CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính...

8
CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách - THÚC ĐẨY TỪ THIỆN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC GIỮA KHU VỰC XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM Tháng 2/2016

Transcript of CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính...

Page 1: CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách - THÚC ĐẨY TỪ THIỆN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC GIỮA KHU VỰC

CÁCPHÁTHIỆNVÀKHUYẾNNGHỊCHÍNH

Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách - THÚC ĐẨY TỪ THIỆN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC

GIỮA KHU VỰC XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAMTháng 2/2016

Page 2: CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách - THÚC ĐẨY TỪ THIỆN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC GIỮA KHU VỰC

Nội dung của bản Tóm tắt này trình bày các kết quả chính từ nghiên cứu “Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách liên quan đến từ thiện doanh nghiệp và hợp tác với khu vực xã hội dân sự” trong khuôn khổ dự án “Phát

triển Xã hội dân sự bền vững ở Việt Nam” do Quỹ Châu Á thực hiện với sự tài trợ của Cơ quan viện trợ Ai-len (Irish Aid). Bản Tóm tắt khái quát 5 nhóm khuyến nghị quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan chính phủ, các cơ quan truyền thông, các tổ chức xã hội dân sự (XHDS), các tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp nhằm tạo ra một môi trường thể chế và chính sách thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tham gia đóng góp từ thiện, đảm bảo cho các tổ chức XHDS được hoạt động một cách chính danh, minh bạch, làm tiền đề cho sự hợp tác chiến lược với khu vực doanh nghiệp và phát triển bền vững trong tương lai.

Như một tiến trình tất yếu của phát triển xã hội, bên cạnh khu vực nhà nước, khu vực thị trường, Việt Nam đã và đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức XHDS cả về số lượng, các hình thức tổ chức lẫn quy mô và phạm vi hoạt động. Với khuôn khổ pháp lý đang thay đổi theo hướng cởi mở hơn, với hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của cộng đồng quốc tế, khu vực XHDS đã có những đóng góp to lớn vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các nhóm người yếu thế, phòng chống HIV/AIDS, bảo vệ môi trường, phản biện chính sách vv…, góp phần đảm bảo tính công bằng, dân chủ và sự ổn định của xã hội.

Tuy nhiên, trong bối cảnh suy thoái chung của kinh tế thế giới, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. Những năm gần đây, các tổ chức XHDS ở Việt Nam đang đối mặt với những thách thức của việc vận động nguồn từ các nhà tài trợ quốc tế. Việc chuyển hướng của các tổ chức này từ chỗ dựa chủ yếu vào nguồn tài trợ nước ngoài sang việc thu hút các nguồn lực trong nước, đặc biệt là từ khu vực doanh nghiệp cho hoạt động của mình, thực sự là nhu cầu khách quan và là giải pháp chiến lược cho sự phát triển lành mạnh của khu vực XHDS trong tương lai. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi sự quan tâm và nỗ lực toàn diện của các cơ quan chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà tài trợ và của chính các tổ chức XHDS Việt Nam. Đồng thời với sự phát triển của khu vực XHDS, các hoạt động hỗ trợ những người yếu thế, hoạt động từ thiện, đóng góp cho cộng đồng cũng đang trở thành mối quan tâm ngày càng rộng rãi của xã hội nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng. Hiện chưa có một nghiên cứu hoặc thống kê nào ghi nhận quy mô và khối lượng huy động làm từ thiện từ hơn 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam1. Tuy nhiên, qua báo chí và một số tổng kết, có thể thấy các khoản huy động này là không hề nhỏ.

Về mặt lý thuyết, mối quan hệ giữa một bên cần nguồn vốn để thực hiện các chương trình nhân đạo

1 Theo ước tính của Bộ kế hoạch và đầu tư tại “Dự thảo kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ -12/2015”, đến cuối năm 2015 cả nước có khoảng 535.000 doanh nghiệp đang hoạt động.

và phát triển (khối XHDS) và một bên có nhu cầu đóng góp cho các hoạt động đó (khối doanh nghiệp) lẽ ra phải chặt chẽ và bền vững. Nhưng trên thực tế, mối quan hệ này lại không thực sự tích cực, còn thiếu sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau cả từ hai phía2. Câu hỏi đặt ra là có những “khoảng trống” nào cần phải xóa bỏ trong mối quan hệ hợp tác giữa hai khối vì mục tiêu phát triển chung của đất nước? Tìm hiểu và đánh giá “khoảng trống” đó từ góc độ pháp lý và chính sách được xác định là cấp thiết trong mục tiêu phát triển khu vực XHDS bền vững ở Việt Nam.

Bản Tóm tắt này đưa ra 5 nhóm khuyến nghị chính như sau:

1. Tăng cường hiểu biết vàthayđổinhậnthứccủaxãhội,cáccơquanquản lýnhànướcvà doanh nghiệp về vai trò,trách nhiệmvà hoạt động củatổchứcXHDSTrong những năm gần đây, các tổ chức XHDS đã có sự phát triển nhanh chóng với nhiều loại hình, với quy mô, phạm vi, tính chất hoạt động rất phong phú, đa dạng. Đến tháng 12/2014, theo thống kê của Bộ nội vụ cả nước có 52.565 hội (483 hội hoạt động trong phạm vi cả nước và 52.082 hội hoạt động trong phạm vi địa phương)3, 402 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có 233 cơ sở ngoài công lập. Theo Báo cáo tóm tắt về XHDS Việt Nam4, ước tính có khoảng gần 2.000 tổ chức khoa học và công nghệ, hàng trăm Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện và trên 200.000 các tổ chức cộng đồng (TCCĐ). Với sự phát triển nhanh chóng, khu vực XHDS đã và đang có những đóng góp to lớn vào xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các nhóm người yếu thế và dễ

2 Báo cáo tóm tắt về XHDS Việt Nam, ADB, 1/2012.3 Tờ trình của Chính phủ về Luật Hội, 2015.4 Báo cáo tóm tắt về XHDS Việt Nam, ADB, 1/2012.

