Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

81
Những cách diễn đạt trong bài báo khoa học (phần 1) Liên quan đến vấn đề viết báo khoa học hay luận án, có khi nào bạn cảm thấy không biết bắt đầu câu văn như thế nào? Tôi nghĩ chắc là có. Kinh nghiệm của tôi ngày xưa là như thế. khi nghĩ cả ngày mà chưa ra câu văn đầu tiên là gì, viết sao cho “ấn tượng”, mặc dù đã có ý tưởng rồi. Trong khoa học có nhiều câu văn “quen quen” mà chúng ta có thể dùng một cách luân phiên để cho bài báo hay luận án đọc cho suôn. Tôi đã sưu tầm nhiều câu văn như thế, và trong loạt bài này sẽ chia sẻ cùng các bạn. Người ta thường hay nói “vạn sự khởi đầu nan”, và tôi thấy câu này rất thích hợp trong việc viết bài báo khoa học. Sau khi đã làm xong thí nghiệm, hay làm xong nghiên cứu, với một đống số liệu, và những ý tưởng khá rõ ràng, chúng ta có khi không biết bắt đầu câu văn như thế nào. Đó là tâm trạng chung của rất nhiều nghiên cứu sinh khi mới bắt đầu viết báo khoa học hay viết luận án. Đó cũng là tâm trạng của người trình bày trong hội thảo: phải bắt đầu bằng câu nói gì cho hay, để gây sự chú ý của khán giả. Kinh nghiệm của tôi cho thấy câu văn đầu mà trôi chảy thì bài nói chuyện hay bài báo khoa học sẽ trôi chảy theo. Nhưng trong bài báo khoa học có nhiều phần, và mỗi phần có chức năng khác nhau, cho nên câu văn cũng phải phù hợp với những chức năng cụ thể. Sau đây là những câu văn mà các bạn có thể sử dụng để tô thêm màu sắc cho bài báo khoa học: Những câu văn nhằm thuyết phục tầm quan trọng của vấn đề: One of the most significant current discussions in legal and moral philososphy is It is becoming increasingly difficult to ignore the X is the leading cause of death in western industrialised

Transcript of Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Page 1: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Những cách diễn đạt trong bài báo khoa học (phần 1)

Liên quan đến vấn đề viết báo khoa học hay luận án, có khi nào bạn cảm thấy không biết bắt đầu câu văn như thế nào?  Tôi nghĩ chắc là có.  Kinh nghiệm của tôi ngày xưa là như thế.  Có khi nghĩ cả ngày mà chưa ra câu văn đầu tiên là gì, viết sao cho “ấn tượng”, mặc dù đã có ý tưởng rồi.  Trong khoa học có nhiều câu văn “quen quen” mà chúng ta có thể dùng một cách luân phiên để cho bài báo hay luận án đọc cho suôn.  Tôi đã sưu tầm nhiều câu văn như thế, và trong loạt bài này sẽ chia sẻ cùng các bạn.

Người ta thường hay nói “vạn sự khởi đầu nan”, và tôi thấy câu này rất thích hợp trong việc viết bài báo khoa học.  Sau khi đã làm xong thí nghiệm, hay làm xong nghiên cứu, với một đống số liệu, và những ý tưởng khá rõ ràng, chúng ta có khi không biết bắt đầu câu văn như thế nào.  Đó là tâm trạng chung của rất nhiều nghiên cứu sinh khi mới bắt đầu viết báo khoa học hay viết luận án.  Đó cũng là tâm trạng của người trình bày trong hội thảo: phải bắt đầu bằng câu nói gì cho hay, để gây sự chú ý của khán giả.  Kinh nghiệm của tôi cho thấy câu văn đầu mà trôi chảy thì bài nói chuyện hay bài báo khoa học sẽ trôi chảy theo.

 

Nhưng trong bài báo khoa học có nhiều phần, và mỗi phần có chức năng khác nhau, cho nên câu văn cũng phải phù hợp với những chức năng cụ thể.  Sau đây là những câu văn mà các bạn có thể sử dụng để tô thêm màu sắc cho bài báo khoa học:

Những câu văn nhằm thuyết phục tầm quan trọng của vấn đề:

One of the most significant current discussions in legal and moral philososphy is  It is becoming increasingly difficult to ignore the  X is the leading cause of death in western industrialised countries.X is a common disorder characterised by  X is an important component in the climate system, and plays a key role in Y.In the new global economy, X has become a central issue for ......In the history of development A, X has been thought of as a key factor in  Xs are one of the most widely used groups of antibacterial agents and Xs are the most potent anti-infammatory agents known.X is a major public health problem, and the cause of about 10% of the global burden of disease.X is an increasingly important area in applied linguistics.

Nói về tầm quan trọng với thời gian tính

Recent developments in X have heightened the need for ......In recent years, there has been an increasing interest in ......Recent developments in the field of X have led to a renewed interest in ......Recently, researchers have shown an increased interest in ......

Page 2: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

The past decade has seen the rapid development of X in many .......The past thirty years have seen increasingly rapid advances in the field of......Over the past century there has been a dramatic increase in ......One of the most important events of the 1970s was ......Traditionally, Xs have subscribed to the belief that ......X proved an important literary genre in the early Y community.The changes experienced by Xs over the past decade remain unprecedented.Xs are one of the most widely used groups of antibacterial agents and have been extensively used for decades to .......

Nhấn mạnh vấn đề trong nghiên cứu

However, these rapid changes are having a serious effect ......However, a major problem with this kind of application is ......Lack of X has existed as a health problem for many years.Despite its safety and efficacy, X suffers from several major drawbacks:However, research has consistently shown that first year students have not attained an adequate understanding of ......There is increasing concern that some Xs are being disadvantaged ...... Despite its long clinical success, X has a number of problems in use.Questions have been raised about the safety of prolonged use of ......

Mô tả một tình trạng “controversy” trong chuyên ngành

To date there has been little agreement on what ......More recently, literature has emerged that offers contradictory findings about .....One observer has already drawn attention to the paradox in ......In many Xs a debate is taking place between Ys and Zs concerning ......The controversy about scientific evidence for X has raged unabated for over a century.Debate continues about the best strategies for the management of …… This concept has recently been challenged by ……. studies demonstrating …….One of the most significant current discussions in legal and moral philososphy is ......One observer has already drawn attention to the paradox in ......In many Xs a debate is taking place between Ys and Zs concerning ......The controversy about scientific evidence for X has raged unabated for over a century.Questions have been raised about the safety of prolonged use of ...... The issue of X has been a controversial and much disputed subject within the field of ....... The issue has grown in importance in light of recent ...... One major theoretical issue that has dominated the field for many years concerns ......One major issue in early X research concerned.......

Viết về khoảng trống tri thức trong chuyên ngành

So far, however, there has been little discussion about ......However, far too little attention has been paid to ......

Page 3: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Most studies in X have only been carried out in a small number of areas.The research to date has tended to focus on X rather than Y.In addition, no research has been found that surveyed .......So far this method has only been applied to ......Several studies have produced estimates of X (Smith, 2002; Jones, 2003), but there is still insufficient data for .....However, there have been no controlled studies which compare differences in ......The experimental data are rather controversial, and there is no general agreement about ......However, there is no reliable evidence that ......

Những câu văn viết về mục tiêu nghiên cứu

This paper will focus on/examine/give an account of ...... The objectives of this research are to determine whether ......This paper seeks to address the following questions: This essay critically examines/discusses/traces ......The purpose of this paper is to review recent research into the ......This paper will review the research conducted on ......In this paper I argue that .....This chapter reviews the literature concerning the usefulness of using ......The aim of this paper is to determine/examine ......The aim of this study was to evaluate and validate ......

Những câu văn giới thiệu cấu trúc của bài báo (thích hợp cho bài báo tổng quan)

The main questions/issues addressed in this paper are: a), b and c).This paper has been divided into four parts. The first part deals with ......The essay has been organised in the following way.This paper first gives a brief overview of the recent history of X.This paper begins by ...... It will then go on to ......The first section of this paper will examine ...... Finally, .......

Chapter 2 begins by laying out the theoretical dimensions of the research, and looks at how ......Chapter 3 describes the design, synthesis, characterization and evaluation of ......The last chapter assesses the ......

Đề cập đến các nghiên cứu trước

Many authors have argued that ...... (eg. Jones, 1987; Johnson, 1990; Smith, 1994)Numerous studies have attempted to explain ..... (for example, Smith , 1996; Kelly, 1998; Johnson, 2002)

Recent evidence suggests that ....... (Smith, 1996; Jones 1999; Johnson, 2001)Recently, in vitro studies have shown that T.thermophylus EFTu can ...... (Patel et al., 1997; Jones

Page 4: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

et al., 1998).Surveys such as that conducted by Smith (1988) have shown that ......

Several attempts have been made to ....... (Smith, 1996; Jones 1999; Johnson, 2001)Several studies have revealed that it is not just X that acts on ...... (Smith, 1996; Jones .......Several biographies of Harris have been published. Smith presents an ........ account, whilst Jones .....Several studies investigating X have been carried out on ......Data from several sources have identified the increased morbidity and mortality associated with obesity

Previous studies have reported ...... (Smith, 1985; Jones, 1987; Johnson, 1992).Previous research findings into X have been inconsistent and contradictory (Smith, 1996; Jones 1999, ......A number of studies have found that ...... (Smith , 2003; Jones, 2004).

Twenty cohort study analyses have examined the relationship between ....... At least 152 case-control studies worldwide have examined the relationship between...... Other studies have considered the relationship ......

The relationship between X and Y has been widely investigated (Smith, 1985; Jones, 1987, .......The causes of X have been widely investigated (Jones, 1987; Johnson, 1990; Smith, 1994).The geology of X has been addressed in several smallscale investigations and .......

Xs have been identified as major contributing factors for the decline of many species (1). X has also been shown to reverse the anti-inflammatory effects of glucocorticoids in murine-induced arthritis (11).

It has been suggested that levels of X are independent of the size of the Y (Smith et al., 1995)It has conclusively been shown that X and Y increase Z (Smith et al., 1999; Jones, 2001 ......It has been demonstrated that a high intake of X results in damage to ...... (Smith, 1998; ......

Đề cập đến kiến thức hiện hành

A relationship exists between an individual's working memory and their ability to ...... (Jones et al.,1998). GM varieties of maize are able to cross-pollinate with non-GM varieties (Smith, 1998; Jones, 1999). There is an unambiguous relationship between spending on education and economic development (Rao, 1998).X is one of the most intense reactions following CHD (Lane, 2003).MIF has been found to oppose the anti-infammatory actions of X on Y (Alourfi, 2004).

Đề cập đến một nghiên cứu trong quá khứ

Page 5: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Smith (1999)found that as levels of literacy and education of the population rise .............showed that reducing X to 190oC decreased ...... (see figure 2) .demonstrated that when the maximum temperature is exceeded .......

Jones et al. (2001)

investigated the differential impact of formal and non-formal education on ......analysed the data from 72 countries and concluded that .......reviewed the literature from the period and found little evidence for this claim.interviewed 250 undergraduate students using semi-structured questionnaires.studied the effects of Cytochrome P450 on unprotected nerve cells.performed a similar series of experiments in the 1960s to show that ......carried out a number of investigations into the ......conducted a series of trials in which he mixed X with different quantities of ....measured both components of the ......labelled these subsets as .......examined the flow of international students ...... ......identified parents of disabled children as ..... used a survey to assess the various .......

 

Đề cập đến một nghiên cứu trong quá khứ với thời gian cụ thể

In 1975, Smith et al. published a paper in which they described ..... In 1990 Patel et al. demonstrated that replacement of H2O with heavy water led to ......Thirty years later, Smith (1974) reported three cases of Candida Albicans which .......In the 1950s Gunnar Myrdal pointed to some of the ways in which …………… (Myrdal, 1957)In 1981, Smith and co workers demonstrated that X induced in vitro resistance to .......In 1990, El-Guerrouj et al. reported a new and convenient synthetic procedure to obtain ......In 1984 Jones et al. made several amino acid esters of X and evaluated them as water-soluble pro-drugs.

Đề cập đến một nghiên cứu nổi tiếng

Preliminary work on X was undertaken by AbdulKarim (1992).The first systematic study of X was reported by Patel et al. in 1986.The study of the structural behavior of X was first carried out by Rao et al. (1986)...... Analysis of the genes involved in X was first carried out by Smith et al (1983).

A recent study by Smith and Jones (2001) involved ......A longitiudinal study of X by Smith (2002) reports that ......A small scale study by Smith (2002) reaches different conclusions, finding no increase in ......

Page 6: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Smith's cross-country analysis (2002) showed that ......Smith's comparative study (2002) found that ......Detailed examination of X by Smith and Patel (1961) showed that ......

In another major study, Zhao (1974) found that just over half of the ...... In a radomised controlled study of X, Smith (2004) reported that ......In a large longitudinal study, Boucahy et al. 2004) investigated the incidence of X in Y.

Classical conditioning was first demonstrated experimentally by Pavlov (Smith, 2002). In his seminal study ......The electronic spectroscopy of X was first studied by Smith and Douglas 1 in 1970The acid-catalyzed condensation reaction between X and Y was first reported by Baeyer in 1872X formed the central focus of a study by Smith (2002) in which the author found ......X was originally isolated from Y in a soil sample from ...... (Wang et al., 1952).The way in which the X gene is regulated was studied extensively by Ho and colleagues (Ho et al. 1995 and 1998).To determine the effects of X, Zhao et al (2005) compared ......

Đề cập đến những gì người ta viết trước đây

Smith (2003) identifies poor food, bad housing, inadequate hygiene and large families as the major causes of ......Rao (2003) lists three reasons why the English language has become so dominant. These are: ......Smith (2003) traces the development of Japanese history and philosophy during the 19th century.Jones(2003) provides in-depth analysis of the work of Aristotle showing its relevance to contemporary times.Smith (2003) draws our attention to distinctive categories of motivational beliefs often observed in .......Smith (2003) defines evidence based medicine as the conscious, explicit and judicious use of .....Rao (2003) highlights the need to break the link between economic growth and transport growth ...... Smith (2003) discusses the challenges and strategies for facilitating and promoting ......Toh (2003) mentions the special situation of Singapore as an example of .....Smith (2003) questions whether mainstream schools are the best environment for ...... Smith (2003) considers whether countries work well on cross-border issues such as ......Smith (2003) uses examples of these various techniques as evidence that ......

In her major study, In her seminal article, In her classic critique of ......,In her case study of ......,In her review of ......,In her analysis of ......,

Smith (2004) identifies five characteristics of .......

Page 7: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

In her introduction to ......,'

Some analysts (eg Carnoy, 2002) have attempted to draw fine distinctions between ........Other authors ( see Harbison, 2003; Kaplan, 2004) question the usefulness of such an approach.

Đề cập đến ý tưởng của tác giả khác

According to Smith (2003), preventative medicine is far more cost effective, and therefore better adapted to the developing world.

Smith (2003)

points out argues maintains claims concludes suggests

thatpreventative medicine is far more cost effective, and therefore better adapted to the developing world

 

Smith (2003)

argues foroffersproposessuggests

an explanatory theory for each type of irrational belief.

This view is supported by Jones (2000) who writes ......Smith argues that her data support O'Brien's (1988) view that ......As Smith reminds us, .............. Elsewhere, Smith has argued that ......

Cách trích dẫn

In the final part of the Theses, Marx writes: "Philosophers have hitherto only interpreted the world in various ways; the point ......."Sachs concludes: "The idea of development stands today like a ruin in the intellectual landscape…" (Sachs, 1992a: 156). As Smith argues: "In the past, the purpose of education was to ......" (Smith , 2000:150).As Carnoy (2004: 215) states: "there are many good reasons to be sceptical".

