Bồi thường thiệt hạ ng -...

90
1 Bồi thường thit hi ngoài hợp đồng

Transcript of Bồi thường thiệt hạ ng -...

Page 1: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

1

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Page 2: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

2

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Thiệt hại ngoài hợp đồng là những thiệt hại gây ra không phải do vi phạm nghĩa vụ có thoả thuận trong hợp đồng mà là do vi phạm pháp luật, do tội phạm. Vd. Do xâm phạm sức khoẻ, tính mạng, do gây tai nạn gây ra, … Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là thực hiện trách nhiệm dân sự. Bồi hoàn thiệt hại ngoài hợp đồng theo nguyên tắc (Điều 610 - Bộ luật dân sự): a. Toàn bộ và kịp thời: Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. b. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. c. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Vd khi vết thương tái phát, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, thì người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường thêm. Ngược lại, nếu phải bồi thường vì người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động nhưng sau đó người này lại lao động được thì người gây hại có thể yêu cầu toà án có thể thay đổi mức bồi thường.

Khoản 1 Điều 773 BLDS quy định : "Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại". Vậy tại sao: - PLVN lại chọn cả hai nơi để xác định việc bồi thường thiệt hại? Hai nơi đó có gì khác nhau? - PL các nước khác có quy định giống như vậy ko? Hay chỉ chọn một trong hai? Vì sao?

Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời

Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau: - Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. + Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ. + Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. + Thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần. Bộ luật Dân sự quy định: Toà án có thể buộc người xâm

Page 3: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

3

hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của nạn nhân". Những quy định này chỉ định hướng nhưng chưa có tính định lượng trong việc bồi thường thiệt hại. Bởi vậy, Toà án là người phải xác định trong trường hợp nào được bồi thường, bồi thường bao nhiêu, bồi thường cho ai... Ví dụ: Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật chất của người bị thiệt hại. - Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào "xâm phạm" đến các quyền đó. Bởi vậy, Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Việc "xâm phạm" mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư... - Có lỗi của người gây thiệt hại: Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý. Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó. Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không phải bồi thường. - Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật: Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự dưới dạng: "Người nào... xâm phạm... mà gây thiệt hại... thì phải bồi thường". Ở đây chúng ta có thể thấy hành vi đó. Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.

KHÁI NIỆM CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHÂN LOẠI TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

Page 4: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

4

Posted on 05/04/2010 by Civillawinfor

THS. NGUYỄN MINH OANH – Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội

1/ Khái quát về quá trình phát triển của Trách nhiệm BTTH

Trước khi được hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý chịu sự điều chỉnh của Luật tư như hiện nay thì trách nhiệm BTTH đã trải qua một quá trình phát triển với nhiều giai đoạn thể hiện bản chất khác biệt. Có thể khái quát các giai đoạn phát triển cơ bản của trách nhiệm BTTH như sau[1]:

Giai đoạn thứ nhất: Trong thời kỳ cổ đại, khi chính quyền trong xã hội còn chưa được tổ chức một cách vững chãi, các cá nhân, mỗi khi bị xâm phạm vào quyền lợi được tự ý trả thù để trừng phạt đối phương, hoặc bắt đối phương làm nô lệ, hay lấy tài sản của họ. Chế độ này còn được gọi là chế độ tư nhân phục thù.

Trong giai đoạn thứ hai, người gây ra sự tổn hại có thể nộp một số tiền chuộc hay thục kim cho nạn nhân để tránh trả thù. Chế độ này còn được gọi là chế độ thục kim. Chế độ thục kim đã trải qua hai giai đoạn phát triển: 1) Khi chưa có sự can thiệp của pháp luật, các bên tự thoả thuận với nhau về tiền chuộc, đó là chuộc lỗi tự nguyện; 2) Nhờ sự can thiệp của chính quyền, các bên tranh chấp bắt buộc phải giải quyết tranh chấp bằng cách trả cho nhau số tiền chuộc lỗi theo ngạch giá do pháp luật quy định, đó là chế độ thục kim bắt buộc. Tiền thục kim này có thể coi như vừa là một hình phạt, vừa có tính chất bồi thường thiệt hại. Vào thời kỳ Luật 12 bảng, Cổ luật La Mã mới bắt đầu chuyển từ chế độ tự ý thục kim sang bắt buộc thục kim.

Giai đoạn thứ ba, chứng kiến sự phân biệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự . Chính quyền, trước hết, can thiệp để trừng phạt những tội phạm chỉ liên quan đến trật tự xã hội, không liên hệ đến cá nhân. Sự can thiệp này rất cần thiết, vì nếu không có sự thanh trừng của xã hội, những vụ phạm pháp này không được chú ý tới vì không làm hại trực tiếp đến quyền lợi của tư nhân. Sự can thiệp của chính quyền dần dần được nới rộng đến sự phạm pháp liên quan đến quyền lợi của các cá nhân như các vụ ẩu đả, trộm cắp. Về phương diện hình sự, cá nhân mất hết quyền phục thù và chỉ còn quyền xin bồi thường tổn hại của mình về dân sự.

Tuy trong một số trường hợp, Luật La Mã đã tiến tới sự phân biệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự, nhưng nhà làm luật chưa quy định được hẳn một nguyên tắc trách nhiệm tổng quát, bắt buộc người gây ra sự tổn thất phải bồi thường thiệt hại bất luận trường hợp nào.

Ở Việt Nam, cổ luật cũng không tách biệt trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm thuộc luật tư và cũng chỉ giải quyết các vấn đề thuộc trật tự công. Vì vậy, các điều luật trong bộ luật cổ như bộ Quốc triều Hình luật của nhà Lê hay Hoàng Việt Luật lệ của Gia Long đều quy định các điều khoản trách nhiệm về luật hình ví dụ: Điều 582 Quốc triều hình luật đã quy định “Nếu những súc vật và chó đã húc, đá và cắn người mà cách làm hiệu và ràng buộc không đúng phép – (theo đúng phép vật nào hay húc người thì phải cắt hai sừng, đá người thì phải buộc hai chân, cắn người thì phải cắt hai tai)- hay là chó dại mà không giết thì người chủ phải phạt 60 lượng. Nếu vì cớ trên, có người chết hay bị thương thì phải tội quá thất. Nếu cố ý thả ra để làm cho người chết hay bị thương thì phải tội kém tội đánh người bị thương hay đánh chết người một bậc.

Page 5: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

5

Người được thuê đến để chữa bệnh cho súc vật, hay là người cố trêu trọc những vật kia, mà bị thương hay chết, thì người chủ không phải tội”

Tuy nhiên, trong một vài trường hợp đặc biệt, cổ luật Việt Nam cũng quy định sự bồi thường. Đối với trường hợp đánh người bị thương, điều 468 Quốc triều hình luật đã quy định sự nuôi bảo cô. Thí dụ: đánh bị thương bằng chân tay thì phải nuôi 10 ngày, bằng vật khác thì phải nuôi 20 ngày, bằng thứ có mũi nhọn hay bằng nước sôi, lửa, thì phải nuôi 40 ngày, đánh gãy xương thì phải nuôi 80 ngày…. Nhưng ngoài những trường hợp đặc biệt, Cổ luật Việt Nam không phân biệt rõ rệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự và cũng không nêu lên một nguyên tắc tổng quát nào về trách nhiệm dân sự.

Ở giai đoạn hiện nay, trách nhiệm BTTH được quy định và điều chỉnh bởi Luật tư và các nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm này đã được đặt ra ở tất cả các nước. Ở Việt Nam, BTTH hiện nay được hiểu là một loại trách nhiệm Dân sự theo đó người có hành vi gây ra thiệt hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.

2/ Khái niệm Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Về mặt lý luận, khi nghiên cứu về trách nhiệm BTTH thì tìm hiểu về khái niệm và những đặc điểm nổi bật của trách nhiệm BTTH là một việc làm cần thiết phải được coi trọng.

2.1. Khái niệm trách nhiệm BTTH

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm BTTH được BLDS 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường…

Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại (BTTH).

Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.

2.2. Đặc điểm của trách nhiệm BTTH

Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…. thì trách nhiệm BTTH còn có những đặc điểm riêng sau đây:

Page 6: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

6

- Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS ở Điều 307 và Chương XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.

- Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.

- Về hậu quả: trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.

- Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề…

3/ Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại

3.1. Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng

Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ xác định cơ sở giải quyết bồi thường theo hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ rất khác nhau. Chính vì vậy, xác định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật dân sự một cách đúng đắn.

* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.

Như vậy, cơ sở để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao gồm:

Page 7: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

7

- Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở một hợp đồng có trước tức là giữa người được hưởng bồi thường và người gây ra thiệt hại trước đó phải có một quan hệ hợp đồng.

Nếu giữa hai bên không tồn tại một hợp đồng nào thì nếu có thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ là những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng và bên gây thiệt hại chỉ có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chính vì vậy, BTTH trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, hủy bỏ hợp đồng và vi phạm đề nghị giao kết hợp đồng là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi lẽ hợp đồng chưa được giao kết giữa các bên hoặc được coi là chưa hề tồn tại.

- Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng tức là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra. Nếu giữa các bên tồn tại quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không phải là do vi phạm hợp đồng thì trách nhiệm phát sinh cũng không phải là trách nhiệm theo hợp đồng. Ví dụ, A thuê B đến sơn lại nhà cho mình. Trong quá trình làm việc, B đã ăn trộm chiếc điện thoại của A và đã bán cho người khác. Trong trường hợp này không thể tìm lại chiếc điện thoại thì A chỉ có thể khởi kiện B yêu cầu BTTH ngoài hợp đồng.

- Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là các bên trong quan hệ hợp đồng đó. Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng được áp dụng khi hành vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng. Hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng chỉ có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia trong hợp đồng đó. Do đó, nếu người thứ ba có lỗi để gây ra thiệt hại cho một bên trong hợp đồng hoặc một bên trong hợp đồng gây ra thiệt hại cho người thứ ba thì trách nhiệm dân sự phát sinh chỉ có thể là trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trường hợp này không áp dụng đối với hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba bởi lẽ đây là trường hợp ngoại lệ vì người thứ ba cũng là người có quyền lợi liên quan và được đề cập đến trong hợp đồng.

* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.

Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác.

So với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau:

- Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định. Khác với các loại trách nhiệm pháp lý khác thì trách nhiệm dân sự có thể phát sinh trên cơ sở sự thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, trách nhiệm phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các bên chỉ có thể là trách nhiệm theo hợp đồng ví dụ như buộc phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, phạt vi phạm và/ hoặc BTTH.

Page 8: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

8

- Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, BTTH theo hợp đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các bên bên thoả thuận nên các bên cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện phát sinh có thể không bao gồm đầy đủ những điều kiện trên như bên vi phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn phải BTTH…

- Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề…. Tuy nhiên, trách nhiệm BTTH theo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp đồng mà không thể áp dụng đối với người thứ ba. Hay nói các khác, các chủ thể trong hợp đồng không thể thoả thuận bất kỳ ai không tham gia hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm BTTH mà không được sự đồng ý của họ.

- Về mức bồi thường: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. Còn đối với BTTH theo hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi thường bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh trách nhiệm BTTH thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả thuận.

Việc phân biệt trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đặc biệt có ý nghĩa trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Đối với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng nguyên đơn chỉ cần chứng minh thiệt hại là do người gây thiệt hại đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra còn trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng bên bị thiệt hại ngoài việc chứng minh thiệt hại còn phải chứng minh hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.

Một vấn đề được đặt ra là trong trường hợp một bên có nghĩa vụ theo hợp đồng nhưng nghĩa vụ đó cũng được pháp luật quy định thì khi vi phạm những nghĩa vụ đó sẽ phát sinh trách nhiệm theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng và người bị thiệt hại có thể lựa chọn một trong hai loại trách nhiệm để kiện yêu cầu bồi thường hay không? Ví dụ bác sỹ chữa bệnh cho bệnh nhân rồi lại vi phạm quy định về mổ xẻ hoặc bảo mật thông tin? Hành khách đi trên phương tiện vận chuyển bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ? Chúng ta nhận thấy rằng, trong trường hợp này rõ ràng đã có căn cứ để làm phát sinh trách nhiệm BTTH theo hợp đồng vì bên gây thiệt hại đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng và như vậy thì bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu BTTH theo hợp đồng trên cơ sở thoả thuận của các bên. Theo tác giả, trong trường hợp các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự đã cụ thể hoá những nghĩa vụ do pháp luật quy định vào trong hợp đồng và thoả thuận đó có thể khác pháp luật thì pháp luật vẫn sẽ tôn trọng sự thoả thuận của họ nếu thoả thuận đó là không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Chính vì vậy khi phát sinh trách nhiệm thì các bên cũng chỉ có thể áp dụng một phương thức là kiện yêu cầu BTTH theo hợp đồng chứ không thể tự do lựa chọn phương thức có lợi nhất cho mình. Ví dụ hành khách bị thiệt hại về tính mạng mà theo hợp đồng vận chuyển hành khách các bên có thoả thuận mức bồi thường thấp hơn mức bồi thường do pháp luật quy định về BTTH ngoài hợp đồng trong

Page 9: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

9

trường hợp bị xâm phạm về tính mạng thì bên bị thiệt hại cũng chỉ có thể yêu cầu bồi thường theo hợp đồng mà thôi.

3.2. Trách nhiệm BTTH vật chất và trách nhiệm BTTH về tinh thần

Căn cứ vào lợi ích bị bị xâm phạm và những thiệt hại xảy ra mà trách nhiệm BTTH được phân thành trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần.

Trách nhiệm BTTH về vật chất là trách nhiệm bồi thường tổn thất vật chất thực tế được tính thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút.

Trách nhiệm BTTH về tinh thần được hiểu là người gây thiệt hại cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu, lòng đau thương…

Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh và mức bồi thường: Về nguyên tắc, người bị thiệt hại phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại xảy ra và mức bồi thường sẽ bằng mức thiệt hại. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp đó là trách nhiệm BTTH về vật chất còn trong trường hợp BTTH về tinh thần thì rõ ràng những tổn thất về tinh thần là những tổn thất không thể nhìn thấy, không thể tính toán và không thể chứng minh được. Chính vì vậy, trong trường hợp này pháp luật cần quy định một mức nhất định để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong trường hợp một người có hành vi xâm phạm đến các quyền nhân thân của người khác.

3.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

Căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại, trách nhiệm BTTH được phân chia thành trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây ra và trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra.

Trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây ra được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi của con người gây ra. Trường hợp này người gây thiệt hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động và hành vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.

Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà công trình xây dựng bị sụt, đổ gây thiệt hại, gia súc gây thiệt hại…

Việc phân loại hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH : Đối với trường hợp BTTH do hành vi gây ra thì một điều kiện không thể thiếu là hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật. Trong khi đó, BTTH do tài sản gây ra vì không có hành vi nên điều kiện này không thể được xem xét đến.

Page 10: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

10

Ngoài ra, việc phân loại này còn có ý nghĩa trong việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường: Về nguyên tắc thì người nào có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại thì người đó phải BTTH do mình gây ra còn đối với BTTH do tài sản gây ra thì về nguyên tắc trách nhiệm lại thuộc về chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao quản lý tài sản đó chứ không phải thuộc về tất cả mọi người đang chiếm giữ tài sản đó.

Hiện nay, BLDS Việt Nam chưa quy định về trường hợp một người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản như chiếm hữu thông qua hợp đồng dân sự (ví dụ thông qua hợp đồng thuê, mượn, gửi giữ …) hoặc chiếm hữu tài sản do pháp luật quy định (chiếm hữu tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, gia súc, gia cầm thất lạc…) mà tài sản này gây thiệt hại cho người khác thì ai phải bồi thường thiệt hại. Xét về nguyên tắc theo quy định của pháp luật hiện nay thì chủ sở hữu vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường. Theo tác giả thì quy định như vậy sẽ không phù hợp vì trong trường hợp này chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu của mình cho người khác và việc kiểm soát, quản lý tài sản đã nằm ngoài ý chí của chủ sở hữu. Trong trường hợp này, pháp luật cần quy định về người phải chịu trách nhiệm BTTH là người chiếm hữu hợp pháp bởi lẽ tài sản hiện đang thuộc quyền nắm giữ, quản lý và kiểm soát của những người này.

3.4. Trách nhiệm liên đới và trách nhiệm riêng rẽ

Căn cứ vào mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, trách nhiệm BTTH được phân loại thành trách nhiệm liên đới và trách nhiệm riêng rẽ.

BTTH liên đới được hiểu là trách nhiệm nhiều người mà theo đó thì mỗi người trong số những người có trách nhiệm phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ thiệt hại và mỗi người trong số những người có quyền đều có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ cho mình.

BTTH riêng rẽ là trách nhiệm nhiều người mà theo đó thì mỗi người có trách nhiệm chỉ phải chịu trách nhiệm đối với phần thiệt hại do mình gây ra và mỗi người trong số những người có quyền cũng chỉ có quyền yêu cầu người gây thiệt hại bồi thường những tổn thất mà mình phải gánh chịu.

Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định cách thức thực hiện nghĩa vụ, căn cứ phát sinh, chấm dứt nghĩa vụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Đối với trách nhiệm liên đới thì khi một bên thực hiện xong phần nghĩa vụ của mình trách nhiệm vẫn chưa chấm dứt mà họ còn phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ thiệt hại. Khi một người gây thiệt hại đã thực hiện trách nhiệm bồi thường thì sẽ phát sinh nghĩa vụ hoàn lại giữa những người có trách nhiệm khác với người đó và khi một người trong số những người bị thiệt hại đã yêu cầu người gây thiệt hại bồi thường toàn bộ thiệt hại cho mình thì phải hoàn lại phần tương ứng cho những người bị thiệt hại khác.

Đối với trách nhiệm riêng rẽ thì khi một người thực hiện xong phần nghĩa vụ của mình hoặc khi một người có quyền yêu cầu đã yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với mình thì quan hệ nghĩa vụ của họ với người khác sẽ chấm dứt.

3.5. Trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập.

Page 11: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

11

Căn cứ vào yêú tố lỗi và mức độ lỗi của cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được phân thành trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập.

Trách nhiệm hỗn hợp là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trong đó cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi.

Trách nhiệm độc lập là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà người bị thiệt hại là người hoàn toàn không có lỗi.

Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này sẽ có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm bồi thường và mức thiệt hại vì theo quy định tại Điều 617 BLDS thì khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường.

3.6. Trách nhiệm bồi thường của cá nhân, trách nhiệm BTTH của pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước.

Căn cứ vào chủ thể chịu trách nhiệm, trách nhiệm BTTH được phân loại thành trách nhiệm BTTH của cá nhân, trách nhiệm BTTH của pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước.

Trách nhiệm BTTH của cá nhân được hiểu là trách nhiệm dân sự mà theo đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cá nhân người gây thiệt hại hoặc đại diện theo pháp luật của người đó như cha mẹ, người giám hộ.

Trách nhiệm BTTH pháp nhân và các tổ chức khác được hiểu là trách nhiệm dân sự phát sinh cho pháp nhân hoặc các tổ chức khác trong trường hợp người của pháp nhân và các tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ pháp nhân hoặc tổ chức giao cho.

Trách nhiệm bồi thường Nhà nước được hiểu là khi cán bộ, công chức gây thiệt hại thuộc phạm vi bồi thường Nhà nước thì Nhà nước phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại chứ không phải chính cán bộ công chức hay cơ quan quản lý cán bộ công chức phải bồi thường.

Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định chủ thể phải bồi thường và việc xác định nghĩa vụ hoàn lại: Đối với trường hợp người của pháp nhân hoặc tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao do đó hành vi của họ được hiểu là hành vi của pháp nhân chính vì vậy theo quy định của pháp luật dân sự (Điều 618, 619, 620, 621) thì trách nhiệm trước hết thuộc về pháp nhân, tổ chức. Sau khi người có trách nhiệm bồi thường đã thực hiện xong thì nếu người gây thiệt hại có lỗi sẽ làm phát sinh nghĩa vụ hoàn lại của người có hành vi gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức đó.

Ngoài ra, việc phân loại này còn có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm bồi thường, trình tự, thủ tục bồi thường… bởi lẽ nếu là trách nhiệm Nhà nước thì sẽ bị giới hạn phạm vi áp dụng do đặc thù Nhà nước là một chủ thể đặc biệt thực hiện việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội; tiền bồi thường thuộc ngân sách Nhà nước do đó việc thực hiện trình tự, thủ tục bồi thường cũng

Page 12: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

12

không giống với trách nhiệm bồi thường thiệt hại thông thường. Trong thời gian tới, khi Luật Bồi thường Nhà nước được ban hành sẽ quy định một cách rõ ràng, cụ thể hơn về vấn đề này.

Ngoài ra, nếu căn cứ vào lĩnh vực bồi thường thì trách nhiệm BTTH có thể được phân loại thành bồi thường trong lĩnh vực hành chính, hình sự, tố tụng hình sự, sở hữu trí tuệ; căn cứ vào số lượng chủ thể chịu trách nhiệm có thể phân trách nhiệm BTTH thành trách nhiệm một người và trách nhiệm nhiều người; căn cứ vào điều kiện lỗi có thể phân thành trách nhiệm BTTH có yếu tố lỗi và bồi thường thiệt hại không cần có yếu tố lỗi; căn cứ các yếu tố có liên quan đến pháp luật nước ngoài hay không có thể phân trách nhiệm BTTH thành trách nhiệm BTTH trong nước và trách nhiệm BTTH có yếu tố nước ngoài … Tuy nhiên, những cách phân loại này không có nhiều ý nghĩa nên không được đề cập đến trong phạm vi bài viết này./.

[1] Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo, quyển 2, nghĩa vụ và khế ước, in lần 1, 1963,Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, tr. 437 và cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư

SOURCE: ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI “TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI – VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”, MÃ SỐ: LH-08-05/ĐHL. HÀ NỘI NĂM 2009

Ý NGHĨA, ĐẶC ĐIỂM VÀ XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ CỦA TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY RA

Posted on 05/04/2010 by Civillawinfor

PGS.TS. ĐINH VĂN THANH – Toà án nhân dân tối cao

1.Ý nghĩa, đặc điểm của trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra

Theo quy định chung của pháp luật thì công dân và pháp nhân có quyền được bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp pháp… Tại Điều 1, Sắc lệnh 97/SL ngày 22.5.1950 đã ghi nhận :"Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sử nó đúng với quyền lợi của nhân dân". Trong Hiến Pháp 1992 (Đạo luật cơ bản của Nhà nước) đối với tài sản của công dân đã được ghi nhận cụ thể: "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.

Như vậy, khi tài sản của pháp nhân, của Nhà nước, hoặc tài sản, tính mệnh, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm hại, Nhà nước sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhất định đối với người có hành vi xâm hại trái pháp luật nhằm mục đích khắc phục những hậu quả xấu về tài sản và tinh thần, khôi phục lại tình trạng vốn có ban đầu cho người bị thiệt hại.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng là một quan hệ pháp luật dân sự, theo đó người gây ra thiệt hại trong những điều kiện mà pháp luật quy định phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi trái pháp luật của họ gây ra. Trong quan hệ nghĩa vụ này bên bị thiệt hại được coi là người có quyền và có quyền yêu cầu bên gây thiệt hại là người có nghĩa vụ phải bồi thường những thiệt hại đã xảy ra.

Page 13: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

13

Trong đời sống thực tế hiện nay bên cạnh những thiệt hại do hành vi của con người gây ra, có nhiều thiệt hại do tài sản là các phương tiện giao thông, máy móc, công trình xây dựng, súc vật gây ra. Vấn đề xác định trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu, người sử dụng tài sản, tài sản khi có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho người khác; hoặc trách nhiệm của chủ sở hữu đối với các thiệt hại do tài sản, tài sản thuộc sở hữu của người đó gây ra cho con người, cho xã hội ngày càng có ý nghĩa thực tế quan trọng.

Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật nhiều vấn đề mới đã xuất hiện và gây khó khăn trong thực thi pháp luật khi phải áp dụng trách nhiệm dân sự. Để đối phó với tình trạng này, từ lâu các luật gia trên thế giới đã bàn luận nhiều về chủ đề: làm sao có thể tạo thêm những điều kiện thuận lợi nhất để bảo vệ nhanh và kịp thời khi các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm hại.

Các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến thiệt hại do tài sản gây ra. Theo quy định của pháp luật tố tụng, người có quyền, lợi ích bị xâm phạm có trách nhiệm cung cấp chứng cứ và chứng minh (theo nguyên tắc được quy định tại Điều 6, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004). Trên thực tế, quy định này nhiều khi lại rất khó khăn khi thực hiện. Vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất giảm nhẹ trách nhiệm cung cấp chứng cứ và chứng minh của bên bị thiệt hại là xu thế được các luật gia quan tâm. Ngoài ra, cơ sở của trách nhiệm dân sự nói chung còn được xây dựng trên nguyên tắc lỗi. Theo nguyên lý truyền thống, người bị thiệt hại muốn được bồi thường còn phải dẫn chứng lỗi của người gây thiệt hại; ngoài ra họ còn có trách nhiệm chứng minh sự thiệt hại (những tổn thất thực tế) do người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra phải gánh chịu khi do chính lỗi của người đó gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra đã mở ra một hướng giải quyết tranh chấp, theo đó, khi tài sản gây ra thiệt hại, chủ sở hữu, người đang quản lý tài sản đương nhiên bị coi là có lỗi.

Với quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, quyền lợi của người bị thiệt hại được bảo đảm. Việc xác định trách nhiệm trên nguyên tắc lỗi và trách nhiệm chứng minh của người có quyền, lợi ích bị xâm phạm nhiều khi rất phức tạp và có thể còn có những bất lợi cho người bị thiệt hại. Nhiều trường hợp tai nạn xảy ra do cây đổ, nhà cửa công trình bị sụp đổ hoặc do gia súc gây ra… nhưng không có ai chứng kiến, hoặc thiệt hại thực tế đã xảy ra nhưng không do lỗi của ai cả (do máy móc, cây cối, nhà cửa, gia súc… gây ra). Vì vậy, trong những trường hợp này, nếu bắt buộc người bị thiệt hại phải dẫn chứng lỗi tức là đã gián tiếp hạn chế quyền được đòi bồi thường của họ, nhất là những trường hợp không phải do con người gây ra mà chỉ do tài sản gây ra.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra cũng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ sở hữu, người quản lý tài sản. Chủ sở hữu, người quản lý tài sản có nghĩa vụ trông coi, quản lý, không để tài sản của mình gây thiệt hại cho người khác. Để thực hiện nghĩa vụ đó, họ phải tuân thủ các quy tắc trong việc sử dụng, bảo quản, sử dụng…, kịp thời phát hiện nguy cơ tài sản có thể gây thiệt hại cho những người xung quanh để có biện pháp phòng ngừa, khắc phục thích hợp. Khi tài sản gây ra thiệt hại, chủ sở hữu, người quản lý tài sản bị suy đoán là có lỗi, trừ trường hợp họ chứng minh được lỗi thuộc về người khác.

Page 14: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

14

Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng góp phần làm minh thị các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

* Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là loại trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phát sinh khi có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của tài sản. Trách nhiệm này phát sinh khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà công trình xây dựng bị sụt, đổ gây thiệt hại, gia súc gây thiệt hại…

- Trách nhiệm được áp dụng cho chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tài sản – những người có nghĩa vụ trong việc quản lý tài sản. Đối với những thiệt hại do hành vi của con người gây ra, việc xác định trách nhiệm bồi thường căn cứ vào việc người nào có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì phải bồi thường. Còn đối với BTTH do tài sản gây ra thì về nguyên tắc trách nhiệm lại thuộc về chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao quản lý tài sản đó chứ không phải thuộc về tất cả mọi người đang chiếm giữ tài sản đó.

- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra có trường hợp không cần xem xét đến điều kiện lỗi.

Trong lịch sử phát triển khoa học pháp lý dân sự đã có nhóm luật gia đề xuất thuyết "trách nhiệm khách quan". Nghĩa là, đã có thiệt hại xảy ra là phải được đền bù, bồi thường một cách ngang bằng, không cần biết người gây ra thiệt hại có lỗi hay không có lỗi. Nói cách khác, thuyết “trách nhiệm khách quan” bãi bỏ và không công nhận điều kiện lỗi. Khi các cá nhân trong hoạt động đã gây ra thiệt hại (kể cả khi gặp rủi ro), làm thiệt hại tính mạng, tài sản cho người khác đều phải có trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp như vậy, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu đòi bồi thường mà không cần phải dẫn chứng một lỗi nào của bên gây thiệt hại cả. Người bị thiệt hại chỉ cần dẫn chứng: sự thiệt hại thực tế đúng là kết quả (hậu quả) của chính hành vi do phía bên kia đã gây ra. Người ta cho rằng, mỗi cá nhân đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi của mình. Nếu hành vi đó gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại không cần biết có lỗi hay không.

Điều này rất đúng nếu thiệt hại không phải do con người gây ra mà do máy móc, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng hoặc gia súc gây ra theo nguyên tắc chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội và luật pháp, người ta thấy như vậy là không công bằng. Các luật gia đã quan tâm tìm kiếm nguyên nhân nội tại của hành vi gây ra thiệt hại và kết luận rằng: Lỗi phải được xem là một trong những cơ sở, là điều kiện của trách nhiệm dân sự, dù rằng lỗi trong trách nhiệm dân sự chỉ là điều kiện suy đoán. Để bảo đảm sự công bằng, thì người gây ra thiệt hại chỉ phải bồi thường thiệt hại khi họ có lỗi.

Hiện nay trong khoa học pháp lý ở Việt Nam vẫn tồn tại quan điểm cho rằng: cơ sở phát sinh trách nhiệm pháp lý dân sự là các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật dân sự. Một trong những yếu tố cấu thành đó phải là yếu tố lỗi (được xác định theo trạng thái tâm lý) của người có hành vi vi phạm. Lỗi là một trong các điều kiện bắt buộc để áp dụng trách nhiệm do hành vi vi phạm pháp luật gây ra theo nguyên tắc chung đã phân tích ở phần trên. Chính vì vậy mà quy định về

Page 15: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

15

căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, yếu tố lỗi được đưa vào Điều 604 Bộ luật dân sự; sau đó là các trường hợp ngoại lệ quy định tại khoản 3, Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2005. (Lưu ý rằng, vấn đề lỗi quy định tại Điều 604 Bộ luật dân sự áp dụng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, còn lỗi trong trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ được quy định tại Điều 308 Bộ luật dân sự áp dụng cho việc vi phạm trong các quan hệ hợp đồng. Khoản 1, Điều 308 đã quy định: “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”).

2. Trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra và các điều kiện xác định trách nhiệm.

Trong thực tế của đời sống xã hội, có những thiệt hại phát sinh không phải do lỗi trực tiếp từ con người mà là do các tài sản, thậm chí do súc vật gây ra. Ví dụ: tường rào đổ, xe bị hỏng phanh, cây tự nhiên gẫy, ngựa đá, trâu lồng, chó cắn… hay các thiệt hại phát sinh từ việc kinh doanh sản xuất do máy móc gây ra.

Vậy, trong những trường hợp như thế, rất khó chính xác và hợp lý khi dựa vào những nguyên tắc có tính chất truyền thống để áp dụng và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự thuần túy. Dù rằng một số điều luật tại mục 3, Chương XXI Bộ luật dân sự 2005 đã quy định việc bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể như: Điều 625 quy định bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra; Điều 626 quy định bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra; Điều 627 quy định bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra… Đây được xem là trách nhiệm bồi thường thiệt hại có tính đặc thù riêng. Vì vậy, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng có những yêu cầu riêng với những đặc trưng riêng.

