BÁO CÁO -CP ngày 07/7/2014xml18.quangtri.gov.vn/xml_snnnt/VBDI/296.pdflượng, thu nhập đời...
Transcript of BÁO CÁO -CP ngày 07/7/2014xml18.quangtri.gov.vn/xml_snnnt/VBDI/296.pdflượng, thu nhập đời...
UBND TỈNH QUẢNG TRỊ
SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: /BC-SNN Quảng Trị, ngày tháng năm 2020
BÁO CÁO
Kết quả thực hiện Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính
phủ về một số chính sách phát triển thủy sản
Thực hiện công văn số 4212/UBND-NN ngày 16/9/2020 của UBND tỉnh
và công văn số 6312/BNN-TCTS ngày 14/9/2020 về việc báo cáo tình hình thực
hiện Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính
sách phát triển thủy sản, Sở Nông Nghiệp và PTNT báo cáo kết quả như sau:
I. Kết quả thực hiện:
1. Chính sách đầu tư (tên các dự án đầu tư/ tổng mức đầu tư/ kinh phí bố
trí và kinh phí giải ngân): Chưa có dự án đầu tư
2. Chính sách tín dụng:
- Chính sách đóng mới:
+ Đóng mới: đã tiến hành đóng mới 25 tàu cá (chỉ tiêu 32 tàu) , trong đó
17 chiếc vỏ thép, 01 chiếc vỏ Composite và 07 chiếc vỏ gỗ. Trong 25 tàu được
đóng mới có 01 chiếc đóng mới theo Quyết định số 47/2016/QĐ-TTg.
+ Nâng cấp: Đã tiến hành nâng cấp được 93 tàu.
- Tình hình trả nợ:
+ Đối với tàu đóng mới: cho vay 339.335 tỷ đồng, đã trả nợ: 28.135 tỷ
đồng, nợ quá hạn: 21.892 tỷ đồng và 154.478 tỷ nợ xấu.
( có phụ lục kèm theo)
+ Đối với tàu nâng cấp: Cho vay vốn 112.095 tỷ đồng đã trả nợ 37.445 tỷ
đồng, các tàu cá trả nợ đúng hạn chưa có nợ xấu.
3. Ngân hàng tham gia cho vay vốn đóng mới, nâng cấp như sau:
+ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Quảng Trị cho vay: 11 chiếc
tàu đóng mới (08 tàu vỏ thép, 01 tàu vỏ Composite và 02 tàu vỏ gỗ) và 09 tàu
nâng cấp.
+ Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Chi nhánh Quảng Trị cho vay: 13
chiếc tàu đóng mới (09 tàu vỏ thép và 05 tàu vỏ gỗ) và 71 tàu nâng cấp
+ Ngân hàng Ngoại Thương cho vay: 08 tàu nâng cấp.
+ Ngân hàng Công Thương cho vay: 05 tàu nâng cấp.
Trong 25 tàu đóng mới, có 01 tàu vỏ thép thực hiện chính sách đóng mới
hỗ trợ theo Quyết định 47/QĐ-TTg.
4. Các địa phương thực hiện đóng mới, nâng cấp như sau:
2
STT Huyện Đóng mới
( chiếc)
Ghi chú
Vỏ Thép Vỏ gỗ Composite
I Vĩnh Linh 03
1 TT Cửa Tùng 03
II Gio Linh 17 03 01
1 Xã Gio Việt 01 8
2 TT Cửa Việt 10 03 01 70
3 Xã Gio Hải 03 7
4 Xã Trung Giang 03 1
III Triệu Phong 01
1 Xã Triệu An 01 7
Tổng cộng 17 07 01 93
5. Chất lượng tàu cá đóng mới và nâng cấp
5.1. Đối với tàu đóng mới
- Tàu cá vỏ thép: Toàn tỉnh đã đóng mới được 17 tàu cá vỏ thép và đã
đưa vào hoạt động 17 tàu, về chất lượng vỏ tàu bảo đảm phù hợp với tiêu chuẩn.
