Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG...

70
BỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc –––––––––––––––––––––––– BẢN THUYẾT MINH CHI TIẾT DỰ THẢO LUẬT QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG 1.1. Bối cảnh quốc tế và thực trạng quản lý hoạt động ngoại thương ở Việt Nam 1.1.1. Bối cảnh quốc tế Hệ thống pháp luật hiện hành về thương mại nói chung và về ngoại thương nói riêng chủ yếu được thiết kế, xây dựng trong bối cảnh Việt Nam đang “chạy nước rút” trong việc gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Trong bối cảnh đó, việc xây dựng và ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật vừa phải đảm bảo đồng thời hai mục tiêu là xây dựng một bước thể chế kinh tế thị trường vừa đảm bảo phù hợp với các nguyên tắc và quy định của pháp luật quốc tế. Điều này đã làm tăng khó khăn cho các cơ quan chủ trì soạn thảo các văn bản pháp luật trong việc tiên liệu các bước phát triển của nền kinh tế Việt Nam khi hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới cũng như những biến đổi của hệ thống kinh tế, thương mại toàn cầu… và làm phát sinh những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành. Để quá trình gia nhập WTO gặp ít trở ngại cũng như ít sự phản đối của các nước thành viên, hệ thống pháp luật thương mại đã được nghiên cứu, xây dựng 1 DỰ THẢO 25/4/201

Transcript of Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG...

Page 1: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

BỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc––––––––––––––––––––––––

BẢN THUYẾT MINH CHI TIẾT

DỰ THẢO LUẬT QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG

1.1. Bối cảnh quốc tế và thực trạng quản lý hoạt động ngoại thương ở Việt Nam

1.1.1. Bối cảnh quốc tế

Hệ thống pháp luật hiện hành về thương mại nói chung và về ngoại thương nói riêng chủ yếu được thiết kế, xây dựng trong bối cảnh Việt Nam đang “chạy nước rút” trong việc gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Trong bối cảnh đó, việc xây dựng và ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật vừa phải đảm bảo đồng thời hai mục tiêu là xây dựng một bước thể chế kinh tế thị trường vừa đảm bảo phù hợp với các nguyên tắc và quy định của pháp luật quốc tế. Điều này đã làm tăng khó khăn cho các cơ quan chủ trì soạn thảo các văn bản pháp luật trong việc tiên liệu các bước phát triển của nền kinh tế Việt Nam khi hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới cũng như những biến đổi của hệ thống kinh tế, thương mại toàn cầu… và làm phát sinh những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành.

Để quá trình gia nhập WTO gặp ít trở ngại cũng như ít sự phản đối của các nước thành viên, hệ thống pháp luật thương mại đã được nghiên cứu, xây dựng trong sức ép về tự do hóa thương mại, giảm thiểu can thiệp của các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó, sau 10 năm triển khai thực thi, hàng loạt các quy định của pháp luật về thương mại đã không còn mang tính thời sự thậm chí chưa cập nhật so với hiện thực và xu hướng của thương mại quốc tế. Sự thiếu cập nhật đó được chứng tỏ rõ nét nhất trong các xu hướng chủ đạo hiện nay như sau:

(i) Vòng đàm phán Doha chưa có nhiều tiến triển kể từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO. Điều này cho thấy xu hướng thương mại đa phương đang đi tới một điểm quan trọng: mở rộng hơn nữa hay chững lại của các quan hệ thương mại đa phương mang tính chất toàn cầu.

1

DỰ THẢO25/4/2016

Page 2: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

(ii) Sự gia tăng, phát triển nhanh chóng của các Hiệp định thương mại song phương, khu vực mà Việt Nam là thành viên trong đó nổi bật lên là Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), giữa ASEAN và một số đối tác thương mại quan trọng (ASEAN – Trung Quốc, Úc Newzealand, Hàn quốc, Nhật Bản…tiến tới với Ấn Độ, EU…), và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Theo đó, việc Việt Nam cam kết mở cửa hơn nữa thị trường cho một số đối tác cũng dẫn đến những thay đổi đáng kể trong cơ cấu xuất nhập khẩu, chính sách thương mại cũng như trong công tác quản lý nhà nước so với những gì đã thực hiện trong khuôn khổ WTO.

(iii) Sự bắt đầu chủ động của Việt Nam trong việc sử dụng các biện pháp, thiết chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Tổ chức thương mại quốc tế, Hiệp định thương mại đa phương, song phương. Cùng với đó, Việt Nam cũng đang tích cực tham gia các công ước quốc tế liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế, các công ước quốc tế về vận tải biển…).

(iv) Cơ cấu thương mại thế giới sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng thương mại dịch vụ, tăng tỉ trọng của các nền kinh tế mới nổi. Các nước phát triển sẽ đẩy mạnh xuất khẩu để tái cân bằng các cân đối vĩ mô và sẽ hạn chế nhập khẩu thông qua các rào cản thương mại dưới mọi hình thức; các nền kinh tế mới nổi sẽ nhập khẩu nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng sản xuất và tiêu dùng.

(v) Các nước tăng cường sử dụng các biện pháp, rào cản phi thuế quan được phép và ngày càng tinh vi để bảo hộ sản xuất trong nước, bao gồm: hạn ngạch nhập khẩu, mua sắm Chính phủ, giấy phép/giấy chứng nhận nhập khẩu, các biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ), tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật (TBT) và vệ sinh, kiểm dịch động thực vật (SPS), tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, quỹ hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu,… Song song với quá trình tự do hóa thương mại, xu hướng bảo hộ thương mại của các đối tác thương mại chính của Việt Nam không có dấu hiệu suy giảm mà còn gia tăng nhanh chóng. Xu hướng này thể hiện quan điểm “quay về thị trường nội địa” đang phát triển và phổ biến nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu, nhất là tại các bạn hàng lớn của Việt Nam. Hệ quả tất yếu của xu hướng này là sự thu hẹp hoặc tăng trưởng chậm kim ngạch thương mại toàn cầu.

1.1.2. Bất cập trong thực trạng quản lý hoạt động ngoại thương ở Việt Nam

2

Page 3: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Trong quá trình hoạt động ngoại thương những năm qua, chúng ta cũng đã bộc lộ một số hạn chế, yếu kém, có thể kể đến như:

a) Cách thức phối hợp liên ngành trong quản lý nhà nước về ngoại thương còn hạn chế, bất cập dẫn đến hiệu lực và hiệu quả quản lý chậm được nâng lên

Trong vấn đề quản lý ngoại thương, Chính phủ là cơ quan thống nhất đảm nhận chức năng quản lý nhà nước. Trên cơ sở đó, Chính phủ phân công nhiệm vụ cho từng thành viên Chính phủ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đó. Bộ Công Thương là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thương mại bao gồm các lĩnh vực: Xuất nhập khẩu, xúc tiến thương mại, dịch vụ thương mại, hội nhập kinh tế - thương mại quốc tế, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ.1

Như vậy, có thể nói Bộ Công Thương là cơ quan chủ yếu chịu trách nhiệm tham mưu cho Chính phủ trong việc điều hành chính sách ngoại thương, do chức năng quản lý nhà nước của Bộ hầu hết phù hợp với các biện pháp mà chính sách ngoại thương truyền thống phải đáp ứng. Tuy nhiên, còn một số các biện pháp điều hành vô cùng quan trọng đối với chính sách ngoại thương không phụ thuộc vào chức năng điều hành của Bộ Công Thương là:

- Biện pháp liên quan đến quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa theo mặt hàng:

Trong tất cả các lĩnh vực quản lý liên quan đến hoạt động ngoại thương, có thể nói việc quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa theo mặt hàng là lĩnh vực quản lý trọng yếu nhất, liên quan trực tiếp rộng khắp đến các biện pháp mà Việt Nam có thế sử dụng để kiểm soát. Việc thực hiện quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa hiện nay dựa chủ yếu vào Nghị định số 187/2013/NĐ-CP của Chính phủ. Theo đó, Nghị định 187/2013/NĐ-CP quy định chi tiết (dưới hình thức Phụ lục) các mặt hàng chịu quản lý thông qua cấp phép với các nguyên tắc quản lý (cấp phép theo tiêu chuẩn nào) của các Bộ chuyên ngành. Nghị định cũng quy định các mặt hàng phải thông qua cấp phép của Bộ quản lý về xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương). Theo các quy định này, các Bộ quản lý chuyên ngành có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc xuất nhập khẩu các mặt hàng mà Bộ, ngành đó quản lý. Trên thực tế, những mặt hàng do các Bộ, ngành này quản lý vượt xa về số lượng so với những mặt hàng phải được sự cấp phép của Bộ Công Thương.

1 Trích Điều 1 Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương..

3

Page 4: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Như vậy, mặc dù Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối của Chính phủ quản lý nhà nước về lĩnh vực xuất nhập khẩu nhưng theo những quy định tại Nghị định 187/2013/NĐ-CP, các mặt hàng do các Bộ, ngành khác đã cấp phép đủ điều kiện thực hiện hoạt động xuất, nhập khẩu về nguyên tắc phải được thông quan. Trước thực tế đó, Bộ Công Thương không có đủ thẩm quyền theo dõi tình hình hoạt động, kiểm soát, thực hiện chính sách ngoại thương đối với mặt hàng này khi cần thiết mà không có “sự phối hợp” của các Bộ, ngành liên quan.2 Khi điều hành hoạt động ngoại thương, các biện pháp của chính sách ngoại thương thường phục vụ một mục tiêu ngoại thương được xác định (mục tiêu chiến lược) do cơ quan quản lý ngoại thương thống nhất triển khai. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, tại một số thời điểm nhất định, chính sách ngoại thương xuyên suốt này có thể sẽ đi ngược lại lợi ích sản xuất của một số ngành sản xuất nhất định.

Bên cạnh đó, việc mỗi Bộ, ngành ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc xuất nhập khẩu các mặt hàng do mình quản lý tạo nên sự hỗn loạn trong quản lý hoạt động xuất nhập khẩu trên bình diện tổng thể của quốc gia. Là cơ quan đầu mối của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương phải nắm toàn bộ thông tin cũng như có đủ thẩm quyền để ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra việc thực thi về chính sách xuất nhập khẩu đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Các Bộ, ngành khác có thể ban hành những tiêu chuẩn, quy chuẩn mà các hàng hóa đó phải tuân theo nhưng không nên can thiệp đến mức hoạch định ra các biện pháp quản lý xuất nhập khẩu mới hoặc sử dụng không đúng các biện pháp sẵn có đối với mặt hàng cụ thể mà họ quản lý.

Kết lại, Nghị định số 187/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài là một khuôn khổ pháp lý chưa đủ rộng, chưa đủ cụ thể, chưa đưa ra được những cơ chế quản lý mang tính thống nhất cao mà ngược lại đang mang lại sự manh mún, xẻ nhỏ trong quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu các mặt hàng cần quản lý. Trên thực tế, hệ thống pháp luật liên quan đến việc quản lý nhà nước các mặt hàng này đang thiếu quy định được thể hiện ở mức cao hơn đồng thời đang thiếu một chiến lược ngoại thương tổng thể để thống nhất thực hiện, triển khai trong thực tế. Đồng thời với đó, chúng ta đang thiếu cơ chế quản lý 2 Trên thực tế, đối với số liệu liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương được Tổng cục Hải quan cung cấp. Số liệu liên quan đến thương mại với các vùng, lãnh thổ trên thế giới được cập nhật bởi Tổng cục Thống kê. Việc sản xuất kinh doanh của các ngành nghề khác nhau được cung cấp, theo dõi bởi các Bộ ngành quản lý chuyên ngành (Nông nghiệp là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…).

4

Page 5: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

thống nhất, tham mưu cho Chính phủ cũng phải được khẳng định mạnh mẽ hơn, với quyền hạn cụ thể trao cho cơ quan quản lý nhà nước về ngoại thương để có những chính sách xuyên suốt, mang tính dài hạn, làm cho hệ thống pháp luật quản lý có một trật tự minh bạch, nhất quán, dễ tiếp cận.

- Biện pháp liên quan đến hàng rào thuế quan:

Theo khoản 2 Điều 12 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (2005), thẩm quyền ban hành Biều thuế theo nhóm mặt hàng do Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành còn thẩm quyền điều chỉnh mức thuế suất được trao cho Bộ Tài chính. Do nguyên tắc điều chỉnh thuế suất được quy định trong khoản 2 Điều 12 Luật Thuế xuất, nhập khẩu (2005) bao gồm: thực hiện theo danh mục, khung thuế suất đã được quy định; phục vụ công tác thu ngân sách nhà nước; và bảo hộ sản xuất trong nước phù hợp với điều ước quốc tế. Các nguyên tắc này trên thực tế không hề mâu thuẫn với nhau: Bảo hộ sản xuất hay phục vụ thu ngân sách nhà nước đều có nghĩa là định mức thuế suất cao trong khung lãi suất ban hành, theo cam kết quốc tế đã ký kết. Tuy nhiên, các nguyên tắc này sẽ gây khó khăn cho chính sách phát triển ngoại thương với mục đích cuối cùng là nâng cao sức cạnh tranh, tận dụng lợi thế so sánh của hàng hóa, doanh nghiệp, của nền kinh tế Việt Nam. Trong nhiều trường hợp, mức thuế suất phải được điều chỉnh thấp để gây sức ép, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, cũng như tạo điều kiện tiếp cận hàng hóa có chất lượng, giá cả phải chăng cho người tiêu dùng. Những tiêu chí như trên chỉ có thể được xác định thông qua các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thông qua sự nắm bắt thông tin và hiệp thương với các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp sản xuất...

