ĐỨC MARIA - hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đức Mẹ Đồng Công...
Transcript of ĐỨC MARIA - hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đức Mẹ Đồng Công...
1
HỌC VIỆN THẦN HỌC
HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA
ĐỨC MARIA
ĐẤNG ĐỒNG CÔNG CỨU CHUỘC NHÂN LOẠI
Luận Văn Tốt Nghiệp
Sinh Viên Thực Hiện
M. Gabriel Adolorata Trương Văn Hiến O. Cist
Giáo Sư Hướng Dẫn
Lm. M. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. Cist
Niên Khóa 2014-2018
2
3
Nhận Xét Của Giáo Sư Hướng Dẫn
Đức Maria có vai trò cao trọng và chỗ đứng đặc biệt trong chương trình cứu
độ của Thiên Chúa. Mẹ đã cộng tác đắc lực vào trong chương trình cứu độ nhân
loại, nên được xem như là “Đấng đồng công cứu chuộc” với Chúa Kitô, con Mẹ.
Nhưng Mẹ đã đồng công cứu chuộc như thế nào? Phải hiểu ra sao về vai trò đồng
công cứu chuộc của Mẹ trong tương quan với Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất?
Bài nghiên cứu của sinh viên về “Đức Maria, Đấng đồng công cứu chuộc nhân
loại” sẽ cho ta câu trả lời thỏa đáng.
Đề tài nghiên cứu này của sinh viên vừa rộng, vừa khó. Rộng vì có liên quan
đến ba lãnh vực chính là Kinh Thánh; thần học, cụ thể là Kitô học, Thánh mẫu học
và Giáo hội học; và tu đức. Khó là vì, mặc dù tước hiệu “đồng công cứu chuộc” này
của Đức Maria đã được các tín hữu sùng kính và tin nhận, nhưng huấn quyền Giáo
hội vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có quyết định chính thức nào, do đó, có nhiều tranh luận
thuận nghịch khác nhau về tước vị này. Trong phần nội dung, sinh viên cũng cho
độc giả thấy rõ những khó khăn này.
Nhìn chung, bài nghiên cứu của sinh viên rất thuyết phục và có giá trị. Về
phương pháp, sinh viên đã thực hiện theo đúng yêu cầu của phương pháp nghiên
cứu biên soạn: tài liệu nghiên cứu dồi dào phong phú, trích dẫn rõ ràng, lập luận
chặt chẽ và có sự liên kết từ đầu đến cuối giữa các phần với nhau.
Về nội dung, bài nghiên cứu của sinh viên rất sâu rộng, có những tư tưởng
mới, nhưng vẫn đi sát với đề tài. Chắc chắn là sinh viên đã bỏ nhiều công sức sưu
tầm và đọc nhiều tài liệu khác nhau. Nhất là biết suy tư, tổng hợp và chọn lọc các ý
tưởng hay cho bài nghiên cứu của mình. Đặc biệt, phần dẫn nhập, nhận định và kết
luận sinh viên viết rất thuyết phục.
Chúc mừng sinh viên đã suất sắc hoàn thành tiểu luận của mình.
Ngày....................... tháng ....................... năm 2018
Điểm:..................../.......................
Lm. M. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O.Cist
4
Lời Tri Ân
“Hãy Tạ Ơn Chúa Vì Chúa Nhân Từ”
“Muôn Ngàn Đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136,1).
Trong tâm tình yêu mến và biết ơn, con xin chân thành cảm ơn quý viện phụ, cách
riêng viện phụ Gioan Vianney Nguyễn Tri Phương, quý cha, quý thầy và toàn thể cộng
đoàn đan viện Châu Sơn đã ưu ái và tạo điều kiện cho con có cơ hội tiếp cận với những
môn học thánh trong những năm vừa qua.
Con chân thành cảm ơn quý cha trong ban giám đốc, quý cha, quý thầy và quý soeur
trong ban giáo sư đã truyền thụ cho con những kiến thức và những kinh nghiệm quý báu...,
để mỗi ngày con sống sung mãn hơn ơn gọi làm người và làm đan sĩ của Chúa.
Con đặc biệt tri ân cha Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh đã hướng dẫn anh em
chúng con bộ môn Thánh Mẫu Học. Qua những gì cha đã giảng dạy trong giáo trình, con
đã có một hứng khởi để chọn đề tài về Thánh Mẫu Học trong bài tiểu luận ra trường. Đặc
biệt với tinh thần yêu thương và trách nhiệm, cha còn tận tình hướng dẫn, đồng hành và
bảo trợ cho con đề tài nghiên cứu này.
Em xin chân thành cảm ơn tất cả quý anh trong Học viện Thần Học Xitô Thánh Gia,
đặc biệt quý anh trong niêm khóa 2014-2018, đã tận tình nâng đỡ và chia sẻ không những
đời sống chung mà còn cả những kinh nghiệm tâm linh và gương sáng trong những năm
em theo học tại học viện.
Tất cả tâm tình yêu mến và biết ơn, con xin dâng lên Chúa Ba Ngôi để nhờ lời chuyển
cầu của Mẹ Maria và cha thánh Giuse chúc lành và ban muôn ơn hồn xác trên quý viện phụ,
quý cha, quý soeur và tất cả quý thầy trong đại gia đình Hội Dòng Xitô Thánh Gia.
Con xin chân thành cảm tạ và biết ơn trong tình yêu của Chúa Kitô và Mẹ Maria.
Con: M. Gabriel Adolorata Trương Văn Hiến, O.Cist
5
Những Chữ Viết Tắt Trong Bài
Sách Thánh Kinh được viết tắt theo quy ước của nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh
Phụng vụ
GLHTCG: Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
LG: Hiến Chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân)
CGKPV: Các Giờ Kinh Phụng Vụ
Cđ: Công đồng
ĐGH: Đức giáo hoàng
Gm: giám mục
Lm: linh mục
Sr: soeur
Nt: Nữ tu
Tgk: tác giả khác
Sđd: Sách đã dẫn
Tr: Trang
6
Mục Lục
Dẫn Nhập ............................................................................................................................... 9
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 9
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 10
3. Ý nghĩa đề tài ........................................................................................................... 11
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 12
5. Bố cục của luận văn ................................................................................................. 13
6. Định nghĩa hạn từ và lịch sử vấn đề ......................................................................... 13
7. Giới hạn và độc giả .................................................................................................. 14
Chương I. Thánh Kinh Mạc Khải Sứ Vụ Của Đức Maria Trong Nhiệm Cục Cứu Độ ....... 15
I. Cựu ước tiên báo về một Người Nữ trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa .............. 15
1. Sáng kiến của Thiên Chúa qua tuyển chọn một “Người Nữ” cộng tác .................... 15
1.1. Lời tiên báo trong sách Sáng thế: người đàn bà chiến đấu với con rắn (St 3,15) .... 16
1.2. Lời tiên báo trong sách Isaia & Mikha: Người phụ nữ sinh con (Is 7,14; Mk 5,2) .. 18
1.3. Lời tiên báo về người đàn bà với chức năng làm mẹ của nhân loại mới (St 3,15) ... 19
2. Những phụ nữ Do Thái tiên trưng về sứ vụ của Đức Maria trước thế lực sự dữ ..... 21
2.1. Bà Giôkhevét - người “mẹ thiêng liêng” của dân tộc Israel (x. Xh 12,37) ....... 21
2.2. Bà Myriam với đặc trưng tín thác và cộng tác trong chương trình của Thiên Chúa 22
2.3. Bà Giuđitha đã chặt đầu tướng Holopherne (x. Gđt 10,4) ................................... 23
2.4. Bà Đêbôra chấm dứt mãnh lực của Sisara (x. Thp 5,7.24) ............................... 23
2.5. Bà Esther đã hạ gục được Haman, cứu dân của bà thoát chết (x. Et 15,1-5) ... 24
2.6. Bà mẹ anh hùng trong sách 2 Macabê .............................................................. 24
3. Những biểu tượng trong Cựu ước nói về Đức Maria trong kế hoạch của Thiên Chúa .... 26
3.1. Con tàu ông Noe ................................................................................................ 26
3.2. Chiếc thang Giacob ........................................................................................... 27
3.3. Hòm bia Giao ước ............................................................................................. 27
3.4. Đền thờ Giêrusalem ........................................................................................... 28
3.5. Núi Sinai (x. Xh 19 - 21 // Lc 1,26-38) .............................................................. 29
II. Vai trò Đức Maria trong sứ vụ Cứu thế của Chúa Kitô theo Tân ước ........................ 30
1. Đức Maria là “Người Đàn Bà” trong thư Galát (x. Gl 4,4)...................................... 30
1.1. Sự nối kết giữa “Người Đàn Bà” trong Gl 4,4 và trong St 3,15 ....................... 31
1.2. Ý nghĩa tín lý của bản văn Galát 4, 4 trong mối liên hệ với St 3,15 ................. 31
2. Đức Maria trong biến cố Truyền Tin (x. Lc 1,20-37) .............................................. 33
2.1. Đức Maria cộng tác trực tiếp trong mầu nhiệm Nhập Thể ............................... 35
7
2.2. Đức Maria bị lưỡi gươm đâm thâu (x. Lc 2,34-35) ........................................... 37
3. Đức Maria hiện diện dưới chân Thánh giá (x. Ga 19,25-27) ................................... 39
3.1. Đức Maria trong “Giờ” hiến tế ........................................................................ 40
3.2. Đức Maria hiện diện và hiệp thông cứu chuộc ................................................. 42
4. Đức Maria trong sách Khải huyền (x. Kh 12) .......................................................... 44
4.1. Đức Maria chiến đấu ......................................................................................... 46
4.2. Đức Maria chiến thắng...................................................................................... 47
Chương II. Lịch Sử Phát Triển “Giáo Lý” Về Đức Maria Đồng Công Trong Giáo Hội .... 49
I. Khái quát về thuật ngữ “Corredemptrix” và ý nghĩa của thuật ngữ ................................ 49
1. Nguồn gốc thuật ngữ “Đồng Công Cứu Chuộc - Corredemptrix” ........................... 50
2. Ý nghĩa của thuật ngữ “Corredemptrix” và những tranh luận ................................. 51
II. Giáo huấn các giáo phụ, các thánh và các nhà thần học, theo tiến trình lịch sử .......... 53
1. Từ thế kỷ I đến thế kỷ VIII, Đức Maria tương phản với bà Evà .............................. 54
2. Từ thế kỷ IX đến thế kỷ XVI, vai trò của Đức Maria trong biến cố đồi Calvê........ 57
3. Từ thế kỷ XVII - XIX, giáo thuyết về Đức Maria đồng công trong bối cảnh Tin lành ... 62
4. Thế kỷ XX, nhiều giáo thuyết chứng minh vai trò đồng công của Mẹ Maria ......... 66
III. Giáo huấn của Giáo Hội về vai trò “đồng công” của Đức Maria trong lịch sử .......... 67
1. Huấn quyền thời đức Bênêđictô XIV, đức Piô VII, đức Piô IX .............................. 68
2. Huấn quyền thời đức Lêô XIII, đức Piô X, đức Bênêđictô XV ............................... 69
3. Huấn quyền thời đức Piô XI, đức Piô XII, đức Gioan XXIII .................................. 70
4. Huấn quyền thời đức Phaolô VI và đức Gioan Phaolô II......................................... 72
5. Giáo huấn của công đồng Vaticanô II: Hiến chế Lumen Gentium .......................... 74
Chương III. Đức Maria Đồng Công Trong Suy Tư Thần Học ............................................ 76
I. Vai trò và đặc tính đồng công của Đức Maria .............................................................. 76
1. Vai trò đồng công của Đức Maria ............................................................................ 76
1.1. Đức Maria cộng tác vào ơn Cứu chuộc khách quan và ơn Cứu chuộc chủ quan .... 77
1.2. Hiệu quả do sự đồng công cộng tác của Đức Maria ......................................... 78
2. Đặc tính vai trò đồng công của Đức Maria .............................................................. 79
2.1. Đức Maria ưng thuận và hiến dâng .................................................................. 79
2.2. Mẹ Chúa Kitô đại diện loài người ..................................................................... 80
2.3. Mối tương quan của Mẹ Maria với Chúa Kitô trong sứ mạng đồng công ........ 81
3. Sự hài hòa vai trò đồng công của Đức Maria với công trình của Chúa Kitô ........... 82
3.1. Đức Maria cộng tác cách thể lý và luân lý........................................................ 82
3.2. Đức Maria cộng tác do lời cầu nguyện và công nghiệp của Mẹ ....................... 83
8
3.3. Đức Maria cộng tác qua việc thông phần với công nghiệp của Chúa Kitô ....... 84
II. Sứ mạng đồng công của Đức Maria ............................................................................ 85
1. Nguyên lý sứ mạng đồng công của Đức Maria ........................................................ 85
1.1. Nguyên lý Đức Maria là Mẹ Chúa Cứu Thế ..................................................... 85
1.2. Nguyên lý Đức Maria là Tân Evà ...................................................................... 86
2. Chỗ đứng của Mẹ Maria trong công trình cứu rỗi ................................................... 87
2.1. Chúa Kitô gồm tóm nhân loại trong Mẹ Maria ................................................. 87
2.2. Mẹ Maria đóng vai toàn thể nhân loại .............................................................. 88
2.3. Mẹ Maria khước từ quyền làm Mẹ trong sứ mạng đồng công .......................... 89
III. Cuộc đồng thụ nạn và công trạng của Mẹ Maria ....................................................... 91
1. Cuộc đồng thụ nạn của Đức Maria ........................................................................... 92
1.1. Mẹ Maria có phải chịu khổ đau không? ............................................................ 92
1.2. Mẹ Maria có thực sự đồng thụ nạn với Chúa? .................................................. 93
1.3. Những cách thế Mẹ đồng thụ nạn ...................................................................... 93
2. Mẹ Maria hợp tác với Chúa Kitô theo công trạng của Mẹ ....................................... 95
2.1. Nền tảng công trạng của Mẹ Maria là gì ? ....................................................... 96
2.2. Đâu là đối tượng công nghiệp của Đức Maria ? .............................................. 96
2.3. Tính cách công nghiệp của Mẹ là gì ?............................................................... 97
IV. Một Vài Nhận Định Chung ....................................................................................... 99
1. Vai trò của đồng công của Đức Maria có cần thiết không ? .................................... 99
2. Ý nghĩa chính xác về sứ mạng đồng công của Đức Maria..................................... 101
3. Ý nghĩa thích đáng công trạng của Mẹ so với công nghiệp của Chúa Kitô ........... 103
Kết Luận ............................................................................................................................ 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 108
9
Dẫn Nhập
1. Lý do chọn đề tài
Qua các dữ liệu mà các phương tiện truyền thông cung cấp, một trong những khủng
hoảng trầm trọng nhất của xã hội thời nay chính là “khủng hoảng” về ý nghĩa cuộc sống nơi
rất nhiều người, thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Những người tha thiết với vận mạng của
nhân loại cho đây là sự sa sút trầm trọng.1 Bên cạnh đó, trong xã hội còn có những người
không còn “chất người”2... Người ta tự mâu thuẫn với chính mình, với tha nhân, với những
thực tại xung quanh,... dễ dàng thỏa hiệp với tội lỗi, muốn hợp pháp hóa tội lỗi như phá thai,
hôn nhân đồng tính,... không quan tâm đến những thực tại siêu việt, không theo đuổi giá trị
nào khác ngoài tiền bạc, danh vọng quyền lực...3 Đức Bênêđictô XVI trong tư cách là một
nhà thần học đã nhắc lại lời chất vấn của Hans Urs von Balthasar: “Dường như con người
thời nay đã bị cắt dây gân rồi, vì thế họ không còn chạy về hướng mục đích gốc nữa, dường
như đôi cánh của họ đã bị cắt, dường như ý thức linh thánh về siêu việt đã khô héo. Làm sao
chuyện này lại xảy ra như thế?”4 Thật vậy, kinh nghiệm của ngôn sứ Amos và Hôsê trong
Cựu ước cho thấy: tất cả sự khủng hoảng đáng sợ của con người hiện nay hệ tại từ sự đổ vỡ
trong tương quan đối với chính Thiên Chúa - Đấng Sáng Tạo và là Chủ Tể của lịch sử.5
Khởi đi từ những tình cảnh đáng buồn và đau thương hiện nay, bài viết muốn làm sáng
lên dung mạo của Đức Maria - Đấng “đồng công” cứu chuộc, để mời gọi mọi người, đặc biệt
là các tu sĩ nam nữ trong ơn gọi và sứ vụ của mình, noi gương Đức Maria cộng tác với Chúa
Kitô để cứu vớt thế giới, nhất là qua chứng tá đời sống của mình có thể đánh thức nhân loại,6
mời gọi mọi người trở về với Thiên Chúa - Đấng không biết mệt mỏi tha thứ cho con người.
Bên cạnh đó, đề tài muốn gắn kết mọi người với Đức Maria - Mẹ của nhân loại và Mẹ mỗi
người chúng ta, để nhờ Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ, chúng ta tôn thờ yêu mến và sống tình con
thảo với Chúa Ba Ngôi. Thật vậy, “chúng ta sẽ phạm phải một sai lầm lớn nếu không dành chỗ
cho Mẹ trong đời sống thiêng liêng của chúng ta. Thật là nguy hiểm nếu chúng ta không hiểu
được vai trò của Mẹ Maria trong cuộc đời Chúa Giêsu và trong cuộc đời chúng ta.”7
1 x. Ban Việt Ngữ Đài Phát Thánh Chân Lý Á Châu, Lẽ Sống (Malina: Northern, 1991), tr. 161. 2 x. Sr. Tichla Trần Thị Giồng, C. N. D, “Tâm Lý Học-Trưởng Thành Nhân Cách Đời Tu” Học Viện Thần
Học Cở Sở II, 2017 [CD-ROM]. 3 x. Sr. Tichla Trần Thị Giồng, C. N. D, “Tâm Lý Học - Trưởng Thành Nhân Cách Đời Tu” Học Viện Thần
Học Cở Sở II, 2017 [CD-ROM]. 4 Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa Ở Gần Chúng Ta, bản dịch: Nguyễn Luật Khoa,
O.F.M (TP HCM: Phương Đông, 2008), tr. 161. 5 x. Lm. Nguyễn Thể Hiện, CSsR, “Sách Các Ngôn Sứ”, Học Viện Thần Học Xitô, 2015 [CD-ROM]. 6 x. Samuel H. Canilang, C. M. F, “Hãy Đánh Thức Thế Giới”, chuyển ngữ: Nt. Maria Vũ Thị Thu Thủy (Hà
Nội: Tôn Giáo, 2016), tr. 81. 7 Basil Hume, O. S. B, Tìm Kiếm Thiên Chúa, chuyển ngữ: Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên, O. Cist (Hà
Nội: Tôn Giáo, 2009), tr. 203.
10
Mặt khác, năm 2017, Giáo Hội mừng kỷ niệm một trăm năm, Đức Mẹ hiện ra tại Fatima,
nhắc nhở nhân loại ăn năn sám hối trở về với Thiên Chúa. Thật vậy, đức Gioan XXIII đã từng lên
tiếng rất mạnh mẽ: “Người ta không thể làm người mà không có luân lý đạo đức. Người ta không
thể làm Kitô hữu mà không có lòng ăn năn hoán cải và đền bù tội lỗi.”8 Như thế, lời mời gọi của
Mẹ: Người bảo gì các con hãy làm như vậy? (x. Ga 2,5) và sứ điệp Fatima, lúc này khẩn thiết hơn
bao giờ hết, vì “được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16,26).
Bên cạnh đó, lòng yêu mến đối với sự thánh thiện, sự uy quyền và nhất là những nỗi
thống khổ của Mẹ Maria cũng là lý do để người viết chọn đề tài này làm luận văn nghiên cứu
của mình, bởi vì nói như đức Phaolô VI: “Chúng ta không thể là Công giáo mà lại không có
Mẹ Maria được.”9 Thật vậy, Đức Maria vừa là Trinh nữ vừa là Mẹ, bởi vì Mẹ là hình ảnh
của Hội Thánh, là sự thể hiện toàn hảo nhất của Giáo Hội.10 Mẹ “trổi vượt tất cả chúng ta về
sự thánh thiện, vốn là mầu nhiệm của Hội Thánh, như một Hiền Thê không tỳ ố, không vết
nhăn”11 (x. Ep 5,27). Do đó, Mẹ có chỗ đứng đặc biệt trước tôn nhan Thiên Chúa, trong mỗi
chúng ta và vì phần rỗi chúng ta. “Mẹ hoàn toàn sống cho Chúa Giêsu, sứ mệnh của Mẹ là
đồng công cứu chuộc với Chúa Giêsu… Tất cả vinh dự của Mẹ là do nơi Chúa Giêsu. Mẹ
không là gì cả nếu Con Mẹ không phải là Chúa Giêsu, nếu cả cuộc đời của Mẹ không dành
trọn cho Chúa Giêsu.”12 Như thế, với tất cả các lý do trên, đề tài “Đức Maria Đồng công
Cứu chuộc” có thể vẫn là vấn đề cũ nhưng thực sự là một lời mời gọi mọi người chất vấn lại
thái độ sống của chúng ta trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa và của Mẹ chúng ta.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Khi bắt đầu nghiên cứu đề tài, người viết đã được khuyến cáo, sẽ đi vào những vấn đề
quá rộng lớn và cũng rất nhạy cảm trong bối cảnh hiện nay. Ngày 07/4/2017, văn phòng
Dòng Đồng Công (Tên cũ) ra thông báo: Tòa Thánh, qua Bộ Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc, đã
khuyến nghị Hội Dòng (Đồng công) đổi tên, vì lý do từ “Corredemptrix” (Đồng công) theo
thần học không được rõ nghĩa, và đề nghị danh hiệu: Congregation of the Mother of the
Redeemer (Dòng Mẹ Chúa Cứu chuộc) thay thế cho danh hiệu “Dòng Đức Mẹ Đồng Công
Cứu Chuộc”.13 Thực sự, hai từ “Đồng công Cứu chuộc – Corredemptrix” và “Mẹ Chúa Cứu
chuộc” là hai thuật ngữ khác nhau: về nguồn gốc và ý nghĩa. Vì thế, đề tài này có mục đích
8 Lm. J. B. Nguyễn Hữu Thy, Sứ Điệp Fatima: kỷ niệm 90 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, tái bản lần thứ
hai, 2011, tr. 92-93. 9 Đức cha Miguel Cabujos Vidate, Sứ điệp của Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria gửi các linh mục, chuyển
ngữ: Lm. Tôn Văn An (TP HCM: Đông Phương, 2008), tr. 24. 10 GLHTCG, bản dịch của ủy ban Giáo lý Đức tin (Hà Nội: Tôn Giáo, 2017), số 507. 11 Sđd., số 773. 12 x. Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 936. 13 x. Thông báo thay đổi tên Dòng-Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc-CRM, https://dongcong.us/thong-bao-thay-
doi-ten-dong-dong-me-chua-cuu-chuoc-crm/. Truy cập ngày 15/11/2017.
11
thật nhỏ bé là “đọc lại” lịch sử “giáo lý” về Đức Maria trong nhiệm cục cứu chuộc của Chúa
Cứu Thế. Liệu lòng sùng kính đối với Mẹ Đồng công có làm giảm địa vị tối cao và độc nhất
của Ngôi Lời Nhập Thể hay không? Qua việc “tìm về nguồn”, bài viết muốn mời gọi mọi
người chiêm ngắm tình yêu, sự hy sinh cao cả mà Mẹ Maria đã dành cho phần rỗi chúng ta.
Trong cuộc đời của Mẹ, chắc chắn nhiều lần Mẹ đã thưa cùng Chúa Cha: “Totus Tuus”, mọi
sự thuộc về Chúa, như đức Gioan Phaolô II hằng thưa cùng Mẹ: “Totus Tuus: Tất cả đời con
là của Mẹ.”14 Vì thế, chúng ta được mời gọi: hãy biết ơn, yêu mến và gắn bó với Mẹ, để Mẹ
dẫn chúng ta đến cùng Chúa Giêsu - Con Mẹ, là cứu cánh duy nhất của ơn gọi làm người và
làm con Chúa. Đây không phải là sáng kiến của người viết nhưng là những kinh nghiệm quý
báu của các bậc đáng kính trong Giáo Hội. Nếu như thánh Gioan Vianney nói: “Mối tình đầu
của tôi là Mẹ Maria” thì với đức hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, “nghe Mẹ sẽ không
lầm lạc, hoạt động vì Mẹ sẽ không thất bại, làm vinh danh Mẹ sẽ được sự sống đời đời.”15
Mục đích của bài viết còn có một tham vọng nữa: nếu có thể, chúng ta phải trình bày
“giáo lý” về Mẹ Đồng Công như thế nào đó, để cho dễ hiểu, nhất là trong bối cảnh mới của
ngày hôm nay. Thật sự đây là công việc khó khăn, đòi hỏi phải có chuyên môn, thời gian và
nhất là sự can đảm. Đức hồng y Lépicier xác quyết rằng: “Chúng ta không thể nhận biết Chúa
Ba Ngôi là Đấng Cứu chuộc tiên khởi của chúng ta, nếu chúng ta không nhận biết Chúa Kitô
trực tiếp cứu chuộc chúng ta. Cũng thế, chúng ta không thể hiểu biết đích xác công việc phục
hồi của Con Thiên Chúa, nếu chúng ta không hiểu biết Đức Mẹ cộng tác vào công việc này.”16
3. Ý nghĩa đề tài
Trong chiều hướng đại kết, công đồng Vaticanô II mặc dù không minh nhiên nhắc
đến danh từ “đồng công” nhưng đã trình bày: Đức Maria đã phục vụ mầu nhiệm Cứu
chuộc, dưới quyền và cùng với Con của Ngài. Thiên Chúa đã để Mẹ tự do cộng tác vào
việc cứu rỗi nhân loại. Mẹ đã đau đớn chịu khổ cực với Con và dự phần vào Hy lễ của Con
Mẹ, với tấm lòng của một người mẹ, hết tình ưng thuận hiến tế “Lễ vật” do lòng mình sinh
ra.17 Vì thế, Đức Maria Đồng công cứu chuộc là “một tước phẩm chỉ sự kiện Đức Mẹ đã
tích cực tham gia vào công cuộc cứu chuộc.”18 Trong Phụng vụ, khi cử hành lễ kính bảy sự
thương khó Đức Mẹ, Hội Thánh thường nhắc đến sự đồng công cứu chuộc của Đức Trinh
Nữ Maria, bởi vì Mẹ đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô
lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên Thập giá.19
14 x. Lm. Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria trong Kinh nguyện của Giáo Hội (Trier, 2006), tr. 76. 15 Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng, tr. 513. 16 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 90. 17 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 56 & 58. 18 Trần Khắc Khoan, Học Thuyết Đức Trinh Nữ Maria: Để tìm hiểu Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ, tr. 297. 19 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 61.
12
Trong những vấn đề liên quan đến Thánh Mẫu học, đối với các vị giáo hoàng, “sự
cộng tác của Đức Maria vào ơn cứu độ được coi là then chốt nổi bật nhất trong giáo
huấn của các giáo hoàng.” Thật vậy, theo thánh Enrêđô, trước kia, “tất cả chúng ta đều
đã sống trong tình trạng hư vong, cũ kỹ, tối tăm và khốn cùng: hư vong vì chúng ta đã
đánh mất Chúa, cũ kỹ vì chúng ta rơi vào hư hoại, tối tăm vì đã làm mất ánh sáng khôn
ngoan, và như thế, nói tóm lại chúng ta đã chết,”20 nhưng nhờ Đức Maria, chúng ta “đã
lãnh nhận sự sống cao quý gấp bội so với sự sống chúng ta đã lãnh nhận từ bà Evà, vì
chính Đức Mẹ đã hạ sinh Chúa Kitô. Thay vì cái cũ, chúng ta lại nhận được cái mới,
thay vì hư hoại lại được bất hoại, thay vì tối tăm lại được ánh sáng.”21 Như thế, Đức
Maria là Mẹ chúng ta. Mẹ đem lại sự sống và sự bất hoại cho chúng ta. Mẹ đem lại ánh
sáng, sự khôn ngoan, ơn công chính, ơn thánh hóa và ơn giải thoát cho chúng ta,22 và
cũng với “tư cách là Mẹ, Đức Maria bênh chữa con cái mình và bảo vệ chúng khỏi sự
độc hại mà tội lỗi chúng gây ra”23. Như vậy, đề tài muốn nói về vị trí, vai trò và sứ vụ
của Mẹ Maria trong công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô. Mẹ đã cộng tác cách đắc lực
trong việc phục hồi nhân loại trong đau khổ cùng với Chúa Kitô. Mặc dù chỉ là một thụ
tạo, nhưng Đức Maria có vị trí đặc biệt trong sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa và Mẹ
cũng đáp trả một cách tuyệt đối trước lời mời gọi của Ngài, vì phần rỗi nhân loại.
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, người viết sử dụng các nguồn tài liệu chính sau: các sách
Thánh Kinh Tân - Cựu ước, với các bản dịch khác nhau; các bài giảng của các giáo phụ và
các thánh được sử dụng trong Phụng vụ Giờ kinh; các văn kiện của Giáo Hội về Đức Maria,
các bài huấn giáo của các vị giáo hoàng; giáo trình Thánh Mẫu học của Lm. Vinhsơn Liêm
Nguyễn Hồng Thanh; các sách nghiên cứu; các sách được dịch thuật về Đức Maria… Đặc
biệt nhất phải kể đến công trình nghiên cứu hết sức khách quan của cha Phêrô M. Ngô Châu
Minh, trong tác phẩm “Mẹ Maria Đồng Công, Trung Gian & Trạng Sư” xuất bản năm 2004.
Mặc dù, đã sử dụng với hơn một trăm nguồn tài liệu khác nhau và hầu hết là các sách Việt
ngữ, nhưng đề tài thực chất chỉ là việc “đọc lại” có chọn lọc, rồi tổng hợp và phân tích “giáo lý”
về Mẹ Đồng công trong lịch sử của Giáo Hội, trong nhãn giới Kitô học và Giáo Hội học. Bài viết
cũng dựa vào thế giá của huấn quyền trong lịch sử để bênh vực cho tước hiệu đồng công của
Đức Maria. Trong nghiên cứu này, người viết đã cố gắng gạt ra bên ngoài những tình cảm ủy mị
20 Thánh Enrêđô, Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, quyển 2 (Hà Nội: Tôn Giáo, 2008), tr. 1201. 21 Sđd., tr. 1201. 22 x. Sđd., tr. 1202. 23 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 61.
13
thiếu khách quan nhưng nhấn mạnh đến cảm thức đức tin đã có trong Giáo Hội, nhất là những
giáo huấn của các vị giáo hoàng và các thánh, bênh vực về tước hiệu Mẹ Đồng Công.
5. Bố cục của luận văn
Được đặt nền trên Thánh Kinh và huấn quyền của Giáo Hội, bài nghiên cứu được trình
bày với ba chương chính, trong đó những dữ liệu từ Thánh Kinh (chương I), huấn quyền của
Giáo Hội và “giáo lý” của các thánh (chương II) và những suy tư thần học (chương III) được
sử dụng để bênh vực cho đề tài. Bài viết được trình bày theo tiến trình sau:
Chương I: “Thánh Kinh Mạc Khải Sứ Vụ Của Đức Maria Trong Nhiệm Cục Cứu Độ.” Trước
tiên, Cựu ước tiên báo vai trò của Đức Maria trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa (I): Đức Maria
đã được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ ban đầu và hình ảnh của Mẹ đã được tiên báo qua một số
nhân vật nữ giới trong Cựu ước và các biểu tượng trong Cựu ước. Tiếp theo, một số bản văn Tân ước
quan trọng trình bày vai trò của Đức Maria trong sứ vụ Cứu thế của Chúa Kitô (II).
Chương II: “Lịch Sử Phát Triển “Giáo Lý” Về Đức Maria Đồng Công Trong Giáo
Hội.” Với chương này, đề tài trình bày lịch sử và ý nghĩa của thuật ngữ “Đồng Công Cứu
Chuộc – Corredemptrix”, với những tư tưởng ủng hộ và cả những lập trường chống đối.
Tiếp đến là lịch sử phát triển “giáo lý” về Đức Maria Đồng công. Đây là tổng hợp những
suy tư có thế giá trong Giáo Hội, từ các vị giáo hoàng, đến các thánh và các nhà thần học
danh tiếng. Mặc dù được chia ra những giai đoạn nhỏ trong lịch sử nhưng đề tài chỉ đưa ra
những lý chứng bênh vực cho tước hiệu Mẹ Đồng công đã có trong lịch sử suy tư thần học.
Chương III: “Đức Maria Đồng Công Trong Suy Tư Thần Học.” Ở chương này, bài
viết tổng hợp những suy tư của các nhà thần học trong những chiều kích đặc thù: đâu là vai
trò và đặc tính Đồng công của Đức Maria? Sứ mạng Đồng công của Đức Maria là gì? Cuối
cùng, cuộc đồng thụ nạn và công trạng của Đức Maria? Phần này, đề tài kết nối giữa
Thánh Mẫu học với Kitô học, để làm sáng lên vị thế của Mẹ Maria trong công trình của
Chúa Kitô. Cũng trong chương này, người viết đưa ra một vài nhận định chung cho cả bài.
6. Định nghĩa hạn từ và lịch sử vấn đề
Đề tài không phải là một nghiên cứu hoàn toàn mới nhưng đã có một bề dày lịch
sử, có người bênh vực và cũng không thiếu những người chống đối. Đây là vấn đề tương
đối khó, còn nhiều tranh cãi về tính hàm hồ của thuật ngữ “Đồng Công Cứu Chuộc –
Corredemptrix.” Vì thế, xin được trình bày kỹ và chi tiết hơn ở trong phần I của chương
II. Tuy nhiên, là con cái của Giáo Hội, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta được
mời gọi tiếp tục đào sâu suy tư để tìm ra chân lý đích thực về Mẹ Đồng Công.
14
7. Giới hạn và độc giả
Khi nói về Đức Maria, thánh Bênađô đã từng thốt lên: “Nói về Mẹ thì không bao
giờ là đủ được - De Maria nunquam satis.”24 Chính vì thế, khi chọn lựa đề tài này, bản
thân tự cảm thấy liều lĩnh, dám mạo hiểm đi vào những vấn đề quá rộng lớn và còn
đang tranh cãi nhiều. Vẫn biết rằng một bài tiểu luận nhỏ không nói lên được hết mọi
khía cạnh của vấn đề, nhưng thiết nghĩ đây lại là đề tài rất quan trọng đối với bản thân
và con người thời nay, khi người ta có vẻ hạ thấp vai trò của Đức Maria trong công
cuộc cứu chuộc nhân loại và muốn tách nhân loại ra khỏi tình mẫu tử của Mẹ.
Trong giai đoạn các nhà thần học còn tranh luận nhiều về tước hiệu Đức Mẹ Đồng
Công và trong giới hạn của bản thân về ngoại ngữ, về thời gian, về sách vở, đề tài không
đưa ra một nghiên cứu mới hoặc có ý đi trước giáo huấn của Giáo Hội, nhưng chỉ là một
nghiên cứu có tính cách tổng hợp để làm sáng lên vai trò cộng tác của Đức Maria trong
công trình cứu độ mà Con của Mẹ đã thực hiện. Thực ra, chính thánh Phaolô cũng đã nói:
“Chúng tôi là những cộng sự viên của Chúa” (1Cr 3,9). Tuy nhiên, vai trò của Đức Maria
thì mang một ý nghĩa khác: “Đối với Đức Maria, danh từ cộng tác mang một ý nghĩa riêng
biệt. Sự cộng tác của các tín hữu trong công trình Cứu độ diễn ra sau biến cố Calvê […]
Còn sự cộng tác của Đức Maria thì diễn ra trong biến cố Calvê và với danh nghĩa của bà
mẹ, do đó nó trải rộng ra toàn thể công trình Cứu chuộc của Chúa Kitô […] Sự tham gia
của Thân Mẫu Đấng Cứu Thế vào công trình Cứu chuộc nhân loại là một sự kiện duy nhất
và vô tiền khoáng hậu.”25 Như thế, đề tài còn là một lời mời gọi: hãy dừng lại trong thinh
lặng để cảm nghiệm về tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người qua những
khốn khổ mà Chúa Kitô và Đức Mẹ đã chịu thay cho chúng ta, để hoán cải và sống tâm
tình biết ơn cảm tạ. Chân phúc Enrêđi mời gọi và khuyến cáo: “Chúng ta có bổn phận tôn
vinh Mẹ, yêu mến Mẹ và ca ngợi Mẹ. Chúng ta phải tôn vinh Mẹ vì Mẹ là Thân Mẫu của
Chúa chúng ta. Ai không tôn kính bà mẹ, thì chắc chắn cũng chẳng kính trọng người
con.”26 Càng yêu Mẹ Maria chúng ta càng làm đẹp lòng Chúa vì chính Chúa Kitô đã yêu
Mẹ ngay từ ban đầu và chính Chúa đã cư ngụ trong Mẹ và trở nên người con thật sự của
Mẹ, vì thế, khi chúng ta yêu mến Mẹ Maria là chúng ta trở nên giống Chúa Kitô.27
24 Radio Veritas, Bước Theo Chân Mẹ - Những bài suy niệm về Đức Maria của Đài chân lý Á Châu, tr. 05. 25 x. ĐGH. Gioan Phaolô II, Những Bài Huấn Giáo Về Đức Maria (1999), tr. 184-185. 26 Thánh Enrêđô, Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, quyển 2, tr. 1201. 27 x. ĐGH. Gioan Phaolô II, 70 Bài Giáo Lý Về Đức Maria, chuyển ngữ: Lm. Phêrô Nguyễn Quang Sách.
Lưu hành nội bộ, tr. 141.
15
Chương I
Thánh Kinh Mạc Khải Sứ Vụ Của Đức Maria
Trong Nhiệm Cục Cứu Độ
Công đồng Vaticanô II trong hiến chế về Giáo Hội đã khẳng định: “Thánh Kinh
Cựu ước cũng như Tân ước, và Thánh Truyền đáng kính, trình bày ngày một sáng tỏ
hơn vai trò của Mẹ Đấng Cứu Thế trong nhiệm cuộc cứu rỗi và đưa vai trò ấy ra cho
chúng ta chiêm ngắm […] Các tài liệu tiên khởi này, như Giáo Hội vẫn đọc và hiểu
theo ánh sáng mạc khải trọn vẹn, dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh của người nữ,
Mẹ Đấng Cứu Thế”28. Như thế, công đồng mời gọi chúng ta, ngược lại lịch sử để chiêm
ngắm dung mạo của Đức Maria đã được Cựu ước tiên báo, như là kế hoạch ngàn đời
của Thiên Chúa được mạc khải một cách tiệm tiến trong lịch sử Cứu độ.
I. Cựu ước tiên báo về một Người Nữ trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
Ngôi Lời Thiên Chúa vốn không có khởi đầu và cũng không có kết thúc (x. Ga 1,1-
18), nhưng vì tình yêu vô biên, Ngài đã bước vào lịch sử của chúng ta, sống và chết như
một con người, để cứu chuộc nhân loại và canh tân thế giới. Hành vi cứu chuộc củaThiên
Chúa vừa vĩnh cửu, vừa trong thời gian. “Vĩnh cửu” vì từ đời đời, Thiên Chúa đã biết
nguyên tổ sẽ phạm tội, và do lòng thương xót vô biên, Ngài đã có sáng kiến cứu độ.29 Rồi
trong thời gian, Thiên Chúa phải dự liệu cho Con của Ngài một người mẹ, bởi vì để thực
sự là người thì yếu tố không thể thiếu, “người đó” phải được sinh ra từ một bà mẹ. Chính
vì thế, ngay khi Thiên Chúa có sáng kiến cứu độ thì Đức Maria đã được kén chọn và
Thiên Chúa cũng phải dự liệu để người mẹ này xứng đáng cộng tác với Con của Ngài
cứu độ thế giới.30 Như thế, sau Đức Giêsu Kitô, “Đức Maria thành Nazareth là nhân vật
chính trong lịch sử”31. Đức Maria đã được Thánh Kinh tiên báo qua các lời tiên tri trong
Cựu ước; không những thế, hình ảnh của Mẹ còn được vén mở qua những chân dung là
các người phụ nữ Do Thái; các biểu tượng quen thuộc trong Cựu ước cũng nói lên vị thế
cao cả của Đức Maria trước mặt Thiên Chúa và trước toàn thể vũ trụ vạn vật.
1. Sáng kiến của Thiên Chúa qua tuyển chọn một “Người Nữ”cộng tác
Theo giáo huấn của công đồng Vaticanô II, các sách Cựu ước thuật lại lịch sử Thiên
Chúa cứu độ con người, trong đó ngày Chúa Kitô xuất hiện trên thế giới được chuẩn bị
28 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 55. 29x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Mẹ Maria Đồng Công-Trung Gian-Trạng Sư , tr. 147. 30 x. E. Neubert, Đức Maria trong Tín Lý, chuyển ngữ: Lm. Bùi Quang Trung (1952), tr. 23. 31 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 147.
16
một cách tiệm tiến.32 Thánh Kinh Cựu ước cũng “dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh
người nữ, Mẹ Ðấng Cứu Thế. Theo nguồn sáng mạc khải, người nữ ấy đã được tiên báo
trong lời hứa chiến thắng con rắn, lời hứa nguyên tổ đã nhận được sau khi phạm tội (x. St
3,15). Cũng thế, ngài là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai tên là Emmanuel (x. Is 7,14;
x. Mk 5,2-3; Mt 1,22-23).”33 Như thế, trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ, Đức Maria được
Thiên Chúa tạo dựng, tuyển chọn, gìn giữ… để có thể thực thi thánh ý nhiệm mầu của
Thiên Chúa trong việc cứu độ nhân loại hay nói theo tư tưởng của Hermans, “Thánh ý
muôn đời của Thiên Chúa là nguyên lý nền tảng sứ mạng Đồng công của Mẹ”34.
1.1. Lời tiên báo trong sách Sáng thế: người đàn bà chiến đấu với con rắn (St 3,15)
Nếu như ông bà nguyên tổ đã “cộng tác” trong việc “chống lại” Thiên Chúa thì với lòng
thương xót vô hạn, Ngài đã có ngay chương trình cứu độ nhân loại. Tuy nhiên, Thiên Chúa
không cứu độ một cách đơn độc nhưng mời gọi chính con người cộng tác. Sáng kiến này của
Thiên Chúa đã được Thánh Kinh mạc khải ngay trong những chương đầu của sách Sáng thế:
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;
dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Như thế, “Thiên Chúa
đã cho thấy trước công khai và rõ ràng Đấng Cứu Độ nhân từ của nhân loại, Con duy nhất
của Ngài, Đức Giêsu Kitô, đã chỉ định trước Mẹ diễm phúc cho Ngài, Đức Trinh Nữ Maria, và
đã nêu rõ mối thù truyền kiếp của Mẹ và của Con Mẹ chống lại ma quỷ.”35
Cụm từ “Ta sẽ gây mối thù” trong sách Sáng thế 3,15, liên quan đến “sứ vụ đồng công
nói về Người Nữ và dòng dõi Người Nữ, tương phản với Satan và bè lũ của nó”36; đồng thời
cũng nói lên sứ mạng đền bù sự sa ngã của Ađam và Evà xưa, để cứu thoát con người khỏi tội
lỗi và cái chết.37 Lời tiên tri trên còn cho thấy một khía cạnh khác, đó là mối thù giữa người
đàn bà và dòng giống của bà với con rắn tạo nên một cuộc chiến chí tử và trường kỳ giữa hai
bên.38 Tuy nhiên, cái thế đứng của đối phương chống lại “con rắn” (là thế thượng) cho thấy
trước kết cục của cuộc giao tranh không thuận lợi cho “con rắn”, và do đó lời tiên tri báo trước
kết cục của cuộc chiến thuộc về dòng giống người đàn bà, người đàn bà và dòng giống của bà
sẽ chiến thắng,39 bởi vì Đức Maria thực sự cộng tác với Con Thiên Chúa, trong cuộc chiến đấu
hy sinh cứu chuộc loài người. Mầu nhiệm Nhập Thể và phẩm chức Thiên mẫu cứu chuộc liên
32 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 55. 33 Sđd. 34 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 140. 35 Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội & Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, chuyển ngữ: Lm. M. Vinhsơn
Liêm Nguyễn Hồng Thanh (Đồng Nai: Đồng Nai, 2017), tr. 31. 36 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 58. 37 x. Sđd., tr. 59. 38 x. Kinh Thánh Ấn Bản 2011, bản dịch: CGKPV (Hà Nội: Tôn Giáo, 2011), tr. 36. 39 x. Sđd., tr. 36.
17
kết rõ rệt với nhau trong lời tiên tri Tiền Tin mừng (x. St 3,15).40 Như thế, qua người đàn bà và
dòng giống của bà, Thiên Chúa sẽ phục hồi nhân loại sa ngã, sẽ tái tạo lại những gì đã hư hỏng.
“Con rắn và dòng giống con rắn” sẽ bị dòng dõi người đàn bà “đạp nát đầu”.
Sau khi có cái nhìn tổng quát, tiếp đến, chúng ta đối chiếu các bản dịch khác nhau
liên quan đến bản văn Thánh Kinh St 3,15. Trước hết đối với bản Hipri: “Ta sẽ gây mối
thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống
đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” Theo bản dịch này, “dòng giống đó sẽ
đánh vào đầu mi” có nghĩa là dòng giống người đàn bà sẽ chiến thắng Satan, kẻ đã gây
ra cái chết cho con người;41 trong khi đó, bản LXX (bản Hy Lạp) lại dịch: “Ta sẽ gây
mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; người
đàn ông sẽ đánh vào đầu mi và mi sẽ cắn vào gót nó.” Nếu như bản Hipri dịch là “dòng
giống” thì ở đây, bản LXX lại dịch là “người đàn ông”: “Người đàn ông ấy sẽ đánh
vào đầu mi”. Như vậy, cả bản Hipri và bản Hy Lạp đều hiểu người sẽ chiến thắng Satan
(con rắn), không phải là người đàn bà, mà là người đàn ông thuộc về dòng giống của
người đàn bà,42 hơn nữa, bản LXX còn được hiểu về một cá nhân. Tuy nhiên, ngay
trong các bản dịch này, chúng ta không thể phủ nhận mối tương quan hỗ tương giữa
người đàn bà và dòng giống người đàn bà trong cuộc chiến chống lại sự dữ.
Đối với bản Vulgata, thánh Giêrônimô lại dịch khác: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và
người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; người đàn bà ấy sẽ đánh vào đầu
mi và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Xét về tính chất nguyên bản, chúng ta không có thẩm
quyền để khẳng định bản dịch của thánh Giêrônimô là sai, vì chính công đồng Trentô đã tuyên
bố: bản dịch Vulgata “phải được coi là bản chính thức dùng để đọc cho công chúng, để bàn
luận, để giảng dạy và để trình bày.”43 Không những thế, trong Phụng vụ các Giờ kinh, phần
tiền xướng Thánh ca Tin mừng Kinh Sáng ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm cũng hát: “Ta sẽ gây
mối thù giữa mi và người nữ (...) ; người nữ ấy sẽ dẫm nát đầu mi.”44 Theo bản dịch này, chính
người đàn bà chứ không phải dòng giống người đàn bà sẽ đạp nát đầu “con rắn”. Thánh
Ambrôsiô, thánh Giêrônimô, thánh Augustinô, thánh Gioan Kim Khẩu và rất nhiều giáo phụ
cũng như các nhà chú giải đều nhận như bản phổ thông.45 Trong Tông huấn Ineffabilis Deus,
đức giáo hoàng Piô IX cũng tuyên bố: “[...] không chút nghi ngờ, Mẹ đã đạp nát đầu con rắn
40 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 59. 41 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Thánh Mẫu Học, tr. 15. 42 x. Sđd., tr. 15-16. 43 John A. Hardon, S. J. Image Books, New York, Từ Điển Công Giáo Phổ Thông, chuyển dịch: Nhóm
Chánh Hưng (TP HCM: Phương Đông, 2008), tr. 56. 44 Các Giờ Kinh Phụng Vụ: phần chung lễ riêng (Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, 2010), tr. 624. 45 x. Thánh Anphong, Vinh Quang Đức Maria, tr. 166.
18
này.”46 Vì thế, việc bản Vulgata dịch như trên không phải là một sai lầm, nhưng có ý giải thích
về vai trò của Đức Maria trong việc chiến thắng “con rắn”, chiến thắng ma quỷ,47 và cũng là
hình ảnh tiên báo về Đức Maria sẽ chiến đấu và sẽ chiến thắng Satan.48
Như vậy, qua các bản dịch trên, chúng ta nhận thấy: Đức Maria có một vị trí quan
trọng đặc biệt trong lịch sử cứu độ, thậm chí vai trò của Mẹ còn được đề cập trước cả Đấng
Cứu Thế. Đức Maria “đã thành toàn của lời hứa trên đây, bởi vì mối thù truyền kiếp giữa
‘người đàn bà’ và con rắn (satan) được ứng nghiệm nơi Mẹ, hay ít ra là qua Chúa Kitô, là
dòng giống của Mẹ sẽ đạp nát đầu con rắn.”49 Lời tiên tri trong sách Sáng thế là điểm tựa
cho chúng ta tiếp tục đào sâu suy tư về vai trò “đồng công” của Mẹ Maria trong công cuộc
tân sáng tạo, cụ thể qua lời tiên tri trong sách Isaia và Mikha về “Người phụ nữ sinh con”.
1.2. Lời tiên báo trong sách Isaia & Mikha: Người phụ nữ sinh con (Is 7,14; Mk 5,2)
Nếu bản văn Sáng thế 3,15 là bản văn nền tảng cho chúng ta suy tư về vai trò cộng tác của
Đức Maria, thì những lời tiên tri trong sách Isaia và Mikha sẽ cụ thể hóa việc cộng tác của Đức
Maria trong công trình tân sáng tạo. Thật vậy, hai ngôn sứ “sống cùng thời”50 là ngôn sứ Isaia và
Mikha, đã có hai sấm ngôn tương đối giống nhau về “một người phụ nữ sinh con”, có liên hệ đến
sự xuất hiện của Đấng Mêssia trong tương lai, cũng như hàm ý nói về Thân Mẫu của Người.
Trong lời sấm của mình, ngôn sứ Isaia loan báo: “Này đây người thiếu nữ sẽ mang
thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14). Theo một số học giả, trong hoàn
cảnh khủng hoảng của triều đại Đavid, sự chào đời của một hoàng tử và lời hứa cậu sẽ lên
ngôi, trên ngai vàng của vua cha là dấu hiệu cho tương lai huy hoàng và cứu độ. Tuy nhiên,
có một sự kiện là cậu ta sẽ rất sớm kế vị vua cha. Sự kiện này là điềm gở đối với vua Akhap.