- Tàu cá vỏ Composite: đã đóng mới 01 tàu cá vỏ Coppsite, nghề lưới vây.
Đến nay, đã đưa vào hoạt động, chất lượng đảm bảo phù hợp với tiêu chuẩn.
- Tàu cá vỏ gỗ: Toàn tỉnh đóng mới 07 tàu, chất lượng bảo đảm đúng thiết
kế và qui phạm yêu cầu.
5.2. Chất lượng và nội dung nâng cấp tàu cá
Thực hiện chính sách nâng cấp tàu cá, hầu hết 93 tàu cá thực hiện nội
dung nâng cấp; trang bị, đầu tư ngư lưới cụ để bảo đảm khai thác xa bờ hơn; cải
tiến lưới phù hợp với ngư trường và tàu thuyền nên hiệu quả khai thác cao hơn;
đầu tư, trang bị các thiết bị máy hàng hải phục vụ cho việc dò tìm đàn cá, thông
tin liên lạc, giám sát lưới...đã phát huy hiệu quả. Các nội dung nâng cấp được
trang bị đầu tư mới nên bảo đảm chất lượng, phục vụ có hiệu quả trong khai thác
thủy sản.
6. Đánh giá hiệu quả sản xuất:
- Tàu vỏ thép:
+ Đối với nghề lưới rê: đã đưa vào hoạt động 05 chiếc, thời gian hoạt
động từ 9 tháng đến 12 tháng, với kết quả: vụ cá Bắc là vụ mùa chính khai thác
cá thu, cho hiệu quả kinh tế cao; vụ cá Nam là mùa phụ, sản phẩm chủ yếu là cá
ngừ sọc dưa, ngư dân chủ yếu đi khai thác vùng biển xa dài ngày, chất lượng sản
phẩm không cao, giá sản phẩm thấp nên hiệu quả chưa cao.
3
+ Đối với nghề lưới vây: Đây là nghề khai thác thuỷ sản mang tính chủ
động, sử dụng kỹ thuật cao, số lượng lao động nhiều và chi phí chuyến biển cao.
Đến nay đã đưa vào hoạt động 07 chiếc, trong vụ cá Nam đã cho hiệu quả. Tuy
nhiên, vụ cá Bắc do ảnh hưởng thời tiết nên hiệu quả khai thác chưa cao.
+ Đối với nghề Lưới chụp: đến nay đã có 05 chiếc tàu cá vỏ thép lưới
chụp vẫn hoạt động sản xuất bình thường, vụ cá Nam các tàu cá hoạt động ở ngư
trường Hoàng sa có hiệu quả, tuy nhiên hoạt động ở các ngư trường Hoàng sa
thiết bị giám sát hành trình thông báo vi phạm vùng biển nên khó khăn trong
hoạt động.
- Tàu cá vỏ gỗ:
Hầu hết các tàu đã khai thác, sử dụng các trang thiết bị máy móc thành
thạo và bước đầu có hiệu quả.
- Tình hình hoạt động của tàu cá: thời gian qua Sở Nông nghiệp và PTNT
đã phối hợp với các ngành liên quan và chính quyền địa phương đã hướng dẫn
các chủ tàu về qui định khai thác, bảo quản ngư lưới cụ; bảo quản sản phẩm;
duy tu, sửa chữa định kỳ; công tác chuyển đổi nghề; hướng dẫn về ngư trường
hoạt động... cho đến nay toàn tỉnh có 25 tàu đưa vào hoạt động, chưa có hiện
tượng tàu hoạt động kém hiệu quả phải nằm bờ. Tuy nhiên, có tàu ông Đinh Văn
Trinh có số đăng ký QT-93377-TS, vỏ gỗ đang khai thác trên biển bị sự cố hàng
hải bốc cháy hoàn toàn.