Theo như các phân tích ở trên, rõ ràng Bộ Công Thương mặc dù là cơ quan của Chính phủ với chức năng, nhiệm vụ tưởng như bao trùm các chức năng quản lý nhà nước liên quan đến chính sách ngoại thương nhưng thực chất lại chưa thể có tiếng nói quyết định. Việc này dẫn đến nhiều bất cập rõ ràng trong công tác quản lý nhà nước nói chung về ngoại thương. Với vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nước nhà, chính sách ngoại thương cần thiết phải được điều phối, điều tiết bởi một cơ quan mang tính chất liên ngành hơn.

b) Thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạch định chính sách và sử dụng các biện pháp quản lý, điều tiết hoạt động ngoại thương

5

Page 6: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Sự bất cập này thể hiện rõ nét qua sự thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước hoạch định chính sách, sử dụng biện pháp trong quản lý ngoại thương. Hiện nay, hoạch định chính sách và sử dụng các biện pháp điều tiết và quản lý ngoại thương do các cơ quan sau đây đề xuất:

- Bộ Công Thương: điều chỉnh hoạt động thương mại, mặt hàng, chính sách xúc tiến, các biện pháp phòng vệ thương mại;

- Bộ Tài chính: chính sách thuế;

- Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: TBT và SPS (các biện pháp kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ);

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Các chính sách ưu đãi kinh tế;

- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: biện pháp tỉ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế.

- Các Bộ, ngành khác: tham gia chính sách mặt hàng và dịch vụ cụ thể.

Và hầu như việc hoạch định các chính sách và biện pháp trên được thực hiện hoàn toàn độc lập nếu ban hành ở cấp thông tư; và hầu như là độc lập giữa các Bộ ngành khi tham gia ý kiến ở cấp độ Nghị định. Mô hình này thể hiện sự hoạch định chính sách trên cơ sở đơn vị hành chính có sẵn, nghĩa là biện pháp kinh tế đi từ tư duy hành chính, do đó là mô hình ngược so với mô hình tổ chức hành chính phải xuất phát từ yêu cầu thực hiện chính sách.

Như vậy, hệ thống pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động ngoại thương trao quyền quản lý hoạt động ngoại thương cho các cơ quan khác nhau, tùy thuộc vào lĩnh vực quản lý của cơ quan đó. Bộ Công Thương mặc dù là cơ quan được Chính phủ giao và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhưng thực tế Bộ Công Thương không thể chủ động can thiệp trực tiếp vào chiến lược, biện pháp quản lý xuất khẩu, nhập khẩu đối với các mặt hàng thuộc thẩm quyền quản lý của các Bộ, ngành khác. Vấn đề này có thể dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực như: (1) sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật về quản lý hoạt động ngoại thương do thẩm quyền ban hành văn bản có liên quan đến lĩnh vực ngoại thương được giao cho các cơ quan khác nhau; (2) sự tự phát trong việc hoạch định chiến lược, chính sách và biện pháp quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đối với các ngành hàng không phù hợp với chiến lược, chính sách ngoại thương chung; (3) sự phối hợp kém hiệu quả trong việc sử dụng các biện pháp quản lý ngoại thương (các biện pháp phòng vệ; các biện pháp xúc tiến xuất khẩu, kiềm chế, kiểm soát nhập khẩu; các biện pháp liên quan đến vệ sinh, an toàn, môi trường, sức khỏe cộng đồng); (4) sự không thống

6

Page 7: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

nhất trong quy hoạch các ngành sản xuất trong nước và chính sách xuất khẩu, nhập khẩu3; (5) sự phản ứng chậm chạp trước những diễn biến mới trên thị trường thế giới cũng như những thay đổi trong chính sách thương mại quốc tế và (6) thiếu thông tin cần thiết cho cơ quan quản lý ngoại thương để thực hiện hoạt động hoạch định chính sách và chiến lược ngoại thương chung trong từng thời kỳ.4

c) Chưa quy định rõ cơ quan “đầu mối” của Chính phủ để chủ trì, điều phối việc hoạch định và sử dụng các biện pháp, biện pháp nhằm tận dụng tối đa các điều khoản về trường hợp ngoại lệ trong WTO (GATT 1994), các ưu đãi mà các đối tác FTA dành cho Việt Nam để điều tiết hoạt động ngoại thương, nâng cao hiệu quả hội nhập thương mại quốc tế.

Trên thực tế nhìn chung, ngoài việc áp dụng các ngoại lệ chung (Điều XX GATT 1947) và ngoại lệ về an ninh (theo Điều XXI GATT 1994) được các thành viên WTO áp dụng phổ biến, còn các trường hợp ngoại lệ được áp dụng các biện pháp hạn chế thương mại nhằm mục đích bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ trong nước của các thành viên là nước đang phát triển (Điều XVIII.C GATT), ngoại lệ được áp dụng các biện pháp khẩn cấp đối với nhập khẩu các sản phẩm nhất định (Điều XIX GATT 1994) rất khó khăn áp dụng trong thời kỳ GATT, còn sau khi WTO thành lập, việc áp dụng được thực hiện theo Hiệp định ASCM và Hiệp định AC. Đối với Việt Nam, việc áp dụng và sử dụng biện pháp tự vệ trong thương mại (theo Hiệp định ASCM và Hiệp định AC) dưới hình thức xây dựng và sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại do Bộ Công Thương chủ trì thực hiện. Ngược lại, việc áp dụng các biện pháp hạn chế thương mại nhằm mục đích bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ cũng có cách thức và thủ tục áp dụng rất phức tạp, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhiều Bộ, ngành (Công Thương, Tài chính, Khoa học và Công nghệ,…) đòi hỏi phải có cơ quan đầu mối chủ trì.

Việc tận dụng, thực thi các ưu đãi của các đối tác FTA dành cho Việt Nam xét từ khía cạnh hoạch định chính sách và biện pháp điều tiết kinh tế cũng liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhiều Bộ, ngành (Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thông tin và Truyền thông,…) nhưng chưa có văn bản pháp lý quy định cụ thể cơ quan đầu mối chủ trì và điều phối việc thực hiện.

3 Quy hoạch trồng cà phê những năm trước đây là một ví dụ cho sự thiếu thống nhất này.4 Cơ chế cung cấp thông tin về xuất khẩu, nhập khẩu giữa Bộ Công Thương, Tổng Cục Hải quan (Bộ Tài Chính) và Tổng Cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) là chưa rõ ràng.

7

Page 8: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

1.1.3. Bất cập của pháp luật hiện hành về quản lý nhà nước đối với hoạt động ngoại thương

Trong suốt quá trình đàm phán gia nhập WTO từ năm 1995, Việt Nam đã liên tục cải thiện chính sách, biện pháp pháp luật để thực hiện quản lý ngoại thương phù hợp với điều kiện hội nhập. Sau khi gia nhập WTO, chúng ta vẫn đang nỗ lực hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước về thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế để tận dụng tối đa cơ hội hội nhập đồng thời hạn chế những bất lợi về vị thế và năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, mặc dù hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra vô cùng sôi động và có đóng góp quyết định cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước cũng như công tác quản lý nhà nước về ngoại thương đã chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn, song thực tiễn cho thấy Việt Nam vẫn chưa có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tối ưu để điều hành xuất khẩu, nhập khẩu, tận dụng những biện pháp được WTO cho phép để tạo dựng các biện pháp tự vệ thương mại và những hàng rào cần thiết để bảo vệ sản xuất trong nước đồng thời khuyến khích hoạt động xuất khẩu một cách có hệ thống.

Những thiếu sót chính trong hệ thống pháp luật về quản lý ngoại thương bao gồm:

- Bất cập trong định hướng quản lý và hệ thống văn bản

+ Hệ thống pháp luật hiện hành chưa thể hiện rõ ràng định hướng của Đảng và Nhà nước đối với công tác quản lý nhà nước về ngoại thương:

Bắt nguồn từ bối cảnh soạn thảo Luật Thương mại (2005), theo đó, tại thời điểm soạn thảo Dự án Luật này chúng ta phải chịu sức ép từ việc đàm phán gia nhập WTO nên không có điều kiện để soạn thảo các văn bản riêng điều chỉnh các quan hệ công và quan hệ tư trong hoạt động ngoại thương.

Hiện nay, các quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa thương nhân với thương nhân trong thương mại quốc tế (quan hệ tư) và các quy định điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan nhà nước với thương nhân (quan hệ công) còn tồn tại đồng thời trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật trong đó đặc biệt Luật Thương mại là đạo luật quan trọng về hoạt động ngoại thương lại chủ yếu đề cập đến quan hệ tư trong khi quan hệ công - yếu tố quản lý nhà nước - lại được đề cập rất mờ nhạt và chủ yếu chỉ mang tính nguyên tắc (Điều 8: Cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động thương mại).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định: “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội bằng pháp

8

Page 9: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”. Định hướng lãnh đạo, chỉ đạo này của Đảng đối với Nhà nước trong lĩnh vực quản lý nhà nước về ngoại thương chưa được thể chế hóa cụ thể và đầy đủ trong pháp luật thương mại hiện hành. Cùng với đó, quan điểm, định hướng của Đảng về vấn đề quản lý ngoại thương đã có nhiều thay đổi căn bản, theo đó hai định hướng lớn được xác lập: một là, phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng tiếp tục đẩy mạnh tự do hóa thương mại và đầu tư5; hai là, tăng nhanh xuất khẩu, giảm nhập siêu cả quy mô và tỉ trọng, phấn đấu cân bằng xuất nhập khẩu6. Như vậy, bên cạnh quan điểm tiếp tục thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư theo hướng thông thoáng trong hoạt động của thương nhân đang được hệ thống văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh, vận hành tương đối tốt, cần tiếp tục duy trì thì ngược lại, việc tăng cường, đổi mới phương thức quản lý nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, bảo hộ chính đáng sản xuất công nghiệp trong nước phát triển đang trở thành một nhu cầu bức thiết phục vụ việc triển khai chủ trương, định hướng lớn của Đảng.

+ Hệ thống pháp luật về quản lý ngoại thương còn nhiều bất cập: Chưa tập trung, tản mát, chồng chéo và chủ yếu tồn tại ở hình thức văn bản dưới luật:

Nếu coi Luật Thương mại và các Nghị định hướng dẫn Luật Thương mại là trụ cột trong hệ thống văn bản pháp luật về ngoại thương thì rõ ràng các văn bản pháp luật này chưa thể hiện đầy đủ vai trò của mình: Các hoạt động ngoại thương còn được điều chỉnh bởi rất nhiều các văn bản Luật, Pháp lệnh và Nghị định chuyên ngành khác.

Hiện chỉ có “các biện pháp thuế quan” và “các biện pháp phi thuế quan” là đã được quy định tương đối cụ thể ở cấp văn bản luật (Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa); “các biện pháp phòng vệ thương mại” được quy định ở cấp Pháp lệnh. Còn lại các biện pháp thương mại khác gồm quy định về hoạt động, đối tượng hàng hóa, xúc tiến thương mại, các biện pháp ưu đãi kinh tế chỉ được quy định cụ thể ở các cấp văn bản từ Nghị định trở xuống.

Trong đó, các quy định về xuất nhập khẩu và các hoạt động liên quan chủ yếu được quy định ở các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại (Nghị định số 187/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài; Nghị định số

5 Đoạn 1 Phần IV Chiến lược kinh tế - xã hội từ 2011 – 2020 - Văn kiện Đại hội thứ XI của Đàng.6 Đoạn 4 Phần IV Chiến lược kinh tế - xã hội từ 2011 – 2020 - Văn kiện Đại hội thứ XI của Đàng

9

Page 10: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

19/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hoá; Nghị định số 90/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quyền xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam;...). Các quy định liên quan đến quản lý nhà nước liên quan đến các biện pháp phòng vệ thương mại và xúc tiến xuất khẩu được quy định trực tiếp trong các văn bản quy phạm pháp luật quy định nội dung hoặc các văn bản quy định chức năng nhiệm vụ của các đơn vị hành chính riêng lẻ, do đó không thể bảo đảm tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn công tác quản lý nhà nước.

Do sự tản mát của văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động ngoại thương nên có nhiều địa phương tự đưa các các quy định không phù hợp, không đúng tinh thần văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực áp dụng chung, thậm chí trái pháp luật7.

Tình trạng đó gây ra những bất cập trong công tác quản lý nhà nước và gây khó khăn cho các doanh nghiệp, cụ thể là không đảm bảo tính minh bạch, tính thống nhất, đồng bộ và ổn định của chính sách, vì: (i) Thứ nhất, khó có thể tìm hiểu một vấn đề pháp lý một cách đầy đủ và thông suốt qua những văn bản quy phạm pháp luật rời rạc, thiếu sự liên kết; (ii) Thứ hai, không chắc chắn về hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng; (iii) Thứ ba, không đảm bảo tính chuẩn xác của văn bản quy phạm pháp luật mà doanh nghiệp nghĩ rằng áp dụng cho trường hợp của mình; và (iv) Thứ tư, tốn kém thời gian để tập hợp các loại văn bản quy phạm pháp luật từ nhiều nguồn khác nhau để thực hiện.