Như vậy, lời loan báo của Isaia là “sấm ngôn cứu độ” đối với nhà Đavid nhưng lại trở thành
“sấm ngôn phán xét” đối với nhà Akhap và triều đình đương thời.51 Lời loan báo đã trở
thành hiện thực qua việc Đức Maria hạ sinh Đấng Emmanuel,52 Đấng xuất thân từ dòng dõi
vua Đavid, Đấng đã đến để cứu vớt con người và tiêu diệt quyền lực sự dữ, nhất là cái chết.
Đối với bản văn của ngôn sứ Mikha, tuy giống nhau về nội dung so với của Isaia
nhưng lời sấm trong sách Mikha có tính lịch sử nhiều hơn, ứng nghiệm cả về bối cảnh,
46 Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội & Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, chuyển ngữ: Lm. M. Vinhsơn
Liêm Nguyễn Hồng Thanh, tr. 38. 47 x. Thiên Hựu Nguyễn Thành Thống, Đức trinh nữ Maria (Hà Nội: Tôn Giáo, 2009), tr. 06. 48 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 16. 49 Sđd., tr. 17. 50 x. Sđd., tr. 26. 51 x. Lm. Nguyễn Thể Hiện, CSsR, “Sách Các Ngôn Sứ”, Học Viện Thần Học Xitô, 2015 [CD-ROM]. 52 x. Lm. Bernard Phạm Quang, Tìm hiểu Các Sách Ngôn Sứ, tập 2, tr. 105.
19
về địa lý, về nguồn gốc thần linh và cách thức cai trị của Đấng Mêssia.53 Tuy nhiên trong
giới hạn của đề tài, chúng ta chỉ tìm hiểu những khía cạnh liên quan đến Thánh Mẫu học.
Bản văn viết: “Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha […] Đức Chúa sẽ bỏ mặc Israel cho đến
thời người sản phụ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về
với con cái Israel […] Chính Người sẽ đem lại hoà bình” (MK 5,1-4). Bêlem Épratha
vốn là quê hương của vua Đavid, mà lời tiên tri cho thấy, Đấng Thiên Sai sinh tại Bêlem.
Như thế, ngôn sứ loan báo rằng sau Lưu đày, dân tộc sẽ được phục hưng và tái thiết do
một người thuộc dòng họ Đavid lãnh đạo, mang lại bình an và thịnh vượng.54
Theo một số học giả: dân Israel, một khi bị Thiên Chúa bỏ rơi và bị đem đi Lưu đày,
sẽ rên xiết dưới ách quân thù cho tới khi Đấng Thiên Sai xuất hiện. Do đó, hình ảnh người
phụ nữ sinh con vốn quen thuộc để diễn tả những đau khổ người ta phải chịu (x. Mk 4,9-
10). Nhưng chắc chắn ở đây, ngôn sứ Mikha còn ám chỉ tới lời sấm của Isaia trong Is 7,14
nói về Người Mẹ của Đấng Thiên Sai,55 là Đức Maria-Mẹ của Đức Giêsu. Dưới sự hướng
dẫn của Vị Cứu Tinh, những người dân Israel, sau khi được thanh luyện trong Lưu đày, sẽ
trở lại với Đức Chúa, và hợp nhất lại với anh em mình, những kẻ vẫn trung thành với Đức
Chúa ở Giuđa. Như vậy, nhờ Đấng Mêssia, dân tộc được thống nhất, không còn sự ly khai
của mười chi tộc nữa.56 Điều này làm chúng ta liên tưởng đến bản văn trong sách Sáng thế
3,15 nói về hình ảnh một người đàn bà với chức năng làm mẹ của một nhân loại mới.
1.3. Lời tiên báo về người đàn bà với chức năng làm mẹ của nhân loại mới (St 3,15)
Khởi đầu dòng lịch sử con người, bà Evà đã được chọn là vị tổ mẫu nhân loại. Chữ “Evà”
trong tiếng Hipri là “hawwah”, do động từ “hâyâh” có nghĩa là sống. Evà được gọi là mẹ của
chúng sinh (x. St 3,20).57 Còn trong St 3,15, chính Thiên Chúa phán: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi
và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu
mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Như thế, với chức năng làm mẹ, cả hai người phụ nữ: bà
Evà và Đức Maria có vai trò quan trọng trong những biến cố xảy ra cho nhân loại. Khi dọi chiếu
ánh sáng Tân ước vào bản văn trên, chúng ta thấy: Ađam - người đầu tiên của nhân loại có liên
hệ với Đức Kitô và Evà - mẹ của chúng sinh (x. St 3,20) có liên hệ với Đức Maria.
Đối với bà Evà, Thiên Chúa phán: “Tại sao ngươi làm thế ?... Ta sẽ gia tăng đau khổ
cho ngươi trong việc thai nén của ngươi! Trong đau đớn, ngươi sẽ sinh con đẻ cái” (St
3,13.16, bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn). Qua mệnh lệnh của Thiên Chúa, bà Evà sẽ
53 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 26. 54 x. Lm. Inhaxiô Nguyễn Ngọc Rao, O. P, Các Sách Ngôn Sứ, tr. 83. 55 x. Sđd., tr. 85. 56 x. Sđd. 57 x. Ủy ban Giáo lý đức tin thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, Từ Điển Công Giáo 500 mục từ (Hà Nội:
Tôn Giáo, 2011), tr. 121.
20
phải “sinh con đẻ cái” trong đau đớn, bởi vì bà Evà và ông Ađam là nguyên nhân đem tội
lỗi vào trần gian. Nếu như bà Evà và ông Ađam chịu trách nhiệm về cái chết do tội lỗi gây
nên, thì Đức Maria có công trong việc đem lại sự sống cho con người qua Đức Kitô (x. Ga
5,21).58 Chính qua Đức Maria, Thiên Chúa đã đi vào lịch sử nhân loại, trở thành một người
khiêm hạ... “giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi”, để đem ơn cứu độ cho con
người.59 Nhờ sự cộng tác của Đức Maria, “Ngôi Lời thành xác phàm” (Ga 1,14), trở thành
một Ađam mới. Do đó, toàn thể nhân loại được đổi mới do sự tiếp nhận bản tính thần linh
trong thể xác của mình. Tất cả mọi người được “thần hóa”, được đổi mới từ chính trong hữu
thể của mình nhờ sự hạ mình của Con Thiên Chúa và trong sự cộng tác của Đức Maria.60
Như thế, hình ảnh bà Evà với chức năng làm mẹ của nhân loại cũ, tiên trưng cho một Evà
mới là Đức Maria, Người sẽ sinh ra một nhân loại mới dưới chân Thập giá Đức Kitô.61
Vậy đâu là ý nghĩa chân thực của chức làm mẹ thiêng liêng đối với nhân loại của
Đức Maria? Theo E. Neubert, ý nghĩa chân thực hệ tại “Đức Maria thông cho ta sự
sống siêu nhiên”.62 Đức Maria ban sự sống siêu nhiên cũng thật sự như mẹ chúng ta
cho chúng ta sự sống tự nhiên vậy; và cũng như người mẹ lo liệu cho đời sống tự nhiên
của con cái, thì Đức Maria cũng nuôi nấng, phù hộ, làm cho “lớn lên” và phát triển sự
sống siêu nhiên của mỗi người, để đưa sự sống ấy đến chỗ thành toàn.63
Mặc dù sự sống siêu nhiên vốn là một thực tại mà chúng ta không thể trông thấy
bằng đôi mắt thể lý, cũng không thể đụng chạm tới được nhưng lại vô cùng cao quý.
Chúa Giêsu đã quả quyết: “được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi
gì?” (Mt 16,26). Các thánh tử đạo trong Giáo Hội đã vui mừng hy sinh sự sống tự nhiên
để giữ lại sự sống vô cùng quý giá ấy. Sự sống siêu nhiên chính là sự sống của Thiên
Chúa, sự sống của Chúa Kitô trong chúng ta.64 Nhờ sự sống ấy, chúng ta được “tham dự
vào bản tính Thiên Chúa” (x. 2Pr 1,4), được trở nên con cái Thiên Chúa,65 nhờ liên kết
với Đức Kitô-Người Con do Đức Maria sinh hạ. Việc được thông phần vào sự sống vô
biên, vĩnh cửu của Thiên Chúa là do chính Đức Maria đã thực hiện cho chúng ta.66
58 x. Judith A. Bauer, Sổ Tay Những Điều Cần Biết Về Đức Maria. Chuyển ngữ: Matthias M. Ngọc Đính
(2004), tr. 49. 59 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, “Thánh Mẫu Học”, Học Viện Thần Học Xitô, 2017
[CD-ROM]. 60 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Thánh Mẫu Học, tr. 18. 61 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 17. 62 x. E. Neubert, Đức Maria trong Tín Lý, tr. 94. 63 x. Sđd. 64 x. Sđd., tr. 95. 65 x. GLHTCG, số 1692. 66 x. E. Neubert, Sđd., tr. 96.
21
Tóm lại, qua những lời tiên tri trong Cựu ước, hình ảnh Đức Maria càng ngày càng rõ
nét hơn, từ sứ vụ phổ quát của Mẹ (x. St 3,15) đến những sứ vụ đặc thù mà Mẹ được Thiên
Chúa mời gọi cộng tác (x. Is 7,14; Mk 5,2). Điều này cho thấy rõ vị thế quan trọng của Mẹ
trong công trình cứu độ nhân loại: Mẹ là Evà mới sẽ hạ sinh một nhân loại mới cho Thiên
Chúa qua Đức Giêsu Kitô-Người Con yêu quý của Mẹ. Sứ vụ của Mẹ trong cuộc chiến chống
lại sự dữ còn được tiếp tục loan báo qua những con người cụ thể là một vài phụ nữ Do Thái
tiêu biểu, khi họ phải đối diện với những hoàn cảnh đau thương của Dân Chúa. Chân dung của
Mẹ được phác họa sâu sắc và sinh động hơn nơi những nhân vật lịch sử cụ thể, đó là các bà:
Giôkhevét, Myriam, Giuđitha, Đêbôra, Esther và bà mẹ anh hùng trong sách Macabê.
2. Những phụ nữ Do Thái tiên trưng về sứ vụ của Đức Maria trước thế lực sự dữ
Có thế nói, trong đời sống văn hóa xã hội cũng như tôn giáo Do Thái, người phụ nữ
không có thế giá gì mấy. Tuy nhiên, trong lịch sử cứu độ, nhiều lần Thiên Chúa lại dùng
chính những con người có vẻ thấp bé nghèo hèn, để làm những công việc hiển hách cho cả
một dân tộc. Những người phụ nữ này cũng là những nhân vật tiên báo về Đức Maria, người
sẽ cộng tác với Con Thiên Chúa để đem lại ơn bình an và ơn cứu độ cho muôn người.
2.1. Bà Giôkhevét - người “mẹ thiêng liêng” của dân tộc Israel (x. Xh 12,37)
Bà Giôkhevét (Yokebed) là vợ ông Amram, là mẹ của Aharon, Myriam và Môsê (x.
Xh 6,20). Giôkhevét được kể vào số những người mẹ của Israel, bởi vì chính bà đã xoay xở
cứu được mạng sống cho con mình, khỏi án lệnh của bạo vương Pharaoh, muốn giết hại tất
cả các trẻ sơ sinh Do Thái. Chính thế giá cao trọng của Môsê trong dân tộc Do Thái đã làm
cho mẹ mình trở nên vĩ đại: cứu con ruột mình khỏi chết nhưng chính là cứu chính dân tộc
của mình khỏi chết sau này. Đức Maria sau khi đã hạ sinh Chúa Giêsu, Mẹ cùng với thánh
Giuse đã bảo vệ mạng sống Chúa Hài Nhi khỏi âm mưu giết hại của bạo vương Hêrôđê.67
Thế giá cao trọng của Chúa Hài Nhi - Ngôi Lời Nhập Thể đã làm tăng thêm công trạng của
Mẹ đối với nhân loại, đến nỗi nhiều người đã gọi Mẹ là “Đấng đồng công cứu chuộc”.
Khi nói về bà Giôkhevét, R.Juda de Prince (+217) có lần đã dám quả quyết rằng:
“Một người phụ nữ ở Aicập đã sinh sáu trăm nghìn người con chỉ trong một lần sinh đẻ”68.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, R.Juda de Prince đã giải thích: “Bà Giôkhevét, người
đã sinh ra Môsê; và Môsê đã được xem là tương đương với sáu trăm nghìn người, tổng số
của toàn dân Israel, như đã nói: Bấy giờ ông Môsê cùng với con cái Israel đã hát mừng
(Xh 15,1).”69 Trong con người của Môsê bao gồm toàn dân Israel, vì Môsê là một ngôn sứ
67 x. Judith A. Bauer, Sổ tay những điều cần biết về Đức Maria, 2004, tr. 60. 68 Tài liệu Thánh Mẫu học, Myriam - Thiếu Nữ Sion (2003), tr. 96. 69 Sđd.
22
vĩ đại (x. Đnl 34,10) và vì con cái Israel làm mọi sự đúng ý như Đức Chúa đã truyền cho
ông Môsê (x. Xh 39,32). Do đó, Giôkhevét là mẹ vị ngôn sứ vĩ đại, cũng là mẹ của toàn
dân Israel. Cũng vậy, Đức Maria là Mẹ của Đức Giêsu (x. Ga 2,1.3.5-12; 19,25.26), cũng
là mẹ của tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, Con của Mẹ, mà người môn đệ được Chúa
yêu đã đại diện nhận làm mẹ (x. Ga 19,26-27; Kh 12,5.13.17). Qua sự cộng tác của Đức
Maria trong việc hạ sinh Chúa Kitô, Đức Maria là Mẹ phổ quát của Dân Israel Mới là toàn
thể Giáo Hội, toàn thể mọi người được cứu chuộc bằng giá máu của Con Mẹ.70
2.2. Bà Myriam với đặc trưng tín thác và cộng tác trong chương trình của Thiên Chúa
Bà Myriam là con gái của ông Amram và bà Giôkhevét, em của tư tế Aharon và chị
của Môsê. Bà là một trong những khuôn mặt được dân Do Thái kính trọng. Họ coi bà như
một người nữ anh hùng dân tộc. Myriam là “hình ảnh đặc trưng tín thác và cộng tác vào
trong chương trình của Thiên Chúa” (x. Xh 2,4-10; 15,20-21).71 Rất có thể cha mẹ Đức
Maria đã lấy lại tên nữ anh hùng này đặt cho cô con gái, như lòng ngưỡng mộ và kính trọng
cho một người đến từ truyền thống cổ xưa.72 Bà có liên hệ với lịch sử cứu độ qua việc bảo vệ
Môsê; còn Đức Maria cộng tác mật thiết vào công trình cứu độ qua việc bảo vệ Đức Giêsu.73
Trong sách Xuất hành, Myriam được gọi là nữ ngôn sứ (x. Xh 15,20-21). Bà có
vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc Do Thái qua việc đã cứu Môsê khỏi án lệnh
của vua Pharaoh (x. Xh 2,4-10), cùng với Môsê có mặt tại “Lều Hội Ngộ” (x. Ds
12,4-5), cùng với các phụ nữ và toàn dân Israel hát bài ca chiến thắng sau khi vượt
qua Biển Đỏ (x. Xh 15,20-21). Dân Israel ca tụng và tạ ơn Đức Chúa Giavê như Đấng
Giải Phóng. Đức Maria cũng cộng tác với Con Mình trong công trình cứu chuộc, phá
tan ách thống trị tội lỗi và cũng xướng bài ca cứu độ Magnificat.74
Trong sách của mình, ngôn sứ Mikha đã đặt nhân vật Myriam vào cùng vị trí
ngang nhau với Môsê và Aharon (x. Mk 6,4). Hành động giải thoát dân Do Thái của
Thiên Chúa được hoàn tất bởi chính Ngài, nhưng Người ủy thác cho Môsê thực hiện và
Myriam được đặt cạnh Môsê như là người nữ đồng công đưa dân Do Thái ra khỏi cảnh
nô lệ Ai-Cập.75 Đứng trước án lệnh mà vua Pharaoh dành cho em mình, Myriam “vẫn
kiên vững trong đức tin vào sứ mệnh cứu độ dân Israel của em trai mình.”76 Để thi
hành sứ mệnh Thiên Chúa ủy thác, Môsê đã phải trải qua biết bao đau khổ chông gai:
70 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 30. 71 Sđd., tr. 33. 72 x. Lm Lê Phú Hải, O. M. I, Đức Maria-Tôn Sùng và Cầu Nguyện (Hà Nội: Tôn Giáo, 2014), tr. 39. 73x. Judith A. Bauer, Sổ Tay Những Điều Cần Biết Về Đức Maria, tr. 61. 74 x. Lm. Lê Phú Hải, O. M. I, Sđd., tr. 40. 75 x. Phaolô Ngô Suốt, Gặp Gỡ Mẹ Maria, Năm đức tin 2012-2013 (Hà Nội: Tôn Giáo, 2012), tr. 74-75. 76 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 34.
23
với Pharaoh và với Dân Chúa chọn. Bà đã “đồng lao cộng khổ” với em mình trong đức
tin. Gương mặt của Myriam, người kiên vững trong niềm tin, giờ đây sống lại trong
gương mặt của Đức Maria, “người được đức tin nâng đỡ, chia sẻ tận đáy lòng sâu kín
nhất của chính mình cuộc khổ nạn của Con mình đang bị treo trên cây khổ giá”.77
2.3. Bà Giuđitha đã chặt đầu tướng Holopherne (x.Gđt 10,4)
Bà Giuđitha là vợ ông Mơnase thuộc chi tộc Simêon. Khi người chồng qua
đời, bà sống một cuộc sống khổ chế. Mặc dù là một quả phụ, vừa có nhan sắc vừa
hảo tâm (x. Gđt 8,7-8), nhưng khi Dân Chúa bị vây hãm và có nguy cơ thất thủ,
Giuđitha can đảm đứng lên tụ họp dân chúng và đánh đuổi ngoại xâm.78
Tên “Giuđitha” có nghĩa là “cô gái Hipri”79. Câu chuyện về bà phản ánh niềm tin
mạnh mẽ vào quyền năng của Thiên Chúa khi Ngài dùng những người khiêm hạ, nhỏ bé để
hạ bệ những người kiêu căng ngạo mạn.80 Nhờ sự thông minh và gan dạ của mình, bà
Giuđitha đã lấy được thủ cấp của tướng Holophernes, đại tướng của quân đội Atsua và giải
thoát Dân Chúa sắp bị thất thủ. Qua người phụ nữ khiêm tốn bé nhỏ, Đức Chúa đã can
thiệp trợ giúp Dân được tuyển chọn. Giuđitha được dân trong thành chúc tụng: “này trang
nữ kiệt, bà được Thiên Chúa tối cao ban phúc hơn tất cả các phụ nữ trên cõi đất này. Chúc
tụng Đức Chúa là Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất; Người hướng dẫn bà chặt đầu
tướng giặc” (Gđt 13,18). Dân Chúa còn ca ngợi: “Bà là vinh quang của Giêrusalem, là vẻ
vang của Israel, và là niềm tự hào cho dân tộc chúng ta ! ” (Gđt 15,9).
Những lời ca ngợi của dân chúng dành cho bà Giuđitha đã được Giáo Hội áp dụng cho
Đức Trinh Nữ Maria, vì Mẹ là vinh quang đích thực của Giuđa và là niềm vui của Israel.81 Cuộc
chiến thắng của bà Giuđitha chặt đầu tướng giặc gợi lên hình ảnh một cuộc chiến thắng của Đức
Maria: Đức Maria “đánh vào đầu con rắn” (x. St 3,15).82 Với “vũ khí” là sự cưu mang Ngôi Lời
Nhập Thể, Đức Maria đã đạp nát đầu Satan, kẻ thù của nhân loại, và vĩnh viễn giải thoát họ khỏi
xiềng xích của tội lỗi,83 nhờ sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô – Con yêu dấu của Mẹ.
2.4. Bà Đêbôra chấm dứt mãnh lực của Sisara (x. Thp 5,7.24)
Đêbôra là vợ ông Lappidoth, là nữ ngôn sứ, làm thủ lãnh Israel khoảng bốn mươi năm. Là
ngôn sứ và là thủ lãnh, bà đã khơi mào cho tướng Barak nổi dậy chống Giavin vua Canaan để
77 Tài liệu Thánh Mẫu học, Myriam - Thiếu Nữ Sion (2003), tr. 113. 78 x. Lm. Lê Phú Hải, O. M. I, Sđd., tr. 43. 79 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 35. 80 x. Sđd., tr. 36. 81 x. Judith A. Bauer, Sổ Tay Những Điều Cần Biết Về Đức Maria, tr. 62. 82 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 36. 83 x. Judith A. Bauer, Sđd., tr. 62.
24
thoát khỏi ách thống trị hai mươi hai năm của Canaan. Nhờ được khởi xướng, Barak cùng với
mười ngàn quân đội Israel đã tiêu diệt Sisera, vị tướng chỉ huy quân đội của vua Giavin (x. Tl 4).
Qua bà, hình ảnh Đức Maria “Đồng công” đã được hiện diện trong thời gian: Tướng Sisera
tượng trưng Satan độc dữ mà Đức Maria đã chiến thắng để cứu Dân thánh của Chúa.84
Bà Đêbôra còn được gọi là “mẹ thiêng liêng” của dân tộc Do Thái.85 Với đặc
quyền làm mẹ thiêng liêng, bà kêu gọi con dân Israel sống theo đường lối của Thiên
Chúa và trung thành với Lề Luật của Người.86 Dưới dạng thái này, Đêbôra mang hình
ảnh tiên trưng cho Đức Maria. Lời bà khuyên nhủ các người con trung thành theo Lề
Luật Thiên Chúa làm gợi nhớ lời Đức Maria nói với các gia nhân tại tiệc cưới Cana:
“Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).87 Dưới chân Thập giá, Đức Maria
chính thức trở thành mẹ của nhân loại khi nhận lời trối của Chúa Giêsu, “Thưa Bà, đây
là con của Bà” (Ga 19,26). Từ đó, trong tư cách là mẹ của Hội Thánh, Đức Maria tiếp
tục trình lên Thiên Chúa sự bần cùng của nhân loại trong thể xác và tinh thần; và Mẹ
can thiệp để giúp các con cái của mình mở lòng ra đón nhận Lời Chúa Giêsu.88
2.5. Bà Esther đã hạ gục được Haman, cứu dân của bà thoát chết (x. Et 15,1-5)
Esther là hoàng hậu của đại đế Ahasuerus (x. Et 2,17). Với lòng can đảm và sự khéo léo,
bà đã ngăn được án diệt vong cho dân tộc Do Thái mà gian thần Haman độc dữ đã mưu đồ thực
hiện. Với lòng tin mãnh liệt vào quyền năng của Thiên Chúa, hoàng hậu Esther đã liều thân vào
triều kiến đại đế và nài xin cho dân mình được an lành.89 Nhờ vẻ diễm lệ và lòng tốt lành, hoàng
hậu Esther đã cứu dân tộc Do Thái khỏi họa diệt vong (x. Et 5,1-5). Như vậy, bà Esther là hình
ảnh tiên trưng của Đức Maria được Thiên Chúa sủng ái vì vẻ diễm lệ và sự tốt lành khôn sánh
của Mẹ, Mẹ đã cứu thoát nhân loại thoát khỏi Satan nhờ Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ.90 Quan
Haman tượng trưng Satan độc dữ mà Đức Maria đã chiến thắng để cứu vớt Dân của Chúa.91
2.6. Bà mẹ anh hùng trong sách 2 Macabê
Cuối cùng là hình ảnh người mẹ anh hùng trong sách Macabê quyển II. Sách
Macabê quyển II thuật lại tấm gương anh hùng bất khuất của một người mẹ, trong thời
kỳ bách hại của tên bạo chúa Antiôkhô (x. 2Mcb 7,1-41). Với sự trợ giúp của Thiên
Chúa, bà đã can đảm chứng kiến cái chết của bảy người con ruột chỉ trong một ngày.
84 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 144. 85 x. Tài liệu Thánh Mẫu học, Myriam - Thiếu Nữ Sion (2003), tr. 114. 86 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Thánh Mẫu Học, tr. 38. 87 x. Lm. Lê Phú Hải, O. M. I, Đức Maria-Tôn Sùng và Cầu Nguyện, tr. 41. 88 x. Tài liệu Thánh Mẫu học, Myriam - Thiếu Nữ Sion, tr. 117. 89 x. Judith A. Bauer, Sổ Tay Những Điều Cần Biết Về Đức Maria, tr. 63. 90 x. Sđd. 91 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 144.
25
Với tình yêu mãnh liệt và lòng nhiệt thành đối với Lề Luật, bà đã an ủi khích lệ từng
người con, thà chịu chết chứ không lìa bỏ Đức Chúa. Tâm hồn bà vô cùng đau đớn
nhưng vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Bà được gọi là “mẹ của dân tộc”.
Thần học tu đức Kitô giáo thường nối kết bà với Đức Maria hiện diện bên cạnh Con
Mình trong thảm kịch thương khó đến tận đỉnh đồi Calve.92 Nếu như bà mẹ của bảy người
con đã chịu đựng tất cả nỗi đau đớn với tâm hồn cao thượng, đặt niềm hy vọng của mình
vào Thiên Chúa (x. 2Mcb 7,20-23)93; dưới chân Thập giá, Mẹ Maria cũng chứng kiến việc
hiến tế của Đức Giêsu, Con Mẹ, với tất cả lòng can đảm và niềm tin hiệp thông cứu chuộc
(x. Ga 19,25).94 Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh chiều kích hiện diện của Đức Maria:
Mẹ đã trung tín duy trì sự kết hợp với Con yêu dấu của mình cho tới khi hiện diện dưới
chân Thập giá.95 Mẹ Maria đã bước đi trong cuộc lữ hành đức tin,96 không chỉ trong một
ngày như bà mẹ trong sách Macabê, nhưng gần như trong suốt cả cuộc đời, từ biến cố
Truyền tin cho đến chân Thập giá. Đức Gioan Phaolô II đã nhìn thấy hình ảnh Đức Maria
nơi người mẹ trong sách Macabê. Mẹ đã chia sẻ cuộc khổ nạn đau thương của Con mình,
đã hiến dâng Con mình như của lễ lên Thiên Chúa Cha để chuộc tội cho nhân loại. Mẹ vừa
cộng tác vừa hiến dâng Con cho công trình cứu độ nhân loại, với một đức tin mạnh mẽ,
một niềm cậy trông không giới hạn và một lòng dũng cảm anh hùng.97 Như thế, Mẹ Maria
thật sự là người đã “đồng công” cứu chuộc nhân loại với Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tóm lại, qua chân dung là những phụ nữ trong Cựu ước, chúng ta nhận thấy ý
định ngàn đời của Thiên Chúa trong việc mời gọi Đức Maria cộng tác với Con của
Ngài để cứu độ nhân loại. Những người phụ nữ này tuy nhỏ bé nhưng có tầm quan
trọng đặc biệt đối với vận mạng sống còn của Dân Chúa. Nếu không có cái nhìn đức
tin, chúng ta sẽ nghĩ rằng, chính họ đã cứu dân tộc của mình thoát khỏi cái chết. Tuy
nhiên, trong chiều kích đức tin, chúng ta biết chính Thiên Chúa đã dùng những con
người thấp bé nghèo hèn để cứu cả dân tộc đang khổ đau, đang lâm nguy. Hình ảnh của
những con người lịch sử này đã làm sáng lên chân dung Đức Maria, Người được mời
gọi cộng tác trong công trình cứu độ qua việc cưu mang Ngôi Lời Nhập Thể và hiệp
thông cách đặc biệt trong cuộc Thương khó của Chúa Kitô để cứu vớt nhân loại. Chúng
ta tiếp tục đào sâu suy tư về vai trò của Đức Maria qua các biểu tượng mà Thánh Kinh
nói tới, để hiểu thêm về sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa dành cho Đức Maria.
92 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 41. 93 x. Tài liệu Thánh mẫu học, Sđd., tr. 125. 94 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 41. 95 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 58. 96 x. ĐGH. Gioan Phaolô II, Thông ĐiệpRedemptoris Mater, ban hành 25/3/1987, số 14. 97 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 42.
26
3. Những biểu tượng trong Cựu ước nói về Đức Maria trong kế hoạch của Thiên Chúa
Trong Cựu ước, có rất nhiều biểu tượng khác nhau được dùng để chỉ về Đức Maria,
nhưng trong giới hạn của đề tài, ở đây chỉ tập chú vào một vài biểu tượng được kể là nổi
bật nhất như: Con tàu Noe, Chiếc thang Giacob, Hòm bia Giao ước, Đền thờ Giêrusalem
và Núi Sinai. Đây là những biểu tượng mà ý nghĩa của chúng, có tầm quan trọng đặc biệt
trong lịch sử cứu độ. Những biểu tượng này diễn tả cách thức Thiên Chúa can thiệp để
cứu độ Dân Chúa trong thực tại lịch sử. Tuy nhiên, mỗi biểu tượng chỉ nói lên một khía
cạnh nào đó về Đức Maria trong dự phóng ngàn đời của Thiên Chúa.
3.1. Con tàu ông Noe
Trong suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước trong kế
hoạch yêu thương đối với những kẻ được tuyển chọn. Noe, một con người trung tín, đã
được Đức Chúa cho biết trước tương lai đen tối của nhân loại sắp đến và chính Ngài đã
chỉ cho ông biết cách thoát đại nạn. Ngài truyền phải đóng một con tàu (x. St 6,13 –
8,19). Nhờ đức tin, ông sửa soạn tàu để cứu gia đình... và được thừa hưởng sự công
chính; cũng vậy, nhờ đức tin, Mẹ Maria trở thành “chiếc tàu” cứu rỗi tất cả chúng ta.
Nhờ chiếc “Tàu đó”, Đấng Cứu Độ đã đến thế gian để cứu với chúng ta. Như thế, Mẹ
Maria là kiểu mẫu, là lời hứa cho Giáo Hội, là “chiếc tàu cứu rỗi nhân loại.”98
Theo giáo huấn của các giáo phụ, Hội Thánh được tượng trưng bằng con tàu Noe, “Con
Tàu” duy nhất cứu loài người thoát nạn “Hồng thủy” (x. 1Pr 3,20-2l);99 còn theo thánh Bênađô,
Đức Maria cũng “chính là chiếc tàu cứu hộ: ai vào đó nương ẩn sẽ thoát khỏi hồng thủy của
cảnh trầm luân đời đời.”100 Trong nạn đại Hồng thủy, tàu Noe đã cứu sống cả những loài muông
thú; còn sự phù trì của Mẹ Maria đã cứu thoát cả các tội nhân.101 Con tàu Noe là phương thế mà
Thiên Chúa đã dùng để bảo tồn sự sống của nhân loại; Đức Maria – nhờ Chúa Giêsu, Con Mẹ -
là khí cụ để bảo tồn tương lai nhân loại, một nhân loại mới được sinh ra dưới chân Thập giá
Chúa.102 Trái đất sau nạn Hồng thủy là nơi cư ngụ cho những người được vào tàu Noe; Thiên
đàng là nơi định cư mới dành cho những ai đã tìm đến nương náu nơi Đức Maria.103 Như thế, vai
trò của Mẹ Maria đối với phần rỗi của nhân loại thật cần thiết. Chúng ta được mời gọi đến nương
ẩn nơi trái tim đầy từ mẫu của Mẹ, để có thể vượt qua những mưu mô thâm độc của ma quỷ.
98 Radio Veritas, Bức Theo Chân Mẹ - Những bài suy niệm về Đức Maria của Đài chân lý Á Châu, tr. 23. 99 x. GLHTCG, số 845. 100 x. Thánh Anphong, Vinh Quang Đức Maria, tr. 93. 101 x. Sđd. 102 x. Judith A. Bauer, Sổ Tay Những Điều Cần Biết Về Đức Maria, tr. 66. 103 x. Sđd.
27
3.2. Chiếc thang Giacob
Có thể nói, giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách vô cùng lớn. Tự sức
mình, chúng ta không thể đến với Ngài được. Tuy nhiên, chính Thiên Chúa đã đến với
con người, ngỏ lời với họ và mời gọi họ đi vào mối hiệp thông với Ngài. Sách Sáng thế
thuật lại cuộc hành trình của tổ phụ Giacob, trên đường đi Mesopotamia, một đêm kia,
Giacob đã chiêm bao. Ông thấy một chiếc thang từ đất lên đến tận trời, và trên đó có các
thiên thần không ngớt lên lên xuống xuống (x. St 28,12-15). Giacob đã thấy trời mở ra và
các thiên thần của Thiên Chúa làm thành chiếc thang sống động giữa trời và đất. Theo
chú giải của nhóm phiên dịch các Giờ kinh Phụng vụ, chiếc thang sống động là hình ảnh
diễn tả sự hiệp thông với Thiên Chúa.104 Qua chiếc thang, trời đất như được nối liền, con
người có thể đến với Thiên Chúa và thông hiệp với Ngài. Chiếc thang Giacob cũng là
hình bóng Đức Maria.105 Đức Maria là chiếc thang để Con Thiên Chúa từ trời xuống thế
và mặc lấy nhân tính con người. Cũng nhờ “chiếc thang Maria”, Chúa Kitô dẫn đưa tất
cả các thụ tạo trở về với Chúa Cha.106 Như vậy, chính qua Đức Maria, Con Thiên Chúa
đã đi vào lịch sử của nhân loại, trở nên một con người trong không gian và thời gian cụ
thể. Chính vì Ngôi Lời đã mặc lấy bản tính con người yếu đuối mà chúng ta được cứu độ,
được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa và được thừa hưởng gia nghiệp mà Thiên Chúa đã
hứa ban trong Con Yêu Dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô - Ngôi Lời Nhập Thể.
3.3. Hòm bia Giao ước
Hòm bia Giao ước là “trọng tâm mọi sự thờ phượng trang trọng nhất của dân
Israel”107, bởi vì trong đó chứa đựng hai bia đá Lề Luật, chiếc gậy của ông Aharon, và một
đấu Manna.108 Trên hai bia đá Lề Luật có ghi Mười Điều Răn, được viết bởi bàn tay Đức
Chúa; cây gậy của Aaron nở hoa tượng trưng chức vụ thượng tế của ông (x. Ds 17); và
Manna, bánh lạ từ trời, nuôi Dân trong cuộc lưu đầy qua sa mạc.109 Như thế, Hòm bia
mang đặc trưng “cưu mang Lời Thiên Chúa, hiện diện và đồng hành”110 (x. Xh 40,35 // Lc
1,35). Là vinh quang của Israel (x. 1Sm 4,22; Ac 2,1), là sức mạnh của Đấng-Uy-Quyền
(x. Tv 132,8; 78,61), là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người (x. Ds 10,35; 1Sm
4,7), Hòm bia đòi hỏi những ai đến gần phải sống thánh thiện (x. 1Sm 6,19; 2Sm 6,1-11).
104 x. Kinh Thánh Cựu Ước & Tân Ước:Lời Chúa cho mọi người, bản dịch của CGKPV (Hà Nội: Tôn Giáo,
2006), tr. 78. 105 x. Judith A. Bauer, Sđd., tr. 67. 106 x. Sđd. 107 Lm. Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria trong Kinh nguyện của Giáo Hội (Trier, 2006), tr. 179. 108 Lm. Anthony F. Chiffolo, 100 Danh Thánh của Mẹ Maria: Truyện và Kinh, tr. 24. 109 x. Scott Hahn, Bữa Tiệc Con Chiên-Thánh Lễ là thiên đàng tại thế (Hà Nội: Tôn Giáo, 2012), tr. 84. 110 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 46.
28
Theo truyền thống, Giáo Hội thường dùng hình ảnh Hòm bia để tượng trưng cho
Đức Maria.111 Thánh thi Hymnos Akathistos của Giáo Hội Đông phương đã hát ca tụng
Đức Maria: “Kính chào Mẹ, Mẹ là hòm vàng Chúa Thánh Thần” và trong Kinh Cầu
Đức Bà, Giáo Hội Công giáo đã xưng tụng: “Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa vậy.”112
Thật vậy, Thánh Ambrôsiô đã so sánh:“Hòm bia chứa những bia đá lề luật; Đức Maria
ấp ủ trong lòng mình Đấng thừa kế Giao ước. Hòm bia làm cho người ta nghe được
tiếng Thiên Chúa; Đức Maria ban cho chúng ta Lời Thiên Chúa.”113 Hòm bia chứa
“mười Lời Thiên Chúa” (x. Xh 25,10), còn khi cưu mang Đức Giêsu, Đức Maria cưu
mang chính Ngôi Lời Thiên Chúa, Ngôi Lời Nhập Thể (x. Ga 1,14). Hòm bia chứa
Manna; Đức Maria chứa Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Hòm bia chứa gậy của thượng
tế Aaron; cung lòng Đức Maria chứa Vị Tư Tế Muôn Đời là Đức Giêsu. Nơi đền thờ
trên trời, Lời Thiên Chúa là Chúa Giêsu, và Hòm bia, Người trú ngụ là Đức Maria, Mẹ
Người.114 Hòm bia trở thành nơi để con cái Israel tin tưởng và tìm đến thỉnh ý Thiên
Chúa, Đức Maria là nơi nương nhờ để mọi người tìm đến gặp gỡ Thiên Chúa Ba Ngôi,
Mẹ trở thành trung gian trong trung gian Đức Kitô Con yêu dấu của Mẹ.115 Thánh
Athanasiô đã ca tụng: “Lạy Hòm Bia Giao Ước Mới, mọi mặt đều được mạ vàng ròng;
nơi đựng chiếc bình vàng chứa manna đích thực, là xác thể cưu mang Thiên Chúa.”116
3.4. Đền thờ Giêrusalem
Đối với mọi tôn giáo, đền thờ là nơi thánh, nơi quy tụ các tín đồ. Đây là nơi thần
linh và con người gặp gỡ nhau trong niềm tin. Trong Cựu ước, đền thờ Giêrusalem là dấu
chỉ hữu hình về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người.117 Dự án xây dựng Đền thờ
một cách sang trọng và lộng lẫy để kính dâng Đức Chúa là một công trình vỹ đại của vua
Salômôn và vua đã cống hiến rất nhiều của cải, công sức... cho công trình xây dựng đó.
Sách Các vua ghi nhận: “Vua Salômôn dát vàng ròng phía trong Cung Thánh, trước Nơi
Cực Thánh vua cũng dát vàng. Tất cả Đền Thờ vua đều dát vàng, không trừ một chỗ nào;
bàn thờ Nơi Cực Thánh vua cũng dát toàn vàng” (1V 6,21-22). Những hình ảnh tráng lệ
uy nghi về Đền thờ này đã làm nổi bật lời xưng tụng trong kinh Cầu Đức Bà: “Đức Bà
như đền vàng vậy”. Tước hiệu này đề cao phẩm giá của thiên chức làm mẹ và của tình
111 x. Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội & Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, chuyển ngữ: Lm. M.
Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, tr. 34. 112 x. Lm. Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria trong Kinh nguyện của Giáo Hội, tr. 179. 113 x. Judith A. Bauer, Sđd., tr. 67. 114 Scott Hahn, Sđd., tr. 84. 115 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 48-49. 116 Lm. Anthony F. Chiffolo, 100 Danh Thánh của Mẹ Maria: Truyện và Kinh, tr. 25. 117 x. Giáo hoàng học viện Piô X - Đà Lạt, Điển ngữ thần học Thánh Kinh, đề mục Maria.
29
mẫu tử nơi Đức Maria.118 Thực ra, “tâm hồn thánh thiện của Đức Maria còn vượt trên
mọi vẻ sang trọng của đền vàng Giêrusalem, vì không có ai trong số con cái loài người
được giống như Mẹ, đã hy sinh đồng công vào kế hoạch cứu thế của Thiên Chúa.”119
Trong Cựu ước, các tiên tri thường ca ngợi về Đền thờ: “Đức Chúa, Vua của
Israel đang ở giữa ngươi”; “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ở nơi ngươi”…
(x. Xp 3,15-17; Dcr 2,14). Hình ảnh này tiên báo về Đức Maria.120 Khi Ngôi Lời
Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, Thiên Chúa đã thực hiện
một hình thức nhà ở tuyệt đối mới lạ ở giữa chúng ta, vì: “Ngôi Lời đã mặc xác phàm
và cắm lều giữa chúng ta” (Ga 1,14). Các bức tường Đền thờ Giêrusalem được thay
thế bởi cung lòng Mẹ Đồng Trinh, bao choàng Con Thiên Chúa bằng xác thịt mình (x.
Lc 1,30-31; Xp 3,15.17; Dcr 2,14) và đền thờ bằng đá biến thành chính con người của
Đức Kitô (x. Ga 2,19-22), qua trung gian thừa tác vụ làm mẹ của Đức Maria.121
3.5. Núi Sinai (x. Xh 19 - 21 // Lc 1,26-38)
Hình ảnh núi Sinai được so sánh với Đức Maria như là “cội nguồn của hai Giao ước
cũ và mới”.122 Nguồn gốc của sự so sánh này đã có nền tảng Thánh Kinh, nơi mà Sách
Thánh nói cho chúng ta về Giao ước được ký kết giữa Thiên Chúa với Dân của Người.123
Giao ước Sinai trước hết là một hôn ước thần nhiệm của Israel với Thiên Chúa
Giavê, qua trung gian Môsê. Kể từ đó Thiên Chúa đã trở thành Phu Quân của Israel và
Israel là hiền thê của Người (x. Ed 16,18); cũng vậy, qua trung gian thiên sứ Gabriel,
Đức Maria đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, cộng tác trong công trình tân sáng tạo,
bằng tiếng “xin vâng” (fiat), để đón lấy chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể và “Giao
ước vĩnh cửu” được thiết lập từ đây, Đức Giêsu trở thành Tân Lang mà Tân Nương là
Hội Thánh.124 Mặt khác, cũng do tiếng “xin vâng” của Đức Maria, Con Thiên Chúa đã
làm người và trở thành con của Đức Maria (x. Mc 6,3). Vì thế, Sinai và Nazaréth đã
gặp nhau.125 Như vậy, với biến cố Truyền tin, Giao ước mới được bắt đầu. Giao ước
mới này trổi vượt hơn hẳn Giao ước Sinai về phẩm chất. “Ngôi Lời đã thành xác phàm
và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Để thực hiện dự định tuyệt vời vượt quá sự mong
118 x. Lm. Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria trong Kinh nguyện của Giáo Hội (Trier, 2006), tr. 178. 119 Lm. Nguyễn Hữu Thy, Sđd. 120 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 49-50. 121 x. Sđd., tr. 50. 122 x. Tài liệu Thánh mẫu học, Myriam – Thiếu Nữ Sion, tr. 241. 123 x. Sđd. 124 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 52. 125 x. Tài liệu Thánh mẫu học, Sđd., tr. 243.
30
đợi của loài người, Thiên Chúa đã cần đến sự cộng tác của một phụ nữ, và người phụ
nữ được tuyển chọn cho sứ mệnh này là Maria thành Nazareth.126
Tóm lại, qua các biểu tượng như con tàu Noe, chiếc thang Giacob, hòm bia Giao ước,
đền thờ Giêrusalem và núi Sinai cho chúng ta thấy rõ hơn vai trò cộng tác đắc lực của Đức
Maria trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn đi bước trước trong kế hoạch
yêu thương ngàn đời của Người. Tất cả những gì được tiên báo trong Cựu ước, nói lên lòng
trung tín của Thiên Chúa trước lời hứa cứu độ mà Thiên Chúa sẽ thực hiện. Trong ý định ngàn
đời của Thiên Chúa, Đức Maria được Thiên Chúa tiền định, mời gọi cộng tác như một con
người thật sự tự do. Mặt khác, khi đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, Đức Maria cũng phải
trả giá cho chính những chọn lựa của mình, là hủy mình đi để làm cầu nối, để Thiên Chúa có
đến cứu con người và thánh hóa họ. Mẹ Maria “là chiếc cầu nối liền Cựu ước với Tân ước”.127
II. Vai trò Đức Maria trong sứ vụ Cứu thế của Chúa Kitô theo Tân ước
Có thể nói, sứ vụ Đức Giêsu đến trong trần gian này để mạc khải về Chúa Cha
và ý định cứu độ của Cha Ngài. Vì thế, Đức Giêsu là Đấng Trung gian duy nhất và
cũng chỉ mình Ngài mới cho chúng ta được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa.128
Điều này đã được Thánh Kinh nói rất nhiều. Đối với Đức Maria, theo thần học gia
Joseph Ratzinger, truyền thống Tin mừng không quan tâm nhiều đến Đức Maria.129
Trong hai mươi bảy cuốn sách kết thành bộ Tân ước, chỉ có năm bản văn nói về Đức
Maria và mười chín lần nhắc đến các tước hiệu của Đức Maria.130 Tuy nhiên, đây lại
là những bản văn có tầm quan trọng đặc biệt trong Sách Thánh, và trong giới hạn của
đề tài, chúng ta chỉ tìm hiểu một vài bản văn tiêu biểu, được lấy trong các sách Tin
mừng theo thánh Luca và thánh Gioan, sách Khải huyền và thư gửi tín hữu Galát, để
làm nổi bật lên vai trò của Đức Maria trong sứ vụ cứu chuộc của Đức Kitô.
1. Đức Maria là “Người Đàn Bà” trong thư Galát (x. Gl 4,4)
Trong thư gửi Hội Thánh miền Galát, thánh Phaolô đã nói về một người “Đàn Bà” có
liên hệ cách đặc biệt trong ý định cứu chuộc của Thiên Chúa. Thánh nhân viết: “Khi thời
gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và
sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm
126 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 53. 127 Lm. Frederick M. Jelly, O. P, Tôn Sùng Đức Maria trong Thánh Truyền Công Giáo, chuyển ngữ: Gioan
Baotixita Dũng Lạc Hồng Ân (New Orleans, 2001), tr. 195. 128 x. Vinh Sơn Quang Huy, Sống Với Đức Kitô Như Được Trình Bày Trong Tin Mừng (Hà Nội: Tôn Giáo,
2013), tr. 21. 129 x. Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, người dịch: Phạm Hồng Lam (Hà
Nội: Tôn Giáo, 2011), tr. 299. 130 x. Lm. Lê Phú Hải, O. M. I, Sđd., tr. 66.
31
nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Đây là “bản văn cổ nhất nói về Đức Maria của thánh Phaolô”131 và
cũng là bản văn duy nhất mà ngài đã đề cập đến Đức Maria. Đọc bản văn, chúng ta thấy có
một mối liên hệ mật thiết giữa người Đàn Bà và Người Con của Bà trong việc “phục hồi”
những người sống dưới Lề Luật của Thiên Chúa. Tư tưởng này rất gần với tư tưởng của bản
văn Tiền Phúc âm (x. St 3,15) mà chúng ta đã trình bày ở những phần trên.
1.1. Sự nối kết giữa “Người Đàn Bà” trong Gl 4,4 và trong St 3,15
Theo lời tiên báo trong sách Sáng thế, sẽ có một người “Đàn Bà” được tiền định làm
người cộng tác với Thiên Chúa trong trận chiến chống lại Satan. Ngài chính là Mẹ của Đấng
sẽ đạp dập đầu kẻ thù. Tuy nhiên, theo viễn ảnh tiên báo của Cựu ước, Miêu Duệ của Người
Đàn Bà, Người sẽ chiến thắng thần dữ, “hình như nhất thiết phải là một con người”132. Bản
văn viết: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống
người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15); còn trong
thư Galát, thánh Phaolô cũng nói về một người đàn bà: “Khi thời gian tới hồi viên mãn,
Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để
chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5).
Người “Đàn Bà” mà thánh Phaolô nói trên đây là “bóng vang của người nữ trong Tiền
Phúc âm (x. St 3,15).”133 Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhưng đã “sinh làm con một người
đàn bà”.134 Ở đây có sự kỳ diệu về Đấng Nhập Thể làm người, Miêu Duệ của Người Đàn
Bà, Người sẽ hoàn tất lời tiên báo, không phải là một người thường. Đấng Nhập Thể có bản
tính nhân loại thực sự nhờ Người Đàn Bà, Mẹ của Ngài, nhưng đồng thời Ngài cũng là Thiên
Chúa thật.135 Ngay từ ban đầu, “giao ước giữa Thiên Chúa và Người Nữ đã mang một chiều
kích mới. Đức Maria đi vào giao ước này với tư cách là Mẹ Thiên Chúa.”136
1.2. Ý nghĩa tín lý của bản văn Galát 4, 4 trong mối liên hệ với St 3,15
Ý nghĩa của bản văn Galát 4,4 trong mối liên hệ với bản văn Sáng thế 3,15, mở ra
nhiều viễn ảnh về Đức Maria: trước hết, Con Thiên Chúa Nhập Thể được hạ sinh bởi một
người Đàn Bà. Kể từ đây, Con Thiên Chúa có thêm bản tính mới, bản tính nhân loại.
Thân xác mà Con Thiên Chúa đảm nhận giống thân xác chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài
trở nên đồng loại với chúng ta trong bản tính nhân loại. Ngài là anh em của chúng ta.
131 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 57. 132 An-phong-sô Bốt-sa, S. M. M, Từ Điển Đức Mẹ, tr. 391. 133 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 66. 134 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 58. 135 x. An-phong-sô Bốt-sa, S. M. M, Sđd., tr. 391. 136 Sđd., tr. 391.