Page 3: CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách - THÚC ĐẨY TỪ THIỆN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC GIỮA KHU VỰC

Các khuyến nghị:ØCác cơ quan quản lý nhà nước cần có cái nhìn toàn diện và thống nhất hơn về XHDS; Ghi nhận và tôn vinh những

đóng góp của các cá nhân và tổ chức XHDS trong hoạt động cộng đồng; Công khai minh bạch các yêu cầu về quản lý nhà nước để loại bỏ tâm lý e ngại và tạo các điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của khu vực này.

ØCác tổ chức XHDS cần được hỗ trợ hoặc chủ động xây dựng và thực hiện các chương trình truyền thông tạo dựng hình ảnh, tăng cường hiểu biết và nâng cao nhận thức đúng đắn của xã hội về vai trò, trách nhiệm và các cống hiến của khu vực này. Các tổ chức này nên liên kết với nhau theo khu vực địa lý hoặc lĩnh vực hoạt động để tăng cường quảng bá hình ảnh của khu vực XHDS.

ØCác tổ chức XHDS và doanh nghiệp nên tổ chức diễn đàn hoặc các sự kiện giao lưu khác nhau, gắn liền với mối quan tâm của cả hai khu vực, nhằm mục đích tăng cường hiểu biết và chia sẻ thông tin, tạo nền móng cho sự tin cậy và hợp tác (thí dụ, sự kiện làm sạch môi trường đối với các doanh nghiệp cung ứng trang thiết bị bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe trẻ em đối với các doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, đồ dinh dưỡng cho trẻ em vv.)

ØCác tổ chức phi chính phủ quốc tế (PCPQT) đóng vai trò quan trọng trong việc hợp tác, vận động các cơ quan chính phủ để tổ chức Diễn đàn các tổ chức xã hội hàng năm (tương tự như Diễn đàn phát triển của các Nhà tài trợ), tại đó, các cơ quan chính phủ, các tổ chức PCPQT, các tổ chức xã hội Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp có thể chia sẻ kinh nghiệm, tháo gỡ các khó khăn, thảo luận về chiến lược hợp tác để cùng phát triển.

bị tổn thương, phòng chống HIV/AIDS, bảo vệ môi trường, phản biện chính sách vv…góp phần đảm bảo tính công bằng, dân chủ và sự ổn định của xã hội. Tuy nhiên, một trong những quan ngại hiện tại của XHDS là đảm bảo nguồn tài chính để duy trì và phát triển tổ chức trong bối cảnh các cơ hội tài trợ không hoàn lại cho Việt Nam sẽ ngày càng giảm. XHDS do đó phải tìm cách đa dạng hóa nguồn tài chính của họ và tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ trong nước, trong đó có khu vực tư nhân. Điều này đòi hỏi các tổ chức XHDS phải tăng cường xây dựng hình ảnh và tăng sự tín nhiệm của họ.

Trong khi đó, tại báo cáo “Hình ảnh của các tổ chức XHDS trên một số báo in và báo mạng” (ISEE, 2011) ghi nhận, “Mặc dù các tổ chức XHDS ở Việt Nam đã và đang có sự đóng góp không nhỏ vào đời sống xã hội, phần lớn công chúng còn thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết mơ hồ về sự tồn tại cũng như vai trò của các tổ chức này. Nhiều người còn không rõ về vai trò và chức năng của các tổ chức XHDS, vì sao các tổ chức này lại cần thiết đối với sự phát triển của đất nước. Lý do nhiều người còn không hiểu về tổ chức XHDS bởi vì các tổ chức này ít được thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một mặt, các tổ chức XHDS không chủ động trong việc xây dựng và quảng bá hình ảnh của họ đối với công chúng. Họ thiếu kinh nghiệm để tiếp cận với báo chí một cách bài bản và đưa ra các thông điệp một cách chiến lược cũng như việc vận động xã hội ủng hộ cho sứ mạng của họ. Mặt khác, báo chí cũng chưa thực sự đưa các thông tin về các tổ chức XHDS một cách sâu sắc và hấp dẫn”5 .