Do vậy, việc nghiên cứu, xây dựng, ban hành một hệ thống pháp luật về ngoại thương hoàn chỉnh, tạo thuận lợi, minh bạch cho doanh nghiệp tham gia vào hoạt động này, thiết lập các nguyên tắc, cơ chế phối hợp đồng thời có phân công nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan hữu quan nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước là cần thiết, phù hợp với thực tế, đòi hỏi khách quan của bản thân nền kinh tế.

- Bất cập trong việc sử dụng các biện pháp quản lý ngoại thương

Kể từ đầu những năm 2000, hiện tượng nhập siêu đã kéo dài và diễn ra liên tục, gây mất cân bằng cán cân thanh toán và trở thành một yếu tố gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Hiện tượng này có thể được lý giải bởi nhiều nguyên nhân khác

7 Chẳng hạn, Ban quản lý Khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài và các cơ quan chức năng ở địa phương đã đưa ra các quy định phân bổ hạn ngạch nhập khẩu rượu, bia cho các doanh nghiệp trong Khu kinh tế, trong khi theo Nghị định 187 thì các mặt hàng này không thuộc diện quản lý theo hạn ngạch thuế quan, v.v. và do đó cũng tạo nên sự chồng chéo trong hệ thống văn bản.

10

Page 11: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

nhau trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là những khó khăn, yếu kém nội tại của nền kinh tế. Tuy nhiên, một trong số những nguyên nhân không thể bỏ qua đó là công tác quản lý nhà nước về ngoại thương còn yếu do thiếu nhiều biện pháp quản lý chưa được thể chế hóa cũng như chưa đủ nguồn lực để thực hiện. Việc thiếu các biện pháp quản lý, điều tiết quan trọng một phần là do khách quan khi các biện pháp chính thường sử dụng (biện pháp hành chính, hạn ngạch, thuế quan…) đều đã bị loại bỏ khi cam kết tham gia WTO và các Hiệp định thương mại song phương và một phần là trong quá trình soạn thảo hệ thống pháp luật kinh doanh, thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành, các nhà soạn thảo đã không tiên liệu trước những đổi thay nhanh chóng của thương mại quốc tế và do vậy đã không thiết kế những biện pháp phù hợp.

Thứ nhất, liên quan đến các biện pháp quản lý hàng hóa, các phương thức xuất nhập khẩu hàng hóa cũng còn chưa đầy đủ:

- Xuất nhập khẩu đối với một số mặt hàng chiến lược chưa có cơ chế đặc thù so với các mặt hàng thông thường (xăng dầu, gạo…);

- Một số mặt hàng cần có các yêu cầu đặc biệt về hồ sơ, giấy tờ để chứng minh đủ điều kiện nhập khẩu lại không có căn cứ pháp lý để cơ quan quản lý nhà nước sử dụng, kiểm soát hiệu quả;

- Một số mặt hàng nhập khẩu theo dạng phi mậu dịch mang tính chất kiểm nghiệm, thử nghiệm, viện trợ… chưa có cơ chế điều hành chủ động, linh hoạt mà phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép theo từng lần hoặc khó xác định cơ quan đầu mối giải quyết;

- Các phương thức xuất nhập khẩu chưa được quy định cụ thể, chặt chẽ các trường hợp cần có sự can thiệp của cơ quan quản lý nhà nước dẫn đến tình trạng “không quản được thì cấm” (như đối với phương thức tạm nhập tái xuất một số mặt hàng);

- Việc quản lý một số mặt hàng có sự xung đột về mục tiêu dẫn đến nhiều tranh cãi trong thực hiện (hạn ngạch thuế quan một số mặt hàng);

- Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu với các khu vực hải quan riêng, khu vực biên mậu còn nhiều vướng mắc tạo khe hở cho gian lận thương mại, buôn lậu hàng hóa qua biên giới vào nội địa, gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước cũng như gây xáo trộn hoạt động thương mại bình thường, hợp pháp của các thương nhân.

Thứ hai, pháp luật hiện hành chưa quy định trường hợp áp dụng các biện pháp khẩn cấp trong điều hành xuất nhập khẩu nói chung cũng như việc sử dụng

11

Page 12: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

biện pháp gì trong các trường hợp đó nói riêng. Việc quy định chung chung như pháp luật hiện hành khiến cho việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp chưa minh bạch, khó áp dụng (do có thể vi phạm cam kết quốc tế).

Thứ ba, các hàng rào kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ của Việt Nam đã được xây dựng và triển khai chưa chứng minh được hiệu quả kiểm soát nhập khẩu trên thực tế dẫn đến tình trạng “xây dựng nhiều nhưng nhập khẩu không ngừng gia tăng”, không đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước. Các cơ quan thực hiện việc xây dựng, thực thi quy định trong lĩnh vực này chỉ thực hiện theo quy trình của riêng mình mà chưa tính đến mục tiêu kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu, thậm chí có nơi xây dựng hàng rào quá thấp, dễ dàng để cho hoạt động nhập khẩu diễn ra mạnh mẽ hơn. Pháp luật hiện hành chưa tạo điều kiện để các cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp kiểm soát trước và sau thông quan hàng hóa một cách hiệu quả thông qua các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực thẩm, giống cây trồng (TBT, SPS) do các vấn đề này được quy định riêng rẽ tại nhiều hệ thống văn bản quy phạm pháp luật khác nhau (Luật, Pháp lệnh, các Nghị định hướng dẫn Luật Thương mại, Nghị định hướng dẫn Luật chuyên ngành…, thậm chí là Thông tư). Do quy định riêng rẽ tại nhiều văn bản khác nhau nên quy trình kiểm tra, kiểm soát không thống nhất (có quy trình trước, có quy trình sau thông qua), xảy ra tình trạng “vừa thừa vừa thiếu”, vừa tạo ra thủ tục hành chính rườm ra nhưng lại không kiểm soát hiệu quả nhập khẩu cả về chất lẫn về lượng.

Thứ tư, liên quan đến các biện pháp phòng vệ thương mại, có thể nói các quy định pháp luật về phòng vệ thương mại trong thời gian qua tuy đã được áp dụng để điều tra và xử lý một số vụ việc nhưng cũng đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập. Trên cơ sở một số vụ việc đã thực hiện cho thấy việc pháp điển hóa các văn bản pháp luật về chống trợ cấp, chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ trong một đạo luật về quản lý hoạt động ngoại thương là cần thiết để nâng cao hiệu lực pháp lý của các biện pháp này đồng thời là cơ hội để sửa đổi, bổ sung các quy định chưa phù hợp trong các văn bản nói trên. Đặc biệt sự cần thiết còn được nhấn mạnh trong bối cảnh chúng ta đang có những động thái ban đầu về việc sử dụng các biện pháp phòng vệ trong thương mại quốc tế cũng như triển vọng sử dụng các biện pháp này trong thời gian tới.

Thứ năm, các quy định pháp luật về biện pháp ưu đãi áp dụng đối với các khu kinh tế, thương mại, khu chế xuất, các khu vực hải quan riêng khác hiện nay được quy định ở nhiều các văn bản khác nhau (thường là những quyết định riêng rẽ của Thủ tướng Chính phủ - tức có hiệu lực pháp lý tương đương nhau), văn

12

Page 13: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

bản sau thường có những điểm khác với văn bản trước. Bên cạnh đó, quy định chưa thực sự thống nhất về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu ở các không gian kinh tế riêng biệt (giữa các khu kinh tế “bình thường” và các khu kinh tế “đặc biệt”; giữa trong các khu kinh tế và “nội địa”) là mảnh đất màu mỡ cho các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại phát triển nhưng lại hạn chế một cách không đáng có đối với một số hoạt động hợp pháp, phù hợp với thực tế kinh doanh của doanh nghiệp.

Trên thực tế, chính sách quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa đối với khu phi thuế quan hiện nay đang tồn tại bất cập sau đây:

Một là, để hàng hóa đưa từ nước ngoài nhập khẩu vào nội địa Việt Nam sau đó được đưa vào khu phi thuế quan, thương nhân đang phải thực hiện 02 lần thủ tục hành chính hoàn toàn giống nhau: (i) thực hiện thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam từ nước ngoài theo đó phải cung cấp tất cả các loại giấy phép, giấy chứng nhận đủ điều kiện...theo quản lý chuyên ngành; tuy nhiên, (ii) mặc dù đã thực hiện đầy đủ thủ tục và hàng hóa đó được đưa vào nội địa hợp pháp thì khi đưa vào khu phi thuế quan trên lãnh thổ Việt Nam thì hàng hóa này lại phải thực hiện một lần nữa các thủ tục đó do pháp luật hiện hành quy định “quan hệ giữa khu phi thuế quan và phần còn lại của Việt Nam là quan hệ xuất nhập khẩu”.

Hai là, hàng hóa đang được sản xuất, lưu thông hợp pháp trong nội địa Việt Nam (kể cả hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu – chỉ cấm xuất nhập khẩu nhưng không cấm kinh doanh) nhưng khi đưa vào khu phi thuế quan – cũng đang nằm trên lãnh thổ Việt Nam lại phải thực hiện đầy đủ điều kiện, giấy phép hoặc thậm chí không đưa vào khu này được do vướng chính sách quản lý xuất nhập khẩu theo quy định hiện hành (như đã dẫn ở trên).

Ba là, hàng hóa từ nước ngoài vào khu phi thuế quan để sản xuất, gia công xuất khẩu hiện được quản lý như đối với hàng hóa từ nước ngoài vào nội địa, nghĩa là thương nhân, doanh nghiệp đang phải thực hiện đầy đủ thủ tục hành chính, giấy phép, điều kiện...trước khi đưa hàng hóa vào được khu phi thuế quan để sản xuất. Quy định quản lý tại biên giới như vậy chưa tận dụng được lợi thế của các khu này nhất là các khu kinh tế cửa khẩu hoặc khu kinh tế biển nơi có cửa khẩu, cảng biển thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa là nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất.

Thứ sáu, đối với các hoạt động xúc tiến thương mại, có thể nhận định rằng xúc tiến thương mại tuy đã gặt hái nhiều thành công nhưng biện pháp chính sách và pháp lý thời gian qua vẫn tập trung vào các hoạt động xúc tiến thương được khẳng định, đổi mới mô hình; một số biện pháp chính sách được áp mại

13

Page 14: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

trong nước và hoạt động xúc tiến thương mại truyền thống (khuyến mại; hội chợ, triển lãm, trưng bày, giới thiệu hàng hóa; quảng cáo). Điều này dẫn đến hệ thống pháp luật cũng phản ánh xu thế này, bằng chứng là Luật Thương mại chỉ quy định các hoạt động xúc tiến thương mại truyền thống; chưa phân tách được xúc tiến thương mại trong nước và xúc tiến xuất khẩu (có những yếu tố, cơ chế đặc thù); một số biện pháp đã có những thành công nhất định (như Thương vụ, văn phòng xúc tiến thương mại, trung tâm giới thiệu hàng hóa của Việt Nam ở nước ngoài) vẫn chưa dụng thành công trên thế giới đã được thử nghiệm tại Việt Nam vẫn chưa được thế chế hóa (xúc tiến xuất khẩu hàng hóa của thương nhân, hiệp hội ngành hàng, xúc tiến xuất khẩu tại chỗ...); kinh phí cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu quá thấp (theo tiêu chuẩn khu vực, thế giới) lại bị chia cắt (cho hoạt động thương mại nội địa, vùng sâu, vùng xa) gây khó khăn, bó buộc sự sáng tạo, năng động của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Thứ bảy, trên cơ sở những sự phân tích nêu trên, theo đó sự chồng chéo, không thống nhất giữa hệ thống các văn bản pháp quy; việc thiếu vắng các biện pháp pháp lý cần thiết cho cơ quan quản lý nhà nước… đã dẫn đến hệ lụy là làm tăng gánh nặng thủ tục hành chính cho cộng đồng doanh nghiệp. Gánh nặng thủ tục hành chính này có thể được thể hiện qua số lượng các thủ tục hành chính mà doanh nghiệp phải thực hiện khi thực hiện thủ tục hành chính có liên quan; sự rủi ro bất chợt, khó đoán định được của các thủ tục hành chính phát sinh; cũng như việc không xác định được phải thực hiện các thủ tục hành chính như thế nào (trong trường hợp có quá nhiều cơ quan chức năng có thủ tục hành chính nhưng không xác định được thủ tục nào làm trước, thủ tục nào làm sau…). Gánh nặng này sẽ làm gia tăng chi phí của doanh nghiệp, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam đối với thị trường trong nước và xuất khẩu.

1.2. Giải pháp khắc phục những khó khăn, bất cập trong hệ thống pháp luật và công tác quản lý nhà nước về ngoại thương

1.2.1. Các giải pháp cụ thể

a) Đối với bối cảnh quốc tế

Trước những diễn biến của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần xây dựng, bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách và biện pháp quản lý nhằm tận dụng tối đa các cam kết tác động có lợi cho phát triển ngoại thương của Việt Nam, khắc phục những tác động bất lợi của các cam kết quốc tế, nhất là các cam kết WTO và các FTA mà Việt Nam tham gia. Chủ động có các giải pháp ứng phó cả về mặt luật pháp, chính sách, biện pháp quản lý, tổ chức bộ máy, các nguồn lực khác,… nhằm hạn chế những tác động bất lợi của các FTA Việt Nam sẽ tham

14

Page 15: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

gia trong thời gian tới (Hiệp định TPP, FTA Việt Nam – EU, FTA Việt Nam với Liên minh Hải quan Nga – Belarus – Kazakhstan, FTA Việt Nam – Hàn Quốc,…) đối với lĩnh vực ngoại thương và toàn nền kinh tế.