32
Tính cách cứu chuộc của thân xác này do bởi người Đàn Bà cũng rất rõ rệt.137 Theo thánh
Phaolô, “vai trò của Mẹ Maria nằm trong việc Chúa Kitô đến trong xác thịt chúng ta
dưới quyền luật và tội lỗi, và sẽ kết liễu khi xác thịt này chịu luận án và chịu chết.”138
Chúa Kitô cứu độ con người vì bản thân Ngài cũng là con người. Chúa đến trần
gian trước hết như một Vị Cứu Tinh của dân Do Thái, và để cứu họ, Người đã trở nên
một người Do Thái như họ. Người đã được đào tạo theo Luật Môsê, nghĩa là giữa dân
tộc của mình và qua đạo Cựu ước. Luật này thật tích cực, nhưng thời gian đã trôi qua,
và chúng ta phải được chuộc lại khỏi ách Lề Luật để đón nhận trọn vẹn chân lý của
Thiên Chúa.139 Đây là một sự sắp xếp căn bản trong chương trình cứu độ, là nội dung
chiếm mọi suy tư về Chúa Kitô trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội: “Thiên Chúa
cứu độ chúng ta bằng cách trở nên một người phàm như chúng ta”.140 Thời gian mà
Con Thiên Chúa sinh bởi Người Nữ là thời gian cứu chuộc đã đạt đến điểm cao chót.141
Về phần mình, người Đàn Bà này là Đức Maria, cũng cần được liên kết với lịch sử
cứu rỗi nhân loại. Ngài đại diện toàn dòng lịch sử này, đại diện cuộc sinh tồn của chúng
ta, bởi vì chúng ta bị đặt dưới vương quốc của tội lỗi và thần chết, và cũng đại diện tình
trạng Kitô giáo đã được Con của Mẹ giải phóng khỏi tội lỗi, khỏi đau khổ và sự chết.142
Lời của thánh Phaolô trong thư Galát về Đức Maria đã mở ra cho nhân loại chân trời cứu
rỗi, và trở nên phong phú dồi dào do hai điều mới lạ chính xác, nếu chúng ta liên kết câu
“Thư đó” với điều thánh Tông đồ nói ở đầu bức thư gửi giáo đoàn Rôma: “Sách Thánh
mà các tiên tri loan báo về Con Thiên Chúa sinh theo xác phàm từ dòng dõi Đavid” (Rm
1,1-3). Hai điều mới lạ đó là Chúa Kitô sinh bởi người Đàn Bà theo dòng dõi Đavid, và
lời tiên tri về ơn cứu rỗi đã được thành toàn trong cuộc hạ sinh của Người.143
Như vậy, Chúa Kitô sinh bởi người Đàn Bà, là Mẹ Maria trong thời gian để cứu
chuộc loài người, đã được ứng nghiệm theo lời hứa. Do đó, mẫu chức của Mẹ là bước
đầu sứ mạng Đồng Công cộng tác với Chúa Cứu Thế, vì không những Mẹ ưng thuận
Chúa Nhập thể trong cung lòng Mẹ, mà Mẹ còn ưng thuận công cuộc cứu chuộc loài
người. Mẹ là Tân Evà của Tân Ađam là Chúa Kitô (x. Rm 5,15-17), vì Mẹ không chỉ là
Mẹ Chúa, mà Mẹ còn là Đấng Đồng công cứu chuộc với Người. Người Con sinh ra bởi
137 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 67. 138 Sđd. 139 x. Kinh Thánh Cựu Ước & Tân Ước:Lời Chúa cho mọi người, tr. 2030. 140 Sđd. 141 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 67. 142 x. Sđd. 143 x. Sđd., tr. 67-68.
33
Mẹ sẽ là Vua trên ngai vàng Đavid, với vương quyền vô cùng vô tận, và thánh danh Ngài
là Giêsu (x. Lc 1,32-33), nghĩa là Ngài sẽ cứu thoát dân Ngài khỏi tội lỗi và thần chết.144
2. Đức Maria trong biến cố Truyền Tin (x. Lc 1,20-37)
Ngôi Lời “làm người, Con Thiên Chúa làm con loài người: chính là để cho con
người, khi kết hợp với Ngôi Lời và lãnh nhận tử hệ thần linh, được trở nên con cái
Thiên Chúa,”145 cho chúng ta được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Chính
vì thế, trình thuật Truyền tin (x. Lc 1,26-38) luôn là nguồn hứng khởi cho các tín hữu
yêu thích suy niệm về Đức Maria. Thật vậy, thánh Luca đã vẽ lại bức tranh khá sinh
động về Đức Maria, đặc biệt là những lời nói của Đức Maria trong biến cố quan trọng
này, bởi vì trọn lịch sử cứu độ đều được liên kết với biến cố Truyền tin.146 Sứ điệp
chính yếu trong biến cố này tập trung vào Con Trẻ sẽ được sinh ra và sứ mạng của Em.
Điều này nói lên rằng, lời truyền tin cho Đức Maria là một lời loan báo về Chúa Giêsu:
“Bà sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, và đặt tên con trẻ là Giêsu” (Lc 1,31). Thực
sự, đó chính là Tin mừng đầu tiên về Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng Mêssia.147
Trước hết, chúng ta tìm hiểu về tương quan giữa thánh Giuse và Đức Maria. Xét
về tính pháp lý thì Đức Maria và thánh Giuse đã là vợ chồng, bởi vì theo Mt 1,19:
“Giuse - chồng bà” và theo Mt 1,20: “Maria - vợ ông”. Tuy nhiên, xét về thực tế thì
theo Mt 1,18 trước khi họ về chung sống, bà Maria đã có thai. Như thế, một mình Đức
Maria được mời gọi cộng tác trực tiếp vào mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa.
Lời của sứ thần: mừng vui lên hỡi Đấng được sủng ái, được yêu bởi Thiên Chúa
(x. Lc 1,28). Tiếp theo, lời sứ thần nói về kế hoạch cứu độ mà Đức Maria được mời gọi
cộng tác: Bà sẽ thụ thai sinh con trai mà không nói mang thai cách nào. Tuy nhiên,
Người Con của Bà sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao, được làm vua trên ngai vàng
Đavid, trị vì nhà Giacob và triều đại sẽ vô cùng vô tận ( x. 2 Sm 7,1-14).148
Đức Maria trả lời: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người đàn ông”
(Lc 1,34). Đức Maria thắc mắc điều mà sứ thần chưa nói rõ. Thánh Tôma trưng dẫn lời
thánh Ambrôsiô và chú giải câu này: “Mẹ không hề nghi nan về việc thụ thai, nhưng muốn
biết thụ thai bằng cách nào.”149 Tuy nhiên, ẩn dấu trong lời thắc mắc là một sự ưng thuận.
Vấn nạn ở đây là: liệu Đức Maria có đủ khôn ngoan để mau mắn đáp trả tiếng “xin vâng”
144 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 68. 145 Vinh Sơn Quang Huy, Sống Với Đức Kitô Như Được Trình Bày Trong Tin Mừng (Hà Nội: Tôn Giáo,
2013), tr. 23. 146 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 65. 147 x. An-phong-sô Bốt-sa, S. M. M, Từ Điển Đức Mẹ, tr. 578. 148 x. Lm. Luca Đỗ Duy Khang, “Tin Mừng Luca”, Học Viện Thần Học Xitô, 2015 [CD-ROM]. 149 Lm. Frederick M. Jelly, O. P, Tôn Sùng Đức Maria trong Thánh Truyền Công Giáo, tr. 204.
34
hay không? Chúng ta có thể trả lời ngay: Đức Maria có đủ khôn ngoan, bởi vì lúc nào Ngài
cũng trong tư thế sẵn sàng vâng nghe lời Thiên Chúa, cho dù phải trả giá.150
Sứ thần giải thích: Thánh Thần sẽ ngự xuống (x. Is 61,1-2), quyền năng Đấng Tối
Cao (x. Xh 13,21tt) sẽ phủ lấp trên bà. Không những thế, sứ thần còn trưng dẫn về
quyền năng của Thiên Chúa khi làm cho bà Elisabet son sẻ có thai, mặc dù việc bà ấy
có thai là do sự cộng tác của chồng bà. Cuối cùng, sứ thần xác quyết về quyền năng của
Thiên Chúa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
Đức Maria trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời
sứ thần nói” (Lc 1,38). Đức Maria đã đồng ý mặc dầu Ngài không hiểu được điều mà sứ thần
giải thích, “không hiểu nhưng vẫn chấp nhận mạc khải”151. Hàm ý trong thái độ này là một
sự ý thức đầy đủ rằng Chúa có toàn quyền trên đời sống của Mẹ, Ngài muốn sao cũng được,
dù tốt hay xấu.152 Chính ngay lúc đáp lại lời sứ thần, “Ngôi Lời hằng hữu bắt đầu hiện hữu
như là một con người trong dòng thời gian.”153 Lời thưa của Đức Maria còn nói lên một sự
chấp nhận hoàn toàn và tự do đối với ơn gọi vừa được mạc khải cho Mẹ. Thực sự, lời này
nói lên một thái độ chấp nhận thay đổi kiếp phận (x. Rm 3,9; 1Sm 25,41) và hoàn toàn hiến
thân cho chương trình Thiên Chúa cứu độ Dân Ngài.154 Như thế, sự ưng thuận của Đức
Maria là ưng thuận chương trình của Thiên Chúa, với một sự dấn thân trực tiếp, hài hòa với
sự dấn thân của Ngôi Lời Nhập Thể,155 và Đức Maria đã hiểu “ý thức thân phận tôi tớ là một
điều cần thiết để có thể đón nhận lời Thiên Chúa”.156 Bên cạnh đó, việc Đức Maria xưng
mình là “Nữ tỳ” để biểu lộ sự cộng tác với sứ mạng của Chúa Cứu Thế. “Người Tôi Tớ” của
Thiên Chúa Giavê liên kết với “Người Nữ tỳ” của Chúa trong bước khởi đầu công cuộc Cứu
thế, Chúa Giêsu hoàn tất công trình của Thiên Chúa và Mẹ Người là Nữ tỳ của Chúa, tỏ rõ
hai ý chí hòa hợp trong sứ mạng của Chúa Kitô và trong cuộc đồng công của Mẹ.157
Sự ưng thuận của Đức Maria không chỉ diễn tả sự tuân phục và phó thác mà còn thể
hiện niềm khát mong được cộng tác vào trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa dành
cho con người tội lỗi.158 Lời “Xin Vâng” của Mẹ trong nhà Nazareth hòa vang với lời xin
vâng của Chúa Cứu Thế trong vườn Cây Dầu. Lời “Xin Vâng” của Mẹ biểu lộ niềm vui
150 x. Lm. Luca Đỗ Duy Khang, “Tin Mừng Luca”, Học Viện Thần Học Xitô, 2015 [CD-ROM]. 151Gieo bước hành trình Abraham, Môsê, người Tôi Trung Isaia & Đức Maria, tuyển dịch: Phêrô Nguyễn
Quí Khôi (TP HCM: Hồng Đức, 2015), tr. 134. 152 x. Đức hồng y Carolo Maria Martini, Lời Hứa Đã Được Thực Hiện, chuyển ngữ: Lm. Montfort Phạm
Quốc Huyên (Hà Nội: Tôn Giáo, 2015), tr. 122. 153 ĐGH. Biển Đức XVI, Niềm Vui Đức Tin, tr. 99. 154 x. An-phong-sô Bốt-sa, S. M. M, Từ Điển Đức Mẹ, tr. 590. 155 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 65. 156 x. Lm. Luca Đỗ Duy Khang, “Tin Mừng Luca”, Học Viện Thần Học Xitô, 2015 [CD-ROM]. 157 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 65. 158 x. Sđd.
35
tuân phục đồng công cứu chuộc, tương phản với sự bất tuân tác hại của bà Evà, trong việc
Đức Maria trực tiếp và mau lẹ cộng tác vào công trình cứu chuộc loài người.159 Như vậy,
sự đáp trả của Mẹ mở ra niềm hy vọng lớn lao cho cả nhân loại, như lời của đức Bênêđictô
XVI trong thông điệp Spe Salvi về Hy vọng Kitô giáo đã dạy: “Với tiếng thưa Vâng, Mẹ đã
mở cánh cửa để Thiên Chúa đi vào thế giới của chúng ta; Mẹ trở thành Hòm Bia Giao
Ước; trong Mẹ, Thiên Chúa đón nhận thân xác, trở thành một con người, ‘cắm lều’ giữa
chúng ta (x. Ga 1,14).”160 Vì thế, Mẹ cộng tác trực tiếp trong mầu nhiệm Nhập Thể.
2.1. Đức Maria cộng tác trực tiếp trong mầu nhiệm Nhập Thể
Thánh Gioan tuyên xưng: “Từ khởi nguyên đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời ở nơi
Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa […] và Ngôi Lời đã làm người” (Ga 1,1-14).
Ngôi Lời có bản tính như Chúa Cha vì Ngôi Lời và Chúa Cha là một (x. Ga 10,30). Qua
việc Nhập Thể, Ngôi Lời có thêm bản tính nhân loại. Thật là một mâu thuẫn lớn lao:
Thiên Chúa vốn cao cả lại trở nên bé nhỏ. Ngài trở thành người, như thế cũng mặc lấy
điều kiện đầu thai và sinh ra của một con người. Ngài có một Người Mẹ, và bằng cách
đó, Người đã thật sự được dệt vào tấm thảm kịch của lịch sử loài người, đến nỗi một Phụ
Nữ đã có thể thật sự nói được với Đứa Con mình sinh ra: Chúa Tể trần gian ở trong
Tôi.161 Như thế, mầu nhiệm Nhập Thể đã mang lại một giá trị cao vời cho cuộc sống
thường nhật của con người, mặc dầu cuộc sống ấy vẫn mặc vẻ độc điệu và tầm thường.162
Theo tư tưởng của giáo phụ Origène, “con người không được cứu trọn vẹn nếu như
Đấng Cứu Thế đã không mặc lấy con người trọn vẹn.”163 Thánh Athanasiô, giám mục
thành Alexandria có nói: “Thiên Chúa trở thành con người, để con người có thể trở
thành thiên chúa.”164 Như thế, Con Thiên Chúa phải được sinh ra như một người thật sự
để có thể thánh hóa và cứu độ con người một cách toàn diện, cả linh hồn và thể xác.
Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã giải thích Thánh vịnh 39 dưới ánh sáng của
biến cố Chúa Kitô Nhập thể: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói [...] Lạy Thiên Chúa,
này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,5-7). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu
là lời cầu nguyện của vị Thượng Tế. Cũng vậy, Đức Maria cũng sớm biết rằng với tư
159 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 65. 160 ĐGH. Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe Salvi, bản dịch của Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, số 49. 161 x. Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, tr. 295. 162 x. Norberto Nguyễn Văn Khanh, O. F. M, Đức Giêsu Kitô: Ngôi Lời Nhập Thể (TP HCM: Tổng Hợp,
2014), tr. 326. 163 x. Bernard Sesboué Wolinsky, Thiên Chúa Cứu Độ-lịch sử tín điều, tr. 99. 164 Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Kitô hữu có nghĩa là gì: Ba bài giảng, chuyển ngữ: Nt. Têrêsa
Nguyễn Thị Kim Phúc, MTGGV (Hà Nội: Tôn Giáo, 2013), tr. 48.
36
cách là Mẹ của Chúa Giêsu thì Mẹ cũng phải chịu đau khổ (x. Lc 2,35).165 Chúng ta
đứng trước mầu nhiệm của hai lời xin vâng: Tiếng xin vâng “Này con đây” của Con
Thiên Chúa và lời xin vâng “Này con đây” của Mẹ Maria. Hai lời này hòa quyện vào
nhau và kết thành lời “Amen” duy nhất đón nhận thánh ý tình yêu của Thiên Chúa.166
Biến cố Truyền tin đã cụ thể, khởi đầu lịch sử cứu rỗi đã được Thiên Chúa phán hứa,
tiên báo và tượng trưng trong Cựu ước. Sứ điệp thiên sứ Gabriel chuyển trao cho Đức
Trinh Nữ Maria là “một sứ điệp ơn cứu rỗi nằm trong việc Nhập Thể của Ngôi Lời.”167
Tên của Hài Nhi được sứ thần Gabriel tiết lộ cũng gồm chứa rõ ràng toàn bộ chương
trình của Con Trẻ: Giêsu có nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ” (x. Mt 1,21). Chính nơi Hài
Nhi mà ơn cứu độ Thiên Chúa đã được hứa ban và sẽ được thực hiện viên mãn.168
Công đồng Vaticanô II đã kế thừa truyền thống liên tục của Giáo Hội khi nói rằng:
“khi Sứ thần truyền tin, Đức Trinh Nữ Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong
tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian”.169 Qua việc đáp trả lại lời mời
gọi của Thiên Chúa qua trung gian thiên sứ Gabriel, Đức Maria đã cưu mang trong cung
lòng thánh thiện của mình Ngôi Lời Nhập Thể, “trở thành Mẹ Ngôi Lời nhập thể, thành
Đấng đồng công với Chúa Cứu Thế, và thành Đấng ban phát mọi ơn cần thiết để cải hóa
các linh hồn.”170 Đức Maria được gọi là mẹ của nhân loại, vì Mẹ đã chuyển trao cho
nhân loại sự sống thần linh, sự sống vĩnh cửu, khởi đi từ việc hạ sinh Đấng Cứu Thế
được trao ban cho nhân loại. Khi sinh ra Chúa Kitô - Tác Giả sự sống thần linh cho thế
gian, Đức Maria thực sự là Mẹ nhân loại, nhưng là một nhân loại mới.171 Nhà thần học
Pietrafesa nhận thấy rằng biến cố Truyền tin đã mặc nhiên dự báo cuộc tử đạo của Đức
Maria dưới bóng cây Thập giá. Mẫu chức vui mừng của Đức Maria liên đới với nỗi đau
thương đắng cay trong sứ mạng đồng công cứu chuộc gia đình nhân loại.172
Như vậy, việc Nhập thể cứu chuộc của Ngôi Lời khởi động cùng với mẫu chức
cứu chuộc của Đức Maria. Điều này hàm chứa trong nội dung sứ điệp của thiên sứ, và
là điều mạc khải chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, mà Đức Trinh Nữ thành
Nazareth được mời gọi chấp thuận, và rất ý thức về sứ mạng Mẹ đã được tuyển chọn,
từ khi Mẹ chịu thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho tới lúc Chúa Kitô chịu chết.173
165 x. Jan G. Bovenmars, M. S. C, Linh Đạo Trái Tim Theo Thánh Kinh, chuyển ngữ: Lm. Montfort Phạm
Quốc Huyên, O. C (Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Phước Thiên, 2015), tr. 167. 166 x. ĐGH. Biển Đức XVI, Niềm Vui Đức Tin, tr. 101. 167 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 63. 168 x. An-phong-sô Bốt-sa, S. M. M, Từ Điển Đức Mẹ, tr. 587. 169 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 53. 170 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 64. 171 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 81. 172 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 64. 173 x. Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 57.
37
2.2. Đức Maria bị lưỡi gươm đâm thâu (x. Lc 2,34-35)
Trong biến cố Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hai Nhi nơi Đền thánh, cụ già
Simêon mời gọi chúng ta chiêm ngắm hành động từ bi của Thiên Chúa, Đấng đổ tràn
Thánh Thần trên người tín hữu để hoàn thành chương trình tình yêu nhiệm mầu của
Ngài.174 Khi vạch ra tương lai của Đấng Cứu Thế, ông Simêon quy chiếu tới lời tiên tri
về “Người Tôi Tớ” được sai đến với dân ưu tuyển và mọi dân tộc (x. Is 42,6; 49,6).175
“Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay
đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ
thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà”
(Lc 2,34-35). Lời tiên báo của cụ Simêon là một mặc khải về viễn tượng đau khổ của
Đức Giêsu và của Đức Maria.176 Kể từ lúc đón nhận lời tiên tri này, Đức Maria đã cùng
với Con mình bước vào mầu nhiệm Thập giá cách mãnh liệt, để hiệp thông đau khổ với
Con Mẹ trong công trình cứu chuộc nhân loại. Mẹ đồng hành với sứ mạng Cứu thế của
Con và kết hiệp với Hy tế của Con cho đến đỉnh đồi Calvê.177 Trái tim của Mẹ chịu đâm
thâu để trở thành người đồng hành với Đấng có Trái tim bị đâm thâu trên Thập giá.178
Lời của cụ Simêon như một cuộc “Truyền tin” thứ hai cho Đức Maria, vì nó biểu lộ
cho Mẹ thấy hiện trạng lịch sử cụ thể mà Con Mẹ sẽ hoàn thành sứ mạng của Ngài, trong sự
hiểu lầm và trong đau khổ. Lời tiên tri đó, một đàng củng cố niềm tin của Mẹ vào Thiên
Chúa sẽ thực hiện lời hứa cứu độ của Ngài, đàng khác cũng tiết lộ rằng Mẹ phải sống vâng
phục trong đức tin, trong đau khổ bên cạnh Chúa Cứu Thế khổ đau.179 Đặc biệt, dưới chân
Thánh giá, nhờ lòng tin, Đức Maria chia sẻ vào mầu nhiệm kinh hoàng trong sự tự hạ của
Con Thiên Chúa. Nhờ đức tin, Đức Maria tham dự vào cái chết cứu độ của Con mình. Qua
Thập giá, Đức Giêsu đã chứng thực một cách dứt khoát trên đồi Calvê rằng, Người là “dấu
hiệu bị người đời chống báng”, như cụ Simêon đã báo trước. Đồng thời, ở nơi đó những lời
nói về Đức Maria cũng thành tựu: “Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng Bà.”180 Như
thế, “tin là sẵn lòng đảm nhận đau khổ.”181 Lưỡi gươm “tượng trưng rất ý nghĩa cho sứ vụ
đồng công của Mẹ Maria, một biểu hiệu cụ thể quan trọng hành vi tàn ác đâm thâu, xé nát
và tàn phá mọi thớ tâm lòng Mẹ. Với lưỡi gươm này trong lòng Mẹ, Mẹ Maria là Đấng đồng
174 x. ĐGH. Gioan Phaolô II, 70 Bài Giáo Lý Về Đức Maria, tr. 113. 175 x. Sđd., tr. 114. 176 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 85. 177 x. Sđd. 178 x. Jan G. Bovenmars, M. S. C, Linh Đạo Trái Tim Theo Thánh Kinh, tr. 174. 179 x. ĐGH. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater, số 16. 180 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 85-86. 181 Gieo bước hành trình Abraham, Môsê, người Tôi Trung Isaia & Đức Maria, tr. 127.
38
công như Chúa Giêsu trên Thánh giá là Đấng Cứu Thế.”182 Thật vậy, lưỡi gươm được giải
thích là: Lưỡi gươm sự hoài nghi của Đức Maria nơi Chúa Giêsu trong suốt cuộc khổ nạn
(Origen); lưỡi gươm của một cái chết dành cho Mẹ Maria (Epiphaneus), lưỡi gươm sự đau
khổ của người Mẹ Sầu bi dưới chân Thập giá.183 Lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Đức Maria
có nghĩa là sự chia sẻ mật thiết của Mẹ trong việc Chúa Giêsu bị chống đối và bị loại bỏ.
Như thế, Đức Maria tham dự trực tiếp vào những khổ đau của Chúa Giêsu.184
Những từ ngữ như: “dâng hiến”, “chuộc đền”, “đền thờ”, “của lễ”, “tư tế” diễn tả đặc
tính của công cuộc cứu chuộc. Trong biến cố khởi đầu đời sống của Chúa Giêsu, cụ già
Simêon và Mẹ Maria hợp nhất một cách mật thiết với Chúa Cứu Thế. Cũng trong biến cố
này, Mẹ Maria hiện diện là Mẹ của Hài Nhi. Hài Nhi này là ơn cứu rỗi các dân tộc, là ánh
sáng cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Chúa (x. Lc 2,31-32). Mẹ ẵm bế dâng Chúa
Cứu Thế, nên Mẹ là vai chính sứ vụ của Hài Nhi, vì Mẹ nuôi dưỡng chuẩn bị cho công cuộc
cứu chuộc loài người. Với lời tiên của Simêon, thánh sử Luca chiếu tia sáng từ trời cao trên
mầu nhiệm cứu độ, có mục đích đem mọi người tới ánh sáng và tới vinh quang. Đây là mầu
nhiệm cứu rỗi mặc khải Tân Ađam và Tân Evà liên kết với nhau trong Đền thờ.185
Thật vậy, Đức Kitô đã chấp nhận đau khổ đến độ chết trên cây Thập giá không phải do tội
của Ngài, mà là vì Ngài gánh lấy tội của nhân loại; Đức Maria thánh thiện đã chịu đau khổ nhiều
khi dâng lên Chúa Cha sự đau khổ của Đức Kitô và sự đau khổ của chính mình, như Mẹ của Đấng
Cứu Thế. Sự đau khổ của Con Thiên Chúa thì vô cùng và sự đau khổ của Đức Maria cũng vô cùng
lớn lao. Điều này được truyền thống Hội Thánh kính nhớ qua diễn ca: “Bảy sự thương khó Đức
Mẹ”. Việc Đức Maria hiệp thông trong sự đau khổ của Đức Kitô, góp phần vào việc khai sinh Hội-
Thánh, tức là làm phát sinh một nhân loại mới hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa (x. Cl 1,24).186
Tóm lại, biến cố Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, qua lời tiên tri của cụ già
Simêon, tạo lập một vấn đề nền tảng và gợi nhớ sứ vụ đồng công của Mẹ; và một đề tài tiên
tri về mẫu chức đồng công của Mẹ, dâng hiến Con Mẹ lên Chúa Cha, và cùng với Con Mẹ
hy hiến cho phần rỗi nhân loại. Lưỡi gươm hy hiến đã sẵn sàng được thi hành, để Mẹ được
trực tiếp cộng tác vào công cuộc cứu rỗi mà muôn dân mong đợi. Những nỗi đau khổ sâu xa
của Mẹ không phải là ngoại diện do những căn cớ bên ngoài, nhưng là nội tại thẳm sâu trong
182 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 70. 183 x. Gieo bước hành trình Abraham, Môsê, người Tôi Trung Isaia & Đức Maria, tr. 130-131. 184 x. Đức hồng y Carolo Maria Martini, Lời Hứa Đã Được Thực Hiện, chuyển ngữ: Lm. Montfort Phạm
Quốc Huyên (Hà Nội: Tôn Giáo, 2015), tr. 126. 185 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 69-70. 186 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 86.
39
sứ vụ đồng công mà Mẹ khởi đầu khi thiên sứ truyền tin, khi Mẹ hạ sinh Chúa tại Bêlem,
trong suốt cuộc đời của Mẹ,187 và đỉnh cao là Mẹ hiện diện dưới chân Thập giá Chúa.
3. Đức Maria hiện diện dưới chân Thánh giá (x. Ga 19,25-27)
Có thể nói, những lúc vinh hiển trong cuộc đời của Chúa Giêsu như lúc Ngài biến hình
trên núi Taborê, khi vào thành Giêrusalem, lúc Chúa làm phép lạ... thì không thấy Tin mừng
kể về sự hiện diện của Mẹ Maria; nhưng những giây phút hiểm nguy đau buồn nhất, Mẹ can
đảm hiện diện, đặc biệt trong biến cố đồi Calvê.188 Thật vậy, không có sự kiện và cũng
không có lời nào mà thánh Gioan viết trong Tin mừng mà lại thiếu ý nghĩa hoặc không chất
chứa một mầu nhiệm. Dầu vậy, chúng vẫn không mất tính lịch sử cụ thể. Thời điểm Đức
Maria đứng dưới chân Thập giá là thời điểm mà Chúa Giêsu kết thúc sứ vụ của Ngài trên
trần gian. Thánh Gioan không tường thuật nhiều về Đức Maria, ngoài di chúc Đức Giêsu để
lại cho Mẹ của Ngài mà thôi. “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người [...] Khi
thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu
rằng: ‘Thưa Bà, đây là con của Bà.’ Rồi Người nói với môn đệ: ‘Đây là mẹ của anh.’ Kể từ
giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,25-27). Những lời này đưa chúng ta trở
lại với buổi bình minh của nhân loại, khi nguyên tổ Ađam-Evà đã để lại sự suy vong cho loài
người gần “cây trái cấm” (x. St 3,1-6). Hôm nay, trên đồi Calvê, hai Tổ Phụ Dân Mới của
Thiên Chúa đã đem lại ơn cứu rỗi cho loài người gần cây Thánh giá, với sự Hy tế của Chúa
Giêsu, và sự đồng hy tế của Đức Maria.189 Bên cạnh đó, đoạn Tin mừng này làm nổi bật “vai
trò làm mẹ trong bình diện cứu độ của ân sủng đạt tới đỉnh cao, lúc hy tế thập giá của Đức
Kitô, cũng là mầu nhiệm vượt qua của Người, được hoàn tất.”190 Chính đức Bênêđictô XVI
đã xác nhận: “Từ thập giá, Mẹ lãnh nhận một sứ vụ mới. Từ thập giá, Mẹ đã trở thành Mẹ
theo một cách thức mới: Mẹ của những kẻ tin và bước theo Con của Mẹ.”191
Thật vậy, với ơn trợ giúp của Chúa, Mẹ đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin,
trung thành hợp nhất với Con cho đến tận bên Thập giá. Mẹ đã hiện diện ở nơi đây theo
như ý định của Thiên Chúa dành cho Mẹ, sẵn sàng cùng chịu đau khổ với Người Con Một
và dự phần vào hy lễ của Con với cả tấm lòng hiền mẫu, dùng trọn tình yêu chấp nhận hiến
tế lễ vật do chính lòng mình sinh ra; và cuối cùng, Mẹ đã nhận làm Mẹ của người môn đệ
qua lời trăn trối của Chúa Giêsu Kitô đang hấp hối trên Thập giá: “Thưa Bà, này là con
Bà” (x. Ga 19,26-27).192 Theo đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: sau bí tích
187 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 71. 188 x. Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 928. 189 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 71. 190 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 90. 191 ĐGH. Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe Salvi, số 50. 192 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 58.
40
Thánh Thể, Chúa không thể trối gì hơn cho chúng ta. Mẹ đã đạp nát đầu con rắn, Mẹ sẽ
giúp chúng ta chiến thắng ma quỷ, thế gian, xác thịt. Mẹ sẽ ban ơn cho chúng ta giữ vững
lý tưởng cao cả mà Chúa đã đặt vào lòng chúng ta.193 Người môn đệ rước bà về nhà mình
(x. Ga 19,27), đón rước Đức Maria vào chính trong tâm hồn mình, đón nhận Mẹ như một
báu vật, yêu Mẹ như Chúa đã yêu Mẹ;194 chúng ta cũng được mời gọi noi gương bắt chước
để đón nhận Mẹ vào trong cõi riêng tư nhất trong tâm hồn chúng ta.
Như thế, “mẫu tính của Đức Maria không ngừng lại nơi một mình Gioan, nhưng
bao trùm hết mọi người mà Đức Giêsu coi là thuộc về Ngài.”195 F. M. Braun còn cho
rằng: “Theo ý của Gioan, Đức Maria dưới chân Thập giá chính là sự thực hiện của
người phụ nữ của khởi Tin mừng, của người phụ nữ mà dòng dõi được coi như chống lại
con rắn.”196 Hơn nữa đối với thánh Gioan, tất cả những nét khác nhau của cảnh tượng
diễn ra trên đồi Golgotha đều là sự thực hiện của một sấm ngôn, bởi thế ngay sau đó tác
giả mới viết thêm một chi tiết rất có ý nghĩa: “Đức Giêsu nói: ‘Thế là đã hoàn tất’” (Ga
19,30). Sự gì đã hoàn tất ở đây? Sấm ngôn nào đã được thực hiện ở đây, nếu không phải
là Sấm ngôn của Tiền Tin mừng?197 Như thế, nhìn một cách tổng quát biến cố đồi Calvê
cho chúng ta thấy hai điểm sáng quy chiếu cho sứ vụ đồng công của Đức Maria, đó là
“Giờ” của Chúa Giêsu và ý nghĩa sự hiện diện của Mẹ trong thảm cảnh đau thương này.
3.1. Đức Maria trong “Giờ” hiến tế
Có thể nói, thánh Gioan (và chính Chúa Giêsu) đã nhiều lần nói về “Giờ” của Chúa
Giêsu. Từ biến cố tiệc cưới Cana (x. Ga 2,6) đến lời tiên báo về cuộc hiến tế (x. Ga 13,1tt), lời
nói về “Giờ” chỉ mình Cha biết (x. Mt 24,36) đều quy hướng về mầu nhiệm vinh quang của
Chúa Kitô trên Thập giá (x. Ga 12,27 tt). “Giờ đã đến” khi Chúa Con được vinh quang và
Ngài sẽ đem vinh quang về dâng lên Chúa Cha qua hành vi cứu độ nhân loại (x. Ga 17,1tt).198
Khi đặt bản văn Ga 2,1-12 và bản văn Ga 19,25-27 lại gần nhau, chúng ta thấy
hai bản văn này đối ứng, mở - đóng199 và hai bản văn trên còn được “nối kết bằng ‘giờ’
hiến tế, giờ tử nạn và là giờ được tôn vinh.”200 Trở lại với bối cảnh tiệc cưới Cana...,
hôm ấy, sau khi Đức Maria ngỏ lời với Con Ngài về tình trạng của gia đình đôi Tân
hôn: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giêsu trả lời Đức Maria: “Thưa Bà, giờ tôi chưa đến” (Ga
193 x. Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 913. 194 x. Lm.Micae Trần Đình Quảng, giám đốc đại chủng viện Đà lạt, “Bài Giảng Tĩnh Tâm Năm Tại Cộng
Đoàn Châu Sơn”, Đan Viện Châu Sơn, 2017 [CD-ROM]. 195 Lm. Nguyễn Văn Tuyên, Đức Maria-Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể (Hà Nội: Tôn Giáo, 1999), tr. 23. 196 Lm. Nguyễn Văn Tuyên, Đức Maria-Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, Sđd., tr. 24. 197 Sđd. 198 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr.182-183. 199 x. Lm. Tanila Hoàng Đắc Ánh, Thần Học Về Đức Maria, tr. 38. 200 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 91.
41
2,4). Không phải là “thưa Mẹ” nhưng là “thưa Bà”. Đức Giêsu gọi Đức Maria là “Bà”
theo nghĩa “đàn bà”, người có chức năng làm mẹ. Mặt khác, Chúa không nói với tư
cách là con nhưng trong tư cách là Chủ của Tiệc cưới Nước Trời.201 Bên cạnh đó, câu
trả lời của Đức Giêsu có vẻ như hẹn với Đức Maria “một giờ nào đó hãy đóng vai trò
làm mẹ mà xin...”202 Hôm nay, “Giờ” của Đức Giêsu đã đến, đó là “giờ” Người được
tôn vinh, vì Người đã vâng ý Chúa Cha mà chịu hiến tế hy sinh.203 “Giờ này” là lúc
Nhân Loại Mới được sinh ra, cũng là “Giờ” của Người Nữ sinh Con đạp dập đầu Satan
(x. Ga 3,15), Bà vui mừng vì “một người đã sinh vào thế gian”, theo lời Chúa Giêsu (x.
Ga 16,21), và Bà trở thành Mẹ của mọi kẻ sống (x. Ga 3,20).204 Tại Cana, “Người Nữ”
ấy được đề cập liên kết với “Giờ” của Đấng Cứu Thế. Trên đồi Calvê, Đức Maria hiện
diện “theo kế hoạch của Thiên Chúa”205 và cũng theo ý muốn của Mẹ.206 Dưới chân
Thập Giá, Đức Maria đại diện cho Giáo Hội (và nhân loại) một cách rất đặc biệt để tiếp
nhận ơn cứu độ và tham dự vào hồng ân ấy với tất cả hữu thể của Mẹ.207
Thật vậy, “Giờ” của Đức Giêsu cũng là “Giờ” của Đức Maria, bởi vì “Giờ” của
Đức Maria “được liên kết với giờ hiến tế này và trái tim Mẹ cũng chịu hiến tế như lời
tiên báo của Simêon là ‘một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Mẹ’ (x. Lc 2,35)”208.
Chính trong “Giờ” này, Con Thiên Chúa - Ngôi Lời Nhập Thể đã trao phó cho Đức
Maria và Đức Maria có nghĩa vụ phải chăm sóc không chỉ gia đình tân hôn ở Cana mà
còn tất cả các môn đệ, tất cả những người tin vào Chúa Kitô trong quá khứ cũng như
trong tương lai.209 Đó là ý nghĩa của câu: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Nhiều nhà
Kinh Thánh còn cho rằng: “Sau khi trao phó cho Đức Maria nhiệm vụ làm Mẹ chúng ta
và sau khi Đức Maria nhận nhiệm vụ ấy, Đức Giêsu liền sinh hạ chúng ta từ trái tim bị
đâm thâu.”210 Như vậy, có thể nói “giờ phút hiến tế dưới chân Thập giá là đỉnh điểm
của lời ‘xin vâng’, và cả cuộc đời xin vâng của Đức Maria hướng về giờ phút hy sinh
này. Cùng với Chúa Giêsu, Đức Maria đã chịu sát tế tâm hồn và làm cho lời “xin
vâng” viên mãn khi Đức Giêsu kêu lên: ‘mọi sự đã hoàn tất’”211. Linh mục Thiện Cẩm
đã nói thật ý nghĩa: “Tình yêu là nguồn gốc của cả sự sống lẫn sự chết, và để được sự
201 x. Lm.Micae Trần Đình Quảng, giám đốc đại chủng viện Đà lạt, “Bài Giảng Tĩnh Tâm Năm Tại Cộng
Đoàn Châu Sơn”, Đan Viện Châu Sơn, 2017 [CD-ROM]. 202 Lm. Tanila Hoàng Đắc Ánh, Sđd., tr. 38. 203 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 91. 204 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 183. 205 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 58. 206 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 183. 207 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 58; 61; 65. 208 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 91. 209 x. Lm. Tanila Hoàng Đắc Ánh, Sđd., tr. 38. 210 Sđd., tr. 38. 211 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 91-92.
42
sống vĩnh cửu thì tình yêu cần chiến thắng sự chết; nhưng đàng khác, sự chết vẫn là
giới hạn của tình yêu, nó là thử thách lớn lao và tuyệt đối của tình yêu.”212
3.2. Đức Maria hiện diện và hiệp thông cứu chuộc
Theo thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, sự hiện diện của Đức Maria trên đồi
Calvê rất cần thiết. Mẹ “đứng dưới chân Thánh giá là điểm cao chót sứ mạng đồng
công của Mẹ đã được tiên báo trong vườn địa đàng với nguyên tổ loài người. Từ cây
Thánh giá, Mẹ Maria đã được công bố là Đấng đồng công.”213 Chúa Cứu Thế chịu khổ
nạn và Mẹ đồng công bị lưỡi gươm đâm thâu tâm lòng, là Tân Ađam và Tân Evà, đã tu
sửa tai họa nguyên tổ, để phát sinh ơn thánh tái sinh các linh hồn tội lỗi. Những mũi
đinh sắc và máu, những gai nhọn và vết thương xâu xé thân xác Chúa Giêsu cũng làm
tan nát cõi lòng của Mẹ Người như lưỡi gươm đâm thâu mà ông Simêon tiên báo.214
Khi người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Đức Giêsu, tức thì máu cùng nước
chảy ra (x. Ga 19,34). Theo nhiều giáo phụ, nước từ cạnh sườn Chúa tượng trưng cho
phép Rửa, còn máu tượng trưng cho phép Thánh Thể. Phép Rửa và phép Thánh Thể
tượng trưng cho Giáo Hội, là bà Evà mới được làm từ cạnh sườn Ađam mới là Đức
Giêsu. Do đó, có thể nói rằng: sau khi Đức Maria được trao phó làm mẹ chúng ta,
Đức Giêsu đã sinh ra Giáo Hội là chúng ta và trao phó chúng ta cho Đức Maria chăm
sóc.215 Như thế, theo cái nhìn này của các giáo phụ, chúng ta có thể hiểu: trước khi
Giáo Hội được sinh ra (khi trái tim của Chúa được mở) thì Mẹ Maria đã được giao sứ
vụ làm mẹ nhân loại. Do đó, Mẹ Maria đã đóng vai trò hiệp thông cứu độ.
Nếu như với cuộc sinh hạ bình thường, người phụ nữ phải chịu đau đớn thì việc hạ
sinh của Đức Maria dưới chân Thập giá càng làm Mẹ đau đớn biết dường nào. Cuộc tử đạo
của Đức Maria đã được cụ già Simêon tiên báo trong Tin mừng theo thánh Luca (x. Lc
2,35) và hôm nay cuộc tử đạo của Mẹ được thực hiện trong cảnh đau thương nhất, khi
người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Đức Giêsu, tức thì máu cùng nước chảy ra (x. Ga
19,34). Thánh Bênađô cho rằng: Lưỡi gươm của người lính “không tha người đã chết mà
nó không làm hại được nữa, nó đã mở sườn Người ra; nhưng chính lúc đó, nó lại đâm thâu
lòng Mẹ.”216 Thánh Bênađô còn tuyên xưng: Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu khi người
lính đâm vào trái tim Con Mẹ, vì vậy, chúng con thật có lý do mà tuyên bố rằng Mẹ còn
hơn các vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau
212 Lm. Thiện Cẩm, Niềm Tin Thao Thức (Đức Tin & Văn Hóa), tr. 426. 213 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 72. 214 x. Sđd., tr. 72-73. 215 x. Lm. Tanila Hoàng Đắc Ánh, Sđd., tr. 38-39. 216 Thánh Bênađô, Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, quyển 2, tr. 1061.
43
khổ trong thân xác.217 Như vậy, để sinh hạ nhân loại trong đời sống ân sủng, Chúa Giêsu
và Mẹ Maria đã trả một cái giá quá đắt, đó chính là cái chết về thể xác và cái chết trong
tâm hồn. Theo đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp Salvifici Doloris,
ban hành ngày 11/02/1984, Mẹ Maria “chịu khổ đau bên cạnh Chúa Giêsu quá sức tưởng
tượng của loài người, với kết quả lạ lùng huyền diệu cho ơn Cứu rỗi của thế giới.”218 Nơi
khác, ngài dạy: Mẹ Maria “đã tham dự tích cực vào Hy lễ Thánh giá. Mẹ đứng bên Chúa
Giêsu tử giá để chịu đau khổ xót xa với Người. Với lòng Hiền mẫu, Mẹ kết hợp với Hy tế
của Người. Với tình yêu mến, Mẹ đồng thuận với lễ Hiến tế của Người. Mẹ dâng hiến
Người và chính mình Mẹ cho Chúa Cha,”219 để đem ơn cứu độ cho tất cả chúng ta.
Thật vậy, sự hiệp thông cứu độ của Đức Maria trong công trình của Chúa Kitô có
một không hai trong lịch sử nhân loại. Tất nhiên, khi nói Đức Maria hiệp thông cứu chuộc
thì chúng ta không thể hiểu Đức Maria lấy công nghiệp riêng của mình mà cứu chuộc
nhân loại nhưng Đức Maria đã cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô –
Con của Mẹ. Bởi vì khi sinh hạ Giáo Hội trên Thập giá, Đức Kitô còn có Mẹ Maria hiện
diện bên cạnh. Mẹ hiện diện ở đó với trọn vẹn tâm hồn thể xác, để chia sẻ sự đau khổ và
giúp Con của Mẹ chấp nhận Thánh ý Chúa Cha và hiến dâng chính mình.220
Xét trên bình diện con người, chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng: không
có một đau khổ nào Chúa Giêsu chịu trong tâm hồn cũng như thân xác của Ngài mà
không “xé nát” tâm hồn của Mẹ Maria, bởi vì Đức Giêsu là con thật của Mẹ, do chính
Mẹ đã sinh ra, hơn nữa Ngài còn là Con Thiên Chúa. Chính trong những đau khổ tột
cùng mà Mẹ đã chịu dưới chân Thập giá cùng với Chúa Giêsu, Mẹ đã tham gia vào
công trình sinh hạ Giáo Hội và Mẹ xứng đáng được gọi là “Hiệp thông cứu chuộc”.
Thật vậy, ơn cứu độ nhân loại chỉ do một mình Đức Giêsu thiết lập qua hiến tế Thập giá
của Ngài và ngoài Thiên Chúa ra, không một thụ tạo nào có thể cứu rỗi chúng ta. Đức Maria
mặc dù là Mẹ Thiên Chúa nhưng Ngài cũng là một thụ tạo. Do đó, Đức Maria cần đến ơn cứu
độ như chúng ta. Tuy nhiên, chỉ nơi Mẹ, ơn cứu độ được ban một cách đặc biệt, đặc biệt đến
độ được ban ngay khi còn sống trên trần thế này.221 Mẹ được hưởng trước công nghiệp của
Chúa Kitô, Con của Mẹ sau này. Do đó, ý nghĩa của sự hiệp thông cứu độ hệ tại ở chỗ: có sự
liên kết giữa những đau khổ và ý chí nơi Đức Maria với những đau khổ và ý chí của Đức
Giêsu. Bên cạnh đó, nhờ sự từ bỏ những quyền lợi của một người mẹ mà Đức Maria đã cùng
217 Thánh Bênađô, Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, quyển 2, tr. 1061. 218 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 54. 219 Sđd. 220 x. Lm. Tanila Hoàng Đắc Ánh, Sđd., tr. 39. 221 x. Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Thánh Mẫu Học (2005), tr. 145-146.
44
với Đức Giêsu cứu chuộc nhân loại.222 Mầu nhiệm khổ đau của Mẹ Maria hòa hợp với mầu
nhiệm khổ đau của Chúa Kitô, cứu thoát nhân loại khỏi tội lỗi và cái chết. Chúng ta được sinh
ra trên đồi Calvê bằng máu Con và nước mắt của Mẹ Người.223
Tóm lại, dưới chân Thánh giá, với quyền Hiền mẫu, Mẹ Maria hiện diện và hiến dâng
Con Mẹ làm của lễ lên Thiên Chúa Cha, nên trong cách đó, Mẹ trở nên Mẹ đồng công của
loài người. Như Chúa Giêsu hy hiến chính mình để lãnh nhận mọi người là anh em, Mẹ
Maria hiến dâng Con Mẹ và chính mình Mẹ lên Chúa Cha để nên Mẹ cả loài người. Lời âm
thầm “Xin Vâng” của Mẹ trên đồi Calvê bổ sung lời “Xin vâng” dõng dạc của Mẹ tại nhà
Nazareth. Mẫu chức của Mẹ Maria có tính cách đồng công, vì không những liên quan tới
việc ban phát ơn thánh để thánh hóa các phần tử Giáo Hội, mà còn theo thánh ý Thiên Chúa,
bao gồm sự hoàn thành ơn cứu chuộc trong việc thành lập Giáo Hội, là hoa quả nỗi đau
thương cứu chuộc của Chúa Giêsu và nỗi thương đau đồng công của Mẹ Maria.224
4. Đức Maria trong sách Khải huyền (x. Kh 12)
Trong sách Khải huyền chương mười hai, thánh Gioan nhìn thấy người phụ nữ
mình khoác mặt trời, là “phần chính yếu của sách Khải huyền”225. Với nhiều lớp ý nghĩa,
sách Khải huyền trình bày một biến cố quá khứ đang báo hiệu một biến cố xa xăm trong
tương lai. Sách bổ xung cho Cựu ước khi hoàn tất Tân ước, mạc khải thiên đàng bằng
hình ảnh dưới thế. Thực ra, không phải mọi chuyên gia Thánh Kinh đều chú giải chương
mười hai sách Khải huyền về Đức Maria. Tuy nhiên, khi đào sâu chi tiết của bản văn,
chúng ta vẫn nhìn ra được tối thiểu một số chi tiết cho phép xác định rằng sắc thái Maria
trong chương này không phải là điều võ đoán, nhưng có nền tảng chắc chắn.
Mở đầu chương mười hai, tác giả sách Khải huyền đã mô tả về người Phụ Nữ:
“mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đôi triều thiên mười hai ngôi sao”
(Kh 12,1). Chân dung người phụ nữ này có nhiều cách hiểu khác nhau: có lập trường
cho rằng, người phụ nữ ở đây là Hội Thánh, có lập trường cho đây là hình ảnh Đức
Maria và cũng có lập trường hiểu người đó vừa là Đức Maria vừa là Hội Thánh.226
Lược lại lịch sử suy tư thần học trong Giáo Hội, chúng ta thấy: từ thời các giáo
phụ đến thời Trung cổ, hình ảnh “người nữ mặc áo mặt trời” trong sách Khải huyền
được trình bày theo nhãn quan Giáo Hội học nhiều hơn; giữa thời Trung cổ, các học giả
đan tu, nhất là trong truyền thống phụng vụ và trong nghệ thuật, lại nhìn theo nhãn
222 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 93. 223 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 73. 224 x. Sđd., tr. 73-74. 225 Scott Hahn, Bữa Tiệc Con Chiên-Thánh Lễ là thiên đàng tại thế (Hà Nội: Tôn Giáo, 2012), tr. 83. 226 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 93.
45
quan Thánh Mẫu học. Nếu Con Trẻ là Đức Giêsu, thì người Phụ Nữ là Đức Maria. Câu
chú giải này được các giáo phụ như thánh Athanasiô, thánh Epiphaniô và nhiều vị khác
tán thành.227 Ngày nay vẫn tồn tại hai lập trường song song và mỗi lập trường đều có
cái lý lẽ riêng. Đối với nhà thần học người Đức, K. Rhaner và các cộng sự viên của
ngài, thì cho rằng, hình ảnh người nữ mặc áo mặt trời là Israel và Hội Thánh; trong khi
đó, các nhà thần học Pháp như Réné Laurentin… lại xem đó là hình ảnh Đức Maria.228
Chúng ta tôn trọng quan điểm riêng của mỗi người, khi mà Giáo Hội chưa chính thức
lên tiếng. Tuy nhiên, trong tư cách là thần học gia, đức Bênêđictô XVI đã dạy: đầu tiên,
điều đó muốn ám chỉ dân Thiên Chúa trong toàn bộ giao ước cũ và mới, nhưng nó cũng
ám chỉ đặc biệt Đức Maria. Áo mặt trời của Mẹ ám chỉ Đức Kitô là ánh sáng thật cho
thế gian. Mặt trăng, hình ảnh của sự chóng qua, bị Mẹ dẫm dưới chân.229
Trở lại với bản văn, người Phụ Nữ được mô tả:“Bà sinh hạ một người con, một người
con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay
lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12,5). Cứ theo câu văn này thì phải hiểu: người
phụ nữ sinh hạ ở đây, trước hết phải là Đức Maria. Rất có thể, tác giả sách Khải huyền đã
dựa vào hình ảnh Đức Maria tại thế để mô tả Đức Maria trong ngày khải thắng.230 Hơn nữa,
khi đối chiếu giữa Tin mừng và Khải huyền, chúng ta gặp thấy một số hình ảnh song song:
bản văn Ga 2,1 hoặc Ga 19,25 song song với Kh 12,2-5; bản văn Ga 19,27 song song với Kh
12,17; bản văn Ga 2,4; 19,26 song song với Kh 12,4.6; bản văn Lc 1,35.39.43.56… song
song với Kh 11,19.231 Cặp đầu tiên (Ga 2,1; 19,25 // Kh 12,2-5): nếu ở Tin mừng Gioan, Đức
Maria được gọi là “thân mẫu Đức Giêsu” thì những mô tả trong sách Khải huyền là nói về
mẹ Đấng Mêssia. Cặp thứ hai (Ga 19,27 // Kh 12,17): Ở Tin mừng Gioan, Đức Maria là Mẹ
các tín hữu (x. Ga 19,27) trong khi đó ở Khải huyền, người Phụ Nữ được gọi là Mẹ các môn
đệ của Đấng Mêssia (x. Kh 12,17). Cặp thứ ba (x. Ga 2,4; 19,26 // x. Kh 12,4.6… (theo
nghĩa St 3,15 – Evà là mẹ chúng sinh)) Đức Maria được gọi là “đàn bà” và Người mẹ ấy
cũng được gọi là “đàn bà”. Cặp cuối cùng: (Lc 1,35.39.43.56… // x. Kh 11,19 so với 12,1)
Đức Maria như Hòm bia Thiên Chúa và Người đàn bà ấy cũng được ví như “Hòm bia Thiên
Chúa”.232 Như thế, những lý chứng mà các nhà thần học bênh vực cho khẳng định: người
Phụ Nữ được nói đến trong sách Khải huyền chính là hình ảnh Đức Maria trong sứ vụ cộng
tác với Chúa Kitô để cứu độ nhân loại. Những lý chứng này có nền tảng Thánh Kinh. Như
227 x. Scott Hahn, Bữa Tiệc Con Chiên-Thánh Lễ là thiên đàng tại thế, tr. 85. 228 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 95. 229 x. Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, tr. 312. 230 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 95-96. 231 x. Sđd., tr. 96. 232 x. Sđd.