(có phụ lục kèm theo)
8. Chính sách duy tu, sửa chữa định kỳ:
- Năm 2018 đã có 16 chiếc thực hiện chính sách duy tu, sửa chữa định kỳ,
với số tiền hỗ trợ: 1.401.312.000đ;
- Năm 2019, đã có 16 chiếc thực hiện chính sách duy tu, sửa chữa định
kỳ, với số tiền hỗ trợ: 1.692.448.000đ;
- Năm 2020, Sở Nông nghiệp và PTNT tiếp tục hướng dẫn các chủ tàu vỏ
thép thực hiện duy tu, sửa chữa đúng quy định.
9. Chính sách bảo hiểm tàu cá: Hàng năm đã hỗ trợ bảo hiểm thân tàu và
thuyền viên giúp ngư dân yên tâm bám biển hơn, với kết quả hỗ trợ như sau:
- Năm 2015: hỗ trợ bảo hiểm thân tàu: 90 chiếc; bảo hiểm tai nạn thuyền
viên: 766 người, với số tiền: 1.627.929.684đ.
- Năm 2016: hỗ trợ bảo hiểm thân tàu: 114 chiếc; bảo hiểm tai nạn thuyền
viên: 934 người, với số tiền: 5.573.524.867đ.
- Năm 2017: hỗ trợ bảo hiểm thân tàu: 135 chiếc; bảo hiểm tai nạn thuyền
viên: 1306 người, với số tiền: 6.944.276.680đ.
- Năm 2018: hỗ trợ bảo hiểm thân tàu: 59 chiếc; bảo hiểm tai nạn thuyền
viên: 563 người , với số tiền: 872.810.875.000đ.
- Năm 2019: đã hỗ trợ bảo hiểm thân tàu cho 56 chiếc; bảo hiểm tai nạn
thuyền viên: 595 người, với số tiền: 978.266.440đ
- Năm 2020: đã hỗ trợ bảo hiểm thân tàu cho 18 chiếc; bảo hiểm tai nạn
thuyền viên: 191 người, với số tiền: 374.119.813đ
4
10. Kết quả triển khai thực hiện hỗ trợ một lần sau đầu tư theo Quyết định
số 47/2016/QĐ-TTg:
+ Số lượng tàu: 01 chiếc;
+ Tổng kinh phí hỗ trợ: 6.401,36 triệu đồng.
11. Tình hình triển khai thực hiện Nghị định số 17/2018/NĐ-CP ngày
02/2/2018 của Chính phủ:
Sau khi có Nghị định 17/2018/NĐ-CP, Sở Nông nghiệp và PTNT đã tổ
chức triển khai thực hiện đến với chính quyền địa phương và ngư dân, tuy nhiên
đến nay vẫn chưa có ngư dân đăng ký thực hiện theo chính sách hỗ trợ một lần
sau đầu tư đóng mới tàu cá.
II. Đánh giá chung về kết quả
1. Mặt được:
Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số
chính sách phát triển thủy sản là chính sách lớn phù hợp với nguyện vọng của
ngư dân, tạo động lực phát triển thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Thúc đẩy mạnh hoạt động khai thác hải sản xa bờ, nâng cao năng suất, sản
lượng, thu nhập đời sống ngư dân và tăng cường bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển đảo của Tổ quốc.
Đây là chính sách phát triển thủy sản mang tính đột phá và khá toàn diện
được triển khai một cách đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả nhằm khai thác tốt tiền
năng thế mạnh về kinh tế biển của địa phương. Nhất là đẩy mạnh phát triển khai
thác hải sản xa bờ và từng bước hoàn thiện các cơ sở hạ tầng nghề cá của tỉnh
như cảng cá và Khu neo đậu tránh trú bão Cửa Tùng, Cửa Việt, cảng cá và khu
dịch vụ hậu cần nghề cá đảo Cồn Cỏ. Đồng thời đã hình thành và phát triển các
cơ sở đóng sửa chữa tàu thuyền để kịp thời triển khai đóng mới, nâng cấp tàu cá
cho bà con ngư dân trong tỉnh, nhất là đóng tàu vỏ thép công suất lớn 400CV và
tàu vỏ gỗ được trang bị đồng bộ đưa vào khai thác thủy hải sản góp phần nâng
cao hiệu quả và phát triển theo hướng bền vũng.