Trong quá trình tham gia đàm phán các cam kết quốc tế nói chung, các hiệp định thương mại nói riêng, chúng ta không nên chỉ dựa vào các kỹ năng đàm phán mà cần có sự phân tích một cách thấu đáo về mặt kinh tế vĩ mô trên cơ sở tham vấn với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, đặc biệt là với cộng đồng doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu và doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp. Đây là những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các nội dung cam kết giữa các Chính phủ, do đó tiếng nói và ý kiến của họ sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách của các bên có cái nhìn đa chiều và toàn diện. Nhiệm vụ của Nhà nước là phải luôn luôn cân bằng được lợi ích giữa các chủ thể, để làm sao vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, thúc đẩy ngoại thương phát triển, lại vừa đảm bảo được lợi ích của Nhà nước, bảo vệ được nền công nghiệp còn non trẻ của Việt Nam.

b) Đối với thực trạng quản lý nhà nước về ngoại thương

Pháp luật cần quy định trách nhiệm đầu mối và phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước cho phép sử dụng các biện pháp quản lý ngoại thương có đầu mối. Đối với các biện pháp chưa có quy định nội dung cụ thể ở các luật khác, cần phải quy định nội dung cụ thể trên cơ sở pháp điển hóa các quy định hiện hành.

Như đã phân tích, việc thiếu tính đầu mối và cơ chế phối hợp không hiệu quả đã tạo ra những hậu quả là bất cập, không thống nhất trong quy định và giảm khả năng thực hiện chính sách và thực thi quản lý. Giải pháp này sẽ cho phép “lập lại trật tự” các vị trí và chức năng của cơ quan quản lý nhà nước, nhằm đảm bảo biện pháp nào sẽ được ai sử dụng, từ đó mới có thể dần dần kiện toàn và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước.

c) Đối với các bất cập trong hệ thống pháp luật hiện hành

Thứ nhất, pháp luật cần quy định rõ về quản lý mặt hàng xuất, nhập khẩu bao gồm cấm xuất, nhập khẩu; tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu; hạn chế kinh doanh xuất, nhập khẩu; xuất, nhập khẩu theo giấy phép, điều kiện.

Hiện nay, các quy định này nằm rải rác ở các Nghị định và liên tục có sự sửa đổi, bổ sung gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm theo dõi đầu mối và đề xuất chính sách, đồng thời cũng khó khăn cho thương nhân vì phải chạy theo những điều chỉnh. Chính sách này cần phải có sự phù

15

Page 16: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

hợp và thống nhất với chính sách hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện hiện hành.

Thứ hai, pháp luật cần quy định về nội dung quản lý nhà nước đối với từng phương thức xuất, nhập khẩu và liên quan đến xuất, nhập khẩu, bao gồm cả các quan hệ thương mại đặc biệt (thương mại biên giới, quan hệ nội địa với các khu vực hải quan riêng và giữa các khu này với nhau).

Mặc dù Luật Thương mại 2005 quy định quan hệ thương mại giữa nội địa và các khu vực hải quan riêng là quan hệ xuất – nhập khẩu, song các văn bản quy định về xuất nhập khẩu lại chỉ áp dụng cho xuất – nhập khẩu với nước ngoài cũng gây những khó khăn khi áp dụng trong thực tiễn. Giải pháp này sẽ khắc phục những tồn tại đó.

Thứ ba, cần pháp điển hóa các quy định về các biện pháp nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước được WTO cho phép như các biện pháp phòng vệ thương mại, TBT và SPS.

Có thể nói các quy định pháp luật về phòng vệ thương mại và các biện pháp hàng rào kỹ thuật như quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ (TBT và SPS) trong thời gian qua đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc cho nên việc pháp điển hóa các văn bản pháp luật về chống trợ cấp, chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ cũng như các biện pháp TBT, SPS trong một đạo luật về quản lý hoạt động ngoại thương là cần thiết để nâng cao hiệu lực pháp lý của các biện pháp này đồng thời là cơ hội để sửa đổi, bổ sung các quy định chưa phù hợp trong các văn bản nói trên. Việc làm này sẽ tạo cơ sở pháp lý thống nhất, linh hoạt và có hiệu lực đủ mạnh trong việc điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, kiểm tra và xử lý các trường hợp không đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ. Đồng thời, giải quyết được những khó khăn về mặt pháp lý và kỹ thuật cho các cơ quan có thẩm quyền, mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam sử dụng hiệu quả một số các biện pháp quản lý ngoại thương để ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nhập khẩu, trong khi vẫn có thể bảo vệ hữu hiệu ngành sản xuất còn non trẻ trong nước một cách hợp pháp theo quy định của WTO.

Thứ tư, pháp luật cần quy định về các biện pháp xúc tiến (hỗ trợ) ngoại thương. Bên cạnh những biện pháp xúc tiến đã được quy định trong Luật Thương mại 2005, luật ngoại thương cần quy định bổ sung một số biện pháp mới như: tín dụng hỗ trợ xuất khẩu; hỗ trợ hoạt động ngoại thương thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại của các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam tại nước ngoài và của nước ngoài tại Việt Nam; thông qua hoạt động của

16

Page 17: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Thương vụ Việt Nam tại các nước, vùng lãnh thổ. Đồng thời, cần quy định chính sách đặc thù trong xúc tiến ngoại thương như: khuyến khích việc hỗ trợ hoạt động ngoại thương của các hàng hóa, dịch vụ có lợi thế cạnh tranh mà trong nước sản xuất được cũng như nhập khẩu các sản phẩm công nghệ và các nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước; hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo, các vùng có điều kiện địa lý - kinh tế khó khăn tham gia hoạt động ngoại thương. Ngoài ra, cần thể chế hóa vấn đề kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động xúc tiến ngoại thương trên cơ sở xác định nguyên tắc cụ thể để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu khuyến khích, thúc đẩy ngoại thương, đồng thời cân đối với các khoản thu chi của ngân sách nhà nước.

1.2.2. Sự cần thiết xây dựng và ban hành Luật Quản lý ngoại thương

Từ những hạn chế, bất cập và khó khăn trong thực trạng quản lý nhà nước trong việc sử dụng các biện pháp kiểm soát ngoại thương cho thấy cần thiết phải có một giải pháp tổng thể trong quản lý ngoại thương. Để khắc phục sự tản mát, dàn trải của các văn bản quy phạm pháp luật (dưới luật) cần phải pháp điển hóa trong một văn bản cấp luật có tính ổn định và thống nhất cao. Để khắc phục sự thiếu hụt các quy định nội dung cần phải bổ sung các quy định khung để tạo cơ sở ban hành các văn bản điều chỉnh. Để khắc phục sự chồng chéo giữa các quy định về quản lý nhà nước và quy định điều chỉnh quan hệ tư, và để sử dụng được các biện pháp chính sách nhằm điều tiết ngoại thương, cần phải hệ thống lại các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương. Để thực hiện những yêu cầu này, đòi hỏi phải xây dựng một văn bản trụ cột trong quản lý ngoại thương làm tiền đề cho việc hoạch định các chính sách cụ thể; sử dụng hiệu quả biện pháp xúc tiến xuất khẩu kết hợp với chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu và phòng vệ thương mại chính đáng và tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa các mục tiêu chính sách ngoại thương và yêu cầu trong đàm phán thỏa thuận thương mại quốc tế.

Giải pháp để giải quyết tất cả các vấn đề nêu trên là cần phải pháp điển hóa bằng cách đưa ra một đạo luật (Luật Quản lý ngoại thương) thống nhất điều chỉnh các nội dung cơ bản trong ngoại thương đảm bảo tính ổn định, minh bạch, cho phép tạo biện pháp và sử dụng biện pháp chính sách một cách có hiệu quả.

1.2.3. Tính khả thi của việc xây dựng và ban hành Luật Quản lý ngoại thương:

a) Luật Quản lý ngoại thương sẽ giải quyết được những bất cập trong quản lý ngoại thương hiện hành

17

Page 18: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

- Luật Quản lý ngoại thương ra đời sẽ thống nhất và bổ sung các quy định chủ chốt trong quản lý hoạt động ngoại thương:

+ Luật Quản lý ngoại thương sẽ pháp điển hóa và thống nhất các quy định nội dung trong các nhóm biện pháp về mặt hàng, các biện pháp phi thuế và biện pháp xúc tiến ngoại thương: Hiện được quy định rải rác trong các Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư. Trên cơ sở đó, Luật Quản lý ngoại thương ra đời tạo một trụ cột quan trọng trong hệ thống pháp luật thương mại mà không ảnh hưởng hay làm xáo trộn các quy định trong Luật Thương mại và các luật liên quan.

+ Luật Quản lý ngoại thương sẽ bổ sung các quy định điều chỉnh các hoạt động pháp luật chưa có quy định điều chỉnh cụ thể, đó là một số lĩnh vực thương mại dịch vụ, các phương thức hoạt động mới.

+ Luật Quản lý ngoại thương sẽ quy định chức năng, nhiệm vụ các cơ quan đầu mối và phối hợp trong quản lý ngoại thương, cơ cấu lại một số đơn vị quản lý cho phù hợp.

- Luật Quản lý ngoại thương ra đời sẽ thiết lập một chế định sử dụng các biện pháp quản lý ngoại thương một cách thống nhất:

Hiện nay các cơ quan đang thực hiện các chức năng riêng rẽ, sử dụng các biện pháp riêng rẽ lại thiếu sự phối hợp. Do đó, việc sử dụng các biện pháp quản lý ngoại thương đòi hỏi một sự thống nhất đầu mối ở cơ quan quản lý ngoại thương trên cơ sở có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan.

Một cơ quan đầu mối phải có đủ năng lực và quyền lực để thực thi các chính sách xúc tiến xuất khẩu, quản lý hoạt động và mặt hàng, đề xuất áp dụng các biện pháp thuế, phi thuế, điều tra thương mại và thực thi các biện pháp phòng vệ thương mại. Việc này là hoàn toàn thực hiện được vì hiện nay các đầu mối liên quan đều nằm ở Bộ Công Thương.

Mô hình các cơ quan quản lý ngoại thương của nước ngoài cho thấy để sử dụng hiệu quả các biện pháp quản lý ngoại thương cần phải thiết lập một định chế tương đối độc lập và có quyền lực để thực thi.

b) Việc ban hành Luật Quản lý ngoại thương phù hợp với bối cảnh chính sách thương mại quốc tế

Tự do hóa thương mại, mặc dù vẫn là xu thế không thể đảo ngược của các quốc gia trên thế giới, tuy nhiên, chính sách thương mại quốc tế của các nước thời gian vừa qua đang chứng kiến các xu thế có phần trái ngược nhau. Một mặt

18

Page 19: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đẩy mạnh việc tự do hóa thương mại thông qua việc ký kết, gia nhập các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực trong bối cảnh vòng đàm phán Doha trong khuôn khổ WTO đang rơi vào bế tắc. Mặt khác, khủng khoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ cuối năm 2008 đã đặt ra mối lo ngại về xu hướng quay lại các chính sách bảo hộ thị trường nội địa của một số quốc gia trên thế giới. Trong đó đáng kể nhất là việc sử dụng các biện pháp bảo hộ trá hình dưới các hình thức như chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ và đặc biệt là các hàng rào kỹ thuật được sử dụng như là một trong những biện pháp hữu hiệu để ngăn cản hàng nhập khẩu. Dường như việc vừa tự do hóa thương mại vừa sử dụng các biện pháp được coi là hợp pháp để bảo hộ thị trường nội địa là điểm nhấn trong chính sách thương mại của nhiều quốc gia trên thế giới trong giai đoạn hiện nay.

Việc áp dụng các rào cản thương mại đối với hàng nhập khẩu không phải bao giờ cũng vì mục đích bảo hộ, các rào cản này trong nhiều trường hợp là cần thiết để bảo vệ các lợi ích quốc gia về mặc sức khỏe cộng đồng, môi trường sống, cân bằng cán cân thanh toán… Đặc biệt vấn đề tự do hóa thương mại hiện nay luôn được gắn chặt với việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường sống. Điều này có nghĩa là các quốc gia đều tính đến sự cân bằng lợi ích giữa phát triển một chính sách thương mại tự do và lợi ích bảo vệ môi trường và sức khỏe của cộng đồng.