Page 8: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Những cách diễn đạt trong bài báo khoa học (phần 2)

Trong văn chương khoa học, có một “câu kinh” mà ai cũng phải biết: trong sáng, trong sáng, và trong sáng.  Clarity, clarity, and clarity.  Do đó, tác giả bài báo khoa học phải nằm lòng mantra này trong khi viết.

(Tiếp theo phần 1: Những cách diễn đạt trong bài báo khoa học)

Làm sao để có một bài báo khoa học trong sáng? Có nhiều cách, nhưng theo tôi những cách thực tế nhất là tránh biệt ngữ, dùng thể chủ động, sử dụng cấu trúc song hành, và phân tích về cấu trúc và logic.

Để bắt đầu, chúng ta thử đọc đoạn văn sau đây:

Although the methodological approaches are similar, the questions posed in classic epidemiology and clinical epidemiology are different. In classic epidemiology, epidemiologists pose a question about the etiology of a disease in a population of people.  Causal associations are important to identify because, if the causal factor identified can be manipulated or modified, prevention of disease is possible.  On the other hand, in clinical epidemiology, clinicians pose a question about the prognosis of a disease in a population of patients.  Prognosis can be regarded as a set of outcomes and their associated probabilities following the occurrence of some defining event or diagnosis that can be a symptom, sign, test result or disease.

Có gì sai trong đoạn văn này?  Về mặt văn phạm, chẳng có gì sai cả.  Nhưng về cấu trúc logic thì đoạn văn trên có vấn đề.  Để thấy vấn đề, chúng ta cần phải phân tích ý tưởng và cách sắp xếp những câu văn trong đó.  Ý tưởng chính của đoạn văn này là hai bộ môn dịch tễ học kinh điển (classic epidemiology) và dịch tễ học lâm sàng (clinical epidemiology) khác nhau.  Đoạn sau đó cung cấp “bằng chứng” để minh họa cho ý tưởng đó.  Đoạn kế tiếp cung cấp thêm bằng chứng chi tiết hơn để làm cơ sở cho phát biểu đầu tiên.  Đây là một cấu trúc chuẩn trong văn chương khoa học.  Nhưng tại sao đọc lên vẫn thấy có cái gì lấn cấn?

Chúng ta thử đọc câu đầu:

Although the methodological approaches are similar, the questions posed in classic epidemiology and clinical epidemiology are different.

 

Câu văn chẳng có gì sai về mặt cú pháp, nhưng có vấn đề về cách viết.  Câu đầu tiên (“Although the methodological approaches are similar”) có vẻ dài dòng một cách không cần thiết. Đến cụm

Page 9: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

từ “the questions posed” viết theo thể thụ động là điều không nên trong văn cảnh này, vì người ta sẽ hỏi “Ai đặt câu hỏi?”  Ngay cả động “are different” cũng dài dòng, bởi vì người viết có thể viết đơn giản hơn như differ.  Do đó, câu trên có thể sửa lại như sau:

Despite methodologic similarities, classic epidemiology and clinical epidemiology differ in aim.

Đến phần thứ hai của đoạn văn, tác giả muốn giải thích thêm về ý tưởng rằng hai bộ môn khác nhau. Đây là phần “bằng chứng”:

In classic epidemiology, epidemiologists pose a question about the etiology of a disease in a population of people.  Causal associations are important to identify because, if the causal factor identified can be manipulated or modified, prevention of disease is possible.  On the other hand, in clinical epidemiology, clinicians pose a question about the prognosis of a disease in a population of patients.

 

Cấu trúc của đoạn văn này có thể tóm lược như sau: bộ môn 1 (classical epidemiology), chuyên gia (epidemiologists) đặt câu hỏi về X (etiology) trong một quần thể X (population). Bộ môn 2 (clinical epidemiology), chuyên gia (clinicians) đặt câu hỏi về Y trong một quần thể Y (patients).  Thế nhưng người viết tỏ ra lượm thượm trong cách hành văn.  Chẳng hạn như tại sao phải lặp lại “In classic epidemiology, epidemiologists pose a question”. Thật ra, câu này không có thông tin !  Do đó, phần này có thể viết lại ngắn gọn theo cấu trúc vừa đề cập:

Classic epidemiologists pose a question about the etiology of a disease in a population of people. Clinical epidemiologists pose a question about the prognosis of a disease in a population of patients.

Đoạn kế tiếp là thêm bằng chứng để minh họa cho phát biểu:

Prognosis can be regarded as a set of outcomes and their associated probabilities following the occurrence of some defining event or diagnosis that can be a symptom, sign, test result or disease.

 

Câu này quá lượm thượm và thừa!  Prognosis thì dĩ nhiên là phải có outcome; defining event cũng là thừa.  Có thể viết lại gọn hơn:

Prognosis is the probability that an event or diagnosis will result in a particular outcome.

Những phân tích trên dẫn đến một số điểm chính mà tác giả bài báo khoa học cần phải biết và

Page 10: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

tránh như sau.  Tôi sẽ chuyển sang các ví dụ khác và sau đó quay lại với cách làm gọn đoạn văn trên.

Thứ nhất là tránh biệt ngữ (jargon).  Trong bài báo khoa học, kị nhất là biệt ngữ, tức là những chữ chỉ có người chuyên ngành mới biết, và tránh những viết tắt.  Điều này nói chung là đúng vì nhiều người đọc bài báo không phải là người trong ngành, nên những biệt ngữ hay viết tắt chỉ làm cho bài báo khó hiểu.

Ví dụ: “Recent research suggests that these two disorders may not be as distinct as previously was thought and the degree of overlap may be considerable”

Câu văn này (trích từ bài báo trên JBC) rất khó hiểu, vì có vài chữ không cần thiết (và có chút õng ẹo trong cách dùng chữ).  Thoạt đầu thì viết là “not as distinct as”, nhưng sau đó thì “overlap”, tức chẳng khác nhau gì về ý nghĩa.  Có nhiều cách viết lại câu này, nhưng theo tôi thì có thể viết ngắn hơn như sau:

“Recent research suggests that these two disorders may overlap considerably.”

Có thể người giỏi tiếng Anh có cách viết khác hơn nữa.  Các bạn thử viết lại xem!

Thứ hai, cố gắng dùng thể chủ động (active voice) và viết câu văn ngắn gọn.  Như có đề cập trước đây, xu hướng chung của các tập san khoa học là khuyến khích dùng thể văn chủ động, thay vì thụ động, bởi vì các chuyên gia tiếng Anh cho rằng thể văn chủ động dễ hiểu hơn.  Ngoài ra, cũng nên cố gắng chọn từ ngắn gọn, như thay vì viết "in spite of the fact that", chỉ cần viết "even though" là đầy đủ.

Ví dụ: “The study of Barrett et al. (1997) is considered to be methodologically sound.  In that study, 1,000 bacteria were transformed with the novel gene.”

Không có gì sai trong đoạn văn này.  Nhưng tác giả sử dụng đến 2 câu văn, nên làm đứt đoạn luồng đọc, và cách viết như thế được xem là không tốt mấy.  Có thể viết lại câu này đơn giản hơn:

Using sound methods, Barret et al. (1997), transformed 1,000 bacteria with the novel gene.

Thứ ba, tránh “văn chương làm dáng” với những từ không cần thiết mà còn có thể làm lạc hướng của chủ đề.  Có thể xem vài ví dụ sau đây để thấy sự không cần thiết của loại văn làm dáng.

Tránh Nên

A progressive decrease in the death rate occurred

The death rate progressively decreased

Page 11: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

These agents exert their action by inhibition of synthesis of cholesterol by the liver

These agents inhibit cholesterol synthesis by the liver

In classic epidemiology, the case-control can provide efficiencies when the occurrence of disease in the population is relatively rare

In classic epidemiology, the case-control study is efficient for rare diseases

There are many scientists who don’t like to speak to journalists

Many scientists don’t like to journalists

 

Thứ tư, sử dụng cấu trúc “song hành” (parallel construction) cho thích hợp.  Trong văn chương khoa học, đương nhiên là có nhiều ý tưởng và dữ liệu mà chúng ta muốn mô tả trong một câu văn, và cấu trúc “song hành” là tiện lợi nhất cho mục đích này.  Những trường hợp sau đây là thích hợp cho việc sử dụng cấu trúc song hành:

(a) Khi một cặp ý tưởng  — 2 ý tưởng nối kết nhau bằng and, or, hoặc but — nên được viết theo thể song hành:

Cardiac input decreased by 40% but blood pressure decreased by only 10%.

We hoped to increase the response and to improve survival

(b) Danh sách ý tưởng hay dữ liệu:

This research follows four distinct phases: (1) establishing measurement instruments, (2) measuring patterns, (3) developing interventions,  and (4) disseminating successful interventions to other settings and institutions.

If you want to be a good scientist you must study hard, listen well, and think critically about the scientific literature.

Sau đây là vài cấu trúc song hành không thích hợp, nên câu văn đọc lên rất … buồn cười (trích trong đề thi tuyển sinh tiếng Anh, 2010):

Nowadays cartoons are often used to make short, sharp comments on politics and governments as well as on a variety of social matters.

Until recently, the transfer of knowledge and culture

Thứ năm, cẩn thận với vị ngữ (predicate)! Một mệnh đề là một đơn vị của một câu văn.  Mệnh đề gồm có chủ ngữ và vị ngữ.  Một trong những yếu điểm của giới viết bài báo khoa học là “nén” quá nhiều dữ liệu trong một câu văn và làm cho người đọc khó theo dõi đâu là chủ ngữ và đâu là

Page 12: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

vị ngữ.

Thử đọc đoạn văn sau đây:

One study of 930 adults with multiple sclerosis (MS) receiving care in one of two managed care settings or in a fee-for-service setting found that only two-thirds of those needing to contact a neurologist for an MS-related problem in the prior 6 months had done so (Vickrey et al 1999).

Trong đoạn văn trên, one study là chủ ngữ, và found that là vị ngữ.  Cái lỗi của đoạn văn này là chủ ngữ và vị ngữ cách nhau xa quá (phải đọc một lúc mới thấy vị ngữ!).  Cụm từ of 930 adults with multiple sclerosis (MS) receiving care in one of two managed care settings or in a fee-for-service setting có thể xem là … rác.

One study found that, of 930 adults with multiple sclerosis (MS) who were receiving care in one of two managed care settings or in a fee-for-service setting, only two-thirds of those needing to contact a neurologist for an MS-related problem in the prior six months had done so (Vickrey et al 1999).

Lúc nào cũng phân tích logic và cấu trúc. Có người nói viết văn khoa học cũng giống như nấu ăn, tức phải nếm đi nếm lại trước khi dọn ra bàn ăn.  Tương tự, trong khi viết bài báo khoa học, người viết cũng phải xem xét cẩn thận cấu trúc của từng đoạn văn, câu văn, và từ ngữ.  Tôi thấy có 3 khía cạnh quan trọng nhất cần phải lưu ý: đoạn văn, logic, và cấu trúc.  Về đoạn văn tôi đã bàn trước đây, nên ở đây chỉ bàn về phân tích logic và cấu trúc.

Bây giờ, sử dụng các “nguyên lí” trên, câu văn đầu tiên có thể chỉnh sửa như sau:

Câu văn gốc Chỉnh sửa

Although the methodological approaches are similar, the questions posed in classic epidemiology and clinical epidemiology are different. In classic epidemiology, epidemiologists pose a question about the etiology of a disease in a population of people.  Causal associations are important to identify because, if the causal factor identified can be manipulated or modified, prevention of disease is possible.  On the other hand, in clinical epidemiology, clinicians pose a question about the prognosis of a disease in a population of patients.  Prognosis can be regarded as a set of outcomes and their associated probabilities following the occurrence of

Despite methodologic similarities, classic epidemiology and clinical epidemiology differ in aim.  Classic epidemiologists pose a question about the etiology of disease in a population of people; etiologic factors can be manipulated to prevent disease. Clinical epidemiologists pose a question about the prognosis of a disease in a population of patients; prognosis is the probability that an event or diagnosis will result in a particular outcome.

 

Page 13: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

some defining event or diagnosis that can be a symptom, sign, test result or disease.

 

Trên đây chỉ là một ví dụ về cách phân tích một đoạn văn và cách làm cho đoạn văn gọn và dễ hiểu hơn.  Người ta hay nói “văn ôn, võ luyện”.  Viết văn cũng cần phải ôn đi ôn lại, và phải thực tập thường xuyên.  Nắm lấy văn phạm chỉ mới là bước đầu, quan trọng hơn là phần chọn từ ngữ chính xác, và tổ chức ý tưởng sao cho logic.  Một khi đã có kĩ năng văn phạm, ngữ vựng tốt, và logic thì chắc chắn bài báo khoa học sẽ tốt.

NVT

Ghi thêm: Một đoạn văn có nhiều câu văn, nhưng làm sao phân biệt được cường độ của tính biệt cách (degree of separation) giữa những câu văn?  Sau đây là vài chỉ dẫn có ích về cách dùng dấu để phân biệt.

Cường độ tách biệt của mệnh đề (từ thấp đến cao):

Dấu phẩy (,)

Dấu hai chấm (:)

Dấu dash (--)

Ngoặc đơn ()

Dấu chấm phẩy (;)

Dấu chấm câu.

Cường độ về tính trang trọng (formality):

Dấu dash

Ngoặc đơn ()

Các dấu khác (phẩy, chấm phẩy, dấu chấm câu)

Page 14: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tiếng Anh bài 1. Sử dụng giới tự

Như đã hứa ngày hôm qua, hôm nay ngày cuối tuần tôi viết bài đầu tiên về tiếng Anh. Bài này liên quan đến việc sử dụng giới từ và liên từ. Có lẽ hơi sơ đẳng, nhưng tôi lại nghĩ cần phải bắt đầu bằng những kiến thức sơ đẳng.

 

Giới từ (preposition) và liên từ (subordinating conjunction) giông giống nhau và có khi khó phân biệt, nhưng có một mẹo dễ phân biệt chúng: đó là nhìn vào từ theo sau chúng.

1. Giới từ thường theo sau bằng một danh tự (nominal):

Because of the bad weather. (Danh từ weather là đối tượng của giới từ because of).

Before leaving home. (Đây là mệnh đề gerund: leaving home là đối tượng của giới từ before).

After what we had done. (Mệnh đề danh từ [noun clause] what we had done là đối tượng của giới từ after).

2. Liên từ thì theo sau bằng một cấu trúc chủ ngữ - động từ mà không có một mối liên hệ nào khác dính dáng vào.

Because the weather was bad. (Because là liên từ có chức năng giới thiệu một mệnh đề phụ).

Before we left home. (Before là liên từ giới thiệu một mệnh đề phụ).

Before, after, since, as, until có thể có chức năng vừa là giới từ vừa là liên từ, tùy vào cái gì theo sau chúng: Since this morning; since you went away.

3. If, when, while, although và một số liên từ khác có thể có cấu trúc chủ ngữ - động từ bị hoán chuyển để có chức năng như là một mệnh đề giới từ.

When you were mopping the floorWhen mopping the floor

If it is at all possibleIf at all possible

Although he was very upsetAlthough very upset

Page 15: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Trong các câu trên “when mopping the floor”, “if at all possible” và “although very upset” là những mệnh đề giới từ, và đều đúng văn phạm.

4. Liên từ nối hai câu văn thường là and, but, or, nor, for, yet. Những liên từ này có thể nối 2 từ, 2 câu văn, thậm chí giới thiệu một câu văn mới:

He said he would do it. And he did.