Nghiên cứu này cũng khẳng định kết quả của các nghiên cứu khác gần đây cho thấy sự ít hiểu biết hoặc hiểu biết không đầy đủ của các doanh nghiệp

5 Hình ảnh của các tổ chức XHDS tên một số báo in và báo mạng, ISEE, 2011.

về XHDS. Các doanh nghiệp chưa có sự tin cậy vào tính minh bạch và hiệu quả hoạt động của các tổ chức XHDS. Một số doanh nghiệp cho rằng đây chỉ là các đối tượng thụ hưởng (các quỹ, các trung tâm bảo trợ…), một số khác quan niệm các tổ chức XHDS là các tổ chức đoàn thể (ví dụ: Mặt trận tổ quốc các cấp, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội chữ thập đỏ...). Họ thể hiện sự không tin cậy vì cách làm bị hành chính hóa, ít minh bạch và một số khuất tất trong hoạt động từ thiện mà bản thân họ đã trải nghiệm hoặc qua phản ánh của báo chí và dư luận. Việc hợp tác như đối tác với khu vực này gần như chưa được đề cập bởi các doanh nghiệp không hình dung được tại sao lại phải hợp tác, hợp tác như thế nào, hay hợp tác có đem lại hiệu quả thiết thực gì cho các bên không? Tuy nhiên, khi được chia sẻ về các hoạt động và các đóng góp của các tổ chức XHDS, phản ứng của các doanh nghiệp là tích cực và thể hiện sự sẵn sàng hỗ trợ, hợp tác với các tổ chức XHDS vì mục đích cộng đồng.

Trừ một số ít các tổ chức XHDS có các mối quan hệ và có kinh nghiệm trong việc tiếp cận với các doanh nghiệp, phần lớn các tổ chức đến với doanh nghiệp để kêu gọi sự hảo tâm, “xin” sự hỗ trợ. Họ không chia sẻ được các mối quan tâm của doanh nghiệp, không hiểu cấu trúc ra quyết định đối với các khoản chi tiêu của doanh nghiệp, các khó khăn trong các khâu hóa đơn, chứng từ, quản lý tài chính… Sự xuất hiện của các tổ chức XHDS trên các phương tiện truyền thông đại chúng chưa nhiều, còn rời rạc, thiên về việc biểu dương các hoạt động từ thiện. Năng lực của các tổ chức XHDS nhìn chung còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong các mặt: tổ chức, quản trị, tiếp cận truyền thông và huy động nguồn lực.

Tăng cường hiểu biết và thay đổi nhận thức của xã hội, đặc biệt của khu vực doanh nghiệp về XHDS là một yếu tố quan trọng bậc nhất trong thúc đẩy doanh nghiệp hỗ trợ và hợp tác với khu vực XHDS.

Page 4: CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách - THÚC ĐẨY TỪ THIỆN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC GIỮA KHU VỰC

Tổng hợp và phân tích các văn bản pháp luật hiện hành cho thấy:

• Nhà nước Việt Nam đã thể hiện quan điểm nhất quán trong việc khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hoạt động từ thiện. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng được hưởng ưu đãi được quy định tương đối rõ ràng, lĩnh vực được ưu đãi rộng, có tính chất khuyến khích cao đối với hoạt động xã hội và từ thiện của các doanh nghiệp.

• Các khoản thu từ tài trợ, viện trợ, từ các hoạt động sản xuất kinh doanh các sản phẩm thiết yếu phục vụ hoạt động cứu trợ, viện trợ nhân đạo, đầu tư sản xuất kinh doanh ở các vùng đặc biệt khó khăn hoặc sử dụng lao động là những người yếu thế trong xã hội, và các khoản chi cho từ thiện đều được miễn hoặc giảm thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu hoặc thuế thu nhập doanh nghiệp. Các điều chỉnh, sửa đổi chính sách trong thời gian gần đây cho thấy xu hướng khuyến khích hơn, mong muốn huy động nhiều hơn, rộng rãi hơn các nguồn lực từ doanh nghiệp cho các hoạt động xã hội và từ thiện.

• Các khuyến khích được nằm rải rác ở nhiều văn bản luật, nghị định, thông tư hướng dẫn vv...., lại thường xuyên bổ sung, sửa đổi, thay đổi nên rất khó khăn để nắm bắt và thực hiện. Thời gian từ khi có luật đến khi ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện thường kéo dài.

• Các văn bản pháp luật vẫn được xây dựng theo cách tiếp cận cũ - liệt kê những việc cụ thể “được khuyến khích” thay vì tiếp cận theo hướng “được làm các việc pháp luật không cấm” và điều chỉnh theo hành vi. Do vậy, các văn bản này không thể theo kịp sự phong phú, đa dạng của thực tiễn, mỗi lần sửa đổi, bổ sung lại thêm hoặc bớt các việc, các hoạt động cụ thể (thí dụ Thông tư 96/2015/TT-BTC về thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung thêm 2 hoạt động so với hướng dẫn trước đó là: tài trợ cho giáo dục nghề nghiệp và làm cầu dân sinh). Việc quy định quá cụ thể trong luật về tỷ lệ phần trăm, số lượng lao động là các đối tượng yếu thế sẽ rất khó thực thi.

• Trình tự, thủ tục để được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp chưa được hướng dẫn đầy đủ, còn nhiều bất hợp lý và phức tạp, tạo tâm lý e ngại,

nhất là trong hoạt động mang tính từ thiện. Các khoản chi hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, chi bằng tiền cho người bệnh chỉ được coi là hợp lệ nếu thông qua các “các tổ chức có chức năng huy động tài trợ theo quy định của pháp luật”. Hiện nay chưa có văn bản nào xác định khái niệm và danh mục các “tổ chức có chức năng huy động tài trợ”, vì vậy việc thực hiện là khiên cưỡng, vừa mất nhiều thời gian, lại vừa hành chính hóa hoạt động tài trợ, đó là chưa tính đến tâm lý của các tổ chức, cá nhân nhà tài trợ luôn mong muốn sự đơn giản, thuận tiện trong các hoạt động tài trợ và tiền hỗ trợ phải được đưa đến tận nơi, tận tay người thụ hưởng.