46
vậy, sách Khải huyền mô tả Đức Maria là “Evà Mới”, Mẹ của tất cả những kẻ sống. Trong
vườn Eden, Thiên Chúa hứa “đặt mối thù” giữa Satan với dòng dõi của người nữ (St 3,15).
Giờ đây trong sách Khải huyền, chúng ta thấy cao trào của mối thù này. Dòng dõi người nữ
mới, Đức Maria, là người con trai, Chúa Giêsu Kitô, Đấng đến để đánh bại con rắn.233 Đây là
giáo huấn của đa số các giáo phụ, tiến sĩ, các thánh và các đức giáo hoàng, cả thời xưa và
thời hiện đại.234 Đó cũng là giáo huấn của sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo.235
Trong tư cách là vị đại diện của Giáo Hội, đức giáo hoàng Piô X nói rất mạnh mẽ về
Thánh Truyền trong tông thư Ad Diem Illum Laetissimum: “Mọi người biết rằng người nữ
này biểu thị Đức Trinh Nữ Maria […] Vì vậy thánh Gioan đã thấy Mẹ Rất Thánh của Thiên
Chúa trong hạnh phúc vĩnh cử, còn cơn đau chỉ trong cuộc sinh nở mầu nhiệm. Đó là cuộc
sinh nở nào? Chắc chắn đó là sinh ra chúng ta, những người còn trong cuộc lưu đầy, chúng
ta được sinh ra trong đức ái hoàn hảo của Thiên Chúa và trong hạnh phúc vĩnh cửu.”
Sự mô tả về người Phụ Nữ trong sách Khải huyền mang đậm nét tương phản. Một
bên, người Phụ Nữ được trang điểm: mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội
triều thiên mười hai ngôi sao nhưng bên cạnh đó bà cũng lại bị thử thách, không những vì
sinh nở Đấng Mêssia mà còn bị con Mãng xà muốn vồ lấy.236 Như thế, những hình ảnh
biểu tượng về người Phụ Nữ được Thiên Chúa trang bị bằng những gì là cao quí nhất, cho
thấy Thiên Chúa đặc biệt sủng ái Đức Maria. Ngoài ra, theo quan niệm phương Đông, mặt
trời hay các tinh tú có tính bền vững, còn mặt trăng là dấu chỉ thay đổi theo từng ngày
trong tháng, điều này cho thấy, Đức Maria được bao bọc bảo vệ bằng sự bền vững, nhưng
đạp trên mặt trăng nghĩa là vượt lên trên mọi sự thay đổi. Dù có thử thách hiểm nguy bởi
những mưu kế của con Mãng xà, đặc biệt như dòng nước hung dữ (x. Kh 12,15-16), nhưng
không bị cuốn trôi vì có Thiên Chúa ban cho những phương thế và ân sủng gìn giữ, cùng
với sự cộng tác chiến đấu từ chính mình… Đó là tất cả ý nghĩa mời gọi chúng ta tiếp tục
suy tư về đặc trưng chiến đấu và chiến thắng của Đức Maria, trong sách Khải huyền.237
4.1. Đức Maria chiến đấu
Sách Khải huyền tiếp tục mô tả: con Mãng xà cũng như những kẻ theo nó không
bao giờ biết “mệt mỏi” trong việc chống lại Thiên Chúa và kế hoạch của Người. Vì thế,
nó “nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng
dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của
233 Scott Hahn, Bữa Tiệc Con Chiên-Thánh Lễ là thiên đàng tại thế, tr. 86. 234 x. Sđd., tr. 86. 235 x. GLHTCG, số 1138. 236 x. Lm. Lê Phú Hải, O. M. I, Đức Maria-Tôn Sùng và Cầu Nguyện, tr. 188. 237 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 96 -97.
47
Đức Giêsu” (Kh 12,17). Cuộc chiến này sẽ là một cuộc chiến đấu trường kỳ, cuộc chiến
giữa cái thiện và cái ác, nhưng kết cuộc, người Đàn bà và Dòng dõi của Bà sẽ chiến
thắng, bởi có sức mạnh của Thiên Chúa nâng đỡ. Hình ảnh người phụ nữ vừa được hiểu
là Đức Maria, Đấng sinh ra Đấng Cứu Độ trần gian đã chiến thắng Satan, đồng thời
cũng là hình ảnh của Hội Thánh đang phải trường kỳ chiến đấu với các thế lực sự dữ.238
Cuộc chiến mà sách Khải huyền mô tả là rất kịch tính thậm chí có thể đe dọa đến
tính mạng: Mẹ của Đấng Mêssia phải chạy trốn vào trong sa mạc vì bị con Mãng xà đuổi
bắt (x. Kh 12,13-14) nhưng từ cõi âm ty, thế giới kẻ chết, Đấng Mêssia sẽ trỗi dậy. Đại
bàng trên trời và đáy vực thẳm sẽ cứu bà.239 Một lần nữa, con Mãng xà muốn loại bỏ
người đàn bà bởi dòng nước ma quái, dòng nước của sự chết (x. Kh 12,5.7.15-16), nhưng
đất “há miệng ra” như cuộc vượt qua Biển Đỏ (x. Xh 15,12) và xóa bỏ chương trình ma
quái. Con Mãng xà còn giận và tấn công “dòng dõi còn sót lại” tức là dân Israel tuyên
xưng danh Đức Giêsu, một dòng dõi thiên sai gắn bó với mẹ Đấng Mêssia.240 Đe dọa vẫn
còn kéo dài và con Mãng xà còn đó, chờ đợi nơi bãi cát bờ biển hiểm nguy; con vật còn
đó “từ dưới biển đi lên” (x. Kh 13,1). Tuy nhiên, cuộc chiến sắp kết thúc.241
Nhìn vào lịch sử Hội Thánh, hết thảy mọi người trong dòng dõi người đàn bà phải luôn
luôn can đảm chống lại quyền lực của Satan trong mọi giây phút của cuộc sống. Họ chiến đấu
không với sức mạnh của mình nhưng nhờ sự nâng đỡ của Thiên Chúa tình yêu và họ “đã thắng
được nó nhờ máu Con Chiên và nhờ lời họ làm chứng về Đức Kitô” (Kh 12,11). Sứ điệp chính
mà sách Khải huyền muốn mời gọi, đặc biệt ở chương mười hai này là “ai kiên vững chiến đấu
đến cùng sẽ được cứu và được thông phần chiến thắng.”242 Noi gương Đức Maria, người Kitô
hữu phải chiến đấu hy sinh chống lại vương quốc Satan và những quyến rũ giả trá của nó. Sự
kiên cường chiến đấu đến cùng sẽ đạt đến chiến thắng cùng với “Chiên Con” là Đức Kitô.243
4.2. Đức Maria chiến thắng
Nếu như “người nữ đạp đầu con rắn” là hình ảnh của ơn cứu độ mà Thiên Chúa Giavê
loan báo vào lúc khởi nguyên, thì cũng có thể nói hình ảnh “người nữ mặc áo mặt trời” là dấu
hiệu chiến thắng trong thời cuối cùng.244 Thánh Kinh trình bày: “Một điềm lớn xuất hiện trên
trời: một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười
hai ngôi sao” (Kh 12,1). Các nét miêu tả trên về chân dung một người phụ nữ là những nét đặc
238 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 97. 239 x. Lm. Lê Phú Hải, O. M. I, Đức Maria-Tôn Sùng và Cầu Nguyện, tr. 191. 240 x. Sđd. 241 x. Sđd., tr. 191-192. 242 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 97. 243 x. Sđd. 244 Sđd.
48
trưng của một vị nữ thần vĩ đại của thế giới thời cổ, như thần Isis. Truyền thống Giáo Hội vẫn
cho rằng: hình ảnh người phụ nữ ở đây là Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, là Evà mới,245 bởi vì
Mẹ đã sinh hạ “Đấng Mêsia lịch sử là Đức Giêsu Kitô”.246 Thánh Bênađô đã bình luận: “Mặt
trời chứa màu sắc và vẻ rực sáng trường tồn; trong khi vẻ sáng của mặt trăng thì hay thay đổi
và khó đoán định… Thế nên Đức Maria quả đúng mặc áo mặt trời, vì Mẹ tham gia vào độ sâu
thẳm của sự khôn ngoan của Thiên Chúa vượt trội hẳn trên bất cứ con người nào khác.”247
Khi đặt người Phụ Nữ và Dòng Dõi Bà đối lập con Mãng xà trong cuộc chiến
trường kỳ, điều này cho một sự tương ứng khi so sánh với những hình ảnh trong sách
Sáng thế: chương trình của Thiên Chúa đã đặt Đức Maria trong sự tham dự vào ơn cứu
chuộc từ khởi nguyên đến tận cùng trong Đức Giêsu Kitô.248 Chính nhờ Đức Maria mà
Ngôi Lời Thiên Chúa đã Nhập Thể làm người và chương trình cứu độ mà Thiên Chúa
được thực hiện trong Con Một của Người.249 Chính nhờ vào giá máu châu báu của Chúa
Giêsu và sự cộng tác của Đức Maria mà chúng ta tin tưởng chiến thắng, vì chính Chúa và
Mẹ đã chiến thắng. Đó là niềm hy vọng lớn lao cho những kẻ yếu hèn và tội lỗi chúng ta.
Tóm lại, với thế giá là Lời Chúa và với hướng dẫn của Huấn quyền trong việc chú giải
Thánh Kinh, chúng ta nhận thấy vai trò nổi bật của Đức Maria trong ý định ngàn đời của
Thiên Chúa, là cộng tác trong công cuộc tân sáng tạo. Hình ảnh của Mẹ mỗi ngày một sáng
hơn trong tiến trình mạc khải của Thiên Chúa. Mẹ đã đón nhận tất cả trong tự do và trong tin
yêu trước lời mời gọi của Thiên Chúa, để tôn vinh Thiên Chúa và cộng tác trong việc đem
ơn cứu độ cho chúng ta. Với suy tư có nền tảng Thánh Kinh, chúng ta tiếp tục đào sâu về vai
trò của Mẹ trong công cuộc cứu độ, theo Huấn quyền và Truyền thống của Giáo Hội, qua các
giai đoạn lịch sử, để giúp chúng ta tin yêu gắn bó với Mẹ yêu dấu của chúng ta và nhờ Mẹ
chúng ta tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi là cùng đích của việc tôn thờ và yêu mến.
245 x. GS. Đaminh Phạm Xuân Uyển, S. D. B, Công Vụ-Các Thư Do Thái & Công Giáo-Khải Huyền, tr. 578. 246 x. Sđd., tr. 578. 247 x. Sđd., tr. 579. 248 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 98. 249 Sđd.
49
Chương II
Lịch Sử Phát Triển “Giáo Lý”
Về Đức Maria Đồng Công Trong Giáo Hội
I. Khái quát về thuật ngữ “Corredemptrix” và ý nghĩa của thuật ngữ
Nếu như ở những chương trước, Thánh Kinh đã cho chúng ta biết ý định ngàn đời
của Thiên Chúa qua việc tuyển chọn Đức Maria và việc Mẹ đã đáp trả lại trước lời mời
gọi của Thiên Chúa, thì ở chương này, dưới nền tảng Thánh Kinh, chúng ta tiếp tục đào
sâu suy tư dựa trên Truyền thống và những Giáo huấn của Giáo Hội về đặc nét Đức
Maria là Corredemptrix. Như vậy trong chương này, người viết dựa vào những giáo huấn
của chính Giáo Hội để bênh vực và bảo vệ cho tước hiệu Corredemptrix, còn đang tranh
cãi và bị hiểu lầm ở nơi này nơi khác, của một vài thành phần trong Giáo Hội.
Thật vậy, với thế giá là Mẹ Thiên Chúa, Đấng cộng tác với Chúa Kitô để đánh bại
quyền lực sự dữ và cái chết, Đức Maria được xưng tụng với rất nhiều danh hiệu khác nhau.
Tác giả Anthony F. Chiffolo đã liệt kê một trăm danh thánh của Đức Trinh Nữ Maria,250
trong đó theo nhà thần học Scheeben (1835-1888), các thánh và các giáo phụ thường gọi
Đức Mẹ là Salvatrix (Đấng Cứu vớt), là Reparatrix (Đấng Tu sửa), là Restauratrix (Đấng
Phục hồi), là Reconciliatrix (Đấng Giao hòa), là Liberatrix (Đấng Giải phóng), là
Reformatrix (ĐấngCải tạo), là Adjutrix (Đấng Phù hộ), là Mediatrix (ĐấngTrung gian).
Trong giáo huấn của mình, các đức giáo hoàng, từ đức Piô VII đến đức thánh giáo
hoàng Gioan Phaolô II, Đức Trinh Nữ Maria còn được gọi là Adjutrix (Đấng Phù hộ), là
Auxiliatrix (Đấng Trợ phù), là Advocata (Đấng Trạng sư), là Conciliatrix (Đấng Thỏa hiệp),
là Dispensatrix (Đấng ban phát mọi ơn lành), là Mediatrix (Đấng Trung gian) và là
Reparatrix (Đấng Tu sửa). Trong Hiến chế Lumen Gentium, công đồng Vaticanô II đã tuyên
xưng Đức Maria là Adjutrix (Đấng Phù hộ), là Advocata (Đấng Trạng sư), là Auxiliatrix
(Đấng Trợ phù), là Mediatrix (Đấng Trung gian).251 Thánh Ephrem còn táo bạo hơn khi gọi
Mẹ là Redemptrix (Đấng Chuộc lại). Tuy nhiên, danh từ Redemptrix đã bị loại bỏ, bởi vì chỉ
có Chúa Kitô mới là Redemptor.252 Vậy đâu là nguồn gốc của thuật ngữ Corredemptrix và ý
nghĩa của thuật ngữ này là gì ? Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu ở phần dưới đây.
250 x. Lm. Anthony F. Chiffolo, 100 Danh Thánh của Mẹ Maria: Truyện và Kinh, chuyển ngữ: Matthias. M.
Ngọc Đính, CMC, 2003. 251 x. Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 62. 252 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 07.
50
1. Nguồn gốc thuật ngữ “Đồng Công Cứu Chuộc - Corredemptrix”
Theo học giả Laurentin và Carol, danh từ “Corredemptrix” xuất hiện từ thế kỷ XIV,
do một nhà thần học Phanxicô. Thuật ngữ này đã được cha Alanô Vareniô, cha sở giáo xứ
Á thánh Phanxicô Estaing, Rodez (nước Pháp) dùng trong bài giảng năm 1300, và nhà thần
học Salmeron, nghị phụ công đồng Trentô dùng trong những bài diễn giảng Phúc âm và
Tông đồ công vụ.253 Một dữ liệu khác cho biết: danh từ Đấng Đồng công (Corredemptrix)
xuất hiện trong một Thánh thi của nhà thờ thánh Phêrô tại thành Salzburg (Austria). Trong
Thánh thi này có câu:“Pia, dulcis et benigna, Nullo prorsus luctu digna, Si fletum hinc
eligeres. Ut compassa Redemptori, Captivato transgressori, Tu Corredemptrix fieres.”
Nghĩa là: “Mẹ nhân từ, hiền dịu và khoan dung, Mẹ hoàn toàn không đáng chịu một đau
khổ nào. Nếu từ đây Mẹ khóc thương như Người thông phần đau khổ với Chúa Cứu Thế,
thì, với Đấng đã chịu tử hình, Mẹ cũng trở nên Đấng Đồng công cứu chuộc”.254
Đó là những dữ liệu cổ xưa nhất mà người ta có được về thuật ngữ này. Tuy nhiên,
không phải nhà thần học nào cũng chấp nhận thuật ngữ này. Lý do thuật ngữ không được
tất cả mọi người chấp nhận, hệ tại ở chỗ ý nghĩa của thuật ngữ rất hàm hồ, không rõ ràng
và nhất là có thể làm cho người ta hiểu sai. Thế kỷ XVII có nhà thần học A. Widenfeld
(1617-1677) và thế kỷ XIX có nhà thần học Scheeben (1835-1888), cả hai học giả này e
ngại dùng danh từ Corredemptrix, vì sợ thổi phồng vai trò Mẹ Maria mà lấn át vai trò Chúa
Cứu Thế. Đức cha Phanxicô Joseph Rudiger (1853-1884), giám mục giáo phận Linz (nước
Áo) cấm các giáo sĩ giáo phận ngài dùng danh từ Corredemptrix.255 Tại đại hội Thánh Mẫu
ở Pháp, năm 1947 và đại hội Thánh Mẫu ở Rôma, năm 1950, ban đầu chủ đề của đại hội là
“đồng cứu chuộc” nhưng về sau, đức Piô XII không chấp thuận danh xưng
“Corredemptrix”. Ngài đã dùng chữ “Associate” (Phụ tá hay người Cùng cộng tác) của
Đấng Cứu Thế (Associate of the Redeemer).256 Tại công đồng Vaticanô II, các nghị phụ đã
nhắc đến chữ “Consortium” (Hợp tác). Có 36 nghị phụ đã xin Công đồng công bố tước
hiệu “Đức Maria đồng cứu chuộc” thành tín điều, nhưng Công đồng chỉ dùng chữ “the
Handmaid of the Lord” (Nữ Tì của Chúa) để nói đến Đức Maria.257
Như vậy, sự xuất hiện của thuật ngữ Corredemptrix là một hứng khởi mới trong
Giáo Hội, để mời gọi các nhà thần học tiếp tục suy tư về vai trò của Mẹ Maria trong
253 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 08. 254 Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, Tập II, 1998, tr. 372-373. 255 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 08-09. 256 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 249. 257x. Sđd., tr. 249.
51
nhiệm cục cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho con người. Đây là một ân phúc lớn lao
Thiên Chúa ban cho Giáo Hội nhưng cũng là một thách đố đối với các nhà thần học. Các
ngài phải trình bày về Đức Maria làm sao cho mọi người có thể dễ chấp nhận nhưng vẫn
bảo toàn được giáo lý chân chính mà Chúa Thánh Thần muốn trong Giáo Hội. Sau đây
chúng ta sẽ tìm hiểu về ý nghĩa của thuật ngữ và những ngộ nhận trong lịch sử.
2. Ý nghĩa của thuật ngữ “Corredemptrix” và những tranh luận
Xét về văn phạm, danh từ Corredemptrix được kết hợp bởi tiếp tiền tố Cor và danh từ
Redemptrix. “Cor” do tiếng Latinh là “Cum”, có nghĩa là “cùng với”, “cùng chung”, “cùng
nhau”, “cùng hợp tác”. Tuy nhiên, từ “Cor” không có nghĩa là ngang vai nhau, bằng nhau.258
Nếu dịch thuật ngữ Corredemptrix là “Đồng công cứu chuộc” rất có thể sẽ có người hiểu sai.
Nếu dịch là “Hiệp thông cứu chuộc” hay “Đồng cứu chuộc” có thể sát nghĩa hơn nhưng cũng
rất hàm hồ. Chúng ta có thể hiểu một cách nôm na: đồng công cứu chuộc có nghĩa là “việc
Mẹ đồng lao cộng tác với Chúa Kitô trong việc lập công cứu chuộc loài người về hai
phương diện của ơn cứu độ khách quan và chủ quan.”259 Để hiểu rõ hơn, người viết chưng
dẫn một ví dụ: có một nhóm người nào đó nói rằng, chúng tôi cùng xây dựng ngôi nhà thờ
này, thì chắc chắn chúng ta sẽ hiểu, trong nhóm này: có người lo thiết kế, có người lo xây
dựng, có người lo tài chính, có người lo về kỹ thuật… mỗi người đóng góp một cách khác
nhau.260 Tuy nhiên, xét về nhiệm cục cứu chuộc thì khác một chút. Mặc dù Đức Maria là
Đấng cộng tác nhưng chỉ duy công nghiệp của Chúa Kitô đã tròn đầy, đã viên mãn và đã đền
trả cho sự công bình của Thiên Chúa một cách viên mãn. Chính Đức Maria cũng đã được
cứu chuộc nhờ giá máu của Con yêu dấu của Mẹ một cách tròn đầy nhất.
Thật ra, danh từ Corredemptrix không phải do người ta sáng chế ra nhưng có nền
tảng Thánh Kinh, “dựa theo Kinh Thánh”261. Thánh Phaolô, trong các thư của mình, đã
“định nghĩa” đời sống Kitô, với cấu trúc danh từ giống như thế. Ngài viết: Nhờ bí tích
Thánh Tẩy, chúng ta cùng được mai táng (co-ensevelis) với Chúa Kitô (x. Rm 6,4);nhờ
đức tin, chúng ta cùng được sống lại (co-ressuscités) với Người (x. Cl2,13; 3,1;Ep 2,6).
Thánh nhân muốn làm sáng tỏ một chân lý là chúng ta được tham dự vào công cuộc
cứu rỗi nơi chúng ta và toàn thể nhân loại. Do đó, ngài quả quyết: “chúng ta là những
người cộng sự (cooperators) của Thiên Chúa.”262 Tuy nhiên, “theo nghĩa chính đáng,
xác thực và thích hợp nhất, chỉ có Đức Mẹ Maria mới là Đấng Đồng công
258 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 07. 259 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 248. 260 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh , “Thánh Mẫu Học”, Học Viện Thần Học Xitô, 2016 [CD-
ROM]. 261 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 07. 262 Sđd.
52
(Corredemptrix), hiệp công cộng tác với Chúa Cứu Thế trong nhiệm cục cứu chuộc
loài người,”263 bởi vì Mẹ cộng tác rất gần vào công trình cứu chuộc khách quan. Đây là
một giáo lý được nhiều nhà thần học Công giáo bênh vực, được dựa trên giáo huấn rõ
ràng của các đức giáo hoàng, đặc biệt là đức Bênêđictô XV và đức Piô XI.264
Xét về giáo huấn của công đồng Vaticanô II, tước hiệu Mẹ Maria Đồng công cứu
chuộc không được công đồng dùng đến, vì có thể có sự hiểu lầm Mẹ là Đấng cứu chuộc
nhân loại với Chúa Kitô.265 Vì thế, vấn đề “đồng công cứu chuộc” ngày nay là vấn đề thần
học, các nhà thần học phải trình bày thế nào để người ta có thể hiểu đúng. Tuy nhiên, trong
Giáo Hội đã có nhiều phong trào, muốn xin Giáo Hội định tín về Đức Mẹ Đồng công, điển
hình là phong trào “Vox populi” (Tiếng Dân): Từ tháng 3 năm 1993, phong trào “Vox
Populi” đã phát động khắp Giáo Hội “Chiến dịch thỉnh nguyện thư” tâu xin đức thánh cha
Gioan Phaolô II tuyên tín Mẹ Maria là “Đấng Đồng Công”. Phong trào này do tiến sĩ thần
học Mark Miravalle, giáo sư đại học dòng Phanxicô tại Steubenville, bang Ohio, Hoa Kỳ,
lãnh đạo với ban cố vấn gồm 32 hồng y. Cho tới tháng 10 năm 1997, phong trào đã thu thập
được chữ ký của hơn 500 giám mục, 55 hồng y và 05 triệu tín hữu thuộc 155 quốc gia. Cuối
tháng 5 năm 1996, một hội nghị quốc tế được tổ chức tại Rôma gồm 03 hồng y, 13 giám
mục, và một số đông linh mục, giáo dân chính thức yểm trợ phong trào “Vox Populi”.266 Vì
thế, các nhà Thánh Mẫu học và thần học bắt đầu tranh luận về việc định tín và về danh từ
Corredemptrix. Đại hội Thánh Mẫu quốc tế tại Czestochowa (nước Balan) tháng 8 năm 1996
do Tòa thánh triệu tập, đã kết luận tước hiệu Corredemptrix thiếu rõ rệt về thần học có thể
làm người ta hiểu Đức Mẹ ngang hàng với Chúa Cứu Thế.267 Tiếp theo nhà thần học
Scheeben và Đại hội Thánh Mẫu quốc tế Czestochowa, một số nhà thần học cũng e dè dùng
danh từ Corredemptrix mà muốn dùng cho Mẹ danh từ Cooperator với Chúa Cứu Thế như
nhà thần học Yves Congar đề nghị thay thế danh từ Corredemptrix.268
Tuy nhiên, theo nhà Thánh Mẫu học Laurentin, thế kỷ XVII có 27 tác giả và
trong thế kỷ XVIII có tới 34 tác giả dùng danh từ Corredemptrix. Từ đức Piô X,
giáo huấn của Giáo Hội đã minh nhiên và chính thức dùng danh từ Corredemptrix.
Cụ thể, đức thánh giáo hoàng Piô X đã châu phê ba văn kiện dùng danh từ
Corredemptrix: thứ nhất, Sắc lệnh Thánh bộ Lễ nghi ngày 13/05/1908 lễ Đức Mẹ
263 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 14. 264 x. Sđd., tr. 13. 265 x. Lm. Frederick M. Jelly, O. P, Tôn Sùng Đức Maria Trong Thánh Truyền Công Giáo, chuyển ngữ:
Gioan Baotixita Dũng Lạc Hồng Ân (New Orleans, 2001), tr. 226. 266 Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, Tập II, 1998, tr. 375-376. 267 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., 09. 268 x. Sđd.
53
Sầu bi; thứ hai, Sắc lệnh Bộ Thánh Vụ ngày 27/03/1913 về các ân xá; thứ ba, Sắc
lệnh Bộ Thánh Vụ ngày 22/10/1914 ban ân xá cho một kinh đền tạ Đức Mẹ.269
Đối với đức thánh cha Gioan Phaolô II, đã năm lần,270 ngài đã dùng danh từ
Corredemptrix: lần thứ nhất, sau buổi đại triều yết ngày 08/09/1982, ngài nói với các bệnh
nhân: “Mặc dầu đầu thai và sinh ra vô nhiễm, MẹMaria đã thông phần vào các khổ đau lạ
lùng của Con Chí Thánh Mẹ để là Đấng Đồng công (Corredemptrix) cứu chuộc loài người”;
lần thứ hai, nhân ngày lễ thánh Carôlô Borrômêô, bổn mạng của ngài năm 1984, tại Arona,
đức thánh cha nói: “Về Đức Mẹ là Đấng Đồng công cứu chuộc (Corredemptrix), thánh Carôlô
đặc biệt cao giọng diễn giải về Chúa 12 tuổi lạc mất trong Đền thờ”; lần thứ ba, tại đền thánh
Đức Mẹ Guayaquil (Nước Ecuador) ngày 31/01/1985, ngài nói: “Vai trò Mẹ Maria là Đấng
Đồng công cứu chuộc (Corredemptrix) không ngừng cùng với bước vinh quang của Con Mẹ”;
lần thứ tư, ngày lễ Lá và là ngày giới trẻ thế giới 31/03/1985, ngài nói: “Xin Mẹ Maria, Đấng
Phù trợ và là Đấng Đồng công cứu chuộc (Corredemptrix), mà chúng ta tha thiết kêu xin, làm
cho sự nguyện ước của chúng ta quảng đại đáp ứng lại nguyện vọng của Chúa Cứu thế”; lần
thứ năm, vào ngày 06/10/1991, kỷ niệm 600 năm tôn phong hiển thánh cho thánh nữ Brigitta,
ngài nói: “Thánh nữ kêu xin Mẹ là Đấng Vô Nhiễm thai, là Mẹ sầu bi và là Đấng Đồng công
cứu chuộc (Corredemptrix). Thánh nữ chúc tụng vai trò phi thường của Mẹ trong lịch sử Cứu
độ và trong đời sống Kitô hữu.” Ngoài ra, trong 52 buổi đại triều yết, đức Gioan Phaolô II nêu
cao vai trò đồng công đặc biệt của Mẹ trong nhiệm cuộc Cứu thế của Chúa Kitô.271
Tóm lại, mặc dù không được hết mọi người đón nhận nhưng thuật ngữ
Corredemptrix đã có một lịch sử đầy vẻ vang và được sử dụng nhiều trong Giáo Hội.
Thuật ngữ Corredemptrix phải được duy trì trong Giáo Hội, bởi vì thế giá là chính
những tuyên bố của các đức giáo hoàng về thuật ngữ này. Dưới đây chúng ta tiếp tục
đào sâu giáo huấn của các giáo phụ và các thánh trong dòng lịch sử về vai trò đồng
công của Đức Maria trong công trình cứu độ của Chúa Kitô.
II. Giáo huấn các giáo phụ, các thánh và các nhà thần học, theo tiến trình lịch sử
Có thể nói, “lịch sử công nguyên khởi đầu với một phụ nữ”272 và Đức Maria chính
là người phụ nữ vĩ đại đó. Mẹ là nhân vật quan trọng thứ hai sau Chúa Giêsu trong mầu
nhiệm cứu chuộc, bởi vì theo thánh Phaolô, “tại một người mà nhân loại phải chết, thì
cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15,21). Truyền thống Kitô giáo
nhận ra trong đoạn văn trên lời tiên báo một “Ađam mới”, Đấng “vâng phục cho đến chết
269 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 10. 270 x. Sđd., tr. 11. 271 Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, Tập II, 1998, tr. 374. 272 x. Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, tr. 294.
54
trên thập giá” (Pl 2,8), đã sửa lại sự bất tuân của Ađam cũ và còn mang lại tràn đầy ân
sủng. Bên cạnh đó, qua bản văn này, có nhiều giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh còn nhận ra
Đức Maria, Mẹ Đức Kitô, là người nữ được tiên báo trong Tiền Tin mừng và được xem
là Evà mới. Mẹ là người đầu tiên đã thừa hưởng một cách độc nhất vô nhị chiến thắng
của Đức Kitô trên tội lỗi.273 Tất cả những tư tưởng trên đã được các giáo phụ, các thánh
và các nhà thần học suy tư và triển khai dựa trên nền tảng Thánh Kinh và Huấn quyền
của Hội Thánh. Sau đây, chúng ta sẽ lược lại những suy tư này theo tiến trình lịch sử.
1. Từ thế kỷ I đến thế kỷ VIII, Đức Maria tương phản với bà Evà
Trong ba thế kỷ đầu, hình ảnh của Đức Maria ít khi được đề cập trong giáo thuyết
thần học của các giáo phụ. Các giáo phụ trong giai đoạn này có những vấn đề khác đáng
quan tâm hơn. Các ngài phải xác định và trình bày cặn kẽ những chân lý căn bản của mặc
khải Kitô giáo về bản tính Thiên Chúa; về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi…274 Các giáo
phụ chỉ bàn về Đức Maria khi “vấn đề của Mẹ cần thiết cho vấn đề của Chúa Kitô”275.
Điều này thường xuyên xảy ra vào thời kỳ mà Giáo Hội phải “đương đầu” các bè rối. Về
sau trong Giáo Hội, xuất hiện ba khuân mặt lớn bênh vực cho vai trò “đồng công” của Đức
Maria, là thánh Justinô, thánh Irênê và Tectulianô. Các ngài là những người đi tiên phong
trong việc chứng minh sự cộng tác của Đức Maria trong công cuộc Cứu thế.276
Trước hết là thánh giáo phụ Justinô (100-165), người thành Sichem xứ Samari, đã
trở lại Công giáo tại Rôma, đại diện Giáo Hội Rôma. Theo ý kiến của Cayré, thánh
Justinô là “vị đầu tiên giải thích Đức Maria hiệp công cứu chuộc loài người”277. Trong
tác phẩm “Đối thoại với Tryphon”, thánh nhân đã triển khai thế song đối giữa bà Evà
và Đức Maria, giống như thánh Phaolô đã đặt song đối giữa Ađam và Đức Kitô (x. Rm
5).278 Thánh giáo phụ dựa vào câu Tiền Phúc âm (x. St 3,15): Thiên Chúa phán hứa sẽ
đặt một Phụ Nữ chiến thắng ác thần thay thế người phụ nữ đã bị ác thần đánh bại, và
thánh nhân suy diễn sự tương phản trong thư của thánh Phaolô (x. Rm 5,12; 1Cr 15,21-
22) giữa cựu Ađam và Tân Ađam. Cựu Ađam đã đem tội lỗi và sự chết vào trần gian.
Đối lại, Tân Ađam đã phục hồi loài người. Cựu Ađam không một mình làm sa đọa loài
người, vì bà Evà đã cộng tác vào tội của Ađam. Cũng thế, Tân Ađam đã không một
mình phục hồi loài người, vì Đức Maria đã cộng tác với Người trong công trình Cứu
thế. Trong cuộc đối thoại với lạc giáo Tryphon, thánh Justinô còn nói: “Evà đã nghe
273 x. GLHTCG, bản dịch của Ban Giáo Lý (TP HCM: TP HCM, 1998), số 411. 274 x. An-phong-sô Bốt-sa, S. M. M, Từ Điển Đức Mẹ, tr. 237. 275 x. Sđd., tr. 237-238. 276 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 26 277 Sđd., tr. 27. 278 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 106.
55
theo lời con rắn đã sinh ra sự bất tuân và sự chết. Đức Trinh Nữ Maria đáp lại lời
Thiên thần Gabriel loan Tin mừng rằng Đấng Thánh sinh ra bởi Mẹ sẽ là Con Thiên
Chúa. Nhờ Người, Thiên Chúa đánh bại con rắn và những thiên thần, những người
giống như con rắn.”279 Nơi khác, thánh nhân cũng quảng diễn: “Sự bất tuân của Evà
được tháo cởi nhờ sự tuân phục của Đức Maria; điều trinh nữ Evà đã buộc lại vì sự bất
tín của mình thì Đức Trinh Nữ Maria đã tháo gỡ bằng đức tin của Mẹ.”280 Như thế, qua
việc triển khai song đối, thánh Justinô đã trình bày vai trò đặc biệt của Đức Maria trong
mầu nhiệm cứu độ và nêu bật vị thế phổ quát của Mẹ như địa vị phổ quát của bà Evà
trước khi phạm tội. Đức Maria được gọi là mẹ Nhân Loại Mới, mẹ của sự sống. Bên
cạnh đó, thánh nhân còn liên kết với lời Tiền Tin mừng (x. St 3,15) và giải thích rằng,
Thiên Chúa đã nhờ Người Con của Đức Maria để tiêu diệt con rắn và dòng giống của
nó.281 Tín lý Đức Maria cộng tác với Chúa Cứu Thế qua luận lý tương phản giữa bà
Evà và Đức Maria của thánh Justinô đã được các thánh giáo phụ diễn tả và bổ túc.282
Thứ đến là thánh giáo phụ Irênê (130-202), môn đệ của thánh Pôlycarpô thành
Smyrna, đại diện Giáo Hội Đông phương, ngài tiếp tục triển khai mối tương phản giữa bà
Evà và Đức Maria.283 Thánh nhân chân nhận địa vị của Đức Maria tại “ngưỡng cửa” của
Nhân Loại Mới, là Mẹ của Nhân Loại Mới. Nơi Mẹ, Thiên Chúa thực hiện một sự khởi đầu
mới.284 Trong tác phẩm “Chống lạc giáo”, thánh nhân đã so sánh Evà và Trinh Nữ Maria:
vì một trinh nữ bất tuân mà loài người phải đau khổ và phải chết. Cũng vậy, vì một Trinh
Nữ đã vâng lời Thiên Chúa mà loài người đã được tái sinh. Ađam được phục hồi trong
Chúa Kitô, để điều “khả tử được sự bất tử tiêu trừ”. Bà Evà được phục hồi trong Mẹ
Maria, để một Trinh Nữ trở nên một Trạng sư cho một trinh nữ, và để sự bất tuân của bà
Evà được đức tuân phục của Mẹ Maria bãi bỏ.285 Bên cạnh đó, theo thánh nhân: khi bà Evà
bất tuân lệnh của Thiên Chúa, bà vẫn trong tình trạng đồng trinh, do đó những người con
của Evà sinh ra đều lây nhiễm tội của bà; trong khi đó Đức Maria mặc dù là vợ của một
người đàn ông đã được tuyển chọn cho Mẹ nhưng Mẹ vẫn đồng trinh, do đó nhờ sự vâng
phục của Mẹ, đã đem lại sự sống cho chính Mẹ và cho toàn thể nhân loại.286 Như thế, qua
sự so sánh song đối này, thánh Irênê làm nổi bật vai trò thông truyền sự sống nơi Đức
279 Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, Tập II, 1998, tr. 371-372. 280 An-phong-sô Bốt-sa, S. M. M, Từ Điển Đức Mẹ, tr. 239. 281 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 106-107. 282 Sđd., tr. 372. 283 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 27. 284 x. An-phong-sô Bốt-sa, S. M. M, Từ Điển Đức Mẹ, tr. 239. 285 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 27. 286 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 107-108.
56
Maria, trong ý nghĩa đảo ngược: sự sống mới ngược trở lên, từ Maria đến Evà.287 Không
dừng lại ở đây, tư tưởng của thánh Irênê còn đi xa hơn. Ngài cho rằng: không chỉ có Evà
được giải thoát mà tất cả mọi con cháu của Evà cũng được giải thoát.288 Trong một bối
cảnh khác, thánh Irênê đã tự hỏi: “Tại sao Ngôi Lời chí thánh lại không nhập thể trong
lòng Mẹ Maria trước khi phái một vị tổng thần đến thương lượng với Mẹ ?”289 Và ngài trả
lời: “Tại vì Chúa muốn cho thế gian, phải mang ơn Mẹ Maria vì mầu nhiệm Nhập Thể, và
phải nhìn nhận nguyên nhân phát xuất mọi ơn lành ở trong Mẹ.”290 Thánh Irênê đáng được
gọi là nhà thần học đầu tiên và một trong những thần học gia về Đức Maria với giáo lý về
Tân Evà, sự trinh tiết của Mẹ Đức Giêsu và tình mẫu tử thiêng liêng. Ngài khẳng định:
“Tân Evà không thể thua kém trong tình trạng vô tội hơn Evà trước tội nguyên tổ.”291
Kế tiếp là giáo phụ Tectulianô (160-240), đại diện Giáo Hội Phi châu, ngài cũng có
công rất lớn trong việc khai triển chủ đề Đức Maria là Evà mới. Cách thức ngài trình bày
cũng theo cách thức mang tính tương phản.292 Đức Trinh Nữ Maria “giống Evà về sự đồng
trinh, nhưng khác Evà về đức tin. Chẳng những khác mà còn cứu Evà nhờ đức tin.”293 Theo
Tertulianô, “Bà Evà đã tin con rắn. Đức Maria tin thiên sứ Gabriel. Vì tin, bà Evà lỗi phạm.
Vì tin, Đức Maria xóa sạch tội lỗi.”294 Với cái nhìn này, Tertulien đề cao đức tin nơi Đức
Maria. Nếu như Evà đã tin vào “con rắn” dẫn đến cái chết cho nhân loại; thì Đức Maria tin
vào Thiên Chúa qua lời sứ thần, đem đến cho nhân loại Nguồn Sống là Đức Kitô.
Tóm lại, sau ba khuân mặt lớn đã đặt nền tảng Thánh Mẫu học về sự tương đồng và
tương phản giữa Mẹ Maria và bà Evà, chúng ta thấy rất nhiều vị thánh cũng nêu lên tư
tưởng tương tự.295 Từ nguyên lý Mẹ Maria là Tân Evà của ba giáo phụ đầu tiên, nhà thần
học Roschini rút ra ba kết luận: trước tiên, bà Evà chịu trách nhiệm lớn vào việc làm sa
trầm nhân loại, Mẹ Maria dự phần tích cực vào việc cứu chuộc loài người; thứ đến, mặc dù
bà Evà chịu trách nhiệm lớn trong việc làm sa trầm nhân loại nhưng việc sa trầm này cũng
là việc thứ yếu và phụ thuộc vai vai trò của ông Ađam, Mẹ Maria dự phần tích cực trong
việc cứu chuộc loài người nhưng là việc thứ yếu và phụ thuộc vào vai trò của Chúa Kitô;
cuối cùng, như phần tích cực của bà Evà là việc luân lý và căn cốt mà bà tự tình ưng thuận
lời con rắn xui xiển, phần tích cực của Mẹ Maria cũng là việc luân lý và căn cốt mà Mẹ
287 x. Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Sđd., tr. 108. 288 x. Sđd., tr. 108. 289 Thánh Anphong, Vinh Quang Đức Maria, tr. 128. 290 Sđd., tr. 129. 291 Robert Pannet & tgk, Từ Điển Đức Maria, tr. 89. 292 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 28. 293 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Thánh Mẫu Học, tr. 110. 294 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 28. 295 Sđd., tr. 28-29.
57
ưng thuận lời thiên thần đề xuất việc cứu chuộc nhân loại.296 Tuy nhiên, mối tương phản
giữa bà Evà và Mẹ Maria Đồng công không chỉ có thế. Chúng ta có thể tổng hợp từ các
giáo phụ cho đến các thánh đã nói đến chiều kích tương phản này trong suốt chiều dài lịch
sử Hội Thánh: thứ nhất, đức tuân phục của Mẹ Maria tương phản với tội bất tuân của bà
Evà; thứ hai, đức khiêm nhường của Mẹ Maria tương phản với sự kiêu ngạo của bà Evà;
thứ ba, phúc lành của Mẹ Maria tương phản với việc bị chúc dữ của bà Evà; cuối cùng,
phúc lành của Mẹ Maria là phương thuốc cứu chữa nỗi bất hạnh của bà Evà.297
2. Từ thế kỷ IX đến thế kỷ XVI, vai trò của Đức Maria trong biến cố đồi Calvê
Từ thế kỷ IX tới thế kỷ XVI, các thánh tiến sĩ và các nhà thần học tiếp tục đào sâu
suy tư về vai trò cộng tác của Mẹ Maria trong công cuộc cứu chuộc nhân loại. Đó là các
thánh tiến sĩ như: thánh Đamianô (1007-1072), thánh Anselmô (1033-1109), thánh Bênađô
(1090-1153), thánh Bônaventura (1217-1274), thánh Albertô (1200-1280), thánh Tôma
(1225-1274), thánh Canisiô (1521-1597) và các nhà thần học như Eadmer (1060-1130),
Arnold Chartres (+1160), Richard St. Lawrence (+1230), Tauler (1300-1543), Gerson
(1363-1429), Denis the Carthusian (+1473), Clichton (1472-1543), Salmeron (1515-1585),
Morales (1509-1586), Suarez (1548-1617).298 Trong buổi đầu của giai đoạn này, một số
học giả tiếp tục nghiên cứu về cách thức cộng tác của Đức Maria trong mầu nhiệm Nhập
Thể. Tuy nhiên, hầu hết các thánh và các nhà thần học đã dần dần khởi sự nghiên cứu về
cách thức cộng tác của Đức Maria trong biến cố đồi Calvê,299 đặc biệt từ thế kỷ XI.300 Theo
Lm. Phan tấn Thành, trong giai đoạn này, các nhà thần học bắt đầu nói tới sự “đồng công
cứu chuộc”, “trung gian ơn thánh” của Đức Maria, cũng như tước hiệu Nữ vương.301
Trước hết, sự cộng tác của Đức Maria trong công cuộc cứu chuộc, có giá trị thật sự
phổ quát. Đây là tư tưởng và giáo huấn của rất nhiều vị thánh và các nhà thần học trong giai
đoạn này. Đầu tiên, phải kể đến lời của đức hồng y Journet, ngài cho rằng: “Nơi Đức Maria,
Hội Thánh trở thành đồng cứu chuộc trong Đức Kitô, về tất cả những gì mà Đức Kitô là
Đấng Cứu Chuộc duy nhất, nghĩa là cứu chuộc mọi người.”302 Nhờ Đức Kitô, Con yêu dấu
của Đức Maria con người được liên kết với Thiên Chúa và nhờ giá máu châu báu của Con
Mẹ, con người được nâng lên một cấp độ hữu thể cao hơn, là con cái, là bạn hữu và là người
296 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 29-30. 297 x. Sđd., tr. 161-168. 298 Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, Tập II, 1998, tr. 372. 299 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 30. 300 x. Giuse Phan Tấn Thành, O.P, Magnificat, tr. 131. 301 x. Sđd. 302 Robert Pannet & tgk, Từ Điển Đức Maria, tr. 31.
58
nhà của Thiên Chúa.303 Nhà thần học Alcuinô (+804) đã không ngần ngại tuyên bố: “Toàn
thế giới hoan hỉ vì đã được cứu chuộc nhờ Mẹ.”304 Thánh Phêrô Đamianô (+1072) thì dạy:
“Do một phụ nữ, một điều chúc dữ đã lan tràn trên trái đất, thì do một Phụ Nữ, điều chúc dữ
đã được cải đổi cho trái đất. Vì một phụ nữ, chén đắng sự chết đã được trao truyền. Lời chúc
phúc mới mẻ tiêu diệt sự truyền nhiễm của lời chúc dữ ngàn xưa.”305 Và nơi khác, ngài mời
gọi chúng ta sống tâm tình biết ơn với Mẹ: “Chúng ta mắc nợ Mẹ Thiên Chúa […] Và sau
Chúa, chúng ta phải cảm tạ Mẹ vì công ơn Cứu chuộc chúng ta.”306 Thánh nhân cũng dạy
thêm: “Nếu Chúa không muốn mặc xác phàm nhân loại khi Mẹ Maria chưa đồng ý, thì trước
là hết thảy chúng ta phải nhờ Mẹ mới được hưởng dư ân huệ bao la cứu chuộc, và sau là để
chúng ta hiểu rõ: mọi người được giải thoát đều là tùy ở Mẹ Maria.”307 Thánh Anselmô
(1033-1109) còn xác quyết: “Lòng Mẹ Maria là đường lối Chúa Giêsu đến cứu chuộc tội
nhân,”308 và Mẹ là “Đấng Hòa giải của thế giới”309. Nơi khác, thánh nhân còn nói: “Thiên
Chúa đã có thể từ hư vô sáng tạo thế giới, nhưng khi thế giới đã vì lỗi phạm mà sụp đổ điêu
tàn, thì Thiên Chúa lại không tái thiết thế giới mà không có Maria cộng tác.”310 Chính nhờ
Đức Maria mà tất cả vũ trụ và con người “đã được sống lại với vẻ đẹp nguyên thuỷ và được
ban tặng một hồng ân mới, hồng ân khôn tả”311. Thánh Anselmô còn quả quyết mạnh hơn:
Thiên Chúa là Cha làm nên muôn vật muôn loài, còn Đức Maria là Mẹ của muôn vật muôn
loài đã được tái thiết. Bởi vì, Thiên Chúa đã sinh ra Đấng tạo dựng muôn loài, còn Đức
Maria đã hạ sinh Đấng Cứu Độ muôn loài. Nếu không có Đấng do Thiên Chúa sinh ra thì
chẳng có gì được hiện hữu, và nếu không có Đấng do Đức Maria sinh ra thì chẳng có gì là tốt
lành.312 Theo thánh Bênađô, một người nam và một người nữ đã cùng chung tay làm giống
nòi điêu đổ, thì cũng một Người Nam và một Người Nữ chung tay trùng tu giống nòi.313 Như
vậy, qua một số tư tưởng của các thánh giai đoạn từ thế kỷ IX đến thế kỷ XVI, chúng ta có
thể nhận thấy, tư tưởng của các ngài không hoàn toàn hệ tại ở tình cảm cá nhân nhưng được
đặt nền trên Thánh Kinh (x. St 3,15), nói đến sự cộng tác của Đức Maria có giá trị phổ quát
cho hết mọi người và cho cả công trình canh tân vũ trụ. Tư tưởng của các ngài còn được cụ
thể, khi trình bày vai trò đặc biệt của Đức Maria trong biến cố đồi Calvê.
303 x. Nguyễn Chính Kết, Đối Thoại Tôn Giáo (Sài Gòn: 2005), tr. 79. 304 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 30-31. 305 Sđd., tr. 31. 306 Sđd. 307 Thánh Anphong, Vinh Quang Đức Maria, tr. 189. 308 Sđd., tr. 20. 309Judith A. Bauer, Sổ Tay Những Điều Cần Biết Về Đức Maria, tr. 145. 310 Thánh Anphong, Vinh Quang Đức Maria, tr. 195. 311 Thánh Anselmô, Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, quyển 1, tr. 901. 312 x. Sđd., tr. 901. 313 x. Thánh Anphong, Vinh Quang Đức Maria, tr. 195.