She had not planned to attend the meeting. Yet she did.

5. Nối kết câu văn. Khi hai câu văn độc lập nhau, nên sử dụng dấu chấm phẩy. Khi hai câu văn có liên quan nhau, dùng dấu chấm câu:

We watched his folly develop; in fact, we nurtured it.

Thanh was a fantastically successful scientist. However, he did not emerge from his great career a rich man.

Nhưng dấu phẩy cũng thỉnh thoảng được sử dụng:

She was not pleased by his technique. She was delighted, however, by his self-control.

Page 16: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tiếng Anh bài 2. Sai sót trong so sánh

Khi đọc bản thảo của các nghiên cứu sinh Á châu, tôi phát hiện một sai sót rất phổ biến trong những câu văn có nội dung so sánh. Chính tôi trước đây cũng từng phạm phải những sai sót này. Trong tiếng Việt, chúng ta có thể nói “Ông A được xếp hạng cao hơn ông B”, và câu văn đó hoàn toàn đúng. Nhưng trong tiếng Anh thì câu văn đó chưa đủ. Trong tiếng Anh, khi viết về so sánh chúng ta cần để ý đến động từ đi kèm theo đối tượng được so sánh.

Câu văn so sánh thường có chủ thể (subject) và đối tượng so sánh (evaluator). Trong câu trên, ông

A là chủ thể, và ông B là đối tượng so sánh.

Sai: Trang ranks Michael Jackson higher than Janet Jackson. (Trong câu này, Janet Jackson là đối

tượng so sánh, và câu văn này chưa đầy đủ).

Đúng: Trang ranks Michael Jackson higher than she ranks Janet Jackson.

1. So sánh phải cụ thể

Trong tiếng Anh, nhất là tiếng Anh cho khoa học, so sánh phải cụ thể, chứ không nên chung chung.

Chẳng hạn như câu sau đây:

The mountains in Vietnam are lower and greener than Cambodia

là so sánh kiểu chung chung vì chúng ta không biết so sánh với cái gì ở Cambodia (tiếng Việt ta thì

ok vì có thể nói những rặng núi ở Việt Nam cao hơn và xanh hơn Cambodia nhưng trong tiếng Anh

thì không được nói như thế). Câu này nên được sửa lại là:

The mountains in Vietnam are lower and greener than the mountains in Cambodia

Hay “văn hoa” hơn một chút bằng sách sử dụng those:

The mountains in Vietnam are lower and greener than those in Cambodia

Page 17: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

2. Có thể bỏ as trong so sánh kép

Cả hai as và than thường được sử dụng trong các câu văn so sánh:

In vietnam, the spread of infectious diseases is as ferocious as, if not more ferocious than, in

Europe

Cấu trúc câu này khá “nặng nề” (nhưng không sai). Chúng ta có thể bỏ as mà câu văn vẫn đúng

(chú ý cách dùng dấu phẩy):

In vietnam, the spread of infectious diseases is as ferocious, if not more ferocious, than in Europe

Nhưng thật ra, câu trên, theo tôi có thể viết gọn gàng hơn:

In vietnam, the spread of infectious diseases is at least as ferocious as in Europe

3. Comparative và superlative

Qui luật là thế này: câu văn so sánh (comparative) bao gồm 2 đối tượng, còn cấp so sánh

(superlative) thì có nhiều đối tượng. Trong ngôn ngữ nói hàng ngày, chúng ta có thể nói

She was the tallest of the twins

thì chấp nhận được, nhưng trong văn viết thì câu đó chưa chỉnh. Phải viết:

She was the taller of the twins

hay tương tự:

I am the oldest of three brothers (chứ không phải I am the older of three brothers).

4. Lạm dụng other

Câu văn so sánh dưới hình thức tính từ thường có một đối tượng được lấy làm chủ thể để so sánh

với các đối tượng khác trong nhóm. Có thể sử dụng other trong câu văn viết, nhưng coi chừng sai!

Page 18: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Hãy xem ví dụ sau đây:

Ho Chi Minh City is larger than any city in Vietnam

(Câu này có thể hiểu là thành phố Hồ Chí Minh không thuộc nước Việt Nam!)

Nên sửa lại cho rõ ràng hơn:

Ho Chi Minh City is larger than any other city in Vietnam

Câu sau đây có thể khó hiểu:

Hoang is older than any boy in the class

(Hoang là nam hay nữ?)

Sửa lại:

Hoang is older than any other boy in the class

Nhưng câu văn sau đây thì thể hiện sự lạm dùng other:

Hoang is the oldest of all the other boys in the class.

(All ở đây bao gồm Hoang; other thì lại loại bỏ Hoang!)

Do đó, cần sửa lại như sau (bỏ other):

Hoang is the oldest of all the boys in the class.

Page 19: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tiếng Anh bài 3: Song song và cân đối Trong một câu văn, 2 hay nhiều ý tưởng có cùng đặc tính được gọi là “parallel” (song song). Để câu văn có hiệu quả tốt, chúng ta cần phải viết (hay nói) những ý tưởng song song theo công thức sau đây: danh từ đi với danh từ, vô định với vô định (infinitive), mệnh đề phụ với mệnh đề phụ, v.v…1. Danh từ song song

They studied history, mathematics, and chemistry.

Nhưng câu sau đây thì không chuẩn: They studied about the past, mathematics, and how matter is constituted.

2. Infinitive

He learned to swim, to play tennis, and to ride a horse.

Chứ không phải: He learned to play tennis, swimming, and the art of horseback riding.

3. Mệnh đề

In her praises of the summer camp, she mentioned that the food was good, that the climate was perfect, and that the equipment was superb.

Không nên viết: In her praises of the summer camp, she mentioned that the food good, that the climate was perfect, and what superb equipment they had.

Nên: The old house was battered by the rain and bleached by the sun.

Không nên: The old house was battered by the rain and there was no color left because it was standing in the open sunlight.

3. Cố gắng viết những câu văn song song sao cho số từ tương đương nhau

Không nên: He was a good scientist, but was very poor in keeping books.

Sửa lại cho chỉnh hơn: He was a good scientist, but a poor bookkeeper.

Câu này cũng không chuẩn mấy: He believed in democracy for the upper classes, but felt that the common people should be ruled by their superiors,

và nên sửa lại như: He believed in democracy for the upper classes, but autocracy for the masses. Tiếng Anh bài 4. Tiếng Anh kiểu Mĩ và kiểu Anh Loạt bài tiếng Anh đã nhận được nhiều phản hồi của bạn đọc. Có người đề nghị tôi nên tập trung

Page 20: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

vào kĩ năng viết bài báo khoa học hơn là tiếng Anh vì các “đại gia” tiếng Anh trong nước đã xuất bản hàng trăm sách về chuyện này. Tuy nhiên, như tôi nói ngay từ đầu, đây là không phải là loạt bài mang tính giáo khoa, mà chỉ là những mẹo, kinh nghiệm cá nhân để chia sẻ với các bạn thôi. Tôi không có ý cạnh tranh với các thầy giáo tiếng Anh. Có bạn đọc đặt câu hỏi, xin cố vấn. Trong số thư gửi đến, có 2 thư mà tôi nghĩ có thể đem ra đây bàn thảo. Hai thư này liên quan đến những khác biệt giữa tiếng Anh kiểu Mĩ và tiếng Anh kiểu … người Anh.

1. Dấu phẩy và and

Thư thứ nhất hỏi tôi về cách sử dụng dấu phẩy (,). Bạn đọc hỏi tôi rằng anh viết “They studied history, mathematics and chemistry” thay vì “They studied history, mathematics, and chemistry”, như vậy câu nào chuẩn hơn. Tôi trả lời ngay rằng cả 2 câu đều chuẩn. Người Mĩ hay dùng dấu phẩy trước and, còn người Anh thì bỏ dấu phẩy.

Cá nhân tôi thấy tiếng Anh kiểu Mĩ thực tế hơn, đơn giản hơn, mà lại nhẹ nhàng hơn tiếng Anh kiểu Hoàng hậu (Queen’s English). Do đó, tôi quen với cách viết của Mĩ, và điều này đã gây bực bội cho vài đồng nghiệp ở Úc vì Úc theo Anh.

Bạn đọc đó cũng hỏi có nên viết History, Mathematics, Chemistry (thay vì history, mathematics, chemistry). Tôi nghĩ mấy danh từ là danh từ chung, nên không có lí do gì viết hoa mẫu tự đầu cả. Thật vậy, nhiều tập san khoa học bây giờ đòi hỏi tác giả không nên viết hoa; họ không chịu “Study Design and Methods” mà bắt buộc phải viết “Study design and methods”.

2. Story và storey

Một bạn đọc khác hỏi tôi rằng: “Báo Saigon Times Weekly (bản tiếng Anh) số ra ngày 12/9/09, ở trang 35 có dòng chữ quảng cáo:

37 Story Luxury Condominiums

Tôi nghĩ chắc họ muốn nói storey (tầng) chứ không phải story. Thầy có ý kiến gì không?”

Tôi không nghĩ họ lầm. Thật vậy, Saigon Times viết đúng – đúng theo tiếng Anh kiểu Mĩ. Trong tiếng Anh kiểu Mĩ, người ta có thể viết story để vừa chỉ tầng vừa chỉ câu chuyện, tùy theo văn cảnh. Còn tiếng Anh kiểu Anh thì phân biệt rành rọt giữa storey và story.

Ở đây, tôi chỉ muốn bàn thêm 2 điểm:

Thứ nhất là chuyện số nhiều và số ít. Trong tiếng Anh, những danh từ gốc Latin như datum (dữ liệu), condominium (căn hộ), addendum (phụ chú), v.v… có số nhiều là data, condominia, addenda, v.v… Nhưng người Mĩ thì bất cần qui tắc của tiếng Anh của người Anh, nên họ viết số nhiều là condominiums.

Số nhiều của storey hay story là stories. Do đó, nếu muốn nói 37 tầng thì viết đúng là 37 stories. Nhưng nếu viết 37-story (chú ý không có số nhiều) thì chữ này thành mệnh đề tính từ, và phải kèm theo sau một danh từ, chẳng hạn như “37-story building” có nghĩa là building có 37

Page 21: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

tầng.

Quay trở lại câu quảng cáo “37 Story Luxury Condominiums”, tôi nghĩ đáng lẽ phải có dấu gạch nối thì chuẩn hơn: 37-Story Luxury Condominiums.Tiếng Anh bài 5. Paragraph Không nói ra thì ai cũng biết paragraph là một đoạn văn, và một đoạn văn bao gồm nhiều câu văn (sentence). Nói cụ thể hơn, một paragraph có thể xem là một tiểu luận nhỏ. Điều này có nghĩa là chúng ta phải tuân theo những qui luật cơ bản trong cách viết một tiểu luận (essay). Những qui luật cơ bản đó là: cung cấp cho người đọc biết điểm gì chúng ta muốn phát biểu trong phần đầu của paragraph, phát triển chủ đề bằng cách sử dụng ví dụ cụ thể, rồi sau đó là kết luận một cách có suy nghĩ.

Câu văn đầu tiên của một paragraph phải là câu văn “thông báo” đề tài chúng ta muốn cung cấp cho người đọc. Chính vì thế mà câu văn đầu thường phải viết chung chung, không mang tính cụ thể. Chúng ta thử xem một đoạn văn sau đây của Samuel P. Huntington (một nhà khoa học chính trị nổi tiếng, và đối với tôi ông cũng là một cây bút tuyệt vời):

The United States is becoming increasingly diverse ethnically and racially.The Census Bureau estimates that by 2050 the American population will be 23 percent Hispanic, 16 percent black and 10 percent Asian-American. In the past the United States has successfully absorbed millions of immigrants from scores of countries because they adapted to the prevailing European culture and enthusiastically embraced the American Creed of liberty, equality, individualism, democracy. Will this pattern continue to prevail as 50 percent of the population becomes Hispanic or nonwhite? Will the new immigrants be assimilated into the hitherto dominant European culture of the United States? If they are not, if the United States becomes truly multicultural and pervaded with an internal clash of civilizations, will it survive as a liberal democracy? The political identity of the United States is rooted in the principles articulated in its founding documents. Will the de-Westernization of the United States, if it occurs, also mean its de-Americanization? If it does and Americans cease to adhere to their liberal democratic and European-rooted political ideology, the United States as we have known it will cease to exist and will follow the other ideologically defined superpower onto the ash heap of history.

Câu đầu tiên (The United States is becoming increasingly diverse ethnically and racially) cho chúng ta biết chủ đề của đoạn văn nói về sự đa dạng sắc tộc trong xã hội Mĩ. Những đoạn sau đó, ông trình bày dữ liệu để làm cơ sở cho nhận xét của mình. Câu cuối cùng trong đoạn văn nói về ý nghĩa của vấn đề đa sắc tộc và cảnh báo rằng Mĩ đứng trước nguy cơ mất identity vì tình trạng này.

Nhưng thỉnh thoảng, nhất là trong khoa học, chúng ta cũng không nhất thiết phải tuân thủ theo qui luật trên. Có khi chúng ta trình bày ví dụ trước (để thu hút chú ý của người đọc) và tiếp theo sau là một hay vài câu văn giải thích ý nghĩa của ví dụ đó. Đoạn văn ngắn sau đây là một ví dụ:

Đầu tiên, gây chú ý cho độc giả:

Page 22: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Since H2-blockers became available over the counter (OTC) in drug stores, physicians have reported that some public assistance patients have ceased their use of these medications and are experiencing recurrences of epigastric distress.

Sau đó là vài câu văn chung chung về ý nghĩa của câu văn trên:

Sometimes, regulations that are intended to make drugs more available to patients have a paradoxical effect of reducing their use. [đoạn văn này sau đó giải thích tại sao] Because welfare patients could previously get the H2-blocker drugs at no personal cost by prescription, but now that the drugs are available OTC, they are no longer eligible for prescription and patients must pay for the medication.

Viết bài báo khoa học cũng giống như viết tiểu thuyết trinh thám, hiểu theo nghĩa phải hấp dẫn người đọc ngay từ đầu, và làm cho người đọc không buông được câu chuyện. Tôi thường hay nói với nghiên cứu sinh là phải cố gắng viết bài báo sao cho hay, hay đến nỗi nếu tổng biên tập một tập san nào từ chối không đăng thì ông/bà đó cũng cảm thấy hối hận, nuối tiếc. :-) Do đó, cấu trúc một đoạn văn rất ư quan trọng, vì những câu văn trong đó dìu dắt và cung cấp người đọc những tình (chi) tiết cụ thể và thuyết phục. Xin nhắc lại tầm quan trọng của một đoạn văn: nó là một tiểu luận nhỏ.

Page 23: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tiếng Anh bài 6. Thì, dạng, và số chữ cho một động từ

1. Thì (tense)

Một trong những sai lầm tôi hay phát hiện khi duyệt các bài báo khoa học là cách sử dụng thì trong bài báo. Chẳng riêng gì từ các tác giả Á châu mà ngay cả các tác giả Âu Mĩ cũng vấp phải sai lầm này. Sau đây là một số qui định (thật ra, chính xác là qui ước) về cách sử dụng thì trong một bài báo khoa học.

Nếu mô tả phương pháp và kết quả nghiên cứu của công trình đang báo cáo, dùng thì quá khứ (past tense):

We found that one third of the rats survived, one thrid died, and the third rat got away.

Nếu đề cập đến một công trình đã công bố trước đó trên một tập san nào đó, sử dụng thì hiện tại (present tense):

In their groundbreaking work, Smith et al report a 33% survival rate in the test population.