• Các khoản chi tài trợ cho các đối tượng chính sách, tài trợ cho nghiên cứu khoa học chưa được hướng dẫn cụ thể, mà đến cấp thông tư (Thông tư 78/2014/TT-BTC) cũng chỉ hướng dẫn thực hiện “theo các quy định của pháp luật”. Điều này đồng nghĩa với việc không thể thực hiện được.

• Tất cả các quy định về miễn, giảm, khấu trừ các loại thuế đều chỉ điều chỉnh đối với “các tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật”, được hiểu là các tổ chức có tư cách pháp nhân.Việc nhận tài trợ từ các tổ chức PCPQT cũng đòi hỏi các tổ chức Việt Nam phải được “thành lập theo quy định của pháp luật” (Nghị định 93/2009/NĐ-CP). Như vậy, hàng trăm nghìn các tổ chức cộng đồng, về phương diện pháp lý, không được quyền nhận bất kỳ các khoản tài trợ chính thức nào từ các nguồn trong và ngoài nước.

• Sự hiểu biết của các doanh nghiệp về các chính sách ưu đãi của nhà nước liên quan đến từ thiện doanh nghiệp là rất hạn chế. Việc vận dụng trong thực tiễn các chính sách này hầu như không có. 32 doanh nghiệp tham gia khảo sát (17 trực tiếp ở Hà Nội và thành phố Hồ chí Minh và 15 qua phiếu hỏi ở Đà Nẵng) đều không sử dụng các ưu đãi về thuế trong hoạt động từ thiện trong những năm qua, trong số đó 28 doanh nghiệp không biết sự tồn tại của các chính sách ưu đãi. Khi truy cập các trang web của các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội doanh nghiệp và nhiều tổ chức XHDS, chúng tôi hầu như không tìm thấy một bài nào tuyên truyền, phổ biến có chủ đích về các chính sách ưu đãi liên quan đến nội dung trên.

Các chính sách khuyến khích không thể phát huy tác dụng khi bản thân những người thụ hưởng không được biết và không sử dụng nó.

2. Bổsung,sửađổivàhoànthiệncácquyđịnhphápluậtliênquannhằmkhuyếnkhíchcácdoanhnghiệpđónggóptừthiện,hỗ trợ cộng đồng; Tăng cường việc tuyên truyền, phổ biếnpháp luậtđếnvớicácdoanhnghiệpđểđưacácquyđịnhnàyvàothựctiễn

Page 5: CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách - THÚC ĐẨY TỪ THIỆN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC GIỮA KHU VỰC

Các khuyến nghị:ØCác nhà hoạch định chính sách nên bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện các quy định pháp luật và chính sách có

liên quan nhằm khuyến khích từ thiện doanh nghiệp. Cụ thể là:

• Sửa đổi, bổ sung Luật thuế thu nhập doanh nghiệp về các khoản được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, theo hướng điều chỉnh theo hành vi có tính chất “từ thiện” và “từ thiện doanh nghiệp”; không nên liệt kê quá cụ thể các khoản chi vì Luật không thể liệt kê tất cả các hoạt động hết sức đa dạng của thực tiễn.

• Loại bỏ yêu cầu một số khoản chi bắt buộc phải thông qua “các tổ chức có chức năng huy động tài trợ” (vd, Nghị định 93/2009/NĐ-CP). Tập trung đầu mối xác nhận là tổ chức và cá nhân trực tiếp thụ hưởng hoặc đóng vai trò trung gian để sử dụng tài trợ giải quyết các vấn đề xã hội, miễn là các tổ chức và cá nhân này có địa vị pháp lý và tư cách pháp nhân rõ ràng.

• Có hướng dẫn trình tự, thủ tục và yêu cầu hạch toán, kế toán cụ thể đối với khoản chi tài trợ cho nghiên cứu khoa học.

• Bổ sung Quy chế quản lý tổ chức xét tôn vinh danh hiệu và trao giải thưởng cho doanh nhân và doanh nghiệp (Quyết định 51/2010/QĐ-TTg) theo hướng ưu tiên vinh danh các doanh nghiệp có các hoạt động từ thiện và đóng góp cho cộng đồng. Hình thành các giải thưởng ở cấp quốc gia, cấp tỉnh, thành phố để tôn vinh các doanh nghiệp tiêu biểu vì cộng đồng.

ØCác cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan (Cục phát triển doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn...), các cơ quan thuế các cấp, VCCI, và các hiệp hội doanh nghiệp nên xây dựng các chương trình truyền thông và phổ biến pháp luật liên quan đến từ thiện doanh nghiệp. Ví dụ, bổ sung trên các trang website của các cơ quan này chuyên mục riêng về phổ biến kiến thức pháp luật liên quan đến từ thiện doanh nghiệp; Soạn thảo sổ tay tổng hợp các điều khoản ưu đãi về thuế cho từ thiện doanh nghiệp và ban hành rộng rãi đến các doanh nghiệp và các tổ chức XHDS.