59
Thứ đến là giáo thuyết về Đức Maria đồng công trong biến cố đồi Calvê. Có thể nói,
đỉnh cao của thập giá cũng là đỉnh cao của khổ đau mà Đức Maria phải chịu. Đứng bên bàn
hy tế của Con, Đức Maria chết lặng để cùng Con uống trọn chén đắng. Đức Maria đã chia
sẻ với Chúa Cứu Thế nỗi cô đơn não nùng, khi Con của Mẹ kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, lạy
Thiên Chúa của con nhân sao Chúa bỏ con ?” (Mt 27,46).314 Đức Maria thinh lặng như
tình thương Mẹ đã nâng đỡ Con Mình cho đến lúc Chúa nói: “Đã hoàn tất” (Ga 19, 30).315
Chính vì thế mà rất nhiều nhà thần học và nhiều vị thánh trong giai đoạn này, đã triển khai
ý nghĩa của biến cố đồi Calvê. Trước tiên là nhà thần học Arnold of Chartres (+1160), ngài
viết: “Trên đồi Calvê, tình yêu cộng tác thái quá của Mẹ làm cho Thiên Chúa nhân hậu đối
với chúng con. Chúa và Mẹ đều hiến dâng Của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa: Mẹ dâng
trong trái tim Mẹ; Chúa dâng trong máu thân xác Chúa […] để cùng với Chúa Kitô, Mẹ
lãnh nhận một hiệu quả trong công cuộc cứu chuộc thế gian.”316 Nhà thần học Richard of
St. Lawrence (+1230) diễn giải: “Điều Con ban cho thế giới do cuộc khổ nạn của Người,
thì Mẹ ban cho do Mẹ hiệp thông với Người để giao hòa tội nhân do cuộc đồng khổ nạn
của Mẹ, sau khi Mẹ đã lãnh nhận ơn cứu độ cho toàn thế giới nhờ Mẹ hạ sinh Chúa Cứu
Thế […] Nước mắt Mẹ hòa trộn với mồ hôi, nước mắt của Chúa, cùng với nước và máu từ
các vết thương của Người chảy ra để tẩy xóa vết nhơ các linh hồn.”317 Thánh Bônaventura
(+1274) khuyến cáo chúng ta phải nhớ điều này: Mẹ Maria muốn hòa tan vào tình yêu tha
thiết của Cha và của Con, nên đã đem tất cả tấm lòng hào hiệp hiến dâng Con chịu chết để
loài người được sống,318 Mẹ đã yêu thương chúng ta quá nên đã trao phó Con duy nhất của
Mẹ cho chúng ta.319 Thánh Albertô Cả (+1280) khảo luận rõ ràng về Mẹ Maria thông phần
phục hồi loài người hơn các nhà thần học thời đó. Ngài viết: “Toàn thế giới được kết thân
với Thiên Chúa do cuộc khổ nạn cao cả của Chúa Kitô, thì cũng liên quan đến Đức Mẹ do
cuộc đồng thụ nạn của Mẹ […] Do sự tự tình ưng thuận trong cuộc khổ nạn của Chúa, Mẹ
hiến dâng Người cho tất cả chúng ta: Nhờ Hiến vật thích đáng và tốt đẹp nhất đã được
dâng lên, Mẹ giao hòa toàn thể nhân loại với Thiên Chúa.”320 Chân phúc Gioan Tauler
(+1361) dạy tín lý đồng công cứu chuộc rằng, Đức Maria tự hiến cùng Chúa Kitô như một
Hiến vật sống động cho phần rỗi mọi người. Ngài nói: “Thiên Chúa chấp nhận Hiến lễ của
Mẹ trên đồi Calvê, như một Của lễ hy sinh thỏa lòng cho lợi ích và phần rỗi toàn thể nhân
loại. Nhờ công nghiệp những nỗi khổ đau của Mẹ, Mẹ biến đổi sự phẫn nộ của Thiên Chúa
314 x. Lê Tiến, Đức Maria trong Phụng Vụ (Đmhv, 2002), tr. 83. 315 x. Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 54. 316 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 32. 317 Sđd. 318 x. Thánh Anphong, Vinh Quang Đức Maria, tr. 33. 319 x. Sđd., tr. 59. 320 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 33.
60
thành lòng thương xót của Người […] Như bà Evà hái trái cây biết lành biết dữ đã làm hại
loài người trong ông Ađam, Mẹ đã dùng nỗi thống khổ của Mẹ từ cây Thánh giá, và với
nỗi chất ngất đau thương của Mẹ, Mẹ đã cùng với Con Mẹ cứu chuộc loài người.”321
Thánh Antoninô (+1459) dạy về Mẹ rất thánh: “Chỉ duy một mình Mẹ được hiệp thông
trong cuộc khổ nạn. Con Mẹ đã muốn trao thông cho Mẹ công nghiệp khổ nạn; và như
vậy, Mẹ có thể chia sẻ ơn huệ cứu rỗi, nghĩa là do sự đồng thụ nạn của Mẹ, Mẹ là Đấng
Phụ tá của công cuộc cứu chuộc, và nhờ việc tái tạo, Mẹ trở nên Mẹ mọi người.”322 Tư
tưởng này làm chúng ta liên tưởng đến câu nói của thánh Bônaventura: “Đức Trinh Nữ
Maria được tiền định để rửa sạch mối đê nhục của nòi giống chúng ta, đã hoàn toàn chiến
thắng hỏa ngục, và không bao giờ khuất phục nó (Satan), quả là hoàn toàn chính đáng.”323
Mẹ là “Đấng đã minh nhiên và thực sự đồng công vào việc cứu chuộc của Chúa Giêsu. Ơn
gọi và sứ mạng của Mẹ chính là ơn gọi đồng công cứu chuộc,”324 hoặc nói cho rõ nghĩa
hơn ơn “đồng công cứu chuộc” chính là ơn tiền định đặc tuyển kỳ diệu của Mẹ. Cuộc đời
của Mẹ là cuộc đời chỉ nhằm để thể hiện ơn tiền định đồng công ấy.325
Niềm thống khổ của Mẹ Maria lớn lao đến nỗi, theo đánh giá của thánh Bênađinô
Siênna (+1444), đã đặt Mẹ trong trạng thái được tách biệt vượt trên khả năng chịu đau
khổ đến mức có thể chết của tất cả thụ tạo hợp lại.326 Thánh Bênađô thì cho rằng: không
phải Đức Maria hiện diện ở gần thánh giá, nhưng ở trên “thánh giá”, cùng chịu đóng
đinh vào hai thanh gỗ như Chúa Giêsu.327 Nhà thần học Tôma Illyricô (+1529) quả
quyết: “Rất Thánh Trinh Nữ là Đấng Phụ tá của công cuộc cứu rỗi và là Đấng Trợ giúp
công cuộc công chính hóa chúng ta […] Mẹ là Đấng Tu sửa, Giao hòa và Phục hồi
chúng ta.”328 Tác giả Clichton (+1543) dạy: “Sau Chúa Kitô, Mẹ Maria có thể được gọi
là Đấng Tu sửa cứu chuộc loài người, vì do những nỗi thống khổ của Mẹ, Mẹ vui nhận
cộng tác vào việc cứu chuộc chúng ta.”329 Nhà thần học Ambrosiô Catharinô (+1553)
chứng minh: “Công cuộc cứu chuộc vẻ vang mà Mẹ đã được tuyển chọn, tỏ rõ rằng Mẹ
rất thích hợp là Đấng cộng sự với Chúa Kitô, không phải là Chúa Kitô đã không đầy đủ,
nhưng vì điều tốt đẹp và thích hợp là Chúa có người trợ giúp.”330 Thánh Bônaventura
nói: “Bạn hãy nhìn kỹ Chúa Giêsu, vô số vết thương tỏa khắp châu thân Ngài và tất cả
321 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 33-34. 322 Sđd., tr. 34. 323 Thánh Anphong, Vinh Quang Đức Maria, tr. 339. 324 Maria Agrêđa, Thần Đô Huyền Nhiệm, chuyển ngữ: Văn Hải (Sài Gòn, 2004), tr. 07. 325 Sđd., tr. 07. 326 Raoul Plus, S. J, Đức Maria Trong Lịch Sử Thiên Chúa Cứu Độ, tr. 65. 327 x. Raoul Plus, S. J, Sđd., tr. 64-65. 328 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 35. 329 Sđd. 330 Sđd., tr. 35.
61
đã được hợp nhất lại trong vết thương duy nhất và khôn tả nơi tâm hồn Đức Maria.”331
Thần học gia Anphongsô Salmeron (+1585) tại công đồng Trentô viết: “Mẹ Maria đứng
bên Thánh giá để việc tu sửa loài người có thể đề bù sự thiệt hại cả thế giới […] Chúa
Kitô muốn thông cho Mẹ Người tính cách cứu chuộc như Mẹ là Đấng Đồng công, không
phải là giảm công của Người, nhưng cho Người được vinh quang cao cả.”332 Thánh
Phêrô Canisiô (+1597) nói: “Đứng bên Thánh giá của Con Mẹ, Mẹ dũng cảm trong đức
tin, và hiến dâng Chúa Kitô là Của lễ sống động để đền bù tội lỗi thế giới.”333
Cuối cùng là giá trị hiệp công của Đức Maria. Ở gốc cây biết lành biết dữ, Evà đã
đánh mất chức làm mẹ loài người; ở dưới chân Thánh giá, Đức Mẹ đã đón nhận chức
làm mẹ loài người.334 Nhà thần học Denis Carthusianô (+1473) còn giải đáp tại sao
Chúa muốn Mẹ Người hiện diện tại cuộc khổ nạn của Người: “Bởi vì Chúa muốn Mẹ
tuyệt hảo của Người là Đấng hợp tác trọng yếu trong ơn cứu độ chúng ta. Do đó, Chúa
đã muốn rằng bởi sự đồng thụ nạn trung thành nhất của Mẹ, Mẹ thật xứng đáng lãnh
nhận cho mọi người hậu quả cuộc khổ nạn của Chúa.”335 Quả thật, theo tác giả Phêrô
Morales (+1603): “Rất Thánh Trinh Nữ là Mẹ chúng ta, không những là Dưỡng mẫu,
và là nhiều tước hiệu khác, nhưng chủ yếu và đặc biệt do bởi cuộc khổ nạn của Con
Mẹ, Mẹ sinh chúng ta trong đau khổ cay đắng và trở nên Mẹ mỗi người chúng ta.”336
Nhà thần học Eadmer (1060-1130) môn đệ của thánh Anselmô, có lẽ là người đầu tiên
minh nhiên nói về “huân nghiệp tu sửa” của Đức Trinh Nữ Maria. Ngài nói: “Mẹ lập
công để trở thành Đấng tu sửa thế gian đã bị hư hỏng một cách xứng đáng nhất.”337
Để có thể tóm kết giai đoạn này, chúng ta có thể mượn lời của thánh Gioan Kim
Khẩu (+407): nếu như ma quỷ đã dùng phương tiện nào để chiến thắng, thì Chúa Kitô
cũng dùng chính những phương tiện ấy để đánh bại nó. Nói cách khác, Người lấy chính
vũ khí nó dùng mà thắng nó.338 Nếu như một trinh nữ (Evà), một khúc gỗ (Cây xanh)
và sự chết (hình phạt Ađam phải chịu) là biểu tượng cuộc thất bại của chúng ta, thì sự
xuất hiện của một Trinh Nữ (Đức Maria), một khúc gỗ (Thập giá) và cái chết của Đức
Kitô lại trở thành biểu tượng của sự toàn thắng.339 Nếu như “một trinh nữ trục xuất
chúng ta khỏi thiên đàng; nhờ một Trinh Nữ, chúng ta tìm được sự sống vĩnh cửu. Do
331 Raoul Plus, S. J, Đức Maria Trong Lịch Sử Thiên Chúa Cứu Độ, tr. 65. 332 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 35. 333 Sđd., tr. 35-36. 334 Lm. Nguyễn Ngọc Thế S. J, Sứ Điệp Không Thể Lãng Quên (Phương Đông: TP HCM, 2016), tr. 155. 335 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 34. 336 Sđd., tr. 36. 337 Sđd., tr. 31. 338 Thánh Gioan Kim Khẩu, Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, quyển 1, tr. 1144. 339 x. Sđd., tr. 1144.
62
một trinh nữ, chúng ta bị lên án; và nhờ một Trinh Nữ, chúng ta được ban thưởng.”340
Như thế, trong giai đoạn này, suy tư của các thánh và các nhà thần học về vai trò của
Đức Maria trong công cuộc cứu chuộc được chuyển tiếp từ quan niệm chung cho tới
quan niệm riêng biệt, nghĩa là tính cách rõ ràng vai trò hiệp thông của Mẹ.
3. Từ thế kỷ XVII đến XIX, giáo thuyết về Đức Maria đồng công trong bối cảnh Tin lành
Trong thời kỳ này, Giáo Hội phải chịu đựng một vết thương rất lớn do cuộc ly khai của
Lutêrô. Thực ra, Lutêrô đã chú trọng đến Đức Maria rất nhiều khi chú giải các đoạn văn
Thánh Kinh nói về Người (chẳng hạn như kinh Magnificat). Nhưng vì muốn phản ứng lại
một lối tôn sùng Đức Mẹ quá ủy mị, phái Cải cách gạt Người ra khỏi đời sống đạo của họ,
bởi vì họ chủ trương dành tất cả cho Đức Kitô (solus Christus).341 Những người Tin lành
than phiền rằng, lòng tôn kính với Đức Maria đã làm giảm sút sự tin tưởng của con người
vào ơn Chúa, ơn Chúa chỉ được thông ban duy chỉ có một mình Chúa Kitô mà thôi.342 Đối
lại, về phía Công giáo, nhiều người lại coi việc tôn sùng Đức Mẹ như một dấu hiệu đặc biệt
của Đạo mình.343 Những người Tin lành không biết rằng: “việc ta tới thân mật cùng Chúa
Giêsu Đấng chịu đóng đanh trên Thập giá chính là do Đức Trinh Nữ Maria làm Mẹ chúng
ta dẫn đàng chỉ lối cho chúng ta tới với Chúa. Như vậy, Chúa Giêsu bảo ta rằng: ‘Con hãy
yêu mến Ngài như Cha yêu mến Ngài thì không có gì còn làm cho chúng ta phải áy náy lo sợ
nữa’” (đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, triều yết chung 23/11/1988),344 và thật ra, “cả
cuộc sống của Mẹ cũng là một cuộc hành trình đi theo Chúa, theo Chúa để đến với mọi
người, theo Chúa để trở thành Mẹ của mọi người.”345 Ngày nay, có những nỗ lực dè dặt tìm
về lại với Mẹ Maria nơi một số người Tin lành. Họ nhận ra rằng: việc “xóa” yếu tố nữ ra
khỏi sứ điệp Kitô cũng là một thiếu sót về mặt nhân chủng. Một người nữ hiện diện nơi tâm
điểm Kitô giáo, xét về mặt thần học và nhân chủng, là điều quan trọng. Chẳng có chuyện
cạnh tranh giữa hai khuân mặt mẹ con, vì hai người khác nhau trên nền tảng. Đức Giêsu đã
trao Mẹ cho tất cả chúng ta qua thánh Gioan. Không phải cạnh tranh, nhưng là một thứ gần
gũi sâu xa hơn. Đức Maria có chỗ đứng quan trọng trong nhân sinh quan Kitô giáo.346 Nhìn
chung trong thời kỳ này, việc nghiên cứu thần học về vai trò Đức Mẹ trong công cuộc Cứu
chuộc loài người phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là công trình của các thánh như: thánh
Laurensô Brindisi, thánh Robertô Bellarminô, thánh Euđê, thánh Grignion de Montfort,
340 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 29. 341 x. Giuse Phan Tấn Thành, O. P, Magnificat, tr. 130. 342 Radio Veritas, Bước Theo Chân Mẹ- Những bài suy niệm về Đức Maria của Đài chân lý Á Châu, tr. 14. 343 x. Giuse Phan Tấn Thành, O. P, Magnificat, tr. 130. 344 Guillaume Menthière, Mẹ Maria-Trung tâm Công trình của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II, tr. 37. 345 Radio Veritas, Sđd., tr. 11. 346 x. Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, tr. 305.
63
thánh Anphong Ligouri; các nhà thần học như: Berulle, Cornelius a Lapide, Gaspar Tausch,
Salazar, Vulpes, Novati, Luke Wadding, George de Rhodes, Reichensperger, Dubois,
Widenfeld, Crasset, Van Ketwigh, Charles del Moral, Trombelli, De Clorivière, Jeanjacquot,
Peraldi, faber, hồng y Wiseman, hồng y Newman, hồng y Manning, Scheeben, đức Piô IX,
đức Lêô XIII. Trong thế kỷ XIX, danh từ Đấng Đồng Công thường được sử dụng.347
Trước hết, sự cộng tác của Mẹ Maria được trình bày hệ tại ở sự hiến dâng Người Con
yêu dấu cho Thiên Chúa và hiệp thông với Người trong khổ đau và trong đức tin, để đem
ơn cứu độ cho trần gian. Điều này được thấy ngay với tư tưởng của thánh Laurensô
Brindisi (+1619). Ngài nói: “Mẹ Maria liều mạng sống cho chúng ta. Mẹ đứng bên Thánh
giá Chúa Kitô, hiến dâng Người cho Thiên Chúa như tinh thần tổ phụ Abraham hiến dâng
con […] Tinh thần của Mẹ là tinh thần một tư tế thiêng liêng. Thánh giá là bàn thờ, Chúa
Kitô là Của Lễ. Tinh thần Chúa Kitô là Tư tế chánh tế, tinh thần của Mẹ Maria hợp với
tinh thần của Chúa, cùng một tinh thần với Người như một linh hồn trong hai thân xác.”348
Cũng giống như tư tưởng trên đây, thánh Robertô Bellarminô (+1621) viết: “Mẹ Maria
không hiện diện trong cuộc tạo thành bầu trời vật chất, tuy Mẹ hiện diện trong cuộc tạo
thành bầu trời thiêng liêng […] Duy một mình Mẹ cộng tác trong mầu nhiệm Nhập thể,
cũng duy một mình Mẹ hợp tác trong mầu nhiệm Khổ nạn: Mẹ đứng bên Thánh giá và hiến
dâng Con Mẹ cho ơn Cứu độ trần gian.”349 Đức hồng y Carlo Maria Martini đã khuyên
chúng ta: chúng ta hãy xin Đức Maria ban cho chúng ta đức tin mà Mẹ đã diễn tả trong đau
khổ của Mẹ khi đứng dưới chân Thập giá, và đức tin đó đã giúp Mẹ không nổi loạn vì cái
chết của người Con của Mẹ, nhưng chấp nhận nó và cảm nhận trong thực tại.350
Thứ đến, sự cộng tác của Mẹ Maria với Chúa Kitô được diễn tả như một trợ tá
trong mầu nhiệm cứu độ. Đức hồng y Berulle (+1629) gọi Đức Maria là: “Bạn đồng cảnh
với Chúa Giêsu trong những mầu nhiệm của Người, trong những hoạt động của Người,
trong Thánh giá của Người, trong đời sống của Người, trong sự chết của Người.”351
Thánh Anphongsô Ligôri, khi suy nghĩ rất nhiều về những thống khổ của Đức Maria, đã
giải thích rằng đó là một Đấng Tử Đạo không có niềm an ủi.352 Cha Olier (+1657) diễn
tả: “Mẹ Maria là Bạn của Chúa Cha hằng hữu trong nhiệm cuộc Cứu rỗi lúc Ngôi Hai
nhập thể. Mẹ là một biểu tượng của Giáo Hội, tham dự vào Hy lễ trên đồi Canvê.”353 Tất
nhiên, Đức Trinh Nữ Maria không có chút nào về sự liên kết hai bản tính trong một ngôi
347 Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, Tập II, 1998, tr. 373. 348 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 37-38. 349 Sđd., tr. 38. 350 x. Đức hồng y Carlo Maria Martini, Đức Maria Ở Giữa Dân Người, tr. 59 351 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 38. 352 x. Raoul Plus, S. J, Đức Maria Trong Lịch Sử Thiên Chúa Cứu Độ, tr. 23. 353 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 38.
64
vị, nhưng người ta có thể so sánh tâm trạng của Mẹ với tâm trạng Con Mẹ.354 Nhà thần
học Salazar (+1646) viết: “Chính Chúa Kitô đã muốn hoàn hảo hóa ơn Cứu chuộc chúng
ta, bằng cách liên kết Mẹ Người như một Đấng Trợ tá.”355 Nhà thần học Vulpes (+1647)
dùng danh từ Corredemptrix để nói về sự cộng tác của Đức Mẹ trong kế hoạch của Thiên
Chúa: “Thiên Chúa đã quyết định cứu chuộc mọi người khỏi nô lệ tội lỗi nhờ công
nghiệp của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Người đã quyết định sẽ có Chúa Kitô và Mẹ Người,
để Mẹ trở thành Đấng Đồng Công Cứu chuộc (Corredemptrix) toàn thể nhân loại.”356
Tiếp theo, giáo huấn của các thánh và các nhà thần học trình bày cho chúng ta về ý
nghĩa công nghiệp vô cùng của Chúa Kitô và công trạng của Mẹ Maria trong mầu nhiệm
cứu độ. Theo nhà thần học Caspar Tausch (+1645), Mẹ Maria biết thánh ý Chúa Cha muốn
Con Mẹ phải chịu đau khổ và phải chết trên Thập giá để cứu rỗi loài, nên Mẹ hoàn toàn
tuân hợp thánh ý đó. Mặt khác, vì tha thiết yêu thương loài người, Mẹ mau mắn hiến dâng
Con Mẹ chịu đau khổ và chịu chết cho nhân loại được sống.357 Thánh Bônaventura cho
rằng: “Chính từ Đức Maria, chúng ta chiếm giữ tất cả điều ở Trên Cao đến với chúng
ta,”358 bởi vì theo nhà thần học Luca Wadding (+1657): “Rất Thánh Trinh Nữ đã cộng tác
vào công cuộc Cứu rỗi chúng ta trong rất nhiều cách. Tôi không nghĩ rằng đó là một sự
mới lạ hay một sự quá đáng gọi Mẹ là Đấng Cứu chuộc nhân loại trong nghĩa đầy đủ của
danh từ.”359 Tất nhiên, chúng ta luôn luôn xác tín Luca Wadding không có ý nói có hai
Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Chỉ có Đức Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất và Đức Maria được
tháp nhập vào công cuộc cứu độ của Con Mẹ. Thật vậy, theo suy tư của nhà thần học
Novati (+1648), Chúa Kitô lập công tương đáng đầy đủ ơn thánh hóa và mọi ơn lành cho
mọi người được tha thứ mọi tội lỗi. Đức Maria cũng lập công tương hợp cho mọi người.360
Theo thần học gia George Rhodes (+1661), Mẹ lập công tương hợp bằng việc Mẹ hợp tác
và cầu nguyện trong mọi sự mà Chúa Kitô lập công tương đáng cho chúng ta bằng sự chết
của Người.361 Nhà thần học Didacô Gonzalez Mattheô (+1741) còn mạnh mẽ bênh vực vai
trò của Mẹ Đồng công cứu chuộc (Corredemptrix): “Không thể chối cãi rằng Chúa Kitô
lập công tương đáng cho chúng ta, được mọi ơn lành cả về trật tự siêu nhiên và tự nhiên
cùng với tha thứ tội lỗi và ơn giải thoát khỏi sự dữ. Do đó, Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa lập
354 x. Raoul Plus, S. J, Đức Maria Trong Lịch Sử Thiên Chúa Cứu Độ, tr. 25. 355 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 39. 356 Sđd. 357 x.Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., 39. 358 Raoul Plus, S. J, Đức Maria Trong Lịch Sử Thiên Chúa Cứu Độ, tr. 176. 359 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 39-40. 360 x. Sđd., tr. 39. 361 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 40.
65
công tương hợp tất cả các ơn đó cho chúng ta.”362 Bởi vì, mục đích Chúa Giêsu đến trần
gian là để mang lại cho loài người sự sống thần linh đã bị nguyên tổ đánh mất; mục đích
của Đức Maria ưng thuận lời đề nghị của sứ thần là để cho phép Chúa Giêsu đến trần
gian.363 Tất nhiên, nói như Wayne Jacobsen, “bạn không thể cho người khác điều mà bạn
đã không nhận được từ nơi Chúa,”364 nhưng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu theo huyết nhục
và là Mẹ thiêng liêng của tất cả nhân loại đã được mua lại bằng giá máu của Chúa Giêsu.365
Kế tiếp, các nhà thần học và các thánh diễn tả Đức Maria cùng với Chúa Giêsu là
một Hy vật và một Hiến vật. Thánh Gioan Euđê (+1680) quả quyết: “Trong mọi giai đoạn
cuộc đời Mẹ, Mẹ cộng tác với Con Mẹ trong công cuộc Cứu rỗi chúng ta, và khi Chúa tự
hy tế trên Thánh giá, Mẹ cũng hiến tế Người vì cũng mục đích đó.”366 Thánh Louis Maria
Grignion Montfort (+1716) giảng dạy: “Khi Chúa hấp hối trên Thánh giá, Mẹ Maria đứng
bên cạnh, để Mẹ Con đồng hóa một hy sinh dâng lên Cha trên trời, cũng như Abraham đã
tình nguyện sát tế con mình để phục mạng thánh ý. Thế là Mẹ Maria đã sinh nở, dưỡng
dục và dâng Con mình làm hy sinh chuộc tội cho chúng ta.”367 Thật vậy, đối với Mẹ,
không thể tham dự vào công cuộc cứu chuộc mà không phải trả giá,368 Mẹ dâng mọi hoạt
động và khổ đau của Mẹ, cùng với mọi hoạt động và khổ đau của Chúa Kitô cho ơn cứu
rỗi mọi người. Và Thiên Chúa chấp nhận sự hiến dâng như thế (tư tưởng của Gioan
Crasset).369 Như vậy, Đức Maria đã được liên kết với Chúa Giêsu trong việc mua sắm ơn
cứu chuộc cho nhân loại, điều đó không còn đặt mối nghi ngờ nào nữa.370
Cuối cùng, giáo huấn của các thánh và các nhà thần học khẳng định Mẹ là Đấng
Đồng công cứu chuộc. Nhà thần học Charles Moral (+1731) dạy: “Dưới chân Thánh giá,
Mẹ Thiên Chúa cùng chịu khổ đau, và hiến dâng Con Mẹ lên Chúa Cha hằng hữu. Với
Con Mẹ và do công nghiệp tương hợp của Mẹ, Mẹ là Đấng Đồng công cứu chuộc
(Corredemptrix) cho tội lỗi toàn thể loài người.”371 Nhà thần học Van Ketwigh (+1720)
cũng nói tư tưởng tương tự: “Rất Thánh Trinh Nữ Maria được (gọi) là Đấng Đồng công
cứu chuộc (Corredemptrix) hay là Đấng Cộng tác (Co-operatrix) trong công cuộc cứu
chuộc loài người, nghĩa là Mẹ hạ sinh Chúa Cứu Thế, hiến dâng Người lên Chúa Cha cho
việc cứu chuộc loài người, và nhờ công nghiệp và lời cầu nguyện của Mẹ, Mẹ lãnh nhận
362 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 42. 363 x. Raoul Plus, S. J, Đức Maria Trong Lịch Sử Thiên Chúa Cứu Độ, tr. 39. 364 Wayne Jacobsen & Clay Jacobsen, Tương Giao Đích Thật, tr. 25. 365 x. Raoul Plus, S. J, Sđd., tr. 39 366 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 40. 367 Sđd., tr. 41. 368 x. Raoul Plus, S. J, Sđd., tr. 37. 369 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 40-41. 370 x. Raoul Plus, S. J, Sđd., tr. 148. 371 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 41-42.
66
cuộc khổ nạn của Chúa Cứu thế để áp dụng cho mọi người.”372 Nhà thần học Scheeben (+
1888) lại viết: “Được phép nói rằng Mẹ Maria đã cùng hiến dâng Hy tế này trong và do lễ
Hy tế của Chúa Kitô. Trong ý nghĩa và cách thế này mà Mẹ Đấng Cứu Thế được chính xác
và không nguy hiểm được gọi là Đấng Đồng công cứu chuộc (Corredemptrix).”373
Tóm lại, có thể nói trong thời kỳ này, mặc dù Giáo Hội phải chịu đựng một vết thương
rất lớn do cuộc ly khai của Lutêrô, dẫn đến những chống đối về việc sùng kính Đức Maria,
nhưng những suy tư về Thánh Mẫu học trong giai đoạn này lại vô cùng phong phú, nhất là
những suy tư về vai trò của Đức Maria trong công cuộc cứu chuộc. Thật tình, người viết cảm
thấy tiếc xót vì không thể trình bày nhiều hơn những suy tư sâu sắc và có nền tảng để bênh
vực tước hiệu Đức Mẹ Đồng công, vì thế chúng ta phải nại đến thế giá của các vị giáo hoàng.
Cụ thể là trong thế kỷ XIX có ba vị giáo hoàng sốt sáng nêu bật vai trò Đồng công cứu chuộc
của Mẹ Maria: đức Piô VII (1823), đức Piô IX (1878), đức Lêô XIII (1903). Cũng trong thế
kỷ XIX này, tước hiệu Đấng Đồng công (Corredemptrix) rất năng được dùng.374
4. Thế kỷ XX, nhiều giáo thuyết chứng minh vai trò đồng công của Mẹ Maria
Trong thế kỷ này, từ đức Piô X đến các đức giáo hoàng Bênêđictô XV, đức Piô
XI, đức Piô XII, đức Gioan XXIII, đức Phaolô VI và cuối cùng là đức Gioan Phaolô II,
tất cả đều minh nhiên huấn dạy về sứ mạng đồng công cứu chuộc của Mẹ Maria.375
Ngoài ra còn có rất nhiều thần học gia chứng minh Mẹ Maria thật sự đã hiệp công với
Chúa Kitô trong công cuộc Cứu chuộc loài người,376 cụ thể theo cha Dillenschneider,
thế kỷ này gồm có nhà thần học Le Rohellec, Broise, Bainvel (1858-1937),
Bittremieux, Friethoff, Bover, Garcia Garces, Borzi, Seiler, Philipon, Deneffe, Carol,
Hugon (1867-1929), Anger, Mura, Rondel, Hồng y Lépicier (1863-1936), Terrien,
Keuppens, Merkelbach (1871-1942), Boyer, Roschini, Lagrange (1855-1938), v.v.377
Vì hầu hết các giáo thuyết là các bản văn huấn quyền nên chúng ta tìm hiểu ở phần sau.
Ở đây, chúng ta chỉ trích lại một vài tư tưởng của đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn
Văn Thuận, được trích trong cuốn “Đường Hy Vọng”: “Mẹ hoàn toàn sống cho Chúa
Giêsu, sứ mệnh của Mẹ là đồng công cứu chuộc với Chúa Giêsu… Tất cả vinh dự của
Mẹ là do nơi Chúa Giêsu. Mẹ không là gì cả nếu Con Mẹ không phải là Chúa Giêsu,
nếu cả cuộc đời của Mẹ không dành trọn cho Chúa Giêsu.”378
372 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 41. 373 Sđd., tr. 44. 374 x. Sđd., tr. 45. 375 x. Sđd. 376 x. Sđd. 377 Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, Tập II, 1998, tr. 375. 378 x. Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 936.
67
Trong tư cách là một thần học gia, đức giáo hoàng Biển Đức XVI đã trả lời phỏng
vấn nhà báo Peter Seewald, khi được hỏi liên quan đến vai trò “Đồng công” của Đức
Maria.379 Vì đức giáo hoàng trình bày trong tư cách là nhà thần học chứ không trong tư
cách là giáo hoàng, nên người viết xin được trích nguyên văn cuộc phỏng vấn, để khẳng
định tính khách quan trong tư tưởng của nhà thần học Joseph Ratzinger.
Nhà báo Peter Seewald: “Hơn một triệu tín hữu đòi Giáo Hội Công giáo nâng Maria
lên thành ‘đấng cùng cứu độ’. Yêu cầu đó sẽ được thỏa mãn hay đó là một lạc tín?”
Thần học gia Joseph Ratzinger: “Không phải một, mà hiện có nhiều triệu người yêu
cầu điều đó. Nhưng tôi tin đòi hỏi này sẽ không được đáp ứng trong tương lai gần. Câu trả
lời của Bộ giáo lý đức tin: vai trò cùng cứu độ đó đã thể hiện khá rõ ràng trong các tước
hiệu khác của Mẹ Maria rồi, còn danh hiệu ‘đấng cùng cứu độ’ đi quá xa Kinh Thánh và các
giáo phụ, nên sẽ gây ra hiểu lầm.” Ngài trả lời tiếp: “Đâu là cái đúng trong đó? Đúng, là
Đức Kitô không đứng ngoài hay bên cạnh chúng ta, mà Ngài cùng với chúng ta xây dựng
một cộng đoàn mới và thiết thân. Những gì của Ngài là của ta và những gì của ta Ngài đều
nhận vào mình, để trở thành của Ngài: Sự trao đổi lớn lao đó là nội dung của cứu độ, là sự
mở toang cái tôi và bước vào cộng đoàn với Chúa. Vì Maria đã thể hiện Giáo Hội đích thực
nơi mình, có thể nói Ngài là Giáo Hội bằng xương thịt, nên sự ‘đồng cứu độ’ đó đã được thể
hiện một cách mẫu mực. Nhưng trên cái ‘đồng’ đó ta không được quên cái ‘trước tiên’ của
Đức Kitô: Mọi sự đều đến từ Ngài, như đã được đề cập một cách đặc biệt trong thư gửi giáo
đoàn Êphêsô và Côlôxê; và tất cả những gì nơi Maria đều cũng đến từ Đức Kitô. Chữ ‘đấng
cùng cứu độ’ có thể sẽ làm lu mờ cái nguồn cội đó. Một ý hướng đúng được diễn tả bằng
một từ ngữ sai. Chính trong vấn đề đức tin ta không được đứt đoạn với ngôn ngữ Kinh
Thánh và của các giáo phụ; không được chế biến ngôn ngữ đó một cách tùy hứng.”
III. Giáo huấn của Giáo Hội về vai trò “đồng công” của Đức Maria trong lịch sử
Khi nói về Đức Maria, thánh Bênađô đã từng thốt lên rằng: “Nói về Mẹ thì không bao
giờ là đủ được- De Maria numquam satis.”380 Chính vì không thể quảng diễn hết tư tưởng của
các thánh và các nhà thần học trình bày về Đức Maria, nên người viết nại đến thế giá của chính
các vị giáo hoàng để có thể trình bày những bản văn mang tính pháp lý nhiều hơn. Theo Lm.
Giuse Nguyễn Văn Tuyên, “trong các vấn đề Thánh Mẫu, sự cộng tác của Đức Maria vào ơn
cứu độ được coi là then chốt nổi bật nhất trong giáo huấn của các giáo hoàng.”381
379 Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, tr. 309-310. 380 Radio Veritas, Bước Theo Chân Mẹ- Những bài suy niệm về Đức Maria của Đài chân lý Á Châu, tr. 05. 381 Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên, Đức Maria-Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, tr. 52.
68
1. Huấn quyền thời đức Bênêđictô XIV, đức Piô VII, đức Piô IX
Đức Bênêđictô XIV (1740-1758), trong thông điệp Gloriosae Dominae, là thông điệp
đầu tiên về Đức Mẹ trong lịch sử Giáo Hội, đã tóm lược vai trò quan trọng của Đức Maria
trong công cuộc Cứu thế: Đức Maria là Mẹ Chúa Cứu Thế và là Nữ Vương trời đất, và do lời
trăn trối của Chúa khi hấp hối, Mẹ được trao phó là Mẹ Giáo Hội. Cùng với các thánh giáo
phụ, đức Bênêđictô XIV cũng tuyên xưng: Mẹ là Trạng sư, là Hòm Bia nhiệm mầu của Giao
ước. Trong Mẹ, những mầu nhiệm mối giao hòa của chúng ta đã đạt đến cùng đích.382
Tiếp theo là giáo huấn của đức Piô VII (1800-1823). Trong tông thư Id Officii debent,
ban hành 09/01/1801, ngài lại nhấn mạnh đến những cay đắng khổ đau của Đức Maria trong
việc cộng tác với Người Con yêu dấu của Mẹ: “Các Kitô hữu với hết tình ngoan thảo đối với
Đức Trinh Nữ, luôn luôn nhớ đến những nỗi khổ đau rất cay đắng mà Mẹ đã lãnh chịu, với sự
dũng cảm lạ lùng và sự kiên trung vô song, nhất là khi Mẹ đứng dưới chân Thánh giá Chúa
Giêsu. Mẹ hiến dâng lên Chúa Cha hằng hữu những nỗi khổ đau, để họ được cứu rỗi.”383
Nếu như từ đức Bênêđictô XIV đến đức Piô VII có sự tiệm tiến hay có sự dè dặt
trong việc nói lên vai trò của Đức Maria hiệp thông với Chúa Cứu Thế, thì đức Piô IX
(1846-1878) lại có những giáo huấn hết sức rõ ràng minh bạch, mang âm hưởng của
bản văn Tiền Tin mừng. Ngài tuyên bố trong thông điệp Ineffabilis Deus, ban hành
08/12/1854: “Thiên Chúa đã công khai rõ ràng tỏ ra từ trước Đấng Cứu thế nhân hậu
của loài người là Chúa Giêsu Kitô, Con Một Người, và để tuyển chọn Mẹ diễm phúc
của Người là Đức Trinh Nữ Maria, và rõ ràng bày tỏ mối liên kết giữa hai Mẹ Con
đương đầu với ác thần. Như Chúa Kitô mặc bản tính nhân loại đã đình chỉ án phạt
chúng ta, và vinh thắng đóng chặt bán án ấy vào Thánh giá; cũng vậy, Rất Thánh Trinh
Nữ mật thiết kết hợp với Chúa, đã bởi Người và với Người là cựu thù của con Rắn độc,
chiến thắng đạp đầu nó dưới gót sen của Mẹ”.384 Theo Lm. Nguyễn Văn Tuyên, trong
thông điệp Ineffabilis Deus, khi nhắc đến sự thù nghịch giữa Người Nữ và “con rắn”,
chỉ cho thấy đây không phải chỉ là sự chiến thắng tội lỗi nơi cá nhân Đức Maria mà là
sự Người được liên kết vào công trình cứu độ.385 Như vậy, trong giáo huấn của mình,
Giáo Hội mời gọi con cái của mình nhìn nhận vai trò cộng tác của Đức Maria với Chúa
Cứu Thế bằng sự liên kết trong khổ đau để cứu chuộc nhân loại. Đó là cách thức chiến
thắng của Đức Maria trước các thế lực sự dữ để giải thoát con cái của Mẹ khỏi ác thần.
382 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 48-49. 383 Sđd., tr. 49. 384 Sđd. 385 x. Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên, Đức Maria-Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, tr. 52.
69
2. Huấn quyền thời đức Lêô XIII, đức Piô X, đức Bênêđictô XV
Trước hết với giáo huấn của đức Lêô XIII (1878-1903), trong thông điệp
Adjutricem populi, ban hành năm 1894, ngài khẳng định: “Mẹ đã cộng tác vào việc xóa
tội trần gian.”386 Đức Lêô XIII còn là vị giáo hoàng đầu tiên viết về vai trò Đồng Công
cứu chuộc của Đức Maria: “đứng gần bên thập giá Chúa Giêsu có Mẹ Người, Đấng,
qua một phép lạ của đức ái [...] đã vui lòng hiến dâng Người lên cho phép công bình
Thiên Chúa, đã tử nạn với Người trong trái tim chịu lưỡi gươm đau buồn đâm thâu”.387
Cũng trong thông điệp Adjutricem Populi, ngài còn viết: “Theo ý định của Thiên Chúa,
Mẹ đã khởi đầu chăm sóc Giáo Hội, hộ giúp và che chở chúng ta với tình Hiền mẫu, để
sau khi là Đấng cộng tác vào việc Cứu thế, Mẹ trở thành Đấng ban phát ơn lành do
công ơn Cứu rỗi cho mọi thời đại, bằng quyền năng gần như vô biên của Mẹ.”388
Tiếp theo là giáo huấn thời đức Piô X (1903-1914). Với thông điệp Ad diem illum
ban hành 02/02/1904, đức Piô X khẳng định: “Nhờ sự thánh thiện và sự hiệp nhất với
Chúa Kitô, và vì được liên kết với công trình cứu độ của Ngài, Đức Maria tạo nên cho
loài người một cách tương hợp (de congruo) những công phúc mà Chúa Kitô đã tạo nên
một cách tương đáng (de condigo). Người trở thành người phân phát (ministra) các ơn
cao nhất.”389 Do đó, “hiệu quả của việc cùng chung đau khổ và tình cảm giữa Đức Maria
và Chúa Giêsu là: Maria đã đáng trở nên một người sửa chữa nhân loại sa ngã, và ngài
phân phát tất cả kho tàng Chúa Kitô đã đem lại cho chúng ta bằng cái chết và bằng Máu
thánh của Người.”390 Năm 1914, với việc kỷ niệm 50 năm ngày định tín ơn Vô Nhiễm
Nguyên Tội, đức Piô X đã ca ngợi sự đồng công cứu chuộc của Đức Maria và ban ơn đại
xá cho những ai đọc kinh trong đó có câu “Đức Maria đồng công cứu chuộc”. Ngài nhấn
mạnh đến quyền Mẫu Tử mà Đức Maria đã hy sinh trên núi Sọ.391 Cũng vào thời đức Piô
X, một sắc lệnh của bộ Thánh Vụ (12/8/1913) cho phép thêm danh Đức Maria vào kinh
ngợi khen trước đây dành riêng cho Chúa Giêsu: “Laudetur Jesus et Maria, hodie et
simper”, với lý do để tôn kính Đức Maria, đấng đồng công cứu chuộc của chúng ta.392
Cuối cùng, tiếp nối với các vị tiền nhiệm, đức Bênêđictô XV (1914-1922) trong bức
thư “Inter sodalitia” (22/3/1918), tiếp tục khai triển chủ đề trên: “Đức Maria đã cùng Người
Con tử giá vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha đến độ đã đau khổ hầu như chết cùng với
386 Lm. Gabriel Nguyễn Thái Sơn,O. C, Sđd., tr. 78. 387 Lm. Anthony F. Chiffolo, 100 Danh Thánh của Mẹ Maria: Truyện và Kinh, tr. 42. 388 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 50. 389 Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên, Sđd., tr. 52. 390 Lm. Gabriel Nguyễn Thái Sơn, O. C, Sđd., tr. 79. 391 Sđd., tr. 78-79. 392 x. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, O. P, Magnificat, tr. 210.
70
Người Con tử nạn, từ bỏ hoàn toàn những quyền lợi của Người Mẹ trên Người Con cứu thế,
và hiến dâng Con như một của lễ để làm nguôi đức công bình Thiên Chúa Cha. Như thế,
đương nhiên chúng ta có thể nói Mẹ đã cùng với Chúa Kitô cứu chuộc nhân loại”.393
Như vậy, với giáo huấn của các vị giáo hoàng, Giáo Hội càng ngày càng xác
định rõ nét sự liên kết của Đức Maria với Chúa Kitô trong công trình cứu độ. Mẹ
tham dự vào công trình cứu độ chẳng những bằng vai trò của Mẹ trong Nhập Thể
mà còn bằng sự hiệp thông vào khổ nạn Thập giá. Dĩ nhiên là bản chất của sự hiệp
thông này như thế nào đi nữa, công trình cứu độ vẫn là bởi Chúa Kitô.394
3. Huấn quyền thời đức Piô XI, đức Piô XII, đức Gioan XXIII
Trước hết là giáo huấn thời đức Piô XI (1922-1939). Chúng ta có thể khẳng định
đức Piô XI là vị giáo hoàng bênh vực mạnh mẽ nhất cho tước hiệu “Đức Maria là Đấng
Đồng công cứu chuộc”. Trong tông thư Explorata, ban hành năm 1923, đức Piô XI đã
nói: “Đức Maria đau khổ đã dự phần vào công cuộc cứu thế của Con mình.”395 Còn
trong thông điệp Miserentissimus Redemptor, ban hành 8/5/1928, ngài đã gọi Đức
Maria là “Reparatrix”396. Ngài cũng là vị giáo hoàng đầu tiên dành cho Đức Maria tước
hiệu “Coredemptrix”, từ trước cho đến giờ (28/4/1935).397 Trong tông thư
Miserentissimus Redemptor, ngài đã giải thích, “Đức Maria đã sinh ra Chúa Giêsu là
Đấng Cứu Thế, đã nuôi dưỡng Người, đã hiến dâng Người như Hy Lễ trên thập giá, và
do ơn đặc tuyển Chúa ban, Mẹ đã trở thành Đấng Đồng Công Cứu Chuộc của nhân
loại.”398 Đức giáo hoàng Piô XI đã minh giải rất nhiều về tư tưởng Đức Maria Đồng
Công cứu chuộc. Vào năm 1933, ngài còn khuyên nhủ các tín hữu hành hương: “chúng
ta hãy kêu cầu Mẹ dưới tước hiệu Đồng Công cứu chuộc.”399 Vào năm 1934, trong buổi
triều yết, ngài còn tuyên bố với khách hành hương đến từ Tây-Ban-Nha: “Các bạn trẻ
hành hương phải theo tư tưởng và những ước vọng của Mẹ Maria rất thánh là Mẹ và là
Đấng Đồng Công cứu chuộc (Corredemptrix) chúng ta.”400 Sau cùng, trong sứ điệp vô
tuyến truyền thanh gửi khách hành hương Lộ Đức ngày 28/4/1935, ngài nói: “Khi Con
yêu dấu của Mẹ hoàn tất công cuộc cứu chuộc loài người trên bàn thờ Thánh giá, Mẹ
đứng đồng thụ nạn với Người. Mẹ là Đấng đồng công cứu chuộc (Corredemptrix) kết
hợp với những nỗi đau khổ của Người. Xin Mẹ […] làm tăng thêm hiệu quả công ơn
393 Lm. Anthony F. Chiffolo, 100 Danh Thánh của Mẹ Maria: Truyện và Kinh, tr. 42. 394 Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên, Sđd., tr. 53. 395 Lm. Gabriel Nguyễn Thái Sơn, O. C, Giảng Trình Thần Học Về Đức Trinh Nữ Maria, tr. 78. 396 Đức Piô XI, Thông điệp Miserentissimus Redemptor, ban hành 8/5/1928. 397 Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên, Đức Maria-Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, tr. 52. 398 Lm. Anthony F. Chiffolo, 100 Danh Thánh của Mẹ Maria: Truyện và Kinh, tr. 42-43. 399 Sđd., tr. 43. 400 Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. C, Thánh Mẫu Học, tr. 253.
71
cứu chuộc của Người, và công ơn đồng thụ nạn của Mẹ.”401 Trong thời đức Piô XI, lời
kinh kết thúc năm thánh Cứu Độ (28/4/1935) có đề cập đến tước hiệu Đức Maria đồng
công cứu chuộc: “Lạy Mẹ Đồng Công vô cùng dấu ái […] Mẹ đã bằng lòng hiến dâng
Người Con yêu dấu để hoàn tất chương trình Thiên Chúa […] Vậy con nài xin Mẹ hãy
giúp con ý thức sâu xa hơn nữa về công trình cứu độ.”402
Kế đến là giáo huấn về Đức Maria dưới triều đức Piô XII (1939-1958). Đức Piô XII
không minh nhiên dùng tước hiệu “Corredemptrix”, nhưng theo các thánh giáo phụ và với
ba thông điệp Mystici Corpus Christi (ban hành ngày 29/6/1943), Munificentisimus Deus
(ban hành 01/11/1950), Ad caeli Reginam (ban hành ngày 11/10/1954), ngài diễn giải vai
trò đồng công cứu chuộc của Đức Maria như là một Tân Evà. Trong thông điệp Corpus
Christi, ngài viết: “Mẹ luôn luôn kết hợp mật thiết với Con Mẹ, hiến dâng người cho Chúa
Cha hằng hữu trên đồi Golgotha, cùng với của lễ toàn thiêu là Mẫu quyền và tình Hiền
mẫu của Mẹ như Tân Evà, nhân danh tất cả con cháu Ađam. Mẹ là Mẹ của Đầu chúng ta
để trở nên Mẹ thiêng liêng các chi thể của Người bằng một tước hiệu khổ đau và vinh
quang.”403 Đức thánh cha lý giải: Do thánh ý Thiên Chúa, Đức Trinh Nữ Maria kết hợp với
Chúa Giêsu là căn nguyên cứu rỗi, giống như kiểu cách bà Evà kết hợp với ông Ađam là
căn nguyên sự chết. Bởi vậy, có thể nói rằng công cuộc cứu rỗi đã được thành tựu do một
cuộc tổng kết, mà loài người được một Trinh Nữ cứu sống, như loài người đã bị một trinh
nữ làm sa trầm vào sự chết. Chúng ta cũng có thể nói rằng Đức Trinh Nữ Maria đã được
tuyển chọn làm Mẹ Chúa Kitô, để liên kết với Người trong công cuộc cứu chuộc nhân
loại.404 Nơi khác, ngài còn quảng diễn về cách thức cộng tác của Đức Maria: “Theo ý muốn
của Thiên Chúa, Đức Maria đã liên kết cách bất khả phân ly với Chúa Kitô trong việc
hoàn thành công cuộc cứu thế […] do tình yêu và những thống khổ mà Đức Maria đã cộng
thêm vào với đức ái và đau khổ của Con Ngài”.405 Không biết mệt mỏi bênh đỡ cho Mẹ
Đồng Công, trong sứ điệp vô tuyến truyền thanh gửi khách hành hương Fatima, dịp đức
hồng y đặc sứ của đức giáo hoàng đội triều thiên cho thánh tượng Mẹ Fatima ngày
13/5/1946, đức Piô cao rao: “Vì Mẹ hiệp công với Vua các thánh tử đạo trong công cuộc
cứu chuộc loài người, Mẹ là Mẹ và là Đấng hiệp công mãi mãi kết hợp với Người, với một
thế lực như vô biên trong việc phân phát ơn thánh do công ơn cứu chuộc.”406 Trong trọng
sắc định tín Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Đức Maria được gọi là “generosa Redemptoris
401 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd.,tr. 51. 402 Lm. Anthony F. Chiffolo, 100 Danh Thánh của Mẹ Maria: Truyện và Kinh, tr. 46. 403 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 51. 404 x. Sđd., tr. 52. 405 Lm. Gabriel Nguyễn Thái Sơn,O. C, Sđd., tr. 79. 406 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 52.
72
socia”. Tín điều này được đặt nền tảng trên sự hiệp nhất thâm sâu giữa Người Mẹ và
Người Con. Chủ đề này con được khai triển rộng trong thông điệp Ad Coe Reginam.407
Cuối cùng là giáo huấn của đức thánh Gioan XXIII (1958-1963). Ngài đã để
lại những văn kiện về Đức Maria, tất cả đến 476 trang giấy. Tư tưởng chính của
ngài là: Mẹ Maria kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế trong công cuộc
cứu chuộc do chương trình muôn thủa của Đấng Tối Cao.408
Tóm lại, kế thừa truyền thống trong suy tư của các thánh giáo phụ, các vị giáo
hoàng đã bênh vực vai trò Tân Evà của Đức Maria trong công cuộc cứu chuộc. Mẹ đã
cộng tác bằng việc hạ sinh, nuôi dưỡng, hiệp thông với Chúa Kitô trong khổ đau và
trong sự vâng phục… để đem ơn cứu độ cho toàn thể gia đình nhân loại.