2. Active hay passive voice

Xin nhắc lại: một câu văn như We found that gọi là active voice (dạng chủ động), còn it was found that thì được gọi là passive voice (dạng thụ động). Câu hỏi đặt ra là trong bài báo khoa học, chúng ta nên sử dụng dạng nào? Đây là một vấn đề mà cho đến nay, theo tôi biết, vẫn chưa ngã ngũ.

Khoảng 20 năm trước, khi tôi và đồng nghiệp nộp một bài báo quan trọng cho British Medical Journal tổng biên tập và 3 chuyên gia bình duyệt lúc đó đồng loạt phê bình tôi vì tôi sử dụng dạng chủ động. Họ yêu cầu tôi phải sửa lại tất cả từ dạng chủ động sang dạng thụ động. Sửa xong, nộp lại và qua lần bình duyệt thứ hai, họ từ chối công bố! Nhưng khoảng 5 năm trở lại đây cũng chính tập san này (và Lancet nữa) lại khuyến khích sử dụng dạng chủ động.

Qua theo dõi các tập san y khoa trong thời gian gần đây, tôi có thể nói rằng càng ngày càng có nhiều bài báo mà trong đó tác giả sử dụng dạng chủ động. Như vậy, xu hướng chủ động này đang dần dần trở thành một qui ước chuẩn. Xin lấy vài ví dụ:

The Lancet 2004;363:112-118

“We followed up children once a day for diarrhoea and a month for anthropometry …”

New England Journal of Medicine 2004;350:114-124

“We enrolled 518 patients with polycythemia vera …”

Page 24: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

British Medical Journal 2001; 323:382-386

“I searched the Cochrane Library, Medline, and Embase to identify studies of common pathological finding in ….”

Tuy nhiên, cũng có trường hợp mà theo tôi sử dụng dạng thụ động là cách “lịch sự” nhất. Chẳng hạn như khi chúng ta thực hiện một việc gì đó kém quan trọng hơn là người tiếp thu công việc đó. Ví dụ:

The patient was injected with the test drug

đọc chắc chắn dễ chịu hơn là

We injected the test drug into the patient

Hay trong trường hợp một việc làm mà người làm có thể không quan trọng mấy:

The patients were randomized into two groups by a computer program

Trong trường hợp này, ai làm ngẫu nhiên hóa cũng được, chứ chẳng cần “I” hay “We”.

3. Số chữ cho mỗi động từ

Động từ là một từ hành động trong một câu văn. Do đó, các chuyên gia tiếng Anh cho biết có thể đếm mật độ chữ trên mỗi động từ để biết một câu văn yếu hay mạnh. Nếu câu văn có 20 chữ trên mỗi động từ thì câu văn đó được xem là yếu. Ví dụ:

The use of an excessive number of words in conjunction with a single verb makes for a weak sentence, deficient in strong words, often complex in structure, and very likely complicated by a number of subordinate clauses. (37 từ!)

4. Cố gắng làm phong phú câu văn

Chúng ta thử đọc câu văn sau đây:

The elderly patient fell on a scatter rug at home. The patient struck his shoulder when he landed. The patient sustained a fracture of left humerus.

Ba câu văn bắt đầu bằng một chữ lặp đi lặp lại 3 lần: patient. Ba câu văn rất đơn giản, ngắn, và có thể nói là khá nhàm. Cách viết này cho thấy tác giả không có kinh nghiệm viết văn.

Do đó, để làm cho câu văn sống động, nên cố gắng sử dụng biến thể, và tránh lặp lại một từ nhiều lần. Câu văn trên có thể sửa lại như sau:

The elderly patient fell on a scatter rug at home, striking his shoulder and sustaining a fracture of the left humerus.

Page 25: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tiếng Anh bài 7. Đại danh từ

1. Sử dụng đại danh từ cho chủ thể con người và vật thể

Theo qui ước tiếng Anh, it và its là đại danh từ (pronoun) được sử dụng trước một chủ thể là vật (không phải con người). Tuy nhiên, một số động vật mà giới tính đóng vai trò quan trọng hay động vậy quen thuộc với con người (như chó, mèo) thì có thể gọi là he hay she.

Những đại danh từ tương đối (relative pronoun) như who, whom, that đề cập đến những chủ thể con người hay động vật quen thuộc với con người; còn which và that thì sử dụng cho các chủ thế không phải là con người.Ví dụ: He is one of those who know all too well that the memories that move us fade all too fast. (Those là chủ thể con người của who; memories là chủ thể không phải con người của that).

That có thể sử dụng cho cả con người và không phải con người. Nhiều người viết giỏi thường sử dụng that để thay thế cho who, which. Tuy nhiên, một qui ước chung là that nên sử dụng trong mệnh đề xác lập “căn cước” của chủ thể, còn who và which thì sử dụng cho những chủ thể mà chúng ta đã biết.

Ví dụ: A man that drinks and drives a car that has faulty brakes does not think much of his wife, who must sit at home listening to the sounds of night traffic. (Man và car là chủ thể cần được nhận dạng; còn wife là chủ thể đã được nhận dạng bằng who.)

2. Sử dụng đại danh từ như là một mệnh đề tham khảo

Khi chủ thể của một đại danh từ bị loại bỏ, câu văn có thể rất khó hiểu và không rõ ràng. Ví dụ:

Instead of setting a total fee, the doctor charged $20 a month until the work was completed, which the medical profession considers unethical.

Trong câu này, rất khỏ biết đại danh từ which đề cập đến cái gì. Do đó, câu văn có thể viết lại rõ ràng hơn bằng cách thêm vào một chủ thể cụ thể như sau:

Instead of setting a total fee, the doctor charged $20 a month until the work was completed, an arrangement that the medical profession considers unethical.

Hay như trong câu văn sau đây mang tính “ngụ ý”:

My father wants me to be a doctor, but this is a profession that does not appeal to me.

Vì không biết this đề cập đến chủ thể gì. Có thể sửa lại như sau:

My father wants me to be a doctor, but medicine is a profession that does not appeal to me.

Page 26: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Một ví dụ khác về sử dụng đại danh từ không rõ ràng:

I have visited Benson College, but I do not want to go there because they are snobs

They là ai? Có lẽ người viết muốn nói đến sinh viên của trường:

On my visit to Benson College, I soon found out that the students are snobs. That’s why I do not want to go there.

3. Sử dụng đại danh từ cho nhiều chủ thể

Khi một đại danh từ đề cập đến nhiều chủ thể, câu văn có thể khỏ hiểu. Một cách làm cho câu văn dễ hiểu hơn là đặt đại danh từ gần chủ thể mà người viết muốn đề cập đến.

Không rõ ràng: Everybody could see that she was a beautiful little girl who looked closely. Trong câu này chúng ta không biết who đề cập đến everybody hay là girl).

Có thể sửa lại rõ ràng hơn: Everybody who looked closely could see that she was a beautiful little girl.

Nếu là người giàu ngữ vựng câu văn trên còn có thể sửa lại “văn hoa” hơn:

An observant person could see that she was a beautiful little girl.

Một ví dụ khác về sử dụng đại danh từ cho nhiều chủ thể:

Mù mờ: The doctor told him that he ought to take a vacation. (Him đề cập đến ai? Bệnh nhân hay là doctor?)

Câu văn có thể sửa lại tốt hơn:

The doctor said to him, “You I really ought to take a vacation.”

Hay, tốt hơn nữa:

The doctor advised the patient to take a vacation.

Page 27: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tiếng Anh bài 8. Sử dụng từ ngữ đơn giản

Một trong những “bệnh” của người mới học viết tiếng Anh là hay … khoe chữ. Họ cố tình sử dụng những từ khó hiểu, thường có nguồn gốc Latin hay Hi Lạp, như ngầm nói với người đọc rằng vốn liếng ngữ vựng của họ rất giàu. Nhưng trong khoa học, vì nhu cầu trong sáng và chính xác, chúng ta nên sử dụng những từ đơn giản, dễ hiểu, và cần phải tránh xa những từ ngữ phức tạp và “kiêu kì”. Sau đây là danh sách (chưa đầy đủ) một số từ cần được “đơn giản hóa”:

1. Sử dụng từ ngữ “kinh tế” một chút (trong ngoặc kép)

o because thay vì of based on the fact that;

o for hay to thay vì for the purpose of.

o there were several patients who completed … nên thay thế bằng several patients completed ...;

o it is suggested that a relationship may exist (a relationship may exist);

o both alike (alike); one and the same (the same);

o a total of 10 subjects (10 subjects);

o four different groups (four groups);

o absolutely essential (essential);

o found previously (found);

o small in size (small);

o in close proximity (in proximity);

o very close to zero (close to zero);

o much better (better);

o period of time (time);

o summarize briefly (summarize);

o the reason is because (the reason is);

o also included (included);

Page 28: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

o except for (except).

2. Chính xác

o patient hay participant thay vì subject;

o concentration hay frequency thay vì level.

• Không nên khái quát hóa một cách không cần thiết. Chẳng hạn như, không nên viết some khi chúng ta biết rằng chỉ có 1 trường hợp duy nhất. Viết some khi chỉ có 1 là … nói dóc.

• This thường không rõ ràng. Nên viết this test hay this problem để câu văn rõ ràng hơn.

• Tránh những từ thậm xưng (hyperbole) như very hay extremely (văn phong khoa học thường trầm tĩnh, lạnh lùng).

• Không sử dụng however hai lần trong một đoạn văn, bởi vì thay đổi chiều hướng lí giải 2 lần trong một đoạn văn sẽ làm cho người đọc bực mình.

• Không sử dụng however hơn 1 lần trong 10 đoạn văn; nên tìm từ khác như although, nevertheless, despite, v.v…

• Tránh sử dụng chủ đề thiếu nhân tính (non-human agent). Chẳng hạn như viết the authors concluded that… thay vì the study concluded that….

• Tránh thành ngữ thông tục (colloquialism), như steer clear of.

• Tránh as such, như trong câu văn sau đây: The SCAT is a reliable test of state anxiety. As such, it is suitable for experimental studies. Có thể sửa lại: The SCAT is a reliable test of state anxiety; it is therefore suitable for experimental studies.

• Tránh her, his và các từ ngữ hàm ý kì thị giới.

3. Tránh những từ ngữ có thể làm cho người đọc mất chú ý:

At the present time (không cần thiết)

It is believed (dẹp, khoa học không có niềm tin)

Approximately (about)

Is required (nên thay thế bằng is needed)

commences (begins, starts)

Page 29: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

vast majority (Most)

Literature shows (literature nào? Cần tài liệu tham khảo)

Elevated (raised)

In excess of (Above)

Female subjects (Women)

Of the same opinion (Agreed)

Be of assistance (Help)

It seemed to the present researchers (we thought)

v.v...

Page 30: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Wednesday, November 18, 2009

Tiếng Anh bài 9. Dùng dấu phẩy

Tưởng rằng chuyện dùng dấu phẩy là đề tài của học sinh tiểu học, nhưng trong thực tế thì cách dùng dấu phẩy không đơn giản như chúng ta tưởng. Chả thế mà sách dạy tiếng Anh cho các nhà chuyên môn vẫn có một chương hay phần dài của chương sách để chỉ dẫn cách dùng dấu phẩy cho đúng.

Chẳng nói đâu xa, trong cái concept paper mà tôi có dịp bàn trước đây, tác giả có viết một câu mà tôi nghĩ rằng thiếu dấu phẩy: “Developments in and related to the South China Sea have by and large been consistent to the overall contemporary trend toward greater cooperation in Asia-Pacific.”

Vậy thì dấu phẩy nên được dùng trong trường hợp nào? Sau đây là những trường hợp cần đến dấu phẩy.

1. Tách rời một danh sách sự việc hay đối tượng:

John, Fred, and Frank. (Chú ý: có khi người ta không dùng đến dấu phẩy cho đối tượng sau cùng, như “John, Fred and Frank”).

He wrote paper articles, books, and short stories.

He went across the sidewalk, down the street, and into the bar.

2. Tách rời các mệnh đề trong một câu văn phức tạp được nối bằng những liên từ:

The professor invited his students to lunch, and most of them accepted the invitation.

I have not completed my experiment, yet I plan to do another one.

3. Tách biệt những thán từ (interjection):

Oh, I thought so.

Hello, I am glad to see you here.

I try so hard, alas, to do it

Yes, I will be pleased to discuss with you.

Page 31: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

4. Để khởi đầu một câu văn mang tính bổ nghĩa (modifier). Những từ mang tính bổ nghĩa thông dụng là however, nevertheless, moreover, furthermore, therefore, on the other hand.

However, the relationship did not exist.

On the other hand, we found that the CFG gene was associated with increased risk of hypertension.

5. Để khởi đầu một nhóm từ tuyệt đối (absolute phrase). Những nhóm từ tuyệt đối là thường được cấu trúc bằng động tính từ (participle) hay đại danh từ như the sun having risen:

The river being cold, we did not go swimming.

It seems sensible, the weather being warm, to pack a lunch.

6. Để bắt đầu một mệnh đề trước một chủ từ:

During the long winter of 1881, the King suffered a sever illness.

(Câu này cũng có thể viết: In 1818, the King suffered a severe illness).

7. Để bắt đầu một thán từ trong một thứ tự bình thường như:

The university, old and respected, went broke.

The year of his graduation, 1950, was an eventful one.

8. Để tách rời hai điều tương phản nhau:

I want to see a doctor, not a lawyer.

She longed to find happiness, but found misery instead.

9. Để khởi đầu những yếu tố không có giới hạn:

His father, Mr. Smith, was ill

My friend, who is an engineer, is coming for a visit

10. Để tránh hiểu lầm:

During the summer, days become longer(nếu viết During the summer days become longer thì người ta có thể hiểu summer days là một danh-tính-từ)

Page 32: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Soon after, the meeting was adjourned(nếu không có dấu phẩy, người đọc có thể hiểu after the meeting)

Với những hướng dẫn trên, chúng ta có thể quay lại với câu văn của Học viện Ngoại giao và viết lại như sau:“Developments in and related to the South China Sea have, by and large, been consistent to …”. Nhưng câu văn đó nhiều sai sót về cách dùng từ mà tôi đã bàn trước đây.

Page 33: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Saturday, February 6, 2010

Tiếng Anh bài 10: Những lỗi thông thường về văn phạm

Sáng nay tôi phải đọc duyệt một bài báo (bản thảo) của một nhóm nghiên cứu Hàn Quốc, và qua đó tôi phát hiện rất nhiều sai lầm trong cách diễn tả và những sai sót văn phạm rất … Á đông. Một trong những sai lầm phổ biến nhất ở người châu Á khi mới học tiếng Anh là cách sử dụng mạo từ (a và the). Nhưng một số sai lầm tiêu biểu còn thể hiện qua cách sử dụng dấu phẩy nữa. Ngoài ra, còn có sai sót mang tính nội dung và logic về cách cấu trúc một câu văn (sentence) và một đoạn văn. Tôi không thể trích dẫn nhưng sai sót của bài báo này vì đang trong vòng phản biện kín, nên tôi chỉ có thể mượn bài báo để bàn đến một số sai sót phổ biến mang tính Á đông.

1. Thiếu dấu phẩy sau nhóm từ dẫn nhập. Chẳng hạn như “After the analysis of blood samples of TB patients we continued to isolate PPG”, đáng lẽ phải có dấu phẩy sau chữ “patients”.