Các thiệt hại phát sinh được nhiều luật gia cho là do lỗi vô ý gián tiếp của chủ sở hữu các tài sản gây thiệt hại đó và việc xác định trách nhiệm dân sự trong các trường hợp này hiện vẫn đang là một trong những vấn đề hết sức phức tạp và chưa đáp ứng được trong thực tiễn yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong cuộc sống. Mặc dù pháp luật dân sự coi lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc để áp dụng trách nhiệm dân sự nhưng lại không đưa ra định nghĩa rõ ràng về lỗi. Trong một số giáo trình luật dân sự tại các cơ sở đào tạo luật các tác giả định nghĩa lỗi như là căn cứ để xác định trách nhiệm dân sự dựa trên trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức của một người đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Điều này là đúng, nhưng chưa đủ, vì sẽ khó áp dụng trong trường hợp xác định lỗi của chủ sở hữu do đồ vật thuộc sở hữu của người đó gây ra.

Hiện nay, trong khoa học pháp lý dân sự của Việt Nam, khái niệm lỗi được xây dựng trên cơ sở trạng thái tâm lý của chủ thể do ảnh hưởng quan điểm của các luật gia Liên Xô cũ. Các luật gia Liên Xô trước đây xây dựng khái niệm lỗi trên hai phương pháp nghiên cứu sau đây:

Thứ nhất, đưa vào khoa học Luật Dân sự những quy định và phương pháp nghiên cứu môn khoa học tâm lý, khoa học Luật Hình sự…là những ngành khoa học có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng. (Một vấn đề cần được lưu ý là khái niệm về lỗi cố ý, lỗi vô ý theo quy định tại khoản 2, Điều 308 Bộ luật dân sự năm 2005 được xây dựng giống như quy định về cố ý phạm tội và vô ý phạm tội theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ luật hình sự năm 1999). Vì vậy, trong khoa học pháp lý dân sự xuất hiện và chịu ảnh hưởng quan điểm về lỗi như được nói ở trên. Các

Page 16: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

16

luật gia của Liên Xô cũ cho rằng, những nguyên tắc cơ bản của triết học về tự do ý chí và sự cần thiết về sự hoạt động tích cực của con người trong sự tác động thay đổi thế giới khách quan là tiền đề tâm lý chung của khái niệm lỗi trong khoa học pháp lý.

Thứ hai, quan điểm về trạng thái tâm lý của lỗi trong trách nhiệm dân sự trước đây được xác định trên nền tảng hệ tư tưởng trong xã hội Xô Viết. Khi đó, việc lý giải về mặt tâm lý khái niệm lỗi khẳng định một cách thuyết phục rằng, “lỗi là một khái niệm có tính lịch sử, giai cấp”. Mỗi giai cấp đều có quan niệm của mình về luật pháp, về luân lý… và mỗi giai cấp có một quan niệm riêng của mình về lỗi như là căn cứ pháp lý và là tiêu chí quan trọng của trách nhiệm dân sự. Vì vậy, ý nghĩa của lỗi trong các nước có hệ thống chính trị, hệ thống pháp luật khác nhau là khác nhau.

Trên cơ sở phân tích các quan điểm khác nhau cũng như quy định của các hệ thống pháp luật khác nhau chúng ta thấy rằng nếu xây dựng khái niệm lỗi chỉ dựa trên tiêu chí thái độ, trạng thái tâm lý và nhận thức của chủ thể trách nhiệm dân sự đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra thì khó giải thích được rằng: vì sao đồ vật (là vật vô tri, vô giác) mà gây ra thiệt hại thì vẫn phát sinh trách nhiệm dân sự về bồi thường. Trong các trường hợp xác định được chủ thể là cá nhân, pháp nhân thì phải xây dựng khái niệm lỗi dựa trên sự quan tâm, chu đáo của chủ thể trong khi thực hiện nghĩa vụ của mình. Một cá nhân hay pháp nhân, được coi là không có lỗi nếu khi áp dụng tất cả mọi biện pháp khi thực hiện nghĩa vụ đã biểu hiện sự quan tâm chu đáo mà tính chất của nghĩa vụ và điều kiện của đời sống dân sự yêu cầu đối với họ.

Trách nhiệm dân sự phát sinh từ các thiệt hại do tài sản (có chủ sở hữu) gây ra cho bên có quyền được coi đó là lỗi vô ý nếu như chủ thể không nhìn thấy trước được những gì mà mọi người chu đáo, cẩn thận có thể nhìn thấy trong hoàn cảnh tương tự. Thiệt hại phát sinh khi chủ sở hữu đã không thực hiện sự quan tâm phải có như khi thể hiện nó trong công việc của mình.

Ví dụ, một người là chủ sở hữu cho người khác (không có bằng lái xe) mượn ô tô nhưng không hỏi người này có bằng lái hay chưa. Khi người mượn xe lưu thông trên đường đã gây tai nạn. Trong trường hợp này, người cho mượn xe ô tô được coi là có “lỗi gián tiếp” và đương nhiên theo luật thì người cho mượn xe này phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cùng người mượn xe.

Một ví dụ khác, một người đang đi bộ trên vỉa hè bỗng nhiên bức tường rào của ngôi nhà ven đường đổ sập xuống hoặc cây cối trong vườn tự nhiên đổ làm gẫy chân, hư hỏng tài sản khác của người đi bộ đó.

Xem xét trách nhiệm của từng bên đối với thiệt hại thực tế đã xảy ra ta thấy rằng: Người đi bộ trên vỉa hè và là người bị thiệt hại đương nhiên không có lỗi (trừ khi có biển cảnh báo nguy hiểm, cấm không được qua lại và vẫn cố tình đi ngang qua). Bức tường rào hoặc cây cối bị đổ cũng không do một lực tác động trực tiếp của một chủ thể nào. Vậy ai sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường bồi thường cho người bị gẫy chân và tài sản hư hỏng của người đó (nếu có) ? Trong trường hợp này, nếu người chủ sở hữu của bức tường rào hoặc cây cối đã mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự, thì việc bồi thường cho người bị thiệt hại sẽ được thực hiện theo hợp đồng bảo hiểm; hoặc trong trường hợp người bị thiệt hại đã mua bảo hiểm thân thể, thì cơ quan bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường. Nhưng ở Việt Nam thực tế về bảo hiểm này ít xảy ra. Thông

Page 17: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

17

thường người ta chỉ mua bảo hiểm cho tài sản mà có sự bắt buộc phải mua, ví dụ mua bảo hiểm cho xe ô tô (thân xe, vỏ xe, máy…) hoặc mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự.

Như vậy, thiệt hại xảy ra nhất thiết phải có nguyên nhân xác định mà không thể là tự nhiên. Theo quan điểm của triết học, nguyên nhân và kết quả luôn có mối liên hệ nối tiếp nhau, nguyên nhân bao giờ cũng đi trước, là cái sinh ra kết quả; nhưng một kết quả có thể lại do nhiều nguyên nhân sinh ra hoặc ngươc lại. Vì vậy khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai, cần xem xét thiệt hại đó do các nguyên nhân nào gây ra, các nguyên nhân đó do đâu mà có v.v… Nếu không xác định được mối quan hệ nhân quả, nghĩa là không xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại sẽ dễ dẫn đến các sai lầm khi áp dụng trách nhiệm dân sự. Trong trường hợp này, chúng ta nói đến trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu bức tường rào hoặc cây cối. Khi người chủ xây bức tường rào hoặc tự trồng cây, đương nhiên sẽ là chủ sở hữu của bức tường rào hoặc cây đó. Người chủ sẽ có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ đối với bức tường rào, cây cối. Một trong các nghĩa vụ đó là tuân thủ các quy định chuẩn mực về xây dựng cũng như các quy định về an toàn xây dựng hoặc quy tắc về trồng cây. Sự kiện bức tường rào, cây cối bị đổ, nguyên nhân sẽ là do người chủ đã vi phạm các quy định về an toàn xây dựng hoặc trồng cây, nhưng cũng có thể không có bất kỳ việc vi phạm nào. Sự kiện xảy ra ngoài mong đợi và nằm ngoài ý chí mong muốn của chủ sở hữu. Nói cách khác chủ sở hữu không thể kiểm soát được. Nhưng, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này sẽ là người chủ xây dựng bức tường rào hoặc cây cối với tư cách là chủ sở hữu đồ vật.

Đối với trường hợp xác định được chủ thể vi phạm, người vi phạm muốn được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì họ phải chứng minh rằng mình không có lỗi hoặc do sự kiện bất khả kháng; hoặc nếu họ chứng minh được rằng thiệt hại xảy ra là do những yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của họ. Các yếu tố miễn trừ trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại của người có hành vi vi phạm pháp luật thông thường là yếu tố bất khả kháng.

* Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Gồm có 4 điều kiện sau đây:

= > Một là: Có thiệt hại thực tế về tài sản. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì việc xác định thiệt hại về tài sản được coi là tiền đề quan trọng phải có trước tiên. Phạm vi của trách nhiệm bồi thường hoàn toàn phụ thuộc vào sự thiệt hại thực tế đã xảy ra. Đó là những tổn thất thực tế, tồn tại khách quan và ai cũng phải thừa nhận.

Xác định đúng thiệt hại để ấn định mức bồi thường cụ thể là một vấn đề khó khăn và rất phức tạp. Nguyên tắc của tính toán thiệt hại là: Đó là những thiệt hại về vật chất (thiệt hại về tài sản) hoặc là những chi phí những thu nhập thực tế bị giảm sút hay bị mất do có sự thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ đưa đến. Hoặc là những lợi ích vật chất thực tế khác bị mất đi do người vi phạm đã gây ra cho người bị thiệt hại. Một số luật gia Sài Gòn trước đây và một số luật gia phương tây cho rằng việc xác định thiệt hại phải có đủ ba điều kiện sau đây:

- Sự thiệt hại phải là sự đụng chạm đến quyền lợi chính đáng. Tức là quyền lợi đó phải phù hợp với pháp luật, không phi pháp.

Page 18: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

18

- Sự thiệt hại phải chắc chắn hoặc có đủ các yếu tố để ước lượng nó là có thật hoặc sẽ có trên một cơ sở khoa học.

- Sự thiệt hại phải trực tiếp, vì rằng pháp luật không thể bắt buộc người gây thiệt hại phải gánh chịu tất cả hậu quả của hành vi của mình một cách vô tận (không có giới hạn) mà chỉ là thiệt hại trực tiếp do kết quả của hành vi có lỗi và trái pháp luật.

Một số án lệ của Pháp còn xác định thiệt hại thành một số tiền nhất định và người có hành vi động chạm đến các giá trị tinh thần như: tôn giáo, tín ngưỡng phải bồi thường. Tuy nhiên, quan điểm này cũng bị dư luận xã hội chỉ trích nhiều (* Xem thêm: Vũ Văn Mẫu, Dân luật Việt Nam lược khảo, Tủ sách Đại học Sài Gòn 1971).

Pháp luật Việt Nam hiện hành coi người có hành vi xâm phạm đến các lợi ích nhân thân như uy tín, danh dự, nhân phẩm… là trái pháp luật. Trước đây, việc bồi thường trong các trường hợp này chưa được quy định cụ thể và cũng chưa được áp dụng trong thực tiễn. Sau khi ban hành Bộ luật dân sự năm 1995, một số bản án đã xét xử coi đây là việc khắc phục tổn thất về tinh thần và buộc người có hành vi vi phạm bồi thường một số tiền nhất định. Điều 608 Bộ luật dân sự năm 2005 xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cụ thể bao gồm: Tài sản bị mất; bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.

Các thiệt hại về: sức khoẻ được quy định trong Điều 609 Bộ luật dân sự; thiệt hại về tính mạng bị xâm phạm được quy định trong Điều 610 Bộ luật dân sự; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được quy định trong Điều 611 Bộ luật dân sự…

Ngoài việc bồi thường cho những đối tượng trực tiếp bị thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng, tài sản, còn có những thiệt hại gián tiếp, có những thiệt hại chưa phát sinh ngay mà ảnh hưởng về lâu dài và chủ thể gây thiệt hại phải có trách nhiệm ngăn chặn, khôi phục nguyên trạng: tình trạng như trước khi chưa xảy ra thiệt hại.

= > Hai là: Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật.

Việc xác định hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có những đặc trưng riêng. Xác định “tính trái pháp luật” dựa trên nguyên tắc và cơ sở pháp lý do pháp luật quy định trước. Các bên không biết và cũng không thể có sự thoả thuận về vấn đề này. Theo nguyên tắc chung: mọi hành vi xâm phạm và dưới bất kỳ hình thức nào (có lỗi cố ý, vô ý, vô ý nặng, vô ý nhẹ… thậm chí không có lỗi áp dụng trong trường hợp do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra) nhưng đã xâm phạm đến quyền tuyệt đối của một chủ thể nhất định đều bị coi là hành vi trái pháp luật.

Khoản 3, Điều 623 Bộ luật dân sự đã quy định :”Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

Page 19: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

19

b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Hành vi gây thiệt

= > Ba là: Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.

Người có gây thiệt hại chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự khi nào những thiệt hại về tài sản xảy ra là kết quả của chính hành vi trái pháp luật của người đó. Tức là hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại về tài sản cho người bị thiệt hại: nguyên nhân có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.

Dưới góc độ triết học, mối quan hệ nhân quả là mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện t-ượng trong tự nhiên và trong xã hội. Phạm trù quan hệ nhân quả là yếu tố khách quan, tồn tại ngoài ý thức của con người. Do vậy, giữa nguyên nhân và kết quả phải có mối liên hệ nội tại, tất yếu. Tính tất yếu thể hiện: sự vận động là nguyên nhân đương nhiên xuất hiện kết quả nhất định: gây ra thiệt hại thực tế. Nguyên nhân và kết quả phải xảy ra trong một không gian xác định, nối tiếp nhau trong một thời gian nhất định và bao giờ nguyên nhân cũng phải xảy ra trước kết quả.

Quan hệ nhân quả có ý nghĩa quan trọng trong việc quy kết trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Do vậy, khi xem xét và đánh giá mối quan hệ nhân quả cần phân biệt nguyên nhân với điều kiện, nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp. Chỉ khi nào xác định được rõ ràng rằng hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại có ý nghĩa quyết định trong việc làm phát sinh thiệt hại thực tế, thì người đó mới phải chịu trách nhiệm bồi thường.

= > Người gây thiệt hại có lỗi.

Theo truyền thống khoa học luật dân sự: lỗi được hiểu là yếu tố chủ quan nói lên thái độ tâm lý của con người có khả năng đánh giá và nhận thức được hành vi của mình là đúng hay sai và hậu quả của hành vi đó. Lỗi là một trong bốn điều kiện của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định mức độ trách nhiệm bồi thường. Dưới góc độ khoa học luật dân sự nói chung khi người có hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến quyền tuyệt đối của chủ thể khác sẽ bị suy đoán là có lỗi.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng được coi là một trong những công cụ pháp lý có ý nghĩa thực tế quan trọng bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và pháp nhân. Vì vậy, Trong Luật Hình sự lỗi được coi là dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Xác định đúng tính chất và mức độ lỗi của tội phạm là một trong những điều kiện cần thiết để định tội danh và quyết định hình phạt. Vì rằng, có những trường hợp cùng có những biểu hiện khách quan về hành vi như nhau, nhưng tính chất và mức độ lỗi khác nhau sẽ có kết luận khác nhau về tội danh và hình phạt.

Trong luật dân sự cũng có sự phân biệt tính chất và mức độ lỗi (mức độ lỗi cố ý và vô ý. Trong lỗi vô ý có vô ý nặng và vô ý nhẹ). Sự phân biệt này, tuy nhiên chỉ có ý nghĩa trong một số tr-ường hợp nhất định. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng người có hành vi trái pháp luật bị coi là có lỗi khi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Page 20: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

20

Vì vậy, có những trường hợp xảy ra ngoài ý chí mong muốn của người có hành vi trái pháp luật như: bão, lụt do thiên tai hoặc những trở lực khách quan khác mà con người không có khả năng để khắc phục. Do đó, tuỳ từng hoàn cảnh điều kiện cụ thể mà có thể giảm hoặc miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người có hành vi trái pháp luật trên cơ sở xác định lỗi.

Theo nguyên lý chung, các điều kiện xác định trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra, về cơ bản cũng tương tự như các điều kiện đã phân tích trên đây. Tuy nhiên, các điều kiện xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ cần ba điều kiện sau đây:

- Có thiệt hại thực tế xảy ra;

- Có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật;

- Có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại thực tế đã xảy ra.

Việc xác định tổn thất trong trường hợp này có thể dựa trên cơ sở thuyết “trách nhiệm khách quan”, mà không cần xét đến yếu tố hành vi gây thiệt hại trái pháp luật và yếu tố lỗi của chủ sở hữu.

Sẽ là không hợp lý khi một tài sản gây thiệt hại lại xét đến yếu tố hành vi. Thuật ngữ hành vi gây thiệt hại trái pháp luật chỉ đúng khi thiệt hại do con người – thực thể của quan hệ xã hội và là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự – gây ra. Vì vậy, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra chỉ cần xác định đúng sự kiện gây thiệt hại là nguyên nhân trực tiếp làm tổn thất tài sản thực tế, giữa chúng có mối quan hệ nhân – quả, thì chủ sở hữu tài sản phải là người chịu trách nhiệm bồi thường.

Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không cần xét đến yếu tố lỗi. Theo quan niệm truyền thống yếu tố tố lỗi chỉ được xem xét khi gắn với một chủ thể xác định. Vì vậy, gắn lỗi cho tài sản khi chúng gây thiệt hại là không thể xảy ra. Tuy nhiên, lỗi của chủ sở hữu sẽ phải xét đến trong một số trường hợp nếu chủ sở hữu thông qua tài sản mà có những tác động, quản lý không tốt hoặc không đúng quy trình quản giữ… để tài sản gây thiệt hại. Đối với thiệt hại thường chỉ là tổn thất thực tế, thiệt hại gián tiếp cũng được xét đến nếu thiệt hại xảy ra đối với con người.

3. Vấn đề xác định chủ thể chịu trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra.

Trong thực tế, nhiều trường hợp sự kiện gây thiệt hại của đồ vật diễn ra trong một quá trình và có thể nói là không liên quan gì đến trạng thái tâm lý hay nhận thức của chủ sở hữu. Nói cách khác sự kiện gây thiệt hại của đồ vật nằm ngoài mong muốn cũng như sự kiểm soát của chủ sở hữu. Để nâng cao trách nhiệm của chủ sở hữu trong chiếm hữu, sử dụng tài sản và theo nguyên tắc công bằng thông thường thì chủ sở hữu đồ vật phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do đồ vạt thuộc sở hữu hoặc quyền quản lý của mình gây ra.

Tuy nhiên, có những trường hợp nguyên nhân gây thiệt hại trực tiếp là đồ vật, nhưng ẩn giấu sau đó lại là việc làm có chủ định của con người. Vụ chất thải công nghiệp của Công ty bột ngọt Vedan trên sông Thị Vải gần đây là một ví dụ. Nếu nhìn hiện tượng thì thiệt hại dường như là do

Page 21: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

21

máy móc gây ra, nhưng con người vẫn có thể kiểm soát và kiềm chế được thiệt hại này nhưng đã cố ý không làm hoặc bỏ mặc ! (xem Báo Tuổi trẻ số 258/2008 (5581) số ra ngày thứ bảy, 20/9/2008).

Việc xác định chủ thể trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra cũng có những điểm khác biệt. Nếu xác định chính xác chủ sở hữu đối với tài sản, thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường là công bằng và hợp lý. Nhưng sẽ rất phức tạp nếu “người đó’ chỉ có quyền quản lý mà không phải là chủ sở hữu. Chẳng hạn, việc quản lý cây cối của công ty công viên và cây xanh. Thực tế đã có những thiệt hại loại này xảy ra, nhưng việc quy kết trách nhiệm cho chủ thể phải bồi thường là rất phức tạp. Không ít trường hợp có thiệt hại xảy ra nhưng không quy kết được trách nhiệm bồi thường cho ai! Trong những trường hợp này đương nhiên chủ thể bị thiệt hại phải chịu thiệt thòi.

Vì vậy, để bảo đảm sự công bằng, cần xác định theo tiêu chí sau:

- Tài sản đó xác định rõ chủ sở hữu và chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, thì chủ sở hữu phải bồi thường.

- Nếu tài sản được chủ sở hữu chuyển giao cho người khác quyền chiếm hữu, sử dụng (thông qua hợp đồng thuê tài sản, thuê khoán…) theo ý chí của chủ sở hữu cần xác định: Nếu có lỗi của người chiếm hữu, sử dụng, thì người chiếm hữu sử dụng có trách nhiệm bồi thường; nếu người chiếm hữu, sử dụng không có lỗi mà thiệt hại do chính tài sản gây ra (mà người sử dụng không thể biết và luật cũng không buộc phải biết) như đổ nhà, sập trần, xe ô tô bị bất ngờ gẫy khung xe… thì chủ sở hữu phải bồi thường.

- Chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao trách nhiệm quản lý, thì những người này có trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp này cần quy định là trách nhiệm liên đới để bảo đảm việc khắc phục được nhanh chóng, bảo đảm lợi ích cho người bị thiệt hại.

Cần lưu ý rằng, Điều 626 và Điều 627 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định hai trường hợp không phải bồi thường là: thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng. Đây cũng là một thực tế rất phức tạp, vì rằng nếu vì sự vô ý của chủ sở hữu hoặc của người được giao quản lý thì cũng rất khó quy kết trách nhiệm bồi thường. Ví dụ: cây bị mục rễ tự nhiên đổ không phải do bão, lụt (là những sự kiện bất khả kháng thông thường); hoặc có những công trình công cộng lâu năm mà sức bền vật liệu hoặc thời hạn sử dụng đã hết… tự nhiên đổ, thì cũng rất khó khăn khi xác định trách nhiệm. Nên chăng, cần có quy định về trách nhiệm kiểm tra tài sản định kỳ nhằm phòng tránh rủi ro cho những người xung quanh.

4. Kiến nghị

Qua nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật dân sự Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy cho đến nay, trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra vẫn là một vấn đề phức tạp. Thông lệ và tập quán quốc tế liên quan tới bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra tuy xảy ra trên thực tế nhưng vẫn chậm phát triển và thiếu tiền lệ pháp lý. Song khoa học pháp lý dân sự hiện đại không thể phủ nhận ý nghĩa quan trọng của nó trong việc hạn chế những sự kiện xâm hại của tài sản. Mục tiêu của các quy định này nhằm góp phần khắc phục nhanh

Page 22: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

22

chóng các tổn thất, duy trì và phát triển trật tự xã hội một cách bền vững. Việc khôi phục các thiệt hại do tài sản gây ra tương tự như việc khôi phục thiệt hại do các chủ thể khác gây ra. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu nhằm hoàn thiện và bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm pháp lý dân sự trong bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra để điều chỉnh một cách đầy đủ, chặt chẽ và hợp lý những quan hệ phát sinh nếu có là rất cần thiết, có ý nghĩa về nhiều phương diện.

Để đạt được mục tiêu đó, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật thống nhất, đầy đủ nhằm điều chỉnh một cách phù hợp và chặt chẽ các quan hệ trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Theo đó: Cần quy định đặc thù về trách nhiệm dân sự trong bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra đối với các trường hợp cá biệt như: bồi thường thiệt hại do tài sản là động sản, là bất động sản, máy móc, thiết bị… để đạt được tính thống nhất và phù hợp. Quy định một cách đầy đủ và có hệ thống các loại trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại do tài gây ra, các trường hợp cần áp dụng trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại để có thể thuận tiện khi áp dụng, tạo điều kiện thuận lợi và cơ sở pháp lý cho việc áp dụng trong thực tiễn thi hành.

Quy định chi tiết các quy định bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra làm cơ sở cho việc xác định thiệt hại vật chất và một số thiệt hại về tinh thần – là một yếu tố cơ bản và quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường – dựa vào đặc điểm và tính chất của các thiệt hại do tài sản gây ra trên thực tế. Để xác định được một cách tương đối chuẩn xác và đầy đủ các thiệt hại do đồ tài sản gây ra, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế cho thấy cần phải áp dụng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau phù hợp với tính chất và mức độ của thiệt hại.

SOURCE: ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI “TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI – VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”, MÃ SỐ: LH-08-05/ĐHL. HÀ NỘI NĂM 2009

CÁM ƠN TS. TRẦN THỊ HUỆ – CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI ĐÃ CHIA SẺ BÀI VIẾT

VIỆC SỬ DỤNG LẠI BÀI VIẾT PHẢI NHẬN ĐƯỢC SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ

CÁC CHUYÊN ĐỀ THUỘC ĐỀ TÀI

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Posted on 07/04/2010 by Civillawinfor

TS. NGUYỄN HỒNG BẮC – Khoa Pháp luật Quốc tế, Đại học Luật Hà Nội

1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra trong Tư pháp quốc tế

Page 23: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

23

Vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự về quan hệ bồi thường thiệt hại mà trước khi xảy ra thiệt hại, các bên chủ thể là bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không có thoả thuận hoặc hợp đồng nào. Các bên nói trên vẫn có trách nhiệm với nhau trong việc bồi thường thiệt hại trước sự kiện gây ra thiệt hại ngoài dự kiến về tài sản hoặc về tinh thần. Cụ thể người gây thiệt hại là người duy nhất phải thực hiện trách nhiệm trước người bị hại và người bị hại có quyền yêu cầu người gây hại phải thực hiện những hành vi nhất định nhằm đảm bảo lợi ích của mình.

Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được giải quyết không trên cơ sở của hợp đồng dân sự (vì không có hợp đồng) mà chỉ giải quyết trên cơ sở của pháp luật quy định là thiệt hại thực tế đã gây ra.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế được hiểu là quan hệ trách nhiệm có yếu tố nước ngoài. Quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ trách nhiệm có một trong các yếu tố sau đây:

Thứ nhất, các bên chủ tham gia trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm bên gây hại và bên bị hại có quốc tịch khác nhau hoặc nơi cư trú khác nhau (đối với cá nhân) hoặc có trụ sở ở các nước khác nhau (đối với pháp nhân). Ví dụ: Công dân Việt Nam lái ô tô gây thiệt hại cho công dân Hungari về sức khoẻ và tài sản.

Thứ hai, hành vi gây ra thiệt hại hoặc hậu quả thực tế của hành vi gây ra thiệt hại xảy ra ở nước ngoài. Ví dụ: hai công dân Việt Nam đi lao động hợp tác tại Malaixia gây thiệt hai cho nhau về tài sản.

2. Giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra có yếu tố nước ngoài

2.1. Áp dụng quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra có yếu tố nước ngoài.

2.1.1. Theo pháp luật các nước

Trong việc điều chỉnh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, đa số pháp luật của các nước đều áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti commisi). Tuy nhiên, trong thực tế của đời sống quốc tế thường xảy ra trường hợp là hành vi gây thiệt hại được thực hiện ở nước này nhưng hậu quả của hành vi gây thiệt hại đó lại phát sinh ở một nước khác. Vậy, pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật ở đây sẽ là pháp luật của nước nào. Hiện nay các nước trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất đâu được coi là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Cụ thể, pháp luật một số nước quy định nơi vi phạm pháp luật là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại (Italia, Hy lạp). Theo quan điểm này, thì khi giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, các cơ quan Tư pháp của các nước này sẽ áp dụng hệ thuộc luật nơi có hành vi gây thiệt hại xảy ra. Trong khi đó, pháp luật một số nước khác lại quy định nơi vi phạm pháp luật là nơi phát sinh hậu quả thực tế do hành vi gây thiệt hại gây ra (Anh, Hoa Kỳ). Như vậy, ở những nước theo quan điểm này, người ta sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi có hiện diện của hậu quả thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Kết hợp cả hai

Page 24: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

24

quan điểm nêu trên, pháp luật của một số nước (Đông âu) quy định áp dụng cả hai loại pháp luật. Đó là pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể pháp luật nước nào có lợi hơn khi áp dụng.

2.1.2. Theo pháp luật Việt Nam

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo hệ thống pháp luật Việt Nam được quy định trong Bộ Luật Dân sự Việt Nam (Điều 773), Nghị định số 138 – CP ngày 15.12.2005 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

Trước hết, vấn đề trách nhiệm bồi thường nói trên được quy định tại Điều 773 Bộ Luật Dân sự. Cụ thể, việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây hại.

Trong trường hợp tổ chức, cá nhân nước ngoài gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức và cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân Việt Nam gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại vùng trời, vùng biển thuộc quyền tài phán của Việt Nam thì việc bồi thường thiệt hại được xác định theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Bên cạnh việc áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti commisi), pháp luật Việt Nam quy định áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của các bên đương sự tức bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại và hệ thuộc luật quốc tịch của phương tiện. Cụ thể: Điều 773 khoản 3: Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ của Việt Nam mà người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân hoặc pháp nhân Việt Nam, thì áp dụng pháp luật Việt Nam (Lex Nationalis). Việc bồi thường thiệt hại do tàu bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế hoặc biển cả được xác định theo pháp luật của nước mà tàu bay, tàu biển mang quốc tịch (lex banderae), trừ trường hợp pháp luật về hàng hải, pháp luật về hàng không của Việt Nam có quy định khác ( Điều 773 khoản 2 ).

Như vậy, trong việc điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Luật Tư pháp quốc tế Việt Nam áp dụng pháp luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật với việc kết hợp cả hai quan điểm là theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc theo pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại và áp dụng pháp luật quốc tịch của các đương sự.

2.1.3. Theo điều ước quốc tế

Trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, bên cạnh giải quyết theo pháp luật Việt Nam như đã nêu trên, Tư pháp quốc tế còn có cách giải quyết khác không kém phần hiệu quả. Đó là cách thức giải quyết trên cơ sở các quy định của điều ước quốc tế. Các quy định của điều ước quốc tế ở đây chủ yếu được kể đến là các quy định quy phạm xung đột pháp luật được ghi trong các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự.

Page 25: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

25

Khi nghiên cứu hiệp định tương trợ tư pháp giưa các nước kí với nhau, cho thấy, các hiệp định này có cách giải quyết tương đối giống nhau trong việc xác định luật giải quyết vấn đề bồi thường. Cụ thể, hiệp định thường chia thành hai trường hơp;

-Trong truờng hợp các bên chủ thể (người bị hại và người gây hại) cùng quốc tịch: các hiệp định ghi nhận việc áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của các bên đương sự để giải quyết;

-Trong truờng hợp các bên chủ thể (người bị hại và người gây hại) khác quốc tịch, áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật.

Hiện nay, Việt Nam đã kí kết Hiệp định tương trợ Tư pháp với khoảng 15 nước. Các Hiệp định cơ bản đều có điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Cụ thể Hiệp định với Liên Xô ( cũ ) tại Điều 33, với Tiệp Khắc tại Điều 33, với Hunggari tại Điều 30, với Bungari tại Điều 31, với Ba Lan tại Điều 38, với Lào tại Điều 23, với Liên Bang Nga tại điều 37, với ucraina tại Điều 33, với Mông Cổ tại Điều 41và với Bêlarút tại Điều 39. Còn lại ba Hiệp định là Hiệp định với Cuba, Hiệp định với Trung Quốc và Hiệp định với Cộng Hoà Pháp không có điều khoản quy định về vấn đề này.

Nội dung của điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong các Hiệp định kể trên tương đối thống nhất. Ví dụ, Điều 37 Hiệp định tương trợ tư pháp với Liên Bang Nga năm 1998 quy định :

“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (do hành vi vi phạm pháp luật) được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi xảy ra hoàn cảnh làm căn cứ để yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Nếu nguyên đơn và bị đơn đều là công dân của một Bên ký kết hoặc đều được thành lập hoặc có trụ sở ở một Bên ký kết, thì áp dụng pháp của Bên kí kết đó ”.