Do đó, các đặc điểm quan trọng này trong chính sách thương mại của các nước trên thế giới sẽ được phản ánh trong Luật Quản lý ngoại thương. Một mặt, Luật Quản lý ngoại thương sẽ tạo ra một cơ chế linh hoạt trong việc ứng phó với các hàng rào đối với hàng hóa nhập khẩu của nước ngoài. Mặt khác, Luật Quản lý ngoại thương có tính đến mục tiêu bảo vệ thị trường nội địa, bảo vệ các lợi ích quốc gia về môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Như vậy, bối cảnh thương mại quốc tế đòi hỏi chúng ta cần tăng cường sử dụng biện pháp quản lý ngoại thương hiện có cũng như sử dụng các biện pháp quản lý ngoại thương mới để đảm bảo điều hành một cách linh hoạt và hiệu quả động ngoại thương. Trong bối cảnh hoạt động ngoại thương và thực trạng quản lý nhà nước về ngoại thương hiện nay, đòi hỏi đó chỉ có thể giải quyết được một cách triệt để thông qua việc xây dựng và ban hành Luật Quản lý ngoại thương.

c) Hầu hết các nước có nền ngoại thương phát triển đều ban hành một đạo luật riêng về quản lý ngoại thương

Trên thế giới hiện nay có rất nhiều nước đã xây dựng một đạo Luật riêng để điều chỉnh hoạt động ngoại thương như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc,

19

Page 20: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Mexico, Ấn độ, Nhật Bản, Singapore, Canada, Malaysia, Macedonia, Serbia, Bosnia,… Qua đó, các nước đã quản lý và sử dụng một cách hết sức hiệu quả các biện pháp kiểm soát ngoại thương nhằm thúc đẩy xuất khẩu, bảo vệ ngành sản xuất trong nước và bảo vệ lợi ích của quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng.

Mặc dù tên gọi Luật của các nước này có thể khác nhau nhưng nội dung quy định đều hướng tới mục đích quản lý ngoại thương. Các nước này đã xây dựng một đạo luật ngoại thương thống nhất bên cạnh một số luật điều chỉnh các biện pháp quản lý riêng biệt như luật chống bán phá giá, luật xúc tiến thương mại, luật về các vấn đề như sở hữu trí tuệ, ngoại hối... Các đạo luật ngoại thương của các nước nên trên về cơ bản bao gồm các nội dung sau: (1) quy định về hoạt động xuất nhập khẩu; (2) quy định về các nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động ngoại thương; (3) cơ quan quản lý ngoại thương: xác định quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý và các cơ quan có liên quan, đặc biệt chú trọng đến cơ chế phối hợp, ủy quyền giữa các cơ quan này; (4) quy định mang tính nguyên tắc đối với một số biện pháp quản lý ngoại thương (chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ…). Ví dụ, Luật Ngoại thương Trung Quốc được thiết kế thành XI chương bao gồm Chương I: Các quy định chung; Chương II. Thương nhân hoạt động ngoại thương; Chương III: Xuất nhập khẩu hàng hoá và công nghệ; Chương IV: Thương mại dịch vụ quốc tế; Chương V: bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến ngoại thương; Chương VI: Thủ tục ngoại thương; Chương VII: Điều tra ngoại thương; Chương VIII: Phòng vệ thương mại; Chương IX: Xúc tiến ngoại thương; Chương X: Xử lý vi phạm và tổ chức thực hiện; Chương XI: Nguyên tắc áp dụng luật. (loại trừ phạm vi điều chỉnh của luật ngoại thương trong một số lĩnh vực: quân sự, hạt nhân, các sản phẩm văn hoá quốc cấm; biên mậu).

Như vậy, có thể nhận thấy một số nước có điều kiện kinh tế-xã hội tương tự như chúng ta (Trung Quốc) hoặc hệ thống pháp luật tương tự (hệ thống dân luật – Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) đều xây dựng đạo luật riêng về quản lý hoạt động ngoại thương. Do đó, bước đầu có thể khẳng định việc chung ta xây dựng dự án Luật Quản lý ngoại thương đã có sự hỗ trợ từ tiền lệ của các quốc gia nói trên.

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG LUẬT QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG

2.1. Quan điểm chỉ đạo việc xây dựng Luật Quản lý ngoại thương

20

Page 21: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

2.1.1. Quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng về chính sách ngoại thương kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay

Kể từ nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI, quan điểm, định hướng của Đảng đã thể hiện rõ “xuất khẩu là mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế trong 5 năm này (1986-1990), đồng thời cũng là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế đối ngoại”8

Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991-1995), sau khi tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI - Đại hội của Đổi Mới, quan điểm của Đảng về việc phát triển ngoại thương trong 10 năm tiếp theo (1991 – 2000) được Đại hội thông qua tiếp tục là “Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả.”

Đại hội đại biểu lần thứ IX đã khẳng định phương hướng phát triển của ngành ngoại thương trong 10 năm tiếp theo (2001-2010) “Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những mặt hàng xuất, nhập khẩu chủ yếu, giảm xuất, nhập qua thị trường trung gian. Thực hiện nhất quán các chính sách khuyến khích xuất khẩu, bao gồm cả việc bảo hiểm về giá cho hàng xuất khẩu, điều tiết tỷ giá hối đoái hợp lý, có lợi cho xuất khẩu” và “Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và quản lý, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và dịch vụ Việt Nam tại thị trường trong nước và trên thế giới. Đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu...”

Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại mới năm 2005 dựa trên nền tảng tư tưởng của Cương lĩnh 1991 và nền tảng pháp lý của Hiến pháp 1992. Đến nay, Cương lĩnh đã được bổ sung, phát triển năm 2011 và Hiến pháp đã được thay thế bằng Hiến pháp 2013.

Cho đến Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng, các Văn kiện của Đảng đã xác lập hai định hướng lớn như sau:

Một là, phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng tiếp tục đẩy mạnh tự do hóa thương mại và đầu tư9;

8 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm 1986-1990. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.9 Đoạn 1 Phần IV Chiến lược kinh tế - xã hội từ 2011 – 2020 - Văn kiện Đại hội thứ XI của Đàng.

21

Page 22: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Hai là, tăng nhanh xuất khẩu, giảm nhập siêu cả quy mô và tỉ trọng, phấn đấu cân bằng xuất nhập khẩu.10

Như vậy, việc xây dựng Luật Quản lý ngoại thương là cần thiết nhằm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng đối với chính sách ngoại thương.

2.1.2. Định hướng của Chính phủ trong chính sách ngoại thương thời kỳ 2011- 2020

Thực hiện đường lối xuyên suốt của Đảng trong quản lý, điều hành chính sách ngoại thương, Chính phủ đã phê duyệt 02 Chiến lược tổng thể liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa cũng như bảo hộ sản xuất công nghiệp trong nước. Theo đó, các quan điểm chính sách chủ yếu của các Chiến lược này bao gồm:

a) Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020 định hướng 2030 được phê duyệt theo Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2012:

- Phát triển sản xuất để tăng nhanh xuất khẩu, đồng thời đáp ứng nhu cầu trong nước; khai thác tốt lợi thế so sánh của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh xuất nhập khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải quyết việc làm và tiến tới cân bằng cán cân thương mại.

- Xây dựng, củng cố các đối tác hợp tác chiến lược để phát triển thị trường bền vững; kết hợp hài hòa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quốc gia, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị - đối ngoại, chủ động và độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu. Tích cực và chủ động tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; chú trọng xây dựng và phát triển hàng hóa có giá trị gia tăng cao, có thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước.

b) Chiến lược tổng thể và bảo hộ sản xuất công nghiệp trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế, quy định của WTO giai đoạn đến 2020 được phê duyệt theo Quyết định số 160/QĐ-TTg ngày 04/12/2008:

- Các biện pháp bảo hộ sản xuất phải hợp lý, có điều kiện và có lộ trình cắt giảm phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các cam kết khác của Việt Nam.

- Các biện pháp bảo hộ của Nhà nước phải hướng tới thúc đẩy và tạo lập lợi thế cạnh tranh cho các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn nói

10 Đoạn 4 Phần IV Chiến lược kinh tế - xã hội từ 2011 – 2020 - Văn kiện Đại hội thứ XI của Đàng22

Page 23: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

riêng và cho ngành công nghiệp Việt Nam nói chung trên thị trường trong nước và quốc tế.

- Các biện pháp bảo hộ phải được thực hiện thống nhất bình đẳng đối với mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

- Gắn bảo hộ sản xuất trong nước với việc tiếp tục điều chỉnh chức năng quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, việc xây dựng và ban hành Luật Quản lý ngoại thương là phù hợp với quan điểm, định hướng và các giải pháp chính sách lớn của Chính phủ trong quản lý, điều hành hoạt động ngoại thương trong tình hình mới nhằm thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.

2.2. Định hướng cơ bản xây dựng Luật Quản lý ngoại thương

2.2.1. Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý, phát triển hoạt động ngoại thương

Luật Thương mại và nhiều đạo luật có liên quan đến hoạt động quản lý ngoại thương cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành đã phản ánh được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn vừa qua đối với hoạt động ngoại thương. Theo đó, hệ thống pháp luật về ngoại thương về cơ bản đã phục vụ tốt công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua, đồng thời góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, hạn chế nhập siêu…11. Do đó, Luật Quản lý ngoại thương trước tiên phải được xây dựng trên nền tảng chính sách ngoại thương tương đối ổn định của chúng ta trong thời gian qua, đồng thời phải phản ánh được những thay đổi trong chủ trương, chính sách ngoại thương của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới.

2.2.2. Phải là đạo luật chủ đạo điều chỉnh hoạt động quản lý ngoại thương thông qua việc đảm bảo quy định bao quát tất cả biện pháp quản lý ngoại thương; quy định cơ chế mở cho việc sử dụng, ban hành các biện pháp quản lý ngoại thương mới trong tương lai để đảm bảo tính linh hoạt trong việc xây dựng chiến lược ngoại thương và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này 11 Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ của ngành ngoại thương trong kế hoạch 5 năm 2006-2010. Đó là: “(1) Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và quản lý, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và dịch vụ Việt Nam tại thị trường trong nước và trên thế giới. Đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu... Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới lên hơn hai lần 5 năm trước;(2) Thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới... Chuẩn bị tốt các điều kiện để bảo đảm thực hiện các cam kết khi nước ta gia nhập WTO.”

23

Page 24: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Với mong muốn khắc phục tình trạng tản mát, thiếu thống nhất hiện nay của hệ thống pháp luật ngoại thương, Luật Quản lý ngoại thương phải được xây dựng với định hướng trở thành một đạo luật chủ đạo trong quản lý điều hành hoạt động ngoại thương, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật ngoại thương. Các biện pháp quản lý ngoại thương hiện hành phải được thể hiện trong Dự án Luật, các biện pháp quản lý ngoại thương mới cũng cần được tính đến và được quy định hợp lý. Ngoài ra, tính biến động nhanh chóng của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trên thị trường đặt ra yêu cầu về tính linh hoạt trong công tác quản lý ngoại thương, điều này đồng nghĩa Luật Quản lý ngoại thương phải có các quy định mang tính chất mở làm cơ sở pháp lý cho việc ban hành các biện pháp, chính sách quản lý ngoại thường trong từng giai đoạn cụ thể. Theo đó, Luật Quản lý ngoại thương phải thiết kế các quy định nhằm tạo hành lang pháp lý cho Chính phủ, các Bộ ngành liên quan ban hành các quy phạm pháp luật liên quan đến các biện pháp quản lý ngoại thương mới tránh tình trạng thiếu cơ sở pháp lý cho việc ban hành các văn bản quy phạm dưới luật của Chính phủ và các bộ, ngành trong thời gian qua.

2.2.3. Cân bằng lợi ích giữa hoạt động quản lý nhà nước về ngoại thương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển hoạt động ngoại thương của thương nhân

Về cơ bản, bất kỳ đạo luật nào cũng nên và phải được xây dựng trên nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa các chủ thể. Theo đó các nhóm lợi ích khác nhau cần được tính đến trong quá trình xây dựng Dự án Luật. Việc xây dựng Luật Quản lý ngoại thương vì thế cũng phải tuân thủ nguyên tắc này. Một mặt, Dự án Luật sẽ nhấn mạnh nhu cầu, mục đích quản lý hoạt động ngoại thương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng mặt khác cũng rất cần tính đến mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân.

2.2.4. Tập trung hoàn thiện cơ chế điều hành, quản lý hoạt động ngoại thương thông qua việc phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan có liên quan

Như đã trình bày ở phần về sự cần thiết ban hành, một trong các lý do của sự kém hiệu quả hiện nay trong hoạt động quản lý ngoại thương xuất phát từ bất cập trong phối hợp điều hành xuất khẩu, nhập khẩu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, Dự án Luật Quản lý ngoại thương cần được định hướng có sự phân định rõ ràng về trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động ngoại thương, xây dựng các phương thức phối hợp hiệu quả, thống nhất giữa cơ quan

24

Page 25: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

quản lý nhà nước trực tiếp về ngoại thương và cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến ngoại thương trong điều hảnh, quản lý hoạt động ngoại thương. Có thể nói việc sử dụng các biện pháp ngoại thương do Dự thảo Luật quy định có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào sự điều phối, phối hợp giữa các cơ quan. Với tư cách là cơ quan tham gia hoạch định chính sách, góp phần xây dựng và trực tiếp chịu trách nhiệm thực thi pháp luật ngoại thương, các cơ quan hành pháp (Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp) đóng vai trò rất quan trọng trong việc triển khai thực thi chính sách, pháp luật về ngoại thương. Bộ Công Thương với tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu phải có thẩm quyền tập trung hơn trong điều phối hoạt động này.

