BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao...

24
Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 1 BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂM Hướng dẫn học Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau: Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn. Đọc tài liệu: 1. Nguyễn Văn Định (chủ biên), 2012, Giáo trình Bảo hiểm, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 2. Nguyễn Văn Định (chủ biên), 2009, Giáo trình Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 3. C. Arthur Williams, JR. Richard. M. Heins, 1989, Risk Management and Insurance, McGrawn-Hill International Editions, Singapore. Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email. Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học. Nội dung Bài 1 trình bày các vấn đề cơ bản và chung nhất về bảo hiểm. Đây là bài nhập môn, trình bày cơ sở của bảo hiểm, các khái niệm, các loại hình bảo hiểm và vai trò của bảo hiểm, hỗ trợ cho việc tiếp tục nghiên cứu cụ thể và chi tiết về bảo hiểm để vận dụng vào việc quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Nội dung bài 1 tập trung vào các vấn đề sau: Rủi ro và quản trị rủi ro; Khái niệm và bản chất của bảo hiểm; Các loại bảo hiểm; Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm. Mục tiêu Sau khi học xong bài này, sinh viên cần: Hiểu được khái niệm rủi ro và phân biệt được các loại rủi ro; Nắm vững các công cụ quản trị rủi ro; Hiểu được khái niệm và bản chất của bảo hiểm; Phân biệt được các loại bảo hiểm; Hiểu rõ vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm.

Transcript of BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao...

Page 1: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 1

BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂM

Hướng dẫn học

Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:

Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia

thảo luận trên diễn đàn.

Đọc tài liệu:

1. Nguyễn Văn Định (chủ biên), 2012, Giáo trình Bảo hiểm, Nhà xuất bản Đại học

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

2. Nguyễn Văn Định (chủ biên), 2009, Giáo trình Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm,

Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

3. C. Arthur Williams, JR. Richard. M. Heins, 1989, Risk Management and

Insurance, McGrawn-Hill International Editions, Singapore.

Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc

qua email.

Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.

Nội dung

Bài 1 trình bày các vấn đề cơ bản và chung nhất về bảo hiểm. Đây là bài nhập môn, trình

bày cơ sở của bảo hiểm, các khái niệm, các loại hình bảo hiểm và vai trò của bảo hiểm,

hỗ trợ cho việc tiếp tục nghiên cứu cụ thể và chi tiết về bảo hiểm để vận dụng vào việc

quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Nội dung bài 1 tập

trung vào các vấn đề sau:

Rủi ro và quản trị rủi ro;

Khái niệm và bản chất của bảo hiểm;

Các loại bảo hiểm;

Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm.

Mục tiêu

Sau khi học xong bài này, sinh viên cần:

Hiểu được khái niệm rủi ro và phân biệt được các loại rủi ro;

Nắm vững các công cụ quản trị rủi ro;

Hiểu được khái niệm và bản chất của bảo hiểm;

Phân biệt được các loại bảo hiểm;

Hiểu rõ vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm.

Page 2: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

2 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

Tình huống dẫn nhập

Con tàu huyền thoại Titanic

Tàu Titanic, con tàu nổi tiếng nhất trong lịch sử, rời cảng

Southampton, Anh Quốc, hướng về New York, Hoa Kỳ ngày

10/04/1912. Ngày 11/04, Sau khi đón khách ở Cherbourg, Pháp

và ở Queenstown (nay gọi là Cobh), Ai Len, tàu Titanic hướng

về Đại Tây Dương. Ngày 14/4, khoảng 11h40 tối, tàu Titanic

va vào một tảng băng trôi. Ngày 15/04, lúc 2h20 sáng,

tàu Titanic chìm. Trên tàu có 16 thuyền cứu đắm và 4 thuyền

gập lại được với sức chứa tối đa khoảng 1.170 người. Nhưng có khoảng 2.200 hành khách và

những người làm việc trên tàu. Trong vụ đắm tàu Titanic chỉ có 705 người được cứu, khoảng

1.500 người thiệt mạng. Toàn bộ con tàu Titanic chìm xuống đáy đại dương.

http://wol.jw.org/vi/wol/d/r47/lp-vt/102012124

Tàu Titanic có được bảo hiểm bồi thường không?

Page 3: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 3

1.1. Rủi ro và quản trị rủi ro

1.1.1. Khái niệm và phân loại rủi ro

1.1.1.1. Khái niệm rủi ro

Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất, chúng ta

luôn có thể gặp các sự kiện nằm ngoài dự kiến. Có

những sự kiện ngoài dự kiến mang lại những tốt đẹp,

thuận lợi cho cuộc sống con người. Nhưng cũng có thể

là những biến cố không mong muốn với các thiệt hại

có thể là rất lớn. Các biến cố không mong đợi này

được gọi là rủi ro. Nhiều ý kiến cho rằng, rủi ro là sự

cố không may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người hoặc tài sản.

Rủi ro có đặc điểm rõ nét là sự không chắc chắn, bất ngờ, ngẫu nhiên hay còn gọi là

tính bất định của một biến cố nào đó. Nghĩa là rủi ro có khả năng xảy ra hay không

xảy ra, và rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ thời gian và không gian nào với quy mô thiệt

hại lớn hay nhỏ mà ta không xác định trước được.

Để làm rõ khái niệm rủi ro, cần phân biệt rủi ro với nguy cơ và hiểm họa.