Các Hiệp định tương trợ tư pháp với Mông Cổ (Điều 41) với Bungari (Điều 31) với Ba Lan (Điều 38), với Bêlarút (Điều 39) cũng nội dung tương tự như trên.

Riêng Hiệp định tương trợ tư pháp với Hunggari (Điều 30) thì quy định: “ Về trách nhiệm do gây thiệt hại, sẽ áp dụng pháp luật của nước kí kết nơi đã xảy ra hành vi gây thiệt hại. Tuy nhiên, nếu các đương sự thường trú trên lãnh thổ nước kí kết kia thì áp dụng pháp luật của nuớc ký kết kia”. Điều 23 Hiệp định tương trợ tư pháp với Lào cũng có nội dung tương tự như vậy.

Qua các quy định trên cho thấy, trong việc điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước thường áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti Commissi) hoặc Luật nhân thân (Lex Personalis) trong đó hoặc áp dụng luật quốc tịch (Lex Nationalis ) hoặc áp dụng luật nơi cư trú (Lex Domicilli).

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài việc được quy định trong điều ước quốc tế song phương còn được ghi nhận trong điều ước quốc tế đa phương. Một số điều ước quốc tế đáng chú ý đã được xây dựng như:

Page 26: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

26

+ Công ước Lahaye ngày 2/10/1973 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm gây ra. Công ước quy định rõ cơ chế bồi thường thiệt hại nếu sản phẩm, hàng hóa gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì trách nhiệm thuộc về nhà sản xuất. Tuy nhiên, công ước cũng đưa ra nhiều nguyên tắc chọn luật phức tạp, những nguyên tắc này chỉ được áp dụng với những điều kiện nhất định.

Ví dụ Công ước quy định : Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm gây ra, có thể áp dụng một trong các hệ thống pháp luật sau :

Luật nơi thường trú của nạn nhân nếu đây cũng là nơi có cơ sở chính của nhà sản xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 5).

Luật nơi xảy ra thiệt hại nếu đây cũng đồng thời là nơi có trụ sở chính của nhà sản xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 4).

Nguyên đơn có quyền lựa chọn luật áp dụng là luật xảy ra thiệt hại hoặc nơi có cơ sở chính của nhà sản xuất (điều 6).

+ Công ước về tai nạn giao thông đường bộ ngày 4/5/1971. Nội dung công ước đề cập đến việc chọn luật áp dụng giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các phương tiện giao thông gây ra, theo đó luật áp dụng là luật nơi xảy ra tai nạn, hoặc luật nơi đăng ký phương tiện giao thông.

Như vậy, qua nghiên cứu cách giải quyết vấn đề bồi thiệt thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật một số nước, pháp luật Việt Nam cũng như các điều ước quốc tế song phương và đa phương, chúng ta nhận thấy, nguyên tắc áp dụng chủ yếu để giải quyết vấn đề này là Luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại (Lex loci delicti Commissi). Việc áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có những ý nghĩa nhất định :

Thứ nhất, nguyên tắc lex loci delicti Commissi thể hiện tính khách quan, trong trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không cùng quốc tịch hoặc nơi cư trú thì áp dụng nguyên tắc này là phù hợp.

Thứ hai, việc xác định nơi xảy ra thiệt hại thuận lợi dễ dàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết của toà án. Toà án có thể dễ dàng hơn trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh về thiệt hại…đồng thời cũng đảm bảo được lợi ích của bên bị thiệt hại.

Thứ ba, nhìn chung thì nơi xảy ra thiệt hại là nơi có mối quan hệ gần gũi nhất đối với loại tranh chấp trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xét về tính chất loại vụ việc thì áp dụng luật nơi xảy ra thiệt hại là quy phạm thể hiện đúng bản chất của quan hệ. Do vậy ưu điểm nổi bật của nguyên tắc này là đơn giản, dễ áp dụng, chắc chắn và có thể dự tính trước trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Nguyên tắc lex loci delicti Commissi được áp dụng trong pham vi rất rộng. Có thể căn cứ vào luật nơi xảy ra thiệt hại để xác định các vấn đề sau:

Page 27: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

27

- Thế nào là sự kiện hay hành vi gây thiệt hại? Trên thực tế có hành vi ở quốc gia này được coi là hợp pháp (không vi phạm pháp luật), nhưng ở quốc gia khác lại được coi là hành vi bất hợp pháp. Nói cách khác, phải có hành vi gây thiệt hại trên thực tế mới có căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

- Xác định lỗi của các bên: lỗi cố ý hay vô ý, lỗi do người bị thiệt hại gây ra hay do bên thứ ba, lỗi nặng hay lỗi nhẹ…

- Xác định các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại như trách nhiệm bồi thường do người gây ra, hoặc do tài sản thuộc quyền quản lý, sở hữu gây ra, hoặc trách nhiệm do vật nuôi, phương tiện giao thông, hoặc do sản phẩm hàng hóa gây ra…

- Nguyên tắc, cách thức bồi thường thiệt hại.

- Các hình thức chế tài

- Cách thức khởi kiện đối với các công ty bảo hiểm.

- Thời hiệu khởi kiện.

Nói chung, để giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đều có thể căn cứ vào luật nơi xảy ra hành vi hoặc sự kiện gây thiệt hại.

Tuy nhiên, có một điểm cần chú ý, trong trường hợp quy phạm xung đột chỉ dẫn áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại là luật áp dụng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì chỉ áp dụng hệ thống pháp luật thực chất (luật nội dung) của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại, không áp dụng các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế, nói cách khác trong lĩnh vực này cũng không chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu ngược.

Điều này là hoàn toàn hợp lý vì mục đích của việc xây dựng quy phạm xung đột điều chỉnh các quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm giải quyết trực tiếp vấn đề, tạo điều kiện thuận lợi cho toà án giải quyết vụ việc đồng thời cũng đảm bảo được lợi ích của các bên, vì nhìn chung đây cũng là hệ thống luật có quan hệ gần nhất đối với vụ việc. Giả thiết rằng, nếu thừa nhận việc dẫn chiếu ngược thì mục đích của quy phạm không đạt được, gây khó khăn trong việc giải quyết và không đảm bảo được lợi ích của người bị thiệt hại.

Tuy nhiên khi áp dụng nguyên tắc này cũng xảy ra một số trường hợp Ngoại lệ. Để giải quyết xung đột trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ngoài nguyên tắc luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại thì tư pháp quốc tế cũng xây dựng một số nguyên tắc khác để giải quyết xung đột pháp luật trong một số trường hợp đặc thù. Đó là: Trong những trường hợp không xác định được nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Đây là trường hợp khi nơi xảy ra thiệt hại không thuộc lãnh thổ quốc gia nào cả, các học giả thường viện dẫn đến các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp đối với các phương tiện vận tải như tai nạn máy bay, va quyệt tàu biển ở vùng không phận hoặc hải phận quốc tế.

Page 28: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

28

Trong những trường hợp này, không thể xác định được nơi xảy ra thiệt hại cho nên không áp dụng luật nơi xảy ra thiệt hại mà áp dụng luật nơi đăng ký tàu bay, tàu biển (luật quốc tịch của máy bay, tàu biển) để giải quyết các vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Ví dụ: Theo Điều 773 khoản 2 Bộ luật Dân sự 2005 quy định :‘’Việc bồi thường thiệt hại do tầu bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế hoặc biển cả được xác định theo pháp luật của nước mà tàu bay, tàu biển mang quốc tịch, trừ trường hợp pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của Việt Nam có quy định khác’’ [1]

2.2. Áp dụng quy phạm thực chất để giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra có yếu tố nước ngoài.

Việc áp dụng pháp luật thực chất của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài ở đây được hiểu là áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất trong đó xác định rõ quyền đòi bồi thường thiệt hại của bên bị thiệt hại và trách nhiệm phải bồi thường của bên gây thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể. Việc áp dụng này chỉ đặt ra khi các quy phạm xung đột pháp luật của Việt Nam hoặc của nước ngoài hoặc của điều ước quốc tế về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài dẫn chiếu đến. Các cơ quan Tư pháp cũng như các bên đương sự có nhiệm vụ thực hiện việc áp dụng đó để giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói trên một cách cụ thể để dảm bảo sự công bằng và lợi ích của bên bị thiệt hại. Trong quá trình áp dụng pháp luật thực chất của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường có yếu tố nước ngoài, một số yêu cầu luôn được đặt ra là :

- Việc áp dụng phải đảm bảo đầy đủ các quy định của pháp luật bao gồm các quy định trong Bộ Luật Dân sự, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ Luật Dân sự cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan như hàng không, hàng hải, thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, dịch vụ v.v..

- Nội dung áp dụng phải đúng theo nội dung đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể, phải đúng với các quy định tại Bộ Luật Dân sự về trách nhiệm, nguyên tắc, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại; cách thức xác định thiệt hại và đặc biệt mỗi thiệt hại khi xảy ra phải được áp dụng theo đúng với từng loại thiệt hại được quy định cụ thể trong Bộ Luật Dân sự cũng như được quy định trong từng phạm vi và lĩnh vực của các văn bản quy phạm pháp luật khác của hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

- Đối với điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, trong đó có quy phạm thực chất thống nhất quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì khi có vụ việc phát sinh vấn đề bồi thường thiệt hại sẽ áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó để xác định thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại. [2]

Tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế bao gồm quy phạm xung đột và quy phạm thực chất, song chủ yếu là các quy phạm xung đột nhằm điều chỉnh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nhiệm vụ chủ yếu của loại quy phạm pháp luật này là lựa chọn hệ thống pháp luật cần phải được áp dụng để giải quyết quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói trên. Hệ thống pháp luật trong trường hợp này là thường là Luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti Commissi) hoặc luật nhân thân ( Lex personalis – Lex

Page 29: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

29

Nationalis hoặc Lex Domicilli ), tuy nhiên luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật vẫn được áp dụng chủ yếu.

3. Định hướng sửa đổi và hoàn thiện các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra trongTư pháp quốc tế Việt Nam

Qua thi hành các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra cho thấy, các quy định về trách nhiệm này đã từng bước đi vào cuộc sống góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm, góp phần làm lành mạnh quan hệ xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện các quy định đó đã bộc lộ bất cập, hạn chế nhất định. Đó là những vướng mắc về việc xác định mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về vật chất trong Luật dân sự và việc áp dụng Luật dân sự theo quy định của Tư pháp quốc tế. Từ đó vấn đề bức xúc đặt ra là phải sửa đổi và hoàn thiện các quy định trong Tư pháp quốc tế để đáp ứng những yêu cầu giao lưu dân sự trong tình hình hội nhập quốc tế. Dưới đây xin nêu một vài ý kiến cụ thể.

3.1. Về hoàn thiện pháp luật:

- Về quy phạm xung đột, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định dưới dạng quy phạm xung đột được ghi nhận ở Điều 773 Bộ Luật Dân sự. Theo quy định của Điều này, thì việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại. Quy định trên không nêu thứ tự ưu tiên áp dụng hệ thuộc luật nào nên có thể lựa chọn pháp luật của nước này hoặc nước kia là do ý muốn chủ quan của cơ quan Tư pháp. Do vậy, định hướng sửa đổi về vấn đề này là thống nhất áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Còn việc áp dụng pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây hại chỉ đặt ra khi không xác định được nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại.

Còn khoản 2 Điều 773 không nên quy định việc bồi thường thiệt hại do tầu bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế hoặc biển cả, vì quy định này mang tính chất chuyên ngành nên được quy định trong đạo luật chuyên ngành (Luật hàng không, Luật hàng hải) thì hợp lí hơn cả. Hơn nữa quy định tai khoản 2 Điều 773 không có tính khả thi trong trường hợp việc bồi thường thiệt hại do tàu bay, tàu biển gây ra mà các tàu bay, tàu biển mang các quốc tịch khác nhau va chạm nhau gây thiệt hại thì không xác định được pháp luật áp dụng trong trường hợp này.

- Về các quy phạm thực chất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dưới hình thức quy phạm thực chất hầu hết được thể hiện trong Bộ Luật Dân sự. Đây chính là nguồn chủ yếu của Luật dân sự đồng thời cũng là nguồn chủ yếu của Tư pháp quốc tế. Những quy định này trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, góp phần giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, đặc biệt khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu áp dụng pháp luật Việt Nam. Do vậy, những quy định của pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần được nghiên cứu sửa đổi để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống hoà nhập trong nước và quốc tế.

Page 30: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

30

3.2. Về yếu tố con người trong thực thi pháp luật giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra có yếu tố nước ngoài.

Thực tế cho thấy trong mọi hoạt động để đạt được thành công vấn đề con người là quan trọng nhất. Nếu không có con người thì pháp luật chẳng qua là những từ ngữ nằm trên giấy, không thể biến ý chí của giai cấp thống trị thành hành động thực tế của mọi người. Do đó, cần nâng cao năng lực của cán bộ trong các cơ quan áp dụng pháp luật. Năng lực của cán bộ trong các cơ quan áp dụng pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định đúng đắn của quá trình áp dụng pháp luật, bởi vì, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt đối với trường hợp cụ thể. Nếu các chủ thể áp dụng pháp luật có trình độ chuyên môn hạn chế thì không thể tránh khỏi việc đưa ra quyết định áp dụng pháp luật có nội dung không bảo đảm các yêu cầu của pháp luật, ngay cả khi hệ thống pháp luật hoàn thiện ở mức cao. Để nâng cao trình độ năng lực của cán bộ trong thực thi pháp luật giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, theo chúng tôi, cần thực hiện tốt các công việc cụ thể sau:

+ Xây dựng kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

+ Để đào tạo được đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên… đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ và năng lực chuyên môn nghiệp vụ ngang bằng với các nước trong khu vực và trang bị đầy đủ các kiến thức pháp luật cần thiết, chúng ta cần đầu tư thích đáng nguồn ngân sách nhà nước cho công tác đào tạo đội ngũ công chức này.

+ Thường xuyên kiểm tra, đánh giá năng lực của cán bộ để có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ đối với công chức thực thi pháp luật giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong áp dụng pháp giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, chúng ta cần hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lí của các chủ thể áp dụng pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các vụ việc về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

TỔNG QUAN VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI – VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Posted on 05/04/2010 by Civillawinfor

TS. TRẦN THỊ HUỆ – Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội

I. Những vấn đề lý luận cơ bản về Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra

1. Khái niệm và đặc điểm Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra.

1.1. Khái niệm trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra

Page 31: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

31

Theo quy định chung của pháp luật thì công dân và pháp nhân có quyền được bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp phápNgay tại tại Điều 1 Sắc lệnh 97/SL ngày 22.5.1950, đã qui điịnh :"Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân". Điều này được hiểu là mọi quyền dân sự ( quyên nhân thân hay quyên tài sản) thì luôn được pháp luật của Nhà Nước ghi nhận và bảo vệ nhưng chỉ khi con người thực hiện những hành vi năm trong giới hạn mà pháp luật cho phép, Điêu 12 cua Sắc lệnh này tiếp tục qui định cụ thể về một quyền dân sự, đó là quyền được khai thác và hưởng lợi từ tài sản và đồng thời cũng qui định ràng việc khai thác và hưởng lợi đó không được làm phương hại đến lợi ích của các chủ thể khac." Người ta chỉ được hưởng dụng và sử dụng các vât thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân". Điều này dã xác định rất rõ về quyền của chủ sở hữu trong việc sử dụng, khai thác, hưởng lợi ích ích theo ý chí của mình một cách vô tận nhưng phải biết và phải dừng lại khi bắt đầu đụng đến quyên lợi của người khác.Đây là những qui định mang tính nguên tắc xuyên suốt trong quá trình lập pháp của Nhà nước ta Trong Hiến Pháp 1992 cũng định rõ: "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Cụ thể hoá quyền của chủ sở hữu, tại Điều 183 BLDS năm 2005 qui định" Trong trường hợp chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác". BLDS 2005 tại Điều 15 cũng ghi nhận cá nhân có quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản, quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản.Pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu tài sản và quyền được hưởng lợi từ tài sản của các chủ sở hữu, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho chủ sở hữu những nghĩa vụ khi thực hiện các quyền nãng pháp lý của họ. Như vậy pháp luật qui định, khi tài sản của bất kỳ chủ sở hữu nào mà gây thiệt hại trái pháp luật cho chủ thể khác thì Nhà nước sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhất định nhằm mục đích khắc phục những hậu quả xấu về tài sản và tinh thần, khôi phục lại tình trạng vốn có ban đầu cho người bị thiệt hại.

Thông thường, thiệt hại xảy ra thường do hành vi của con người gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều khi tài sản cũng có thể tự bản thân nó gây ra tổn hại cho người khác ví dụ như nhà, công trình xây dựng bị sụt; cây cối bị đổ, gẫy; súc vật cắn, húc người… Chính vì vậy, ngoài trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây ra thì pháp luật còn quy định về trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra. Trong BLDS 1995 cũng như 2005 chỉ qui định một cách bao quát về trách nhiệm BTTHNHĐ, trong đó, có qui định về trách nhiệm bồi thường trong một số trường hợp cụ thể có tính chất đặc biệt mà không có quy định về khái niệm cũng như không có các quy định chung về trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra. Qua qui định của pháp luật Dân sự về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung cũng như một số qui định về các loại tài sản gây thiệt hại, có thể hiểu: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là qui định của luật Dân sự mà khi áp dụng sẽ phát sinh một quan hệ pháp luật dân sự. Theo đó chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng để tài sản gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác thì phải bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.

Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…. thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng còn có những đặc điểm riêng sau đây:

Page 32: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

32

- Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS ở Điều 307 và Chương XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.

- Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại . Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên.

- Về hậu quả: trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.

- Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề…

1.2. Đặc điểm của Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra

Là một loại trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nên trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra cũng mang những đặc điểm của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung. Tuy nhiên trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra nguyên nhân gây ra thiệt hại không phải là do hành vi của con người mà là do bản thân tài sản gây ra. Chính vì vậy, trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra còn có những nét đặc thù riêng:

* Về điều kiện phát sinh trách nhiệm.

Nếu như các điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung bao gồm có 4 điều kiện là: (1) Có thiệt hại xảy ra; (2) Có hành vi trái pháp luật; (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; (4) Có lỗi của người gây thiệt hại thì các điều kiện xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong một số trường hợp yếu tố lỗi được loại trù, Trong loại trách nhiệm này không bao hàm hành vi gây thiệt hại trái pháp luật mà tự thân tài sản tác động trực tiếp gây thiệt hại. Đó là:

- Có thiệt hại thực tế xảy ra;

- Có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật;

Page 33: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

33

- Có lỗi trong việc quản lý, chấp hành qui định vận hành, sử dụnh, bảo quản… tài sản.

- Có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại thực tế đã xảy ra.

Sẽ là không hợp lý khi một đồ vật gây thiệt hại lại xét đến yếu tố hành vi. Thuật ngữ hành vi gây thiệt hại trái pháp luật chỉ đúng khi thiệt hại do con người – thực thể của quan hệ xã hội và là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự – gây ra. Vì vậy, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do đồ vật gây ra chỉ cần xác định đúng sự kiện gây thiệt hại là nguyên nhân trực tiếp làm tổn thất tài sản thực tế, giữa chúng có mối quan hệ nhân – quả, thì chủ sở hữu tài sản phải là người chịu trách nhiệm bồi thường.

Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do đồ vật gây ra , yếu tố lỗi dường như không được xem xét đến. Theo quan niệm truyền thống yếu tố lỗi chỉ được xem xét khi gắn với một chủ thể xác định. Vì vậy, người ta cho rằng gắn lỗi cho đồ vật khi chúng gây thiệt hại là không thể xảy ra. Tuy nhiên, theo nguyên tắc chung, lỗi trong dân sự là lỗi suy đoán cho nên trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại, chủ sở hữu tài sản luôn bị coi là có lỗi. Nếu chủ sở hữu chứng minh được mình không có lỗi cũng sẽ không phải chịu trách nhiệm BTTH ví dụ như trong trường hợp bất khả kháng. Lỗi của chủ sở hữu trong trường hợp này được hiểu là chủ sở hữu quản lý không tốt hoặc không đúng quy trình … để đồ vật gây thiệt hại. Trong trường hợp đặc biệt nếu pháp luật quy định phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi thì chủ sở hữu hoặc chủ thể khác chứng minh được mình không có lỗi vẫn phải BTTH do tài sản gây ra như trong trường hợp BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 623), BTTH do làm ô nhiễm môi trường (Điều 624)…

* Về chủ thể chịu trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra.

Trong thực tế, nhiều trường hợp sự kiện gây thiệt hại của đồ vật diễn ra trong một quá trình và có thể nói là không liên quan gì đến trạng thái tâm lý hay nhận thức của chủ sở hữu. Nói cách khác sự kiện gây thiệt hại của đồ vật nằm ngoài mong muốn cũng như sự kiểm soát của chủ sở hữu. Để nâng cao trách nhiệm của chủ sở hữu trong chiếm hữu, sử dụng tài sản và theo nguyên tắc công bằng thông thường thì chủ sở hữu của tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền quản lý của mình gây ra.

Việc xác định chủ thể trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra cũng có những điểm khác biệt. Nếu xác định chính xác chủ sở hữu đối với tài sản, thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường là công bằng và hợp lý. Nhưng sẽ rất phức tạp nếu “người đó’ chỉ có quyền quản lý mà không phải là chủ sở hữu. Chẳng hạn, việc quản lý cây cối của công ty công viên và cây xanh. Thực tế đã có những thiệt hại loại này xảy ra, nhưng việc quy kết trách nhiệm cho chủ thể phải bồi thường là rất phức tạp. Không ít trường hợp có thiệt hại xảy ra nhưng không quy kết được trách nhiệm bồi thường cho ai! Trong những trường hợp này đương nhiên chủ thể bị thiệt hại phải chịu thiệt thòi.

Vì vậy, để bảo đảm sự công bằng, cần xác định theo tiêu chí sau:

- Tài sản đó xác định rõ chủ sở hữu và chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, thì chủ sở hữu phải bồi thường.

Page 34: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

34

- Nếu đồ vật được chủ sở hữu chuyển giao cho người khác quyền chiếm hữu, sử dụng (thông qua hợp đồng thuê tài sản, thuê khoán…) theo ý chí của chủ sở hữu cần xác định: Nếu có lỗi của người chiếm hữu, sử dụng, thì người chiếm hữu sử dụng có trách nhiệm bồi thường; nếu người chiếm hữu, sử dụng không có lỗi mà thiệt hại do chính đồ vật gây ra (mà người sử dụng không thể biết và luật cũng không buộc phải biết) như đổ nhà, sập trần, xe ô tô bị bất ngờ gẫy khung xe… thì chủ sở hữu phải bồi thường.

- Chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao trách nhiệm quản lý, thì những người này có trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp này cần quy định là trách nhiệm liên đới để bảo đảm việc khắc phục được nhanh chóng, bảo đảm lợi ích cho người bị thiệt hại.

Cần lưu ý rằng, Điều 626 và Điều 627 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định hai trường hợp không phải bồi thường là: thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng. Đây cũng là một thực tế rất phức tạp, vì rằng nếu vì sự vô ý của chủ sở hữu hoặc của người được giao quản lý thì cũng rất khó quy kết trách nhiệm bồi thường. Ví dụ: cây bị mục rễ tự nhiên đổ không phải do bão, lụt (là những sự kiện bất khả kháng thông thường); hoặc có những công trình công cộng lâu năm mà sức bền vật liệu hoặc thời hạn sử dụng đã hết… tự nhiên đổ, thì cũng rất khó khăn khi xác định trách nhiệm. Nên chăng, cần có quy định về trách nhiệm kiểm tra tài sản định kỳ nhằm phòng tránh rủi ro cho những người xung quanh.

Đối với trường hợp tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như cây cối trong rừng, thú dữ, động vật khác gây thiệt hại thì lại có những đặc thù riêng. Do Nhà nước là một chủ thể đặc biệt có rất nhiều đặc quyền và có thể được miễn trừ trách nhiệm nên theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, Nhà nước mới chỉ chịu trách nhiệm BTTH do hành vi của cán bộ, công chức Nhà nước gây ra. Mặc dù Luật Bồi thường Nhà nước đang được xây dựng và sắp được Quốc hội thông qua nhưng trong phạm vi điều chỉnh của Luật này cũng loại trừ trách nhiệm của Nhà nước đối với trường hợp tài sản của Nhà nước gây ra thiệt hại. Do đó, trong trường hợp tài sản của Nhà nước gây ra thiệt hại thì Nhà nước chỉ hỗ trợ cho người bị thiệt hại mà không phát sinh trách nhiệm BTTH và người bị thiệt hại sẽ phải gánh chịu một rủi ro.

*Về năng lực chịu trách nhiệm.

Theo quy định tại Điều 606 BLDS về năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân thì:

Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường;

Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được

Page 35: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

35

giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.

Theo quy định trên thì người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì có thể cha, mẹ hoặc người giám hộ phải chịu trách nhiệm BTTH. Tuy nhiên, quy định này chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp thiệt hại là do hành vi của con người gây ra còn nếu thiệt hại là do tài sản gây ra thì nguyên tắc này không thể được áp dụng bởi lẽ cha mẹ chỉ có thể bị suy đoán là có lỗi trong việc giáo dục, quản lý con cái để con cái có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho người khác. Còn trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại, chủ sở hữu của tài sản vẫn là người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự và cha mẹ không bị coi là có lỗi nếu tài sản đang do người khác quản lý. Hơn nữa, trách nhiệm dân sự là trách nhiệm về tài sản và người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Do đó chủ thể chịu trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra phải là chủ sở hữu của tài sản đó hoặc người đang chiếm hữu, quản lý tài sản chứ không thể là cha mẹ hoặc người giám hộ. Nếu cha, mẹ, người giám hộ cũng là người quản lý tài sản thì họ cũng có thể là người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Mặc dù người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự không có năng lực tố tụng nhưng người đại diện của họ có thể tham gia còn trách nhiệm vẫn phải thuộc về những người này và họ phải bồi thường bằng tài sản của chính họ. Và nếu tài sản của họ không đủ để bồi thường thì cha, mẹ, người giám hộ cũng không phải thực hiện thay.

+ Về đối tượng bị xâm phạm. Nếu đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung có thể là sức khoẻ, tính mạng, tài sản danh dự, nhân phẩm, uy tín, thì đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra chỉ bao gồm thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe,còn thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín không thuộc phạm vi tác động gây thiệt hại của tài sản. Điều này được lý giải theo hướng, danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị nhân thân gắn liền với từng cá nhân và danh dự, uy tín gắn liền với từng tổ chức nhất định. Trong trường hợp bị xâm phạm đến các giá trị kể trên thường được thông qua hành vi của con người dưới dạng hành động ( như thông qua lời nói, chữ viết, hành vi cụ thể) trong sự tác động của quá trình nhận thức cũng như ý thức tôn trọng các quyền tuyệt đối này và ý thức chấp hành pháp luật của con người. Tuy nhiên. việc xâm phạm các lợi ích này có thể dẫn đến tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại hay thân nhân của họ, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc xác định đối tương bị xâm hại trong trường hợp tài sản gây thiệt hại lại là danh dự, nhân phẩm, uy tín

2. Lược sử qui định của pháp luật về trách nhiệm BTTH do tài sản gây thiệt hại.

Sự phát triẻn của pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng gắn liền với lịch sử truyèn thống đạo đức, gắn liền với nền văn hoá dân tộc và với quá trình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của dân tộc Việt Nam. Qua sử liệu cho thấy, trước thời nhà Lê, xã hội Việt Nam đã trải qua các thời kì: nhà Đinh (967-1909); nhà Lý (1010-1225); nhà Trần (1226-1399); nhà Hồ (1400-1406).

Việc nghiên cứu cũng như khảo cổ luật của Việt Nam gặp khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu, các bộ luật chẳng hạn như Bộ luật Hình thư của nhà Lý, Bộ luật Hình thư của nhà Trần cùng một số văn bản pháp luật quý báu khác bị thất lạc. Các tài liệu chính để nghiên cứu các vấn đề pháp

Page 36: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

36

luật nói chung và các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã bị mất. Từ thế kỉ thứ XV, để nghiên cứu về pháp luật ở các triều đại này, các nhà nghiên cứu đã phải sử dụng các tài liệu gián tiếp của các tác giả như Phan Huy Chú, Ngô Sỹ Liên, Lê Quý Đôn, Hoàng Xuân Hoãn…song những tài liệu này không đủ cơ sở để phân tích đánh giá cho một kết luận chính xác nào về một vấn đề cụ thể, trong đó có những quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

2.1. Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo Luật Hồng Đức

Trong Luật Hồng Đức tại chương tạp luật có các qui định về bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra, như trộm cắp, đánh người và các qui định về trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra. Điều 568 Luật Hồng Đức qui định:

“Khi có việc xây dựng hoặc phá huỷ gì mà phòng bị không cẩn thận để đến lỗi xảy ra chết người thì bị xử biếm một tư và chịu tiền mai táng 5 quan, còn thợ thuyền, chủ ty thì hình quan sẽ xem xét lỗi vì ai xảy ra mà định tội.”

Khi xây dựng nhà ở, công trình xây dựng thì chủ sở hữu phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết đảm bảo an toàn trong xây dựng và có biện pháp đề phòng các trường hợp có thể gây thiệt hại cho tài sản, tính mạng sức khoẻ của người khác. Tuy nhiên, nếu xây dựng hoặc phá huỷ công trình xây dựng mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường. Trường hợp này có hai khả năng xảy ra, thứ nhất khi xây dựng hoặc phá huỷ công trình mà người trực tiếp làm công việc đó có lỗi để gây ra thiệt hại. Thứ hai, do người chủ không cẩn thận trong việc ngăn ngừa thiệt hại để cho công trình xây dựng gây thiệt hại đẫn đến chết người, trường hợp này lỗi của chủ sở hữu là gián tiếp cho nên chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại, đây là trách nhiệm do tài sản gây ra.

Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp trên là lỗi vô ý của chủ sở hữu hoặc lỗi của người trực tiếp xây dựng, của người nhận thầu công trình và hậu quả là chết người. Mặc dù lỗi của ai nũa thì suy đoán cũng là lỗi của chủ sở hữu vì người xây dựng là người làm thuê hoặc làm giúp cho chủ sở hữu, cho nên công việc xây dựng hoặc phá dỡ là của chủ sở hữu, vì vậy chủ sở hữu công trình và phải bồi thường. Nếu chủ sở hữu có lỗi vô ý vì cẩu thả “không cẩn thận” sẽ bị xử tội biếm và phải bồi thường tiền mai táng cho nạn nhân là 5 quan tiền.

Khi xây dựng, phá dỡ công trình, việc gây thiệt hại có thể do thợ xây hoặc người tháo dỡ công trình xây dựng bất cẩn để xảy ra thiệt hại, trước hết chủ sở hữu phải bồi thường. Nếu những người trực tiếp thực hiên việc xây dựng, phá dở có lỗi, thì tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị hình phạt tương xứng.

Ngoài các công trình xây dựng gây thiệt hại, pháp luật còn qui định các trường hợp do súc vật gây ra thiệt hại. Điều 581 Luật Hồng Đức qui định:“ Người thả trâu ngựa cho dày xéo, ăn lúa, dâu của người ta thì xử phạt 80 trượng và đền sự thiệt hại. Nếu cố ý thả cho dày xéo thì biếm một tư và đền gấp đôi sự thiệt hại. Nếu trâu ngựa lồng lên không kìm hãm được thì được miễn tội trượng”.