2.2.5. Hệ thống hóa, pháp điển hóa đến mức có thể các quy định pháp luật về quản lý hoạt động ngoại thương hiện hành, nội luật hóa các điều ước quốc tế trong chừng mực nhất định

Với tư cách là một đạo luật chủ đạo quy định về các biện pháp quản lý ngoại thương, Luật Quản lý ngoại thương cần phải: (1) hệ thống hóa được các quy định chủ yếu về quản lý hoạt động ngoại thương hiện đang tồn tại ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau; (2) thực hiện công tác pháp điển hóa - có chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành đảm bảo phù hợp hơn và (3) nội luật hóa đến mức có thể các điều ước quốc tế trong lĩnh vực kinh tế mà Việt Nam là thành viên. Với định hướng soạn thảo này, Luật Quản lý ngoại thương khi ra đời sẽ là văn bản pháp lý điều chỉnh bao trùm lĩnh vực quản lý hoạt đông ngoại thương, tạo tiền đề cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật ngoại thương thống nhất, hiệu lực thực thi cao.

III. DỰ KIẾN CÁC NỘI DUNG CHÍNH CỦA LUẬT QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG

Dự thảo Luật được xây dựng theo hướng một đạo luật công điều chỉnh công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động ngoại thương hàng hóa bao gồm các biện pháp hành chính; các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch; các biện pháp phòng vệ thương mại; kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương; các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương; giải quyết tranh chấp về ngoại thương.

Dự thảo Luật được kết cấu nhằm tối đa tránh trùng lặp, đảm bảo trật tự, lôgíc như sau: Định hướng mô hình, nguyên tắc chung trong quản lý nhà nước về ngoại thương; công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động ngoại thương của thương nhân; hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước trong các trường hợp đặc biệt (trường hợp khẩn cấp, điều tra về phòng vệ thương mại, áp dụng các

25

Page 26: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

biện pháp kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ); hoạt động hỗ trợ ngoại thương của các cơ quan nhà nước.

Trên cơ sở đó, Dự thảo Luật dự kiến gồm ... Chương với … Điều, cụ thể như sau:

- Chương I – Những quy định chung.

- Chương II – Các biện pháp hành chính.

- Chương III – Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch.

- Chương IV – Các biện pháp phòng vệ thương mại.

- Chương V – Kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương.

- Chương VI – Các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương.

- Chương VII – Giải quyết tranh chấp về ngoại thương.

- Chương VIII – Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm.

- Chương IX – Điều khoản thi hành.

Các nội dung cụ thể của từng Chương như sau:

3.1. Chương I - Những quy định chung (từ Điều đến Điều )

Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, áp dụng Luật, nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương, quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu và trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại thương. Trong đó, các nội dung có sự thay đổi căn bản đối với quy định của pháp luật hiện hành như sau:

3.1.1. Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (Điều 1)

Do Dự án Luật Quản lý ngoại thương được xây dựng theo mô hình luật công nên dự thảo Luật điều chỉnh chủ yếu về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương bao gồm các biện pháp quản lý hoạt động ngoại thương (các biện pháp hành chính, các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch, các biện pháp phòng vệ thương mại, kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương), các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương và giải quyết tranh chấp trong hoạt động ngoại thương. Theo đó, Dự thảo Luật không điều chỉnh các hoạt động cụ thể của thương nhân và giữa các thương nhân với nhau. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật chỉ điều chỉnh đối tượng là hàng hóa, không điều chỉnh đối tượng dịch vụ.

Xuất phát từ phạm vi điều chỉnh của một đạo luật công nêu trên, đối tượng áp dụng của Luật chính là các cơ quan quản lý nhà nước về ngoại thương

26

Page 27: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

và các thương nhân tham gia hoạt động ngoại thương (điều này khác cơ bản với Luật Thương mại 2005 trong đó đối tượng áp dụng chỉ là thương nhân).

3.1.2. Về giải thích từ ngữ (Điều 2)

Điều 2 Dự thảo Luật đưa ra giải thích đối với các thuật ngữ được dùng trong nội dung của Dự thảo, trong đó làm rõ một số khái niệm có liên quan đến phạm vi điều chỉnh của Luật như “Hoạt động ngoại thương”, “Khu hải quan riêng”, “Độc quyền nhà nước trong hoạt động ngoại thương”, “Thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam”.

3.1.3. Về nguyên tắc áp dụng Luật (Điều 4)

Do hoạt động ngoại thương được điều tiết bởi một lượng không nhỏ pháp luật chuyên ngành, Dự thảo Luật đã đưa ra nguyên tắc áp dụng pháp luật nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như thương nhân.

Đối với các quy định về thuế, do Quốc hội, Chính phủ đã ban hành một hệ thống các văn bản rất chặt chẽ, chi tiết liên quan đến lĩnh vực thuế (trong đó có 01 Luật riêng về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) nên nội dung quy định của pháp luật về thuế được thực hiện theo hệ thống pháp luật đó. Tuy nhiên, riêng đối với việc áp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu như một trong những biện pháp phòng vệ thương mại phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ về thuế theo quy định của Chương IV (Các biện pháp phòng vệ thương mại) của Luật này.

Đối với quy định về thủ tục hải quan, Quốc hội đã ban hành Luật Hải quan năm 2014 và Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành. Do liên quan đến nghiệp vụ của cơ quan Hải quan, dự thảo Luật cũng đã đưa ra nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật của hải quan.

Đối với hoạt động ngoại thương và chính sách ngoại thương với các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (đặc khu), Dự thảo Luật cũng có quy định loại trừ việc áp dụng, theo đó các hoạt động và chính sách ngoại thương đối với các đơn vị này được thực hiện theo quy định riêng.

Cuối cùng, Dự thảo Luật cũng xác định nguyên tắc quan trọng liên quan đến áp dụng Luật này và các Luật chuyên ngành khác trong quản lý hoạt động ngoại thương cũng như các điều ước quốc tế có liên quan. Theo đó, Dự thảo Luật quy định trường hợp có sự khác nhau giữa Luật này và luật khác về hàng hóa cấm, hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu thì áp dụng nguyên tắc, quy định của Luật này; trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và luật khác về các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch thì áp dụng quy định của luật đó. Trường hợp điều

27

Page 28: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó.

3.1.4. Về nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương (Điều 5)

Căn cứ quan điểm chỉ đạo, chủ trương, định hướng của Đảng, Chính phủ cũng như để phù hợp với xu thế hội nhập sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới, dự án Luật đã làm rõ các nguyên tắc sau: (1) Đảm bảo hoạt động ngoại thương tuân thủ các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (2) Góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước, phát triển xuất khẩu; (3) Đảm bảo minh bạch, công khai, bình đẳng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, thương nhân thuộc các thành phần kinh tế; (4) Đảm bảo thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong hoạt động ngoại thương theo các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (5) Nhà nước chỉ thực hiện độc quyền Nhà nước trong hoạt động ngoại thương theo quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế mà điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (6) Đảm bảo đơn giản hóa thủ tục hành chính góp phần cải thiện môi trường kinh doanh.

3.1.5. Về quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu (Điều 6)

Dự thảo Luật dành một điều để quy định về quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân như một lời tuyên ngôn về quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp ghi nhận, trên cơ sở phù hợp với các cam kết quốc tế.

Theo đó, thương nhân Việt Nam (không có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài) được kinh doanh hoạt động ngoại thương và các hoạt động có liên quan khác không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh, trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu quy định tại Luật này và hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu.

Đối với thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài, công ty và chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam, thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu theo quy định của Luật này, các luật khác có liên quan và theo các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

3.1.6. Trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại thương (Điều 7)

Điều này quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại thương, theo đó Luật giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ngoại thương và Bộ

28

Page 29: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Công Thương là cơ quan đầu mối của Chính phủ trong chủ trì điều phối các công tác quản lý nhà nước về ngoại thương. Cụ thể:

a) Bộ Công Thương:

- Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ban hành chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chính sách phát triển ngoại thương, phát triển thị trường các khu vực và thế giới, hội nhập kinh tế trong từng thời kỳ:

Đây là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước trong ban hành các Chiến lược nhằm phát triển hoạt động ngoại thương, hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, có hiệu quả.

Trong thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã là cơ quan trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các Chiến lược này, cụ thể là Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2011 phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 1467/QĐ-TTg ngày 24 tháng 8 năm 2015 phê duyệt Đề án phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 1233/QĐ-TTg ngày 03 tháng 8 năm 2015 phê duyệt Đề án quản lý nhập khẩu đến năm 2020 phù hợp với cam kết quốc tế,…

- Ban hành hoặc trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động ngoại thương; Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý ngoại thương; Hướng dẫn, phổ biến, tổ chức thực hiện, theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các Chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, hỗ trợ phát triển ngoại thương; Tổng hợp, đánh giá, báo cáo tình hình quản lý hoạt động ngoại thương của Việt Nam; Quản lý, phát triển các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam tại nước ngoài và các tổ chức tương đương của nước ngoài tại Việt Nam; Chủ trì, phối hợp trong công tác giải quyết tranh chấp về ngoại thương:

Đây là các nhiệm vụ mà Luật giao cho Bộ Công Thương nhằm triển khai các hoạt động thi hành pháp luật về ngoại thương để quản lý có hiệu quả hoạt động ngoại thương.

- Làm đầu mối giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong tham gia đàm phán, ký kết, điều phối việc thực hiện các Điều ước quốc tế trong lĩnh vực ngoại thương:

Trong thời gian vừa qua, sau khi gia nhập thành công vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã và đang tích cực tham gia đàm phán thành

29

Page 30: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

công nhiều Hiệp định thương mại tự do quan trọng như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA với Liên minh châu Âu (EU), với Liên minh thuế quan Nga - Bê-la-rút - Ka-dắc-xtan, với Khối Thương mại tự do châu Âu (EFTA) gồm các nước Thụy Sĩ, Na-uy, Lích-tân-xten và Ai-xơ-len, FTA với Hàn Quốc và FTA giữa khối ASEAN với Hồng Kông, Trung Quốc.

Việc đàm phán, ký kết các Hiệp định nói trên có mục tiêu rõ ràng nhằm thúc đẩy, phát triển, mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam đồng thời nhằm mở ra các cơ hội nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị có hàm lượng công nghệ cao, giúp tăng sức cạnh tranh, năng suất lao động cho doanh nghiệp Việt Nam. Trong thời gian tới, thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, định hướng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam sẽ tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế khác nhằm tiếp tục hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Đây là một nhiệm vụ quan trọng trong tổng thể chính sách, pháp luật ngoại thương của Việt Nam.

Bên cạnh đó, sau khi hoàn thành ký kết, gia nhập các Hiệp định thương mại tự do, nhằm tận dụng tối đa thành quả của công cuộc đàm phán, việc tăng cường chuẩn bị, thực thi các cam kết trong khuôn khổ các Hiệp định trên là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy, việc điều phối thực thi một cách có hệ thống, đồng bộ, kịp thời các Hiệp định là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng nhằm tạo nền tảng bền vững, thông suốt cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tối đa những kết quả, ưu đãi mà các Hiệp định mang lại.

b) Các Bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa phương:

Các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm chủ trì hoặc phối hợp thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về ngoại thương.

3.2. Chương II – Các biện pháp hành chính (từ Điều đến Điều )

Đây là nội dung rất quan trọng liên quan đến chính sách quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam. Dự thảo Luật quy định rõ các biện pháp áp dụng trong quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam. Các biện pháp này là việc thể chế hóa yêu cầu tại Quyết định 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030 và Quyết định số 1233/QĐ-TTg ngày

30

Page 31: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

03/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án quản lý nhập khẩu đến năm 2020 phù hợp với cam kết quốc tế. Cụ thể các biện pháp như sau:

3.2.1. Biện pháp cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu (Mục 1)

Đối với biện pháp cấm quy định nguyên tắc xác định Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, theo đó việc cấm xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa chỉ áp dụng đối với các trường hợp liên quan đến hàng hóa an ninh, quốc phòng chưa được phép, ảnh hưởng thuần phong mỹ tục, môi trường, sức khỏe cộng đồng... Các nguyên tắc này về cơ bản phù hợp với quy định của WTO và chính sách quản lý xuất nhập khẩu hiện nay. Ngoài ra, Dự thảo Luật cũng quy định rõ một số trường hợp ngoại lệ đối với hàng hóa cấm xuất nhập khẩu như vì mục đích phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, y tế, sản xuất dược phẩm, bảo vệ quốc phòng, an ninh; xuất nhập khẩu đối với các khu hải quan riêng. Hơn nữa, để đáp ứng nguyên tắc công khai, minh bạch của quy định về quản lý ngoại thương, Dự thảo quy định rõ Danh mục phải được cụ thể hóa theo “Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa” (HS).

Về các hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hiện Dự thảo Luật đang quy định cụ thể Danh mục theo Phụ lục của Luật. Quy định này sẽ đảm bảo tính công khai, minh bạch và tính ổn định của pháp luật. Việc quy định rõ trong Dự thảo Luật Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu (hoặc cấm kinh doanh nói chung) là một xu hướng, yêu cầu quan trọng trong xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội do đây là yêu cầu của Hiến pháp. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” Một số Luật được Quốc hội ban hành gần đây như Luật Đầu tư, Luật Phí, lệ phí... đều được quy định theo hướng này.

Bên cạnh đó, Dự thảo cũng đã tính đến việc đảm bảo sự linh hoạt trong điều hành khi có quy định về việc tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu có thời hạn. Theo đó, thẩm quyền quy định hàng hóa thuộc diện tạm ngừng có thời hạn được giao cho Thủ tướng Chính phủ.

