng khoảng của chủ nghĩa xã hội làm cho yêu cầu phát triển triết học Mác - Lênin càng trở nên cấp bách. Thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả mà chủ nghĩa xã hội đã giành được, nhất là cuộc đấu tranh bảo vệ đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vượt qua thách thức to lớn hiện nay và tiếp tục tiến lên, đòi hỏi các Đảng cộng sản phải nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng. Trước hết phải thấm nhuần thế giới quan duy vật và phép biện chứng khoa học của nó.

Hiện nay ở các nước do Đảng cộng sản nắm quyền lãnh đạo đang thực hiện quá trình đổi mới đã tạo ra một số thành công và gặp không ít thất bại. Cả sự thành công và thất bại đó đều đòi hỏi phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, khắc phục bệnh giáo điều trong việc vận dụng lý luận. Phải biết tổng kết những thành tựu của khoa học hiện đại, khái quát sự phát triển của lịch sử xã hội, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn qua công cuộc đổi mới để bổ sung, hoàn thiện triết học Mác - Lênin. Chúng ta không thể đổi mới thành công nếu xa rời lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, rơi vào chủ nghĩa xét lại.

Như vậy, phát triển lý luận triết học Mác - Lênin và đổi mới chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn là một quá trình thống nhất, bởi vì "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin".

3. Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Các Mác và Ph.Ăngghen thực hiện3.1. Thực chất

Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử triết học Mác.

Triết học Mác đã tạo ra hình thức phát triển cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức phát triển cao của phép biện chứng là

Page 23: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

phép biện chứng duy vật. Triết học Mác thực sự khắc phục được sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Cố nhiên, trong chủ nghĩa duy vật trước Mác đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể hiện tinh thần biện chứng; song, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và trình độ phát triển của khoa học nên tính siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của nó. Do vậy, quan điểm duy vật của những học thuyết đó thường thiếu triệt để. Đây là điểm yếu để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tiến hành đấu tranh chống lại. Còn phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ bọc duy tâm thần bí tiêu biểu trong triết học của Hêghen. 

Cho nên, nội dung của phép biện chứng chưa phản ánh đúng thế giới hiện thực. Các Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục hạn chế siêu hình; cải tạo phép biện chứng, giải thoát khỏi cái vỏ duy tâm. Từ đó khái quát xây dựng một học thuyết triết học mới - chủ nghĩa duy vật biện chứng. 

Trước triết học Mác, có một số học thuyết triết học bàn đến vấn đề xã hội; song, do hạn chế về thế giới quan hoặc phương pháp luận nên các học thuyết đó mới chỉ nghiên cứu hoặc lĩnh vực này hoặc lĩnh vực kia mà chưa nghiên cứu toàn diện mọi mặt của xã hội. Do vậy không thể nào tìm ra được quy luật phát triển chung của xã hội loài người. Các Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng những lý luận của duy vật biện chứng để nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tìm ra các quy luật phát triển chung của xã hội loài người và tiến trình phát triển tất yếu tự nhiên của nó. Từ đó xây dựng, sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử với tính cách là bộ phận của triết học Mác. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Đó là một cuộc cách mạng thực sự trong triết học. Từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời đã loại bỏ được cơ sở tồn tại cuối cùng của chủ nghĩa duy tâm.

Những học thuyết triết học trước triết học Mác thường mới dừng lại ở việc giải thích thế giới, cho nên họ chưa đề cập đến vai trò của hoạt động thực tiễn đối với lý luận, lý luận thường tách rời với thực tiễn. Do vậy, không tránh khỏi tình trạng rơi vào quan điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả ở trong triết học Phoiơbắc tuy coi vấn đề con người là trung tâm thế nhưng đây chỉ mới là con người thuần túy về mặt sinh vật, chưa phải con người với tính

Page 24: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

cách là chủ thể hoạt động cải tạo thế giới. Còn triết học Mác đã xác định rõ: Nhiệm vụ của mình không chỉ dừng lại ở giải thích thế giới mà chủ yếu là tìm ra các phương tiện, các biện pháp để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Triết học Mác thường lấy hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội, cải tạo thế giới của con người là điểm xuất phát và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn để hoàn thiện hệ thống lý luận của mình. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác đã tạo ra được sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực tiễn, chịu sự quyết định của thực tiễn; khi ra đời, lý luận định hướng hoạt động thực tiễn. Vì thế, so với các học thuyết triết học khác thì triết học Mác luôn luôn được bổ sung và hoàn thiện.

3.2. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Các Mác và Ph.Ăngghen thực hiện

Nhờ sự ra đời của triết học Mác mà vai trò xã hội cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học và đối tượng triết học có thay đổi căn bản.

Khi ra đời triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản, giai cấp vô sản có cơ sở lý luận khoa học để nhận thức thực tiễn xã hội; từ đó định ra được đường lối chiến lược và đề ra những biện pháp đấu tranh cải biến xã hội có hiệu quả. Sự kết hợp giữa lý luận triết học Mác với phong trào vô sản đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. Triết học Mác còn là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét lại, cơ hội và chủ nghĩa giáo điều, góp phần quan trọng tạo ra sự thống nhất của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản.

Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều triết học coi triết học là "khoa học của mọi khoa học" đứng trên mọi khoa học, Các Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Đến lượt mình, triết học Mác ra đời đã trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung định hướng sự phát triển của các khoa học và phương pháp luận chung định hướng sự phát triển của các khoa học. Sự phát triển của khoa học ngày càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại, phải

Page 25: Cau Hoi Ve Chu Nghia Mac-lenin

phát triển lý luận triết học Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại. Như vậy, triết học Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết học với các khoa học khác và thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, cũng như xác định rõ đối tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra quy luật vận động, phát triển chung nhát của tự nhiên, xã hội và tư duy.