Theo qui định trên, người trực tiếp quản lý trâu, ngựa mà vô ý như chăn dắt trâu ngựa trông coi không cẩn thận để trâu, ngựa phá hoại hoa mầu, mùa màng thì bị phạt 80 trượng và phải đền bù

Page 37: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

37

toàn bộ thiệt hại. Trường hợp cố ý cho trâu, ngựa phá hoại mùa màng, hoa mầu thường là những hành vi mang tính trả thù. Trường hợp này, việc phá hoại mùa màng không những vi phạm trật tự an ninh xã hội mà còn làm ảnh hưởng đến vấn đề an ninh lương thực của chủ sở hữu, cho nên pháp luật áp dụng các chế tài nghiêm khắc đối với người vi phạm.

Nếu do bản tính hung dữ, trâu, ngưạ lồng lên mà người chăn dắt không kìm hãm được việc phá hoại của trâu, ngựa thì chủ sở hữu không có lỗi trong việc trông coi, cho nên không phải chịu trách nhiêm hình sự, tuy nhiên về trách nhiệm dân sự vẫn phải bồi thường thiệt hại.

Trâu, ngựa là loại súc vật to lớn giúp con người trong sản xuất kinh doanh, vì vậy người nông dân thường phải lựa chọn những con súc vật này có tính hiến lành, không hung dữ, như thế mới có thể điều khiển được chúng. Tuy nhiên, có những trường hợp trâu, ngựa phá hoại mùa màng là do hành vi bất cẩn của con người hoặc do hành vi cố ý sử dụng trâu, ngựa làm phương tiên, công cụ để phá hoại mùa màng của người khác, cho nên chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.

Trong thực tiễn phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm, có trường hợp những con súc vật có tính hung ác luôn đe doạ gây thiệt hại, vì vậy chủ sở hữu phải có các biện pháp ngăn chặn không cho súc vật gây thiệt hại tài sản, tính mạng, sức khoẻ của người khác. Điều 582 Luật Hông Đức qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc hung dữ vật gây ra như sau:

“ Súc vật và chó có tính hay húc, đã và cắn người mà làm hiệu buộc ròng không đúng phép (đúng phép là con vật hay húc người thì phải cắt hai sừng, đá người thì buộc hai chân, cắn người thì phải cắt hai tai) hay chó dại mà không giết thì đều xử phạt 60 trượng”.

Đối với súc vật có tình hung ác, thì chủ sở hữu phải có các biện pháp trông giữ theo qui định của pháp luật như trâu, bò hay húc thì phải cắt hai sừng, vì sừng là “vũ khí” nguy hiểm đẻ tấn công con người hay súc vật khác, nếu cắt bỏ thì khả năng gây thiệt hại không còn. Nếu ngựa hay đá người thì phải buộc rằng hai chân trước và sau sao cho có thể đi lại được bình thường nhưng không thể co chân đá người khác và có nghĩa là nếu co hai chân sau lên cùng đá thì con ngựa sẽ bị ngã, cho nên không thể gây ra thiệt hại.

Đối với chó hay cắn người thì cắt hai tai, đây là biện pháp trừng phạt theo cách thức dân gian có hiệu quả. Chó phát hiện ra con người từ hướng nào và chuẩn bị tấn công người hướng đó là do thính giác, vì thế chó bị cắt hai tai sẽ không phát hiện ra tiếng động từ phía nào, cho nên nó không chủ động tấn công con người.

Đối với chó dại là nguồn nguy hiểm cho bất cứ ai, nếu không giết ngay sẽ gây nguy hiểm về tính mạng cho người khác, vì thế chủ sở hữu phải giết chó dại ngăn ngừa chó căn người, nhưng chủ sở hữu không thực hiện việc phòng ngừa đó, cho nên phải chịu hình phạt là 60 trượng.

Súc vật không những gây thiệt hại về tài sản, tính mạng sức khoẻ cho con người, mà còn gây thiệt hại cho những con súc vật cùng loại khác như trâu bò đánh nhau. Đặc biệt trâu mộng là con vật luôn thể hiện mình có sức mạnh nhất mà con khác phải coi chừng và phải nhường lãnh địa kiếm ăn, vì thế, do bản tính kình địch thủ, cho nên chúng hay đánh nhau đến chết, do vậy, nếu xảy ra hai trâu đánh nhau dẫn đến hậu quả một con chết thì được xử lý theo qui định tại Điều 586

Page 38: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

38

LHĐ: “Trâu của hai nhà đánh nhau, con nào chết thì hai nhà cùng ăn thịt, còn sống hai nhà cùng cầy. Trái luật xử phạt 80 trượng”.

Con trâu là đầu cơ nghiệp của một gia đình nông dân, điều này vẫn còn phù hợp đến ngày nay ở nông thôn vùng sâu, vùng xa, nếu không có trâu cày, kéo thì ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình người nông dân, vì vậy Luật Hồng Đức qui định là nếu hai con trâu đánh nhau mà một con chết thì con chết chia đôi cho mỗi chủ sở hữu một nửa và con còn sống thuộc sở hữu chung của hai nhà. Qui định này nhằm đảm bảo cho hai gia đình đều có trâu để cầy, kéo phục vụ sản xuất nông nghiệp của mỗi gia đình.

Qua những điều luật trên, Luật Hồng Đức đã qui định tương đối đầy đủ trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu khi các loại tài sản của mình gây thiệt hại cho người khác. Điều này chứng tỏ các nhà làm luật đã dự liệu được các trường hợp tài sản có thể gây ra thiệt hại và thể hiện cái nhìn tương đối toàn diện về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đương thời.

2.2. Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo Luật Gia Long

Những thành quả của Luật Hồng Đức đã không được kế thừa trong luật của nhà Nguyễn. Vấn đề này do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là do nhà Nguyễn bị ảnh hưởng, phụ thuộc nhiều vào chế độ phong kiến phương Bắc, cho nên trong Hoàng Việt Luật lệ (Luật Gia Long), cấu trúc của Luật Gia Long hoàn toàn khác so với Luật Hồng Đức. Trong chế định bồi thường thiệt hại thì các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không có qui định cụ thể mà chủ yếu qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi con người gây ra (quyển 6 Hộ luật). Trong quyển 6, chủ yếu qui định về các hành vi gây thiệt hại về tài sản của Vua hoặc quan lại triều đình mà không có qui định về bồi thường thiệt hại tài sản của công dân. Điều này có thể được giải thích là trong xã hội nhà Nguyễn pháp luật bảo vệ tuyệt đối quyền lợi của giai cấp thống trị nhằm củng cố địa vị của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động.

2.3. Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo quy định của các Bộ Dân luật

Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, quốc mẫu Pháp đã thi hành chế độ bảo hộ đối với Việt Nam và các nước Đông Dương, vì vậy các bộ luật dân sự của nước ta thời kỳ pháp thuộc do nhà nước Pháp ban hành bằng tiếng pháp và được dịch ra tiếng Việt. Các bộ luật này dựa theo Bộ luật dân sự của NAPOLEON nhưng có điều chỉnh phù hợp với điều kiện chính trị kinh tế, xã hội ở Việt Nam.

Chế định bồi thường thiệt hại trong Bộ Dân luât Bắc Kỳ (DLBK) và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật (DLTK) được chia thành trách nhiệm dân sự theo hợp đồng và ngoài hợp đồng. Đối với trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, nguyên tắc chung để xác định trách nhiệm dân sự được qui đinh tại Điều 711(DLBK) và Điều 763 (DLTK):

“Người ta phải chịu trách nhiệm không những tổn hại tự mình làm ra mà cả về sự tổn hại do những người mà mình phải bảo lãnh hay do những vật mình phải trông coi nữa.

Page 39: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

39

Phàm vật vô hồn mà làm nên tổn hại. thì người trông coi vật ấy cho là có lỗi vào đó, không phân biệt vật đó có tay người động đến hay không, muốn phá sự phỏng đoán đó thì phải có bằng chứng trái lại mới được.

Bấy nhiêu trường hợp như trên đều có trách nhiệm cả, trừ khi người chịu trách nhiệm đó có bằng chứng rằng cái việc sinh ra trách nhiệm ấy mình không thể ngăn cấm được”.

Đoạn một điều luật trên qui định về nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự là người nào gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường. Mặt khác nếu một người giám hộ (bảo lỉnh) người khác mà để người được giám hộ gây thiệt hại thì người giám hộ phải bồi thường thiệt hại, vì người giám hộ không thực hiện tốt nghĩa vụ giám hộ của mình nên phải chịu thay người được giám hộ. Ngoài ra đoạn một điều luật còn qui định trách nhiệm của người trông coi tài sản mà để tài sản gây thiệt hại thì phải bồi thường thiêt hại. Người trông coi tài sản có thể là chủ sở hữu, hoặc người được chủ sở hữu chuyển tài sản thông qua hợp đồng như gửi giữ…, người trông giữ không bảo quản, coi giữ cẩn thận để tài sản gây thiệt hại là do lỗi của người trông gữi, cho nên họ phải bồi thường thiệt hại.

Đoạn hai điều luật qui định vật vô hồn là các vật như nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản vô chi vô giác khác gây thiệt hại trong hai trường hợp: Thứ nhất, do người quản lý trông coi, sử dụng tài sản mà có lỗi vô ý, quản lý, trông coi hoặc khai thác sử dụng không cẩn thận để tài sản gây thiệt hại. Thứ hai là tài sản tự nó gây thiệt hại mà không có hành vi tác động trực tiếp của người quản lý trông coi. Trường hợp này người quản lý tài sản có lỗi vô ý gián tiếp là không thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa có khả năng cho phép, cho nên để tài sản gây thiệt hại, vì vậy chủ sở hữu hoặc người quản lý trông coi tài sản phải bồi thường thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của người quản lý tài sản mà do hành vi trái luật trực tiếp hoặc gián tiếp của người thứ ba thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phát sinh khi người quản lý, trông coi tài sản chúng minh được việc gây thiệt hại đó là bất khả kháng. Vì trường hợp này người quản lý không có lỗi trong việc trông coi tài sản, thiệt hại xảy ra nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người, cho nên họ không phải chịu trách nhiêm dân sự.

Trách nhiệm dân sự về thiệt hại do súc vật gây ra được qui tại Điều 715 (DLBK) và Điều 766 (DLTK):

“ Người chủ con vật hay người dùng nó, trong khi nuôi nó mà nó làm tổn hại sự gì phải chịu trách nhiệm dù khi đó mình có giữ nó hay nó trốn di mặc lòng”.

Súc vật là những con gia súc nuôi trong nhà như trâu, bò, lợn, chó.. đây là những con thú dữ đã được thuần hoá, nhưng do bản năng hung dữ có thể xuất hiện bất cứ khi nào, vì vậy chủ sở hữu, người sử dụng súc vật phải có biện pháp trông coi cẩn thận, tuy nhiên có trường hợp chủ sở hữu đã áp dụng các biện pháp cho phép để trông giữ nhưng súc vật vẫn trốn khỏi sự kiểm soát của chủ sở hữu hoặc người sử dụng nó và gây thiệt hại cho người khác. Súc vật gây thiệt hại có thể do hành vi bất cẩn của người quản lý nó hoặc do người quản lý đã không lường hết được các khả năng sẽ gây thiệt hại thì những trường hợp này suy đoán là ngươì quản lý có lỗi trong việc trông

Page 40: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

40

coi, quản lý súc vật để nó gây thiệt hại, vì thế chủ sở hữu hoặc người quản lý sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại.

Tài sản lớn có giá trị của cá nhân là nhà ở, tài sản này có thể gây thiệt hại do hành vi vô ý của chủ nhà thể hiện trong Điều 716 (DLBK) và Điều 767 (DLTK) như sau:

“ Người chủ nhà mà nhà đổ nát làm thiệt hại cho người ta vì không chụi tu bổ hay vì làm không chắc chắn phải chịui trách nhiệm về sự tổn hại đó”.

Khi nhà ở bị đổ gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ cho người khác cần xem xét lỗi của chủ nhà trong việc tu bổ, sửa chữa thường xuyên những hư hỏng thông thường. Nếu chủ nhà cố ý hoặc vô ý không tu bổ hư hỏng mà để gây thiệt hại thì đây là hành vi vô ý của chủ nhà. Trường hợp nhà đổ do xây dựng không đảm bảo an toàn như chất lượng vật liệu không tốt, kỹ thuật xây dựng kém hoặc làm nhà tạm bợ vì không có khả năng kinh tế…những trường hợp trên mà nhà ở gây thiệt hại thì được coi là lỗi gián tiếp của chủ sở hữu, cần phải biết hoặc buộc phải biết về khả năng nhà có thể đổ nát khi gặp mưa to, gió lớn, cho nên chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.

Các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hai bộ Dân luật Bắc kỳ và dân luật Trung kỳ đều dựa trên căn cứ vào lỗi trực tiếp hoặc lỗi gián tiếp của của chủ sở hữu hoặc quản lý sử dụng tài sản. Nguyên tắc xác định trách nhiệm dân sự dựa trên yếu tố lỗi đảm bảo được việc xác định đúng trách nhiệm dân sự của người có hành vi trái luật, bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại trong việc khắc phục hậu quả thiệt hại do người khác gây ra.

2.4. Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo quy định của Pháp luật Việt Nam hiện đại.

* Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo quy định của Thông tư 173/UBTP năm 1972

Bộ dân luật Bắc kỳ được áp dụng ở miền Bắc nước ta đến cuối năm 1959 và sau đó toà án áp dụng đường lối xét xử được Toà án nhân dân tối cao tổng kết kinh nghiệm xét xử hàng năm và các văn bản hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao. Trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại có Thông tư 173-UBTP ngày 23/3/1972 ( TT.173) của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Theo Thông tư 173, để xác định một chủ thể có phải chịu trách nhiệm dân sự hay không cần phải căn cứ vào 4 điều kiện sau:

- Phải có thiệt hại

Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất, cụ thể là các thiệt hại về tài sản, các chi phí cần thiết và thu nhập bị mất do xâm phạm đến tính mạng sức khoẻ.. những thiệt hại xảy ra phải tính toán được bằng một số tiền cụ thể.

- Phải có hành vi trái pháp luật.

Hành vi trái luật có thể là hành vi phạm pháp hình sự hoặc bất kỳ hành vi nào vi phạm pháp luật nói chung hoặc vi phạm một qui tắc sinh hoạt xã hội.

Page 41: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

41

- Phải có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.

Thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của của hành vi trái luật, hành vi trái luật là nguyên nhân chủ yếu có tính quyết định làm phát sinh hậu quả cụ thể.

- Người gây thiệt hại có lỗi.

Người gây thiệt hại nhận thức hoặc cần phải nhân thức hành vi của mình là trái luật và có thể gây ra thiệt hại cho người khác. Lỗi của người gây thiệt hại có thể là cố ý hoặc vô ý.

Khi có thiệt hại xảy ra, cần phải xem xét thiệt hại do hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp của con người. Hành vi trực tiếp gây thiệt hại là hành của một người đã xác định được, hành vi đó là trái luật. Hành vi gián tiếp gây thiệt hại là do ngưòi đó không thực hiện các biện pháp cần thiết để phòng ngừa việc gây thiệt hại, như không có các biện pháp phù hợp bảo quản tài sản dẫn đến việc tài sản gây thiệt hại…Đối với những trường hợp hành vi trực tiếp gây thiệt hại cần xác định ý thức chủ quan của người gây thiệt hại là biết, hoặc không biết hành vi của mình là sai để xác định người thực hiên hành vi đó có lỗi cố ý hay vô ý. Trường hợp tài sản gây thiệt hại do nguyên nhân chủ quan của người quản lý sử dụng tài sản, thì cần phải xác định lỗi của người chủ sở hữu hoặc người quản lý sử dụng thể hiện như thế nào trong từng trường hợp cụ thể.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra được hướng dẫn tại Mục B điểm 4 của Thông tư 173 như sau:

“-Đối với thiệt hại do súc vật gây ra (như chó dại cắn chết người, trâu húc người hay súc vật bị thương) thì người sở hữu súc vật trực tiép phụ trách viẹc trông coi, chăn rắt phải chịu bồi thường.

Nếu súc vật đã chuyển cho người khác sử dụng (như cho mượn..) mà gây thiệt hại thì người sử dụng súc vật đó phải bồi thường.

Cở sở trách nhiệm của người chủ sở hữu hay của người trực tiếp sử dụng súc vật là lỗi của họ trong việc trông coi, chăn dắt súc vật không cẩn thân.”

Khi súc vật gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ cho người khác lỗi lỗi vô ý của chủ sở hữu hoặc người trực tiếp quản lý sử dụng thì chủ sở hữu hoặc người trực tiếp quản lý sử dụng phải bồi thường thiệt hại. Nếu súc vật đã chuyển giao cho người khác thông qua hợp đồng chuyển quyền sủ dụng thì, người chiếm hữu hợp pháp phải bồi thường thiệt hại. Theo hướng dẫn trên, thì lỗi của người chủ sở hữu hoặc của người trực tiếp quản lý sử dụng là lỗi vô ý, không cẩn thận trong việc trông coi súc vật dẫn đến việc súc vật thoát khỏi sự kiểm soảt của chủ sở hữu, người quản lý sử dụng và gây thiệt hại. Ngược lại, do lỗi vô ý để súc vật gây thiệt hại làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì lỗi cố ý cho súc vật phá hoại mùa màng hoa mầu của người khác… thì tất nhiên chủ sở hữu, người quản lý sử dụng phải bồi thường thiệt hại.

Về nguyên tắc, khi xác định trách nhiệm dân sự của một chủ thể thì cần phải xác định chủ thể đó có lỗi trong việc gây thiệt hại. Tuy nhiên, một số trường hợp không cần xác định lỗi của con người, đó là trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Nguyên tắc của trách nhiệm

Page 42: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

42

này là chủ sở hữu sử dụng tài sản thì phải bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, trừ trường hợp chứng minh được thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi người bị hại hoặc do bất khả kháng. Trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hướng dẫn tại điểm 5 mục B Thông tư 173.

“ Trường hợp thiệt hại xảy ra hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ, không do lỗi của ai, thì cơ quan quản lý nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại…”

Những năm 1970, miền Bắc đã hoàn thành cải tạo XHCN, cho nên phương tiện giao thông vận tải và các nguồn nguy hiểm cao độ khác chủ yếu thuộc sự quản lý của các hợp tác xã, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội.. cho nên TT.173 hướng dẫn là cơ quan quản lý nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại. Thông tư 173 được áp dụng đến ngày Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực.

* Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo quy định của Thông tư 03-TATC ngày 05/04/1983

Thông tư 173 được ban hành trong điều kiện nền kinh tế – xã hội còn chưa phát triển, trình độ và kỹ thuật lập pháp còn đạt ở mức độ khiêm tốn; vì thế, những qui định trong Thông tư này chưa thực sự toàn diện, thiếu vắng những qui định liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, quan hệ xã hội phát sinh ngày càng nhiều và phong phú hơn trong đời sống dân sự, vì thế, yếu tố khách quan này đòi hỏi cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn. Thực trạng đó đã đưa đến cuộc trao đổi thống nhất giữa VKSNDTC, Bộ GTVT và với TANDTC. Thông tư số 03-TANDTC ngày 05/04/1983 được ban hành, hướng dẫn một số quy định về BTTH trong tai nạn ô tô. Vào thời điểm Thông tư 173 được ban hành thì ở Việt Nam ô tô chỉ thuộc sở hữu nhà nước, các cá nhân không có quyền sở hữu đối với các loại ô tô, vì thế, trong mọi trường hợp, chủ sở hữu là nhà nước phải BTTH. Thời gian sau đó, ở Việt Nam, ô tô không chỉ thuộc sở hữu của nhà nước mà còn thuộc sở hữu của tư nhân. Điều đó chứng tỏ trong xã hội, khả năng kinh tế của mỗi cá nhân có độ chênh lệch, bởi thế, các nhà lập pháp đã có cách nhìn nhận mới trong việc quy định trách nhiệm BTTH do tai nạn ô tô. Trên cơ sở kế thừa những quy định của Thông tư 173 về cơ sở để xác định việc bồi thường cũng dựa vào 4 điều kiện. Tuy nhiên, trong khi quy định về trách nhiệm BTTH trong tai nạn ô tô đã quy định khá cụ thể về lỗi của từng chủ thể (lỗi của phía ô tô, lỗi của nạn nhân, lỗi của người thứ 3). Ngoài ra, còn có dự liệu khi ô tô va chạm mà gây thiệt hại và chỉ có 1 bên có lỗi thì bên có lỗi phải BTTH còn nếu cả 2 bên có lỗi thì xác định trách nhiệm liên đới. Nếu trong trường hợp tự thân hoạt động của ô tô mà gây thiệt hại thì phía ô tô phải bồi thường. Trong trường hợp bất khả kháng như: do cây đổ, đá lở, sét đánh, v.v… thì phía ô tô không phải bồi thường. Người phải BTTH cũng phải xác định tương đối cụ thể trong Thông tư 03, cụ thể là người chiếm hữu phương tiện phải bồi thường những thiệt hại gây ra cho người xung quanh mà không phân biệt người chiếm hữu phương tiện chỉ phải bồi thường khi người lái xe đang làm nhiệm vụ được giao với khi không được giao nhiệm vụ nhưng đã lợi dụng hoặc sử dụng để làm việc riêng. Qui định này xuất phát từ việc nhanh chóng khắc phục thiệt hại cho người bị thiệt hại và có tác dụng làm cho người chiếm hữu phương tiện phải quản lý những người lái xe. Thông tư này còn xác định người chủ xe là người chiếm hữu xe trừ khi xe đã được chuyển giao cho người khác thông qua hợp đồng cho mượn, cho thuê không kèm theo người lái, xe bị trưng dụng theo mệnh lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi xe chuyển giao thì người được chuyển giao phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nếu xe bị huy động phục vụ các nhu cầu của nhà nước như: chống bão lụt, dịch bệnh,… thì chủ phương tiện vẫn phải BTTH nếu xe

Page 43: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

43

gây thiệt hại vì chủ phương tiện vẫn được coi là thực hiện kế hoạch Nhà nưóc, được Nhà nước cung cấp cho kinh phí, nhiên liệu, v.v…. Có thể nói, đây là quy định hoàn toàn không phù hợp với lợi ích của chủ xe mà cần được hiểu rằng trong trường hợp này, xe đã được chuyển giao và Nhà nước chính là người đang chiếm hữu xe của cá nhân để phục vụ lợi ích công cộng, không cân bằng giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, dẫn đến hậu quả rất khó khăn trong việc khuyến khích chủ xe thực hiện nghĩa vụ với nhà nước…

* Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo quy định của BLDS 1995 và 2005

Trong Bộ luật dân sự 1995 và được sửa đổi bổ sung năm 2005, các qui định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không thay đổi, bổ sung mà thay đổi số các điều luật. Qui định bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra gồm các điều luật sau đây:

Điều 627 BLDS 1995 (Đ623 BLDS 2005)-Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Điều 628 (624)-Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường. Điều 629 (625) -Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra. Điều 630 (625)-Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra. Điều 631(626)-Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra. Những qui định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong BLDS dựa trên cơ sở pháp lý là lỗi của chủ sở hữu hoặc của người trực tiếp sử dụng, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó. Những người này có lỗi vô ý hoặc cố ý để tài sản của mình gây thiệt hại. Ngoài ra, luật qui định trường hợp không cần xác định lỗi của chủ sở hữu như trách nhiệm dân sự do ngưồn nguy hiểm câo độ gây ra.

3. Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo quy định của pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.

3.1. Pháp luật của Cộng hoà Pháp

Pháp luật luật dân sự của Pháp ảnh hưởng mạnh đến pháp luật dân sự của nhà nước phong kiến Việt Nam thời kỳ thuộc địa, vì thế các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung trong các Bộ dân luật Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ đều giống Bộ luật dân sự Pháp.

Điều 1384 Bộ luật dân sự Pháp qui định:

“Mỗi người phải chịu trách nhiệm không những về thiệt hại do mình gây ra mà cả về thiệt hại do những người mà mình chịu trách nhiệm hoặc những vật mà mình coi giữ gây ra”.

Điều 1385 BLDS Pháp: “ Chủ sở hữu con vật hoặc người sử dụng con vật ấy phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do con vật gây ra, dù nó đang được coi giữ hoặc bị xổng ra”.

Điều 1386 BLDS Pháp: “Chủ sở hữu công trình xây dựng phải chịu trách nhiệm vè thiệt hại gây ra do công trình bị đổ vì thiếu bảo dưỡng hoặc vì khuyết tật trong khi xây dựng”.

Các qui định trong Bộ dân luật Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ đã đựợc phân tích tại phần đầu.

3.2. Pháp luật của Nhật Bản

Page 44: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

44

Trong Bộ luật dân sự Nhật Bản, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được qui định tại Chương V- Hành vi không hợp pháp. Chương này qui định về bồi thường thiệt hại do hành vi không hợp pháp của con người trực tiếp hoặc gián tiếp gây thiệt hại. Người có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì cần phải xác định người chủ sở hữu, người trực tiếp quản lý, người sử dụng có lỗi hay không. Nếu thiệt hại xảy ra mà người quản lý sử dụng hoàn toàn không có lỗi thì không phải bồi thường. Lỗi của người quản lý tài sản thể hiện trong từng trường hợp cụ thể khác nhau. Thiệt hại xẩy ra có thể do hành vi của con người hoặc do tài sản nhưng nguyên nhân chính là hành vi cố ý hoặc bất cẩn của con người trong việc quản lý, sử dụng tài sản, vì thế Điều 709 BLDS Nhật Bản qui định một nguyên tắc chung là: “Một người vi phạm do cố ý hoặc do vô ý mà vi phạm quyền của người khác thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh từ vi phạm ấy”

Theo qui định trên quyền của người khác là các quyền dân sự như quyền nhân thân, quyền tài sản (quyền sở hữu)…Tuỳ thuộc vào loại thiệt hại mà người gây thiệt hại phải bồi thường theo các mức khác nhau. Điều 709 BLDS Nhật bản qui định hai cơ sở bồi thường là người gây thiệt hại có lỗi vô ý hoặc cố ý và thiệt hại là xâm phạm quyền dân sự của các nhân tổ chức. Đây là một qui định mang tính tổng quát, cho nên không cần thiết phải qui định cụ thể từng trường hợp gây thiệt hại. Tuy nhiên, có những thiệt hại xẩy ra xét về thực tế người phải bồi thường không có lỗi hoặc lỗi của họ là bị suy đoán như công trình xây dựng gây thiệt hại trong thời gian sử dụng. Lỗi có thể là do thiết kế, thi công hoặc do các nguyên nhân khác mà không phải là sự kiện bất khả kháng. Liên quan đến vấn đề này Điều 717 BLDS Nhật Bản qui định: “ Nếu việc xẩy ra thiệt hại đối với người khác vì nguyên nhân sai sót trong xây dựng hoặc bảo quản cấu trúc trên đất thì người chiếm hữu cấu trúc chịu trách nhiệm về những thiệt hại đối với bên bị thiệt hại, song nếu như người chiếm hữu đã thể hiện sự quan tâm đúng mức nhằm ngăn chận việc xảy ra thiệt hại thì chủ của cấu trúc đó phải bồi thường”.

Theo qui định trên, nếu công trình đang xây dựng mà gây thiệt hại thì phải xác định lỗi của người đang thi công. trường hợp người thi công có lỗi như vi phạm qui trình kỹ thuật xây dựng, vô ý để tài sản gây thiệt hại cho người khác thì bên thi công phải bồi thường thiệt hại. Qui định này hoàn toàn phù hợp với thực tế, bởi lẽ xây dựng là công việc thuộc chuyên môn kỹ thuật cao, người làm nghề xây dựng phải có thẻ hành nghề và mua bảo hiểm nghề nghiệp, vì vậy nếu trong quá trình xây dựng do lỗi của bên thi công thì bên thi công phải bồi thường thiệt hại và bên thi công có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường thay.

Trường hợp, các công trình xây dựng hoặc các cấu trúc khác như nhà khung sắt, nhà gỗ…sụp đổ gây thiệt hại, trước hết xem xét người chiếm hữu cấu trúc đó có lỗi trong việc sử dụng hay không, nếu người chiếm hữu không có lỗi trong việc cấu trúc gây thiệt hại thì chủ sở hữu công trình phải bồi thường. Rõ ràng trường hợp này người chủ sở hữu không có lỗi trong việc khai thác tài sản, cho nên qui định có tính chất suy đoán người chủ sở hữu có lỗi nên buộc phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, xét về mặt thực tiễn qui định này có tính hợp lý, thể hiện là công trình xây dựng là những khối bê tông cốt thép khổng lồ được chôn sâu trong lòng đất, vì công trình xây dựng do con người tạo ra, do vậy mọi tính toán của con người đều không thể đúng một cách tuyệt đối, cho nên có thể dẫn đến thiếu sót trong thăm dò địa chất, thiết kế, hoặc thi công dẫn đến gây thiệt hại cho người khác, vì vậy cần phải buộc chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại là phù hợp. Mặt khác pháp luật qui định như vậy để buộc chủ sở hữu phải mua bảo hiểm các công trình xây dựng, nếu xảy ra thiệt hại thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường thay.

Page 45: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

45

Đối với trách nhiệm dân sự do súc vật gây ra, thì cần phải xác định lỗi của người chủ sở hữu, người quản lý súc vật theo Điều 718 BLDS Nhật Bản: “Người chiếm hữu động vật phải bồi thường thiệt hại do nó gây ra cho người thứ ba, song đièu này không áp dụng nếu người chiếm hữu đã bảo quản nó với quan tâm đúng mức phù hợp với đặc tính và bản chất của động vật. Người chăm sóc động vật thay cho người chiếm hữu cũng phải gánh vác trách nhiệm nêu ở phần trên”.

Khi xảy ra thiệt hại, để xác định lỗi của chủ sở hữu, người quản lý súc vật phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể xem xét chủ sở hữu, người quản lý súc vật đã áp dụng các biện pháp bảo vệ, ngăn ngừa súc vật gây thiệt hại phù hợp với đặc tính của từng loại súc vật hay chưa, ngoài ra các biện pháp đó có phù hợp với hoàn cảnh nuôi giữ súc vật hay không. Nếu súc vật gây thiệt hại mà người chủ sở hữu, người quản lý súc vật không có lỗi thì không phải bồi thường thiệt hại. Qui định này phù hợp với lý luận và thực tiễn, bởi lẽ nguyên tắc xác định trách nhiệm dân sự là lỗi của người gây thiệt hại mà trường hợp này người người chủ sở hữu, người quản lý súc vật đã sử dụng các biện pháp ngăn ngừa cho phép nên đã thể hiên sự thận trọng trong việc nuôi, giữ súc vật. Ví dụ: nuôi chó trong nhà mà chủ sở hữu đã xích chó một chỗ cố định mà trộm vào nhà bị chó cắn. Trường hợp này không thể coi chủ sở hữu có lỗi trong việc chó gây thiệt hại cho kẻ trộm.

Những qui định về bồi thường thiệt hại trong Luật dân sự của Pháp và đặc biệt của Luật dân sự Nhật Bản rất hợp lý và hợp tình trong việc xác định trách nhiệm dân sự của người gây thiệt hại hoặc của chủ sở hữu, người quản lý sử dụng tài sản. Những qui định này chỉ rõ trường hợp nào có lỗi, trường hợp nào không có lỗi nhưng vẫn phải bồi thường, trên cơ sở đó áp dụng pháp luật sẽ được chính xác.