4. Huấn quyền thời đức Phaolô VI và đức Gioan Phaolô II
Có thể nói, chúng ta không thể có cái nhìn toàn diện về những tư tưởng của hai
vị giáo hoàng vĩ đại này chỉ trong một vài trang giấy. Thật sự, công trình nghiên cứu
và những giáo huấn về Đức Maria của hai vị là cả một đề tài lớn và vô cùng sâu sắc.
Trong giới hạn của tiểu luận nhỏ bé này chỉ muốn đưa ra những lý chứng của các ngài
để bênh vực cho tước hiệu Đức Maria là Đấng Đồng Công cứu chuộc.
Với đức Phaolô VI (1963-1978), trong tông huấn Marialis Cultus ban hành
02/02/1974, ngài đã đề cao vai trò của Đức Maria Đồng công trong Phụng vụ của Giáo
Hội: “Phụng vụ mầu nhiệm Nhập Thể hân hoan mừng Đức Trinh Nữ tự tình ưng thuận hợp
tác vào chương trình Cứu chuộc. Lễ Sinh nhật Mẹ Maria, lễ Mẹ thăm viếng và lễ Mẹ Sầu
bi kỷ niệm những biến cố Cứu rỗi, mà Mẹ đã hợp tác chặt chẽ với Con của Mẹ. Lễ Mẹ
dâng Chúa vào đền thờ là lễ mừng một mầu nhiệm ơn Cứu rỗi, trong đó Mẹ mật thiết cộng
tác là Mẹ Người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê.”409 Giáo huấn của đức Phaolô VI về Đức
Mẹ Đồng Công, được học giả Mark Miravalle gồm tóm trong 4 điểm: trước tiên, Giáo Hội
gọi Mẹ là Đấng Trung Gian do mối dây liên kết giữa Mẹ với Chúa Kitô; thứ đến, Mẹ
Maria kết hợp mật thiết với mầu nhiệm cứu rỗi; tiếp theo, Chúa Thánh Linh soi sáng và tác
động để Mẹ Maria hợp tác như một bà mẹ trong Hy tế của Con Mẹ để cứu chuộc loài
người; cuối cùng, Mẹ Maria hiện diện trong ơn Cứu độ của mọi con cái Mẹ.410
Dưới triều của đức Gioan Phaolô II (1978-2005), ngài đã sử dụng thuật ngữ “đồng công
cứu chuộc” nhiều hơn bất kỳ vị giáo hoàng nào khác. Khẳng định này được chứng minh qua
407 Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên, Đức Maria-Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, tr. 53. 408 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 52-53. 409 Đức Phaolô VI, Tông Huấn Marialis Cultus, ban hành 02/02/1974, số 6 & 7. 410 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 53-54.
73
các bài phát biểu và các Tông thư của ngài. Chẳng hạn, ngày 08/9/1982, ngài đã nói, “Đức
Maria, qua việc thụ thai và sinh con mà không vương vấn tội nhơ, đã tham dự một cách kỳ
diệu vào những đau khổ của Người Con Chí Thánh, để trở thành Đấng Đồng Công cứu chuộc
của nhân loại.”411 Trong đại triều yết ngày 07/12/1983, ngài nói: “Tình trạng đầy ơn làm cho
Mẹ chu toàn hoàn hảo chức vụ cộng tác vào công cuộc Cứu chuộc, và cho việc Mẹ hợp tác
trong Hy tế của Con Mẹ có một giá trị lớn lao cao cả.”412 Trong bài diễn văn ngày 31/01/1985
tại Guayaquil, Ecuador, đức thánh cha đã tuyên bố, “vai trò Đồng công cứu chuộc của Đức
Maria không chấm dứt bằng việc Mẹ được vinh quang cùng với Người Con của Mẹ.”413
Không chỉ tuyên xưng vai trò đồng công của Mẹ Maria, đức thánh cha còn giải
thích cặn kẽ về tước hiệu Đồng Công cứu chuộc trong tông thư Salvifici doloris: Nhiều
đau khổ lớn lao đã dồn dập và liên tục ập đến với Đức Maria. Đó không chỉ là một bằng
chứng cho thấy đức tin không lay chuyển của Mẹ; mà còn là một cống hiến vào công
trình cứu độ tất cả chúng ta. Trên đỉnh đồi Calvê, cùng với đau khổ của Chúa Giêsu,
những đau khổ của Đức Maria đã lên đến cùng cực, đến nỗi đầu óc nhân loại hầu như
không thể tưởng tượng nổi, nhưng đó lại là những đau khổ mầu nhiệm siêu nhiên và đem
lại ơn cứu độ cho thế gian. Việc Mẹ cùng lên đồi Calvê và đứng kề thánh giá với người
môn đệ Chúa yêu là một sự thông phần đặc biệt vào cái chết Cứu thế của Con Mẹ.414
Trong huấn từ dành cho giới trẻ tại Agrigento, đảo Sicily ngày 09/5/1993, ngài xác tín:
“Đức Trinh Nữ thành Nagiareth hiến dâng chính mình cùng với Chúa Kitô để cứu chuộc loài
người.”415 Một vài tháng sau vào ngày 07/9/1993, trong một bài giảng thuyết tại đền thánh
Đức Mẹ Siluva, nước Lithuania, ngài lại ca ngợi: “Nữ tử thành Sion tự hiến chính mình cũng
với Người (Con của Mẹ) trong một hành vi đức tin xót xa trên đồi Calvê.”416 Cũng trong năm
1993 trong buổi hòa nhạc ngày 16/10 mừng kỷ niệm ngài đắc cử giáo hoàng, đức thánh cha
chia sẻ: “Stabat Mater là hình ảnh Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh giá, với lòng tin chứng
kiến Chúa Cứu Thế, và chia sẻ những nỗi thương đau của Người để cứu chuộc thế giới.”417
Trong thông điệp “Ánh sáng rạng ngời Chân lý”, đức thánh cha còn nhấn mạnh: “Đức Maria
sống và biến sự tự do của mình thành hành động, bằng cách tự hiến mình cho Thiên Chúa […]
Mẹ cưu mang trong cung lòng trinh trong của mình Con Thiên Chúa làm người, cho đến khi
Mẹ hạ sinh, nuôi dưỡng Người, làm cho Người lớn lên, và cùng sát cánh với Người trong hành
411 Lm. Anthony F. Chiffolo, 100 Danh Thánh của Mẹ Maria: Truyện và Kinh, tr. 43. 412 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 54. 413 Lm. Anthony F. Chiffolo, Sđd., tr. 43. 414 x. Lm. Anthony F. Chiffolo, Sđd., tr. 43-44. 415 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd.,tr. 55. 416 Sđd., tr. 56. 417 Sđd.
74
vi tự do tột cùng, là hoàn toàn hy sinh mạng sống. Nhờ hiến dâng chính mình, Mẹ Maria gia
nhập trọn vẹn vào kế hoạch của Thiên Chúa, là Đấng tự hiến cho nhân loại.”418
5. Giáo huấn của công đồng Vaticanô II: Hiến chế Lumen Gentium
Công đồng Vaticanô II, dưới triều đại đức Gioan XXIII và đức Phaolô VI, mặc dù không
minh nhiên nhắc đến thuật ngữ “đồng công” nhưng đã trình bày: “Đức Maria đã […] phục vụ
mầu nhiệm Cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài […] Thiên Chúa […] đã để Ngài
(Đức Maria) tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại […] Mẹ đã đau đớn chịu khổ cực với
Con Một của Mình và dự phần vào Hy lễ của Con, với tấm lòng của một người Mẹ hết tình
ưng thuận hiến tế Lễ vật do lòng mình sinh ra […] Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng
Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con Mình
chết trên Thập Giá, Mẹ Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu
Thế”.419 Để nêu bật vai trò của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ, công đồng Vaticanô II nói đến
các quan hệ của Mẹ với Chúa Kitô. Trong tương quan với Chúa Kitô thì Mẹ là kết quả tuyệt
hảo nhất trong công cuộc cứu rỗi, bởi vì Mẹ đã được cứu rỗi một cách trọn hảo nhất nhờ công
nghiệp của Con Mẹ do việc Mẹ đón nhận lời sứ thần truyền tin. Mẹ cưu mang Con Thiên Chúa
nhờ quyền năng Chúa Thánh Linh, chứ không do sự can thiệp của loài người. Mẹ còn là người
nữ tỳ trung tín hiến thân trọn vẹn cho Con Mẹ để phục vụ mầu nhiệm cứu rỗi. Cuối cùng, Mẹ
là người môn đệ luôn biết lắng nghe Lời Chúa và thực hành Lời Chúa.420 Công đồng còn nêu
rõ sứ mạng đồng công của Mẹ: “Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế
và sự nghiệp của Con Mẹ, và phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con của
Mẹ […] Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ, từ khi Mẹ Maria chịu
thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết.”421
Trong buổi triều yết ngày 21/5/1997, đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhận định:
Trong một công đồng Giáo Hội như công đồng Vaticanô II việc nghiên cứu vị thế của Đức
Maria trong nhiệm cục cứu độ, là quan trọng nhất. Đức Trinh Nữ Maria vừa là “hình”, là
“mẫu”, và là Mẹ của Giáo Hội.422 Đức Maria chẳng những là Mẹ nhưng còn là người hiệp
công (Socia, Associée) của Ngôi Lời Nhập Thể - Đấng Cứu Độ thế giới. Công đồng
Vaticanô II đã nhấn mạnh đến sự kết hợp (conjunction) của Đức Maria với Chúa Giêsu (x.
LG 53). Sự ưng thuận của Người lúc nhập thể làm Người tự hiến cho thân thế và sự nghiệp
418 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd. 419 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, các số 56, 58, 61. 420 Radio Veritas, Bước Theo Chân Mẹ, tr. 07-08. 421 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, các số 56 & 57. 422 Guillaume Menthière, Mẹ Maria-Trung tâm Công trình của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II, tr. 57.
75
của Con của Người, để cùng với Con của Người phục vụ công trình Cứu độ (x. LG 56). Sự
kết hợp này được tỏ hiện từ khi Chúa Kitô đầu thai cho tới khi Ngài chết (x. LG 57).
Công đồng Vaticanô II tỏ ra dè dặt đối với tước hiệu “trung gian” của Đức Maria, chỉ
đôi khi dùng lẫn với những tước hiệu khác như “trạng sư”, “cứu chữa”,… (x. LG 62). Trái
lại Công đồng nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Kitô là trung gian duy nhất và vai trò mẫu tử
của Đức Maria đối với loài người không làm tổn thương chức vụ trung gian duy nhất ấy,
nhưng trái lại bộc lộ sức mạnh của nó (x. LG 60). Một khi chức vụ trung gian duy nhất của
Chúa Kitô đã được khẳng định, Công đồng nói thêm: sự trung gian duy nhất của Đấng Cứu
Thế không loại trừ mà còn khơi lên sự cộng tác của thụ tạo…(x. LG 62). Văn kiện về Đức
Maria của Công đồng thu hợp những nét chính yếu của học thuyết Thánh Mẫu của Giáo
Hội Công Giáo. Tuy nhiên, cửa vẫn để mở cho các nhà thần học tìm tòi thêm vì một văn
kiện, dầu có giá trị cao, cũng vẫn không thể bao quát được mọi vấn đề.423 Như thế, qua
những lời thật sống động và đầy xác tín của công đồng Vaticanô II, mỗi người Kitô hữu
đều có thể nhận ra được địa vị cao cả và sứ mệnh quan trọng của Mẹ Chúa Kitô trong công
trình cứu chuộc nhân loại.424 Tất cả những gì đức tin dạy chúng ta về Mẹ Maria đều có
mục đích duy nhất là “giúp chúng ta đến gần Chúa Kitô Con Mẹ.”425
Tóm lại, qua những gì đã trình bày trong chương này, về vai trò đồng công của
Mẹ Maria trong công trình cứu độ của Chúa Kitô. Chúng ta nhận thấy thuật ngữ
Corredemptrix có nền tảng Thánh Kinh, được các thánh và các vị giáo hoàng bênh vực,
mặc dù ý nghĩa về thần học chưa rõ ràng. Đây là những lý chứng có tính pháp lý để
chúng ta tiếp tục đào sâu suy tư thần học ở những chương sau. Với những suy tư có nền
tảng dựa trên Thánh Kinh và Huấn quyền của Hội Thánh, các nhà thánh mẫu học tiếp
tục giải thích ý nghĩa và cách thức cộng tác của Đức Maria, để Mẹ thực sự được nhìn
nhận là Đấng Đồng công cứu chuộc trong tin yêu và biết ơn của hết mọi người tín hữu.
423 Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên, Đức Maria-Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, tr. 54. 424 Radio Veritas, Bước Theo Chân Mẹ- Những bài suy niệm về Đức Maria của Đài chân lý Á Châu, tr. 05. 425 Sđd., tr. 07.
76
Chương III
Đức Maria Đồng Công Trong Suy Tư Thần Học
Được đặt nền trên Thánh Kinh và các bản văn huấn quyền của Giáo Hội, các nhà
thần học tiếp tục đào sâu suy tư về vai trò cụ thể của Mẹ Maria trong công trình Cứu độ
của Chúa Kitô (I). Bên cạnh đó, trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, Đức Maria
có sứ mạng gì (II) Và liệu chúng ta có thể nói, Đức Maria đã “đồng thụ nạn với Chúa
Kitô” được không (III). Tất cả những điểm chính này đã được các học giả suy tư và
trình bày, với mục đích vừa vẫn giữ được vai trò độc nhất của Chúa Kitô nhưng cũng
không thiếu xót trong trình bày mạc khải của Thiên Chúa dành cho Đức Maria.
I. Vai trò và đặc tính đồng công của Đức Maria
Trong khi trình bày những giáo thuyết đúng đắn về Đức Maria, các nhà thần học
cũng phải cố gắng giải thích vai trò và đặc tính đồng công của Đức Maria, làm sao để
giúp người Kitô hữu đến gần Chúa Kitô hơn qua trung gian Đức Trinh Nữ Maria. Đây
là một điều thật khó khăn và cũng rất tế nhị trong bối cảnh đại kết của Giáo Hội đối với
Tin lành, khi người ta quá cứng nhắc trong suy tư thần học. Tuy nhiên, là người Công
Giáo chúng ta được mời gọi tôn trọng những người không có cùng quan điểm với
chúng ta, nhưng chúng ta không được nhượng bộ trước chân lý và trước sự hướng dẫn
của Chúa Thánh Thần – Đấng vẫn đang hiện diện trong Giáo Hội.
1. Vai trò đồng công của Đức Maria
Có thể nói, hai “bức tường” lớn ngăn cách con người hiệp thông với Thiên Chúa đó
là: “bản tính” và “tội lỗi”. Thiên Chúa là Thần Khí (x. 2Cr 3,17) còn chúng ta là xác thịt;
Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện còn chúng ta là những kẻ tội lỗi. Tuy nhiên, nhờ
mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, “bức tường bản tính” bị phá đổ; nhờ sự chết và
sự phục sinh của Chúa Kitô, “bức tường tội lỗi” bị phá vỡ.426 Thánh Irênê đã dạy chúng ta:
“Làm thế nào con người có thể đến với Thiên Chúa được, nếu như Thiên Chúa không trở
thành con người? Làm thế nào con người tránh được việc đi vào cái chết, nếu không được
tái sinh nhờ phương tiện đức tin, trong một cuộc sinh ra mới do chính Thiên Chúa ban
tặng, từ dấu chứng tuyệt vời và bất ngờ của Thiên Chúa để trở thành dấu chứng cứu độ từ
Đức Trinh Nữ.”427 Thật vậy, Đức Maria là “cánh cửa mở đưa tới Thiên Chúa.”428 Qua
trung gian Đức Maria, Con Thiên Chúa đã bước vào lịch sử của nhân loại, Ngài đã trở nên
426 x. Lm. Micae Trần Đình Quảng, giám đốc đại chủng viện Đà lạt, “Bài Giảng Tĩnh Tâm Năm Tại Cộng
Đoàn Châu Sơn”, Đan Viện Châu Sơn, 2017 [CD-ROM]. 427 Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Đức Giêsu Thành Nazareth: Phần III, tr. 56. 428 x. Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, tr. 311.
77
người con yêu dấu của Đức Maria, và nhờ giá máu châu báu của Con Mẹ, hai bức tường
ngăn cách nhân loại với Thiên Chúa bị phá bỏ. Chúng ta được trở nên nghĩa tử của Thiên
Chúa, được thừa hưởng gia nghiệp Thiên Chúa ban không cho mỗi người. Chính thánh
Tôma Aquinô đã dạy: “cứu cánh của con người là chiêm ngưỡng Thiên Chúa.”429 Khi diễn
tả tầm quan trọng của lịch sử tình yêu cứu độ, đức tin và thần học Công Giáo nhấn mạnh
đến vị thế Đức Maria, vì Người là Mẹ Đấng Cứu thế. Mặc dù chúng ta được cứu chuộc
nhờ Chúa Kitô, nhưng Đức Maria đóng góp một vai trò quan trọng và khẩn thiết.430 Khi
suy tư về sự cộng tác của Đức Maria trong nhiệm cục cứu độ, hai nhà thần học Scheeben
và Lennerz đã phân biệt khía cạnh khách quan và chủ quan của ơn cứu chuộc.
1.1. Đức Maria cộng tác vào ơn Cứu chuộc khách quan và ơn Cứu chuộc chủ quan
Trước tiên, ơn cứu chuộc khách quan (Rédemption objective) còn được gọi là ơn cứu
chuộc “tiềm năng hay thủ đắc,”431 là ơn “Chúa Kitô lập công đem ơn Cứu rỗi cho toàn thể
nhân loại do sự Chết và sự Phục sinh của Người (x. Dt 5,9).”432 Theo thánh Augustinô, ý
nghĩa thẳm sâu của hy tế thập giá được diễn tả bằng hai chiều kích: “hy lễ bên trong là sự
vâng phục của Đức Kitô, và hy lễ hữu hình chính là sự sống của Người, hiến dâng lên Chúa
Cha vì nhân loại chúng ta.”433 Việc đồng công cứu chuộc của Đức Maria bắt nguồn từ phẩm
chức Thiên mẫu của Mẹ, là việc Mẹ “cộng tác vào việc cứu rỗi khách quan của Chúa Kitô,
có ảnh hưởng sâu rộng cho toàn thể nhân loại.”434 Khi cưu mang và hạ sinh Chúa Cứu Thế,
Mẹ góp phần cộng tác chính yếu vào việc Cứu rỗi loài người,435 “vì Con Thiên Chúa đã làm
người để biến chúng ta thành thiên chúa.”436 Do đó, nhà thần học E. Schillebeeckx gọi Mẹ là
“Đức Maria, Mẹ ơn Cứu rỗi.”437 Các nhà thần học còn đi xa hơn nữa khi phân tích vai trò
cộng tác trực tiếp và gián tiếp của Mẹ Maria đối với ơn Cứu chuộc khách quan của Chúa
Kitô. Việc Mẹ cộng tác gián tiếp hệ tại việc Mẹ chịu thai và hạ sinh Chúa Cứu Thế cho loài
người. Bên cạnh đó, Mẹ còn tham dự cách mật thiết vào sứ vụ Cứu thế của Con Mẹ, trên đồi
Golgotha. Mẹ cộng tác trực tiếp vào công cuộc Cứu rỗi khách quan của Chúa Kitô, bởi vì
chính Mẹ đã liên đới tới công cuộc Cứu chuộc của Chúa. Mẹ đã được Thiên Chúa mời gọi
để hợp tác với Hy tế cứu chuộc của Chúa Kitô,438 bởi vì “để là giá chuộc thì phải là người,
429 George A. Maloney, S. J, Thưa Ngôn Sứ Xin Lắng Nghe, tr. 241. 430 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 76. 431 Lm. Gabriel Nguyễn Thái Sơn, O. C, Sđd., tr. 70. 432 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 76. 433 Lm. Đaminh Nguyễn Hữu Cường, O. P, Bí Tích Truyền Chức (Học Viện Thần Học Xitô, 2017), tr. 11. 434 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 77. 435 x. Sđd. 436 Vinh Sơn Quang Huy, Sống Với Đức Kitô Như Được Trình Bày Trong Tin Mừng, tr. 23. 437 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 77. 438 Sđd., tr. 78.
78
để đẹp lòng Thiên Chúa thì phải vô tội.”439 Cụ thể, Mẹ thông phần với Chúa Cứu Thế bằng
tình yêu và những khổ đau của riêng Mẹ. Những công nghiệp mà Mẹ đã lập trong sự hiệp
thông với Chúa Cứu Thế có giá trị cứu thoát và thánh hóa toàn thể loài người.440 Do đó, vai
trò và sứ mạng đồng công cứu chuộc của Mẹ Maria gồm đầy đủ ý nghĩa và giá trị, là việc Mẹ
trực tiếp cộng tác và kết hợp lập công với Hy tế Cứu thế của Chúa Kitô.441
Thứ đến là ơn Cứu chuộc chủ quan (Rédemption subjective) là sự áp dụng cho
mỗi người những ơn thánh phát sinh do công nghiệp của Chúa Kitô trên Thánh giá,442
do mỗi người lãnh nhận nhờ các Nhiệm tích và nhờ sự thánh thiện cũng như sự phát
triển của Giáo Hội (x. Rm 10,9; Phil 12,12-15; 1Th 5,8). 443 Mỗi người được hưởng ơn
Cứu chuộc nhiều ít tùy theo sự tự do cộng tác của mình, qua việc hiệp thông với Thiên
Chúa trong ân sủng (ơn thánh sủng) và mở lòng đón nhận ơn thánh. Mặc dù, Chúa Kitô
lập công có giá trị phổ quát cho mọi người nhưng ơn cứu độ cần phải được áp dụng cho
mỗi cá nhân những kết quả do việc cứu chuộc khách quan đem lại. Ơn cứu chuộc chủ
quan cũng còn được gọi là ơn “cứu chuộc hiện thực”, “ứng dụng” hay “phân phối”.444
Sự ứng dụng này do Thiên Chúa thực hiện vì Người là Đấng ban phát ơn thánh. Tuy
nhiên, loài người vẫn có thể cộng tác vào “ứng dụng” này, chẳng hạn như, người công
chính có thể thực hiện những hành vi thánh thiện như cầu nguyện, làm việc bác ái,445...
để cầu nguyện cho ai đó. Việc Mẹ Maria cộng tác vào ơn cứu độ chủ quan chỉ có ảnh
hưởng hạn hẹp cho một số người tùy theo ý muốn và những điều kiện của họ.446
1.2. Hiệu quả do sự đồng công cộng tác của Đức Maria
Khi viết thư cho giáo đoàn Galát, thánh Phaolô dạy: “Khi thời gian tới hồi viên mãn,
Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để
chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta được nhận làm nghĩa tử” (Gl 4,4). Theo
thánh Tôma Aquinô, “Con Một Thiên Chúa, bởi muốn cho chúng ta được thông phần thiên
tính của Người, nên đã mang lấy bản tính chúng ta, để vì đã làm người, Người biến chúng ta
thành thần thánh.”447 Việc Ngôi Lời Nhập Thể làm người là cách thế Thiên Chúa thể hiện
tình thương đối với nhân loại, là cách thế Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại tình thương
439 Lm. Đaminh Nguyễn Hữu Cường, O. P, “Bí Tích Truyền Chức Thánh”, Học Viện Thần Học Xitô, 2017
[CD-ROM]. 440 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 78. 441 Sđd. 442 x. Lm. Gabriel Nguyễn Thái Sơn, O. C, Sđd., tr. 70. 443 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 76. 444 x. Lm. Gabriel Nguyễn Thái Sơn, O. C, Sđd., tr. 70. 445 x. Sđd., tr. 71. 446 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 77. 447 Vinh Sơn Quang Huy, Sống Với Đức Kitô Như Được Trình Bày Trong Tin Mừng, tr. 23.
79
được thể hiện nơi Chúa Kitô.448 Nhờ nhân tính và trong nhân tính, Đức Giêsu hạ mình làm
người, vâng phục đến chết. Nhờ nhân tính và trong nhân tính, Đức Giêsu được tôn vinh là
Chúa (x. Phil 2,6-11; 2Cr8,6).449 Nhờ nhân tính và trong nhân tính, Đức Giêsu “liên đới với
toàn thể nhân loại” (x. Rm 5,12-19), làm cho loài người trở nên con cái Thiên Chúa, phục
hồi nhân loại trong ơn thánh mà con người đã bị đánh mất do Ađam và Evà.450 Như vậy,
hiệu quả việc Mẹ đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa qua trung gian thiên sứ Gabriel, làm
cho Mẹ có hai tình hiền mẫu: là Mẹ Chúa Kitô do công ơn thụ thai và hạ sinh Chúa Kitô và
là Mẹ thiêng liêng của tất cả những người được Chúa Kitô cứu chuộc.451
Các nhà chú giải Thánh Kinh nhận ra thiên chức của Đức Maria liên quan tới các chi thể
mầu nhiệm của Chúa Kitô.452 Cụ thể, cha Laurentin cho rằng, chính thánh Phaolô cũng đã
nhận biết vai trò của Mẹ Maria trong việc làm cho chúng ta trở nên “nghĩa tử của Thiên
Chúa”, được gọi là anh em của Chúa Giêsu (x. Dt 2,11-12), và Chúa Giêsu là Trưởng Tử giữa
một đoàn em đông đảo (x. Rm 8,29).453 Trong khi đó, theo cha J. A. De Aldama, sứ mạng
trung gian của mẫu chức thứ nhất là “là Mẹ Chúa Giêsu” đưa đến việc nhận thức mẫu chức thứ
hai là “là Mẹ loài người”, nên không lạ gì các nhà thần học thế kỷ X đã lập luận rằng: “Nếu
chúng ta là em của Chúa Kitô, thì phải chăng chúng ta là con của Mẹ Người ? Hay là: Con
của Mẹ Maria là Anh của chúng ta và do vậy, Mẹ Maria là Mẹ của chúng ta”454.
2. Đặc tính vai trò đồng công của Đức Maria
Ở những chương trên, các nhà Thánh Mẫu học đã đưa ra những lý chứng đầy thuyết
phục khẳng định Đức maria đã cộng tác trực tiếp và gián tiếp trong nhiệm cục cứu chuộc của
Chúa Cứu Thế, cụ thể là Mẹ đã cộng tác vào chính hiến lễ hy tế cứu chuộc của Chúa Kitô.
Sự cộng tác của Đức Maria trong tự do, được thể hiện qua việc Mẹ ưng thuận và hiến dâng,
trong tư cách là đại diện loài người. Đây là đặc tính nền tảng vai trò đồng công của Mẹ.
2.1. Đức Maria ưng thuận và hiến dâng
Thánh Gioan quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một...”
(Ga 3,16), nhưng Thiên Chúa cũng tôn trọng sự tự do của con người. Ngài muốn
trong thế giới loài người, có một người đại diện để “đón nhận” Con của Ngài trong
mầu nhiệm Nhập Thể,... để cứu chuộc nhân loại. Theo tác giả Gardell, để trở nên
Đấng Cứu Chuộc, Đức Kitô phải có bản tính loài người như chúng ta. Bản tính loài
448 x. Lm. Fx. Tân Yên, Kitô Học, tr. 62. 449 x. Sđd., tr. 40. 450 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 78. 451 x. Sđd., tr. 79. 452 x. Sđd., tr. 80. 453 x. Sđd., tr. 82. 454 x. Sđd., tr. 83.
80
người đã phạm tội thì chính nó phải trả nợ đức công bình của Thiên Chúa. Tuy
nhiên, nếu giả như Đức Kitô chỉ có bản tính loài người, thì dẫu có thiện chí và các
việc lành của Người có năng lực thế nào đi nữa thì cũng không thể cứu chuộc chúng
ta. Nhưng vì Đức Kitô là Ngôi Lời Nhập Thể nên công nghiệp của Chúa là vô cùng
và có sức đền trả sự công bình của Thiên Chúa thay cho nhân loại.455 Mẹ Maria đại
diện toàn thể loài người, đã tự do ưng thuận trong công cuộc đại sự đó. Sự ưng
thuận của Mẹ là một yếu tố cần thiết trong nhiệm cục Cứu độ, nên thuộc về công
cuộc Cứu độ của Chúa Cứu Thế.456 Sự ưng thuận của Mẹ được cụ thể khi: Mẹ tích
cực tiếp nhận theo sứ điệp của thiên thần trong ngày Truyền tin; Mẹ hiện diện trên
đồi Calvê để hoàn tất lời “xin vâng” của Mẹ; dưới cây Thánh giá, Mẹ cũng là người
chấp nhận và nói lại lời “xin vâng”.457 Thật vậy, mặc dù chỉ có Chúa Kitô thực hiện
và phát sinh ơn Cứu rỗi, do vai trò chủ động và hữu hiệu tối thượng của Ngài,
nhưng sự ưng thuận của Mẹ Maria không được coi như là hoàn toàn thụ động, vì Mẹ
có một tác động trong sự ưng thuận và chấp nhận. Hành động cộng tác của Mẹ được
ghép vào công cuộc Cứu Thế của Chúa Kitô. Như vậy, vai trò của Mẹ cũng chủ
động và hữu hiệu, và nhất là được hoà hợp với hành động tối cao của Chúa Kitô.458
Bên cạnh sự ưng thuận theo sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa, Mẹ Maria còn
cộng tác qua việc hiến dâng: hiến dâng chính mình và “Hoa quả” của lòng Mẹ. Theo
luật Do Thái, đây là hiến dâng trọn vẹn. Điều đó được gọi là một của lễ toàn thiêu.
Mọi sự được hiến trao cho Thiên Chúa.459 Xét trong một chiều kích nào đó, đây
không phải là hai của lễ nhưng là một, một lòng một ý với Chúa Cứu Thế. Mẹ dâng
Chúa trong Đền thờ, chứng tỏ một hành vi hiến dâng của Mẹ và ông già Simêon đã
cho biết giá trị hiến tế của việc hiến dâng này. Trên đồi Calvê, Mẹ thực thi việc hiến
dâng mà Mẹ đã khởi sự trong đền thờ.460 Tất cả việc dâng hiến của Mẹ có ý nghĩa
trong việc cộng tác vào hiến lễ hy tế của Chúa Kitô, đem ơn cứu độ cho con người,
bởi vì Chúa Kitô “là con đường, là mục đích, là người hướng dẫn chúng ta.”461
2.2. Mẹ Chúa Kitô đại diện loài người
Trước tiên, xét trên bình diện Giáo Hội học, các nhà thần học giải thích vai trò đồng
công của Mẹ Maria như biểu tượng của Giáo Hội hay là Đấng đại điện loài người. Vì thế,
455 x. Lm. Gardell, O. P, Đức Kitô Là Tất Cả, bản dịch: Lm. An Sơn Vị (Hà Nội: Tôn Giáo, 2009), tr. 15-16. 456 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 84. 457 x. Sđd., tr. 85. 458 x. Sđd. 459 x. John Man, O. S. B, Khoảnh Khắc Của Chúa Kitô: Học biết để suy niệm, tr. 241. 460 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 85- 86. 461 John Man, O. S. B, Khoảnh Khắc Của Chúa Kitô: Học biết để suy niệm, không rõ người dịch, tr. 44.
81
Mẹ Maria, với tính cách chính thức đại diện cộng đồng nhân loại, được coi như Đấng hợp
với Chúa Kitô Linh mục đã dâng Hiến lễ cứu chuộc.462 Mặt khác, khi đối chiếu hai bản văn
Thánh Kinh (Dt 10,5-7 và Lc 1,38), đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II cho rằng: “chức
năng làm mẹ của Đức Maria với chức tư tế của Đức Kitô đã có một mối tương quan mật
thiết được tạo lập.” 463 Thứ đến, xét trên bình diện Kitô học, các nhà thần học giải thích vai
trò đồng công của Mẹ bằng phẩm cách của Mẹ, là Mẹ Chúa Kitô. Mẹ cộng tác cách đặc biệt
bởi chức vị phi thường của Mẹ trong công trình Cứu chuộc.464 Như vậy, việc sử dụng hai lối
tiếp cận Kitô học và Giáo Hội học trong suy tư về Thánh Mẫu học không loại trừ nhau,
nhưng cần thiết liên kết với nhau. Mẹ Maria có phẩm cách đại diện loài người, nhờ ơn được
tiền định làm Mẹ Thiên Chúa. Bên cạnh đó, trong hy tế cứu chuộc, Chúa Giêsu đại diện loài
người, vì là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người: Ngôi vị Thiên Chúa của Người làm
cho vai trò đại diện của Người có một trường độ vô biên; Mẹ Maria đại diện loài người do
Mẹ ưng thuận để Ngôi Lời nhập thể. Mẫu chức mà Mẹ có đối với Chúa Kitô (do mầu nhiệm
Nhập Thể) nâng vai trò đại diện của Mẹ lên một cao độ siêu việt. Mối giây liên kết lạ lùng
giữa Mẹ với Con làm cho Mẹ cộng tác vào chức vụ đại diện của Chúa Cứu Thế. Mẹ Maria
đã được nâng lên vượt trên mọi người để có thể cùng được đại diện cho nhân loại. Điều đặc
biệt nơi Mẹ là không cách xa nhân loại, nhưng đưa Mẹ lại gần nhân loại.465
Ngoài ra,trong hiến lễ cứu chuộc của Chúa Kitô, Mẹ Maria đã cộng tác với Chúa
Kitô, đại diện loài người với hai tư cách đặc biệt: thứ nhất, Mẹ đại diện trong tư cách là
người phụ nữ, vì Thiên Chúa đã muốn việc phục hồi nhân loại bằng sự cộng tác của
Tân Evà với Tân Ađam; thứ hai, trong tư cách là người được cứu chuộc, Mẹ đại diện
tất cả mọi người được cứu chuộc và biểu thị việc nhân loại tham dự vào công việc Cứu
rỗi. Trong hai tư cách này, phẩm giá đại diện của Mẹ không che lấp phẩm giá vai trò
đại diện của Chúa Kitô, vì Mẹ hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa.466
2.3. Mối tương quan của Mẹ Maria với Chúa Kitô trong sứ mạng đồng công
Trong sứ mạng cộng tác với Chúa Cứu Thế, Mẹ Maria không bao giờ đi ra ngoài
thánh ý của Thiên Chúa. Trái lại, Mẹ luôn luôn đặt thánh ý của Thiên Chúa lên trên tất
cả. Mẹ Maria đã phục vụ mầu nhiệm Cứu chuộc “dưới quyền và cùng với” Con của
Mẹ.467 Vì thế, dựa trên giáo huấn của công đồng Vaticanô II, chúng ta nhận ra mối tương
quan giữa Mẹ Maria và Chúa Kitô có hai đặc điểm là “tùy thuộc và cộng tác.”
462 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 86. 463 ĐGH. Gioan Phaolô II, Huấn từ của đức Gioan Phaolô II ngỏ với các linh mục, tr. 57. 464 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 86. 465 x. Sđd., tr. 86-87. 466 x. Sđd., tr. 87-88. 467 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 56.
82
Trước tiên, trong vai trò đồng công, Mẹ Maria tùy thuộc Chúa Kitô. Theo tác giả
Guérard des Lauriers, sự tùy thuộc cần thiết của Mẹ Maria gồm hai phương diện: thứ nhất là
phương diện căn nguyên: năng lực hay là sức mạnh để Mẹ Maria cộng tác vào hiến lễ cứu
chuộc là do bởi Chúa Kitô; thứ hai là phương diện đối tượng của sự hy sinh từ mẫu: Mẹ
Maria tự hiến chính mình qua việc dâng hiến Con của Mẹ, dâng hiến quyền từ mẫu của Mẹ.
Sự hy sinh của Mẹ được đặt trên và có liên quan mật thiết với sự hy sinh của Chúa Kitô.468
Thứ đến, sự cộng tác của Mẹ Maria có tính cách từ mẫu, và như thế khác biệt hành
động tư tế của Chúa Kitô. Bằng những lời trăn trối trên Thánh giá, Chúa đã nhận biết sự hy
sinh có tính cách từ mẫu của Mẹ.469 Bên cạnh đó, sự cộng tác còn có nữ tính. Do mẫu chức
của Mẹ, Mẹ đem vào hiến lễ của Chúa Kitô một sự cộng tác riêng biệt, trong tư cách là một
người nữ: sự hiến dâng của Mẹ với Chúa Kitô không phải là một cặp đôi tư tế hiến dâng.
Mặt khác, sự đồng lao cộng khổ của Mẹ không phải là đồng đẳng nhưng phụ thuộc cuộc Khổ
nạn của Chúa Kitô. Thật vậy, Mẹ cộng tác trong những mối liên hệ loài người. Cách thức
cộng tác từ mẫu làm cho mức độ tình yêu và sự hy tế của Con Mẹ thêm lớn lao, và sự cộng
tác từ mẫu là hình thức cao cả nhất của một mối xúc cảm do tình thương mến.470
3. Sự hài hòa vai trò đồng công của Đức Maria với công trình của Chúa Kitô
Nhờ giá máu của Chúa Kitô chịu khổ nạn và chịu chết trên Thánh giá, Con Thiên Chúa
Nhập Thể đã đền trả cho thay cho nhân loại trước sự công bình của Thiên Chúa một cách
viên mãn và dư tràn. Tuy nhiên, Chúa Cứu Thế vẫn có thể đưa Mẹ Người vào hy tế của
Ngài, mời gọi Mẹ cộng tác trong việc phục hồi nhân loại. Cha Lennerz, trong cuốn tiểu luận
ấn hành năm 1939, và cuốn khái luận về “Rất Thánh Nữ Trinh”, theo thần học và theo những
bằng cứ Thánh Truyền, ngài tra cứu và diễn giải nhiều cách thức Mẹ Maria đồng công cộng
tác với công trình Cứu thế của Chúa Kitô. Sau đây là tóm tắt công trình nghiên cứu của ngài
theo ba cách thức cộng tác của Đức Maria trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô.
3.1. Đức Maria cộng tác cách thể lý và luân lý
Khi nói về sự cộng tác của Đức Maria, cha Lennerz phân biệt giữa sự “cộng tác
hình thức” và “cộng tác thực sự”:“sự cộng tác hình thức” là sự tham dự vào hành vi
người khác, mà không cố ý thừa nhận tính cách tốt xấu của hành vi đó; trong khi đó, “sự
cộng tác thực sự” là cách tham dự có ý thức vào hành vi người khác, với ý thức chấp
468 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 89. 469 x. Sđd., tr. 91. 470 x. Sđd., tr. 91-92.
83
nhận hành vi đó và kiểm nhận hậu quả coi như đã được.471 Mẹ Maria đã “cộng tác thực
sự” trong lãnh vực thể lý và luân lý, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.472
Sự cộng tác trong lãnh vực thể lý được thể hiện khi Mẹ ưng thuận làm Mẹ Thiên
Chúa. Mẹ đã thật sự trở thành Mẹ Chúa Cứu Thế để đồng công cứu chuộc với Người.
Trong viễn tượng này, theo thánh Gioan, ơn cứu độ của Thiên Chúa ban cho loài người
nơi Chúa Giêsu không nằm trong phạm vi “Chúa Giêsu chịu chết” mà nằm trong sự tỏ
hiện vinh quang của Chúa Giêsu, nhờ Nhập Thể rồi được nhấc lên vinh quang (x. Ga
10,17).473 Trong chiều kích Giáo Hội học, “kế hoạch cứu độ được tóm gọn vào trong mầu
nhiệm Nhập Thể: Thiên Chúa trở nên xác phàm, Ngài là con đường cứu độ.”474 Giáo
thuyết của một số giáo phụ, đặc biệt là thánh Irênê và thánh Athanasiô cũng đề cao một
sự bao hàm ơn Cứu chuộc trong mầu nhiệm Nhập Thể, vì khi mặc bản tính con người thụ
nạn trong cung lòng Mẹ Maria, Ngôi Lời Thiên Chúa đã bao gồm tất cả chúng ta một
cách tiềm ẩn, để cùng mang theo chúng ta trên cây Thánh giá.475 Tuy nhiên, cha Lennerz
cho rằng, việc Mẹ Maria cộng tác vào việc Ngôi Lời Nhập Thể là cộng tác gián tiếp vào
việc Cứu chuộc.476 Bên cạnh việc cộng tác trong lãnh vực thể lý, Mẹ Maria còn cộng tác
trong lãnh vực luân lý, tức là Mẹ Maria cộng tác một cách xa vào việc phục hồi loài
người do những lời cầu nguyện và công nghiệp của Mẹ. Mẹ van xin Đấng Cứu Thế sớm
đến.477 Các chính nhân thời Cựu ước cũng đã cộng tác một cách như vậy. Theo cha
Lennerz, rất có thể Đức Maria đã cộng tác đích thực và trực tiếp trong lãnh vực luân
lý.478 Thật sự, Thánh Kinh và Thánh Truyền không nói đến sự cộng tác trực tiếp của Mẹ
Maria với danh nghĩa nào đó để nói rằng Chúa Cứu Thế tùy thuộc Mẹ Maria trong việc
hiến tế để cứu chuộc chúng ta. Trái lại, Tân ước chứng tỏ cho chúng ta biết Chúa Kitô
trong công cuộc Thiên sai và Cứu thế, đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha.479
3.2. Đức Maria cộng tác do lời cầu nguyện và công nghiệp của Mẹ
Có thể nói, Đức Maria không có ảnh hưởng nào trên những hành vi Cứu thế của
Chúa Kitô, nhưng Thiên Chúa đã định liệu công trình Cứu rỗi của Ngôi Lời Nhập thể
phải có sự tham dự của Đức Maria. Và trong sự chấp nhận của Thiên Chúa, công
trình Cứu chuộc tuyệt đối tùy thuộc sự cộng tác của Đức Maria. Như thế, Mẹ nhận
471 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 114-115. 472 x. Sđd., tr. 115. 473 x. Lm. Fx. Tân Yên, Kitô Học, tr. 66. 474 Felipe Gomer, S. J, Giáo Hội Học: Thần Học Tín Lý (Antôn & Đuốc Sáng, 2002), tr. 206. 475 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 115. 476 x. Sđd., tr. 115. 477 x. Lm. Gabriel Nguyễn Thái Sơn, O. C, Giảng Trình Thần Học Về Đức Trinh Nữ Maria, tr. 71. 478 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 116. 479 x. Sđd., tr. 116-117.
84
lãnh hành vi trung gian Cứu thế của Chúa Kitô, được thoả thuận cho Mẹ và cần có
Mẹ do lời cầu nguyện và công nghiệp của Mẹ cho toàn thể loài người,480 bởi vì “có
Chúa Giêsu ngự trong lòng Đức Mẹ, nên Đức Mẹ được sung mãn ơn phúc.”481 Chính
thánh Bênađô đã nói: “Thiên Chúa đã muốn ban tất cả cho chúng ta qua Mẹ
Maria.”482 Tất nhiên, cách thức cộng tác này của Mẹ Maria không làm giảm giá công
cuộc Cứu thế tối thượng của Chúa Kitô, vì ít là có sự chấp nhận của Thiên Chúa.483
3.3. Đức Maria cộng tác qua việc thông phần với công nghiệp của Chúa Kitô
Trong cách thức cộng tác này, Mẹ Maria được Thiên Chúa cho đặc ân là được thông
phần với khổ đau của Chúa Cứu Thế và làm cho chính Mẹ dự phần phúc cứu chuộc.484 Đây
là tư tưởng của thánh Albertô Cả. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là tra cứu hoạt động
trung gian trực tiếp của Mẹ cho việc phục hưng nhân loại, liên quan tới hành động Cứu thế
của Chúa Kitô, và liên quan tới những hiệu quả công nghiệp Cứu thế của Chúa.
Trước tiên, chúng ta so sánh “việc Mẹ Maria cộng tác” với “hành động Cứu thế của
Chúa Kitô”. Nếu công nghiệp Cứu thế của Chúa Kitô hoàn toàn không tùy thuộc công trạng
của Mẹ Maria, thì trái lại, công trạng của Mẹ lại lệ thuộc ơn phúc và công nghiệp của Chúa
Cứu Thế.485 Nhà thần học Lebon cho rằng: Mẹ Maria là “người riêng tư” nhưng cũng là con
người của đại chúng. “Là con người riêng tư,” Mẹ đã được hưởng trước ơn Cứu chuộc và
được thánh hoá nhờ ơn thánh của Chúa Kitô; “là con người cho đại chúng,” Mẹ là Đấng
Đồng công trong công trình Cứu chuộc chúng ta. Như thế, công trạng xã hội của Mẹ Maria,
trong ơn Cứu rỗi nhân loại, được “ghép vào” với công nghiệp của Chúa Kitô. Chúa nối kết
nhưng không tùy thuộc công trạng của Mẹ trong thánh lệnh của Thiên Chúa.486 Giáo huấn
của đức Piô XI đã minh nhiên đặt công việc phục hồi của Mẹ Maria trên đồi Calvê, dưới ơn
thánh phi thường mà Chúa Kitô ban cho Mẹ: “Do sự hiệp nhất diệu huyền với Chúa Kitô và
do một ơn thánh lạ lùng, Mẹ cũng là Đấng phục hồi rất chính xác với danh hiệu đó.”487
Thứ đến, nếu xác định Mẹ Maria tích cực cộng tác với Chúa Kitô trong việc phục
hồi nhân loại, chúng ta phải xét đến những hậu quả ơn Cứu rỗi mà loài người lãnh
nhận. Tất cả những hiệu quả ơn Cứu độ tuyệt đối do công nghiệp vô song của Chúa
Cứu Thế, và cũng do công trạng của Mẹ Maria Đồng công cộng tác. Tất nhiên, những
480 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 117. 481 Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn (Hội Dòng Xitô Thánh Gia, 1993), số 144. 482 Dom Godefroid Bélorgey, Dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, chuyển ngữ: Martin Phạm Thanh Toàn, O. Cist
(Đan viện Xitô T.M. Phước Vĩnh, 2015), tr. 107. 483 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 117. 484 x. Sđd., tr. 118. 485 x. Sđd., tr. 119. 486 x. Sđd. 487 Đức Piô XI, Thông điệp Miserentissimus Redemptor, ban hành ngày 08/5/1928.
85
hiệu quả đó do Chúa Kitô hơn là do Mẹ Maria, do Mẹ là vì Chúa.488 Như vậy, giống
như ơn thánh, tất cả ơn Cứu rỗi do Thiên Chúa và cũng do chúng ta, do Thiên Chúa
hơn do chúng ta, do chúng ta vì trước hết do Thiên Chúa. Thánh Augustinô minh
chứng: “Chúa dựng nên chúng ta không cần chúng ta, nhưng không công chính hoá
chúng ta nếu không có chúng ta.” Đó là luật Cứu rỗi mỗi người chúng ta.
Tóm lại, vai trò của Đức Maria không chỉ đơn thuần là tình mẫu tử gắn kết hai
Mẹ Con, nhưng trên hết là Thánh ý Thiên Chúa dành cho các ngài trong công cuộc
cứu chuộc nhân loại. Chúa Kitô cứu chuộc loài người là sứ vụ chính yếu của Ngài khi
đến trần gian; Mẹ Maria được mời gọi cộng tác với Con của Mẹ. Mẹ đã cộng tác một
cách khách quan và chủ quan vào công cộng cứu chuộc, bởi vì Mẹ đại diện toàn thể
nhân loại, ưng thuận và hiến dâng. Sự cộng tác của Mẹ Maria đều được “ghép vào”
hành vi cứu chuộc của Chúa Kitô, nên có giá trị phổ quát cho mọi người.
II. Sứ mạng đồng công của Đức Maria
Đức Maria đã được Thiên Chúa kêu gọi để cộng tác với Con Thiên Chúa, vì thế sứ
mạng của Mẹ luôn luôn gắn kết với sứ mạng Cứu thế của Con Mẹ. Nền tảng sứ mạng của
Mẹ là Thánh ý của Thiên Chúa trong phục hồi nhân loại, đưa con người trở về tình trạng tốt
đẹp ban đầu của công cuộc sáng tạo. Vì thế, Mẹ không những được gọi là Mẹ Chúa Cứu Thế
mà còn được gọi là Tân Evà. Mẹ có vị trí đặc biệt trong công trình của Chúa Kitô, bởi vì Mẹ
đã đồng lao cộng khổ với Ngài trong tư cách là Mẹ và là người đại diện nhân loại.
1. Nguyên lý sứ mạng đồng công của Đức Maria
Theo thánh Montfort, nguyên lý nền tảng sứ mạng đồng công của Đức Maria chính là
thánh ý muôn đời của Thiên Chúa trong việc mời gọi Mẹ cộng tác với Chúa Cứu Thế. Bên
cạnh đó, phẩm chức Mẹ Chúa Cứu Thế và Tân Evà cũng là những nguyên lý căn bản cho sứ
mạng đồng công của Đức Maria.489 Với nguyên lý nền tảng, người viết đã trình bày khá
nhiều ở những phần thuộc về Thánh Kinh, nhất là các bản văn Cựu ước. Ở đây, chỉ xin trình
bày hai nguyên lý căn bản là: Mẹ Chúa Cứu Thế và Tân Evà trong suy tư thần học.
1.1. Nguyên lý Đức Maria là Mẹ Chúa Cứu Thế
Như đã trình bày ở trên, thánh Montfort cho rằng: nguyên lý nền tảng sứ mạng đồng
công của Đức Maria chính là thánh ý muôn đời của Thiên Chúa. Tuy nhiên, theo các nhà
thần học thế kỷ XVIII và nhất là thánh Anphongsô, nguyên lý đầu tiên và duy nhất cho sứ
488 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 120. 489 x. Sđd., tr. 149.