3. Tiếptụcnângcaonăng lực (vềpháttriểntổchức,quảntrị,nănglựcchuyênmôn,gâyquỹ…)chocáctổchứcXHDS

Kết quả cuộc khảo sát nhanh với một số các tổ chức phi chính phủ Việt Nam vào đầu năm 2014 do Trung tâm Nâng cao Năng lực Cộng đồng (CECEM) thực hiện cho thấy có rất ít các tổ chức PCPVN nhận được nguồn hỗ trợ và hợp tác từ các doanh nghiệp trong nước. Hơn thế nữa, một số tổ chức đang được doanh nghiệp hỗ trợ nhận xét rằng việc hợp tác với doanh nghiệp hoàn toàn không dễ, vì hai lý do chủ yếu – khó tiếp cận thông tin về cơ hội hợp tác với doanh nghiệp, và khó đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong quá trình xúc tiến việc hợp tác. Nhận định này phù hợp với kết quả phỏng vấn các doanh nghiệp trong nghiên cứu này.

Tất cả các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu đều thể hiện sự sẵn sàng hỗ trợ, hợp tác với các tổ chức XHDS vì mục đích cộng đồng. Các doanh nghiệp cho rằng, để có thể hợp tác, họ mong muốn: Hiểu rõ tôn chỉ, mục đích và các hoạt động của các tổ chức này; Có bằng chứng để tin vào tính minh bạch, hiệu quả của tổ chức; Uy tín của những người lãnh đạo Tổ chức được khẳng định; Có dự án/chương trình cụ thể; và Có kế hoạch hoạt động trung hạn phù hợp với mong muốn của công ty.

Để có thể hợp tác với khu vực doanh nghiệp, ngoài yếu tố truyền thông, tăng cường hiểu biết của cả hai bên như đã đề cập ở điểm trên, các tổ chức XHDS cần có đủ năng lực xây dựng và quản lý dự án, lập kế hoạch và năng lực chuyên môn thực hiện các dự án phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp.

Ngoài ra, một yếu tố quan trọng nữa ảnh hưởng đến hoạt động và huy động hợp tác, hỗ trợ từ khu vực doanh nghiệp là hoạt động của các tổ chức XHDS phải đảm bảo minh bạch, đặc biệt là minh bạch về tài chính. Quản lý tài chính minh bạch là một yếu tố rất quan trọng để tạo ra sự tin cậy và hợp tác bền vững giữa khu vực doanh nghiệp và khu vực XHDS. Các tổ chức XHDS tham gia nghiên cứu đều cho biết đơn vị mình tuân thủ đầy đủ chế độ quản lý tài chính và báo cáo. Tuy nhiên, khi rà soát văn bản và phỏng vấn các tổ chức cho thấy hiện còn thiếu các văn bản hướng dẫn, phổ biến về qui định thuế, quản lý tài chính, hạch toán kế toán cho các tổ chức XHDS. Và đây cũng là một trong những yếu tố góp phần làm cho sự hiểu biết về thuế, hoạch toán, kế toán, hóa đơn, chứng từ của đa phần các XHDS còn hạn chế.

Page 6: CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách - THÚC ĐẨY TỪ THIỆN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC GIỮA KHU VỰC

4. Hoàn thiện khung pháp lýđảmbảochokhuvựcXHDS(tấtcảcác loạihình)hoạtđộngmộtcáchchínhdanh,minh bạchvàbìnhđẳng

Do các yếu tố lịch sử và tính chất của thiết kế hệ thống chính trị của Việt Nam, đã hình thành một khung pháp lý trong đó các loại hình tổ chức xã hội được điều chỉnh riêng rẽ, bằng nhiều cấp độ văn bản pháp luật khác nhau. Quá trình nghiên cứu các văn bản pháp luật và chính sách liên quan đến 5 loại hình XHDS (Hội, tổ chức KHCN, các Quỹ xã hội/từ thiện, cơ sở BTXH, TCCĐ) và trao đổi, phỏng vấn với một số tổ chức XHDS, nhóm tư vấn có thể tóm tắt một vài nhận định chung như sau:

• Đối với Hội, Nghị định 45/2010/NĐ-CP đã thừa nhận quyền thành lập hội cho các tổ chức cộng đồng nếu có đủ điều kiện. Định nghĩa Hội cũng xác lập tính chất phi lợi nhuận của Hội. Địa vị pháp lý của Hội được xác định rõ ràng, có tư cách pháp nhân. Quyền hạn của Hội là đầy đủ và rộng rãi. Hội có quyền thu hút tất cả các nguồn lực cho hoạt động, kể cả nguồn vốn hỗ trợ và phát triển chính thức (ODA) (với tư cách là cơ quan chủ quản - theo Nghị định 38/2013/NĐ-CP về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA). Tuy nhiên, thủ tục thành lập quá phức tạp, ban chuẩn bị thành lập phải tự tìm cho mình “cơ quan quản lý, ngành, lĩnh vực hoạt động” tương ứng để xin phê chuẩn. Thời gian xem xét và phê chuẩn kéo dài. Quy định quản lý tài chính của Hội chỉ được ghi là “theo quy định của pháp

Các khuyến nghị:ØCác tổ chức PCPQT nên hỗ trợ triển khai việc “đánh giá nhu cầu đào tạo, nâng cao năng lực” cho các tổ chức

XHDS trong giai đoạn phát triển mới; không chỉ tập trung cho các tổ chức PCPVN mà mở rộng sang các đối tượng khác (các hội, các tổ chức cộng đồng....). Các tổ chức PCPVN, những tổ chức có cơ hội được hỗ trợ bởi các PCPQT, có đủ năng lực và kinh nghiệm hoạt động, nên trở thành nòng cốt cho việc nâng cao năng lực của các tổ chức XHDS khác. Các PCPVN này cần được khuyến khích hình thành và chủ trì các mạng lưới XHDS, mà nhiệm vụ chủ yếu là chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ nâng cao năng lực.