II. Quy định của Pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra:

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định dân sự có lịch sử ra đời sớm nhất. Các quốc gia trên thế giới, tương ứng với mỗi thời kỳ lịch sử với những điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau có những quy định khác nhau về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nhưng có một nguyên tắc nhất quán không thay đổi, đó là người gây thiệt hại có lỗi phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ nhằm bảo đảm việc khắc phục, đền bù những tổn thất vật chất và tinh thần do hành vi trái pháp luật gây ra mà còn giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Trong thực tiễn đời sống, thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm… của các cá nhân, tổ chức có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. “Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” là sự kiện phổ biến làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, bên cạnh những thiệt hại phát sinh do hành vi trái pháp luật và có lỗi của con người, có nhiều thiệt hại phát sinh do tác động của những sự vật khác như đồ vật, máy móc, thiết bị, súc vật… không liên quan đến hành vi của con người, khó có thể xác định được ai là người gây ra thiệt hại và ai có lỗi. Trong những trường hợp như vậy, quyền được bồi thường của nạn nhân liệu có được bảo đảm không và ai sẽ phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường?

Xuất phát từ nguyên tắc chung của pháp luật dân sự là tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, khi các quyền này bị xâm phạm, gây thiệt hại, việc bồi thường thiệt hại

Page 46: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

46

cho nạn nhân là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Chính vì vậy, bên cạnh những quy định mang tính nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra, pháp luật dân sự Việt Nam còn dành ra một số quy định ngoại lệ đối với trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra.

1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

1.1. Có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của tài sản

Nếu như “hành vi gây thiệt hại trái pháp luật” của con người là nguyên nhân phổ biến làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra chỉ được áp dụng khi thiệt hại “do sự tác động tự thân của tài sản” gây ra.

Trong khoa học pháp lý đã có quan điểm cho rằng các vật là vô tri vô giác, vì vậy chúng không thể gây thiệt hại nếu không có sự tác động của con người. Quan điểm này cho rằng đằng sau việc gây thiệt hại của một vật bao giờ cũng có sự tác động của con người: Chiếc xe gây tai nạn là do người lái xe làm cho nó chuyển động; nhà máy thải chất độc hại ra môi trường là do chủ ý của người quản lý nhà máy; cây đổ là do người chặt cây làm nó đổ… Quan điểm này đánh đồng tất cả các thiệt hại đều do con người gây ra, đồng nghĩa với việc phủ định có thiệt hại hoàn toàn do tài sản tự gây ra. Như vậy, các thiệt hại đều quy về một nguyên tắc bồi thường thiệt hại nói chung.

Tuy nhiên, không phải mọi thiệt hại do tài sản gây ra đều có sự tác động của con người. Nhiều trường hợp, sự kiện gây thiệt hại của tài sản nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người và tự thân tài sản có thể gây thiệt hại. Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác động của vật”có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, là điểm mấu chốt để phân định ranh giới giữa hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại: do hành vi của con người gây ra và do tài sản gây ra.

Hầu hết các vụ tai nạn, thiệt hại đều có sự tham gia của đồ vật, súc vật với vai trò trung gian như là công cụ, phương tiện mà con người sử dụng để gây thiệt hại như: đặt mìn để gây thiệt hại cho người khác, để đánh cá; dùng súng sát thương người khác; lái xe phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn; dùng chất độc để đầu độc người khác; dùng nguồn điện để gài bẫy trộm; huấn luyện chó tấn công người khác; phá dỡ công trình xây dựng gây thiệt hại cho người xung quanh… Những trường hợp này thiệt hại hoàn toàn do hành vi có chủ ý của con người. Ý chí của con người thể hiện thông qua hành vi tác động trực tiếp đến tài sản của mình, dùng tài sản như một công cụ trung gian để gây thiệt hại với lỗi cố ý hoặc vô ý. Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến tài sản (như nguồn nguy hiểm cao độ, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng, súc vật) nhưng do “tác động của con người”, do hành vi của con người gây ra thì sẽ không áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra (Theo các điều 623, 625, 626, 627 Bộ luật dân sự) mà sẽ chỉ áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra chỉ được áp dụng khi tự thân tài sản đó gây thiệt hại như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật; cây cối tự nhiên đỗ, gẫy; công trình xây dựng tự sụt lở gây tai nạn; súc vật vô cớ tấn công người; do tác

Page 47: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

47

động của môi trường hoặc dịch bệnh dẫn tới trâu, bò, chó điên, dại gây thiệt hại… Sự kiện gây thiệt hại của tài sản trong những trường hợp này theo cơ chế “tự gây thiệt hại”, hoàn toàn không có sự tác động của con người. Tuy nhiên, sự độc lập giữa “tác động của vật” và “tác động của con người” chỉ mang tính chất tương đối. Cây cối, công trình xây dựng, nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật… gây thiệt hại có thể vì nhiều lý do, trong đó có thể xuất phát từ nguyên nhân sâu xa là người quản lý đã không thực hiện tốt nghĩa vụ trông coi, quản lý nên đã không có biện pháp thích hợp, kịp thời để ngăn chặn nguy cơ tài sản gây thiệt hại.

Một điểm cần lưu ý là sự kiện gây thiệt hại của tài sản phải có tính trái pháp luật. Pháp luật hiện hành mới chỉ có quy định về “hành vi trái pháp luật” của con người mà chưa có quy định về tính trái pháp luật khi tài sản gây thiệt hại. Theo tinh thần của Bộ luật dân sự, mọi công dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe; quyền sở hữu của công dân được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Vì vậy, về nguyên tắc, việc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác bị coi là trái pháp luật. Tuy nhiên, Điều 623 Bộ luật dân sự về Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; Điều 625 về Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra; Điều 626 về Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra; Điều 627 về Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra đều thuộc về trường hợp tâì sản gây thiệt hại, và cần phải hiểu đây là sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật, vì thế trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải được đặt ra.

- Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại: Trong các trường hợp Điều 625, 626, 627, thiệt hại xảy ra có thể do lỗi cố ý hoặc vô ý của người bị thiệt hại, ví dụ: công trình xây dựng đang xuống cấp, lún, nứt nghiêm trọng, đã có biển báo nguy hiểm và hàng rào vây quanh nhưng người bị thiệt hại vẫn đi vào khu vực cấm vì cho là không nguy hiểm; đột nhập vào trong nhà để trộm cắp bị chó giữ nhà tấn công… Riêng Điều 627 Bộ luật dân sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được loại trừ trong trường hợp “thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại”. Quy định như vậy được hiểu là nếu thiệt hại hoàn toàn do lỗi vô ý của người bị thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ vẫn phát sinh. Lý do vì nguồn nguy hiểm cao độ luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cao và cần đề cao trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ trong việc trông giữ, quản lý hơn các tài sản khác.

- Thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng: Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện xảy ra hoàn toàn mang tính khách quan mà các chủ thể liên quan không thể tiên liệu được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong điều kiện, khả năng cho phép. Việc không thể tiên liệu và không thể khắc phục được không chỉ đối với chủ sở hữu, người quản lý tài sản mà còn đối với những người khác nếu trong điều kiện, hoàn cảnh đó. Sự kiện bất khả kháng có thể là thiên tai như: lũ quét, mưa đá, sóng thần, động đất… hoặc những thảm họa như nổ bom nguyên tử… Trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường này được quy định trong các Điều 623 – Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; Điều 626 – Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra và Điều 627 – Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra. Riêng đối với thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625), Bộ luật dân sự không cho đây là một trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường, có nghĩa là chủ sở hữu, người quản lý súc vật vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp thiệt hại do sự kiện bất khả kháng, ví dụ: do thời tiết mà súc vật bị dịch bệnh, gây thiệt hại cho con người. Chủ sở hữu, người quản lý súc vật có nghĩa

Page 48: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

48

vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để quản lý, chăm sóc súc vật, bảo đảm chúng không gây thiệt hại cho người khác.

Ngoài ra, theo nguyên tắc chung của pháp luật, việc gây thiệt hại cũng không bị coi là trái pháp luật nếu được thực hiện theo một quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ví dụ: hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật; để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.

1.2. Có thiệt hại do tài sản gây ra:

Do tính chất của loại trách nhiệm này là thiệt hại do tài sản gây ra nên thiệt hại chỉ bao gồm thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Riêng thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm không thuộc phạm vi tác động gây thiệt hại của tài sản.Tuy nhiên, cũng có thể có những trường hợp gây thiệt hại về tinh thần cho những người xung quanh.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra chỉ áp dụng khi tài sản gây thiệt hại “cho người khác” hay có thể gọi là “người xung quanh”. “Người khác” (hay “người xung quanh”) được hiểu là những người khi xảy ra thiệt hại, không phải là chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản. Nếu tài sản gây thiệt hại cho chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Trường hợp tài sản gây thiệt hại cho người chiếm hữu, sử dụng tài sản theo nghĩa vụ lao động, người chiếm hữu, sử dụng bị thiệt hại có thể được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Nếu thiệt hại gây ra cho người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng theo hợp đồng, việc có làm phát sinh trách nhiệm bồi thường hay không còn phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên cũng như các quy định khác của pháp luật. Ví dụ: khoản 3 Điều 493 Bộ luật dân sự quy định về nghĩa vụ của bên cho thuê nhà ở, trong đó quy định “nếu bên cho thuê không bảo dưỡng, sửa chữa nhà mà gây thiệt hại cho bên thuê thì phải bồi thường”. Tuy nhiên, nếu có phát sinh trách nhiệm trong trường hợp này thì đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, không phải trách nhiệm ngoài hợp đồng mà chúng ta đang đề cập.

Cách xác định thiệt hại vẫn căn cứ vào các quy định chung của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường (Từ Điều 608 đến Điều 610)

1.3. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Theo quan điểm cổ điển, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Lỗi theo truyền thống khoa học luật dân sự, được hiểu là yếu tố chủ quan nói lên trạng thái tâm lý của con người có khả năng đánh giá và nhận thức được hành vi của mình là đúng hay sai và hậu quả của hành vi đó. Một vấn đề được đặt ra là nếu thiệt hại do tự bản thân tài sản gây ra thì có xem xét đến yếu tố lỗi của người sở hữu, quản lý không?

Page 49: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

49

Quan điểm thứ nhất: Lỗi là một trong các căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bản chất của lỗi trong dân sự là “lỗi suy đoán”, được hiểu là người nào gây ra thiệt hại bị suy đoán đương nhiên là có lỗi. Đối với các thiệt hại do tài sản gây ra, chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản bị suy đoán là có lỗi. Họ chỉ được giải trừ khỏi trách nhiệm bồi thường khi chứng minh được mình không có lỗi, hay nói cách khác, họ phải chứng minh được thiệt hại do tài sản gây ra là do lỗi của người khác và khi đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được chuyển sang cho người bị coi là có lỗi; Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tài sản cũng không bị coi là có lỗi khi họ chứng minh thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất khả kháng (khi đó người bị thiệt hại không được bồi thường và coi đó như là một rủi ro đối với mình) hoặc thiệt hại hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại (khi đó người bị thiệt hại phải tự chịu). Trên thực tế, thiệt hại do tài sản gây ra có thể có nguyên nhân sâu xa là người sở hữu, người quản lý tài sản đã không thực hiện tốt nghĩa vụ của họ trong việc quản lý. Nếu chủ sở hữu, người quản lý tài sản đã áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết để quản lý tài sản của mình nhưng việc tài sản gây thiệt hại nằm ngoài khả năng kiểm soát, chi phối của họ thì họ không bị coi là có lỗi và không phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Điều kiện này trong nhiều trường hợp thực tế là không thể thực hiện được khi thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của ai cả. Khuynh hướng xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên ý niệm lỗi nhiều khi không bảo đảm được một cách hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Thực tế cho thấy các thiệt hại mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Nếu trong mọi trường hợp xảy ra thiệt hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi thì không khác gì gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường thiệt hại của nạn nhân. Vì vậy, để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân chống lại việc gây ra tai nạn, xuất hiện quan điểm thứ hai cho rằng khi có thiệt hại xảy ra, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi.

Quan điểm thứ hai: cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra loại trách nhiệm hoàn toàn loại trừ yếu tố lỗi của người sở hữu, người chiếm hữu tài sản. Theo quan điểm này, yếu tố lỗi chỉ được xem xét khi gắn với hành vi của một chủ thể nhất định. Vì vậy, gắn lỗi cho các tài sản như đồ vật, nhà cửa, cây cối, súc vật… là không thể xảy ra. Vì vậy, khi tài sản như đồ vật, máy móc, cây cối, công trình xây dựng, súc vật gây thiệt hại sẽ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường cho người có trách nhiệm quản lý tài sản, kể cả trong trường hợp người này hoàn toàn không có lỗi đối với thiệt hại. Quan điểm này bảo vệ được lợi ích của người bị thiệt hại nhưng có khuynh hướng đè nặng trách nhiệm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự từ Điều 623 đến Điều 627 Bộ luật dân sự 2005, chúng ta có thể thấy duy nhất hai điều luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại không xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 quy định: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”; Điều 624 quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi”. Các điều luật còn lại không quy định vấn đề loại trừ yếu tố lỗi, được hiểu là vẫn áp dụng bốn điều kiện bồi thường thiệt hại nói chung, trong đó có điều kiện về lỗi. Một điểm quan trọng cần lưu ý là lỗi của chủ sở hữu, người chiếm hữu trong trách nhiệm bồi

Page 50: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

50

thường thiệt hại do tài sản gây ra chỉ có thể là lỗi vô ý. Chủ thể này đã không nhìn thấy trước nguy cơ tài sản có thể gây thiệt hại – điều mà những người chu đáo, cẩn thận sẽ nhận thấy được trong hoàn cảnh tương tự. Thiệt hại phát sinh khi chủ sở hữu, người quản lý tài sản đã không thực hiện sự quan tâm, chu đáo cần thiết khi thực hiện nghĩa vụ quản lý tì sản.

- Trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: Súc vật là những động vật đã được con người thuần hóa, kiểm soát được hoạt động và tuân thủ theo sự quản lý của con người trong quá trình nuôi dưỡng. Mặc dù súc vật đã được thuần hóa nhung chúng vẫn mang bản chất tự nhiên của động vật hoang dã nên chỉ cần con người lơi lỏng, thiếu ý thức trong việc quản lý, chăm sóc là súc vật có khả năng gây thiệt hại. Lỗi của chủ sở hữu, người quản lý súc vật trong trường hợp súc vật gây thiệt hại là lỗi vô ý, thể hiện ở chỗ họ đã không áp dụng tốt, đầy đủ các nguyên tắc trong việc trông coi, quản lý, chăm sóc súc vật như: không cột giữ trâu bò cẩn thận khi chăn thả ngoài đồng làm trâu bò tự do đi lại dẫm nát ruộng lúa của người khác; không tiêm phòng dịch cho gia súc, gia cầm khi đến mùa dịch bệnh… Đây là những biện pháp phòng ngừa thiệt hại cần thiết mà người quản lý súc vật hoàn toàn có thể thấy trước và có khả năng thực hiện được nhưng đã không thực hiện, dẫn đến súc vật gây thiệt hại.

- Trường hợp bồi thường thiệt hại do cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra: Chủ sở hữu, người quản lý cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng có các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản, trong đó có nghĩa vụ tuân thủ các quy định về chuẩn mực an toàn trong xây dựng cũng như các quy tắc trồng cây, không để tài sản mình đang quản lý gây thiệt hại cho người khác. Để có thể thực hiện tốt nghĩa vụ này, người trông coi quản lý phải kịp thời phát hiện nguy cơ cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng khác có khả năng gây thiệt hại cho những người xung quanh để tìm cách khắc phục như cây đã mục ruỗng, cành cây to chưa được chặt khi cơn bão sắp tới hoặc nhà bị nghiêng…Nếu không có ngay biện pháp khắc phục kịp thời thì người trông coi phải có các cách thức thông báo tình trạng nguy hiểm của cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng để những người xung quanh tránh xa chúng hay có biện pháp tự bảo vệ. Nếu thiệt hại xảy ra trong trường hợp chủ sở hữu, người quản lý đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình trong việc quản lý thì họ sẽ được giải trừ khỏi trách nhiệm bồi thường.

- Trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Quy định này được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt, hoàn toàn không cần xem xét đến điều kiện lỗi.

Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm các sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy, thú dữ… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Tính nguy hiểm của nó còn thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối nguy cơ gây thiệt hại và đây chính là điểm khác biệt với các tài sán thông thường. Đối với súc vật, nhà cửa, công trình xây dựng, cây cối, người quản lý có khả năng nhìn thấy trước nguy cơ gây thiệt hại cũng như có điều kiện áp dụng các biện pháp phòng ngừa thiệt hại. Thiệt hại do súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra thường có lỗi của người quản lý vì họ đã không tuân thủ đầy đủ và nghiêm túc các quy tắc trong chăn nuôi, trông cây, trong xây dựng… Đối với nguồn nguy hiểm cao độ, mặc dù con người luôn cố gắng áp dụng mọi biện pháp để kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng

Page 51: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

51

vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp họ chứng minh được mình không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu như các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên sự suy đoán lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người (như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại). Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hành vi của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định đến thiệt hại và lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…).

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung.

1.4. Có mối quan hệ nhân quả giữa sự tác động gây thiệt hại của tài sản với thiệt hại xảy ra

Khi có thiệt hại xảy ra và xác định trách nhiệm thuộc về ai, cần xem xét thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra? Nguyên nhân đó do đâu mà có? Nếu không xác định chính xác mối quan hệ nhân quả thì sẽ dẫn đến những sai lầm khi xác định trách nhiệm bồi thường. Đối với thiệt hại do tài sản gây ra, điều kiện này đòi hỏi thiệt hại xảy ra là do sự tác động của tài sản gây thiệt hại, chứ không phải do hành vi của con người. Cái cây tự nó đổ sẽ khác với trường hợp người chặt cây cho nó đổ xuống; cái xe ô tô tự dưng mất phanh gây tai nạn sẽ khác với trường hợp người lái xe phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn… Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra chỉ được áp dụng khi thiệt hại là kết quả của sự tác động tự thân của tài sản gây ra.

2. Vấn đề xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

Đối với những thiệt hại do hành vi của con người gây ra, việc xác định trách nhiệm bồi thường căn cứ vào việc người nào có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì phải bồi thường. Đối với những thiệt hại do tài sản gây ra, việc xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm không phải là vấn đề đơn giản vì sự kiện gây thiệt hại của tài sản có thể diễn ra độc lập, không có liên quan đến trạng thái tâm lý hay nhận thức của chủ sở hữu hay người quản lý tài sản. Có không ít trường hợp tài sản gây thiệt hại nhưng không thể quy kết trách nhiệm cho cho chủ thể nào. Căn cứ vào các quy định hiện hành liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, trách nhiệm có thể được áp dụng với các chủ thể sau:

- Chủ sở hữu tài sản;

Page 52: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

52

- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng tài sản;

- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản.

2.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng, quản lý tài sản

Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu là người có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Điều 165 Bộ luật dân sự quy định Nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, theo đó “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Khi có thiệt hại do tài sản gây ra, trước tiên người ta nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, vì vậy, trách nhiệm bồi thường trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về người khác hoặc do sự kiện bất khả kháng. Trường hợp xác định được chủ sở hữu tài sản và người này đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng, quản lý tài sản của mình thì chủ sở hữu phải bồi thường. Họ bị coi là có lỗi khi đã không thực hiện tốt nghĩa vụ trông coi, quản lý tài sản, để tài sản của mình gây thiệt hại cho người khác.

2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng, quản lý tài sản cho người khác

Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng luôn có các hình thức thể hiện khác nhau: Chủ sở hữu có thể trực tiếp chiếm hữu, sử dụng để khai thác công dụng của tài sản; chủ sở hữu cũng có thể chuyển giao quyền chiếm hữu thực tế tài sản cho người khác và cho phép người này được sử dụng, quản lý tài sản của mình như: ủy quyền quản lý, cho thuê, cho mượn, chuyển giao theo nghĩa vụ lao động…). Theo chúng tôi, chủ sở hữu tài sản có thể chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua hai hình thức sau:

+ Chủ sở hữu tài sản chuyển giao tài sản của mình cho người khác quản lý, sử dụng theo quan hệ hành chính, lao động. Trong trường hợp này, người được chuyển giao tài sản là các cơ quan, tổ chức, cá nhân – những chủ thể có nhiệm vụ quản lý tài sản theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Giữa trường hợp chủ sở hữu tài sản là nhà nước và trường hợp chủ sở hữu tài sản là các cá nhân, tổ chức, trách nhiệm bồi thường có gì khác nhau hay không?

Ví dụ: Nhà nước giao tài sản thuộc sở hữu nhà nước là cây xanh, các công trình xây dựng công cộng… cho các cơ quan, tổ chức quản lý. Nếu cây đổ, công trình xây dựng sụt đổ, hư hỏng, sụp lở gây thiệt hại thì nhà nước hay cơ quan, tổ chức quản lý phải bồi thường? Trách nhiệm bồi thường sẽ được xác định trên cơ sở văn bản hoặc quyết định liên quan đến việc giao tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, nếu những văn bản này không quy định ai phải chịu trách nhiệm thì sẽ xác định trách nhiệm như thế nào? Trên thực tế, cây xanh trên đường phố đỗ, gẫy gây tai nạn, không cơ quan nào có trách nhiệm bồi thường. Dự thảo Luật bồi thường Nhà nước cũng không quy định trách nhiệm bồi thường nhà nước trong trường hợp này.

Trường hợp tài sản thuộc sở hữu của các tổ chức, cá nhân được giao cho người làm công, ăn lương chiếm hữu, sử dụng để thực hiện nhiệm vụ mà người chủ lao động giao cho. Giữa chủ sở

Page 53: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

53

hữu tài sản và người được giao chiếm hữu, sử dụng tài sản có mối quan hệ lao động, được xác lập qua tuyển dụng hoặc ký kết hợp đồng lao động. Mặc dù người lao động là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng tài sản nhưng hoàn toàn dưới sự quản lý, điều hành của chủ sở hữu và vì lợi ích của chủ sở hữu nên phải coi đây giống như trường hợp chủ sở hữu tài sản đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng, theo đó, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm khi tài sản của mình gây thiệt hại cho người khác trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Ví dụ: giữa người lái taxi và hãng taxi có thỏa thuận lái xe phải chịu mọi trách nhiệm khi xe của mình gây thiệt hại. Theo quy định pháp luật hiện nay, vấn đề gánh chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp các bên có thỏa thuận sẽ căn cứ vào thỏa thuận tự nguyện giữa các bên. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đối với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu buộc người bị thiệt hại đòi người lái xe phải bồi thường là tương đối khó khăn. Mặt khác, ô tô thuộc sở hữu của công ty và Công ty có trách nhiệm bảo đảm an toàn tài sản thuộc sở hữu, quản lý của mình. Người lái xe chỉ là người đang thực hiện một hoạt động của công ty, mang lại lợi nhuận cho công ty, dưới sự giám sát, điều hành của công ty. Chúng tôi cho rằng trong trường hợp này, để bảo đảm được lợi ích cho người bị thiệt hại, bảo đảm thiệt hại được bồi thường nhanh chóng, cần xác định công ty phải bồi thường với tư cách chủ sở hữu. Còn thỏa thuận giữa lái xe và công ty là thỏa thuận bên trong nhằm đề cao trách nhiệm của người lái xe, đồng thời là cơ sở pháp lý để công ty yêu cầu lái xe thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn.

Tuy nhiên cũng cần lưu ý trường hợp thiệt hại do tài sản gây ra không phải trong lúc người lao động thực hiện nhiệm vụ mà người sử dụng lao động giao cho. Ví dụ: Anh A là lái xe theo hợp đồng của Công ty X, có nhiệm vụ đưa giám đốc đi họp hội nghị. Trong lúc chờ giám đốc họp, A tranh thủ lái xe đi chơi thăm bạn bè. Xe bị mất lái trong lúc A điều khiển xe đi chơi dẫn đến gây thiệt hại. Theo chúng tôi, trong trường hợp này, thiệt hại xảy ra không phải trong lúc A đang thực hiện nghĩa vụ lao động vì lợi ích của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Vì vậy, A là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải chịu trách nhiệm bồi thường.

+ Chủ sở hữu chuyển giao quyền tài sản cho người khác chiếm hữu, sử dụng, quản lý theo một giao dịch dân sự.

Chủ sở hữu có thể chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng, quản lý tài sản cho chủ thể khác thông qua hợp đồng: mượn, thuê, cầm cố, gửi giữ… tài sản hoặc ủy quyền cho người khác quản lý tài sản của mình. Đây là những hợp đồng dân sự được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, vì vậy sự cam kết thỏa thuận được coi như pháp luật đối với các bên. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận đó. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật. Bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, trong đó có nghĩa vụ trông coi, quản lý tài sản, không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác. Trường hợp tài sản gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của họ, họ bị coi là có lỗi trong việc quản lý, sử dụng và phải chịu trách nhiệm bồi thường.

2.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong trường hợp tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật

Page 54: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

54

Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản là các chủ thể đã thực hiện hành vi trộm cắp, chiếm đoạt hoặc các hành vi chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật khác… tài sản ngoài ý chí của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Theo quy định của Bộ luật dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản chỉ áp dụng trong trường hợp bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 623) và bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625) – do đây là những động sản dễ bị người khác chiếm hữu, sử dụng gây thiệt hại . Đối với cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng – là các bất động sản không di dời, dịch chuyển được nên luôn thuộc sự quản lý của chủ sở hữu hoặc người có quyền quản lý. Bộ luật dân sự 2005 phân định thành 2 trường hợp.

+ Nếu chủ sở hữu, người quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật hoàn toàn không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật gây ra. Chủ sở hữu, người quản lý tài sản được giải trừ khỏi trách nhiệm bồi thường nếu họ chứng minh được đã tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ trong việc bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng… tài sản.

+ Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản cũng có lỗi trong việc để tài sản bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường cùng người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.

- Ngoài những trường hợp pháp luật quy định, trên thực tế có trường hợp chủ sở hữu bắt buộc phải chuyển giao tài sản cho người khác theo quy định của pháp luật, ví dụ: người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước trưng dụng tài sản của các cá nhân, tổ chức khi cần thiết để bảo vệ lợi ích chung; hoặc tạm thu giữ tài sản theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Trong những trường hợp này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản bắt buộc chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo chúng tôi, pháp luật nên quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng được chuyển giao cho cơ quan nhà nước đó.

2.4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra

Khi xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, cần phải xác định xem tài sản gây thiệt hại là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng. Đây là vấn đề quan trọng để chúng ta xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm của một bên vợ chồng hoặc của cả hai vợ chồng.

Bên cạnh đó, tính chất cộng đồng trong quan hệ hôn nhân nên nhiều trường hợp mặc dù trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định là của một bên vợ chồng nhưng bên kia tự nguyện dùng tài sản chung của vợ chồng để bồi thường hoặc có khi dùng tài sản riêng của mình để bồi thường cho phía người bị thiệt hại điều này hoàn toàn được chấp nhận miễn là thiệt hại được bồi thường toàn bộ và kịp thời theo đúng quy định của pháp luật.

2.5. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra có yếu tố nước ngoài

Page 55: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

55

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế được hiểu là quan hệ trách nhiệm có yếu tố nước ngoài. Quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ trách nhiệm có một trong các yếu tố sau đây:

Thứ nhất, các bên chủ tham gia trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm bên gây hại và bên bị hại có quốc tịch khác nhau hoặc nơi cư trú khác nhau (đối với cá nhân) hoặc có trụ sở ở các nước khác nhau (đối với pháp nhân).

Thứ hai, việc gây ra thiệt hại hoặc hậu quả thực tế của hành vi gây ra thiệt hại xảy ra ở nước ngoài.

Để giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra có yếu tố nước ngoài, có thể áp dụng quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật hoặc áp dụng quy phạm thực chất, song chủ yếu vẫn là áp dụng các quy phạm xung đột nhằm điều chỉnh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nhiệm vụ chủ yếu của loại quy phạm pháp luật này là lựa chọn hệ thống pháp luật cần phải được áp dụng để giải quyết quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói trên. Hệ thống pháp luật trong trường hợp này là thường là Luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti Commissi) hoặc luật nhân thân (Lex personalis – Lex Nationalis hoặc Lex Domicilli), tuy nhiên luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật vẫn được áp dụng chủ yếu.

3. Thủ tục giải quyết tranh chấp và thi hành án về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

3.1. Thủ tục giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tài sẩn gây ra

* Việc xác định đương sự trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

Việc xác định các bên đương sự trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường là tìm ra người có quyền lợi bị thiệt hại và người có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật. Về nguyên tắc chủ thể có quyền lợi trong vụ kiện đã thực hiện việc khởi kiện hay được người khác khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho họ được coi là nguyên đơn. Người khởi kiện để bảo vệ quyền lợi ích của người khác, tuỳ trường hợp sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật hay đại diện theo uỷ quyền.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng hạn định những trường hợp, theo đó chỉ những chủ thể nhất định mới có quyền yêu cầu người gây thiệt hại thực hiện nghĩa vụ bồi thường và chỉ có những chủ thể này mới có thể khởi kiện với tư cách là nguyên đơn. Cụ thể là đối với các yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần do xâm phạm đến tính mạng thì chỉ những người sau đây mới có thể khởi kiện : Người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng hoặc người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (Điều 309, 609, 610 BLDS).

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 610 BLDS thì thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Vấn đề đặt ra là đối với các thiệt hại vật chất do tính mạng bị xâm phạm này thì ai sẽ là người có quyền khởi kiện. Có thể nhận thấy đối với khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà

Page 56: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

56

người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng thì chính những người có quyền cấp dưỡng (hoặc người đại diện hợp pháp của họ) có thể đứng đơn kiện. Nếu dùng phương pháp loại trừ thì ta cần phải xác định ai là chủ thể có quyền khởi kiện để đòi các khoản bồi thường là chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai táng. Về nguyên tắc, thì người có quyền kiện với tư cách là nguyên đơn để đòi những khoản tiền này là người thực tế đã bỏ tiền ra để chi phí cho người bị thiệt hại đã chết. Tuy nhiên, xét về thực tế thì thông thường những người thân thích là người thừa kế theo pháp luật của nạn nhân chính là những người đã bỏ tiền ra để chi phí nhằm khắc phục thiệt hại, do vậy, những chủ thể này có thể khởi kiện với tư cách là nguyên đơn. Như vậy, theo suy luận logic trong trường hợp tính mạng bị xâm hại thì phạm vi những người có quyền khởi kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất có thể rộng hơn phạm vi những người có quyền khởi kiện để yêu cầu bù đắp những tổn thất về tinh thần.

Theo phân tích ở trên, người cho rằng mình có quyền lợi bị tranh chấp hay vi phạm có quyền khởi kiện nhưng không có nghĩa là họ có quyền khởi kiện bất kỳ ai. Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì, “Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm” (khoản 3 Điều 56 BLTTDS 2004). Như vậy, nhà lập pháp dường như đã đồng nhất bị đơn với người bị kiện. Thiết nghĩ, sẽ hợp lý hơn khi quan niệm rằng bị đơn trong vụ án dân sự là người bị khởi kiện do giả thiết đã xâm phạm tới quyền lợi của nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Tuy việc kiện của nguyên đơn chỉ là một suy đoán về việc người bị kiện có hành vi trái pháp luật hay trách nhiệm nhưng suy đoán đó không phải là một giả tưởng mà phải là một suy đoán có căn cứ dựa trên cơ sở pháp luật.

Đối với việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì người bị thiệt hại phải khởi kiện người có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự và trong trường hợp này người bị khởi kiện là bị đơn. Đối với việc thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới thì bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ (Điều 298 BLDS). Trong trường hợp này, bị đơn trong vụ kiện là một trong số những người có nghĩa vụ liên đới bị nguyên đơn khởi kiện, những người có nghĩa vụ liên đới còn lại sẽ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Việc xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường phải căn cứ vào quy định của pháp luật dân sự đối với từng trường hợp cụ thể. Riêng đối với việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cần căn cứ vào Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để xác định người có trách nhiệm trong quan hệ bồi thường và tư cách bị đơn sẽ thuộc về người có trách nhiệm bồi thường bị khởi kiện[1].