2. Thiếu dấu phẩy trong một câu văn ghép (compound sentence). Một câu văn ghép thường bao gồm 2 mệnh đề độc lập nhau nhưng nối với nhau bằng một giới từ như for, and, nor, but, or, yet, so. Một sai lầm phổ biến là thiếu dấu phẩy giữa hai mệnh đề như câu sau đây: “Many studies show that high body weight is associated with high bone mass and moreover reductions in body weight may cause bone loss”. (Đáng lẽ phải có dấu phẩy trước and. Thật ra, câu này còn có vài sai sót khác nữa, nhưng tôi không bàn ở đây).

3. Thiếu dấu phẩy trong các mệnh đề không giới hạn (nonrestrictive clauses). Cần phân biệt mệnh đề giới hạn và không giới hạn. Chẳng hạn như câu "My brother in the red shirt likes ice cream," nếu người viết có 2 người anh, thì thông tin về cái áo màu đỏ là giới hạn (restrictive). Nếu là restrictive clause thì chúng ta không cần dấu phẩy. Tuy nhiên, nếu người viết chỉ có 1 người anh, thì thông tin về cái áo đỏ không cần thiết để chỉ người đó, và đây là mệnh đề không giới hạn. Mệnh đề không giới hạn cần có dấu phẩy như ví dụ sau đây: "My brother, in the red shirt, likes ice cream."

4. Dấu phẩy nối. Một dấu phẩy nối (comma splice) xày ra khi hai mệnh đề độc lập nối vơi nhau bằng một dấu phẩy. Chẳng hạn như "Picasso was profoundly affected by the war in Spain, it led to the painting of great masterpieces like Guernica." Một dấu phẩy nối cũng có thể sử dụng để chia một chủ từ từ một động từ. Ví dụ như trong câu "The young Picasso felt stifled in art school in Spain, and wanted to leave," chủ từ Picasso bị tách ra từ một trong những động từ của nó là wanted. Đáng lẽ không cần dấu phẩy

Page 34: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

trong câu này, ngoại trừ tác giả muốn nhấn mạnh bằng văn phạm, nhưng đây là trò chơi nguy hiểm đối với những ai chưa thạo viết tiếng Anh.

5. Thiếu dấu phẩy trong một chuỗi sự vật. Khi liệt kê một chuỗi sự vật, nên dùng dấu phẩy là điều ai cũng biết, nhưng vấn đề tranh cãi là có nên dùng dấu phẩy trước sự vật sau cùng. Ví dụ như trong câu “Apples, oranges, pears, and bananas...”, vấn đề đặt ra là có nên dùng dấu phẩy trước “and”. Người Mĩ và Canada thì nói nên, còn người Anh và Úc thì nói không nên. Cá nhân tôi thích kiểu viết của Mĩ (tôi có nhiều lí do để nói như thế) nên tôi hay dùng dấu phẩy trước chữ “and” để làm câu văn rõ ràng hơn.

6. Đại danh từ mù mờ. Ví dụ như trong câu “The boy and his father reported that he had had a history of fragility fracture”, chúng ta không biết người viết đề cập đến người con trai hay là người cha có tiền sử gãy xương.

7. Dùng sai từ. Cái này thì quá hiển nhiên, nhưng dùng từ cho đúng trong khoa học không phải là chuyện dễ dàng vì nó đòi hỏi người viết phải am tường vấn đề chuyên môn và cập nhật với thông tin. Chẳng hạn như trong câu vừa trích trên, đáng lẽ tác giả phải viết là “bone mineral density” chứ không phải “bone mass”, vì hai thuật ngữ này rất khác nhau về khái niệm. Trong y học, chúng ta cần phân biệt giữa “association” và “relationship”. Nếu là nghiên cứu bệnh chứng, hay nghiên cứu một thời điểm (cắt ngang hay cross-sectional), thì mối liên hệ giữa hai yếu tố nên được mô tả bằng thuật ngữ association hơn là relationship. Chỉ khi nào chúng ta có bằng chứng can thiệp trong nghiên cứu thử nghiệm thì mới sử dụng relationship thay cho association. Ngoài ra, đừng nên lạm dụng thuật ngữ “linkage” vì nó chỉ sử dụng cho các nghiên cứu và phân tích di truyền trong gia đình, chứ không phải cho các nghiên cứu quần thể.

8. Thiếu hay viết sai “inflected ends”. "Inflected ends" là thuật ngữ nói đến một nhóm lỗi về văn phạm liên quan đến sự nhất quán của chủ đề và động từ (subject-verb agreement), hay sai sót về who/whom, v.v... Trong tiếng Anh, khi chúng ta thêm một mẫu tự hay âm tiết (syllable) phía sau một từ chúng ta có thể thay đổi ý nghĩa và chức năng văn phạm của câu văn. Chẳng hạn như thêm "ed" vào một động từ chúng ta chuyển động từ đó thành thì quá khứ (ai cũng biết!), nhưng có thể biến thành một tính từ, hay thêm "s" vào một danh từ làm cho danh từ có số nhiều, nhưng cũng có khi biến thành một tính từ.

9. Sai hay thiếu giới từ. Giới từ có khi rất … nguy hiểm. Thử xem hai cách viết "Our sample is different from the American sample" và "Our sample is different than the American sample", câu nào tốt hơn? Mặc dù cả hai cách viết/nói được sử dụng phổ biến, nhưng "different from" được xem là chuẩn hơn. Tương tự, người ta vẫn còn tranh luận chung quanh chữ "toward" và "towards." Mặc dù cả hai đều sử dụng khá nhiều, nhưng hình như "toward"

Page 35: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

được sử dụng nhiều hơn (còn người Anh thì sử dụng towards nhiều hơn toward).

10. Dùng thì không đúng. Cần cẩn thận trong cách dùng thì quá khứ và hiện tại trong khi viết báo cáo khoa học. Thông thường, khi đề cập đến y văn trong quá khứ thì nên dùng thì quá khứ, nhưng nếu một mối hiên hệ hay sự kiện đã được chấp nhận như là “sự thật” thì có thể dùng thì hiện tại. Chẳng hạn như “Previous studies have shown that high blood pressure was a risk of stroke”, nhưng cũng có thể viết “high blood pressure is a risk of stroke” vì mối quan hệ này được chấp nhận là sự thật. Khi viết báo cáo nghiên cứu của chính mình, cũng nên dùng thì quá khứ. Tuy nhiên, khi đề cập đến một biểu đồ hay bảng số liệu ngay trong paper thì nên dùng thì hiện tại, chẳng hạn như trong câu “Figure 1 shows that diabetes was associated with an increased risk of stroke”, chúng ta dùng “shows” thay vì “showed”, nhưng khi báo cáo về fact thì chúng ta dùng thì quá khứ “was associated”.

11. Những câu văn vô duyên, vô ý. Đây là cách viết đáng “ghét” nhất, vì đọc một câu văn (fragmented sentence) mà chẳng có ý gì hoàn chỉnh, làm mất thì giờ. Chẳng hạn như câu văn “In Japan, during the last decade and just before the NOF year” này chẳng nói lên cái gì cả, vì chẳng có chủ từ và động từ. Còn loại văn như sau “Some of the students working in Professor Sminth’s laboratory last semester” còn vô duyên hơn vì tôi chẳng biết tác giả muốn nói cái gì. Tôi chú ý là có rất nhiều sinh viên Việt Nam viết văn theo kiểu này, và nó nói lên tác giả chẳng có ý tứ gì hay chẳng biết mình muốn nói gì. Rất dở.

12. Dùng từ bổ nghĩa (modifier) sai. Từ bổ nghĩa là những tính từ, trạng từ, hay mệnh đề mà người viết muốn khai triển thêm. Nếu từ bổ nghĩa được sử dụng đúng, câu văn sẽ có thể rất “kêu”, rất “thơ”, nhưng nếu dùng sai thì câu văn trở nên rất vô duyên. Thử đọc câu này “The professor wrote a paper on obesity in his office” rất buồn cười, bởi vì béo phì xảy ra trong văn phòng của ông giáo sư chăng? Hay là văn phòng làm việc của ông ấy là nơi ông viết về béo phì? Chúng ta không biết khi đọc câu văn đó. Nhưng nếu viết “In his office, the professor wrote a paper on obesity” thì câu văn rõ ràng hơn.

Có khi người viết dùng từ bổ nghĩa một cách … đong đưa, và đây cũng là lỗi cần phải tránh. Thử đọc câu văn sau đây: “Walking through the laboratory, my heart ached” làm người đọc có thể hiểu rằng tim của người viết bị đau khi bước qua phòng thí nghiệm! Có lẽ một cách viết chuẩn hơn là “Walking through the laboratory, I felt an ache in my heart”.

13. Nhất quán giữa chủ từ và động từ (subject-verb agreement). Đây là vấn đề “muôn thủa” của “phe ta”, và tôi sẽ quay lại trong một dịp khác. Nhưng ở đây, tôi sưu tầm một vài qui ước phổ biến nhất như sau:

Khi chủ từ số ít được nối kết với nhau bằng “and” thì chủ đề thành

Page 36: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

số nhiều: Both the architect and the interior designer like to push artistic boundaries.

Những đại danh từ bất định (indefinite pronouns) như someone, anyone, no-one, anybody, somebody, nobody, one, either, neither thường được xem là số ít: No-one likes to fail at university.

Những danh từ với some, any, all, most có thể số ít nhưng cũng có thể số nhiều, tùy thuộc vào danh từ có thể đếm được (countable) hay không đếm được (uncountable): Some of the policies were rejected whilst others were approved (policies là một danh từ có thể đếm được) nhưng “Some of the research was conducted at the University” (research là một danh từ không thể đếm được)

Một chủ từ nối bằng ‘either…or’, ‘neither…nor’, hay ‘not only…but also’, thì động từ nên chia theo chủ đề gần nhất: Neither the lecturer nor the students want to reschedule the class. (want nhất quán với students)

Vấn đề khó khăn khi câu văn có chủ đề là một danh từ tập hợp (collective noun) hay đại danh từ tập hợp. Ví dụ như “The committee want a resolution to the problem” là sai vì committee (ủy ban) là một thực thể (dù thực thể đó có nhiều thành viên) cho nên chúng ta nên viết “The committee wants a resolution to the problem”.

Nhiều người nhầm lẫn đại danh từ Everyone và Their. Chẳng hạn như trong câu "Everyone is entitled to their opinion," chữ their đáng lẽ phải là his/her bởi vì "everyone" là đại danh từ số ít.

Lời nhắn các bạn trẻ:

Kinh nghiệm của tôi và nhiều đồng nghiệp khác khi tiếp xúc với người Việt, nhất là những người từng đi du học ở nước ngoài vài năm, cho thấy họ thường rất tự tin về tiếng Anh. Có người còn nói rằng họ làm thông dịch cho các chuyên gia nước ngoài, như là một bằng chứng về khả năng Anh ngữ của họ. Tôi có cảm giác họ chẳng cần học gì thêm nữa. Nhưng kinh nghiệm cá nhân tôi, người từng sống và làm việc trong môi trường nói tiếng Anh cả vài chục năm, tôi vẫn thấy mình rất dốt tiếng Anh. Có thể tôi không có năng khiếu với tiếng Anh, nhưng tôi thấy ngay cả đồng nghiệp tôi sinh ra và lớn lên ở Úc, ở Mĩ, ở Anh, những người ở hàng giáo sư mà vẫn sai phạm tiếng Anh như thường. Nên nhớ rằng văn phạm không chỉ là những qui định mang tính bất biến. Văn phạm thật ra là một cấu trúc ngôn ngữ thay đổi theo thời gian. Chính vì thế mà văn phạm là chủ đề của nhiều nghiên cứu và phân tích của giới khoa bảng. Do đó, tôi muốn nhắn với các bạn sinh viên trẻ là: học, học nữa và học mãi tiếng Anh. Đừng nên quá tự tin mà thất bại thê thảm khi ra nước ngoài.

Page 37: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tuesday, February 9, 2010

Tiếng Anh bài 11: Cách dùng từ

Một bài báo khoa học dễ hiểu là bài được viết bằng những từ ngữ đơn giản, và cách sử dụng từ ngữ một cách … kinh tế. Viết đơn giản có lẽ là một lời khuyên phổ biến, nhưng kinh nghiệm của tôi cho thấy nhiều sinh viên khi mới vào nghề thường sử dụng những từ cầu kì, và hệ quả là câu văn trở nên khó hiểu. Nên nhớ rằng mục tiêu của chúng ta – tác giả bài báo khoa học – là muốn công trình của mình đến với nhiều đồng nghiệp quốc tế, những người có thể chưa thạo tiếng Anh. Do đó, sử dụng những từ ngữ đơn giản và viết súc tích là một kĩ năng rất quan trọng.

1. Tránh những từ kém thông tin và rườm rà. Những nhóm từ rườm rà là những nhóm từ có 2 hay nhiều từ có cùng ý nghĩa hay nói lên một ý. Chẳng hạn như brief in duration có thể viết đơn giản hơn là brief. Tương tự, sufficient in number có thể chỉ đơn giản là sufficient. Câu the wound was of a serious in nature có thể viết gọn là the wound was of a serious, hay the solution was red in color có thể đơn giản hóa thành the solution was red (vì red là màu). Một lỗi tôi thường hay thấy là cách viết we repeated the experiment again, trong đó repeated và again nói cùng ý; do đó, có thể viết đơn giản hơn là we repeated the experiment.

Bài tập: Bây giờ các bạn thử viết lại những nhóm từ sau đây đơn giản hơn, bằng cách bỏ những từ không cần thiết hay những từ thừa.

• We carefully investigated • The past history of this concept …• They mixed together• Twenty human volunteers were recruited• The original source for this work was …• Advance planning• Globular in shape• This x-ray film is more preferable than• It seems to appear• For a period of several minutes, the animals had been in a stressful condition • The role of cobra toxin is still a matter for speculation• The work will be completed in the not-too-distant future• The reaction rate was examined and found to vary considerably• The results would seem to indicate the possibility that impurities might be present

Page 38: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

• As a result of these experiments it became quite evident that overheating of the samples had occurred• As far as my own experiments are concerned, they show … • It has been found that … • It is interesting to note that … • Needless to say …

2. Đơn giản một nhóm từ bằng một từ

Có nhiều phát biểu mà trong thực tế có thể chỉ cần 1 từ là đủ, hay thậm chí không cần thiết. Chẳng hạn như at this point in time có thể viết đơn giản hơn là now. Hay như the reason was because cũng có thể chỉ viết because là đủ.

Bạn thử viết lại những cụm từ sau đây đơn giản hơn:

• In view of the fact that• Was observed to be• In the near future• In most cases• It would appear that• Is suggestive of • As to whether• In the vincinity of• It was evident that• In the event that

3. Tránh những từ “đao tao búa lớn”. Tiếng Anh gọi những từ to lớn là grandiloquence, hàm ý nói những từ hoa mĩ, tráng lệ, mà hình như người viết muốn gây ấn tượng cho người đọc. Abraham Lincoln đọc bài diễn văn Gettysburg ngắn gọn làm nãn lòng nhiều người lúc đó, nhưng đến nay ai cũng công nhận đó là một trong những bài diễn văn hay nhất và có hiệu quả nhất trong lịch sử chính trị thế giới. Trong khoa học cũng vậy, chúng ta cần phải tránh những từ hoa mĩ, và chọn những từ đơn giản, dễ hiểu để thông tin trong bài báo có thể chuyển tải đến nhiều đồng nghiệp.