Đồng thời, việc thực hiện chính sách phát triển thủy sản đã tạo động lực
khuyến khích bà con ngư dân và các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát
triển thủy sản, nhất là tăng nhanh năng lực đội tàu cá khai thác hải sản xa bờ,
nhiều tàu công suất lớn, vỏ thép và có trang bị hiện đại được ngư dân mạnh dạn
đầu tư và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng, giá trị sản
phẩm sau thu hoạch, nhất là sản lượng hải sản xuất khẩu ngày càng tăng.
Nhiều hộ ngư dân đã tích cực tham gia đóng mới, nâng cấp tàu cá để hoạt
động xa bờ, giảm dần tàu cá có công suất nhỏ hoạt động ven bờ đã góp phần
giảm áp lực khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản vùng biển ven bờ. Từng bước
thực hiện tái cơ cấu lại đội tàu theo hướng tăng phát triển khai thác xa bờ, tổ
chức lại hoạt động khai thác hải sản theo mô hình tổ, đội sản xuất trên biển và
góp phần nâng cao đời sống của bà con ngư dân vùng biển.
Hiện nay, đã có 93 tàu nâng cấp có công suất trên 400cv, trang bị thiết bị
khai thác hiện đại như: máy dò ngang...nâng cấp cải tiến ngư cụ, gia cố vỏ tàu để
tham gia vươn khơi bám biển nâng cao hiệu quả kinh tế hơn, đảm bảo an toàn
5
cho tàu cá và người lao động khi bám biển trên các vùng biển xa; tạo thuận lợi
tìm kiếm các ngư trường mới, tham gia bám biển dài ngày hơn, tạo được tin thần
vươn khơi bám biển, bảo vệ được biển đảo quê hương.
2. Những khó khăn, vướng mắc
- Về cơ sở hạ tầng nghề cá vùng biển: Vùng Cửa Việt, Cửa Tùng là
những trung tâm nghề cá lớn của tỉnh, số lượng tàu cá tăng nhanh, nhất là tàu cá
xa bờ có công suất và kích thước lớn, trước tình hình tình hình bồi lấp của sông
ở cửa biển rất nghiêm trọng, nhất là vùng cửa Tùng tàu thuyền đi lại khó khăn
nguy hiểm, nhiều tàu công suất lớn, tàu vỏ thép không ra vào được và cảng cá
đã xây dựng trước đây chưa đáp ứng với sự phát triển tàu cá nên ảnh hưởng đến
quá trình cập cảng cá bốc dỡ sản phẩm, lấy nhiên liệu, đá lạnh…
- Ngày 02/2/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2018/NĐ-CP sửa
đổi Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, có chính sách hỗ trợ một lần sau đầu tư, tuy
nhiên qua quá trình triển khai đến nay vẫn chưa có chủ tàu đăng ký thực hiện, do
số lượng vốn bỏ ra cao, nhà nước hỗ trợ gần 1/3 tuy nhiên người dân vẫn không
có đủ khả năng để thực hiện.
- Thời hạn cho vay vốn đối với tàu đóng mới và nâng cấp được điều chỉnh
thời gian cho vay tối đa là 11 năm đối với tàu đóng mới vỏ gỗ hoặc nâng cấp và
tối đa là 16 năm đối với tàu đóng mới bằng vỏ thép hoặc vật liệu mới như vậy đã
giảm áp lực thời gian trả nợ cho khối tàu vỏ thép và vật liệu mới, phù hợp với
nguyện vọng của ngư dân, tuy nhiên thời gian qua ngư dân vẫn khó trả nợ đúng
hạn kính đề nghị Chính phủ xem xét.