Theo Điều 626 BLDS thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do cây cối đổ, gẫy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 200 BLDS thì rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Như vậy, xét về logic đối với thiệt hại do cây rừng đổ, gẫy gây ra thì Nhà nước phải bồi thường. Xét về thực tế, thì vấn đề đặt ra là người bị thiệt hại có thể khởi kiện ai: cơ quan quản lý (UBND tỉnh hay huyện) nơi có rừng hay chủ thể bị

Page 57: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

57

khởi kiện là Nhà nước. Tương tự như vậy, đối với thiệt hại do cây cối đổ, gẫy tại các khu vực công cộng nơi đô thị gây ra thì công ty công viên cây xanh có phải là chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không cũng là một vấn đề cần được quy định cụ thể trong pháp luật dân sự và tố tụng dân sự.

Điều 627 BLDS quy định chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác. Như vậy, đối với các công trình xây dựng như cột điện (thiệt hại do đường dây tải điện gây ra sẽ áp dụng Điều 623 BLDS), các hố ga, cống ngầm …hư hỏng dẫn tới tai nạn gây thiệt hại cho người tham gia giao thông thì về nguyên tắc người bị thiệt hại có thể khởi kiện yêu cầu cơ quan điện lực, cơ quan quản lý các công trình giao thông công chính bồi thường thiệt hại.

* Việc xác định Toà án có thẩm quyền để thực hiện. Thủ tục giải quyết tranh chấp và thi hành án về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

3.1. Thủ tục giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tài sẩn gây ra

* Việc xác định đương sự trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

* Việc xác định Toà án có thẩm quyền để thực hiện việc khởi kiện

- Về thẩm quyền sơ thẩm theo cấp Toà án:

Thông thường, các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, đối với những việc nêu trên nếu có một bên đương sự đang ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì người bị thiệt hại phải yêu cầu Toà án cấp tỉnh thụ lý giải quyết (các Điều 33, 34 BLTTDS).

- Về thẩm quyền sơ thẩm theo lãnh thổ:

Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản, đối với các việc kiện không phải là tranh chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định theo nguyên tắc nơi hiện diện của bị đơn. Như vậy, về nguyên tắc đối với các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì Toà án có thẩm quyền là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, nếu các đương sự có thoả thuận với nhau bằng văn bản thì cũng có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức (Điều 35 BLTTDS).

Bên cạnh đó, nhà lập pháp cũng đã quy định về quyền lựa chọn của nguyên đơn trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà không cần sự đồng thuận của người bị kiện. Cụ thể như sau:

Page 58: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

58

Theo quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 36 BLTTDS thì “ Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết” nhằm mở rộng hơn quyền lựa chọn của người bị thiệt hại trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Theo luật thực định nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm liên đới, do tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều người hoặc chủ sở hữu và người chiếm hữu cùng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại…thì Toà án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc hoặc có trụ sở giải quyết. Điểm h Khoản 1 Điều 36 BLTTDS quy định “Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết”.

Như vậy, tuỳ theo trường hợp mà Toà án có thẩm quyền theo lãnh thổ giải quyết việc kiện bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là Toà án nơi bị đơn, Toà án nơi nguyên đơn hoặc Toà án nơi xảy ra thiệt hại. Để xác định nơi cư trú của cá nhân là nguyên đơn hay bị đơn trong vụ kiện, cần căn cứ vào các quy định của BLDS (từ Điều 52 tới Điều 57) và quy định của Luật cư trú 2006 (Điều 12 tới Điều 17).

* Về điều kiện thực hiện quyền khởi kiện

- Về thời hiệu khởi kiện:

Trước đây, đối với các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng pháp luật không quy định về thời hiệu khởi kiện nên trong thực tế các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không bị giới hạn về thời gian khởi kiện. Thế nhưng, hiện nay theo Điều 607 BLDS thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có chỉ rõ hai mốc thời gian để xác định thời hạn hai năm nói trên. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh kể từ ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trước ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 1/1/2005.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm là ngày nào: Ngày xảy ra sự kiện thiệt hại hay ngày mà quyền được bồi thường của người bị thiệt hại không được bên gây thiệt hại đáp ứng. Ví dụ trong trường hợp nếu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động nhưng trong thời hạn hai năm kể từ ngày xảy ra thiệt hại mà họ không khởi kiện thì họ có mất quyền khởi kiện hay không? Nếu quan niệm người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện nữa thì dường như mâu thuẫn với quy định “người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết”. Tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng người bị thiệt hại chỉ được hưởng bồi thường cho đến khi chết nếu đã khởi kiện khi sự việc còn thời hiệu khởi kiện, ngược lại nếu không khởi kiện trong thời hạn đó thì sẽ không được hưởng bồi thường. Nếu giải thích theo hướng này thì quả thực rất bất lợi cho người bị thiệt hại. Thiết nghĩ, sẽ hợp lý hơn nếu cho rằng khi hết thời hạn 2 năm kể từ ngày kết thúc việc điều trị người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện với các khoản chi phí để điều trị nhằm khắc phục thiệt hại, còn đối với các khoản thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút sau khi điều trị thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm tính theo

Page 59: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

59

định kỳ hàng tháng đối với từng khoản thu nhập. Theo chúng tôi, pháp luật cần phải có những hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng các quy định của BLDS về thời hiệu khởi kiện trong các vụ việc về yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại.

- Về trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án

Về nguyên tắc thì Toà án không thụ lý đối với các trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 168 BLTTDS về trả lại đơn khởi kiện thì Toà án trả lại đơn khởi kiện nếu sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án, trừ trường hợp vụ án thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại …Như vậy, nếu vận dụng các quy định này thì mặc dù trước đó người bị thiệt hại đã khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại và Toà án đã giải quyết nhưng sau đó đương sự vẫn có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường nếu điều kiện sống thay đổi hoặc bệnh tật tái phát làm phát sinh những khoản chi phí mới để điều trị và bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ.

* Về vấn đề chứng minh và xác định luật áp dụng

- Về vấn đề chứng minh

Khi thực hiện việc khởi kiện trước Toà án để yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì về nguyên tắc người khởi kiện phải có trách nhiệm dẫn chứng các giấy tờ, tài liệu để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn nếu có yêu cầu phản tố cũng có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ, tài liệu để chứng minh.

Trong việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì các chứng cứ tài liệu được cung cấp là để làm rõ những vấn đề sau đây:

- Có thiệt hại thực tế xảy ra hay không và mức độ thiệt hại

- Người bị khởi kiện có hành vi trái pháp luật hay không? Nếu là tài sản gây thiệt hại thì có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật hay không?

- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật hoặc sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra

- Lỗi của người gây thiệt hại, lỗi của người bị thiệt hại

Bốn yếu tố này là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, người bị khởi kiện có thể dẫn chứng những tài liệu để phản bác lại yêu cầu khởi kiện như chứng minh thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.

Page 60: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

60

Trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, người bị thiệt hại có thể cung cấp cho Toà án những tài liệu, hoá đơn, chứng từ để chứng minh thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Thế nhưng trách nhiệm của Toà án là phải thẩm định lại tính xác thực và độ tin cậy của những tài liệu này. Trong trường hợp cần thiết Toà án có thể tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn (ý kiến của bác sĩ điều trị, hội đồng giám định y khoa đối với thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; kết luận giám định về nguyên nhân lún nứt công trình xây dựng, về chi phí thực tế bỏ ra để phục hồi nguyên trạng tài sản…) hoặc tham khảo ý kiến của cơ quan nơi người lao động làm việc để xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

- Về xác định luật áp dụng

Về nguyên tắc, trước hết Toà án phải căn cứ vào các quy định mang tính nguyên tắc, bao gồm quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (các điều từ 604 đến 607 BLDS) và các quy định về xác định thiệt hại (các điều từ 608 đến 612 BLDS) để áp dụng giải quyết. Bên cạnh đó, đối với trường hợp tài sản gây thiệt hại, Toà án cần căn cứ vào cả các quy định riêng biệt cho từng loại vụ kiện cụ thể để giải quyết, cụ thể: bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 623), do súc vật gây ra (Điều 625), do cây cối gây ra (Điều 626), do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra (Điều 627). Bên cạnh đó, cần phải lưu ý tới các quy định tại Điều 3 BLDS về áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật. Chẳng hạn, trong BLDS có quy định về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625) nhưng nếu là thiệt hại do những vật nuôi khác gây ra thì có thể vận dụng quy định tại Điều 3 và Điều 625 BLDS để giải quyết.

3.2. Vấn đề thi hành án về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

Sau khi có bản án của Toà án buộc người gây thiệt hại phải bồi thường, về nguyên tắc trong thời hạn 3 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị thiệt hại phải làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức việc thi hành án. Vấn đề đặt ra là để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại do tài sản gây ra cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án nào?

Xét về bản chất, việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án về bồi thường thiệt do tài sản gây ra thuộc trường hợp thi hành nghĩa vụ trả tiền. Do vậy, nếu hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây: Khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án.

III. Một số vấn đề thực tiễn trong giải quyết tranh chấp về trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra thiệt hại.

Pháp luật dân sự qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường do tài sản gây thiệt hại dã trải qua chặng đường dài phát triển cùng với lịch sử phát triển của đất nước. pháp luật Việt Nam đã đạt được những thành tựu qua các thời kỳ lịch sử, pháp luật cũng mang tính kế thừa tinh hoa, tiến bộ của pháp luật thời kỳ trước, mặc dù ở mỗi thời kỳ, pháp luật có nội dung, đối tượng, phạm vi và phương pháp điều chỉnh khác nhau và ở mức độ cao,

Page 61: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

61

thấp khác nhau. Nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh loại quan hệ này ( các văn bản pháp luật về môi trường, về xây dựng, vê giao thông, ..) nhưng chủ yếu và tập trung nhất là BLDS và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành những qui định của BLDS về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. BLDS là kết quả của trí tuệ và kỹ thuật lập pháp của các nhà lập pháp Việt nam. Trong đó đã qui định cụ thể hơn, rõ ràng hơn và cũng toàn diện hơn so với các vãn bản qui định về loại trách nhiệm này trước đó. Điều này đã góp phần làm minh thị hơn những qui định của pháp luật, đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân và cac tổ chưc trước Nhà nước, trước xã hội về những thiệt hại trái pháp luật và cũng là cãn cứ chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên bị xâm phạm một cách co hiệu quả nhất. Bên cạnh nhũng thành công này, Pháp luật dân sự hiện hành vẫn còn những thiếu khuyết và hạn chế nhất định: Đặc biệt là những qui định liên quan đến tài sản gây thiệt hại, trong khi đó khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng , những thành tựu mới của công nghiệp hóa, cơ giới hóa đã làm thế giới ngày càng văn minh, với những trang thiêt bị hiện đại Tuy nhiên, mặt trái của nó là kéo theo sự gia tăng các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản…của con người trong xã hội. Có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho con người. Kể cả những tài sản tưởng chừng như chúng chỉ có giá trị mang lại cho con người lợi ích nhất định, như: xe cộ, nhà cửa, công trình xây dựng, cây cối, gia súc và các đồ vật khác , nhưng cũng là những nguồn gây thiệt hại đáng kể cho những người xung quanh. Những vấn đề liên quan như khái niệm, các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường, chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường, người được bồi thưuờng, mức và phương thức bồi thường…là những vấn đề pháp lý cần phải được xem xét và nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành. Từ việc tìm hiểu những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, đối chiếu với việc áp dụng thực tiễn để thấy được diễn biến và sự đa dạng của loại trách nhiệm này trên thực tế.

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS), mọi công dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật thừa nhận. Do đó, bất cứ người nào có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm danh dự uy tín của pháp nhân hoặc các chủ thể khác thì phải có nghĩa vụ bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định từ Điều 604 đến Điều 630 của BLDS, bao gồm: căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nguyên tắc bồi thường thiệt hại, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xác định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường, xác định thiệt hại. Ngoài các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, BLDS còn quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong một số trường hợp cụ thể: bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625); bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra (Điều 626);bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra (Điều 627).Theo các quy định này, chủ sở hữu tài sản, người chiếm hữu tài sản hợp pháp để tài sản thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu của mình gây ra thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng quy định pháp luật giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng gặp phải khó khăn, bất cập nhất định, nhất là đối với trường hợp xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản hợp pháp khi để tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình gây thiệt hại cho người khác

Page 62: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

62

1. Về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra

Dựa trên các nguyên tắc chung về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại và nguyên tắc bồi thường thiệt hại, đối với bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra thì về nguyên tắc, người chủ sở hữu súc vật gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại; tuy nhiên, Điều 625 BLDS quy định bồi thường thiệt hại đối với từng trường hợp cụ thể:

- Nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc làm súc vật gây thiệt hại cho mình thì chủ sở hữu không phải bồi thường. Trong trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại;

- Nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại; Trong trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường;

- Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

So với quy định tại Bộ luật dân sự năm 1995, thì quy định về trường hợp súc vật bị sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người sử dụng trái pháp luật phải bồi thường là quy định mới được bổ sung tại Bộ luật dân sự năm 2005. Do thói quen nuôi súc vật thả rông trong nhân dân, điển hình như việc nuôi chó để canh nhà, nuôi trâu, bò, ngựa cho sản xuất nông nghiệp theo lối chăn thả tự do, nhiều trường hợp súc vật gây thiệt hại nặng nề không chỉ tổn thất về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí tính mạng cho người bị thiệt hại.

2. Về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra

Điều 626 BLDS quy định về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra như sau: “Chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do cây cối đổ, gẫy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”. Ở đây cần lưu ý khái niệm “sự kiện bất khả kháng”. "Sự kiện bất khả kháng" theo quy định tại khoản 1 Điều 161 BLDS là: "Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép". Như vậy, sự kiện bất khả kháng phải là: a) Sự kiện không thể lường trước được. Nếu lường trước được mà để xảy ra thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm dân sự. b) Cùng với tính chất không lường trước được, sự kiện bất khả kháng còn phải là không tránh được và không thể chống đỡ được, tức là đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết mà thiệt hại vẫn xảy ra. Tính chất không lường trước được và tính chất không thể tránh được và không thể chống đỡ được, phải được xem xét và đánh giá cụ thể trong từng trường hợp. Mặc dù BLDS đã quy định như nêu trên, nhưng trên thực tế, để xác định một sự kiện là bất khả kháng thì còn nhiều tranh luận.

Xung quanh vấn đề bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra, trong trường hợp nếu thiệt hại về tính mạng thì một vấn đề khác còn được đặt ra là chủ sở hữu cây đổ, gãy ngoài trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của BLDS thì có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Ngoài việc xem xét trách nhiệm dân sư của chủ sở hữu cây thì cần xem xét trách nhiệm đối với cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong việc quản lý cây xanh nơi công cộng. Việc xác định lỗi và trách

Page 63: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

63

nhiệm bồi thường của các bên trong thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn và chưa có quy định của pháp luật về việc buộc cơ quan nhà nước phải bồi thường khi gây thiệt hại cho người khác. Hiện nay Bộ Tư pháp đang xây dựng dự án Luật Bồi thường nhà nước. Theo tinh thần của dự thảo Luật Bồi thường Nhà nước thì phạm vi điều chỉnh của Luật quy định trách nhiệm bồi thường Nhà nước về thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, bao gồm các lĩnh vực: hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, thi hành án. Dự thảo Luật cũng quy định những trường hợp phải bồi thường do tài sản thuộc Nhà nước quản lý gây ra. Theo đó, cây đổ, cầu sập, dây điện cao thế đứt… gây chết hoặc bị thương con người hoặc thiệt hại về tài sản cũng được xem xét bồi thường theo Luật Bồi thường Nhà nước. Nguyên tắc chung là thiệt hại được bồi thường một lần, bằng tiền, trên cơ sở thỏa thuận giữa bên bị thiệt hại và bên gây ra thiệt hại. Nếu việc thỏa thuận không thành, việc bồi thường sẽ tuân theo một bản án hoặc quyết định của toà án. Tiền bồi thường sẽ lấy từ ngân sách Nhà nước. Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại, tuỳ theo lỗi cố ý hay vô ý, có trách nhiệm bồi hoàn toàn bộ hay một phần số tiền Nhà nước đã ứng ra để bồi thường.

3. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

Điều 627 BLDS quy định về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra như sau: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”.

Thực tế yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra trong những năm gần đây ngày càng nhiều, các tranh chấp thường mang tính chất gay gắt, bức xúc kéo dài nhiều năm không thể giải quyết được. Có gia đình bắt đầu xây dựng lại căn nhà, sau khi đào, đổ móng xong thì chủ nhà bên cạnh không cho xây tiếp mà bắt phải bồi thường vì cho rằng việc đào móng đã làm cho căn nhà này bị nghiêng và lún nứt…, hai bên không tự thỏa thuận được, sau đó nhờ chính quyền địa phương hòa giải nhưng cũng không thành, chủ nhà bị thiệt hại khởi kiện vụ việc ra Tòa án. Chính quyền địa phương ra quyết định buộc gia đình bắt đầu xây dựng phải đình chỉ thi công, giữ nguyên hiện trạng để chờ phán quyết của Tòa án. Có những vụ việc được Tòa án thụ lý từ năm 2001 và kéo dài mãi đến nay cũng chưa xét xử được. Sự việc bị "ngâm" quá lâu khiến cả nguyên đơn và bị đơn đều lâm vào thế bí. Chủ nhà không dám sửa chữa do vẫn phải giữ nguyên hiện trạng các vết lún nứt, nghiêng tường để chờ các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Theo dự báo của Hội Kiến trúc sư thành phố thì hiện nay mật độ nhà ở các tuyến đường, khu vực dân cư san sát nhau (nhất là ở các thành phố, khi đô thị lớn…) nên việc thi công các công trình xây dựng tất yếu bị ảnh hưởng không ít thì nhiều. Theo khuyến cáo của các cơ quan chức năng, để hạn chế tình trạng khó xử, trước khi xây dựng công trình, chủ công trình nên ghi nhận tình trạng nhà xung quanh. Nếu được, có thể thuyết phục các hộ dân bên cạnh công trình xây dựng ký vào biên bản chất lượng căn nhà, thậm chí có thể ghi lại bằng hình ảnh, mời chính quyền địa phương chứng kiến để sau này nếu có tranh chấp phát sinh sẽ dễ giải quyết hơn. Về phía các Công ty kiểm định xây dựng cũng khuyên đơn vị thi công, chủ đầu tư công trình xây dựng cần có bước khảo sát trực tiếp hoặc cho giám định chất lượng các nhà dân bên cạnh. Nếu chất lượng không đảm bảo, đơn vị thi công nên có những giải pháp kèm theo nhằm hạn chế những thiệt hại.

Page 64: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

64

Việc làm lún, nứt nhà hàng xóm, công trình kế cận thường xảy ra không chỉ vì nguyên nhân thi công không đảm bảo mà còn do nhiều nguyên nhân khác như về địa chất, chất lượng công trình bị lún, nứt không đẩm bảo chất lương … Đối với những trường hợp thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra không lớn thì hai bên có thể thương lượng được với nhau, nhưng nếu thiệt hại lớn, các bên lại không có thiện chí khi giải quyết tranh chấp dẫn đến việc các bên phải đưa nhau ra Tòa. Có nhiều vụ việc do các bên không xác định được thiệt hại, không có điều kiện để giám định nguyên nhân gây lún, nứt… do đó không thống nhất về mức bồi thường bao nhiêu là thỏa đáng nên dẫn đến tranh chấp gay gắt. Theo các Tòa án, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tồn đọng kéo dài các vụ tranh chấp này là công tác giám định nguyên nhân lún nứt và thiệt hại của căn nhà bị ảnh hưởng trên thực tế không đạt được hiệu quả. Hiện vẫn chưa có một cơ quan thống nhất đứng ra làm nhiệm vụ giám định về xây dựng.

Khi thụ lý để giải quyết các yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại này, các Tòa án cũng có nhiều quan điểm. Có Tòa án sau khi kiểm tra tính hợp lệ của đơn khởi kiện đã thụ lý vụ án và ra quyết định trưng cầu giám định xây dựng, nhưng trên thực tế có nhiều vụ việc do số tiền chi phí giám định xây dựng rất lớn, bên yêu cầu trưng cầu giám định không có đủ số tiền tạm ứng chi phí giám định nên cơ quan, tổ chức giám định từ chối giám định. Do việc giám định không thể tiến hành được kéo theo hệ quả nếu không có kết luận giám định thì Tòa án không có cơ sở để giải quyết, bởi vì theo quy định tại khoản 1 Điều 90 của Bộ luật tố tụng dân sự: theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định… Thực tiễn tại một số Tòa án, để tránh trường hợp này, có Tòa án yêu cầu nguyên đơn phải có kết luận giám định về thiệt hại thì Tòa án mới thụ lý để giải quyết, Tòa án cho rằng theo quy định tại khoản 1 Điều 79 của Bộ luật tố tụng dân sự, đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án lập luận theo quy định tại khoản 5 Điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự thì kết luận giám định là một trong những nguồn chứng cứ, do đó khi khởi kiện nguyên đơn phải có trách nhiệm cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, tức là nguyên đơn phải có kết luận giám định về thiệt hại kèm theo đơn khởi kiện thì Tòa án mới thụ lý. Ý kiến này cho rằng nên coi đây như một biện pháp áp dụng linh hoạt các quy định của pháp luật để việc thụ lý để giải quyết vụ án của Tòa án được thuận lợi hơn… Có ý kiến cho rằng trong trường hợp nguyên đơn không có được bản kết luận giám định về thiệt hại gửi kèm theo đơn khởi kiện thì Tòa án vẫn phải thụ lý để giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của đương sự, sau khi thụ lý Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 90 Bộ luật tố tụng dân sự. Đa số ý kiến đồng tình quan điểm này. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều vụ việc khi Tòa án ra quyết định trưng cầu một tổ chức giám định thiệt hại của công trình xây dựng thì sau khi có kết quả giám định, đương sự lại không đồng ý với kết quả giám định vì cho rằng kết quả giám định chưa khách quan và yêu cầu giám định lại. Việc này một phần xuất phát từ thực tế là mỗi công ty thường cho kết quả kiểm định khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau về đánh giá nguyên nhân, tình trạng thiệt hại. Có trường hợp việc giám định thiệt hại của Công ty A được Tòa án trưng cầu giám định kết luận tổng thiệt hại và chi phí khắc phục là x… triệu đồng. Nguyên đơn không đồng ý, đề nghị trưng cầu công ty khác giám định. Công ty B xác định tổng thiệt hại lại là y… triệu đồng, có trường hợp kết quả xác định thiệt hại lần sau số tiền gấp đôi kết quả xác định thiệt hại lần trước…

Về các yêu cầu giám định lại, khoản 3 Điều 90 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Trong trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu

Page 65: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

65

của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. Việc giám định lại có thể do người đã tiến hành giám định trước đó thực hiện hoặc do tổ chức chuyên môn khác thực hiện theo quy định của pháp luật”. Do đó, khi có yêu cầu giám định lại, Tòa án ra quyết định giám định lại. Về vấn đề này cũng còn cách hiểu khác nhau, có ý kiến cho rằng theo quy định tại khoản 3 Điều 90 Bộ luật tố tụng dân sự như nêu trên, khi xét thấy có căn cứ cho thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng mà một bên hoặc các bên yêu cầu giám định lại thì Tòa án phải ra quyết định giám định lại. Có ý kiến cho rằng phải hạn chế việc giám định lại, chỉ tiến hành giám định lại khi thật sự cần thiết…

Theo chúng tôi, sở dĩ có những vướng mắc như nêu trên là do ngoài các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự về giám định trong tố tụng dân sự nói chung, thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể các quy định này, trong khi đó giám định xây dựng là lĩnh vực khó, để thực hiện được thì các đương sự phải chịu tốn kém về tiền bạc và thời gian. Một nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng trưng cầu giám định không hiệu quả là do chúng ta chưa thống nhất được cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng giám định xây dựng, do đó đối với việc mời (chỉ định) cơ quan, tổ chức, cá nhân tiến hành giám định trên thực tế không dễ dàng thực hiện được. Nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân được chỉ định giám định từ chối tiến hành giám định. Có nhiều lý do để cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối tiến hành giám định, có trường hợp do không có chức năng giám định xây dựng, có trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân được chỉ định giám định từ chối tiến hành giám định do chi phí giám định không bảo đảm cho việc triển khai giám định… Đây chỉ là một vài vấn đề pháp lý phát sinh khi các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra. Qua thực tiễn này cho thấy một phần nguyên nhân là các văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng được thực tiễn giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dạng này. Theo quy định của Pháp lệnh giám định tư pháp thì giám định xây dựng thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh này (khoản 1 Điều 9), tuy nhiên qua 4 năm thi hành các quy định của Pháp lệnh về giám định trong lĩnh vực xây dựng còn nhiều bất cập, dẫn đến hiệu quả của việc áp dụng Pháp lệnh này không được như mong muốn. Ngày 01-8-2008, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 1399/QĐ-BTP và Quyết định số 1400/QĐ-BTP về việc thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật giám định tư pháp, theo kế hoạch thì Ban soạn thảo tổng kết 4 năm thi hành Pháp lệnh giám định tư pháp, đánh giá thực trạng, thực tiễn về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp, thực tiễn thi hành các quy định của Pháp lệnh giám định tư pháp để qua đó, có những sửa đổi, bổ sung kịp thời và làm cơ sở pháp lý cần thiết nâng Pháp lệnh lên thành Luật. Hy vọng khi được nâng lên thành Luật thì thực tiễn giải quyết các yêu cầu của Tòa án về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra trong lĩnh vực xây dựng nói riêng và giám định tư pháp nói chung sẽ được cải thiện, tạo hành lang an toàn pháp lý để việc giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra của Tòa án đạt được hiệu quả như mong muốn.

IV. Một số kiến nghị

4.1. Về khái niệm trách nhiệm bồi thường do tài sản gây thiệt hại làm bình diện chung cho nghiên cứu và thực tiễn áp dụng pháp luật

Hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật dân sự từ năm 1950 (từ khi ban hành Sắc lệnh số 97/SL) cho đến nay chưa có bất kỳ văn bản qui phạm nào qui định về khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.

Page 66: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

66

Điều này dẫn đến tình trạng thiếu cơ sở khoa học để nghiên cứu và xem xét mọi vấn đề liên quan đến loại trách nhiệm này. Nằm trong những yêu cầu của nghiên cứu cơ bản, bước đầu tiên của quá trình nghiên cứu, phải xác định được vấn đề nghiên cứu là gì? Sau đó mới rút ra được những đặc điểm, phân loại, xem xét quá trình vận động, phát triển và dự đoán vấn đề nghiên cứu trong tương lai… Muốn xác định được , nhận dạng được đặc điểm, phân loại và xác định các yếu tố trong quan hệ bồi thường thiệt hại. Trước hết, phải nhận dạng và hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là gì? Với những điều kiện nào sẽ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại?… Từ những căn cứ nào sẽ phát sinh trách nhiêm bồi thường do tài sản gây thiệt hại?…Để xem xét và giải quyết các vấn đề về bồi thường thiệt hại phải dựa trên bình diện chung nhất thể hiện bản chất pháp lý của loại trách nhiệm này từ khái niệm chung nhất của nó. Xây dựng khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải hàm chứa được các yếu tố pháp lý:

- Thứ nhất: Việc gây thiệt hại trái pháp luật

- Thứ hai: Chủ thể gây thiệt hại

- Thứ ba: Chủ thể được quyền yêu cầu bồi thường.

- Thứ tư: Trách nhiệm phải thực hiện việc bồi thường

- Thứ năm: Xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một quan hệ pháp luật dân sự, theo đó người gây ra thiệt hại trong những điều kiện mà pháp luật quy định phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi trái pháp luật của họ gây ra. Trong quan hệ nghĩa vụ này bên bị thiệt hại được coi là người có quyền và có quyền yêu cầu bên gây thiệt hại là người có nghĩa vụ phải bồi thường những thiệt hại đã xảy ra.

Từ những yếu tố chung này, có thể xây dựng khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt do tài sản gây ra; trách nhiệm bồi thường thịêt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra…

4.2. Về điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

Hiện nay chưa có quy định nào phân định cụ thể: khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người và khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Thực tiễn cho thấy khi xét xử, nhiều trường hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan đến tài sản là áp dụng quy định riêng về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Cách hiểu và vận dụng pháp luật như vậy hoàn toàn không chính xác, dẫn đến sai lầm khi xác định người có trách nhiệm bồi thường. Các cơ quan áp dụng pháp luật cũng vô cùng lúng túng khi cùng là thiệt hại do tài sản, nhưng có trường hợp có sự tác động của hành vi con người, có trường hợp thiệt hại hoàn toàn độc lập với hành vi con người Vì vậy, chúng tôi cho rằng, trong pháp luật dân sự cần phân nhóm các trường hợp thiệt hại do tài sản gây ra và có những quy định riêng về điều kiện phát sinh đối với loại trách nhiệm này, cụ thể cần bổ sung một số quy định sau:

+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra chỉ được áp dụng khi thiệt hại do tự thân tài sản tác động gây ra.

Page 67: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

67

+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản được đặt ra khi chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, quản lý tài sản có lỗi vô ý trong việc quản lý, trông giữ, dẫn đến tài sản thuộc quyền quản lý của họ gây thiệt hại. Điều kiện này không áp dụng đối với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

4.3. Về xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường

- Đối với trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại:

Cần phân định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng, cụ thể là trường hợp chuyển giao theo quan hệ lao động và chuyển giao theo quan hệ dân sự:

+ Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác theo nghĩa vụ lao động: Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong quá trình người lao động quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nhiệm vụ được giao thì trách nhiệm bồi thường thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu người được giao quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động nhưng lại sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ vào mục đích khác không theo nhiệm vụ mà gây thiệt hại thì họ phải tự chịu trách nhiệm.

+ Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận giữa các bên khi giao kết hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật, bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có nghĩa vụ trông coi, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của họ thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.

- Đối với trường hợp thiệt hại do súc vật, cây cối gây ra

Điều 625, Điều 626 Bộ luật dân sự chỉ quy định chủ thể duy nhất phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu súc vật, cây cối khi súc vật, cây cối gây thiệt hại cho người khác. Quy định này chỉ đúng trong trường hợp chủ sở hữu đồng thời là người đang có trách nhiệm quản lý, trông coi súc vật, cây cối. Còn trường hợp súc vật, cây cối được chủ sở hữu giao cho người khác quản lý, trông giữ thì ai phải chịu trách nhiệm ví dụ: Chủ sở hữu thuê hoặc ủy quyền cho người khác trông coi gia súc, cây cối của mình?

Theo chúng tôi, bộ luật dân sự cần bổ sung quy định về trách nhiệm của người chiếm hữu hợp pháp, người quản lý súc vật, cây cối trong trường hợp tài sản do họ quản lý gây thiệt hại. Cụ thể, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận giữa chủ sở hữu với người được chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì trách nhiệm thuộc về người có nghĩa vụ quản

Page 68: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

68

lý, chiếm hữu tài sản. Họ bị coi là có lỗi trong việc để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác.

- Đối với thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng xây ra

Điều 627 BLDS 2005 quy định: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa công trình xây dựng khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”.

Điều luật chỉ ra hai chủ thể có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp nhà cửa, công trình xây dựng gây thiệt hại cho người khác. Người phải chịu trách nhiệm trước tiên đó là chủ sở hữu nếu đồng thời là người trực tiếp quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng đó. Chủ thể phải bồi thường thiệt hại tiếp theo là người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng.