Các bạn thử viết lại những câu sau đây đơn giản hơn:

• Computations were conducted on the data

• It may seem reasonable to suggest that the necrotic effect may possibly be due to toxin

• In studies pertaining to identification of phenolic derivatives, drying of the paper gives less satisfactory visualization

Page 39: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

• A method, which was found to be expedient and not very difficult to accomplish and which possessed a high degree of accuracy on its results, was devised whereby …

4. Tránh sáo ngữ (cliché) và uyển ngữ (euphemism), vì những từ ngữ này có khi rất khó hiểu. Chẳng hạn như all in all thì hoàn toàn không cần thiết, còn if and when thì có thể thay thế bằng if. 

Một số sáo ngữ trong y khoa tôi thường thấy là the patient expired, the patient passed away, the patient succumbed, the patient breathed his last, the patient has gone to his rest, v.v… có thể chỉ đơn giản viết là the patient died. Ai cũng hiểu die là gì, nhưng ít ai hiểu succumbed hay gone to his rest.

Các bạn thử viết lại những cụm từ hay câu văn sau đây:

• Unless and until• It goes without saying• Within the realm of possibility• We sacrificed the animal• We performed euthanasia on the animal

Tôi sẽ cung cấp câu trả lời hay gợi ý trả lời sau.

Page 40: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tuesday, February 16, 2010

Tiếng Anh bài 12: Mạo từ

Có lẽ cách học tiếng Anh có hiệu quả nhất là học từ lỗi. Bài vừa qua (bài số 11) đã được các bạn đọc chào đón nồng nhiệt. Có cả 10 emails các bạn nói nên chỉ ra những lỗi tiếng Anh để các bạn học từ đó. Hôm nay là mồng 3 Tết, và tôi nhân dịp này bàn với các bạn cách dùng mạo từ. Chỉ dẫn về cách dùng mạo từ rất nhiều trên internet và sách giáo khoa, nên tôi không ê a nhắc lại. Tôi chỉ nói vài ý chính của cách dùng mạo từ.

Thứ nhất là tính xác định. Một danh từ xác định (definite noun) khi danh từ đó được cả người đọc và người viết biết đến. Chẳng hạn như nếu tôi đang muốn dùng cái máy DXA, tôi có thể hỏi kĩ thuật viên: “Can I use the DXA machine?” Tôi dùng the ở đây vì cả tôi và kĩ thuật viên đều biết cái mày mà tôi nói đến. Nhưng nếu một sự vật mà chỉ có tôi hay bạn biết thì phải dùng mạo từ a/an. Chẳng hạn như nếu tôi nói với bạn rằng “I saw a funny-looking car today”, tôi dùng mạo từ a bởi vì chỉ có tôi biết cái xe đó, còn bạn thì không biết.

Sau đây là 5 nguồn để biết một danh từ xác định hay không.

1. Danh từ đó đã được đề cập trước: I saw a funny-looking professor yesterday [lần đầu tiên nói về một ông giáo sư không xác định]. He looked like an artist rather than an academic. When he saw me, the professor walked toward my car [lần thứ hai, đề cập đến ông giáo sư theo thể xác định].

2. Một so sánh hay một tính từ so sánh làm cho danh từ trở nên cụ thể: The tallest man in the crowd is 2 m tall. [chỉ có một người đàn ông cao nhất trong đám đông]. Ví dụ khác: Please read the fourth paragraph on page 3. [Chỉ có 1 đoạn văn số 4 trong trang.] Today is the most important day of my life. [Chỉ có 1 ngày quan trọng nhất]

3. Danh từ mô tả một cá nhân, một địa điểm hay một sự vật cá biệt:

The earth revolves around the sun once every 365 days. [Chỉ có 1 trái đất và 1 mặt trời.]

4. Một từ hay cụm từ mang tính bổ ngữ theo sau danh từ làm cho danh từ đó rõ nghĩa hơn: Do you remember the doctor who went camping with us? [Dùng the ở đây để nói đến người bác sĩ đi cắm trại].

5. Văn cảnh hay tình huống làm cho danh từ rõ ràng. Chẳng hạn như

Page 41: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

please close the door, ở đây chúng ta dùng the bởi vì cả hai người đều biết cái cửa nào được đề cập đến.

Nguyên tắc chung: Để chọn đúng mạo từ cho một danh từ, cần phải xác định xem danh từ là số ít hay số nhiều. Một cách dễ dàng để xác định số ít hay số nhiều là chúng ta tự hỏi có thể đặt one trước danh từ đó không. Chẳng hạn như chúng ta có thể nói one experiment, nhưng không thể nói one knowledge. Nếu danh từ không phải là số ít, thì danh từ đó ắt phải là số nhiều hay không đếm được (uncountable noun). Bảng sau đây chỉ cách dùng mạo từ dựa vào 2 yếu tố vừa đề cập:

1. Danh từ số ít.

(a) Nếu danh từ đó mang tính xác định, dùng the.

The book in the bookcase was given to me by an old friend.

(b) Nếu danh từ đó không mang tính xác định, dùng a/an.

My lunch consisted of a sandwich, two cookies, and a can of water. (sandwich và can là danh từ số ít, chúng có thể là danh từ xác định nếu người viết và người đọc đều biết đến hay đề cập trước đây. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chọn a để nói rằng cả hai người viết và đọc đều không biết hai vật thể này)

2. Danh từ số nhiều hay không đếm được.

(a) Nếu danh từ không mang tính xác định, dùng a/an.

The technical papers that I gave you last week are top secret. (Số nhiều và xác định)

The wool that is produced in New Zealand is used to make sweaters and other garments. (Wool là danh từ không đếm được nhưng xác định do có cụm từ “produced in New Zealand”)

(b) Nếu danh từ đó không mang tính xác định, không dùng mạo từ.

Long papers are difficult to read. (Ở đây papers là số nhiều và không xác định)

Ngoài ra, nên nhớ rằng một số nước và địa điểm phải có the:

The United States of AmericaThe United KingdomThe Soviet Union

Page 42: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

The United Nations (the U.N.)The Organization of Petroleum Exporting Countries (OPEC)The Empire State BuildingThe University of Virginia

Chúng ta biết rằng a dùng trước một danh từ với phụ âm như a house, a large rock, và an dùng trước một danh từ với nguyên âm như an interesting subject, an experiment. Nhưng với những danh từ bắt đầu bằng nguyên âm u có thể dùng a hay vì an bởi vì u thường đọc là yu. Do đó, chúng ta có thể viết a university, a urban population, a useful idea. Những danh từ có gốc tiếng Pháp với phụ âm h cũng có thể dùng a: an heir to the throne, an hour-long lecture, an honorable agreement, v.v...

Bài tập

Thử điền vào các khoảng trống sau đây bằng mạo từ the, a/an, hay không có mạo từ (điền 0).

1. _______(a) Decline and Fall of ______(b) Roman Empire

2. ________(a) complexity of _______(b) problem of ______(c) decline and fall of the Roman Empire is made evident by _______(d) wide variety of causes that are emphasized in varying degrees by _______ (e) different authors.

3. Fortunately, ________(a) concise formulation of Edward Gibbon serves as _________(b) widely accepted basis for _______(c) modern discussion of _________(d) problem.

4. According to Gibbon, _________(a) empire reached its peak during _______(b) administration of ________(c) two Antonines.

5. After that, however, ________(a) extent of ________(b) Roman conquest became too great to be managed by _______(c) Roman government, and _______(d) decline began.

6. ______(a) military government was weakened and finally dissolved as ______(b) barbarians were allowed to constitute ______(c) ever-growing percentage of ______(d) Roman legions.

7. ______(a) victorious legions began to dominate and corrupt _______(b) government, weakening it at ______(c) time when it most needed ______(d) strength to overcome _______(e) other problems.

Một trong những lỗi tiếng Anh mà sinh viên Việt Nam thường hay mắc phải là cách dùng mạo từ (article). Thú thật với các bạn, chính tôi phải mất hơn 5

Page 43: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

năm trời tiếp xúc và học hỏi tiếng Anh ở ngoài này mới dùng mạo từ đúng được. Ấy thế mà thỉnh thoảng tôi vẫn dùng sai (nhưng may phước là tôi biết mình … sai)!

I have a good news for you.The men are national beings.The boys leave the school at four o'clock.He sent a word that he would come soon.I have read the Shakespeare's Macbeth.You cannot set a foot in this house.The envy is an evil passion.He has not yet gone to the bed.He is Daniel in judgment.He made very wise decision.Fire broke out in our village.Andamans are a group of islands.

Page 44: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Saturday, February 20, 2010

Tiếng Anh bài 13: đạo văn, diễn giải, tóm lược và trích dẫn

Hôm trước tôi có đưa tin về một trường hợp đạo văn của một giáo sư người Nam Dương. Đọc kĩ bài báo của ông giáo sư này và bài báo gốc (dài hơn nhiều) của tác giả người Úc, tôi thấy hình như lỗi chính của ông giáo sư là thiếu ghi nguồn và cách diễn giải chưa đạt chuẩn làm cho phạm lỗi đạo văn. Thật ra, đối với nhiều người Việt Nam (và Á châu nói chung), kể cả học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh và thậm chí giáo sư, tôi thấy người ta khó phân biệt giữa đạo văn (plagiarism), diễn giải (paraphrase), tóm lược (summary), và có khi cả trích dẫn (quotation). Do đó, cần phải xác định lại 4 hình thức này:

1. Trích dẫn, như chúng ta biết, có nghĩa đơn giản là lấy nguyên văn của tác giả khác nhưng phải để trong ngoặc “ “ và phải ghi nhận nguồn. Một ví dụ trích dẫn là:

A WHO Expert Consultation states that “[…] overweight (≥ 25 kg/m2) corresponded to 31-39% (mean 35%) body fat in females and 18-27% (mean 22%) body fat in males. If these criteria for the percentage body fat for overweight and obesity are applied to the Asian populations, the corresponding BMIs can be calculcated with countru-specific equations” (WHO Expert Consutation, 2004).

Ở đây, chúng ta thấy tác giả để nguyên câu văn của WHO trong ngoặc kép, và khi đóng ngoặc kép thì ghi nguồn của đoạn văn.

Trong những bài báo khoa học, ít khi nào người ta trích dẫn, vì nó gây một cảm giác không mấy thoải mái. Trích dẫn nguyên văn có khi được xem là một hành động lười biếng, hay là một cách tỏ thái độ khiêu khích, mỉa mai. Nhưng tôi thấy trong các bài báo khoa học xã hội và nhân văn, các tác giả có xu hướng trích dẫn rất nhiều, có lẽ do “văn hóa” làm việc của họ. Mặc dù không có qui ước nào vế lượng trích dẫn bao nhiêu là thích hợp, nhưng hình như ai cũng đồng ý rằng một bài báo mà lượng trích dẫn hơn 10% được xem là quá mức.

2. Tóm lược là hình thức diễn tả lại ý tưởng chính của đoạn văn gốc bằng một đoạn văn rất cô đọng và rất chung chung, mà không hẳn dùng lại những chữ của tác giả gốc. Thông thường một đoạn văn tóm lược chỉ có 3 đến 7 câu văn.

Tóm lược cũng là một nghệ thuật, và có khi đòi hỏi người viết phải có một nội lực khá về ngữ vựng. Sau đây là vài chỉ dẫn để làm một tóm lược tốt. Trước

Page 45: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

hết là đọc bài báo. Kế đến là đọc lại bài báo, đánh dấu (gạch dòng) những ý tưởng quan trọng, dùng dấu hình tròn để đánh dầu những từ ngữ hay thuật ngữ quan trọng, và tìm điểm chính của bài báo. Chia bài báo làm nhiều đoạn về ý tưởng và viết một câu văn tóm lược cho từng đoạn. Kế tiếp là viết một đoạn văn tóm lược. Nên nhớ rằng trong đoạn văn tóm lược, tác giả có thể

Ví dụ như đoạn văn sau đây:

Students frequently overuse direct quotation in taking notes, and as a result they overuse quotations in the final [research] paper. Probably only about 10% of your final manuscript should appear as directly quoted matter. Therefore, you should strive to limit the amount of exact transcribing of source materials while taking notes. Lester, James D. Writing Research Papers. 2nd ed. (1976): 46-47.

có thể tóm lược như đoạn dưới đây:

Students should take just a few notes in direct quotation from sources to help minimize the amount of quoted material in a research paper (Lester 46-47).

Ở đây, tác giả vẫn giữ ý chính của đoạn văn gốc và có ghi nguồn, nhưng câu chữ đã được lám ngắn gọn lại, bỏ bớt những chi tiết như 10%. Đây là cách tóm lược hợp lí, không phải đạo văn.

3. Đạo văn: Hội giáo sư đại học Mĩ (American Association of University Professors) định nghĩa đạo văn (plagiarism) là lấy ý tưởng, phương pháp, hay chữ của người khác làm của mình, mà không ghi nhận nguồn gốc và tác giả (nguyên văn: "taking over the ideas, methods, or written words of another, without acknowledgment and with the intention that they be taken as the work of the deceiver.") Đạo văn là một “tội phạm” trong khoa học, một lỗi không thể chấp nhận được. Đã có rất nhiều trường hợp mà những nhà khoa học, sinh viên, nghiên cứu sinh, v.v… bị tiêu tan sự nghiệp chỉ vì đạo văn.

Đạo văn thường xuất hiện dưới nhiều hình thức, chứ không phải chỉ trong bài báo khoa học hay sách vở. Chẳng hạn như một bác sĩ trình bày báo cáo hay bài giảng bằng powerpoint ở một hội nghị, seminar, symposium, v.v… có sử dụng ý tưởng, số liệu, hình ảnh, câu văn của người khác mà không ghi rõ nguồn thì vẫn có thể xem là một hình thức đạo văn.

Đây là một đoạn văn trong cuốn Lizzie Borden: A Case Book of Family and Crime in the 1890s của Joyce Williams và đồng tác giả (trang 1):

The rise of industry, the growth of cities, and the expansion of the population were the three great developments of late nineteenth century American history. As new, larger, steam-powered factories

Page 46: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

became a feature of the American landscape in the East, they transformed farm hands into industrial laborers, and provided jobs for a rising tide of immigrants. With industry came urbanization the growth of large cities (like Fall River, Massachusetts, where the Bordens lived) which became the centers of production as well as of commerce and trade.

và thử đọc đoạn văn sau đây:

The increase of industry, the growth of cities, and the explosion of the population were three large factors of nineteenth century America. As steam-driven companies became more visible in the eastern part of the country, they changed farm hands into factory workers and provided jobs for the large wave of immigrants. With industry came the growth of large cities like Fall River where the Bordens lived which turned into centers of commerce and trade as well as production.

Đoạn văn này được xem là đạo văn. Tại sao? Lí do thứ nhất là tác giả chỉ thay đổi vài chữ và vài câu, thay đổi thứ tự của đoạn văn gốc. Lí do thứ hai là tác giả không ghi nguồn gốc của ý tưởng.

Để tránh đạo văn, cần phải đề rõ nguồn của ý tưởng, dữ liệu của người khác trong bài báo khoa học của mình. Một cách tránh đạo văn là học cách tóm lược (như trình bày trên) và diễn giải (paraphrase sẽ trình bày dưới đây).

4. Diễn giải: Theo cách hiểu chung thì diễn giải có nghĩa là một cách viết lại đoạn văn gốc của người khác với chữ của chính mình (nhưng ý tưởng thì vẫn mượn từ tác giả khác) và nhất định phải ghi nguồn.