3.2.2. Biện pháp hạn chế xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu (Mục 2)

Dự thảo Luật quy định chi tiết các biện pháp hạn chế về số lượng hoặc trị giá hàng hóa, thương nhân và cửa khẩu đối với một số loại hàng hóa xuất khẩu,

31

Page 32: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

nhập khẩu, biện pháp này, bao gồm thực hịện chế độ hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan, quản lý cửa khẩu, chỉ định thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.

3.2.3. Biện pháp quản lý theo giấy phép, điều kiện (Mục 3)

Đối với biện pháp quản lý theo giấy phép, điều kiện, Luật quy định biện pháp này gồm có (1) Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu và (2) Biện pháp quản lý theo điều kiện. Dự thảo đang quy định việc cấp giấy phép phải đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, tiết kiệm thời gian, chi phí của cơ quản lý nhà nước và của thương nhân. Việc cấp phép phải tuân thủ trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp giấy phép theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Về thẩm quyền, Luật giao Chính phủ quy định cụ thể Danh mục hàng hóa, phương thức quản lý và phân công quản lý. Hàng hóa thuộc các Danh mục này phải được công khai theo mã số HS. Trên cơ sở đó, các Bộ, cơ quang ngang bộ công bố điều kiện, trình tự cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu.

3.2.4. Biện pháp Chứng nhận xuất xứ hàng hóa và Chứng nhận lưu hành tự do (Mục 4 và Mục 5)

Bên cạnh các biện pháp quản lý nêu trên, Luật còn quy định về biện pháp chứng nhận xuất xứ hàng hóa và chứng nhận lưu hành tự do. Tuy nhiên, đây không phải là những biện pháp bắt buộc với thương nhân hoạt động xuất nhập khẩu nói chung mà thực hiện theo yêu cầu của thương nhân để được hưởng ưu đãi thuế hoặc theo yêu cầu của nước xuất khẩu, nhập khẩu.

3.2.4. Biện pháp quản lý hoạt động ngoại thương khác (Mục 6)

Luật quy định các biện pháp quản lý hàng hóa tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập; chuyển khẩu; quá cảnh; đại lý mua bán hàng hóa cho thương nhân nước ngoài; ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu; gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài và đặt gia công hàng hóa ở nước ngoài. Theo đó, Luật đang quy định nguyên tắc, thẩm quyền quản lý các hoạt động này. Chi tiết các điều kiện, trình tự, thủ tục cụ thể sẽ được quy định tại các văn bản dưới luật.

Bên cạnh đó, Luật còn quy định về quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu không vì mục đích thương mại. Theo đó, Luật xác định các trường hợp xuất khẩu, nhập khẩu không vì mục đích thương mại cũng như thẩm quyền quản lý đối với hoạt động này.

3.2.5. Quản lý hoạt động ngoại thương với các nước có chung biên giới (Mục 7)

32

Page 33: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Nội dung quản lý bao gồm việc quy định các biện pháp quản lý đặc thù (bao gồm cả ưu đãi) đối với cư dân biên giới, quy định hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân theo các hình thức không theo thông lệ quốc tế (thực hiện theo Điều XXIV của GATT) và của cư dân biên giới. Quy định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hoàn thiện chính sách, pháp luật về thương mại biên giới theo đề nghị của nhiều cơ quan, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, Luật còn quy định về quản lý hoạt động thương mại biên giới tại cửa khẩu biên giới đất liền; chính sách quản lý phát triển hoạt động hỗ trợ thương mại tại khu vực cửa khẩu biên giới đất liền.

3.2.6. Quản lý hàng hóa đối với khu vực hải quan riêng (Mục 8)

Nội dung quản lý bao gồm việc phân định rõ quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu giữa nội địa với các khu vực hải quan riêng, giữa các khu vực hải quan riêng với nhau cũng như giữa khu vực hải quan riêng với bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, việc phân định như vậy sẽ đi kèm với chính sách mặt hàng, chính sách thuế, chính sách quản lý thương nhân (quyền, nghĩa vụ),… Việc tách bạch chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các khu để tạo điều kiện cho việc Nhà nước có những chính sách ưu đãi hơn, thu hút đầu tư cũng như phân vùng một số hoạt động đặc thù (gia công xuất khẩu, chế xuất...) cho các khu vực này. Cụ thể Dự thảo Luật quy định theo hướng như sau:

- Áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa được đưa từ khu hải quan riêng ra lãnh thổ nước ngoài như đối với hàng hóa được đưa từ nội địa ra lãnh thổ nước ngoài.

- Hàng hóa đưa từ nước ngoài vào khu vực hải quan riêng nhằm mục đích sản xuất, gia công xuất khẩu không phải áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương, trừ biện pháp cấm, tạm ngừng nhập khẩu và các biện pháp kiểm dịch. Hàng hóa thuộc diện không áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương thì được miễn các thủ tục hành chính này, nhưng sẽ phải chịu sự giám sát của cơ quan hải quan ở cửa khẩu ra (cổng B) với nội địa. Như vậy là vừa đảm bảo quản lý chặt chẽ với hàng hóa nhập khẩu vào nội địa nhưng thông thoáng, giảm thiểu thủ tục hành chính đối với hàng hóa nhập khẩu vào khu.

- Áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa đưa từ khu hải quan riêng vào nội địa như đối với hàng hóa đưa từ nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam. Không áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa đưa từ nội địa vào khu vực hải quan riêng nhằm mục đích sản xuất, tiêu dùng, gia công xuất khẩu.

33

Page 34: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

- Không áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa mua bán, vận chuyển giữa các khu hải quan riêng trong lãnh thổ Việt Nam.

- Toàn bộ quá trình trên sẽ được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan Hải quan.

Ngoài ra, Luật quy định trong một số trường hợp đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng hoặc không áp dụng một hoặc một số biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại các khu này.

3.3. Chương III - Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch (từ Điều đến Điều )

Chương này quy định các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch thực vật, động vật và kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

a) Quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và kiểm dịch động vật, thực vật

Luật quy định mục tiêu áp dụng các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch và các loại hàng hóa phải thực hiện các biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch khi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. Trình tự, thủ tục thực hiện các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch thực hiện theo pháp luật chuyên ngành.

b) Kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu

Dự thảo Luật có quy định 3 điều về hoạt động kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, bao gồm: đối tượng kiểm tra, cơ quan kiểm tra và nội dung, trình tự, thủ tục kiểm tra. Việc cần có quy định này xuất phát từ thực tiễn các hoạt động kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đang được quy định rải rác tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, chưa có một nguyên tắc và cơ sở pháp lý thống nhất dẫn đến hoạt động kiểm tra của các cơ quan có liên quan tại cửa khẩu chưa thống nhất giữa các cơ quan này với cơ quan Hải quan cũng như gây lúng túng không nhỏ đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của cộng đồng doanh nghiệp.

Ngoài ra, quy định tại Dự thảo trên thực tế là việc thể chế hóa yêu cầu của Chính phủ tại Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 15/3/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015-2016 và Quyết định 2026/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Điểm mới của Dự thảo Luật là đã quy định rõ đối tượng kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo đúng yêu cầu của Nghị quyết 19/NQ-CP và Quyết định 2026/QĐ-TTg. Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng quy

34

Page 35: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

định rõ yêu cầu đối với danh mục hàng hóa, trách nhiệm của các Bộ, ngành trong việc công khai, minh bạch trong áp dụng công tác kiểm tra.

Quy định như tại Dự thảo sẽ giải quyết được những khó khăn, vướng mắc của pháp luật hiện hành xuất phát từ thực trạng tồn tại riêng rẽ nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau quy định về các rào cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ dẫn đến không thống nhất về mặt quy trình kiểm tra, kiểm soát, qua đó tạo ra các thủ tục hành chính vừa thiếu minh bạch, vừa rườm rà lại không thực sự hiệu quả.

3.4. Chương IV - Các biện pháp phòng vệ thương mại (từ Điều đến Điều )

Các biện pháp phòng vệ thương mại hiện nay được quy định tại 3 pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành, tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng đã cho thấy có một số quy định chưa phù hợp và vẫn còn tồn tại những thiếu sót, phát sinh khó khăn, vướng mắc khi điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Do vậy, việc pháp điển hóa các văn bản pháp luật về chống trợ cấp, chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ trong một đạo luật là cần thiết để hoàn thiện và nâng cao hiệu lực pháp lý của các công cụ này. Việc làm này sẽ tạo cơ sở pháp lý thống nhất, linh hoạt và có hiệu lực đủ mạnh trong việc điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Đồng thời, giải quyết được những khó khăn về mặt pháp lý và kỹ thuật cho các cơ quan có thẩm quyền, mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam sử dụng hiệu quả một trong số các công cụ quản lý ngoại thương để ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nhập khẩu và bảo vệ hữu hiệu ngành sản xuất còn non trẻ trong nước một cách hợp pháp.

Xuất phát từ sự cần thiết nêu trên, Dự thảo Luật quy định theo hướng:

- Hoàn thiện các quy định về: các biện pháp phòng vệ thương mại, nguyên tắc áp dụng, điều kiện áp dụng, căn cứ tiến hành điều tra, quyết định điều tra vụ việc phòng vệ thương mại, nội dung điều tra, cung cấp và bảo mật thông tin, thời hạn điều tra, quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, cơ quan điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.

- Bổ sung một số nội dung: chống lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại, áp dụng hồi tố biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp.

Căn cứ trên thực tiễn áp dụng và các quy định pháp luật quốc tế, Dự thảo luật có một số quy định mới liên quan đến điều tra áp dụng biện pháp tự vệ như sau:

35

Page 36: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

(1) Quy định về việc cung cấp, thu thập và bảo mật thông tin trong quá trình điều tra các vụ việc phòng vệ thương mại (Điều 79 Dự thảo): Các pháp lệnh về phòng vệ thương mại hiện nay cũng đã quy định về việc cung cấp và bảo mật thông tin. Tuy nhiên, với quy định mới của Dự thảo, luật quy định rõ quyền của cơ quan điều tra trong trường hợp các bên liên quan không hợp tác cung cấp số liệu. Theo đó, cơ quan điều tra có quyền sử dụng các số liệu, thông tin do các bên liên quan khác cung cấp để tiến hành điều tra. Quy định này phù hợp với các Hiệp định thương mại của WTO và thực tiễn điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.

Bên cạnh đó, đối với các số liệu thông tin thu thập trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra cũng có thể tiến hành thẩm tra, xác minh tính xác thực đối với các thông tin, tài liệu do các bên liên quan cung cấp. Hoạt động xác minh trên thực tế cũng đã được cơ quan điều tra thực hiện nhưng việc quy định vào Luật sẽ tăng cơ sở pháp lý của các thủ tục này, tạo điều kiện tốt hơn cho việc điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.

(2) Sửa đổi quy định về tỷ lệ đại diện của doanh nghiệp đứng đơn yêu cầu áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Theo quy định hiện nay, cá nhân, tổ chức nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại phải đảm bảo có lượng sản xuất chiếm 25% thị phần toàn ngành sản xuất trong nước. Quy định về tỷ lệ đại diện trong các pháp lệnh hiện hành là một trong những vướng mắc gây khó khăn cho việc khởi xướng điều tra nhiều vụ việc do các doanh nghiệp khó có thể tập trung lại cùng đứng đơn để đảm bảo điều kiện về tỷ lệ đại diện. Trong Dự thảo này, tỷ lệ đại diện bao gồm cả nguyên đơn và các nhà sản xuất ủng hộ cho việc nộp đơn phải chiếm ít nhất 25% tổng khối lượng, số lượng hàng hóa tương tự của ngành sản xuất trong nước. Quy định mới nới lỏng điều kiện về đại diện cho ngành sản xuất hơn, theo đó sẽ tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp bị thiệt hại mạnh dạn nộp đơn yêu cầu.

(3) Quy định về cơ quan điều tra vụ việc phòng vệ thương mại và Hội đồng chống bán phá giá, chống trợ cấp (Điều 77). Pháp luật hiện hành đã có những quy định sơ bộ về các cơ quan có thẩm quyền điều tra, xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại. Dự thảo luật hoàn thiện nội dung này theo hướng rõ ràng, thống nhất nhằm làm rõ nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan điều tra và Hội đồng.

(4) Quy định về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại (Điều 73). Trên thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới, các nhà xuất khẩu có khả năng sử dụng một số phương pháp thương mại để

36

Page 37: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

hàng hóa thuộc đối tượng điều tra không phải chịu các biện pháp này. Do vậy, hiệu quả của các biện pháp không còn được duy trì trên thực tế. Để xử lý vấn đề này, Dự thảo luật đã đưa nội dung về chống lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại để tạo cơ sở pháp lý cho việc điều tra và áp dụng các biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.

(5) Bổ sung quy định về biện pháp tự vệ đặc biệt (Điều 102). Theo đó, biện pháp tự vệ đặc biệt được áp dụng đối với hàng hóa xuất xứ từ các nước và vùng lãnh thổ đặc biệt do việc gia tăng quá mức hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam do kết quả của việc giảm thuế theo lộ trình của các hiệp định thương mại.