Điều luật chưa quy định rõ người quản lý đồng thời là người sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng hay đó là 2 chủ thể độc lập. Trên thực tế có những trường hợp sau xảy ra:

Người quản lý không đồng thời là người sử dụng trong trường hợp chủ sở hữu uỷ quyền cho người khác trông coi nhà, công trình xây dựng cho mình. Người này chỉ có quyền quản lý nhà cửa, công trình xây dựng thôi mà không có quyền được khai thác giá trị sử dụng của chúng để hưởng lợi. Nếu trong thời gian đang quản lý đó mà nhà cửa, công trình xây dựng gây thiệt hại thì ai phải chịu trách nhiệm bồi thường không?

Người sử dụng không đồng thời là người quản lý nhà cửa, công trình xây dựng trong trường hợp chủ sở hữu một toà nhà chung cư cho người khác thuê từng căn phòng để làm văn phòng giao dịch hay để ở nhưng mọi vấn đề như an ninh, điện nước, sự an toàn nói chung của ngôi nhà là thuộc về nghĩa vụ của chủ sở hữu ngôi nhà. Nếu toà nhà sụt, lở gây thiệt hại thì ai phải chịu trách nhiệm bồi thường?

Người quản lý đồng thời là người sử dụng như trường hợp chủ sở hữu cho thuê nhà cửa, công trình xây dựng theo phương thức “chìa khoá trao tay”. Theo đó, người thuê có toàn quyền quản lý và khai thác giá trị của toàn bộ ngôi nhà hay công trình xây dựng đó một cách độc lập; hoặc phần diện tích riêng trong một căn hộ, căn phòng độc lập trong toà nhà chung cư, còn phần diện tích chung như cầu thang, hành lang… của toà nhà thì thuộc quyền quản lý của chủ sở hữu toà nhà.

Quy định của điều luật chưa làm rõ những chủ thể phải bồi thường trong các trường hợp trên. Người quản lý đồng thời là người sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng sẽ phải bồi thường hay chỉ người quản lý hoặc chỉ người sử dụng mới phải bồi thường?

Chủ sở hữu chỉ có thể giải thoát khỏi trách nhiệm bồi thường nếu chứng minh được lỗi của người khác đã để cho nhà cửa, công trình xây dựng gây thiệt hại như lỗi của người thi công xây dựng nhà, công trình. Vấn đề này chưa được điều luật điều chỉnh và chưa được quy định rõ.

Page 69: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

69

Theo chúng tôi, căn cứ để xác định chủ thể phải bồi thường là người “quản lý vật chất” đối với nhà cửa, công trình xây dựng đó, họ bị coi là có lỗi trong việc quản lý, trông coi; do vậy điều luật chỉ cần chỉ ra người phải bồi thường là người có trách nhiệm quản lý nhà cửa, công trình xây dựng là đủ, bỏ đi từ “sử dụng”. Trường hợp nhà đang trong quá trình thi công hoặc đang còn thời hạn bảo hành mà sụt lở gây thiệt hại do chất lượng của công trình không đảm bảo (theo chuẩn thiết kế hay theo chất lượng trung bình của nhà cửa, công trình xây dựng cùng loại) thì tất yếu bên thi công phải chịu trách nhiệm bồi thường.

4.4. Về vấn đề liệt kê các thiệt hại do tài sản gây ra

Hiện nay, Bộ luật dân sự vẫn theo hướng liệt kê, mô tả những tác động của tài sản dẫn đến gây thiệt hại như:

Điều 626 mô tả những tác động của cây cối dẫn đến thiệt hại xảy ra là “cây cối đổ gẫy”. Điều 627 mô tả tác động cụ thể của nhà cửa, công trình xây dựng gây thiệt hại cho người khác là “sụp đổ, hư hỏng, sụt lở”. Sự liệt kê các trường hợp gây thiệt hại của cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng bao giờ cũng rơi vào tình trạng bỏ sót, không đầy đủ. Ví dụ, cây cối có thể là nguyên nhân gây thiệt hại mà không cần phải đổ gẫy như: trái cây rụng (trái sầu riêng, dừa, mít…) gây thiệt hại cho người khác; Trên thực tế có những trường hợp nhà cửa, công trình đang trong quá trình xây dựng hoặc đã xây xong, bản thân công trình đó không bị sụp đổ, lún nứt, hư hỏng nhưng lại gây thiệt hại cho công trình khác như làm nghiêng hay nứt tường, trần các nhà liền kề. Trong trường hợp này vẫn phát sinh trách nhiệm bồi thường và chủ sở hữu nhà cửa, công trình xây dựng phải chịu trách nhiệm nếu không chứng minh được lỗi của bên thi công hoặc sự kiện bất khả kháng.

Theo ý kiến của chúng tôi, quy định của 2 điều luật này nên theo hướng ngắn gọn, khái quát để điều chỉnh được tất cả các tình huống phát sinh do cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra. Theo chúng tôi, có thể quy định: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng phải bồi thường thiệt hại nếu để cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng đó gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”.

Tương tự như vậy, khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được quy định trong Khoản 1 Điều 623 theo hướng liệt kê, vì vậy không đầy đủ, thậm chí không thống nhất với các quy định trong các văn bản pháp luật khác. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị không nên định nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ theo hướng liệt kê mà chỉ cần xác định tiêu chí chung để được coi là nguồn nguy hiểm cao độ, đồng thời nên có tiêu chí rõ ràng để phân biệt một động vật khi nào là súc vật, khi nào là nguồn nguy hiểm cao độ.

4.5. Cần quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài sản thuộc quyền sở hữu, quản lý của nhà nước

Trên thực tế hiện nay có nhiều thiệt hại do tài sản thuộc quyền sở hữu, quản lý của nhà nước gây ra nhưng không có quy định xác định cơ quan tổ chức nào có trách nhiệm bồi thường, ví dụ: cây trong rừng tự nhiên, cây xanh trong thành phố đổ, gẫy gây thiệt hại; các công trình công cộng sụp đổ, lún nứt; thú rừng, độc vật hoang dã gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khỏe người

Page 70: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

70

dân. Theo chúng tôi, cần có quy định cụ thể xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về cơ quan nào để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại.

Bên cạnh đó cũng cần xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong trường hợp tài sản của cá nhân, tổ chức bị trưng dụng, tạm giữ gây thiệt hại.

4.6. Về thủ tục giải quyết tranh chấp và thi hành án về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

- Pháp luật tố tụng không nên đồng nhất giữa bị đơn và người bị kiện trong trường hợp thiệt hại do tài sản gây ra theo như quy định hiện nay;

- Cần có quy định cụ thể hướng dẫn trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu khởi kiện trong trường hợp thiệt hại do tài sản gây ra, cụ thể cầm xác định “ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm” là ngày xảy ra sự kiện thiệt hại hay ngày mà quyền được bồi thường của người bị thiệt hại không được đáp ứng.

4.7 Nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao thông qua hợp đồng mua bán nhưng chưa hoàn tất thủ tục sang tên theo qui định của pháp luật

Liên quan đến việc chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ, hiện nay, pháp luật dân sự mới chỉ dự liệu những nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao thông qua các giao dịch dân sự như thuê, mượn, cầm cố, thế chấp mà chưa dự liệu trường hợp khi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao kết hợp đồng mua bán nhưng người mua chưa hoàn tất thủ tục sang tên nhưng đã sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, gây thiệt hại cho những người xung quanh thì trách nhiệm lúc này thuộc về người bán hay người mua. Chúng tôi cho rằng, trong trường hợp này phải xem xét đến lỗi của người bán hay người mua trong việc thực hiện thủ tục pháp lý chuyển quyền sở hữu đối với tài sản mua hay là lỗi của cả hai bên. Pháp luật dân sự nên quy định cụ thể về vấn đề này để xác định ai là người phải chịu trách nhiệm BTTH trong từng trường hợp cụ thể.

4.8. Tài sản của người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại..

Pháp luật hiện hành mới chỉ qui định về người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật mà chưa qui định trách nhiệm của những người này khi tài sản thuộc quyền sở hữu của họ gây thiệt hại cho chủ thể khác. Theo quy định tại Điều 606 BLDS năm 2005 thì người chưa thành niên dưới 15 tuổi người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại nếu còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, hoặc người giám hộ có thể phải chịu trách nhiệm BTTH. Tuy nhiên, Điều 606 chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp thiệt hại là do hành vi của con người gây ra còn nếu thiệt hại là do tài sản của họ gây ra thì qui định này đưa ra áp dụng là không phù hợp. Vì, cha mẹ không thể bị coi là người có lỗi trong việc tài sản của con gây thiệt hại ở mọi trường hợp, trừ khi tài sản của con đang nằm trong sự quản lý của cha, mẹ thì có thể bị suy đoán là có lỗi trong việc quản lý và sử dụng tài sản, lúc này cha, mẹ mới phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người người bị thiệt hại. Theo qui định tại Điều 12: " Người ta chỉ được hưởng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân" và Điều 183 BLDS năm 2005 qui định" Trong

Page 71: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

71

trường hợp chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác". Như vậy, người có tài sản được quyền hưởng lợi từ tài sản thì có trách nhiệm bồi thường khi tài sản của mình gây thiệt hại .Nếu tài sản gây ra thiệt hại đang do người khác quản lý thì chủ sở hữu của tài sản là người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự cũng như cha mẹ hay người giám hộ của họ không bị coi là có lỗi nên trách nhiệm trong trường hợp này không thuộc về họ. Bên cạnh việc xác định ai là người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp trên thì việc xác định tư cách đương sự nếu vụ việc giải quyết tại Toà án nhân dân sẽ được xác định và nếu tài sản của người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự không đủ hoặc không có để thực hiện việc bồi thường thì cha, mẹ, người giám hộ không phải lấy tài sản của họ để thực hiện việc bồi thường.

[1] Vấn đề này trước đây đã được hướng dẫn trong Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông tư số 96 NCPL ngày 8/2/1977 của TANDTC.

Có mộ phản hồi

1.

thông, on 08/04/2010 lúc 16:05 Said:

Trong bài viết: “MỘT SỐ TÌNH HUỐNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG” của TS. TRẦN THỊ HUỆ – Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội có tình huống như sau: 23. Nghĩa vụ cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng có chấm dứt không khi người gây thiệt hại chết? A là lái xe, do một lần uống rượu say, không làm chủ được tay lái đã gây thiệt hại đến tính mạng anh K. A đã bồi thường các chi phí cho việc mai táng người bị thiệt hại cũng như một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho thân nhân người thiệt mạng. Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, còn khoản tiền cấp dưỡng cho 2 đứa con chưa thành niên của anh B (đứa lớn 7 tuổi, đứa nhỏ 2 tuổi) A thoả thuận với chị B – vợ anh K sẽ cấp dưỡng theo định kỳ mỗi năm 10 triệu đồng. Một năm sau, A bị bệnh mất. - Nghĩa vụ cấp dưỡng của A đối với 2 đứa con chưa thành niên của anh B có chấm dứt không khi A chết? Bồi thường thiệt hại, trong đó có bồi thường tiền cấp dưỡng là một nghĩa vụ tài sản của người có hành vi xâm phạm tính mạng. Nhằm tôn trọng quyền tự do thoả thuận của các bên, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người gây thiệt hại có điều kiện thực hiện nghĩa vụ bồi thường, các bên có thể thoả thuận phương thức bồi thường toàn bộ một lần hoặc theo định kỳ. Trong trường hợp này, A thoả thuận với chị B sẽ thực hiện nghĩa vụ cấp

Page 72: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

72

dưỡng theo định kỳ, nhưng mới được 1 năm thì A mất. Thông thường, theo Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết. Tuy nhiên, trong trường hợp này, nghĩa vụ bồi thường tiền cấp dưỡng là một nghĩa vụ tài sản do A để lại, không phải là một nghĩa vụ nhân thân. Vì vậy, nghĩa vụ bồi thường tiền cấp dưỡng không chấm dứt khi A chết. Chị B có quyền yêu cầu những người thừa kế của A thanh toán nghĩa vụ này trong khối di sản thừa kế do A để lại. Khoản tiền cấp dưỡng được tính cho đến khi các con của K tròn 18 tuổi, trừ khi từ đủ 15 tuổi, chúng đã tham gia lao động và tự nuôi sống bản thân. Nghĩa vụ cấp dưỡng của A trong trường hợp trên thực sự chấm dứt khi nào? Trước hết tôi đồng ý với quan điểm của tác giả về cách giải quyết tình huống. Tuy nhiên, tôi xin trao đổi một số ý kiến như sau: Thứ nhất: Tác giả bài viết cho rằng: “nghĩa vụ bồi thường tiền cấp dưỡng là một nghĩa vụ tài sản do A để lại, không phải là một nghĩa vụ nhân thân. Vì vậy, nghĩa vụ bồi thường tiền cấp dưỡng không chấm dứt khi A chết”. Theo quan điểm của tôi, khi A chết thì nghĩa vụ cấp dưỡng của A chấm dứt. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 5 Điều 61 Luật Hôn nhân và Gia đình thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi “Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết”. Và theo khoản 1 Điều 50 Luật này thì “nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác”. Vì đây là nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân, không thể chuyển giao cho người khác. Theo khoản 8 Điều 374 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì nghĩa vụ dân sự cũng chấm dứt khi “Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân, chủ thể khác chấm dứt mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân, chủ thể đó thực hiện”. Tuy nhiên, không nên hiểu trường hợp này theo nghĩa anh A chết rồi thì chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng và con chị B không được hưởng khoảng tiền cấp dưỡng còn lại kể từ lúc A chết, nếu hiểu theo nghĩa này thì không được dùng di sản thừa kế của A để thanh toán cho nghĩa vụ cấp dưỡng của A nữa. Chúng ta cần hiểu theo nghĩa, chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp này cũng như chấm dứt các quyền, nghĩa vụ khác của A đối với những người liên quan khi xử lý các nghĩa vụ của A. Như vậy, quyền lợi các con của chị B có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào A có di sản thừa kế hay không. Nếu có di sản thừa kế thì tiền cấp dưỡng được ưu tiên thanh toán theo khoản 2 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2005. Nếu A không có di sản thừa kế hoặc di sản không đủ thanh toán theo khoản 1 Điểu 683 BLDS thì nghĩa vụ cấp dưỡng của A đối với các con của chị B cũng chấm dứt (tức không được chuyển giao nghĩa vụ này cho những người thừa kế hay bất kỳ ai khác), mặc dù quyền lợi các con của chị B không được đảm bảo. Như vậy, chị B có quyền yêu cầu những người được hưởng thừa kế của A thanh toán nghĩa vụ này trong khối di sản thừa kế hoặc yêu cầu Toà án để giải quyết nếu những người thừa kế không thanh toán (thanh toán nghĩa vụ của A trong giới hạn tài sản của A). Thứ hai, tác giả cho rằng “Khoản tiền cấp dưỡng được tính cho đến khi các con của K tròn 18 tuổi, trừ khi từ đủ 15 tuổi, chúng đã tham gia lao động và tự nuôi sống bản thân”. Trong tình huống này rất khó để trích được một khoản tiền (trong khối di sản thừa kế) cấp dưỡng 1 lần cho các con chị B tính đến 18 tuổi, vì còn phụ thuộc vào khối di sản của A nhiều hay ít, A có con nhỏ, cha mẹ già cần cấp dưỡng không… . Theo tôi, trường hợp này cũng phải căn cứ vào di sản thừa kế của A để thanh toán 1 phần nào đó cho phù hợp.

Page 73: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

73

Từ lúc A chết cho đến lúc các con của chị B tròn 18 tuổi là khoảng thời gian dài, A thì đã chết không thể có thu nhập trong thời gian này, vì vậy không thể bắt A thanh toán hết số tiền cấp dưỡng những năm còn lại trong khi anh đã không còn sống. Rất mong được chia sẻ!

Trả lời

MỘT SỐ TÌNH HUỐNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Posted on 07/04/2010 by Civillawinfor

TS. TRẦN THỊ HUỆ – Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội

Tài liệu dùng cho sinh viên tham khảo trong học tập, không sử dụng vào mục đích khác

1. Quy định của pháp luật về gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ và trách niệm của pháp nhân khi người của pháp nhân gây thiệt hại

B là công nhân vừa bị sa thải của công ty X, đến công ty đòi gặp giám đốc. Vì giám đốc đang tiếp khách, mặt khác, thấy B đang trong tình trạng say rượu nên A – bảo vệ công ty đã ngăn chặn không cho vào. B chửi bới, dùng những lời lẽ xúc phạm và cố tình xông vào công ty. Không kiềm chế nổi, A dùng dùi cui đánh túi bụi vào lưng B cho đến khi B ngã quy. Kết quả B bị trấn thương nặng.

- Hành vi của A có phải là phòng vệ chính đáng không?

Hành vi của A không được coi là phòng vệ chính đáng. Mặc dù B cố ý xông vào công ty trong tình trạng say, bị kích động mạnh nhưng hành vi của B không phải đang tấn công gây thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại ngay tức khắc. A có nhiệm vụ bảo vệ công ty nhưng việc A đánh B túi bụi cho đến khi B ngã quỵ không phải là hành vi chống trả lại một cách tương xứng với hành vi của B.

- B có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khoẻ không?

Mặc dù B cũng có lỗi xâm phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân cũng như công ty X (Điều 611 BLDS 2005) nhưng việc A gây thiệt hại cho B đáp ứng đầy đủ 4 yếu tố làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hướng dẫn của Nghị quyết Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng một số quy định củaBLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: có thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm; có hành vi đánh người trái pháp luật của A; A có lỗi; có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Vì vậy, B có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

- Ai phải chịu trách nhiệm bồi thường cho B và trách nhiệm bồi thường được giải quyết như thế nào?

Page 74: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

74

A gây thiệt hại cho B khi đang thực hiện công việc bảo vệ do công ty giao cho. Vì vậy, theo Điều 618 của BLDS 2005 “pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ pháp nhân giao cho”, Công ty X có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khoẻ cho B. Theo Điều 618 BLDS 2005, “nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”, vì vậy, xem xét A có lỗi đánh B đến mức trấn thương nặng nên A có trách nhiệm bồi hoàn lại cho Công ty.

B cũng có lỗi do xâm phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của A cũng như thành viên công ty, xông vào công ty một cách trái phép nên B cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Theo Điều 617 BLDS 2005, “khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình”.

2. quy định của pháp luật về việc xác định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại

A và B là hai anh em đồng hao. Một lần, A gặp B đi làm đồng về qua ngõ nhà mình, sẵn có ấm trà ngon nên A cố níu kéo mời B vào nhà mình uống trà. B một mực từ chối vì đang bận. Cậy mình to khoẻ, A vòng tay ôm hai chân B, vác B lên vai định “cưỡng chế” B vào nhà uống trà. B cố giãy giụa, A buồn cười quá nên tuột tay, làm B ngã, đầu cắm xuống đất. Bệnh viện án xác định B bị trấn thương đốt sống cổ, dẫn đến liệt toàn thân. Gia cảnh của A rất khó khăn.

- Ai có lỗi trong vụ việc trên?

Mặc dù A có ý tốt chỉ muốn mời B vào nhà mình uống trà và không cố ý gây thiệt hại cho B nhưng trong vụ việc này, A đã có lỗi vô ý gây thiệt hại cho B. Nghị quyết Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng một số quy định củaBLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định: “vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại”. Việc B giãy giụa là phản ứng bình thường của B khi bị A cưỡng ép, vì vậy B không có lỗi đối với thiệt hại

- Trách nhiệm bồi thường và xác định thiệt hại như thế nào?

A có trách nhiệm bồi thường thiệt hại gây ra cho B. Trong trường hợp này, do B bị trấn thương dẫn đến liệt toàn thân, hoàn toàn mất khả năng lao động nên Theo Điều 609 BLDS 2005, A phải bồi thường các khoản sau: Chi phí hợp lý để cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của B; thu nhập bị mất của B; Chi phí cho người chăm sóc B do B bị liệt toàn thân; và một khoản bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu. Theo Điều 612 BLDS 2005, “trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường đến khi chết”, do đó ông B được hưởng tiền bồi thường đến khi chết.

Theo khoản 2 Điều 605 BLDS 2005, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình, vì vậy, ông A có thể đề nghị để được giảm mức bồi thường.

Page 75: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

75

3. Quy định của pháp luật khi người gây thiệt hại do uống rượu nên không tự chủ được hành vi

P và Q là bạn thân thời đi học, sau mấy chục năm không gặp, bây giờ vô tình mới gặp lại. P kéo Q vào quán vừa uống rượu, vừa hàn huyên. Q không uống được rượu nhưng vì P ép quá, nể bạn, Q cố uống vài chén cho P vui lòng. Lúc đứng dậy ra về, Q thấy đầu choáng váng, đi được vài bước, Q xô vào một chiếc bàn trong quán, làm đổ nồi lẩu đang sôi vào hai vị khách đang ngồi ăn khiến họ bị bỏng nặng.

- Ai phải bồi thường, vì sao?

Điều 615 BLDS 2005 quy định: “người do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường”. Trong trường hợp này, mặc dù P cố ý ép Q uống nhưng Q hoàn toàn có thể từ chối. Q không uống được rượu nhưng vì nể bạn mà uống say, gây thiệt hại cho người khác thì tự Q phải chịu trách nhiệm bồi thường.

- P có phải chịu trách nhiệm gì không?

Theo khoản 2 Điều 615 BLDS 2005, khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của họ gây ra thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại”. Trong trường hợp này, P chỉ nài ép Q uống. Q hoàn toàn có thể từ chối nhưng do quá nể bạn, Q đã uống, tự đặt mình vào tình trạng say. Vì vậy, P không phải chịu trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do Q gây ra. Nếu P dùng vũ lực, hoặc đe doạ để cưỡng ép Q uống rượu, hoặc P lừa dối Q dẫn đến làm Q mất khả năng kháng cự mà uống say thì P phải thay Q bồi thường.

4. Quy định của pháp luật trong trường hợp nhiều người gây thiệt hại

Biết cả nhà anh K về quê, A, B, C bàn bạc với nhau chờ đêm đến sẽ phá khóa nhà K để vào trộm cắp tài sản. Đêm đó, chỉ có A, B phá khóa vào lấy xe máy, tiền, vàng và một số tài sản khác, trị giá khoảng 100 triệu đồng. C nhận trách nhiệm tìm chỗ tiêu thụ số tài sản trộm cắp trên. D thuê nhà gần đó, khi đi chơi đêm về thấy nhà K cửa mở toang, liền lẻn vào, bê nốt ti vi và một số đồ đạc khác (do A, B bỏ lại vì không mang đi được) trị giá khoảng 10 triệu. Sau thời gian điều tra, công an tìm ra A, C, D; còn B hiện vẫn đang bỏ trốn. Số tài sản trộm cắp chúng đều đã bán và tiêu dùng hết.

- K có quyền kiện ai để yêu cầu bồi thường?

K có quyền kiện A, B, C và D để yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản. Mặc dù chưa bắt được B nhưng B vẫn là bị đơn trong vụ án này.

- Trách nhiệm bồi thường của A, B, C, D được xác định như thế nào?

Trong vụ án trên, A, B, C, D đều có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho K. Hành vi gây thiệt hại của D hoàn toàn độc lập và riêng rẽ với A, B, C nên D phải bồi thường phần thiệt hại về tài

Page 76: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

76

sản mà D gây ra trị giá 10 triệu đồng. C mặc dù không trực tiếp trộm cắp tài sản của K nhưng do đã có sự bàn bạc, thoả thuận trước với A, B, có nghĩa là A, B, C cùng thống nhất về ý chí trong việc trộm cắp tài sản của K. Theo Điều 616 BLDS 2005, “trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại”. Vì vậy, A, B, C phải liên đới bồi thường thiệt hại cho K số tài sản trị giá 100 triệu đồng. K có thể yêu cầu bất kỳ ai trong số A, B, C phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại

5. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nhiều người cũng thống nhất ý chí gây thiệt hại cho người khác

H là nhân viên phục vụ bàn trong nhà hàng, yêu K cũng là bảo vệ trong nhà hàng. T là khách quen, thỉnh thoảng đến ăn uống, say rượu, có lần sàm sỡ, trêu gẹo H làm H rất tức nhưng đành cố chịu. H khóc, tâm sự với K. K dặn H khi nào T đến thì thông báo cho K để K trả thù cho. Hôm đó, thấy T đến nhà hàng cùng 1 một số người bạn, H gọi điện thoại cho K, còn dặn K nếu đánh thì chỉ đánh dằn mặt thôi, đừng mạnh tay quá. K rủ P, một người bạn thân cùng làm trong nhà hàng, thủ sẵn dao, chờ bên ngoài. Khi T ra khỏi nhà hàng, H gọi điện thoại cho K, thông báo để K nhận diện ra T và xe của T. P chở K đi xe máy sau xe của T. Đến chỗ đường vắng, K rút dao đâm hai nhát vào lưng T gây trọng thương làm T chết. Hai ngày sau, Công an đã điều tra và ra lệnh bắt H, K, P.

- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng của T như thế nào?

Theo Điều 616 BLDS 2005, “trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại”. Trong vụ án này, K là người cố ý và trực tiếp xâm phạm tính mạng của T, vì vậy, K phải chịu trách nhiệm bồi thường tương ứng với phần lỗi của mình. P mặc dù chỉ chở K những cũng phải chịu trách nhiệm đối với một phần thiệt hại. H mặc dù không mong muốn xâm phạm đến tính mạng của T nhưng H cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại cho K. Vì K, H, P cùng thống nhất về ý chí gây thiệt hại cho T nên K, H, P phải liên đới bồi thường. Tiền bồi thường gồm: chi phí cho việc mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà T có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống; tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho gia đình nạn nhân.

- Nhà hàng nơi K, H, P đang làm việc có phải chịu trách nhiệm gì không?

Mặc dù K, H, P là người làm công trong nhà hàng, tuy nhiên, việc họ gây thiệt hại cho T không phải khi đang thực hiện công việc do nhà hàng giao cho. Vì vậy, nhà hàng không phải chịu trách nhiệm đối với cái chết của T.

6. Quy định của pháp luật trong trường hợp gây thiệt hại do bị người khác xúi giục và không làm chủ được hành vi

A, B, C là người cùng xóm. A vốn có thù hằn với B. Biết C là người dễ bị kích động, lại nghiện rượu, A lập mưu mời C đến uống rượu thịt chó với mình. Khi C đã ngà ngà, A nhỏ to xúi bẩy, đặt chuyện để gây hiềm khích giữa C và B. C tin lời A, tưởng B chơi xấu mình nên trong cơn say rượu đến gây sự, chém B bị thương.

- Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ việc này?

Page 77: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

77

Mặc dù A cố ý mời C uống rượu, lại đặt chuyện gây hiềm khích nhằm dùng C như một công cụ để gây thiệt hại cho B nhưng chỉ có C phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì hai lý do. Thứ nhất: Hành vi trái pháp luật của C là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại về sức khỏe của B; Thứ hai: C hoàn toàn có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi nhưng tự C đã đặt mình vào tình trạng say và gây thiệt hại cho B. Vì vậy C phải chịu trách nhiệm bồi thường theo Điều 615 BLDS 2005. Hành vi của A không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại cho B, vì vậy A không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

7. Quy định của pháp luật trong trường hợp gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết

Do có mâu thuẫn trong việc làm ăn, A tìm B để trả thù. Gặp B, A tay cầm dao nhọn, lao vào đình chém B. B sợ quá bỏ chạy tháo thân, trong lúc A đuổi sát gần, B không có cách nào khác đã chạy xô vào chị X đi xe đạp bán trứng khiến chị ngã, bị thương, trứng vỡ hỏng hết. Dân phòng và công an đã bắt giữ cả A, B.

- Việc gây thiệt hại của B có phải là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không?

Việc B gây thiệt hại cho chị X là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết vì: A đang có hành vi tấn công đe doạ trực tiếp đến tính mạng của B; B không có đường chạy thoát thân nên đã va vào chị X; thiệt hại B gây ra cho chị X nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn;

- Ai có trách nhiệm bồi thường cho chị X?

Theo Điều 615 BLDS, người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Vì vậy, A có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho chị X.

8. Quy định của pháp luật khi gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng

Lợi dụng đêm tối, N phá rào vào nhà máy Z để trộm cắp. Khi đang bê một thùng hàng, N bị H – bảo vệ nhà máy phát hiện. Thấy H quát to, N vừa ôm thùng hàng, đồng thời rút trong người ra một con dao bầu, doạ nếu H xông vào sẽ đâm chết. N tay cầm dao, tay xách thùng hàng, chạy giật lùi về phía hàng rào. H nhanh tay nhặt được chiếc búa đóng hàng, nhằm phía N ném. Chiếc búa rơi trúng đầu khiến N ngã quỵ. H gọi người đưa N đi cấp cứu. Kết quả, N bị trấn thương não, dẫn đến mất khả năng nhận thức.

- Hành vi gây thiệt hại của H có phải là hành vi trái pháp luật không?

H đã gây thiệt hại cho N trong trường hợp phòng vệ chính đáng vì: N có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến tài sản của nhà máy; hành vi gây thiệt hại của H là cần thiết và tương xứng với hành vi xâm phạm, vì H không có điều kiện lựa chọn biện pháp chống trả thích hợp khác; hành vi phòng vệ nhằm vào kẻ tấn công là N nhằm ngăn chặn hành vi trộm cắp của N.

- N có được bồi thường thiệt hại không?

Page 78: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

78

N hoàn toàn có lỗi đối với thiệt hại xảy ra, vì vậy theo Điều 617 BLDS, khi người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi gây ra thiệt hại, người gây thiệt hại không phải bồi thường. Vì vậy, N không được bồi thường thiệt hại.

9. Quy định của pháp luật trong trường hợp người chưa thành niên gây thiệt hại

P và Q (16 tuổi) là học sinh lớp 10 cùng đi học về bằng chiếc xe đạp nam gióng ngang. P ngồi trên yên và đạp pê-đan; Q ngồi trên gióng ngang điều chỉnh tay lái. Khi đang ngênh ngang phóng xe đạp trên vỉa hè, do mải cười đùa, họ đã đâm xe vào cụ T – 79 tuổi đang đi bách bộ, làm cụ ngã, gẫy cột sống. Mặc dù đã được điều trị nhưng kết quả cụ T do bị trấn thương nặng nên phải nằm liệt, không đi lại được.

- Cụ T có quyền kiện ai để yêu cầu bồi thường?

Vì P và Q đều 16 tuổi nên theo khoản 2 Điều 606 BLDS 2005, P và Q phải tự bồi thường bằng tài sản của mình. Trong trường hợp này, cụ T có thể kiện P và Q với tư cách là bị đơn dân sự. Nếu P và Q không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ của P, Q phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Trong trường hợp này, cha, mẹ của P, Q là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

- Xác định trách nhiệm bồi thường của P, Q như thế nào?

Hành vi của P và Q cùng gây thiệt hại cho cụ T, vì vậy theo Điều 616 BLDS 2005, P và Q phải liên đới bồi thường.

- Thiệt hại về sức khoẻ được bồi thường trong vụ việc này?

Theo Điều 609 BLDS và Nghị quyết Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Cụ T được bồi thường các khoản thiệt hại sau:

- Các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút bao gồm: tiền thuê phương tiện đến bệnh viện, tiền thuốc, viện phí, chi phí chiếu chụp X quang, tiền bồi dưỡng…

- Vì cụ T hoàn toàn không đi lại được và cần người thường xuyên chăm sóc nên tiền bồi thường còn bao gồm các chi phí cho người chăm sóc

- Việc gây thiệt hại ít nhiều có ảnh hưởng đến việc giao tiếp, sinh hoạt của cụ T, dẫn đến ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, vì vậy, cụ T có thể được hưởng khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận, tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Vì cụ T đã già, hết tuổi lao động nên không phải bồi thường thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút cho cụ.