Trong báo cáo khoa học, kĩ năng diễn giải rất quan trọng, vì nó tạo cơ hội cho các tác giả đang học tiếng Anh một cách học tiếng Anh thực tế nhất và hữu hiệu nhất. Kinh nghiệm của tôi cho thấy cách diễn giải tốt nhất là đọc đi đọc lại đoạn văn gốc cho đến khi hiểu đầy đủ ý nghĩa của đoạn văn, sau đó đặt đoạn văn gốc qua một bên, và viết lại đoạn văn với từ và cách trình bày của chính mình. Nếu cần, viết vài chữ ở phía dưới đoạn văn mới viết để tự nhắc nhở mình nên sử dụng hay thay đổi câu văn này như thế nào. Một vài điều quan trọng cần nhớ khi diễn giải câu văn của người khác như sau:

Thứ nhất là giữ đúng nghĩa của bản gốc. Nên nhớ rằng chúng ta chỉ diễn giải lại, nên không được thay đổi những mối quan hệ trong bản gốc và ý nghĩa mà tác giả muốn nói.

Thứ hai là dùng từ đồng nghĩa (synonym). Điều này đòi hỏi người viết phải có một vốn ngữ vựng khá để có thể thay đổi chữ của người khác mà vẫn không thay đổi ý nghĩa gốc. Đối với những thuật ngữ thì cách an toàn nhất là không

Page 47: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

nên thay đổi, vì làm như thế rất ư là ngô nghê!

Thứ ba là thay đổi văn phạm. Cách tốt nhất là cắt câu văn dài thành một vài câu văn ngắn, hoặc gép vài câu văn quá ngắn thành một câu văn cô đọng hơn. Cách thứ hai là thay đổi thì active thành thì passive cũng là một hình thức rất hữu hiệu.

Thứ tư là (nếu được) thay đổi thứ tự của thông tin. Đôi khi các tác giả viết văn cũng rất khó hiểu vì họ trình bày nhiều thông tin làm loãng ý chính, và đây chính là cơ hội lí tưởng để mình diễn giải thì ý của mình bẳng cách sắp xếp lại ý tưởng và thông tin một cách logic hơn.

Thứ năm là để ý đến thái độ của tác giả đến đề tài. Đôi khi tác giả để lộ thái độ và cảm tính với đề tài (qua những từ như certain, uncertain, critical, striking, remarkable, wonderful, v.v…) và viết lại theo hình thức trung hòa hơn. Trong khoa học văn chương cần phải … lạnh lùng, tránh từ ngữ cảm tính.

Quay lại câu văn gốc trên,

The rise of industry, the growth of cities, and the expansion of the population were the three great developments of late nineteenth century American history. As new, larger, steam-powered factories became a feature of the American landscape in the East, they transformed farm hands into industrial laborers, and provided jobs for a rising tide of immigrants. With industry came urbanization the growth of large cities (like Fall River, Massachusetts, where the Bordens lived) which became the centers of production as well as of commerce and trade.

nếu tác giả viết:

Fall River, where the Borden family lived, was typical of northeastern industrial cities of the nineteenth century. Steam-powered production had shifted labor from agriculture to manufacturing, and as immigrants arrived in the US, they found work in these new factories. As a result, populations grew, and large urban areas arose. Fall River was one of these manufacturing and commercial centers (Williams 1).

thì sẽ không xem là đạo văn mà là diễn tả lại ý chính của tác giả gốc. Đây là một cách diễn giải hợp lí, chấp nhận được, bởi vì tác giả giữ thông tin gốc qua cách dùng chữ, và cho biết nguồn gốc của ý tưởng.

Như tôi nói ở trên, diễn giải một đoạn văn ngoài kĩ năng văn phạm, cú pháp, còn đòi hỏi một vốn ngữ vựng dồi dào. Ngữ vựng cho phép chúng ta dùng từ

Page 48: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

khác với từ gốc. Một số từ có thể thay thế mà có thể không làm thay đổi ý nghĩa gốc như sau:

Từ chỉ không gian: above, below, here, there, v.v...

Từ chỉ thời gian: after, before, currently, at present, during, earlier, later, v.v...

Từ chỉ ví dụ: for example, for instance, v.v...

Từ chỉ thêm nữa: additionally, in addition, also, moreover, furthermore, equally important, v.v...

Từ chỉ tương đương: also, likewise, in the same way, similarly, v.v...

Từ chỉ ngoại lệ: but, yet, however, nonetheless, on the other hand, on the contrary, v.v...

Từ chỉ loạt: first, second, third, next, then, v.v...

Từ nhấn mạnh: indeed, in fact, of course, v.v...

Từ chỉ nguyên nhân và hệ quả: accordingly, consequently, as a result, as a consequence, therefore, thus, v.v...

Từ kết luận: finally, in conclusion, in summary, on the whole, in the end, v.v...

Đạo văn trong khoa học được nhắc đến rất nhiều lần, và một phần không nhỏ có liên quan đến sinh viên mà tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ. Đã có nhiều trường hợp luận án bị thu hồi vì vấn đề đạo văn. Khi người ta làm nghiên cứu ở sinh viên Mã Lai đang học tại Úc thì phát hiện rằng họ không cố ý đạo văn, nhưng chỉ vì họ không phân biệt được khác biệt giữa đạo văn, diễn giải, và tóm lược. Tôi hi vọng bài này sẽ giúp một phần cho “phe ta” phân biệt được 3 hình thức trên và tránh phạm phải lỗi lầm đáng tiếc.

Viết bài báo khoa học không đơn giản như nhiều người tưởng. Không biết các ngành khác thì sao, nhưng trong lĩnh vực y khoa thì viết một bài báo khoa học 10 trang thường kéo dài khoảng 3 tháng. Nói như vậy để các bạn mới vào “nghề” không nên đánh giá thấp quá trình và kĩ năng viết một bài báo khoa học.

Page 49: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Thursday, February 25, 2010

Tiếng Anh bài 14. Vài lỗi tiếng Anh rất đặc thù Á châu

Trong những sắc dân học tiếng Anh như là một ngôn ngữ thứ 2, tôi đoán người Á châu chúng ta thường gặp khó khăn hơn so với người Âu châu. Có lẽ do người Âu châu và Anh có cùng văn hóa phương Tây, nhưng lí do gần nhất là tiếng Anh và những tiếng gốc Latin và Hi Lạp có cùng cách nói và cách viết, nên họ ít phạm phải những lỗi người Á châu chúng ta hay vấp phải. Tôi sẽ cố gắng sưu tầm những sai sót trong cách viết của người Á châu để các bạn trước là thưởng thức, và sau là … học.

Sau đây là một vài lỗi phổ biến về cách viết câu văn trong tiếng Anh hay thấy ở người Á châu:

1. One of his family members is dead. 2. My brother's all the books have been stolen. 3. For what you are here ? 4. Tell me why did you go there ? 5. I, you and he will go together. 6. Exercise is good both for work as well as health7. He did not abstain to smoke but persisted to purchase valuable cigars8, To him I did a request which he did not comply. 9. I cannot bear your separation. 10. Open the last but one page of the book11. I solicit your favor to grant me leave12. Those who are absent, I shall punish them13. After doing the work, his face brightened. 14. We shall be glad to get your good news. 15. I feel myself feverish. 16. You have no excuse to be forgetful. 17. He rose equal to the occasion18. Are your work busy ? 19. I am going to a picnic20. I am a bit in a hurry21. If one day I am good in English, I would definitely admit it. 22. How do you think to learn the English ?

Các bạn thử sửa lại những câu văn trên cho chuẩn hơn.

NVT

Page 50: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Friday, February 26, 2010

Tiếng Anh bài 15: cách viết một đoạn văn

Một bài báo khoa học thường được viết theo cấu trúc IMRAD (introduction, methods, results, and discussion). Mỗi phần bao gồm một số đoạn văn (paragraphs). Mỗi đoạn văn bao gồm nhiều câu văn (sentence). Một trong những khó khăn mà tôi thấy sinh viên thường gặp lúc viết bài báo khoa học là cách cấu trúc một đoạn văn sao cho dễ đọc và “trôi chảy”. Thật ra, chẳng riêng gì sinh viên, tôi thấy ngay cả những thầy cô vẫn viết văn khoa học rất tồi. Do đó, tưởng là việc dễ làm, nhưng trong thực tế thì không dễ chút nào. Trong bài này tôi sẽ mách một vài kinh nghiệm trong việc cấu trúc một đoạn văn một cách logic và trôi chảy.

Một đoạn văn là một “đơn vị” văn chương của một bài báo khoa học. Điều mà người đọc kì vọng khi đọc một đoạn văn là ý tưởng của người viết và thông tin làm nền tảng cho ý tưởng đó. Nếu người viết không đáp ứng được kì vọng này – như đoạn văn có nhiều ý tưởng, hay không có bằng chứng – thì người đọc sẽ cảm thấy lẫn lộn hay khó chịu, và sẽ không muốn tiếp tục đọc.

Vậy thì câu hỏi đặt ra là: một đoạn văn phải có chức năng gì? Nói một cách ví von, điều mà người đọc muốn tìm trong một đoạn văn khoa học cũng chẳng khác gì chúng ta kì vọng ở một người bạn đời: đó là tinh thần ủng hộ, kiên định, và chu đáo. Một đoạn văn cũng cần có những đặc điểm như thế: có bằng chứng yểm trợ cho ý tưởng, có lập trường kiên định, và phải khúc chiết.

Bằng chứng. Một đoạn văn tốt là một đoạn văn hàm chứa thông tin, và thông tin đó phải có liên quan hay mang tính yểm trợ cho luận án của người viết. Đoạn văn đó cần phải có liên hệ với luận án một cách rõ ràng, sao cho cả thế giới đuều biết được đoạn văn đó có ý định nói lên điều gì.

Kiên định. Một đoạn văn tốt phải mạnh mẽ và có khi trần trụi. Một đoạn văn mạnh mẽ rất cần thiết để phát triển một ý tưởng chính bằng cách dùng đầy đủ bằng chứng. Một đoạn văn tốt không nên có những câu văn thừa thải, những câu văn “gầy gò”, với bằng chứng chẳng có liên quan gì với nhau.

Khúc chiết ở đây có nghĩa là đoạn văn đó phải “hòa hợp” với những đoạn văn khác trong bài báo. Một đoạn văn tốt không bao giờ làm gián đoạn các đoạn văn khác, mà lúc nào cũng có ý tưởng liên quan với một đoạn văn trước đó.

Một đoạn văn bao gồm nhiều câu văn (sentence). Một đoạn văn đơn giản nhất phải có một câu văn chủ đề, và một số câu văn phụ đề. Câu văn chủ đề có mục tiêu “tuyên bố” một ý tưởng hay một quan điểm, còn những câu văn

Page 51: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

phụ đề có chức năng cung cấp chi tiết và thông tin để làm cơ sở cho câu văn chủ đề. Do đó, một đoạn văn tốt phải hàm chứa những thông tin mang tính khúc chiết và liên kết. Ở đây, tôi không bàn chi tiết về kĩ thuật viết một đoạn văn (vì đã có nhiều sách chỉ dẫn), tôi chỉ muốn chia sẻ kinh nghiệm với bạn đọc một vài điểm chính sau đây:

1. Mỗi đoạn văn chỉ nên nói lên một ý tưởng hay một điểm mà thôi. Khi mới bắt tay vào viết bài báo khoa học, nên tránh kiểu viết một đoạn văn chứa nhiều ý tưởng hay điểm nhỏ. Hãy đọc đoạn văn sau đây:

Muscle length and changes in contractility have been reported to have overlapping effects on the components of excitation-contraction coupling. Muscle length is believed to affect the action potential, the amount of calcium released, and the rise of intracellular calcium …; finally, muscle length affects the interaction between actin and myosin and hence shortening and force development. Changes in contractility are believed to affect the action potential and the level and rise of intracellular calcium.

Trong đoạn văn trên, muscle length và contractility được bàn riêng lẻ thể hiện qua nhiều câu văn nhưng tác giả không nói đến những đặc điểm tương đồng giữa hai khía cạnh này. Những câu văn cũng không trực tiếp minh họa cái mà tác giả gọi là overlapping effect tuyên bố trong câu văn đầu tiên. Ngoài ra, chúng ta cũng không thấy mối liên hệ giữa các câu văn trong đoạn văn trên. Đoạn văn trên có thể biên tập lại cho rõ ràng hơn như sau:

Muscle length and changes in contractility have been reported to have overlapping effects on the components of excitation-contraction coupling. Both affect [Muscle length is believed to affect] the action potential, the amount of calcium released, and the rise of intracellular calcium. In addition [finally], muscle length affects the interaction between actin and myosin and hence affects muscle shortening and force development. [Changes in contractility are believed to affect the action potential and the level and rise of intracellular calcium].

(những chỗ màu xanh là bỏ, cắt đi).

2. Giải thích. Đôi khi, một câu văn cần phải giải thích tại sao có hành động. Mặc dù người viết có thể kì vọng người đọc phải hiểu đề tài, nhưng đôi khi chính người viết phải giúp đỡ người đọc hiểu đề tài bằng cách giải thích rõ ràng hơn.

All of the patient data were kept in paper files. The absence of even one clerk caused delays in the monthly reporting. Finally, management decided to interview some system analysts.

Page 52: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Trong đoạn văn trên, sự nối kết của 3 câu văn không rõ ràng mấy. Dù biết rằng người đọc có thể suy luận được ý nghĩa của đoạn văn, nhưng tại sao chúng ta không viết rõ ràng hơn để người đọc khỏi mất thì giờ? Đoạn văn trên có thể biên tập lại như sau:

All of the patient data were kept in paper files, which took much staff time to maintain. The absence of even one clerk caused delays in the monthly patient reports [reporting]. Management wanted computerized record keeping, which would take less time and be more reliable, and finally, [mnagement] decided to interview some system analysts to develop the new system.

3. Cấu trúc song song. Cần phải cấu trúc đoạn văn song song để dễ đọc. Đọc thử đoạn văn sau đây:

A 10 mg dose produced no affect, a 20 mg dose produced a small effect, but patients demonstrated a noticeable effect from a 30 mg dose.

Chúng ta thấy tác giả cố gắng thay đổi cấu trúc khi nói về ảnh hưởng của liều lượng 30 mg, nhưng cách viết này làm cho câu văn khó hiểu. Có thể viết lại như sau:

A 10 mg dose produced no affect, a 20 mg dose produced a small effect, but a 30 mg dose produced [patients demonstrated] a noticeable effect in patients. [fom a 30 mg dose].

4. Nhất quán trong cách viết. Cần phải duy trì cách viết một cách nhất quán. Nếu dùng thì thụ động trong câu đầu thì phải cố gắng theo cách dùng đó. Chẳng hạn như:

Topical applications of the drug did not improve the condition. The condition improved after small doses were delivered intravenously.

Câu đầu theo thể thụ động (passive voice), nhưng câu thứ hai thì chuyển sang chủ động (active voice). Nên duy trì nhất quán cách viết như sau:

Topical applications of the drug did not improve the condition. Intravenous delivery of small doses improved the condition. [Fhe condition improved after small doses were delivered intravenously].

Để tạm kết thúc bài này, tôi mời các bạn thử đọc một đoạn văn của Gs Samuel Huntington, một tác giả thuộc vào hàng “favorite” của tôi. (Tôi chỉ thích và ngưỡng mộ cách viết của ông ấy thôi, chứ không hẳn thích quan điểm chính trị của ông ấy). Đoạn này tôi trích trong bài “The Hispanic

Page 53: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Challenge” đăng trên tập san Foreign Affairs số ra ngày 1/3/2004:

Most Americans see the creed as the crucial element of their national identity. The creed, however, was the product of the distinct Anglo-Protestant culture of the founding settlers. Key elements of that culture include the English language; Christianity; religious commitment; English concepts of the rule of law, including the responsibility of rulers and the rights of individuals; and dissenting Protestant values of individualism, the work ethic, and the belief that humans have the ability and the duty to try to create a heaven on earth, a "city on a hill." Historically, millions of immigrants were attracted to the United States because of this culture and the economic opportunities and political liberties it made possible.