Hiện nay, Việt Nam đang trong xu hướng tham gia ký kết rất nhiều các hiệp định thương mại song phương và đa phương. Các hiệp định này hầu hết đều có quy định về biện pháp tự vệ đối với các hiệp định này. Do đó, việc Dự thảo quy định về biện pháp tự vệ đặc biệt sẽ làm hoàn thiện, đầy đủ các nội dung về phòng vệ thương mại, tạo cơ sở pháp lý nội địa cho việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ liên quan đến các hiệp định thương mại này.

Với mục tiêu thay thế các pháp lệnh phòng vệ thương mại hiện hành, nội dung phòng vệ thương mại trong Dự thảo Luật Quản lý ngoại thương đã được rà soát, nghiên cứu xây dựng ở mức hoàn thiện cao nhất, tạo cơ sở pháp lý cho việc điều tra và áp dụng các biện pháp này.

3.5. Chương V - Kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương (từ Điều đến Điều )

Chương này quy định các nội dung quan trọng liên quan đến kiểm soát xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trong trường hợp khẩn cấp nhằm khắc phục những bất cập hiện tại như: chưa có các quy định về các trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp, nội hàm và số lượng các biện pháp khẩn cấp có thể được áp dụng, cũng như chưa có quy định cụ thể về mặt thẩm quyền áp dụng để đảm bảo tính linh hoạt phù hợp với tính chất nghiêm trọng của từng trường hợp nhất định,…

Theo đó, các nội dung chính tại Chương này bao gồm quy định cụ thể một số trường hợp chính cần có sự can thiệp khẩn cấp đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa từ một hoặc một số đối tác thương mại xuất phát từ yếu tố khách quan (Hàng hóa đi, đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, vùng địa lý có xảy ra, tham gia chiến tranh, xung đột hoặc nguy cơ xung đột vũ trang trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến an ninh, lợi ích quốc gia của Việt Nam; hoặc từ nơi xảy ra thiên

37

Page 38: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

tai, dịch bệnh, sự cố môi trường có đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe của người tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu;…).

Bên cạnh đó, các quy định tại Chương nêu rõ các biện pháp can thiệp khẩn cấp trong các trường hợp như vậy đối với các loại hàng hóa cụ thể phù hợp với điều kiện kiểm soát của Việt Nam (cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp hành chính phù hợp quy định tại Luật – Điều 104 Dự thảo).

Ngoài ra, do việc ban hành các chính sách kiểm soát khẩn cấp có quan hệ mật thiết với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như có ảnh hưởng lớn đến chủ trương lớn về tự do hóa thương mại nên việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp cần phải thực hiện theo một số nguyên tắc như trong những trường hợp thực sự cần thiết, phải tiến hành đánh giá, lựa chọn biện pháp gây ít thiệt hại nhất cho hoạt động ngoại thương và phải thông báo cho các đối tác thương mại được biết về việc áp dụng.

3.6. Chương VI – Các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương (từ Điều đến Điều )

Chương này quy định về chính sách chung trong hoạt động hỗ trợ ngoại thương. Theo đó, chính sách hỗ trợ ngoại thương bao gồm một số nội dung như: (1) Nhà nước có chính sách hỗ trợ hoạt động ngoại thương thông qua các biện pháp như tín dụng, xúc tiến thương mại và các hoạt động hỗ trợ khác; (2) Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân kinh doanh trong nước và nước ngoài được tham gia các hoạt động xúc tiến ngoại thương; (3) Các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương phải phù hợp với định hướng của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, Chiến lược ngoại thương trong từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ ban hành; (4) Các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương được thực hiện đồng bộ với các biện pháp xúc tiến đầu tư và xúc tiến du lịch (Điều 106 Dự thảo).

Bên cạnh các chính sách chung về hỗ trợ hoạt động ngoại thương nêu trên, Dự thảo cũng quy định chính sách hỗ trợ đặc thù cho các đối tượng là chủ thể đặc thù (doanh nghiệp vừa và nhỏ, các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo, các vùng có điều kiện địa lý - kinh tế khó khăn) và hàng hóa, dịch vụ đặc thù (các hàng hóa, dịch vụ có lợi thế cạnh tranh mà trong nước sản xuất được, cũng như nhập khẩu các sản phẩm công nghệ và các nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước) (Điều 107 Dự thảo).

38

Page 39: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Một trong những vướng mắc, bất cập hiện nay liên quan đến các hoạt động xúc tiến thương mại đó là các biện pháp chính sách và pháp lý thời gian qua vẫn tập trung vào các hoạt động xúc tiến thương mại trong nước với các phương thức xúc tiến thương mại truyền thống; một số biện pháp xúc tiến đã có những thành công nhất định (thông qua hệ thống Thương vụ và các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam ở nước ngoài) vẫn chưa được khẳng định rõ vị trí và vai trò theo hướng quy phạm hóa ở cấp luật cũng như chưa được đổi mới về mô hình hoạt động. Bên cạnh đó, kinh phí cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu quá thấp nhưng lại bị phân tán cho quá nhiều lĩnh vực nên đã gây khó khăn, bó buộc sự sáng tạo, năng động của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Do đó, Dự thảo Luật đã khắc phục những tồn tại nêu trên bằng việc quy định nội dung cụ thể các biện pháp xúc tiến thương mại hỗ trợ hoạt động ngoại thương, bao gồm: Hỗ trợ hoạt động ngoại thương thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại của các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam tại nước ngoài và của nước ngoài tại Việt Nam; Hỗ trợ hoạt động ngoại thương thông qua hoạt động của Thương vụ Việt Nam tại các nước, vùng lãnh thổ. Những biện pháp này là sự cụ thể hóa các chính sách và giải pháp được đề ra tại Quyết định số 1467/QĐ –TTg ngày 24/8/2015 phê duyệt Đề án phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Báo cáo công tác thị trường ngoài nước ngày 18/12/2013 của Bộ Công Thương.

Cụ thể, Dự thảo Luật quy định công tác hỗ trợ ngoại thương thông qua hoạt động của mạng lưới các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam ở nước ngoài phù hợp với thực tiễn cũng như thông lệ quốc tế. Trong đó, Dự thảo Luật quy định về việc thành lập và hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài (bao gồm cả tổ chức xúc tiến thương mại thuộc Chính phủ và phi Chính phủ) theo mô hình một hình thức tổ chức xúc tiến thương mại mới, hiện đại theo hướng hợp tác công – tư (khoản 2 Điều 109). Theo đó, Nhà nước có thể hỗ trợ việc thành lập và hoạt động ban đầu nhưng triển khai hoạt động, đóng góp tài chính thì có thể cho phép đại diện Hiệp hội, doanh nghiệp, địa phương cùng tham gia điều hành, định hướng hoạt động. Dự thảo Luật cũng làm rõ, khẳng định vị trí, chức năng và vai trò của hệ thống các Thương vụ hiện nay của Việt Nam trong công tác hỗ trợ hoạt động ngoại thương (Điều 111).

Trên cơ sở nguyên tắc đối đẳng, Dự thảo Luật cũng cho phép các tổ chức xúc tiến thương mại của quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc các tổ chức quốc tế được thành lập các văn phòng đại diện tại Việt Nam để thực hiện các hoạt động liên quan đến xúc tiến thương mại (Điều 110). Việc cấp phép thành lập và hoạt động

39

Page 40: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

của các văn phòng này do Bộ Công Thương thực hiện, trên cơ sở xem xét các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 110 Dự thảo Luật.

Dự thảo Luật cũng quy định một nguyên tắc nhằm đảm bảo kinh phí cho các hoạt động hỗ trợ phát triển ngoại thương, theo đó quy định: “Nhà nước đảm bảo kinh phí hỗ trợ hoạt động ngoại thương phù hợp với chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam do Quốc hội quyết nghị trong từng thời kỳ” (khoản 2 Điều 108).

Trong thực tiễn, một trong những vướng mắc lớn nhất cho hoạt động xúc tiến ngoại thương là kinh phí ngày càng thu hẹp, trong khi nhiệm vụ do Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao cho các Bộ, ngành địa phương đều có quy định chỉ tiêu cụ thể nhưng nguồn lực phục vụ cho công tác thúc đẩy xuất khẩu không theo kịp. Hơn nữa, với kinh phí đã bị tiết giảm, các Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia hiện nay phải phục vụ nhiều mục tiêu hơn bao gồm xúc tiến ngoại thương, xúc tiến thương mại nội địa, xúc tiến thương mại biên giới, miền núi, hải đảo. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy kinh phí xúc tiến thương mại nói chung và xúc tiến ngoại thương nói riêng đều ở mức độ cao hơn ta rất nhiều cả về mặt tuyệt đối lẫn tương đối. Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy việc tính toán kinh phí cho hoạt động ngoại thương đều dựa trên một trong hai biện pháp sau: kinh phí xúc tiến là một mức % trên tổng kim ngạch ngoại thương hoặc kinh phí là một khoản cố định nhưng mức tăng được “neo” theo tốc độ tăng trưởng của kim ngạch ngoại thương theo một hệ số phù hợp.

Do đó có thể nói quy định về nguyên tắc đảm bảo kinh phí cho hoạt động hỗ trợ phát triển ngoại thương tại Dự thảo Luật là phù hợp với thực tế cũng như kinh nghiệm quốc tế.

Các giải pháp nêu trên một mặt hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước trong việc tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, tận dụng triệt để thế mạnh các mặt hàng tiêu biểu cho ngành sản xuất trong nước trong mối quan hệ với thị hiếu của người tiêu dùng nước ngoài; mặt khác, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp đa phần còn non trẻ trong nước với các doanh nghiệp lớn của nước ngoài trên thương trường đầy khốc liệt và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đồng thời, với chính sách hỗ trợ ngoại thương ưu tiên áp dụng cho các đối tượng đặc thù, nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các mặt hàng nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hàng hóa của các vùng địa lý đặc biệt khó khăn (hải đảo, biên giới, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,…) sẽ được hưởng nhiều ưu đãi và được Nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu ra thị trường rộng lớn và nhiều tiềm năng trên thế giới. Bên cạnh đó,

40

Page 41: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Nhà nước vừa có thể quản lý được một cách thống nhất và hiệu quả các chính sách, biện pháp hỗ trợ ngoại thương, thúc đẩy xuất khẩu, quảng bá hình ảnh, thương hiệu của các doanh nghiệp và hàng hóa trong nước; lại vừa có thể hỗ trợ tích cực cho nền sản xuất trong nước một cách hợp pháp, phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế.

3.7. Chương VII - Giải quyết tranh chấp về ngoại thương (từ Điều đến Điều )

Chương này quy định nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực ngoại thương, theo đó Nhà nước chỉ tham gia giải quyết tranh chấp về ngoại thương trong trường hợp áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương liên quan đến quan hệ giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài theo các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam một cách kịp thời, hợp lý. Các tranh chấp về ngoại thương giữa các thương nhân Việt Nam (bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước) và thương nhân nước ngoài do các thương nhân tự mình giải quyết theo thỏa thuận và quy định của pháp luật cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Chương này cũng quy định về cơ quan quản lý nhà nước tham gia giải quyết tranh chấp về ngoại thương là Chính phủ với đầu mối tham mưu là Bộ Công Thương (Điều 113); trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp do nước ngoài khởi kiện (Điều 114) và trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp do Chính phủ Việt Nam khởi kiện (Điều 115).

3.8. Chương VIII - Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm (Điều và Điều )

Dự thảo Luật quy định việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến các biện pháp quản lý ngoại thương được thực hiện theo quy định của Luật khiếu nại, Luật tố cáo. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Dự thảo Luật cũng quy định người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở hoạt động ngoại thương, có hành vi sách nhiễu, gây phiền hà đối với thương nhân, không thực thi công vụ theo quy định của pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

3.9. Chương IX - Điều khoản thi hành (Điều và Điều )41

Page 42: Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Quản lý ngoại … · Web viewBỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh

Chương này quy định về việc tổ chức thi hành và điều khoản chuyển tiếp đối với hoạt động quản lý ngoại thương.

Để không làm ảnh hưởng đến hoạt động của công tác quản lý Nhà nước của các cơ quan quản lý chuyên ngành, qua đó đảm bảo hoạt động ngoại thương của thương nhân diễn ra bình thường, dự thảo quy định khoảng thời gian chuyển tiếp để cơ quan quản lý nhà nước có điều kiện tiến hành tổ chức hoạt động quản lý, cơ sở kỹ thuật, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để phù hợp với quy định của luật này. Theo đó, quy định này sẽ phân biệt: (i) các quy định có thể áp dụng ngay; (ii) các quy định phải tiến hành theo lộ trình chuyển tiếp.

IV. DỰ KIẾN NGUỒN LỰC, ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC SOẠN THẢO VĂN BẢN

Về nhân lực: Bộ Công Thương đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; thành phần Ban soạn thảo gồm đại diện của các Bộ, ngành liên quan (Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,…) và đặc biệt là có sự tham gia của đại diện Ủy ban Kinh tế của Quốc hội - cơ quan có thẩm quyền thẩm tra Dự án Luật trước khi trình Quốc hội thông qua.

Về kinh phí: kinh phí hỗ trợ cho việc soạn thảo văn bản được lấy từ nguồn kinh phí xây dựng pháp luật.

V. THỜI GIAN TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA

Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Dự án Luật Quản lý ngoại thương sẽ được trình Quốc hội lần đầu vào kỳ họp thứ hai, năm 2016 và thông qua vào kỳ họp thứ nhất, năm 2017./.

BỘ CÔNG THƯƠNG

42