86
mạng đồng công của Đức Maria là Đức Maria là Mẹ Chúa Cứu Thế.490 Thật vậy, trong
Kinh cầu Đức Bà, Giáo Hội xưng tụng Đức Maria là “Đức Mẹ sinh Chúa Cứu Thế”. Còn
trong kinh Tin Kính, Giáo Hội tuyên xưng: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng
tôi, Người đã từ trời xuống thế...” Như vậy, “mục đích Nhập thể là để Cứu chuộc”.491
Trong hiến chế Lumen Gentium, công đồng Vaticanô II cũng tái khẳng định:
Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế, vì khi sứ thần truyền tin, Mẹ đã đón nhận
Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn cùng trong thân xác và đem sự sống đến cho thế
gian.492 Hết lòng đón nhận ý định Cứu rỗi của Thiên Chúa, Mẹ Maria đã tận hiến làm
tôi tớ Thiên Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng
của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm Cứu chuộc dưới quyền và cùng với
Con Ngài.493 Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc Cứu rỗi được tỏ rõ, từ khi
Mẹ Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chịu chết.494
Khi trở thành Con của Đức Maria, Con Thiên Chúa chấp nhận để cho mình lệ
thuộc loài người, sự lệ thuộc mà con người đã khước từ đối với Thiên Chúa. Khi trở
thành Con của Mẹ Maria, Con Thiên Chúa chấp nhận giới hạn của thân phận con
người, và còn phải lệ thuộc và được xác định trong một Bà Mẹ. Nhân tính mà Con
Thiên Chúa đảm nhận đã là của Mẹ Maria trước khi là của Chúa và trở thành của
Chúa do nhờ Mẹ. Thánh Phaolô đã xác định rõ ràng: Ngài đã sinh bởi Người Nữ và
sống dưới quyền Lề Luật (x. Gl 4,4). Con Thiên Chúa không những chấp nhận thân
phận thụ tạo, mà còn chấp nhận thân phận nô lệ của loài người tội lỗi (x. Pl 2,7). Đó
là mầu nhiệmNhập thể và là mầu nhiệm Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa.495
1.2. Nguyên lý Đức Maria là Tân Evà
Trong chiều kích Kitô học, sự kiện Đức Giêsu đầu thai bởi quyền năng Chúa Thánh
Thần và được sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria mang ý nghĩa: Đức Giêsu bước vào trần
gian như một Ađam mới, khởi đầu công trình tạo dựng mới của Thiên Chúa. Cũng như
Ađam cũ phát xuất trực tiếp từ Thiên Chúa, thì Ađam mới cũng xuất phát từ Thiên Chúa
một cách trực tiếp như vậy, nhờ quyền năng sáng tạo của Thần Khí.496 Mặt khác, trong tư
cách là người mẹ và người con, thì liên hệ giữa Đức Maria và Chúa Giêsu là duy nhất;
chỉ có mình Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Nhưng đồng thời, hai Đấng còn có một
490 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 149. 491 Sđd., tr. 150. 492 x. Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 53. 493 x. Sđd., số 57. 494 x. Sđd. 495 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 151. 496 x. Norberto Nguyễn Văn Khanh, O. F. M, Đức Giêsu Kitô: Ngôi Lời Nhập Thể, tr. 140.
87
mối liên hệ khác đó là mối liên hệ giữa Ađam mới và Evà mới.497 Ở nhiều chỗ trong
Thánh Kinh, Đức Maria đã được gọi là “Bà” (x. Ga 2,4; 19,26; Kh 12,1-2) đã đưa chúng
ta ngược trở lại với chân dung người Đàn Bà trong Tiền Tin Mừng.498 Chính trong bản
văn này (St 3,15), nhiều giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh nhận ra Đức Maria, Mẹ của Chúa
Kitô, như là một Tân Evà. Đức Maria là người đầu tiên và theo một cách thế độc nhất vô
nhị, được thừa hưởng chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi.499 Hai giáo phụ Justinô và
Irênê cũng như Tertulianô minh chứng, do sự tuân phục mà Tân Evà đã đem lại ơn Cứu
độ cho loài người, và sứ mạng của Tân Evà là lýdo cho phẩm chức Mẹ Thiên Chúa hay
Mẹ Chúa Cứu Thế. Những tư tưởng này, người viết đã triển khai nhiều trong chương III,
phần nói về giáo huấn của các giáo phụ. Như vậy, theo các thánh giáo phụ, Mẹ Maria
cùng với Chúa Kitô đem sự sống đến cho loài người thay thế cho bà Evà và ông Ađam đã
đem đến cho nhân loại sự chết. Do đó, Mẹ Maria được gọi là Tân Evà. Có Tân Evà mới
có vai trò đồng công, nên Tân Evà là nguyên lý sứ mạng đồng công của Mẹ.500
2. Chỗ đứng của Mẹ Maria trong công trình cứu rỗi
Tâm điểm sứ điệp Kitô giáo là Thiên Chúa tình yêu và Chúa Giêsu đã giải thoát chúng
ta khỏi sự nô lệ sợ hãi và đưa mỗi người chúng ta vào trong ánh sáng và tình yêu của
Người.501 Vì thế, vị thế của Mẹ Maria trong công trình cứu rỗi không đơn thuần chỉ là những
cố gắng thuần túy tình cảm trước sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa. Chỗ đứng của Mẹ chính
là kế hoạch của Thiên Chúa muốn nơi Mẹ, mời gọi Mẹ cộng tác một cách cụ thể, tất cả
những dự định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Chính Chúa Kitô đã tự nguyện để trở nên Con
của Mẹ và cũng chính Chúa Kitô mang nhân loại trong mình khi Nhập thể, để trong tư cách
là người đại diện loài người, Mẹ được gọi là người đồng công cứu chuộc với Chúa Cứu Thế.
2.1. Chúa Kitô gồm tóm nhân loại trong Mẹ Maria
Trong thư gửi tín hữu Galat, thánh Phaolô quả quyết: tất cả chúng ta chỉ là một trong
Chúa Giêsu Kitô (x. Gl 3,28) và “Do sự sung mãn của Ngài mà tất cả chúng ta đã lãnh nhận
hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16). Nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn, các giáo phụ cho rằng:
sự phục hồi nhân loại được diễn tả như là một sự liên kết mật thiết và diệu huyềngiữa chúng
ta và Chúa Kitô là Đầu. Ơn Cứu chuộc khách quan của chúng ta là việc chúng ta được sáp
nhập một cách tiềm tàng với Chúa, mà từ khi Nhập Thể, Người mang chúng ta trong Người,
497 x. Jan G. Bovenmars, M. S. C, Linh Đạo Trái Tim Theo Thánh Kinh, tr. 169-170. 498 x. Carrol Stuhlmueller, C. P, Từ Điển Thần Học Thánh Kinh Dùng Cho Mục Vụ, chuyển ngữ: Lm.
Montfort Phạm Quốc Huyên O. C, tr. 93. 499 x. GLHTCG, bản dịch của ủy ban Giáo lý đức tin, số 411. 500 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 159. 501 John Man, O. S. B, Khoảnh Khắc Của Chúa Kitô: Học biết để suy niệm, không rõ người dịch, tr. 73.
88
và chuộc lại chúng ta trong cuộc Tử nạn đẫm máu của Người.502 Trong khi chú giải thư
thánh Phaolô gửi giáo đoàn Rôma, thánh Cyrillô Alexandria còn nhấn mạnh: “Chúng ta đã
được chịu đóng đinh với Chúa Kitô khi chính xác thể Người chịu đóng đinh. Cách nào đó,
xác thể Người bao hàm bản tính nhân loại, cũng như toàn thể loài người nhiễm lây tì vết
chúc dữ trong ông Ađam đã bị Thiên Chúa giáng phạt.”503 Như thế, để trở nên một Kitô
hữu chân chính là chúng ta được mời gọi trở nên một với Đức Kitô.504
Như vậy, việc chúng ta sáp nhập khách quan với Chúa Kitô là Đầu, đã được khởi
đầu ngay trong mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, và được hoàn tất trên đồi
Calvê. Mẹ Maria đã cưu mang Đầu thì một cách nào đó cũng cưu mang chính các chi
thể của Đầu. Chúa Kitô khi chết đã không tự hy tế một mình cho Chúa Cha, nhưng
trong tư cách là Đầu hữu trách, Người cũng dâng toàn thể nhân loại đã được kết hợp
vào việc Chúa cứu rỗi. Không phải chỉ có nhân tính của Chúa Kitô chịu hy hiến được
đẹp lòng Thiên Chúa, mà do sự kiện này, toàn thể nhân loại được tái sinh.505
2.2. Mẹ Maria đóng vai toàn thể nhân loại
Do tình yêu nhưng không, Con Thiên Chúa vốn hằng hữu đã mặc bản tính nhân
loại, để chuộc lại và nâng cao phẩm giá con người. Tuy nhiên, Người đã không hoàn
thành kế hoạch đó, trước sự ưng thuận đầy tự do của người Mẹ mà Ngài đã tuyển chọn.
Mẹ đã đại diện nhân loại để đi vào “cuộc kết hôn nhiệm mầu” với Con Thiên Chúa. Sự
ưng thuận của Mẹ trong biến cố Truyền tin là sự ưng thuận trong tư cách là người đóng
vai toàn thể nhân loại.506 Thật vậy, cùng đích của mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm
Cứu chuộc. Đức Lêo XIII cho rằng: “Không một ai có thể hành động hiệu lực như Mẹ
trong quá khứ hay trong tương lai, để giải hoà loài người với Thiên Chúa. Chính Mẹ
đã ban Đấng Cứu Thế cho loài người đang lao mình vào vực đọa trầm muôn kiếp. Từ
khi nhận lời truyền tin nhiệm tích bình an mà thiên thần đem xuống trái đất, Mẹ Maria
đã ưng thuận nhận Tin mừng đó thay thế toàn thể nhân loại.”507
Trong chiều kích Kitô học, chúng ta biết: Nhờ Ngôi Hiệp, một việc làm tự do nào
đó của Chúa Kitô trong nhân tính thì cũng là việc của Ngôi Lời Thiên Chúa làm, nên có
giá trị vô cùng, đủ sức đền thay cho mọi tội lỗi của loài người.508 Tuy nhiên, trong ý định
ngàn đời của Thiên Chúa, công cuộc Cứu chuộc phải được hoàn hảo nhờ cuộc Khổ nạn
502 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 126. 503 Sđd., tr. 127. 504 x. John Man, OSB, Khoảnh Khắc Của Chúa Kitô: Học biết để suy niệm, không rõ người dịch, tr. 57. 505 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 128. 506 x. Sđd., tr. 129. 507 Sđd. 508 x. Lm. Fx. Tân Yên, Kitô Học, tr. 218.
89
và Tử nạn của Chúa Kitô trên đồi Calvê. Tâm tình yêu mến và vâng phục được thể hiện
trong đời sống tự hạ, và biểu lộ cao nhất trong cái chết trên thập giá, trong đời sống tự
nhiên không có gì cao trọng cho bằng cái chết thay cho người mình yêu.509 Nếu Đức
Trinh Nữ là Đấng Đồng Công đúng nghĩa, Mẹ cũng đóng vai trò tích cực cứu rỗi bên
cạnh Con Mẹ tử nạn. Do đó, Thánh Truyền thời Trung cổ từ thánh Albertô Cả tới nay, đã
minh nhiên nêu rõ vai trò của Mẹ và thêm ý nghĩa đầy đủ vào tín lý Tân Evà, khi tuyên
ngôn Mẹ Maria là Đấng trợ giúp Tân Ađam trong công cuộc Cứu thế,510 nhất là khi Mẹ
khước từ quyền từ mẫu mà Mẹ được hưởng do sự sinh hạ của Mẹ.
2.3. Mẹ Maria khước từ quyền làm Mẹ trong sứ mạng đồng công
Thuật ngữ “hy sinh” (sacrifice) trong Anh ngữ “phát xuất từ La ngữ: sacrum facere,
có nghĩa là thực hiện một việc thánh thiện, một sự hiến dâng vì mục đích tốt lành.”511 Cũng
vậy, Mẹ Maria đã hy sinh qua việc hiến dâng Người Con yêu dấu của mình vì thánh ý Thiên
Chúa, để cứu độ nhân loại. Mẹ đã “khước từ quyền làm Mẹ,”512 để Thiên Chúa có toàn
quyền trên Người Con mà Mẹ đã sinh hạ theo nhân tính. Điều này đã được đức giáo hoàng
Bênêđictô XV (1914-1922) trong tông thư “Inter sodalitia” (22/3/1918) khẳng định: “Đức
Maria đã cùng Người Con tử giá vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha đến độ đã đau khổ hầu
như chết cùng với Người Con tử nạn, từ bỏ hoàn toàn những quyền lợi của Người Mẹ trên
Người Con Cứu thế, và hiến dâng Con như một của lễ để làm nguôi đức công bình Thiên
Chúa Cha. Như thế, đương nhiên chúng ta có thể nói Mẹ đã cùng với Chúa Kitô cứu chuộc
nhân loại”.513 Về sau, diễn ngữ “khước từ quyền làm Mẹ,” đã được dùng từ thế kỷ XVII để
khẳng định Đức Maria đã góp phần vào công cuộc Cứu chuộc của Con Mẹ.514 Mặt khác, chú
giải về kinh Magnificat, thánh Bêđa cũng giải thích: Đức Maria nhận biết Người Con của Mẹ
là “tác giả ơn cứu độ muôn đời, sẽ sinh ra trong thời gian bởi xác thịt của Mẹ, để trong một
ngôi vị duy nhất, Đức Giêsu thật sự vừa là con, vừa là Chúa của Mẹ.”515 Như vậy, cho dù
Đức Giêsu có là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể, nhưng trong tư cách là mẹ, Đức
Maria có quyền trên người con mà mình đã mang nặng đẻ đau. Tuy nhiên, Đức Maria đã
“khước từ quyền làm Mẹ” để đặt thánh ý của Thiên Chúa lên trên tất cả.
509 x. Lm. Fx. Tân Yên, Sđd., tr. 218. 510 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 130. 511 George A. Maloney, S. J, Thưa Ngôn Sứ Xin Lắng Nghe, tr. 230. 512 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 131. 513 Lm. Anthony F. Chiffolo, 100 Danh Thánh của Mẹ Maria: Truyện và Kinh, tr. 42. 514 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 131. 515 Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, quyển 2, tr. 886.
90
Theo tác giả M. J. Nicolas, “quyền căn bản của Mẹ Thiên Chúa đối với một người
Con là Thiên Chúa, đó là quyền hợp nhất tri thức và tình yêu đối với Con.”516 Khi đặt
thánh ý của Chúa Cha lên trên hết, Mẹ chấp nhận để Con Mình chu toàn sứ vụ đã nhận
lãnh từ Chúa Cha, trong sự vâng phục đức tin. Chúng ta sẽ hiểu điều này qua dữ kiện mà
Tin mừng mô tả trong cuộc lên Đền thờ của gia đình Nazareth. Trong dịp đặc biệt này,
“với cá tính vững mạnh, Chúa Giêsu cho thấy Người hiểu biết sứ mạng của mình, vì
Người đem lại cho lần đi ‘vào nhà Cha’ mình lần thứ hai này, cái ý nghĩa tận hiến chính
mình cho Thiên Chúa, một sự tận hiến đã được đánh dấu khi Người được dâng trong
Đền Thờ.”517 Đoạn Tin mừng nói về cuộc hành trình lên Giêrusalem xem ra có vẻ trái
nghịch với ghi chú của thánh Luca rằng Chúa Giêsu vâng phục thánh Giuse và Đức
Maria (x. Lc 2,51). Tuy nhiên ở đây, “theo nguyên tắc đối xử của Người, Chúa Giêsu
tuyên bố mình chỉ thuộc về Thiên Chúa Cha và không nhắc tới những mối giây liên hệ
với gia đình trần gian của Người.”518 Như vậy, qua cách hành xử xem ra có vẻ bất
thường này, Chúa Giêsu chuẩn bị Mẹ Người cho mầu nhiệm Cứu chuộc (Thương khó,
Tử nạn,..). Chúa Giêsu nhấn mạnh ý muốn của Cha mình là tiêu chuẩn duy nhất đòi hỏi
sự vâng phục của Người. Lúc này cha mẹ của Đức Giêsu được yêu cầu hãy để cho Người
ra đi và thực hiện sứ mạng của Người bất cứ nơi nào Cha trên trời sẽ đưa tới.519
Những lời của thánh Luca “nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói” (Lc 2,50) đã
dạy chúng ta về phương cách Đức Maria sống cái tình tiết bất thường này trong đáy lòng
mình. Từ nay, Mẹ sẽ ghi nhớ tất cả trong lòng (x. Lc 2,51). Mẹ liên kết những biến cố này
với mầu nhiệm của Con Mình, được tỏ cho Mẹ khi thiên thần Truyền tin, và suy gẫm biến cố
đó trong thinh lặng chiêm niệm, đồng thời dâng lên sự hợp tác của Mẹ trong tinh thần một
lời “Xin vâng” mới mẻ. Theo đường hướng này, mắt xích đầu tiên được rèn trong một giây
xích các biến cố lần đầu đưa Đức Maria vượt quá vai trò tự nhiên xuất phát từ chức làm Mẹ
của Người, để đặt Mẹ phục vụ sứ mạng của Người Con Thiên Chúa. Như vậy, trong đoạn
mở đầu sứ mạng cứu chuộc của Đức Giêsu (tại đền thờ Giêrusalem), Chúa Giêsu liên kết Mẹ
mình với chính Ngài; Mẹ không còn là người sinh ra Chúa nữa, nhưng là một người Phụ Nữ
có thể hợp tác vào mầu nhiệm Cứu chuộc vì vâng theo chương trình của Chúa Cha.520
Thật vậy, nếu xét theo khía cạnh thuần túy con người, không một người mẹ nào lại
muốn con mình đau khổ, thậm chí đau khổ vì người khác. Tuy nhiên, trong cuộc hành
trình đức tin, Mẹ Maria được mời gọi thực thi thánh ý của Thiên Chúa, để Con mình chịu
516 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 131. 517 ĐGH. Gioan Phaolô II, 70 Bài Giáo Lý Về Đức Maria, tr. 120. 518 Sđd., tr. 120-121. 519 x. Sđd., tr. 121-122. 520 Sđd., tr. 122-123.
91
đau khổ cứu nhân loại và để trở nên Mẹ của Nhân Loại mới. Ngược lại dòng lịch sử,
chúng ta thấy: khi thiên sứ Truyền tin, Đức Maria ưng thuận làm Mẹ Chúa Cứu Thế,
không những với tư cách cá nhân, mà còn trong tư cách là người đại diện cho nhân loại.
Như thế, nhân danh chúng ta, Mẹ đi vào minh ước giữa loài người với Thiên Chúa. Vai
trò này đặt ra cho Mẹ những bổn phận và cả những quyền lợi trên “Của lễ hiến tế” do
hiệu quả lời “Xin vâng” trung gian của Mẹ.521 Tiếng “Xin Vâng” của Mẹ là sự chấp nhận
ơn gọi và sứ vụ. Nó diễn tả sự cam kết dấn thân của Đức Maria để trở thành mẹ Chúa
Giêsu.522 Khi ưng thuận làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Maria khởi đầu vai trò trợ giúp Tân
Ađam trong công cuộc Cứu chuộc, và liên kết chúng ta với Chúa Kitô là Đầu. Thật vậy,
khi nói đến quyền lợi của người mẹ liên quan đến Mẹ Maria, các nhà Thánh Mẫu học
thường xác nhận sự kiện Mẹ đã hy tế Con của Mẹ,523 vì phần rỗi chúng ta.
Trong khung cảnh Truyền tin và với tư cách là người đại diện nhân loại, Đức Maria
trao ban bản tính loài người cho Con Thiên Chúa trong cung lòng mình; dưới chân Thập
giá, nơi thánh Gioan, Mẹ đón nhận toàn thể nhân loại trong tâm hồn Mẹ.524 Như thế, trong
tư cách là Mẹ nhân loại, Mẹ hiện diện trên đồi Calvê, để làm cho ơn Cứu rỗi, được thêm
sáp nhập vào gia đình nhân loại. Mẹ đứng đó để làm cho chúng ta được thân thiết với
Người. Trong Mẹ, nhân tính cứu chuộc của Chúa và nhân tính được cứu rỗi của chúng ta,
giao hữu với nhau một cách tuyệt vời. Mẹ Maria lãnh nhận mọi hiệu quả chúng ta lãnh
nhận từ Thánh giá, mà không để mất đi chút nào, và Mẹ đem đến cho Chúa tử nạn niềm ủi
an mà Người mong đợi ở nơi chúng ta. Chính trong chiều kích này mà Mẹ được gọi là
Đấng Đồng công cứu chuộc.525 Như vậy, “Mẹ hoạt động nhưng tất cả mọi cử chỉ và tư
tưởng, dù vụn vặt nhất, cũng vì Chúa Giêsu, Mẹ không thể có một giây phút nào ngoài
Chúa Giêsu được.”526 Từ trên Thập giá, Chúa Giêsu đã trao phó Nhiệm thể của Người cho
Đức Maria, qua trung gian thánh Gioan. Người biết rằng chúng ta cần có một người Mẹ để
được bao bọc chở che, một người nâng nhân loại lên và làm trung gian cho chúng ta.527
III. Cuộc đồng thụ nạn và công trạng của Mẹ Maria
Việc đồng thụ nạn không những là lòng trắc ẩn Mẹ cảm thương những nỗi đớn
đau của Con yêu dấu Mẹ, mà còn có nghĩa là việc Mẹ cùng với Chúa Cứu Thế chịu khổ
đau để tích cực thông phần vào công trình Cứu thế của Người. Việc đồng thụ nạn làm
521 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 131. 522 x. Jan G. Bovenmars, M. S. C, Linh Đạo Trái Tim Theo Thánh Kinh, tr. 170. 523 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 132. 524 x. Lm. Giuse Phan Tấn Thành & tgk, Đức Giêsu Với Cái Chết, tr. 116. 525 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 132-133. 526 Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng, tr. 460. 527 x. Francis Fernander, Đối Thoại Với Thiên Chúa: Những bài suy niệm hằng ngày, tr. 880.
92
cho Mẹ có công trạng trước mặt Thiên Chúa và đền bù phần nào đó tội lỗi của nhân
loại, trong việc kết hiệp với công nghiệp vô cùng của Con Thiên Chúa Nhập thể.
1. Cuộc đồng thụ nạn của Đức Maria
Để khám phá ra hiệu lực sáng tươi cuộc đồng thụ nạn của Mẹ Maria, chúng ta
khảo sát qua ba điểm sau đây: Mẹ Maria có phải chịu khổ đau không? Mẹ có thực sự
đồng thụ nạn với Chúa Giêsu không? đâu là những cách thế Mẹ đồng thụ nạn? Tất cả
những đặc nét mà chúng ta sẽ suy tư dưới đây, giúp chúng ta xác tín giá trị sự cộng tác
của Mẹ có tầm mức phổ quát cho toàn thể gia đình nhân loại.
1.1. Mẹ Maria có phải chịu khổ đau không?
Người xưa thường nói: “Sinh-lão-bệnh-tử”, dường như đau khổ và sự chết là
cái gì đó mà con người không thể tránh né. Tuy nhiên, những vấn nạn này đã được
thánh Phaolô giải đáp: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi xâm nhập trần gian, và tội
lỗi gây nên sự chết; như thế sự chết đã lan tràn đến mọi người, bởi vì mọi người đã
phạm tội.” (Rm 5,12); nơi khác, ngài nói: “Lương bổng của tội lỗi là sự chết.” (Rm
6,23). Như vậy, nguyên do của sự đau khổ và cái chết chính là tội lỗi.528 Tuy nhiên,
đối với Đức Trinh Nữ Maria, nhờ được hưởng trước công nghiệp vô cùng của Chúa
Kitô, Mẹ được thoát khỏi tội nguyên tổ, do đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Vậy Mẹ Maria có phải chịu đau khổ không? Để trả lời vấn nạn này, chúng ta phải xét
trong hai khía cạnh: Xét trên phương diện pháp lý thì cứ theo lẽ thường Đức Maria không
phải chịu hậu quả của tội nguyên tổ, do đặc ân Vô Nhiễm Thiên Chúa ban cho Mẹ, vì thế,
Mẹ cũng không phải chịu đau khổ.529 Tuy nhiên, xét trên phương diện thực tế, thì Mẹ là
người đau khổ hơn hết mọi người. Tất cả bài tiểu luận này đã lược trích những suy tư về
những nỗi thống khổ của Mẹ Maria trong giáo huấn của thánh và các vị giáo hoàng, vì thế,
không thể nói Mẹ Maria không hề có đau khổ trong cuộc đời. Tuy nhiên, khi nói về những
nỗi đau khổ của Mẹ, tất cả những dữ liệu có thế giá trong Giáo Hội đều nhìn nhận sự chủ
động của Mẹ, tức là Mẹ chịu đau khổ vì tình yêu Thiên Chúa và nhân loại, chứ không theo
nghĩa Mẹ “mắc nợ” nên Mẹ phải đau khổ. Chính công đồng Vaticanô II đã nhìn nhận: “Đức
Maria đã […] phục vụ mầu nhiệm Cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài […] Thiên
Chúa […] đã để Ngài (Đức Maria) tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại […] Mẹ đã đau
đớn chịu khổ cực với Con Một của Mình và dự phần vào Hy lễ của Con, với tấm lòng của một
người Mẹ hết tình ưng thuận hiến tế Lễ vật do lòng mình sinh ra […] Vì đã cưu mang, sinh hạ
và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ
528 x. GLHTCG, số 1264. 529 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 212-213.
93
với Con Mình chết trên Thập Giá, Mẹ Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của
Đấng Cứu Thế”.530 Như thế, Mẹ đã được tiên hưởng ơn Cứu chuộc một cách đặc biệt, do cuộc
khổ nạn của Chúa. Chúa đã chịu đau khổ cho Mẹ hơn mọi người, thì Mẹ cũng chịu đau khổ
cho Chúa hơn mọi ai khác. Tình yêu kêu gọi tình yêu, tình yêu đáp trả tình yêu. Những hy sinh
do tình yêu chỉ có thể cân xứng với những hy sinh cũng do tình yêu.531 Sự đau khổ của Mẹ
trong sự kết hiệp với hy tế của Con có giá trị phổ quát cho cả nhân loại.
1.2. Mẹ Maria có thực sự đồng thụ nạn với Chúa?
Giáo huấn công đồng Triđentinô dạy: “Không ai có thể trở nên công chính nếu không
tham dự công đức của cuộc tử nạn của Đức Kitô.”532 Mẹ Maria đã tham dự một cách hoàn
hảo nhất vào cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Bằng đức tin, đức cậy và đức mến mãnh liệt trên
đỉnh đồi Golgôtha, Mẹ đã trở nên Đấng Đồng công cứu chuộc một cách trổi vượt.533 Vì tình
hiền mẫu, Mẹ Maria yêu thương chúng ta, và theo gương Chúa Kitô, Mẹ đã vui lòng chấp
nhận khổ đau vì phần rỗi nhân loại. Chính Thiên Chúa đã định liệu để Mẹ vào trong chương
trình thương đau của công cuộc Cứu chuộc, và cùng với Chúa Cứu Thế, Mẹ gánh lấy tội lỗi
nặng nề của chúng ta. Để thi hành chương trình đó, Thiên Chúa mời gọi Mẹ làm dụng cụ cho
Người. Ý chí của Mẹ luôn tuân theo ý chí của Đấng Toàn Năng, đã ưu ái và tuyển chọn Mẹ
từ trước muôn đời. Mẹ hoàn toàn vui lòng chấp nhận chịu khổ đau, để đồng thụ nạn với
Chúa Giêsu Con Mẹ.534 Như vậy, Mẹ Maria thực sự đồng thụ nạn với Chúa Cứu Thế chịu
khổ nạn và chịu chết, đúng như lời xác định của đức Bênêđictô XV: “Mẹ đã chịu đau khổ tới
gần như chết cùng với Con Mẹ chịu khổ và chịu chết. Mẹ khước từ quyền Từ mẫu cho ơn
Cứu độ loài người, và để làm nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Mẹ hy hiến Con Mẹ, nên
người ta có thể nói thật rằng Mẹ cùng với Chúa Kitô, đã chuộc loài người.”535
1.3. Những cách thế Mẹ đồng thụ nạn
Trong Tân ước, Cứu chuộc là biến đổi thế gian tội lỗi thành dân thánh (x. Rm
8,20-30), nhờ sự chết và phục sinh của Đức Kitô (Col 1,20).536 Do đó, cuộc khổ nạn
của Chúa Kitô đem lại cho chúng ta ơn Cứu độ bằng năm cách: thứ nhất, đền bồi hoà
giải chúng ta với Thiên Chúa; thứ hai, lập công để kéo ơn trời xuống cho chúng ta; thứ
ba, hy tế để tôn vinh Thiên Chúa; thứ tư, cứu chuộc để nên giá chuộc chúng ta đã bị hư
hỏng; và cuối cùng, nhân quả tác thành để sinh ra tất cả những ơn huệ trên đây. Mẹ
530 Cđ. Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, các số 56, 58, 61. 531 Sđd., tr. 212. 532 Lm. Fx. Tân Yên, Kitô Học, tr. 222. 533 Francis Fernander, Đối Thoại Với Thiên Chúa: Những bài suy niệm hằng ngày, tr. 880. 534 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr.213. 535 Đức Bênêđictô XV, Tông Thư Inter Soladicia, ban hành 22/5/1918. 536 x. Lm. Fx. Tân Yên, Kitô Học, tr. 190.
94
Maria đã đồng công cộng tác với Chúa Giêsu để hoàn thành công trình Cứu chuộc, nên
Mẹ cùng với Chúa đem lại cho chúng ta ơn Cứu độ cũng bằng năm cách đó.537
Trước tiên, Mẹ Maria cộng tác với Chúa Kitô đền bồi hoà giải chúng ta với Thiên
Chúa. Đây là xác quyết của đức giáo hoàng Lêô XIII: “Mẹ đã cộng tác với Chúatrong
công cuộc đền bồi đẫm máu cho ơn Cứu độ trần gian.”538 Nếu như Đức Giêsu đã lập
công đền bù tội lỗi theo lẽ công bình thì Đức Maria chỉ là đền bồi theo lẽ xứng hợp.539
Thứ hai, Mẹ Maria lập công để kéo ơn trời xuống cho chúng ta. Trong Thiên
Chúa, những “cơn lũ” tình yêu của Người, những đại dương của sự trìu mến muốn tràn
lan trên thế gian nhưng không may, nó không được đón nhận.540 Tuy nhiên, Mẹ Maria
đã cộng tác vào “công trình cứu độ, bằng sự vâng phục, bằng đức tin, đức cậy và đức
mến nồng nhiệt, để phục hồi sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.”541 Như thế, Mẹ là
Mẹ của chúng ta trong lãnh vực ân sủng. Mẹ nhìn thấy Đức Giêsu, Con mình nơi mỗi
một Kitô hữu. Mẹ yêu chúng ta như thể chính Đức Kitô đang ở địa vị của chúng ta.542
Thứ ba, Mẹ Maria cộng tác với hy tế của Chúa Kitô để tôn vinh Thiên Chúa. Công
đồng Triđentinô xác định: “Đức Kitô tự hiến thân đổ máu ra một lần trên bàn thờ thập
giá,”543 để giao hoà loài người với Thiên Chúa. Mẹ Maria vì mật thiết kết hợp với Chúa,
cộng tác hy tế với Chúa bằng cách: Mẹ cung cấp trinh huyết của chính Mẹ cho thân xác
Chúa Giêsu để Người sẽ là Của lễ hy tế dâng hiến Chúa Cha và Mẹ vui lòng ưng thuận cái
Chết cứu thế của Con Mẹ, và Mẹ cùng với Chúa tự hiến vì chúng ta.544
Thứ tư, Mẹ cộng tác với Chúa Cứu Thế để nên giá chuộc chúng ta đã bị hư hỏng do
tội lỗi. Theo giáo huấn của các giáo phụ, vai trò Mẹ Maria trong công trình Cứu chuộc
giống hệt vai trò bà Evà trong việc làm hư hỏng loài người. Nếu duy một mình bà Evà lỗi
phạm, bà không lưu truyền tội của bà cho chúng ta. Còn nếu một mình ông Ađam lỗi
phạm, chúng ta vẫn bị vương lây án phạt.545 Cũng thế, nếu duy một mình Mẹ Maria chịu
khổ đau, Mẹ không đem lại ơn Cứu độ cho chúng ta. Còn nếu một mình Chúa Kitô chịu
khổ đau, chúng ta vẫn được hưởng nhờ ơn Cứu độ. Nhưng việc đồng thụ nạn của Mẹ vẫn
thích hợp với cuộc Khổ nạn cứu chuộc của Chúa theo thánh lệnh từ trước muôn đời của
537 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr.217-218. 538 Sđd., tr.218. 539 x. Sđd. 540 Jacques Philippe, Lòng Thương Xót Đích Thực: Đức Maria, sự tha thứ & niềm tín thác, tr. 81. 541 GLHTCG, bản dịch của ủy ban Giáo lý đức tin, số 968. 542 Francis Fernander, Đối Thoại Với Thiên Chúa: Những bài suy niệm hằng ngày, tr. 882. 543 Lm. Fx. Tân Yên, Kitô Học, tr. 209. 544 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr.218. 545 Sđd., tr. 219.
95
Thiên Chúa.546 Như vậy, khi không vâng phục Thiên Chúa, Ađam và Evà đã đánh mất ân
sủng, và từ nay trở nên con mồi của dục vọng, của đau khổ và phải chết547; Mẹ được gọi là
Evà Mới cộng tác với Tân Ađam phục hồi sự sống cho nhân loại.548
Cuối cùng, nhân quả tác thành để sinh ra tất cả những ơn huệ trên đây. Đau khổ và sự
chết vốn là hậu quả của tội lỗi, là điều Thiên Chúa ghê tởm. Đau khổ và cái chết của Đức
Kitô do tội ác của loài người gây ra. Tuy nhiên, trong “mảnh đất” đau khổ và chết chóc mọc
ra bông hoa tươi đẹp, đó là tâm tình hiến dâng, là sự vâng phục tuyệt đối Chúa Cha của Chúa
Kitô. Giá trị của hy tế không phải hệ tại ở đau khổ và chết chóc, nhưng ở đức vâng phục,
lòng hiến dâng vì tình yêu.549 Cả cuộc đời của Mẹ là sự liên lỉ đáp lại lời “xin vâng” trước
thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Mẹ nhận mình như một người tôi tớ hèn mọn trước bất
cứ đòi hỏi nào của Thiên Chúa dành cho mình. Chính vì vâng phục, Mẹ đã trở nên “nguyên
nhân ơn cứu độ cho chính mình và cho toàn thể nhân loại.”550
2. Mẹ Maria hợp tác với Chúa Kitô theo công trạng của Mẹ
Nếu Đức Giêsu chỉ thuần túy là một người bình thường mà thôi, thì của lễ đền tội
của Người không có giá trị phổ quát. Theo cách trình bày của thánh Phaolô, giá trị hy lễ
của Đức Giêsu nằm ở chỗ Đấng ở địa vị Thiên Chúa, đã hạ mình vâng lời cho đến chết
trên Thập giá (x. Pl 2,6-8).551 Vì thế, khi hợp tác với Chúa Kitô- Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ
Maria vừa là dụng cụ thể lý và vừa là dụng cụ luân lý. Là dụng cụ thể lý, nghĩa là bởi Mẹ
và trong Mẹ, Ngôi Lời đã nhập thể mặc thân xác loài người; Mẹ cũng là dụng cụ luân lý,
nghĩa là Mẹ đích thực đồng công cộng tác với công cuộc Cứu thế của Chúa Giêsu, bằng
cách Mẹ ưng thuận mầu nhiệm Nhập Thể, và Mẹ thông phần cuộc Khổ nạn của Chúa
Giêsu. Đó là công nghiệp của Mẹ. Mẹ Maria lập công cho chúng ta bằng “công nghiệp
tương hợp” (Congruo) mọi sự mà Chúa Kitô lập công chochúng ta bằng “công nghiệp
tương đáng” (Condigno).552 Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu, đâu là nền tảng, là đối tượng,
là tính cách công nghiệp của Mẹ Maria.
546 Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 220. 547 x. Carrol Stuhlmueller, C. P, Từ Điển Thần Học Thánh Kinh Dùng Cho Mục Vụ, chuyển ngữ: Lm.
Montfort Phạm Quốc Huyên O. C, tr. 93. 548 GLHTCG, bản dịch của ủy ban Giáo lý đức tin, số 488. 549 x. Lm. Fx. Tân Yên, Kitô Học, tr. 210. 550 GLHTCG, bản dịch của ủy ban Giáo lý đức tin, số 494. 551 x. Norberto Nguyễn Văn Khanh, O. F. M, Đức Giêsu Kitô: Ngôi Lời Nhập Thể, tr. 327. 552 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 189.
96
2.1. Nền tảng công trạng của Mẹ Maria là gì ?
Nền tảng công nghiệp của Mẹ chính là sự thánh thiện mà Thiên Chúa ban cho Mẹ và
sự đáp trả con thảo của Mẹ với Thiên Chúa. Bên cạnh đó, với tự do, Mẹ hoàn toàn tuân phục
thánh ý của Thiên Chúa và Mẹ cộng tác với Chúa Cứu Thế trong nhiệm cục cứu chuộc.
Trước tiên, trong số các thụ tạo của Thiên Chúa, Mẹ là người thánh thiện hơn tất
cả. Theo Boetius, “sự thiện hảo tự nó tuôn tràn: bonum diffusivun sui.”553 Mẹ thánh
thiện vì Mẹ luôn hiệp nhất với Chúa, để Chúa sống trong Mẹ, và Mẹ sống trong Chúa;
Mẹ được sủng ái bởi Thiên Chúa, vì sự khiêm nhường của Mẹ; Mẹ được quyền hưởng
vinh phúc; và nhất là Mẹ hoàn toàn trinh trong, Vô nhiễm nguyên tội, để làm Mẹ Chúa
và Mẹ loài người.554 Mẹ không chỉ mạnh mẽ trong đức tin mà còn rất tinh tế trong tình
yêu của Mẹ, trước nhu cầu của người khác.555
Thứ đến, Mẹ hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa: Ở khía cạnh này, tác giả Franscois
Barral cho rằng: Mẹ luôn kết hợp với Chúa Kitô trong những hành động của Người. Mẹ chia
sẻ và sống những mầu nhiệm của Người. Đó là đời sống nội tâm của Mẹ, đến nỗi Chúa là
niềm vui, nỗi buồn, như là linh hồn của linh hồn Mẹ.556 Một giáo phụ còn quả quyết: “Toàn
bộ Kinh Thánh, tất cả lời của Chúa, Chúa đã thu gom lại trong cung lòng Đức Trinh Nữ.”557
Cuối cùng, Mẹ cộng tác với Chúa Cứu Thế trong công trình Cứu chuộc: Thánh
Anphongsô chứng minh: “Trong suốt cuộc đời Mẹ, Đức Trinh Nữ cao sang đã cộng tác vào
công cuộc Cứu rỗi loài người vì tình Mẹ yêu thương họ, đặc biệt khi Mẹ hiến dâng sự sống
Con Mẹ trên đồi Calvê cho Chúa Cha hằng hữu cho ơn Cứu rỗi chúng ta.”558 Tư tưởng này
đã được trình bày nhiều ở những phần trên.
2.2. Đâu là đối tượng công nghiệp của Đức Maria ?
Các nhà Thánh Mẫu học thường nói Mẹ Maria lập công đem lại cho chúng ta
điều mà Chúa Kitô đã lập công. Nếu nói như thế, việc Mẹ cộng tác với Chúa Kitô
trở nên dư thừa, vì tại sao Mẹ lại lập công đem lại điều Chúa đã lập công? Cha
Dillenschneider giải thích rằng: Hành vi lập công của Mẹ là một hành vi tăng thêm,
làm cho công nghiệp Cứu thế của Chúa Kitô thêm giàu lòng nhân ái.559 Vì thế, công
nghiệp của Mẹ có một giá trị riêng và do đó, có đối tượng đặc thù.
553 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hạt Giống Chiêm Niệm số 18: Say mê Thiên Chúa (2016), tr. 90. 554 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 190-191. 555 x. Jacques Philippe, Lòng Thương Xót Đích Thực: Đức Maria, sự tha thứ & niềm tín thác, tr. 34. 556 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 191. 557 Jean Khoury, Lectio Divina: Học Với Mẹ Maria, chuyển ngữ: Fr. Marie Bảo Tịnh, O. Cist (Hà Nội: Tôn
Giáo, 2010), tr. 112. 558 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 191. 559 x. Sđd..
97
Chúa lập công cứu rỗi nhân loại do sự vinh thắng của Người. Chúa Kitô đã lập công do
quyền lực Cứu rỗi, nghĩa là Chúa lập công sinh ơn thánh, để ơn thánh được ban phát do
quyền năng của Chúa Cứu Thế vinh quang. Còn công nghiệp của Mẹ hướng về ơn Cứu rỗi
đã được dành để áp dụng cho mọi người, bằng vai trò trung gian hiền mẫu, trong công việc
ban phát ơn thánh, và bằng thế lực đồng công trào ban ơn Cứu rỗi cho mọi người.560 Vì thế,
Giáo Hội đã gọi Mẹ là “Trạng sư, Đấng Cứu giúp, Đấng Phù hộ, và Đấng Trung gian.”561
2.3. Tính cách công nghiệp của Mẹ là gì ?
Trước hết, công nghiệp của Mẹ là công nghiệp tương hợp. Theo diễn giải của
cha Fx. Tân Yên, công nghiệp tương hợp là công nghiệp không phải do công trạng
của Mẹ nhưng là công trạng do Mẹ được hưởng,562 từ Chúa Giêsu Kitô Con yêu dấu
của Mẹ. Nhiều nhà thần học còn cho rằng, Đức Mẹ có thể lập công tương đáng. Tuy
nhiên, chúng ta chưa thấy Giáo Hội lên tiếng về điều này. Như thế, mặc dù với tính
cách tương hợp nhưng công nghiệp của Mẹ cũng rất cần thiết cho ơn Cứu rỗi.563
Thứ đến, công nghiệp của Mẹ có tính cách phổ quát đại đồng. Công nghiệp của
Mẹ mặc dù là công nghiệp tương hợp nhưng lại có tính cách phổ quát như công
nghiệp của Chúa Kitô. Công nghiệp của Mẹ trào tràn cho mọi người. Không một ơn
nào chúng ta được mà không do Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Như vậy, với cuộc đồng
thụ nạn, Mẹ Maria đã sắm liệu cho chúng ta tất cả mọi ơn mà Chúa Giêsu đã lập công
cho chúng ta do sự chết và phục sinh của Người. Những ơn này được trao ban cho
mọi phần tử của Nhiệm Thể Chúa Kitô và đều qua Mẹ như máng chuyển ơn.564
Tiếp theo, công nghiệp của Mẹ có tính cách cao siêu tuyệt vời. Điều này hệ tại
đức mến đã làm cho sự hy sinh của Mẹ có một giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Bên cạnh đó, Mẹ sống tình con thảo với Thiên Chúa bằng tất cả ý hướng và năng lực
của tình yêu, cũng như sự trinh trong, sự kiên trung,... Tình mến của Mẹ luôn luôn
vượt trên tình mến của tất cả tôi tớ Chúa, và Mẹ mỗi lúc hoàn tất thánh ý Chúa với
tình mến tận lực của Mẹ. Như vậy, công nghiệp mỗi hành vi đức mến của Mẹ vượt
trên công nghiệp của mọi bậc thần thánh và của mọi người,565 và nhờ Mẹ, “chúng ta
có thể biết Thiên Chúa trong tình yêu và lòng thương xót vô biên của Người.”566
560 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 192. 561 x. GLHTCG, bản dịch của ủy ban Giáo lý đức tin, số 969. 562 x. Lm. Fx. Tân Yên, Kitô Học, tr. 219. 563 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 193-194. 564 x. Sđd., tr. 195. 565 x. Sđd. 566 Jacques Philippe, Lòng Thương Xót Đích Thực: Đức Maria, sự tha thứ & niềm tín thác, tr. 17.
98
Kế tiếp, công nghiệp của Mẹ đặt nền tảng trên Mẫu chức thiêng liêng. Mẹ được Thiên
Chúa ban cho quyền ban phát ơn thánh, nên chúng ta lãnh nhận được mọi ơn do ý muốn của
Mẹ. “Mọi sự Mẹ nhận từ Thiên Chúa, Mẹ đều cho chúng ta”567 và vì Mẹ cộng tác với Chúa
trong công cuộc Cứu chuộc, nên Mẹ cũng cùng với Chúa ban phát mọi ơn do công ơn Cứu
chuộc. Như thế, Mẹ vừa là Đấng quản thủ kho thiêng, vừa là Đấng ban phát ơn thánh. Hai sứ
vụ này của Mẹ bắt nguồn từ lời “Xin vâng” ưng thuận mầu nhiệm Nhập Thể. Đó là nguyên
lý và là căn nguyên mẫu chức ơn thánh của Mẹ. Từ đó, Mẹ cùng với Chúa Kitô lập công cho
chúng ta, và Mẹ trào đổ trên chúng ta hiệu quả của ơn Cứu chuộc của Con Mẹ. 568
Tiếp đến, công nghiệp của Mẹ Maria dựa theo công nghiệp của Chúa Kitô. Với cái chết
đau khổ, ô nhục của Đức Giêsu đã cho thấy: tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người lớn
lao biết dường nào; cái chết vâng phục ý muốn Chúa Cha để hàn gắn lại một sự đổ vỡ bất tuân
phục của loài người đối với Thiên Chúa; cái chết phục hồi tư cách làm con của nhân loại; và
cuối cùng, cái chết của Đức Giêsu hoàn tất ơn Cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện từ ngàn
xưa.569 Công nghiệp Mẹ lập cho chúng ta được dựa trên hành động lập công của Chúa Kitô.
Công nghiệp của Chúa đi trước công nghiệp của Mẹ về thời gian và bản tính, để công nghiệp
của Mẹ được tùy thuộc. Công nghiệp của Mẹ tùy thuộc công nghiệp của Chúa, như đặc ân Vô
Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ tuyệt đối tùy thuộc công nghiệp tiên liệu của Chúa Kitô.570
Cuối cùng, công nghiệp của Mẹ Maria không làm giảm bớt công nghiệp của Chúa
Kitô. Nhờ cuộc Khổ nạn và Tử nạn, Chúa Kitô đã đền bù cân xứng đức công bình của
Thiên Chúa để chúng ta được hưởng sự sống đời đời. Tuy nhiên, Mẹ Maria được mời
gọi cộng tác với Chúa Cứu Thế. Việc Mẹ cộng tác không bổ túc chút nào hành vi Cứu
chuộc của Chúa Kitô, vì hành vi Cứu chuộc của Chúa là hành vi độc lập. Việc Đồng
công của Mẹ, tuy đã được Thiên Chúa định liệu, cũng chỉ là làm nền tảng cho công
nghiệp tương hợp của Mẹ theo nguyên tắc góp phần. Như vậy, chắc chắn rằng công
nghiệp của Mẹ không thêm gì, và không thể thêm giá trị gì cho hành vi lập công của
Chúa Kitô. Tuy nhiên, sự góp phần lập công của Mẹ thực sự cần thiết như hành vi Cứu
chuộc của Chúa, vì nếu không có Mẹ, thì Thiên Chúa đâu có định liệu như thế !571
Tóm lại, vai trò của Mẹ Maria trong nhiệm cục Cứu chuộc của Chúa Cứu Thế tuy không
đồng đẳng với vị thế duy nhất của Chúa Kitô, nhưng trong ý định ngàn đời của Thiên Chúa,
Mẹ được mời gọi cộng tác. Mẹ cộng tác trong tư cách là Mẹ Thiên Chúa, là Tân Evà, là đại
567 Jacques Philippe, Lòng Thương Xót Đích Thực: Đức Maria, sự tha thứ & niềm tín thác, tr. 30 568 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 196. 569 x. Vinh Sơn Quang Huy, Sống Với Đức Kitô Như Được Trình Bày Trong Tin Mừng (Hà Nội: Tôn Giáo,
2013), tr. 93-94. 570 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 198. 571 x. Sđd., tr. 200.
99
diện của nhân loại... Tuy nhiên, chính sự lệ thuộc và sự liên kết hoàn hảo của Mẹ đối với Chúa
Kitô, đã làm cho Mẹ trở nên Đấng Đồng công với Chúa Cứu Thế để cứu chuộc nhân loại.
IV. Một Vài Nhận Định Chung
Bài thánh ca ngày lễ Đức Mẹ Sầu Bi đã diễn tả: “Ngày xưa trên đồi Golgotha, Mẹ
đứng gần bên Thánh Giá, Mẹ nhìn Chúa trút hơi thở cuối cùng, Mẹ đồng công dâng lễ đền
bồi...”572 Bài thánh ca này đã đưa chúng ta về với khung cảnh của buổi chiều ngày thứ sáu
Tuần Thánh, ngày mà Tân Ađam và Tân Evà đã phục hồi sự sống thần linh cho nhân loại,
đã mất do nguyên tổ. Mẹ cộng tác với Chúa Cứu Thế để hạ sinh chúng ta trong ân sủng của
Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong bối cảnh đại kết hiện nay, người ta chỉ đề cao công trình cứu
độ của duy một mình Chúa Kitô. Vì thế, trong nghiên cứu về Thánh Mẫu học, nếu tách biệt
vai trò của Đức Maria ra khỏi công trình cứu độ của Con Mẹ thì chưa đúng, bởi vì Thánh
Mẫu Học luôn luôn phải đặt nền trên Kitô học và Kitô học có những mối tương quan
không thể tách rời với Thánh Mẫu học. Đó là nhận định đầu tiên trong nhiên cứu về Thánh
Mẫu học, nhất là tước hiệu Đồng công của Đức Trinh Nữ Maria, trong bối cảnh đại kết.
Ngay từ lời Tiền Tin mừng (St 3,15), Thiên Chúa đã mạc khải mối tương quan khăng
khít không thể tách rời giữa Đức Maria và Con của Người. Do sự tiền định muôn đời của
Thiên Chúa, Đức Maria có liên quan đến những mầu nhiệm cao cả nhất của Kitô giáo, là
công cụ mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa Vĩnh Cửu, và bởi đó chúng ta được cứu
chuộc.573 Người Đàn Bà và Dòng Dõi của Bà luôn luôn thông hiệp với nhau để chống lại
sự dữ. Đó là thế giá Thánh Kinh. Như thế, trong phần nhận định này người viết còn muốn
làm sáng lên ba điểm: thứ nhất, “vai trò đồng công của Đức Maria có cần thiết không ?”
Nếu có thì “ý nghĩa chính xác về sứ mạng đồng công của Đức Maria là gì ?” và cuối cùng
“ý nghĩa thích đáng công trạng của Mẹ so với công nghiệp của Chúa Kitô như thế nào?”
1. Vai trò của đồng công của Đức Maria có cần thiết không ?
Đức Kitô là Tác giả chính của sự cứu chuộc, nhưng trong công trình ấy còn có sự
cộng tác của nhiều người. Đức Maria đã cộng tác trong công trình của Chúa Kitô một
cách rất đặc biệt, khác hẳn với sự cộng tác của những người khác.574 Sau đây chúng ta
phân tích về sự cần thiết và nét đặc thù trong sự cộng tác của Đức Maria.
Trong tư cách là đầu hữu trách của toàn thể nhân loại (x. St 3,1-19), Thánh Kinh (x.