Như có thể thấy, câu đầu tuyên bố chủ đề của đoạn văn về căn cước quốc gia. Câu thứ hai nối kết với câu 1 một cách tuyệt vời về mặt chữ nghĩa. Những câu kế tiếp cung cấp thêm thông tin và dữ liệu yểm trợ cho câu văn đầu tiên. Và, câu cuối cùng quay lại câu chủ đề như là một nhấn mạnh. Một đoạn văn được viết một cách chắc nịch! Đúng là cách viết của một bậc thầy.

Viết đến đây tôi chợt nhớ đến một bậc thầy khác, không phải trong khoa học, mà là trong văn học: Nhà biên khảo Sơn Nam. Trong một cuốn sách mà tôi đọc lâu lắm rồi, trong đó tác giả kể lại rằng có lần Sơn Nam khuyên tác giả về cách viết văn như sau: “Mày viết câu văn phải có bắp thịt. Nghĩa là nó không phẳng lỳ làng nhàng, đọc lên không gây xúc cảm. […] Nói nôm na ra là như cái bắp thịt con chuột của anh nông dân. Văn là phải như thế đó, chớ không phải suông đuột như bắp tay con gái. […] ta phải dùng chữ nào chính xác nhất, đắt giá nhất, độc đáo nhất để diễn đạt cái ý ta muốn diễn đạt. Nghĩa là khi ta dùng chữ đó rồi, không chữ nào thay vào mà hay hơn được. […] Mày hiểu không? Cũng như mày lựa vợ vậy, khi mày đã chấm cô A thì cô B dù có đẹp hơn giàu hơn cũng không làm mày hạnh phúc bằng cô A! Hì hì …”

Tôi nghĩ một lời khuyên như thế trong viết văn khoa học cũng rất thích hợp.

Page 54: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tiếng Anh bài 16: may và might

Một trong những từ tiếng Anh mà tôi thấy người Việt chúng ta hay lẫn lộn trong cách dùng là may và might.  Thật ra, cách sử dụng hai từ này không khó mấy, nếu chúng ta chịu khó phân tích tình huống và sử dụng thích hợp.

 

1.  Khả năng xảy ra

Mức độ của khả năng: Cả hai từ đều nói về khả năng của một sự việc, nhưng chúng ta dùng might khi khả năng xảy ra thấp (dưới 50%), còn dùng may khi khả năng xảy ra cao hơn (trên 50%).  Ví dụ:

I may go to Saigon tomorrow (khả năng cao)

She is a very busy, but I hope she might join us tomorrow (khả năng xảy ra thấp)

Might cũng có thể thay thế cho cách nói“would perhaps”: Might, chứ không phải may, là từ dùng có điều kiện:

Thay vì nói: Don’t break bottle. Perhaps you would get hurt Chúng ta có thể nói gọn hơn: Don’t break bottle. You might get hurt Hoặc: If the patient went to bed for an hour, she might feel better

Might có thể dùng để nói về một sự việc có thể xảy ra nhưng không xảy ra trong quá khứ:

If the weather was good, I might have gone out yesterday

Đặt câu hỏi: không nên dùng may để hỏi về một sự kiện có khả năng xảy ra, mà nên dùng might:

Không nên nói: May you go shopping tonight? Nên nói: Are you likely to go shopping tonight? Hoặc nên nói: Might you go shopping tonight?

2.  Dùng may và might để xin phép

Cả may và might đều có thể dùng để xin phép, nhưng might thì nhún nhường và lịch sự hơn:

May I open the door?

Muốn uống thêm một li rượu trong buổi tiệc toàn dân sang trọng, bạn có thể nói:

Page 55: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

I wonder if I might have a little more wine

Dùng may để … cấm, nhưng cấm lịch sự.

Students may not use this lecture theatre

Đó là cách nói nhẹ nhàng.  Nếu cần mạnh hơn, có thể dùng must not:

Students must not use this lecture theatre

Dùng may và might trong cách nói báo cáo hay gián tiếp đã được cho phép sử dụng cái gì đó, nhưng chỉ dùng might như là thì quá khứ của may:

The professor says that we may use this lab

The professor told me that we might use his office for this seminar

3.  Chúc tụng

May (chứ không phải might) có thể dùng để chúc tụng hay nói về hi vọng:

May you both be very happy (chúc mừng đôi uyên ương hay gì đó) May God be with you (cầu nguyện thánh thần gì đó!) May she rest in peace (cầu nguyện cho người quá cố)

May cũng có thể dùng thay thế cho although, despite, even if:

Thay vì nói: Even if he is clever, he hasn’t got much common sense

Có thể nói: He may be clever, but he hasn’t got much common sense You might/may be my boss, but that doesn’t mean you are better than me

4.  May/might as well

Thỉnh thoảng chúng ta muốn cho ai đó một lựa chọn tối ưu, chúng ta cũng có thể dùng may/might as well:

It is so boring today.  We may as well go home.

We might as well go out (hàm ý nói chẳng có việc gì xứng đáng hơn là đi chơi)Nhưng khi nói: We’d better go out thì hàm ý nói chúng ta phải đi chơi.

Chắc chắn còn nhiều cách phân biệt nữa, nhưng tôi mới nghĩ đến những tình huống phổ biến trên đây.  Học tiếng Anh là phải thực hành (tức là viết và đọc thường xuyên), chứ nếu chỉ “học chay” thì rất khó đạt yêu cầu.  Ngày xưa, mỗi ngày tôi học chỉ có một chữ tiếng Anh, và thấy cách học đó rất hiệu quả.  Hi vọng các bạn hôm nay đã học được một chữ khá thú vị.

Page 56: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tiếng Anh bài 17: Danh từ như là tính từ Nhân một bạn đọc hỏi về cụm từ “A systems dynamics model”, tôi muốn bàn thêm về cách sử dụng danh từ như là tính từ.

Đọc báo chí, và nhất là tạp chí khoa học, chúng ta hay gặp những cụm từ mà nếu chiếu theo qui luật văn phạm thì có vẻ sai, nhưng kì thực là đúng.  Những cụm từ này phải hiểu trong bối cảnh của thuật ngữ và đặt trong qui ước danh-từ-như-là-tính-từ.  Cách viết A systems dynamics model là một ví dụ.  Thoạt đầu, đọc qua thì thấy hơi ngờ ngợ.  Ai cũng biết system là danh từ (số ít); dynamics cũng là danh từ (tính từ là dynamic như trong câu “he is a dynamic man”, nhưng dynamic cũng có thể là danh từ như trong câu “the dynamic of bone”); model cũng là danh từ, vậy tại sao 3 danh từ đi liền với nhau mà không có giới từ?  Theo tôi hiểu, khi viết A systems dynamics model, tác giả muốn nói:

(a) model (mô hình) là danh từ chính, là chủ từ của cụm từ;

(b) dynamics là danh từ dùng để chỉ chuyển động học;

(c) systems là một danh từ nhưng dùng như là một tính từ.  Chúng ta có thể nói “A systems approach to the study of bone diseases” để nói về một cách nghiên cứu tổng thể, trong đó systems tuy là danh từ nhưng “phục vụ” như là tính từ trong câu trên.

Do đó, cách viết A systems dynamics model là hoàn toàn chấp nhận được, vì systems ở đây là danh-từ-như-là-tính-từ.  Có lẽ thuật ngữ đó dùng để chỉ một mô hình tổng thể về chuyển động học.

Danh từ như là tính từ

Trong cách viết / nói hàng ngày, cách dùng danh từ như là tính từ cũng khá phổ biến.  Chẳng hạn như chúng ta có thể nói animal house (thay vì house for animals), gene-environment interactions (thay vì dùng tính từ như genetic and environmental interactions), v.v... Đặc biệt trong khoa hoc, các bộ môn học thường sử dụng cách viết danh từ như là tính từ để tăng phần trịnh trọng.  Chẳng hạn như thay vì đặt tên “Genetic Society of Houston” (Hội di truyền học Houston) người ta có thể đặt tên trang trọng hơn như “Genetics Society of Houston”.  Ở đây, genetics thật ra là danh từ nhưng chúng ta dùng như là tính từ, và tên với danh từ thì lúc nào cũng nghe “kêu” hơn là tên với tính từ.  Đó là yếu tố tâm lí mà các nhà ngữ học từng chỉ ra rất lâu trước đây!

Danh từ bổ nghĩa

Sẵn đây, nói thêm một số danh từ mang tính bổ nghĩa, mà văn phạm tiếng Anh gọi là “noun modifier”.  Ví dụ:

Thay vì viết/nói Chúng ta có thể viết/nói

Luke is a champion in swimming Luke is a swimming champion

Page 57: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

May I have a spoon for eating soup, please May I have a soup spoon, please

Ring the bell aside the door Ring the door bell

Tất cả những cách viết / nói trong cột thứ 2 đều có cùng nghĩa với cách viết / nói trong cột 1.  Tuy nhiên, với cách dùng danh từ bổ nghĩa thì chúng ta viết ngắn hơn, tức là bớt rườm rà hơn.  Thay vì nói “champion in swimming”, chúng ta bỏ giới từ in và chuyển swimming đứng trước danh từ champion, và thế là chúng ta có một cách viết gọn hơn.  Đây cũng là một “thủ thuật” để giảm số chữ cho các tập san khoa học khi họ yêu cầu!

Danh từ số nhiều và số ít mang tính bổ nghĩa

Thông thường, tính từ không có số nhiều.  Nhưng cũng có vài ngoại lệ (ngôn ngữ nào cũng có ngoại lệ, và mấy ngoại lệ này làm chúng ta rất “mệt”, vì phải để ý và nhớ chúng) mà theo đó tính từ có thể có số nhiều!  Những ngoại lệ này xảy ra khi tính từ có nghĩa:

(a)    đa dạng, đa hình thức;

(b)   không có danh từ số ít thay thế;

(c)    chỉ bằng cấp của một ngành học;

(d)   chỉ văn phòng, bộ môn, ngành học;

(e)    nói về tin tức hay một vấn đề xã hội.

Ví dụ: I have just attended a jobs fair, The customs officer asked me questions, She is studying to get a Linguistics degree, I can be found in the Arts Department, I went for an orthopedics course last year, v.v…

Hi vọng những giải thích trên đây đã giúp làm sáng tỏ vấn đề mà bạn đọc nêu lên.

TB. Thật ra, bạn đọc này còn nói thêm rằng “Ở Việt Nam, em thấy nhiều giáo sư, phó giáo sư hay tranh luận về những thuật ngữ trong lý luận. Ở bên này (Bỉ, Hà Lan), em thấy người ta ít tranh luận về terminology mà chỉ tranh luận về vấn đề được nêu ra thôi. Có phải là em chưa đủ kinh nghiệm để đối mặt với những cuộc tranh luận về term hay là ở nước ngoài, người ta ít tranh luận về từ ngữ mà từ ngữ chỉ dùng để người đọc cảm nhận rằng tác giả có là expert trong vấn đề đó hay không thôi ạ?”  Tôi cũng có cùng nhận xét như thế.  Ở VN, người ta có khi tiêu ra rất nhiều thì giờ để bắt bẻ (chứ không hẳn là tranh luận) đồng nghiệp hay nghiên cứu sinh về một thuật ngữ nào đó, mà theo tôi là không cần thiết.  Những bắt bẻ như thế có khả năng đánh lạc hướng vấn đề đang bàn, và đó là một điều đáng tiếc.  Do đó, trả lời bạn đọc và cũng là quan điểm của tôi là: cứ để họ cãi cọ nhau về thuật ngữ tiếng Anh (mà có khi chính họ cũng không hiểu hết), mình cứ làm chuyện của mình cho đến nơi đến chốn là ok, chứ không nên sa đà vào chuyện cãi cọ không có

Page 58: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

hồi kết.

Một bạn đọc khác phát hiện một lỗi viết trong bài số 12.  Tôi đã sửa.  Chân thành cám ơn bạn đọc Leona.

Page 59: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc
Page 60: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

Tiếng Anh bài 19. mô tả tình trạng bất định

Bất định (uncertainty) thường bàng bạc trong văn chương khoa học.  Đọc một bài báo khoa học nào, chúng ta cũng thấy những câu văn với những tính từ hay trạng từ mô tả tình trạng có thể nói là “chẳng có gì chắc chắn”.  Nhưng tính bất định chính là đặc điểm của khoa học.  Nhưng người có kinh nghiệm thường sử dụng từ thích hợp để mô tả tình trạng bất định theo mức độ của kiến thức hiện hành.

Đối với người Việt chúng ta chưa quen (hay mới làm quen) với tiếng Anh, việc chọn một từ thích hợp để mô tả tình trạng bất định không phải là điều dễ dàng.  Tiếng Việt chúng ta chỉ có vài từ như “có thể”, “có lẽ”, “có khả năng”, v.v… để mô tả tình trạng bất định, còn tiếng Anh thì có rất nhiều từ (như probably, possibly, may be, perhaps, certainly, likely, v.v…) để nói lên cùng trạng thái.  Vấn đề trở nên khó khăn là chúng ta dùng từ nào để phản ảnh mức độ bất định.  Mức độ ở đây có thể hiểu như xác suất từ 0 đến 1, tức là một thước đo mang tính liên tục.

Không có sách vở nào chỉ cách dùng những từ tiếng Anh cho từng mức độ của sự bất định.  Thật vậy, tôi tìm trong sách về sử dụng tiếng Anh, từ “ông tổ” Fowler đến sách hiện đại, chẳng thấy sách nào đề cập đến việc phân biệt probably, possibly, may be, perhaps, certainly, likely, v.v… Trong tình trạng vô vọng, tôi tình cờ học được vài từ quan trọng.  Số là hôm qua, trong một cuộc họp hàng tháng, hội đồng về an toàn trong Viện Garvan liệt kê một số vấn đề được xem là có nguy cơ (như nguy cơ bị điện giật, nguy cơ bị thương bởi hóa chất và gas, nguy cơ bị nhiễm từ máu, nguy cơ building bị … sập) và họ phải đánh giá nguy cơ bằng những từ tiếng Anh.  Họ sử dụng thuật ngữ của … quân đội Úc để đánh giá nguy cơ!  Thế là tôi phải hỏi xin tài liệu về thuật ngữ nguy cơ để vừa học thêm, vừa làm tài liệu tham khảo cho các bạn nào đang làm nghiên cứu sinh.

Bảng sau đây tóm lược những từ thông dụng để mô tả mức độ khẳng định của kiến thức:

Mức độ khẳng định Động từ Tính từ hay trạng từ Ví dụ

Hoàn toàn (completely); 100%

is / is not

will / will not

must / must not

Certain / certainly

Definite / definitely

Clear / clearly

Undoubted / Undoubtedly

The data clearly support the hypothesis that X is a cause of Y

Mạnh (strong); 75- Can / cannot Probably (not) Presumably, the

Page 61: Cach_dien_dat_trong_biet_bao_khoa_hoc

100% Should / Should not Presumably authors have evidence to show that …

Trung bình; 50-75% Could / could not Likely / unlikely It’s unlikely that the MCR4 gene is related to bone phenotype

Thấp; 25-50% May / may notMight / might not

Possible / possiblyPerhaps / perhaps not

It is possible that other factors could be responsible for the effect

Yếu; <25% It is said that

It appears that

It seems that

  There is evidence to suggest that

Hi vọng những “thuật ngữ” trên đây giúp ích cho các bạn khi chọn từ để mô tả tình trạng bất định.