ØNhà nước nên khuyến khích các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp, các khóa khởi nghiệp tại các trường đại học thu hút và có chế độ giảm học phí cho các thành viên của các tổ chức XHDS trong các khóa học của mình, đặc biệt các khóa học liên quan đến quản trị tổ chức, quản trị tài chính, quản lý dự án. Cân nhắc việc hình thành một dạng quỹ hỗ trợ đào tạo cho các tổ chức XHDS để các tổ chức này có thể cử thành viên của mình theo học các khóa chuyên môn phục vụ cho phát triển tổ chức.

ØNhà nước nên khuyến khích và hỗ trợ việc chuyển đổi các cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện sang thành các Doanh nghiệp xã hội theo tinh thần Luật doanh nghiệp 2014 và Nghị định 96/2015/NĐ-CP. Cân nhắc việc xây dựng một Dự án tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật hoặc cung cấp tài chính cho các nhóm tư vấn đủ năng lực để giúp chuyển đổi các tổ chức này, hỗ trợ hoạt động trong thời gian đầu chuyển đổi, tổng kết các bài học kinh nghiệm và nhân rộng việc chuyển đổi.

luật”, nhưng thực chất là chưa có quy định nào liên quan. Trên đây là những bất cập trong chính sách gây ảnh hưởng đến sự phát triển của Hội.

• Các tổ chức khoa học công nghệ ngoài công lập được điều chỉnh bởi Luật khoa học và công nghệ năm 2013 và Nghị định 08/2014/NĐ-CP. Tuy nhiên, không có điều khoản nào khẳng định tính chất phi lợi nhuận của các tổ chức này, trong khi lĩnh vực và nội dung hoạt động lại bị hạn chế bởi Quyết định 97/QĐ/TTg. Hiện tại cũng chưa có quy định và hướng dẫn về chế độ thuế, chế độ chi tiêu, chế độ kế toán, thống kê cho các tổ chức này.

• Các Quỹ (xã hội và từ thiện) được điều chỉnh bởi Nghị định 30/2012/NĐ-CP, có địa vị pháp lý được xác định rõ ràng, có tư cách pháp nhân, là tổ chức phi chính phủ và phi lợi nhuận. Có quy định đầy đủ và rộng rãi về các nguồn thu của Quỹ. Các yêu cầu về quản lý tài chính cũng rõ ràng và chặt chẽ. Yêu cầu về vốn thành lập của Quỹ tăng lên đáng kể so với Nghị định trước đó (từ 2 tỉ lên 5 tỉ đối với các Quỹ hoạt động ở cấp quốc gia; từ 500 triệu lên 1 tỉ ở cấp địa phương) còn chưa phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn cho các tổ chức khi đăng ký thành lập Quỹ.

• Các cơ sở BTXH: Nghị định 81/2012/NĐ-CP là khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động của các cơ sở BTXH. Nghị định này không có điều khoản nào xác định địa vị pháp lý của Cơ sở BTXH. Nguồn thu của cơ sở BTXH được quy định đầy đủ và rộng rãi. Quy định quản lý tài chính được ghi là “theo quy định

Page 7: CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách - THÚC ĐẨY TỪ THIỆN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC GIỮA KHU VỰC

Quá trình hoàn thiện khung khổ pháp lý cho XHDS ở Việt Nam hiện nay được đánh dấu bằng việc Luật về Hội được đưa vào chương trình xây dựng Luật của Quốc hội khóa XIII (2011-2015). Nhiều kỳ vọng Luật về Hội sẽ tạo ra khung pháp lý đầy đủ, cởi mở và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của khu vực XHDS ở Việt Nam.

5. NghiêncứutiếptụcCác doanh nghiệp Việt Nam (với trên 500.000 doanh nghiệp hiện nay và mục tiêu của chính phủ sẽ đưa lên 1 triệu doanh nghiệp trong 5 năm tới) về cơ bản được phân chia thành bốn khu vực: các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tập đoàn lớn, tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp FDI. Kết quả của nghiên cứu này cũng như của các nghiên cứu khác cho thấy các khu vực doanh nghiệp có nhận thức về hoạt động xã hội, về xã hội dân sự khác nhau, có chính sách, hình thức và thói quen làm từ thiện doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu sử dụng phương pháp chính là rà soát tài liệu với số mẫu nghiên cứu sơ cấp hạn chế, chủ yếu với đối tượng tham gia là các doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần có các hình thức đóng góp từ thiện thường nhỏ lẻ, tự phát và trực tiếp. Do vậy, cần nghiên cứu tiếp tục để cung cấp những thông tin sâu và toàn diện hơn về

của pháp luật” thực chất là không có quy định. Hiện tại chưa có các hướng dẫn chi tiết về chế độ hoạch toán, kế toán, quản lý tài chính của các cơ sở này.