St 3,17-18; Rm 5,11-19), công đồng Triđentinô và thần học đều qui tội nguyên tổ cho
ông Ađam. Tuy nhiên, bà Evà cũng cộng tác vào tội phạm của ông Ađam. Khởi đi từ
572 x. Trần Khắc Khoan, Học Thuyết Đức Trinh Nữ Maria: Để tìm hiểu Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ, tr. 297. 573 x. Gm. Robert H. Brom & tgk, Hộ Giáo 2: Sách bỏ túi của người Kitô hữu, tr. 42. 574 x. Sđd., tr. 46.
100
những dữ kiện trên, các giáo phụ cho rằng: Mẹ Maria trực tiếp và chặt chẽ hợp tác với
Chúa Kitô trong công cuộc Cứu thế.575 Mẹ “đã cộng tác một cách tuyệt đối độc nhất vô
nhị vào công trình của Đấng Cứu Độ, bằng sự vâng phục, bằng đức tin, đức cậy và đức
mến nồng nhiệt, để phục hồi sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.”576 Mẹ đã nói lên lời
“xin vâng” của Mẹ “thay cho toàn thể nhân loại”577. Nhân loại cần đến lời thưa vâng của
Mẹ Maria, để “Lời có thể nhập thể trong lòng ta và trong cuộc đời ta.578” Nhờ sự vâng
phục của mình, Đức Trinh Nữ đã trở thành Tân Evà để cộng tác với Tân Ađam trong việc
phục hồi nhân loại. Như thế, chính Mẹ là “cánh cửa của lòng thương xót bởi ngang qua
Mẹ, lòng thương xót Chúa đi vào thế giới.”579 Như thế, sự cộng tác của Mẹ là cần thiết,
trong tư cách Mẹ là đại diện cho nhân loại đón nhận sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa.
Trong các Tin mừng, chúng ta dễ dàng nhận ra những hàng chữ nói về sứ mạng chính
yếu của Đức Kitô: hiến dâng mạng sống (máu Ngài) để chuộc tội chúng ta (giá chuộc) và đưa
chúng ta trở về cùng Thiên Chúa Cha.580 Cái chết của Đức Kitô là “hy lễ Vượt qua, mang lại
ơn cứu độ tối hậu cho loài người (x. 1 Cr 5,7; Ga 8,34-36) [...] cho con người được hiệp thông
với Thiên Chúa (x. Xh 24,8),”581 nhưng Chúa Kitô vẫn có thể đưa Mẹ Người vào công việc
hiến tế của Ngài, bởi vì chính Mẹ muốn Con mình hy sinh làm giá chuộc để cứu chuộc nhân
loại.582 Do đó, theo cha Hurth, ý muốn của Mẹ Maria được trở nên hữu hiệu, do ý muốn Hy
hiến cứu chuộc của Chúa Kitô, tuy ý muốn của Mẹ không tăng thêm giá trị ý muốn của Chúa.
Để sự hợp tác của Mẹ có tính cách pháp lý, chỉ cần Chúa Kitô bao gồm ý muốn Mẹ trong ý
muốn của Người, nghĩa là trong yếu tố nội tại chính cốt của công cuộc Cứu thế, là hành vi Hy
tế cứu chuộc của Chúa Kitô vị Thương tế, thực hiện trên bàn thờ Thánh giá.583
Thật vậy, việc đồng công của Đức Maria không cần thiết cho việc cứu rỗi (ad
esse salutis) nhưng làm cho hoàn hảo (ad melius esse) để việc cộng tác giữa Chúa Kitô
và Đức Maria có liên quan đến việc cộng tác của hai nguyên tổ Ađam và Evà trong việc
làm cho nhân loại sa trầm.584 Giáo thuyết của thánh Irênê dạy: “Nhờ sự vâng phục, Đức
Maria trở nên nguyên nhân ơn cứu rỗi cho chính mình và cho toàn thể nhân loại.”585
Từ đó, cùng với thánh nhân, nhiều giáo phụ cũng cho rằng: “Nút dây do sự bất tuân
575 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 93-94. 576 GLHTCG, bản dịch của Ủy ban Giáo lý Đức tin, số 968. 577 Sđd., số 511. 578 Jean Khoury, Lectio Divina: Học Với Mẹ Maria, chuyển ngữ: Fr. Marie Bảo Tịnh, O. Cist (Hà Nội: Tôn
Giáo, 2010), tr. 114. 579 Jacques Philippe, Lòng Thương Xót Đích Thực: Đức Maria, sự tha thứ & niềm tín thác, tr. 13. 580 x. Sr. Thérèse, Tình Yêu và Hy sinh, chuyển ngữ: Nữ Biển Đức, tr. 47. 581 GLHTCG, bản dịch của ủy ban Giáo lý đức tin, số 613. 582 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 97. 583 x. Sđd., tr. 96-97. 584 x. Lm. Hồng Phúc, Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo (1996), tr. 180. 585 GLHTCG, bản dịch của ủy ban Giáo lý đức tin, số 494.
101
của bà Evà thắt lại, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria; điều mà trinh
nữ Evà đã buộc lại do sự cứng lòng tin, Đức Trinh Nữ đã tháo ra nhờ đức tin”586; và so
sánh với bà E và, các giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ chúng sinh”, và các ngài còn quả
quyết: “Sự chết qua bà Evà, sự sống qua Đức Maria.”587 Như thế, theo cha Hurt, việc
bà Evà làm sa đọa chúng ta và việc Mẹ Maria phục hồi chúng ta vừa tương đồng và vừa
tương phản. Tương đồng ở “cách thức” nhưng tương phản ở “giá trị”. Bà Evà đã cộng
tác với hành vi chính thức của ông Ađam làm hư hỏng con cháu. Đối ngược lại, Mẹ
Maria đã cộng tác với hành vi cứu chuộc chính thức của Chúa Kitô nâng vực chúng ta
lên, vì Chúa cứu chuộc chúng ta, khi Ngài bao gồm ý muốn của Mẹ trong ý muốn của
Người, và làm cho ý muốn của Mẹ cũng có công hiệu cứu chuộc.588
Nói chung lại, chỉ có ý muốn Cứu chuộc của Chúa Kitô có hiệu lực cho phần rỗi chúng
ta, dù rằng ý muốn của Mẹ được bao gồm trong ý muốn của Chúa. Thánh Mẫu học ngày nay
gọi công nghiệp đồng công của Mẹ là công nghiệp tương hợp (de congruo), và công nghiệp
Cứu chuộc của Chúa Kitô là công nghiệp tương đáng (de condigno), vì công nghiệp tương
hợp của Mẹ có một công hiệu Cứu rỗi dựa trên công nghiệp tương đáng vô của Chúa Kitô.589
2. Ý nghĩa chính xác về sứ mạng đồng công của Đức Maria
Có thể nói, sau thất bại của nguyên tổ, thế giới chìm trong bóng tối, dưới sự thống trị
của cái chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa tìm một lối đi mới để vào trần gian. Người gõ cửa tâm
hồn Đức Maria. Thiên Chúa cần sự tự do của con người. Người không thể cứu con người,
được tạo dựng một cách tự do, mà không có tiếng thưa “Vâng” thật tự do của ý chí họ.590
Theo giáo huấn của các giáo phụ tiên khởi Justinô, Tertulianôvà Irênê, lời đáp trả của Đức
Trinh Nữ thành Nazareth là một hành vi đức tin và tuân phục: hành vi đức tin vì Mẹ tin
tưởng mầu nhiệm Nhập Thể sẽ thành hiện nơi Mẹ; hành vi tuân phục vì Mẹ sẵn sàng ưng
thuận tham dự vào chương trình Cứu thế,591 bởi vì Thiên Chúa muốn Mẹ phụng sự Người
trong địa vị Hiền Mẫu Đấng Cứu Thế.592 Theo đức Bênêđictô XVI, đây là giây phút của sự
vâng phục đầy tự do, khiêm nhường và quảng đại, giây phút quyết định cao độ nhất của tự
do con người.593 Như vậy, “khi nói lên sự ưng thuận của mình đối với lời mời gọi của
Thiên Chúa, mà không tội lỗi nào ngăn cản Mẹ, Mẹ tự hiến hoàn toàn cho Con Mẹ và công
trình của Người, để, một cách tùy thuộc vào Người và cùng với Người, nhờ ân sủng của
586 GLHTCG, bản dịch của ủy ban Giáo lý đức tin, số 494. 587 Cđ. Vaticanô II, Hiến chế Lumen Gentium, số 56. 588 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 97-98. 589 x. Sđd., tr. 99. 590 x. Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Đức Giêsu Thành Nazareth: Phần III, tr. 55. 591 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 134. 592 x. George A. Maloney, S. J, Thưa Ngôn Sứ Xin Lắng Nghe, tr. 63. 593 x. Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Đức Giêsu Thành Nazareth: Phần III, tr. 56.
102
Thiên Chúa, Mẹ phục vụ mầu nhiệm Cứu chuộc.”594 Kinh nghiệm riêng tư của thánh
Têrêsa Hài Đồng Giêsu cho biết: “ngài muốn đứng trước tình yêu Thiên Chúa với đôi bàn
tay trắng, nhưng chị không ngừng trong suốt cuộc đời, đón nhận lấy máu của Chúa Giêsu
qua những hy sinh của chính mình, và làm tuôn đổ tran hòa trên thế gian.”595
Chúng ta nhận định một cách chân thật rằng: ơn Cứu rỗi toàn thế giới có liên đới với lời đáp
trả của Tân Evà, như thánh Bênađô nói: “Chỉ một câu vắn tắt của Mẹ thôi là chúng con được tái
tạo, để lại được kêu gọi đón nhận sự sống.”596 Qua sự vâng phục của Mẹ, “Lời đã đi vào trong Mẹ
và Mẹ đã thụ thai.”597 Thánh Tôma cũng cùng quan điểm khi nói: “Sự ưng thuận của RấtThánh
Trinh Nữ là điều phải có qua việc Truyền tin. Đó là một hành động của một cá nhân mà lại đem
đến ơn Cứu rỗi tràn đầy cho số đông người là toàn thể nhân loại.”598 Như thế, “chỉ những ai thực
sự lắng nghe Lời Chúa mới có thể truyền đạt Lời ấy như sức mạnh và sự sống cho thế giới.”599
Mặt khác, do mẫu chức toàn vẹn của Mẹ, tình mẫu tử rất thân mật giữa Mẹ Maria
và Con của Mẹ, làm cho Mẹ liên kết tất cả tâm hồn Mẹ với công cuộc Cứu thế của Con
Mẹ. Nếu Mẹ đứng ngoài cuộc, mẫu chức của Mẹ sẽ xuống giá. Việc Mẹ liên kết như
thế không phải là do tình cảm riêng tư, mà chính thức do thánh lệnh của Thiên Chúa, vì
nếu Chúa Kitô là Thiên Chúa Nhập Thể để là Thiên Chúa cứu chuộc, thì Mẹ Maria là
Mẹ Thiên Chúa cứu chuộc này để là Đấng Đồng công cộng tác với Người.600
Việc Mẹ Maria đau thương đồng công cứu chuộc chính là thiện ý và tình cảm của Mẹ,
chính thức tham gia vào việc Hy tế cao cả cứu thoát chúng ta,601 bởi vì “tình yêu được nuôi
dưỡng bằng hy sinh”602 và Mẹ cũng am hiểu sâu xa về tình yêu cứu độ và lòng thương xót của
Thiên Chúa.603 Mặt khác, chính Mẹ Maria cũng thực sự ở trong Chúa Giêsu, như lời của thánh
Augustinô, “một tâm hồn đang yêu thì ở trong đối tượng tình yêu của nó hơn là ở trong thân
xác mà nó năng động,”604 hay nói theo thánh Gioan Eudes, Mẹ và Con chỉ có một trái tim duy
nhất.605 Vì để nhấn mạnh chiều kích kết hiệp mật thiết của Đức Maria với Chúa Kitô trên đồi
Calvê, các nhà thần học thường nói: không có hai “Của Lễ” toàn thiêu, nhưng chỉ có một duy
nhất là Chúa Kitô. Chúa hy hiến máu thân xác linh thánh Người cho Chúa Cha, với tư cách là
thầy Thượng tế của nhân loại. Mẹ Maria dâng hiến máu trái tim trinh trong của Mẹ cũng cùng
594 GLHTCG, bản dịch của ủy ban Giáo lý đức tin, số 494. 595 Sr. Thérèse, Tình Yêu và Hy sinh, chuyển ngữ: Nữ Biển Đức, tr. 66. 596 Các Bài Đọc Kinh Sách, Tập I, tr. 103. 597 Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Đức Giêsu Thành Nazareth: Phần III, tr. 56. 598 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 135. 599 George A. Maloney, S. J, Thưa Ngôn Sứ Xin Lắng Nghe, tr. 162. 600 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 136. 601 x. Sđd., tr. 138. 602 x. Sr. Thérèse, Tình Yêu và Hy sinh, tr. 58. 603 x. Jan G. Bovenmars, M. S. C, Linh Đạo Trái Tim Theo Thánh Kinh, tr. 169. 604 Dom Godefroid Bélorgey, Dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, tr. 112. 605 x. Jan G. Bovenmars, M. S. C, Linh Đạo Trái Tim Theo Thánh Kinh, tr. 169.
103
chủ đích cứu chuộc với Con Mẹ, với tư cách là Mẹ đồng công với thầy cả Thượng phẩm. Mẹ
được ơn gọi nhân danh toàn thể nhân loại thông phần cuộc Hy tế cứu chuộc chúng ta.606
3. Ý nghĩa thích đáng công trạng của Mẹ so với công nghiệp của Chúa Kitô
Do mầu nhiệm Ngôi Hiệp, Ngôi Lời là chủ thể, chịu trách nhiệm trong nhân tính Đức
Kitô, nên mọi hoạt động của nhân tính là hoạt động của Ngôi Lời Thiên Chúa, nên có giá trị
vô cùng. Do đó, sự đền bù của Đức Kitô là sự đền bù hoàn toàn và còn dư thừa, đầy dẫy.
Mặt khác, giá trị của sự đền bù nhờ công nghiệp của Chúa Kitô là giá trị vô giới hạn, vô
cùng.607 Việc cộng tác của Mẹ Maria không thêm gì cho việc cứu chuộc: việc Phục sinh của
Chúa Kitô là nguyên nhân do tất cả việc cứu rỗi và ơn căn bản của Chúa Kitô gồm mọi ơn,
kể cả ơn đồng công; ơn này ban cho Mẹ quyền năng, nhờ vào ơn huệ của Chúa Kitô, để làm
cho mọi người thông phần, dựa trên mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Cứu Thế và Mẹ Người,
Mẹ Thiên Chúa.608 Mẹ Maria mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, được đặc ân Vô Nhiễm Nguyên
Tội, nhưng Mẹ cũng chỉ là một thụ tạo như chúng ta. Vì thế, công nghiệp của Mẹ cũng chỉ là
công nghiệp có giới hạn so với công nghiệp vô cùng của Chúa Kitô, nên duy chỉ công nghiệp
của Mẹ thì không có sức đền trả thay cho tội lỗi nhân loại. Thật vậy, không có Chúa Kitô,
Đức Maria không là gì cả, và Ngài là người đầu tiên xác nhận điều này.609 Tuy nhiên, công
nghiệp của Mẹ luôn được ghép vào công nghiệp vô cùng Chúa Cứu Thế.
Hơn bao giờ hết, ngày nay dường như nhiều người đang cố làm sao “đẩy” Đức Mẹ ra
bên lề, nhằm phục hồi vai trò trung tâm cho Đức Giêsu. Lập luận này không đúng đắn, bởi vì
Con và Mẹ không thể có tính loại trừ, nhưng luôn đi với nhau. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô
II đã làm sáng tỏ vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội bên cạnh Đức Kitô.610 Theo tác giả
Scheeben, việc Mẹ Maria đồng công cộng tác không chút chi bổ túc cuộc Khổ nạn của Chúa
Kitô, nhưng là sự tham dự xác thực vào chính việc Cứu thế. Nói khác đi, Mẹ Maria đã có thể
lập công cho chúng ta, nhưng hoàn toàn tùy thuộc Chúa Cứu Thế, với tư cách đặc biệt là Mẹ
đồng công với Con Mẹ. Vì chỗ đứng của Mẹ lệ thuộc nhiệm cuộc Cứu rỗi, cả đời sống Mẹ
và nhất là việc Mẹ đồng lao cộng khổ, đều hướng về cuộc Khổ nạn và Tử nạn của Chúa
Kitô, và góp phần vào chương trình Cứu thế, dù rằng không được nhất thống với hành vi
Cứu chuộc của Chúa, nhưng vẫn tương quan với Người.611
606 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 138. 607 x. Lm. Fx. Tân Yên, Kitô Học, tr. 217. 608 x. Lm. Hồng Phúc, Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo (1996), tr. 180. 609 x. Gm. Robert H. Brom & tgk, Hộ Giáo 2: Sách bỏ túi của người Kitô hữu, tr. 42. 610 x. Stanislaw Dziwisz & tgk, Cứ Để Tôi Đi Về Nhà Cha (ĐGH Gioan Phaolô II), chuyển ngữ: Học Viện
Đa Minh, 2014, tr. 111. 611 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 207.
104
Kết Luận
Tóm lại, qua những gì đã trình bày trong bài, chúng ta nhận thấy Đức Trinh Nữ
Maria có một vị trí đặc biệt trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô. Mẹ đã được gọi với
tước hiệu “Corredemptrix” – một tước hiệu nói lên vai trò độc nhất và đặc thù của Mẹ
trong nhiệm cục cứu chuộc của Con Mẹ. Sứ vụ của Đức Maria đã được Thánh Kinh loan
báo trong Cựu ước và hiện thực trong Tân ước.
Trong chương I, “Thánh Kinh Mạc Khải Sứ Vụ Của Đức Maria Trong Nhiệm Cục Cứu
Độ”, người viết đã trình bày dung mạo của Đức Maria được mạc khải tiệm tiến trong dòng lịch
sử. Với các bản văn Cựu ước, hình ảnh Đức Maria được sáng lên trong tư cách là người Đàn
Bà được tuyển chọn, gìn giữ và trang điểm bằng những ân sủng cao quý,... để có thể cộng tác
trong việc phục hồi nhân loại đã sa ngã do tội lỗi. Qua những lời tiên tri của các vị ngôn sứ,
hình ảnh Đức Maria càng ngày càng rõ nét hơn, từ sứ vụ phổ quát (x. St 3,15) đến những sứ vụ
đặc thù mà Mẹ được Thiên Chúa mời gọi cộng tác (x. Is 7,14; Mk 5,2). Điều này cho thấy rõ vị
thế quan trọng của Đức Maria trong công trình cứu độ nhân loại: Mẹ là Evà mới sẽ hạ sinh một
Nhân Loại Mới cho Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô - Người Con yêu quý của Mẹ. Sứ vụ của
Mẹ trong cuộc chiến chống lại sự dữ còn được tiếp tục loan báo qua những con người cụ thể,
là một vài phụ nữ Do Thái tiêu biểu, khi họ phải đối diện với những hoàn cảnh đau thương của
Dân Chúa. Chân dung của Mẹ được phác họa sâu sắc và sinh động hơn nơi những nhân vật
lịch sử cụ thể, đó là: bà Giôkhevét (x. Xh 12,37), bà Myriam (x. Xh 2,4-10; 15,20-21), bà
Giuđitha (x. Gđt 10,4), bà Đêbôra (x. Thp 5,7.24), bà Esther (x. Et 15,15), bà mẹ của bảy
người con anh hùng trong Macabê (x. 2Mcb 7,1-41)... Bên cạnh những con người cụ thể, Cựu
ước còn loan báo về Đức Maria qua các biểu tượng: con Tàu ông Noe, chiếc thang Giacob,
hòm Bia Giao ước, đền thờ Giêrusalem và núi Sinai. Như thế, Đức Maria đã thành toàn các lời
hứa trong Cựu ước, bởi vì mối thù truyền kiếp giữa người Đàn Bà và Satan được ứng nghiệm
nơi Mẹ, hay ít ra là qua Chúa Kitô - Dòng Giống của Mẹ, sẽ đạp nát đầu con rắn.
Nếu như Cựu ước cho người ta hình dung ra chân dung một người phụ nữ đầy can
đảm, thánh thiện, biết tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa... thì Tân ước, hình ảnh người
Đàn Bà được cụ thể, được hiện thực, trong và qua Đức Maria. Mẹ không chỉ là người Đàn
Bà trong St 3,15 nhưng còn là người Đàn Bà mà thánh Phaolô đã nói trong thư của ngài (x.
Gl 4,4). Ở đây thánh Phaolô nối kết giữa “Người Đàn Bà” trong Gl 4,4 và trong St 3,15, để
nhấn mạnh tính liên tục của mạc khải. Tuy nhiên, tất cả những lời loan báo trong quá khứ
đã được hiện tại hóa nơi biến cố Truyền tin (x. Lc 1,20-37): qua biến cố này, Đức Maria
cộng tác trực tiếp trong mầu nhiệm Nhập Thể và chính Mẹ cũng đã phải chịu những hệ lụy
từ sự vâng phục tự hạ của Con Thiên Chúa. Cụ thể, trong biến cố dâng Chúa Giêsu vào
105
Đền thánh: Mẹ được “Truyền tin” là sẽ bị lưỡi gươm đâm thâu lòng Mẹ (x. Lc 2,34-35).
Theo các nhà thần học, việc cộng tác của Đức Maria trong mầu nhiệm Nhập Thể, chỉ cách
cộng tác gián tiếp trong công cuộc Cứu chuộc của Chúa Cứu Thế. Yếu tố cộng tác trực tiếp
của Đức Maria phải kể đến: việc Đức Maria hiện diện dưới chân Thánh giá (x. Ga 19,25).
Ở trong cao điểm này, Đức Maria đã hiện diện một cách mật thiết trong “Giờ” hiến tế của
Chúa Kitô, để hiệp thông cứu chuộc với Con Ngài. Trên đồi Calvê, Mẹ Maria cùng với
Chúa Giêsu là Hy vật và là Hiến vật. Chúa hy hiến máu thân xác linh thánh Người cho
Chúa Cha, với tư cách là thầy Thượng tế của nhân loại. Mẹ Maria dâng hiến máu trái tim
trinh trong của Mẹ cũng cùng chủ đích cứu chuộc với Con Mẹ, với tư cách là Mẹ đồng
công với thầy cả Thượng phẩm. Trong viễn ảnh cánh chung, hình ảnh Đức Maria được
sáng lên trong dung mạo là người chiến đấu và chiến thắng trong cuộc chiến đấu và chiến
thắng của Chúa Kitô (x. Kh 12). Như thế, Thánh Kinh đã cho chúng ta những dữ liệu chắc
chắn minh chứng sự cộng tác mật thiết của Đức Maria trong việc đem lại ơn cứu độ cho
con người. Đây là nền tảng để các nhà thần học tuyên xưng Đức Maria là Đấng Đồng công
với Chúa Kitô trong tư cách là Tân Evà và là Mẹ Thiên Chúa.
Tiếp theo là chương II, “Lịch Sử Phát Triển ‘Giáo Lý’ Về Đức Maria Đồng Công
Trong Giáo Hội”. Được đặt nền trên ánh sáng Lời Chúa, các nhà thần học và các vị giáo
hoàng tiếp tục khẳng định vai trò độc nhất vô nhị của Đức Maria trong sứ vụ cứu chuộc của
Chúa Kitô. Trong ý nghĩa này, các ngài gọi Mẹ là Corredemptrix. Vì thế, thuật ngữ
Corredemptrix có một bề dày lịch sử, trong đó có những người ủng hộ và có cả những người
còn dè dặt. Trong phần đầu tiên của chương II, người viết ngược trở lại lịch sử để tìm hiểu về
nguồn gốc, ý nghĩa và cả những hiểu lầm có thể có. Tiếp đến trong dòng lịch sử, mỗi thời
đại, vai trò của Đức Maria được triển khai dưới một khía cạnh khác nhau nhưng vẫn kế thừa
những suy tư trước đó. Cụ thể: từ thế kỷ I đến thế kỷ VIII, điểm thần học chính yếu là “Đức
Maria tương phản với bà Evà”; từ thế kỷ IX đến thế kỷ XVI, vai trò của Đức Maria được
nhấn mạnh trong biến cố trên đồi Calvê; từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, giáo thuyết về Đức
Maria trong bối cảnh Tin lành... Đây là cả một khối dữ liệu vô cùng phong phú bênh vực cho
tước hiệu Corredemptrix. Chúng ta tin rằng: Chúa Thánh Thần luôn luôn hiện diện và hoạt
động trong lòng Giáo Hội. Chính Ngài khơi dậy cảm thức đức tin của tất cả mọi người thành
tâm thiện chí. Vì thế, rất có thể, đây là cảm thức đức tin trong Giáo Hội nhưng cũng được
nhiều vị giáo hoàng trong lịch sử bênh vực và xác tín. Vì tước hiệu Corredemptrix chưa được
Giáo Hội chính thức định tín, nên vẫn là cửa ngõ để các nhà thần học tiếp tục đào sâu suy tư.
Cuối cùng là chương III, “Đức Maria Đồng Công Trong Suy Tư Thần Học.” Phần
này được đặt nền trên các bản văn Thánh Kinh, huấn quyền của Giáo Hội, các nhà thần học
106
và các thánh. Trên nền tảng đó, người viết đi sâu vào phân tích những đặc nét riêng biệt
của Mẹ Maria trong sự liên kết với công trình của Chúa Kitô. Trong vai trò và đặc tính
đồng công của Đức Maria, các nhà thần học cho rằng: Đức Maria cộng tác vào ơn Cứu
chuộc khách quan và ơn Cứu chuộc chủ quan, bởi vì Đức Maria ưng thuận và hiến dâng
trong tư cách là Mẹ Chúa Kitô, đại diện loài người. Ngoài ra, các nhà chuyên môn còn đưa
ra những lý chứng để bênh vực cho sự hài hòa giữa vai trò đồng công của Đức Maria với
công trình của Chúa Kitô. Đức Maria cộng tác cách thể lý và luân lý; Đức Maria còn cộng
tác do lời cầu nguyện và công nghiệp của Mẹ,... Vì hai nguyên lý trong sứ mạng đồng công
của Đức Maria: Mẹ Chúa Cứu Thế và là Tân Evà, nên Mẹ có chỗ đứng đặc biệt trong công
trình cứu rỗi. Bởi vì, Chúa Kitô gồm tóm nhân loại trong Mẹ Maria và Mẹ Maria đóng vai
toàn thể loài người, Mẹ Maria khước từ quyền làm Mẹ trong sứ mạng đồng công. Tuy
nhiên, nếu như đau khổ và cái chết là do hậu quả của tội lỗi thì vấn nạn được đặt ra: vì Mẹ
được đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội nên Mẹ Maria có phải chịu khổ đau không?; Mẹ Maria
có thực sự đồng thụ nạn với Chúa?; và đâu là những cách thế Mẹ đồng thụ nạn ? Các nhà
thần học đều đồng thanh nhìn nhận: Mẹ không phải chịu đau khổ và cả cái chết, nhưng Mẹ
đón nhận để hiệp thông với Chúa Cứu Thế mà cứu chuộc nhân loại. Như thế, nền tảng
công trạng của Mẹ Maria hệ tại sự thánh thiện của Mẹ, việc việc tuân phục thánh ý của
Thiên Chúa và nhất là cộng tác mật thiết với Chúa Kitô trong suốt của cuộc đời của Ngài.
Như thế, qua những gì đã trình bày trong tiểu luận này, người viết thực sự muốn mời gọi
tất cả mọi người thành tâm thiện chí sống căn tính ơn gọi của người Kitô hữu, chiêm ngắm chân
dung người Mẹ vô cùng đáng mến, đáng biết ơn,... Mẹ không phải là một người xa lạ với chúng
ta, nhưng Mẹ thực sự là Mẹ của mỗi người. Mẹ yêu thương chúng ta vì chúng ta được cứu chuộc
bằng giá máu của Con Mẹ, bằng nước mắt và những khổ đau của Mẹ. Có lẽ ước muốn lớn nhất
của Mẹ là chúng ta được ơn cứu độ. Vì thế, chúng ta được mời gọi: hãy phó thác cuộc đời cho sự
chăm sóc từ mẫu của Mẹ. Hãy thực thi ba mệnh lệnh mà Mẹ muốn tại Fatima: Cải thiện đời
sống, lần hạt Mân Côi và dâng mình cho trái tim Mẹ. Chính đức giáo hoàng Piô XII đã xác
quyết: “Thực hiện ba Mệnh Lệnh Fatima là phương pháp cứu rỗi chắc chắn nhất.”612
Thật vậy, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh”
(1 Tx 4,3). “Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là
con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh
thiện” (Ep 4, 23-24). Như thế, lời mời gọi “hãy cải thiện đời sống” của Mẹ cần thiết hơn bất cứ
lúc nào. Bên cạnh đó, Mẹ còn mời gọi mọi người hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Chính thánh
Đaminh đã lãnh nhận sứ mệnh phổ biến việc lần hạt Mân Côi như một phương thế hiệu nghiệm
612 Trần Khắc Khoan, Học Thuyết Đức Trinh Nữ Maria: Để tìm hiểu Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ, tr. 306.
107
để cứu rỗi bản thân và thế giới.613 Danh từ “Mai Khôi/ Mân Côi” nghĩa là “Một Vòng Hoa
Hồng” hay “Một Triều Thiên Hoa Hồng”.614 Dù đặc điểm của Kinh Mân Côi hướng về Đức
Maria, nhưng trung tâm kinh nguyện này là chính Đức Kitô.615 Vì thế, trong lần hiện ra tại
Fatima, Đức Mẹ đã dạy chúng ta: “các phương dược cuối cùng được ban cho thế giới là Chuỗi
Mân Côi và lòng sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria.”616 “Với Kinh Mân Côi, các con sẽ
vượt thắng được mọi quấy rối mà Satan đang cố gắng gây ra cho Giáo Hội...”617 Đức cố hồng y
PhanxicôXaviê Nguyễn Văn Thuận cũng dạy: “Cầu nguyện qua lần chuỗi và đi đàng Thánh
Giá, tất cả những gì qua cách cầu nguyện đã phát triển trong sự trọn vẹn của đức tin Kitô, ngày
nay, chúng ta lại cần đến.”618 Xét trong chiều pháp lý, Giáo Hội cũng dạy cách riêng các tu sĩ:
“họ phải đặc biệt tôn kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa, là mẫu gương và là Đấng bảo
trợ đời thánh hiến, nhất là bằng việc lần chuỗi Mân Côi.”619
Cuối cùng trong lần hiện ra thứ ba vào ngày 13/7/1917, Đức Mẹ đã nói với ba
trẻ: “Để cứu rỗi những người tội lỗi, Thiên Chúa muốn thiết lập sự tôn sùng Trái Tim
Nguyên Tội của Bà trên khắp thế giới.”620 Thật vậy, tình thương của Mẹ Thiên Chúa,
vừa rất uy thế vừa rất nhân từ. Mẹ tràn trề tình thương cảm, Mẹ lại đầy uy thế hộ
phù.621 Sự tôn sùng Mẹ Maria là con đường chắc chắn nhất và ngắn nhất dẫn đưa
chúng ta đến cùng Chúa Giêsu cách cụ thể. Mặt khác, “Đức Mẹ là quản kho ơn phúc
trên Trời, là máng thông ơn Thiên Chúa, là gạch nối giữa Thiên Chúa và loài người,
là Nữ Vương Thiên Đàng và là Nữ Vương loài người.”622 Vì thế một lần nữa chúng ta
được mời gọi: hãy chiêm ngắm, phó thác cuộc đời cho Mẹ và noi gương bắt chước
Mẹ để cuộc đời chúng ta trở nên thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa...623
613 x. Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng, tr. 456. 614 x. Lm. Phêrô Hoàng Minh Tuấn CSsR, Cách Lần Hạt Theo Thánh Kinh. Lưu hành nội bộ, tr. 353. 615 x. ĐGH. Gioan Phaolô II, Tông Thư Kinh Mân Côi, số 1. 616 Lm. Phêrô Hoàng Minh Tuấn CSsR, Sđd.,tr. 357. 617 Sđd. 618 Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa Ở Gần Chúng Ta, tr. 160. 619 Bộ Giáo Luật 1983, bản dịch của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (Hà Nội: Tôn Giáo, 2006), đ. 663 § 4. 620 Lm. J. B. Nguyễn Hữu Thy, Sứ Điệp Fatima: kỷ niệm một trăm năm 1917-2017, tr. 101. 621 x. Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Sđd., tr. 303. 622 Trần Khắc Khoan, Học Thuyết Đức Trinh Nữ Maria: Để tìm hiểu Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ, tr. 307. 623 x. Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng, tr. 456.
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các bản dịch Thánh Kinh
Kinh Thánh ấn bản 2011. Bản dịch: Nhóm phiên dịch CGKPV. Hà Nội: Tôn Giáo, 2011.
Kinh Thánh Cựu Ước, 2 Tập. Bản dịch: Lm. Nguyễn Thế Thuấn.
Kinh Thánh Cựu Ước & Tân Ước:Lời Chúa cho mọi người. Bản dịch: Nhóm phiên dịch
CGKPV. Hà Nội: Tôn Giáo, 2006.
Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, 2 quyển. Bản dịch: CGKPV. Hà Nội: Tôn Giáo, 2008.
Các Giờ Kinh Phụng Vụ: phần chung lễ riêng. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, 2010.
2. Các Văn kiện Giáo Hội
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Bản dịch: ban Giáo Lý giáo phận Sài Gòn. TPHCM:
TPHCM, 1998.
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Bản dịch: Ủy ban Giáo lý Đức tin. Hà Nội: Tôn Giáo, 2016.
Công Đồng Vaticanô II. Bản dịch: Ủy ban Giáo lý đức tin. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.
Bộ Giáo Luật 1983. Bản dịch: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Hà Nội: Tôn Giáo, 2006.
Huấn Quyền về Đức Maria. Bản dịch: Lm. Augustinô Nguyễn văn Trinh. Hà Nội: Tôn Giáo,
2007.
Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội & Đức Maria Hồn Xác Lên Trời. Chuyển ngữ:
Lm. M. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh. Đồng Nai: Đồng Nai, 2017.
ĐGH. Gioan Phaolô II, Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến.Bản dịch của Phan Tấn Thành. Hà
Nội: Tôn Giáo, 2015.
Thánh Bộ Vaticanô Văn Phòng Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên Ngôn Dominus Ieus .Bản dịch:
Ủy ban Giáo lý đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Hà Nội: Tôn Giáo,
2013.
ĐGH. Gioan Phaolô II, Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria. Chuyển dịch: Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL.
ĐGH. Phaolô VI, Tông Huấn Signum Magnum ban hành 1967. Chuyển ngữ: Lm. Gioankim
Nguyễn Việt Châu, SSS.
Đức Phaolô VI, Tông Huấn Marialis Cultus, ban hành 02/02/1974. Không rõ người dịch.
ĐGH. Biển Đức XVI, Niềm Vui Đức Tin. Biên soạn: Phạm Đình Phước, S. D. B. Hà Nội:
Hồng Đức, 2013.
ĐGH. Gioan Phaolô II, Những Bài Huấn Giáo Về Đức Maria. Dịch giả: Lm. Phan Tấn
Thành, O.P, 1999.
109
ĐGH. Gioan Phaolô II, 70 Bài Giáo Lý Về Đức Maria. Chuyển ngữ: Lm Phêrô Nguyễn
Quang Sách. Lưu hành nội bộ.
ĐGH. Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe Salvi.Ban hành 30/11/2007. Bản dịch: Lm. Augustinô
Nguyễn Văn Trinh.
ĐGH. Gioan Phaolô II, Huấn từ của đức Gioan Phaolô II ngỏ với các linh mục. Bản dịch:
Lm. Phaolô Đậu Văn Hồng. Hồng Đức: Hà Nội, 2015.
3. Các Sách Tham Khảo Khác
Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. Cist, Thánh Mẫu Học. Học Viện Thần Học,
Hội Dòng Xitô, 2017.
Thiên Hựu Nguyễn Thành Thống, Đức trinh nữ Maria. Hà Nội: Tôn Giáo, 2009.
Felipe Gomer, S. J, Giáo Hội Học: Thần học tín lý. 2 Tập. An tôn & Đuốc sáng, 2002.
Nguyễn Chính Kết, Đối Thoại Tôn Giáo. Sài Gòn: 2005.
Tài liệu Thánh Mẫu học, Myriam - Thiếu Nữ Sion, 2003. Lưu hành Nội bộ
Judith A. Bauer, Sổ Tay Những Điều Cần Biết Về Đức Maria (The Essential Mary
Handbook). Missouri: Liguori, 1999. Chuyển ngữ: Matthias M. Ngọc Đính, CMC, 2004.
Phaolô Ngô Suốt, Gặp Gỡ Mẹ Maria, Năm đức tin 2012-2013. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.
Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng.
Lm. Gabriel Nguyễn Thái Sơn, O. Cist, Giảng Trình Thần Học Về Đức Trinh Nữ Maria.
Học Viện Thần Học Xitô, 2010-2011.
Raoul Plus, S. J. Đức Maria Trong Lịch Sử Thiên Chúa Cứu Độ. Chuyển ngữ: Giêrônimô
Maria.
Lm. Lê Phú Hải, O. M. I, Đức Maria-Tôn Sùng và Cầu Nguyện. Hà Nội: Tôn Giáo, 2014.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên, Đức Maria - Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể. Hà Nội: Tôn Giáo,
1999.
Lm. Nguyễn Văn Trinh, Thánh Mẫu học. 2005.
Đức hồng y James Cardinal Hickey, Đức Maria Dưới Chân Thánh Giá. Dịch giả: Đức
Giang, 1988.
Lm. Tanila Hoàng Đắc Ánh, Thần Học Về Đức Maria. Hà Nội: Tôn Giáo, 2008.
GS. Đaminh Phạm Xuân Uyển, S. D. B, Công Vụ-Các Thư Do Thái & Công Giáo-Khải
Huyền. Đồng Nai: Đồng Nai, 2015.
Phan Tấn Thành, O. P, Về Nguồn, tập 1-Nguồn gốc Kitô giáo & Thời các tông đồ. Nhà sách
Đức Bà Hòa Bình.
110
Guillaume De Menthière, Mẹ Maria -Trung tâm Công trình của Đức Chân Phước Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II. Chuyển ngữ: Lm. Gioankim Nguyễn Việt Châu, S. S. S. Hà Nội:
Tôn Giáo, 2011.
Lm. Anthony F. Chiffolo, 100 Danh Thánh của Mẹ Maria: Truyện và Kinh. Chuyển ngữ:
Matthias M. Ngọc Đính, C. M. C, 2003.
An-phong-sô Bốt-sa, S. M. M, Từ Điển Đức Mẹ. Dịch giả: Mát-thi-a M. Ngọc Đính, C.M.C.
1998.
Lm. Tôn Văn An, Suy Niệm Tin Mừng Với Đức Maria (Kinh Mân Côi). TPHCM: Phương
Đông, 2008.
Robert Pannet, Georges Bavaud và Bertrand de Margerie, Từ Điển Đức Maria. Dịch giả:
Vân Thúy. Nxb: C. L. D, 2008.
Thánh Anphong, Vinh Quang Đức Maria. Dịch giả: Phạm duy Lễ. Hà Nội: Tôn Giáo, 2006.
Radio Veritas, Bức Theo Chân Mẹ- Những bài suy niệm về Đức Maria của Đài chân lý Á
Châu.
Ban Việt Ngữ Đài Phát Thánh Chân Lý Á Châu, Lẽ Sống. Malina: Northern, 1991.
Norberto, Đức Maria Nữ Tỳ Của Thiên Chúa. Không rõ dịch giả. 2006.
Lm. Fx. Tân Yên, Kitô Học. TPHCM: Phương Đông, 2013.
Lm. Frederick M. Jelly, O. P, Tôn Sùng Đức Maria trong Thánh Truyền Công Giáo. Chuyển
ngữ: Gioan Baotixita Dũng Lạc Hồng Ân. New Orleans, 2001.
Đức hồng y Carlo Maria Martini, Đức Maria Ở Giữa Dân Người. Chuyển ngữ: Lm.
Montfort Phạm Quốc Huyên, O. Cist. Hà Nội: Tôn Giáo, 2013.
Đức hồng y Carlo Maria Martini, Con Đường Tin Mừng của Đức Maria. Chuyển ngữ: Lm.
Montfort Phạm Quốc Huyên, O. Cist. Hà Nội: Tôn Giáo, 2015.
Đức hồng y Carolo Maria Martini, Lời Hứa Đã Được Thực Hiện. Chuyển ngữ: Lm.
Montfort Phạm Quốc Huyên, O. Cist . Hà Nội: Tôn Giáo, 2015.
Lm. Nguyễn Ngọc Thế, S. J, Sứ Điệp Không Thể Lãng Quên-Bảy Di Ngôn Cuối Cùng Của
Chúa trên Thánh Giá. TPHCM: Phương Đông, 2016.
Basil Hume, Mầu Nhiệm Thập Giá. Chuyển ngữ: Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên, O. Cist.
Hà Nội: Tôn Giáo, 2015.
Jean Galot, S.J . Đấng Đầy Ơn Phúc-31 bài suy niệm về Đức Maria. Chuyển ngữ: Lm.
Bênađô, C. M. C. Hà Nội: Tôn Giáo, 2009.
Fr. Oscar Lukefahr, C. M, Ánh Sao Mai-Mẹ Chúa Giêsu & Mẹ Chúng Ta. Chuyển ngữ:
Thiên Minh.
Bernard Bro, Đức Maria Niềm Hy Vọng Của Thiên Chúa. Dịch giả: Vân Thúy. Nxb: Du
Cerf.
111
Maria Agrêđa, Thần Đô Huyền Nhiệm. Chuyển ngữ: Văn Hải. Sài Gòn, 2004.
John A. Hardon& tgk, Từ Điển Công Giáo Phổ Thông. Bản dịch: Nhóm Chánh Hưng.
TPHCM: Phương Đông, 2008.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, O.P, Magnificat. Học Viện Đaminh, 2010.
Karl Rahner, Maria Kẻ Đã Tin, Hà Nội: Tôn Giáo, 2004.
Lm. Phêrô M. Ngô Châu Minh, CMC, Mẹ Maria Đồng Công –Trung Gian-Trạng Sư.
Carthage: Regina, 2004.
Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ. Tập I & Tập II, 1998.
Hợp Tuyển Thần Học, số 46, năm XIX (2009). Hà Nội : Tôn Giáo, 2009.
Wayne Jacobsen & Clay Jacobsen, Tương Giao Đích Thật. Chuyển ngữ: Nguyễn Ngọc
Kính, O. F. M. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.
Samuel H. Canilang, C. M. F, “Hãy Đánh Thức Thế Giới”. Chuyển ngữ: Nt. Maria Vũ Thị
Thu Thủy. Hà Nội: Tôn Giáo, 2016.
Ủy ban Giáo lý đức tin thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, Từ Điển Công Giáo 500 mục
từ. Hà Nội: Tôn Giáo, 2011.
Lê Tiến, Đức Maria trong Phụng Vụ. Đmhv, 2002.
Lm. Inhaxiô Nguyễn Ngọc Rao, O. P, Các Sách Ngôn Sứ, 2006.
Lm. Bernard Phạm Quang, Tìm hiểu Các Sách Ngôn Sứ, 2 tập.
E. Neubert, Đức Maria trong Tín Lý. Chuyển ngữ: Lm. Bùi Quang Trung, 1952.
Scott Hahn, Bữa Tiệc Con Chiên- Thánh lễ là Thiên đàng tại thế. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.
Raoul Plus, S. J, Đức Maria Trong Lịch Sử Thiên Chúa Cứu Độ. Chuyển ngữ: Giêrônimô
Maria, 1932.
Antonio Bello, Đức Maria Thần Linh Và Nhân Loại. Pauline Books & Media, 2000
Lm. Mai Văn Hùng O. P, Chân Dung Đức Maria Trong Tin Mừng. 1995.
Anselm Grun O. S. B, Khủng Hoảng Tuổi Trung Niêm. 2003. Lưu hành nội bộ.
Lm. Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Mẹ Maria Trong Phụng Vụ Công Giáo. TP HCM, 2004.
Lm. J. B. Nguyễn Hữu Thy, Sứ Điệp Fatima: kỷ niệm 90 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima,t ái
bản lần thứ hai: 2011.
Đức cha Miguel Cabujos Vidate, Sứ điệp của Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria gửi các linh
mục. Chuyển ngữ: Lm. Tôn Văn An. TP HCM: Đông Phương, 2008.
Sr. Thérèse, Tình Yêu và Hy sinh. Chuyển ngữ: Nữ Biển Đức.
Lm. Thiện Cẩm, Niềm Tin Thao Thức. Đức Tin & Văn Hóa.
Lm. Hồng Phúc, CSsR. Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo (1996)
Dom Godefroid Bélorgey, Dưới ánh nhìn của Thiên Chúa. Chuyển ngữ: FM. Martin Phạm
Thanh Toàn, O. Cist. Đan viện Xitô T.M. Phước Vĩnh, 2015.
112
Basil Hume, O. S. B, Tìm Kiếm Thiên Chúa. Hà Nội: Tôn Giáo, 2009. Chuyển ngữ: Lm.
Montfort Phạm Quốc Huyên, O. Cist.
Stanislaw Dziwisz & tgk, Cứ Để Tôi Đi Về Nhà Cha (ĐGH. Gioan Phaolô II). Chuyển ngữ:
Học Viện Đa Minh, 2014.
Joseph Ratzinger Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, Kitô hữu có nghĩa là gì: Ba bài giảng,
chuyển ngữ: Nt. Têrêsa Nguyễn Thị Kim Phúc, MTGGV. Hà Nội: Tôn Giáo, 2013.
Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy
Vọng, 1995.
Jean Khoury, Lectio Divina: Học Với Mẹ Maria. Chuyển ngữ: Fr. Marie Bảo Tịnh, O. Cist.
Hà Nội: Tôn Giáo, 2010.
Gm. Robert H. Brom& tgk, Hộ Giáo 2: Sách bỏ túi của người Kitô hữu.
Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Đức Giêsu Thành Nazareth: Phần III, Thời thơ ấu
của Đức Giêsu. Bản dịch: Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh. Hà Nội: Tôn Giáo, 2013.
George A. Maloney, S. J, Thưa Ngôn Sứ Xin Lắng Nghe. TPHCM: PhươngĐông, 2009, bản
dịch của Matthias M. Ngọc Đính, C. M. C.
Jacques Philippe, Lòng Thương Xót Đích Thực: Đức Maria, Sự tha thứ & Niềm tín thác.
TPHCM: Phương Đông, 2016, bản dịch: Lm. Minh Anh (Gp. Huế).
Francis Fernander, Đối Thoại Với Thiên Chúa: Những bài suy niệm hằng ngày.Không rõ
người dịch.
Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế. Hà Nội: Tôn Giáo, 2011.
Chuyển ngữ: Phạm Hồng Lam.
John Man, O. S. B, Khoảnh Khắc Của Chúa Kitô: Học biết để suy niệm. Không rõ người
dịch.
Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hạt Giống Chiêm Niệm số 18: Say mê Thiên Chúa.
2016.
Lm. Đaminh Nguyễn Hữu Cường, O. P, Bí Tích Truyền Chức Thánh. Học Viện Thần Học
Xitô, 2017. Lưu hành nội bộ.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành & tgk, Đức Giêsu Với Cái Chết.
Joseph Ratzinger ĐGH. Bênêđictô XVI, Thiên Chúa Ở Gần Chúng Ta. TPHCM: Phương
Đông, 2008. Bản dịch: Nguyễn Luật Khoa, O. F. M.
Lm. Gardell, O. P, Đức Kitô Là Tất Cả. Hà Nội: Tôn Giáo, 2009. Bản dịch: Lm. An Sơn Vị.
Vinh Sơn Quang Huy, Sống Với Đức Kitô Như Được Trình Bày Trong Tin Mừng. Hà Nội:
Tôn Giáo, 2013.
Trần Khắc Khoan, Học Thuyết Đức Trinh Nữ Maria: Để tìm hiểu Đức Mẹ và yêu mến Đức
Mẹ.
113
Lm. Phêrô Hoàng Minh Tuấn CSsR, Cách Lần Hạt Theo Thánh Kinh. Lưu hành nội bộ.
Lm. J. B. Nguyễn Hữu Thy, Sứ Điệp Fatima: kỷ niệm một trăm năm 1917-2017. Trier, 2017.
Norberto Nguyễn Văn Khanh, O. F. M, Đức Giêsu Kitô: Ngôi Lời Nhập Thể. TPHCM: Tổng
Hợp, 2014.
Lm. Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria trong Kinh nguyện của Giáo Hội. Trier, 2006.
Gieo bước hành trình Abraham, Môsê, người Tôi Trung Isaia & Đức Maria. Tuyển dịch:
Phêrô Nguyễn Quí Khôi. TPHCM: Hồng Đức, 2015.
Jan G. Bovenmars, M. S. C, Linh Đạo Trái Tim Theo Thánh Kinh. Chuyển ngữ: Lm.
Montfort Phạm Quốc Huyên, O. C. Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Phước Thiên, 2015.
Carrol Stuhlmueller, C. P, Từ Điển Thần Học Thánh Kinh Dùng Cho Mục Vụ. Chuyển ngữ:
Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên, O. C.
Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, 1993.
4. Tài liệu điện tử (CD-ROM)
Sr. Tichla Trần Thị Giồng, C. N. D, “Tâm Lý Học-Trưởng Thành Nhân Cách Đời Tu” Học
Viện Thần Học Cở Sở II, 2017 [CD-ROM].
Lm. Nguyễn Thể Hiện, “Sách Các Ngôn Sứ” CSsR, Học Viện Thần Học Xitô, 2015 [CD-
ROM].
Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh O. C, “Thánh Mẫu Học”, Học Viện Thần Học
Xitô, 2016 [CD-ROM].
Lm. Micae Trần Đình Quảng, “Bài Giảng Tĩnh Tâm”, Đan Viện Châu Sơn, 2017 [CD-
ROM].
Lm. Luca Đỗ Duy Khang, “Tin Mừng Luca”,Học Viện Thần Học Xitô, 2015 [CD-ROM].
Lm. Đaminh Nguyễn Hữu Cường, O. P, “Bí Tích Truyền Chức Thánh”, Học Viện Thần Học
Xitô, 2017 [CD-ROM].
5. Tài liệu trên mạng
Thông báo thay đổi tên Dòng-Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc-CRM, https://dongcong.us/thong-
bao-thay-doi-ten-dong-dong-me-chua-cuu-chuoc-crm/. Truy cập ngày 15/11/2017.