- Thời gian qua các tàu đưa vào hoạt động nhưng do thiết kế đơn nghề nên
chỉ hoạt động có hiệu quả được trong mùa chính, mùa phụ chưa có hiệu quả.
Thực hiện hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và PTNT, Sở Nông nghiệp và PTNT
đã tham mưu UBD tỉnh hướng dẫn thực hiện chuyển đổi nghề, kiêm nghề cho
ngư dân nhưng trong quá trình triển khai gặp một số khó khăn như vốn đầu tư.
- Đối với tàu khai thác nghề lưới rê: vụ cá Nam chủ yếu khai thác cá ngừ,
ngư trường khai thác chính là vùng biển Hoàng Sa cho hiệu quả kinh tế chưa cao
do một số nguyên nhân sau: (1) Nguồn lợi cá thu trong vụ cá Nam xuất hiện ít
(không phải chính vụ); (2) vụ cá Nam chủ yếu đánh bắt cá ngừ sọc dưa nên giá
cá thấp; (3) vụ cá Nam ngư dân chủ yếu đi khai thác ở vùng biển xa thời gian
dài dẫn đến chất lượng thấp. (4) Tình hình an ninh ngư trường phức tạp, nhất là
vùng biển xa; (5) chi phí chuyến biển khai thác trên vùng biển xa rất cao; (6)
trong vụ cá Nam nghề lưới rê thường dành thời gian 01 tháng để sửa chữa, duy
tu ngư lưới cụ và tàu thuyền nên trong thời gian này tàu thuyền ở nhà.
- Đối với tàu khai thác nghề lưới vây: gặp một số khó khăn như: (1)
những năm gần đây nguồn lợi cá nỗi xuất hiện muộn và chưa nhiều; (2) Chi phí
cho một chuyến biển quá cao; (3) Nghề lưới vây sản phẩm thu được là cá nục là
chủ yếu, tuy nhiên thời gian qua Trung Quốc thực hiện thay đổi một số chính
sách nhập khẩu nên ảnh hưởng đến các cơ sở thu mua, chế biến của Việt Nam,
trong đó có tỉnh Quảng Trị dẫn đến giá cá sau khi khai thác thấp; (4) Vụ khai
thác chính chủ yếu vụ cá Nam, trong khi từ tháng 10 đến tháng 12 ảnh hưởng
thời tiết gió mùa đông bắc, không khí lạnh nên các tàu chủ yếu ở nhà thực hiện
6
công tác duy tu, sửa chữa không đi sản xuất; (5) thực hiện Luật Thủy sản năm
2017, đồng thời thực hiện các biện pháp chống khai thác bất hợp pháp nên ngư
trường khai thác ở các vùng biển xa, một số ngư trường khai thác có hiệu quả
trước đây bị thu hẹp.
- Hiện nay, Hiệp định Hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa (Hiệp định) được ký kết ngày 25/12/2000, Hiệp định đã hết hiệu
lực, Giấy phép đánh bắt trong Vùng đánh cá Chung vịnh Bắc Bộ được cấp năm
2019-2020 cũng đã hết hiệu lực vào ngày 30/6/2020, theo đó Vùng đánh cá
chung và vùng đệm cho tàu cá nhỏ được thiết lập theo quy định của Hiệp định
cũng hết hiệu lực, Trong khi đó tàu cá tỉnh tra lâu nay ngư trường khai thác ở
Vịnh Bắc Bộ là ngư trường truyền thống, trọng điểm, sang hoạt động đánh cá ở
phía Đông đường kinh tuyến là vi phạm phạm vùng biển Trung Quốc nên bà con
gặp không ít khó khăn.