• Tổ chức cộng đồng (TCCĐ): Hiện nay, chưa có một khung pháp lý nào cho tổ chức và hoạt động của các Tổ chức cộng đồng. Nói khác đi, các tổ chức này đang hoạt động “ngoài vòng pháp luật”.

Ngoài ra, các tổ chức XHDS tham gia nghiên cứu đều cho thấy thực tế khó khăn trong thực thi các văn bản pháp luật hiện nay, đặc biệt liên quan việc cấp phép thành lập, do khung pháp lý chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thủ tục còn rườm rà, kéo dài gây khó dễ.

Nghiên cứu các văn bản pháp luật và chính sách về hoạt động viện trợ (ví dụ như Nghị định 93/2009/NĐ-CP về sử dụng viện trợ PCPNN hay Nghị định 38/2013/NĐ-CP về sử dụng vốn ODA) cũng như khảo sát thực tiễn về việc huy động nguồn lực từ khối doanh nghiệp đã chỉ ra rằng địa vị pháp lý rõ ràng và cơ chế hoạt động và quản lý tài chính minh bạch là hai điều kiện rất quan trọng đến hoạt động gây quỹ của các tổ chức XHDS. Tuy nhiên, trong số 5 loại hình tổ chức XHDS nêu trên, chỉ có các Quỹ (xã hội và từ thiện) có đồng thời cả hai điều kiện này. Các tổ chức còn lại hoặc có tư cách pháp lý nhưng chưa có quy định về quản lý tài chính (các Hội), hoặc chưa có cả hai (các tổ chức KHCN, cơ sở BTXH), hoặc chưa có khung pháp lý điều chỉnh (các tổ chức cộng đồng).

Các khuyến nghị:ØCác cơ quan của Quốc hội, Chính phủ nên khẩn trương hoàn thiện và ban hành Luật về Hội làm cơ sở pháp lý

quan trọng cho các tổ chức XHDS hoạt động. Các tổ chức XHDS nên tích cực tham gia vào việc vận động chính sách cho Luật về Hội để thúc đẩy quá trình hoàn thiện và ban hành của Luật này.

ØTrong khi chưa ban hành Luật về Hội, đề nghị Chính phủ rà soát, bổ sung và sửa đổi 4 nghị định điều chỉnh tổ chức và hoạt động của 4 loại hình tổ chức:

• Hội, hiệp hội (Nghị định 45/2010/NĐ-CP; Nghị định 33/2012/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 45): Đơn giản hóa các thủ tục chuẩn bị thành lập và thành lập hội; Cân nhắc bỏ “Cơ quan quản lý về ngành, lĩnh vực hoạt động” công nhận ban chuẩn bị thành lập Hội; Rút ngắn thời gian chứng nhận thành lập hội, thời gian công nhận điều lệ và người đứng đầu hội; Hướng dẫn thống nhất công tác hạch toán, kế toán và quản lý tài chính đối với Hội;

• Tổ chức KH&CN (Nghị định 08/2014/ NĐ-CP): Làm rõ tính chất phi lợi nhuận của các tổ chức này; Hướng dẫn chế độ quản lý tài chính, thuế, kế toán, hạch toán.

• Quỹ xã hội/quỹ từ thiện (Nghị định 30/2012/NĐ-CP): Xem xét giảm bớt quy định về tài sản đóng góp thành lập quỹ; Nâng tỷ lệ phần trăm chi phí cho hoạt động quản lý quỹ.

• Cơ sở BTXH (Nghị định 68/2008/NĐ-CP; Nghị định 81/2012/NĐ-CP bổ sung một số điều của Nghị định 68): Làm rõ khái niệm về cở sở BTXH, bao gồm cả những cơ sở chăm sóc nuôi dưỡng ban ngày (12/24 giờ mỗi ngày) và cơ sở chăm sóc nuôi dưỡng sinh sống tại cơ sở (24/24 giờ mỗi ngày); giao trách nhiệm cho chính quyền địa phương có chính sách ưu đãi về mặt bằng để đáp ứng về điều kiện cơ sở vật chất theo quy định.

ØRiêng đối với các TCCĐ, cần tiếp tục vận động chính sách để chính phủ sớm ban hành một văn bản cấp nghị định để tạo điều kiện các tổ chức này đăng ký hoạt động, có tư cách pháp nhân và đảm bảo hoạt động của các tổ chức này phù hợp với quy định pháp luật.

Page 8: CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH Đánh giá nhanh môi trường pháp lý và chính sách - THÚC ĐẨY TỪ THIỆN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC GIỮA KHU VỰC

Thiết kế và in ấn tại Công ty TNHH L.U.C.K H.O.U.S.E 276 đường Láng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam,

Web.: www.luckhouse-graphics.com I Tel.: 04.6266 1523 I Fax: 04.6266 2113In 250 tờ tiếng Việt và 250 tờ tiếng Anh quý II năm 2016

CÁCPHÁTHIỆNVÀKHUYẾNNGHỊCHÍNH

thực trạng, xu hướng đóng góp từ thiện và các rào cản thực thi chính sách trên thực tế của các loại hình doanh nghiệp khác nhau.