10. Quy định của pháp luật trong trường hợp súc vật gây thiệt hại

Page 79: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

79

A là người chuyên buôn trâu. Hôm đó, A giao cho K – người làm thuê đưa 5 con trâu đến lò mổ của B (B mua trâu của A). Đang đi trên đường, do chiếc ô tô của T bấm còi quá lớn, một con trâu tự dưng vùng bỏ chạy. K hô hoán mọi người giúp mình đuổi bắt con trâu. Do nhiều người la hét náo loạn, con trâu hoá điên, liên tiếp đâm, húc, gây thương tích cho 3 người đang đi trên đường.

- Ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con trâu gây ra?

A là người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo các Điều 622, 625 BLDS 2005. Mặc dù A bán trâu cho B nhưng trâu chưa được giao đến lò mổ của B, vì vậy, A vẫn là chủ sở hữu súc vật. K là người đang có nghĩa vụ quản lý trâu đã để trâu gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc A giao cho. Việc ô tô của T bấm còi quá to không phải là hành vi trái pháp luật dẫn đến thiệt hại. A vừa là chủ sở hữu súc vật, là người thuê K làm công, vì vậy, A có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật của mình gây ra trong khi người làm công của A đang quản lý. Sau đó, do K có lỗi trong việc quản lý trâu dẫn đến trâu gây thiệt hại nên A có thể yêu cầu K hoàn trả tiền bồi thường.

11. Quy định của pháp luật đối với người sản xuất, kinh doanh không đảm bảo chất lượng của hàng hóa mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng

Anh A sai con là B đến cửa hàng đại lý của C để mua 3 chai bia. C bảo B tự lấy bia ở trong két. Khi B vừa cầm chai bia lên, tự dưng chai bia nổ, một mảnh vỡ vở chai găm vào mắt B gây rách giáp mạc. Ai phải bồi thường?

Nếu nguyên nhân gây nổ chai bia là do đại lý của C bảo quản sai quy cách thì C phải bồi thường;

Nếu C chứng minh mình không có lỗi trong việc bảo quản thì hãng bia phải bồi thường cho cháu B theo Điều 630 BLDS 2005 – Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường thiệt hại”.

12. Quy định của pháp luật khi súc vật gây thiệt hại

Ông P có một con trâu, giao cho Q (10 tuổi – là con trai ông) chăn dắt. Khi chị H đang gieo mạ trên đồng đã bị con trâu húc té ngửa, sừng của nó đâm trúng mắt chị, khiến chị bị thương tật ở mắt. Chị H yêu cầu ông P phải bồi thường thiệt hại vì con trâu của ông đã gây thiệt hại cho chị. Ông P cho rằng, chị H cũng có lỗi trong việc con trâu gây ra thiệt hại. Do chị H tay cầm bó mạ đứng hua hua trên bờ ruộng làm con trâu tưởng chị cho nó ăn nên đã chạy lại giành bó mạ. Nếu chị không tiếc của, để nó ăn thì đã không xảy ra sự việc đáng tiếc trên. Vì chị H cố tình giằng co bó mạ với con trâu dẫn đến nó đã húc chị.

- Ai có lỗi trong việc gây thiệt hại?

Điều 625 BLDS quy định: “Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác”. Cháu Q là người đang chăn dắt, quản lý trâu nhưng do Q là người chưa thành niên, nên P – bố Q và là chủ sở hữu con trâu là người có lỗi đối với thiệt hại do con trâu gây ra.

Page 80: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

80

Chị H không có lỗi làm cho con trâu gây thiệt hại cho chị. Chị cầm bó mạ để gieo không phải là hành động khiêu khích con trâu. Việc chị giằng lại bó mạ không cho trâu ăn là phản ứng bình thường để bảo vệ tài sản của mình. Trong trường hợp này, chỉ có chủ sở hữu của súc vật có lỗi trong việc quản lý súc vật. Vì vậy, ông P phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho chị H theo Điều 625 BLDS 2005 – Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra.

13. Quy định của pháp luật trong trường hợp người điều khiển ô tô gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại

Chị A nhờ anh B (lái xe cơ quan) lấy xe ô tô của nhà chị, chở chị đi Hà Nội có công việc gia đình. Trên đường đi, anh B phóng xe với tốc độ cao , vượt ẩu, lấn sang phần đường đối diện, suýt đâm vào một chiếc xe con đi ngược chiều. Rất may người lái xe con là S đã kịp đánh tay lái vào bên phải đường để tránh trong tích tắc. Xe của S đã đâm vào tường rào nhà chị G, làm đổ tường, xe của S cũng bị bẹp đầu, vỡ gương. Chị H bắt đền S phải bồi thường thiệt hại bức tường đổ là 2 triệu đồng? S cho rằng do anh tránh xe của B nên mới gây thiệt hại, vì vậy, B phải bồi thường thiệt hại cho anh và cho chị G.

- Xác định trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại của G và S

Đối với thiệt hại của chị G: Mặc dù S là người gây thiệt hại về tài sản cho chị G nhưng là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết. Để tránh thiệt hại mà xe của B có thể gây ra, S không có cách lựa chọn nào khác là đánh tay lái vào bên phải đường, nên đã gây thiệt hại cho chị G. Thiệt hại bức tường đổ rõ ràng là nhỏ hơn thiệt hại về con người và tài sản đã tránh được. Vì vậy, theo khoản 1 Điều 614, người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải bồi thường cho người bị thiệt hại. B là người gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo khản 3 Điều 614.

Đối với thiệt hại hư hỏng xe của S, B là người gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại, vì vậy, B phải chịu trách nhiệm bồi thường.

- Thiệt hại xảy ra có phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không?

Xe ô tô là nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng trong vụ việc này, thiệt hại không phải do tự bản thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà hoàn toàn do lỗi của người điều khiển. Vì vậy, không áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

- Chị A có phải liên đới chịu trách nhiệm cùng B không khi chị là chủ xe, đồng thời anh B đưa chị đi công việc của chị

Chị A là chủ xe, đồng thời anh B đưa chị đi công việc của chị nhưng chị A không có hành vi trái pháp luật, không có lỗi đối với thiệt hại. Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do anh B phóng nhanh, vượt ẩu, đi lấn đường. Vì vậy, anh B phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ thiệt hại.

14. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi bảo vệ toà án gây thiệt hại

Page 81: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

81

Anh A là bảo vệ Tòa án huyện Z. Trong một phiên toà hình sự, gia đình bị cáo do bênh vực người thân của mình, tức giận nên đã lao vào tấn công người bị hại khi người này đang cung cấp lời khai tại tòa. Trong lúc lộn xộn, để giữ trật tự phiên tòa, A đã nhảy vào dùng dùi cui đánh túi bụi những đối tượng trên, đặc biệt gây thương tích khá nặng cho N. N đã làm đơn yêu cầu Tòa án huyện Z và A phải bồi thường thiệt hại về sức khoẻ cho mình.

- N có quyền yêu cầu bồi thường không?

Mặc dù N cũng có lỗi trong việc A gây thiệt hại, nhưng hành vi đánh người của A là hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, vì vậy, N có quyền yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, theo Điều 617 – bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi, N cũng phải chịu trách nhiệm đối với một phần thiệt hại.

- A hay Tòa án huyện Z phải bồi thường? Có áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tố tụng gây ra không?

A gây thiệt hại cho N trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì vậy, Tòa án huyện Z nơi A công tác có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do A gây ra. A chỉ là bảo vệ của toà án, không phải là người có thẩm quyền tiến hành hoạt động xét xử, thi hành án. Vì vậy, không áp dụng Điều 620 BLDS 2005 – Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Nếu A là cán bộ trong biên chế của tòa án thì áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra Điều 619 BLDS 2005; Nếu A là nhân viên làm việc theo chế độ hợp đồng với Tòa án thì áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra Điều 619 BLDS 2005. Toà án huyện Z có quyền yêu cầu A hoàn trả một khoản tiền do việc A có lỗi đánh người.

Theo Điều 617 BLDS, N có cũng có lỗi trong việc để A gây thiệt hại cho N. vì vậy, N cũng phải chịu một phần trách nhiệm.

15. Quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.

A bị mất trộm 70 triệu đồng và 15.000 đô la Mỹ để trong ngăn kéo phòng làm việc. A nghi ngờ B là người quét dọn vệ sinh nên đã tố cáo B với cơ quan công an. Cơ quan điều tra căn cứ vào dấu vân tay của B trên bàn làm việc của A, cộng với thái độ lo sợ của B nên ra lệnh tạm giam B, lệnh tạm giam được Viện kiểm soát phê chuẩn. Viện kiểm sát nhanh chóng lập cáo trạng truy tố B trước Tòa. Vụ án được xét xử tại Tòa án nhân dân quận X. Trước tòa, B một mực kêu oan và phủ nhận lời khai trước đây tại cơ quan điều tra. Tòa án căn cứ vào kết luận của cơ quan điều tra đã tuyên xử B 3 năm tù giam, đồng thời căn nhà của B bị phát mại, bán đấu giá được 200 triệu để thi hành án. Một năm sau, cơ quan A làm việc lại bị mất trộm tiền và một số tài sản giá trị khác. Cơ quan công an đã bắt được T – một nhân viên cơ quan. Qua đấu tranh với T, T khai nhận một năm trước đã trộm tiền của A. Bản án trước đây bị huỷ, B được trả tự do và đã làm đơn yêu cầu A, Tòa án quận X bồi thường thiệt hại do xử oan cho mình.

- B có được bồi thường thiệt hại không?

Page 82: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

82

Theo quy định của Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH 11 của Uỷ ban thường vụ quốc hội Về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, B là người đang chấp hành hình phạt tù, nhưng đã có bản án, quyết định của tòa án xác định B không thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, B thuộc trường hợp được bồi thường theo Nghị quyết 388/2003/NQ.

- Cơ quan nào có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho B?

Căn cứ Điều 10, Nghị quyết 388, Toà án quận X phải bồi thường thiệt hại cho B. Tòa án quận X đã tuyên B có tội, nhưng sau đó bản án bị huỷ vì B không thực hiện hành vi phạm tội, vì vậy, Tòa án quận X có trách nhiệm phải bồi thường cho B. Mặc dù các khâu trong hoạt động tố tụng có liên quan đến nhau, Tòa án xét xử dựa trên kết luận của cơ quan điều tra, cáo trạng của Viện kiểm sát, nhưng Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT – VKSNDTC – BCA – TANDTC – BTP – BQP – BTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết 388/NQ – QBTVQH 11 đã hướng dẫn: “Khi xác định được một người bị oan thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ quan xử lý oan sau cùng, không phụ thuộc có cơ quan tiến hành tố tụng đã xử oan một phần”.

- Xác định thiệt hại gây ra cho B, biết trước khi bị bắt, B có thu nhập là 1 triệu đồng/tháng; căn nhà của B đã bị phát mại hiện tại có giá trị 320 triệu

Theo quy định của Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH 11 của Uỷ ban thường vụ quốc hội Về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và Thông tự liên tịch số 01/2004/TTLT – VKSNDTC – BCA – TANDTC – BTP – BQP – BTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết 388/NQ – QBTVQH 11, xác định thiệt hại gây ra cho B bao gồm:

- Thiệt hại về tài sản: Đối với căn nhà của B đã bị phát mại, bán đấu gía để thi hành án, B được bồi thường thiệt hại theo giá trị của căn nhà tại thời điểm giải quyết việc bồi thường là 320 triệu đồng (Căn cứ Điều 8 NQ 388);

- Thiệt hại do thu nhập bị mất: Trước khi bị bắt, B có thu nhập hợp pháp và ổn định là 1 triệu đồng/tháng. Vì vậy, B phải được bồi thường khoản thu nhập bị mất trong thời gian tạm giam và chấp hành hình phạt tù (tính đến ngày được trả tự do) (Căn cứ Điều 9 NQ 388);

- Thiệt hại do tổn thất về tinh thần: Do B bị kết án oan nên B được yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần trong thời gian bị tạm giam và chấp hành hình phạt tù. Mức bồi thường được xác định mỗi ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hành phạt tù được tính bằng ba ngày lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết việc bồi thường (Căn cứ Điều 5 NQ 388)

- Khoản tiền bồi thường được lấy từ nguồn nào và cách thức chi trả?

Theo NQ 388, kinh phí bồi thường thiệt hại được lấy từ ngân sách nhà nước; Cơ quan có trách nhiệm phải bồi thường cho người bị oan trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định xác định người bị oan. Người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự có lỗi gây oan do lỗi của mình có nghĩa vụ hoàn trả theo quy định của pháp luật.

Page 83: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

83

- A có phải chịu trách nhiệm khi đã tố cáo B trộm cắp đến cơ quan điều tra không?

A không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì việc A bị mất trộm và cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra không phải là hành vi trái pháp luật.

16. Ai phải bồi thường khi ong bò vẽ gây thiệt hại

Ông A và ông B vốn là bạn tri kỷ ở cùng xóm. Hôm đó, A thấy buồn nên sang nhà B rủ B có rượu thì mang ra uống. B đùa A, chỉ lên cây xoài cao trước sân nhà mình thách: nếu ông A trèo lên cây xoài, lấy được tổ ong bò vẽ ở trên đó thì ông B sẽ thưởng cho ông A 2 lit rượu. Sau một hồi cò kè, phần thưởng được tăng lên thành 5 lít rượu. Ông A sốt sắng đi tìm thang để trèo lên cây, còn ông cũng cầm can đi mua rượu. Trèo đến gần tổ ong, ông A dùng sào chọc vào tổ ong. Ong bay ra, vây lấy ông A đốt. Ông A tối tăm mặt mũi kêu cứu. Hàng xóm chạy sang vội đưa ông đi bệnh bệnh viện nhưng khi đến bệnh viện, ông A chết vì trúng độc. Vợ con ông A sang bắt đền, buộc ông B phải bồi thường.

- Ong bò vẽ có phải là nguồn nguy hiểm cao độ không?

Theo Điều 623 BLDS 2005, ong bò vẽ dù không phải là thú dữ nhưng do tính chất tự nhiên, hoang dã và nguy hiểm của chúng, có thể coi là các loại nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

- Ông B vừa là chủ sở hữu cây xoài, là người thách ông A trèo lên cây lấy tổ ong, ông B có phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông A?

Ông A là người có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Đáng lẽ ra ông A phải nhận thức được việc trèo lên cây lấy tổ ong là nguy hiểm, và nếu cần thì phải tìm biện pháp an toàn hơn cho mình. Ông B chỉ thách đố chơi nhưng ông A đã tự trèo cây và tự gây thiệt hại cho mình. Vì vậy, ông B không phải chịu trách nhiệm. Trong trường hợp này, theo Điều 617 BLDS 2005, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại, vì vậy, người bị thiệt hại phải tự chịu. Ông B là chủ sở hữu cây xoài nhưng không phải chịu trách nhiệm.

17. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi bảo vệ siêu thị bắt giữ, gây thiệt hại cho khách hàng khi khách hàng vi phạm nội quy của siêu thị?

Hai thanh niên là N và M vào trung tâm thương mại X chơi, vừa đi xem quầy hàng, vừa ăn bánh ngọt. A là nhân viên bảo vệ nhắc nhở nội quy của trung tâm thương mại là khách không được ăn uống trong các quầy hàng. N và M lờ đi, vẫn điềm nhiên ăn tiếp. A nói với B là một nhân viên bảo vệ khác. A và B xông tới, dùng còng tay để còng tay N và M, vừa đánh vừa hô trộm để khách hàng khác tưởng N và M trộm cắp hàng hóa. N và M bị giữ lại đến tối mới được thả về, sau khi phải xin lỗi, lạy lục, van xin A và B nhiều lần. Do bị đánh, N và M đều bị thương tích ở mặt và người. Riêng N do vết thương khá nặng, N phải nghỉ việc, điều trị ở bệnh viện nhiều ngày. Sau đó, N và M đã tố cáo nhân viên bảo vệ của trung tâm đến các cơ quan chức năng và yêu cầu được bồi thường.

- Hành vi của A và B đúng hay sai?

Page 84: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

84

Việc A, B còng tay N, M đánh, sau đó lại giữ N, M trong trung tâm nhiều giờ liền là trái pháp luật. Bảo vệ trung tâm thương mại không phải là người có thẩm quyền còng tay hay đánh người, giữ người.

- Ai phải bồi thường thiệt hại cho N, M?

N, M là nhân viên của trung tâm thương mại, gây thiệt hại khi đang thực hiện công việc được giao. Vì vậy, theo Điều 618, bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra, trung tâm phải bồi thường thiệt hại cho N, M. Sau khi đã bồi thường cho N, M, trung tâm có quyền yêu cầu A, B phải hoàn trả một khoản tiền bồi thường thiệt hại.

- Xác định thiệt hại gây ra cho N và M?

Hành vi của A, B – bảo vệ trung tâm thương mại đã gây ra thiệt hại đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của N và M. Vì vậy, trung tâm phải bồi thường thiệt hại về sức khoẻ theo Điều 609 BLDS 2005 và thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm theo Điều 611 BLDS 2005

18. Quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi gây ra trong thời gian trường học quản lý

Trường Trung học cơ sở X tổ chức cho các em thiếu nhi lớp 7 đi thăm quan và cắm trại tại Ao Vua. Hùng (12 tuổi) cố tình trêu đùa, đã đẩy Nga – một bạn gái cùng lớp ngã xuống suối , không ngờ đầu Nga đập vào đá dẫn đến trấn thương não. Nga phải đi cấp cứu và nằm điều trị trong bệnh viện nhiều ngày. Bố mẹ Nga đã làm đơn kiện Hùng ra tòa. Bố mẹ Hùng cho rằng nhà trường cũng phải có trách nhiệm.

- Trách nhiệm bồi thường thuộc về ai?

Theo Điều 621 BLDS 2005 quy định về bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác quản lý, người dưới mười lăm tuổi trong trường hợp học tại trường mà gây thiệt hại thì nhà trường phải bồi thường thiệt hại xảy ra.

Trong trường hợp trên, Hùng gây thiệt hại trong thời gian thuộc sự quản lý của nhà trường, vì trường tổ chức cho các cháu đi tham quan, vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về trường trung học cơ sở X. Nếu trường học chứng minh được mình không có lỗi trong việc quản lý (ví dụ Hùng đã không chấp hành quy định chung, trốn thầy cô ra suối chơi, rồi gây thiệt hại cho Nga) thì bố mẹ Hùng phải bồi thường.

19. Trách nhiệm bồi thường khi mượn ô tô gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của người khác

A có một chiếc xe 4 chỗ, chuyên làm dịch vụ chở khách hoặc cho thuê xe tự lái. B – một người bạn, mượn xe A để đưa gia đình về quê ăn cưới. Từ quê lên, do uống rượu say, B đã đâm xe vào giải phân cách giữa đường quốc lộ, xe bật ra theo quán tính đã đâm vào T đang đi xe máy, dẫn đến T bị thương nặng, đưa vào viện cấp cứu được 1 ngày thì T chết, xe máy bị hủy hoại hoàn

Page 85: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

85

toàn. Gia cảnh T rất khó khăn khi T là trụ cột gia đình, còn bố mẹ già đau yếu sông nương tựa vào anh; vợ đang mang thai 6 tháng; xe ô tô của A bị hư hỏng nặng. Xe hỏng khiến A không thể chở khách được.

- Xác định thiệt hại do hành vi trái pháp luật của B gây ra

Đối với A: B đã gây thiệt hại về tài sản cho A. Theo quy định của Điều 608 BLDS 2005, thiệt hại về tài sản bao gồm: Tài sản bị mất; tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại. Trong trường hợp này, hành vi trái pháp luật của B dẫn đến xe ô tô của A bị hư hỏng nặng; xe hỏng khiến cho A không thể chở khách hoặc cho thuê được. Vì vậy, B phải bổi thường cho A những khoản sau:

+ Các chi phí để sửa chữa xe nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu; chi phí khác để hạn chế hoặc khắc phục thiệt hại;

+ Giá trị của chiếc xe bị giảm sút sau khi sửa chữa hư hỏng;

+ Thu nhập A bị mất do không khai thác được chiếc xe trong thời gian chờ sửa chữa

Đối với T: B đã gây thiệt hại về tài sản và tính mạng cho T.

Đối với thiệt hại về tài sản: Do chiếc xe máy của T bị hư hỏng hoàn toàn, T phải bồi thường giá trị của chiếc xe theo thời giá thị trường;

Đối với thiệt hại về tính mạng của T: Theo Điều 610 BLDS 2005 và Nghị quyết Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết, bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu, tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, xét nghiệm, truyền máu…

+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, thuê xe tang, các khoản chi phí cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân…

+ Khoản tiền cấp dưỡng cho người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết. Trong vụ việc trên, T đang có nghĩa vụ cấp dưỡng cho bố mẹ già yếu, sống nương tựa vào anh và đứa con mà vợ anh đang mang thai. Theo quy định của khoản 2 Điều 612 BLDS 2005 về thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm, B có trách nhiệm bồi thường khoản tiền cấp dưỡng cho bố mẹ T kể từ thời điểm tính mạng T bị xâm phạm cho đến khi bố mẹ T chết. Đối với con của T, nếu còn sống sau khi sinh ra sẽ được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động và tự nuôi sống bản thân.

Page 86: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

86

+ Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: Theo quy định của Điều 610 BLDS 2005 và Nghị quyết Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: cha, mẹ, vợ, chồng, con của người bị thiệt hại. Mức bồi thường do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được thì mức bồi thường căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết việc bồi thường.

- A là người cho B mượn xe có phải chịu trách nhiệm gì không?

Nếu A biết B không có bằng lái nhưng vẫn cho B mượn xe thì A cũng có một phần lỗi và phải chịu trách nhiệm đối với một phần thiệt hại;

Nếu B có bằng lái, xe của A bảo đảm đủ điều kiện về an toàn để lưu hành thì A hoàn toàn không có lỗi đối với thiệt hại do B gây ra. B phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.

20. Quy định của pháp luật khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại

A là lái xe làm hợp đồng cho Công ty vận tải Z. Một lần khi đang lái xe chở hàng xuống cầu, xe của A đột ngột hỏng phanh. A đã cố gắng để kìm tốc độ của xe nhưng kết quả xe của A đâm liên tiếp theo phản ứng dây chuyền 4 chiếc xe đi trước, khiến các xe này bị hư hỏng.

- Thiệt hại do A hay tự chiếc xe gây ra?

Trong tình huống này, thiệt hại do tự bản thân hoạt động của chiếc xe gây ra. A không có lỗi trong việc điều khiển vì tình huống quá bất ngờ, nằm ngoài sự kiểm soát của A. Theo Điều 623 BLDS 2005, xe ô tô là phương tiện giao thông vận tải cơ giới – là nguồn nguy hiểm cao độ. Trong trường hợp này, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

- Ai có trách nhiệm bồi thường?

Theo Điều 623 BLDS 2005 và Nghị quyết Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Trong trường hợp trên, A là người đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nhiệm vụ do Công ty Z giao cho. Công ty Z vẫn đang nắm giữ, quản lý, khai thác, hưởng công dụng, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ, vì vậy, không phải A là người được chuyển giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để khai thác, hưởng lợi. Vì vậy, Công ty Z là chủ sở hữu chiếc xe phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

- Những trường hợp nào chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?

Page 87: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

87

+ Trường hợp chủ sở hữu đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng, khai thác, như cho thuê, cho mượn, bán trả góp nhưng trong thời gian người mua chưa trả hết tiền…;

+ Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại như người bị thiệt hại cố ý lao vào xe để tự tử…

+ Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết;

+ Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị người khác chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật mà chủ sở hữu không có lỗi khi nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật

21. Quy định của pháp luật khi người làm công, người học việc gây thiệt hại

P là chủ cửa hiệu sửa chữa xe máy; Q – 16 tuổi là thợ đang học việc. Một lần, sau khi được P giao thay dây ga cho chiếc xe máy của khách, Q thử ga thấy xe nổ tốt. Chợt nhớ phải đi mua bình ác quy mới do người chú họ nhờ, Q tiện thể nổ máy đi luôn, vì biết khách hẹn chiều mới đến lấy xe. Vì vội vàng, phóng nhanh, Q đã tông xe vào K một người đi xe máy khác, làm người này bị thương phải đi cấp cứu bệnh viện; xe máy của họ và xe máy Q đang điều khiển đều bị hư hỏng.

- Ai phải bồi thường thiệt hại cho K?

Q là người gây thiệt hại về tài sản, sức khoẻ cho K. Thiệt hại Q gây ra cho K không phải khi đang thực hiện công việc được giao. Vì vậy, Q phải tự bồi thường thiệt hại về sức khoẻ và tài sản cho K.

- Ai phải bồi thường thiệt hại chiếc xe máy của khách mà Q làm hư hỏng?

Chiếc xe máy do khách giao cho cửa hàng của P sửa chữa, vì vậy, P có nghĩa vụ trông giữ, bao quản. Việc Q – thợ học việc của P làm hư hỏng xe, P phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo Điều 622 BLDS 2005 – Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. Trong trường hợp này, Q cũng có lỗi đã tự ý lấy xe đi (Q mới 16 tuổi nên chưa có bằng lái) và không làm chủ được tốc độ gây thiệt hại cho K, vì vậy, Q phải hoàn trả cho P một khoản tiền theo quy định của pháp luật.

Vì Q 16 tuổi nên nếu Q không có đủ tài sản để bồi thường, P có thể yêu cầu người đại diện của Q (bố mẹ hoặc người giám hộ) bồi thường phần còn thiếu theo Điều 606 BLDS 2005.

22. Quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra

Page 88: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

88

Công an huyện H bắt quả tang một ổ đánh bạc tại nhà A. Khi thấy hô công an đến, mọi người trong nhà bỏ chạy toán loạn, T hốt hoảng cũng chạy theo. Công an đã dùng dùi cui đánh, gây thương tích cho T và một số người khác, sau đó bắt 12 người, trong đó có T đưa lên công an huyện. T bị tạm giữ 2 ngày, bị thu giữ 1 điện thoại di động và 8 triệu đồng. Qua điều tra, công an xác định T là người họ hàng, làm nghề lái xe, đến nhà A trả tiền vay, nên đã huỷ quyết định tạm giữ đối với T.

- T có được bồi thường thiệt hại không?

Theo khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH 11 của Uỷ ban thường vụ quốc hội Về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, “Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật” thuộc trường hợp được bồi thường thiệt hại.

- Cơ quan nào có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho T?

Công an huyện là cơ quan đã ra lệnh tạm giữ T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho T theo Điều 10 Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH 11 của Uỷ ban thường vụ quốc hội Về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.

- T được bồi thường những thiệt hại nào?

Trong vụ việc trên, T được bồi thường các thiệt hại sau:

+ Thiệt hại về sức khoẻ do T bị đánh, gây thương tích;

+ Thiệt hại về tài sản: T có quyền yêu cầu được trả lại tài sản đã bị thu giữ gồm điện thoại và 8 triệu đồng.

+ Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất trong thời gian bị tạm giữ, trong thời gian nghỉ để điều trị thiệt hại về sức khoẻ.

23. Nghĩa vụ cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng có chấm dứt không khi người gây thiệt hại chết?

A là lái xe, do một lần uống rượu say, không làm chủ được tay lái đã gây thiệt hại đến tính mạng anh K. A đã bồi thường các chi phí cho việc mai táng người bị thiệt hại cũng như một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho thân nhân người thiệt mạng. Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, còn khoản tiền cấp dưỡng cho 2 đứa con chưa thành niên của anh B (đứa lớn 7 tuổi, đứa nhỏ 2 tuổi) A thoả thuận với chị B – vợ anh K sẽ cấp dưỡng theo định kỳ mỗi năm 10 triệu đồng. Một năm sau, A bị bệnh mất.

- Nghĩa vụ cấp dưỡng của A đối với 2 đứa con chưa thành niên của anh B có chấm dứt không khi A chết?

Page 89: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

89

Bồi thường thiệt hại, trong đó có bồi thường tiền cấp dưỡng là một nghĩa vụ tài sản của người có hành vi xâm phạm tính mạng. Nhằm tôn trọng quyền tự do thoả thuận của các bên, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người gây thiệt hại có điều kiện thực hiện nghĩa vụ bồi thường, các bên có thể thoả thuận phương thức bồi thường toàn bộ một lần hoặc theo định kỳ. Trong trường hợp này, A thoả thuận với chị B sẽ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo định kỳ, nhưng mới được 1 năm thì A mất. Thông thường, theo Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết. Tuy nhiên, trong trường hợp này, nghĩa vụ bồi thường tiền cấp dưỡng là một nghĩa vụ tài sản do A để lại, không phải là một nghĩa vụ nhân thân. Vì vậy, nghĩa vụ bồi thường tiền cấp dưỡng không chấm dứt khi A chết. Chị B có quyền yêu cầu những người thừa kế của A thanh toán nghĩa vụ này trong khối di sản thừa kế do A để lại.

Khoản tiền cấp dưỡng được tính cho đến khi các con của K tròn 18 tuổi, trừ khi từ đủ 15 tuổi, chúng đã tham gia lao động và tự nuôi sống bản thân.

24. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra

A bán cho B 5 cây bạch đàn. B đã trả tiền và theo thoả thuận, B sẽ tự chặt chuyên chở. B thuê N và M chặt cây mang về xưởng cho mình. Đang chặt dở đến cây thứ 4, N và M mệt nên nghỉ. Không ngờ gió to, cây đổ làm sạt mái nhà bà C ở cạnh đó. Bà C bắt đền A phải bồi thường cho mình. A cho rằng N, M phải chịu trách nhiệm.

- Trách nhiệm bồi thường thuộc về ai?

A bán cây cho B, theo thoả thuận, B đã trả tiền và sẽ tự chặt cây mang đi, vì vậy, B đã trở thành chủ sở hữu của 5 cây bạch đàn đó. Theo Điều 626 BLDS 2005, Chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do cây cối đổ gẫy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng. Vì vậy, B có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại do cây đổ gaat thiệt hại cho bà C.

- N, M có phải chịu trách nhiệm gì không?

N, M là người được B thuê chặt cây và mang cây về xưởng, vì vậy, N, M là người làm công của B. Theo Điều 622 BLDS 2005, người thuê người làm công “có quyền yêu cầu người làm công có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. Trong trường hợp này, N, M có lỗi bất cẩn, gây ra thiệt hại. Vì vậy, N, M phải liên đới thực hiện nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền bồi thường cho B.

25. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra.

Hợp tác X có một khu nhà kho cũ, có tường rào xây bằng gạch bao quanh. Hợp tác xã cho anh T thuê để làm xưởng sản xuất nông cụ với thời hạn 5 năm. Một hôm, bức tường rào đột nhiên đổ sập, gây thiệt hại cho 2 cháu A và B khi đang chơi bên ngoài tường rào. Cơ quan điều tra tìm ra nguyên nhân bức tường xây đã lâu, chất lượng kém, chỉ xây bằng vôi và cát mà không có xi măng, tường xây cao 2 m lại không có móng.

Page 90: Bồi thường thiệt hạ ng - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-lao-dong/file_goc_776346.pdf · thường không còn phù hợp với thực tế

90

- Ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho 2 cháu A và B

Theo Điều 627 BLDS 2005, “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại nếu để nhà cửa, công trình xây dựng bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”. Trong trường hợp này, Hợp tác xã X là chủ sở hữu công trình xây dựng, nhưng hiện tại đang cho anh T thuê, quản lý, sử dụng. Vì vậy, theo Điều 627 BLDS 2005, anh T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi bức tường đổ gây thiệt hại.

SOURCE: BÀI ĐƯỢC ĐĂNG DƯỚI SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ

CÁM ƠN TÁC GIẢ ĐÃ CHIA SẺ BÀI VIẾT