- Sau khi các tàu lắp đặt thiết bị giám sát hành trình, qua hệ thống giám
sát tàu cá này, ngư trường khai thác truyền thống của ngư dân Quảng Trị bị hạn
chế lại, tàu ra khai thác ở ngư trường khai thác ở vùng biển xa hệ thống giám
sát báo tàu bị vượt ranh giới, khai thác bất hợp pháp.
- Về phía Ngân hàng thương mại hiện nay cũng chưa có công cụ quản lý
doanh thu khai thác của các chủ tàu nên không thể xác định được tính chính xác
của việc khai báo doanh thu khai thác được nên chưa chủ động được công tác
thu nợ.
III. Đề xuất những giải pháp tháo gỡ.
- Về cơ sở hạ tầng: Do đó cần phải tăng cường đầu tư nâng cấp hoàn thiện
hệ thống cơ sở hạ tầng nghề cá nhất là cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, cơ sở
đóng sửa tàu thuyền. Đề nghị bổ sung vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai
đoạn 2016-2020 Khu neo đậu tránh trú bão kết hợp cảng cá Bắc Cửa Việt, nâng
cấp mở rộng Khu neo đậu tránh trú bão Cồn Cỏ từ cấp tỉnh lên cấp vùng để đáp
ứng với tình hình nhiệm vụ mới. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng vùng biển,
nạo vét luồng lạch, bố trí các công trình phù hợp, tăng cường điện sản xuất,
đường giao thông để phục vụ tốt công tác phát triển thủy sản.
- Để khai thác được quanh năm, tăng thu nhập, kính đề nghị Bộ Nông
nghiệp và PTNT có chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề, kiêm nghề.
- Đề nghị Ngân hàng thương mại xem xét điều chỉnh cơ cấu lịch trả nợ
hợp lý, cơ cấu khoản vay để tránh nợ xấu, nhất là tàu cá vỏ thép.
- Quan tâm đến tình hình an ninh trên biển Đông để ngư dân yên tâm bám
biển khai thác và kết hợp bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam.
- Thực hiện tốt Luật Thủy sản năm 2017 và các văn bản hướng dẫn Luật,
nhất là các biện pháp nhằm thảo gỡ “thẻ vàng” của EC đối với thủy sản Việt
Nam; đồng thời thực hiện tốt truy suất nguồn gốc thủy sản khai thác để tạo thuận
lợi cho các doanh nghiệp nhập khẩu thủy sản vào các nước trong liên minh Châu
Âu và các nước có yêu cầu.
7
- Đề nghị Bộ Nông nghiệp và PTNT cung cấp cho địa phương bản đồ
phân định ranh giới vùng biển Việt Nam và các nước để thông tin cho ngư dân
biết không vi phạm vùng biển nước ngoài khai thác thủy sản trái phép và giám
sát phát hiện xử lý kịp thời các tàu cá vi phạm. Đồng thời, có cơ sở khuyến
khích tàu thuyền tham gia khai thác trên các ngư trường có nguồn lợi cao, ngư
dân khai thác truyền thống lâu nay, tuy nhiên các ngư trường nay chưa phân
định rõ ràng.
- Đề nghị các Ngân hàng thương mại chủ động hơn trong công tác thu nợ
theo hợp đồng và phân bổ lịch trả nợ theo mùa vụ, ví dụ như trong mùa chính vụ
cơ cấu trả nợ cao hơn nhưng trong mùa phụ trả nợ giảm xuống để phù hợp với
tình hình sản xuất của ngư dân.
Vậy, Sở Nông nghiệp và PTNT kính báo cáo Bộ Nông nghiệp và PTNT./.
Nơi nhận:
- Bộ Nông nghiệp và PTNT ( b/c);
- Tổng cục Thủy sản (b/c); - UBND tỉnh (để b/c);
- Chi cục Thuỷ sản;
- Lưu: VT.
KT. GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
Nguyễn Văn Huân