Ngoài các tổ chức XHDS là đối tượng của nghiên cứu này, còn có các tổ chức xã hội hiện hành khác, ví dụ như các tổ chức chính trị - xã hội, các hội đoàn thể – vốn được xem là những “tổ chức có đủ chức năng tiếp nhận tài trợ”. Các tổ chức này đang sở hữu và được tiếp nhận một nguồn lực to lớn của Nhà nước và cũng huy động được các nguồn lực không nhỏ từ doanh nghiệp và xã hội, một phần trong đó sử dụng cho các hoạt động từ thiện. Việc nghiên cứu sâu và toàn diện về các mặt mạnh/yếu, phương thức huy động, sử dụng tài trợ từ thiện của các tổ chức xã hội này, phân tích và so sánh hiệu quả huy động và sử dụng nguồn vốn của các loại hình tổ chức xã hội, đề xuất chính sách phân bổ nguồn vốn, phương thức hợp tác, cách thức hoàn thiện thể chế quản trị vv.. cũng là nhu cầu quan trọng đối với các cơ quan Chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội nói chung và các tổ chức XHDS nói riêng.

Sẽ là thiếu sót lớn nếu như các nghiên cứu liên quan chỉ dừng lại ở hai đối tượng là khu vực doanh nghiệp và khối XHDS. Như đã nói ở trên, bên cạnh hai nhóm đối tượng này, các cơ quan quản lý nhà nước cũng có một vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy từ thiện doanh nghiệp và hợp tác giữa khu vực XHDS và doanh nghiệp. Cụ thể, nghiên cứu tiếp tục phải xác định được các cơ quan quản lý của nhà nước có liên quan đến tiến trình này là những cơ quan nào? Họ có vai trò cụ thể như thế nào trong việc hoạch định và thực thi các chính sách cũng như thúc đẩy các hoạt động hợp tác giữa hai khu vực? Những bất cập nào còn tồn tại trong chính

sách quản lý và thực tiễn triển khai của các cơ quan này? Chỉ khi nào xác định rõ ràng được các mối quan hệ tương quan giữa ba nhóm tác nhân là nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức XHDS thì khi đó mới có hành động cụ thể và hiệu quả để thúc đẩy doanh nghiệp đóng góp cho phát triển cộng đồng.

Cuối cùng, các hình thức và tính hiệu quả của các mô hình hỗ trợ từ thiện vì mục tiêu phát triển cộng đồng cần phải được đánh giá từ góc độ của nhóm trực tiếp hưởng lợi. Nhóm đối tượng thụ hưởng trực tiếp các hỗ trợ từ doanh nghiệp và/hoặc thông qua chương trình hỗ trợ của các tổ chức XHDS là ai? Họ có đánh giá như thế nào về cách thức, tính hiệu quả và sự bền vững lâu dài của các nguồn hỗ trợ đó là hết sức quan trọng, giúp các bên quyết định được phải hành động như thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn hỗ trợ.

Kết quả từ nghiên cứu và thực tế cho thấy đã có nhiều thực tiễn trong đóng góp từ thiện doanh nghiệp và các mô hình hợp tác giữa doanh nghiệp và các tổ chức xã hội dân sự trong các chương trình nhân đạo và phát triển. Việc nghiên cứu, đánh giá và tài liệu hóa các sáng kiến và mô hình hợp tác này còn rất hạn chế và những thực tiễn và mô hình này cũng chưa được biết đến rộng rãi. Những bài học kinh nghiệm, đặc biệt là những kinh nghiệm trong giải quyết các khó khăn, thách thức trong hợp tác (do rào cản chính sách, sự khác biệt về cách thức quản trị… của hai khu vực) nên được tài liệu hóa và phổ biến để thúc đẩy thảo luận về những cải thiện giúp hoạt động từ thiện doanh nghiệp và hợp tác giữa hai khu vực hiệu quả hơn.

Các khuyến nghị:ØCác cơ quan và tổ chức có vai trò thúc đẩy hoạt động doanh nghiệp làm từ thiện và hợp tác với khu vực XHDS

cần tiếp tục có những nghiên cứu sâu và toàn diện hơn về: i) thực trạng, xu hướng làm từ thiện của các loại hình doanh nghiệp khác nhau, bao gồm cả các công ty và tập đoàn lớn của Nhà nước, ii) vai trò của các tổ chức XHDS, bao gồm cả các tổ chức xã hội do Nhà nước tài trợ, trong việc huy động và sử dụng nguồn tài trợ cho mục tiêu phát triển, iii) vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc hoạch định và triển khai các chính sách liên quan, và iv) cách thức, tính hiệu quả và sự bền vững của các nguồn hỗ trợ cũng phải được đánh giá dưới góc độ của các nhóm đối tượng hưởng lợi trực tiếp.

ØCần có đánh giá và tài liệu hóa các thực tiễn và mô hình hợp tác giữa doanh nghiệp và tổ chức XHDS trong các chương trình hỗ trợ phát triển cộng đồng, từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm và ví dụ điển hình để chia sẻ rộng rãi đến cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức XHDS cũng như tới công chúng và nhà hoạch định chính sách nhằm cải thiện môi trường chính sách và thúc đẩy việc áp dụng các mô hình, thực tiễn phù hợp và hiệu quả trong hợp tác giữa hai khu vực.

Báo cáo này được thực hiện với sự tài trợ của Cơ quan Viện trợ Ai-len.

Các phát hiện, giải thích và kết luận nêu trong báo cáo này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Cơ quan viện trợ Ai-len.