Rủi ro (risk): là từ chung để chỉ một biến cố gây ra tổn thất. Ví dụ, một vụ cháy

thiêu trụi kho hàng của một doanh nghiệp kinh doanh hóa chất, gây thiệt hại về tài

chính cho chủ doanh nghiệp.

Hiểm họa (peril): là nguyên nhân chính gây tổn thất. Trong ví dụ trên, “cháy” là

hiểm họa.

Nguy cơ (hazard): là một hay nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tổn thất. Nguy cơ

không phải là nguyên nhân gây ra tổn thất nhưng có thể làm tăng hoặc giảm khả

năng tổn thất khi hiểm họa xảy ra. Việc “kho hàng chứa hóa chất” là một nguy cơ

vì khả năng xảy ra cháy của hóa chất cao hơn nhiều mặt hàng khác. Có 2 loại nguy

cơ là nguy cơ vật chất và nguy cơ đạo đức. Trong vụ cháy kho hóa chất nói trên,

nguy cơ vật chất là loại hàng hóa chứa trong kho hoặc kết cấu ngôi nhà, nguy cơ

đạo đức là ý thức trách nhiệm của thủ kho và các biện pháp phòng cháy chữa cháy

của doanh nghiệp.

1.1.1.2. Phân loại rủi ro

Rủi ro được phân thành nhiều loại tùy theo các tiêu thức phân loại khác nhau.

Căn cứ vào vào khả năng kiếm lời trong kết cục của rủi ro: rủi ro thuần và rủi ro

đầu cơ (rủi ro suy đoán).

o Rủi ro thuần túy chỉ liên quan đến việc có bị tổn thất hay không. Ví dụ kho

hàng bị cháy, thiệt hại về hàng hóa là 10 tỷ đồng. Nếu không bị cháy, doanh

nghiệp sẽ không bị thiệt hại 10 tỷ đồng.

o Rủi ro đầu cơ (rủi ro suy đoán) liên quan đến 3 kết quả có thể xảy ra: tổn thất,

có lãi hoặc không thay đổi. Ví dụ: mua cổ phiếu là rủi ro đầu cơ, người mua cổ

phiếu có thể có lãi hoặc bị thua lỗ do giá cổ phiếu tăng hoặc giảm, và cũng có

thể không được cũng như không mất gì do giá cổ phiếu đó không thay đổi.

Page 4: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

4 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

Căn cứ vào việc đo lường hậu quả của rủi ro: rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính

o Rủi ro tài chính là rủi ro có thể xác định hậu quả bằng tiền hoặc quy được

thành tiền.

o Rủi ro phi tài chính là những rủi ro không xác định bằng tiền mà liên quan

đến tâm sinh lý con người.

Ví dụ bị tai nạn giao thông làm tinh thần hoảng hốt, cảm giác bất an là rủi ro phi

tài chính. Chi phí y tế phải trả là rủi ro tài chính.

Căn cứ vào cả nguyên nhân và hậu quả của rủi ro: rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt

o Rủi ro cơ bản là những rủi ro có nguyên nhân nằm ngoài tầm kiểm soát của

con người và gây ảnh hưởng đến nhiều người. Nguyên nhân dẫn đến các rủi ro

cơ bản thường do thiên nhiên, như bão lụt, động đất, hạn hán… Hoặc do các

biến động trong môi trường kinh tế – chính trị – xã hội như thất nghiệp.

o Rủi ro riêng biệt có nguyên nhân và hậu quả mang tính cá biệt, xảy ra với một

hoặc một số ít người. Tai nạn giao thông, tai nạn lao động là những ví dụ điển

hình về rủi ro riêng biệt.

1.1.2. Quản trị rủi ro

Trong mọi hoạt động, con người luôn có nguy cơ gặp

phải rủi ro vì những nguyên nhân khác nhau, như: bão

lụt, hạn hán, ốm đau, bệnh tật tai nạn… Mỗi khi gặp

phải rủi ro thường gây nên những hậu quả khó lường

làm ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất và đến sức khoẻ

của con người. Bởi vậy, ngay từ khi xã hội loài người

xuất hiện thì nhu cầu an toàn đối với con người cũng

xuất hiện và nó là một trong những nhu cầu vĩnh cửu.

Lúc nào con người cũng tìm cách bảo vệ chính bản

thân và tài sản của mình trước những rủi ro trong cuộc sống cũng như trong sản xuất.

Phương pháp bảo vệ lúc đầu là rất đơn giản và đôi khi là mù quáng, bằng cách họ luôn

luôn cầu xin các đấng thần linh và chúa trời phù hộ dể được yên ổn, an toàn. Và chẳng

bao lâu con người đã tìm ra cách thức bảo vệ một cách có tổ chức. Các nhà khảo cổ

học đã tìm thấy những vết tích chứng minh sự tồn tại của các tổ chức cứu hộ tương hỗ

đối với các thợ tạc đá Ai Cập cổ đại từ 4.500 năm trước công nguyên. Hay người Ba-

Bi-Lon đã đưa ra những quy tắc trong việc tổ chức các phương tiện vận tải bằng xe

kéo và đặc biệt đã quy định phân chia các thiệt hại do mất cắp và bị cướp cho các

thương gia cùng gánh chịu. Thời La Mã cổ đại đã có những hội đoàn kết tương trợ của

các tập đoàn lính có cùng nhu cầu, bằng cách người ta đã dùng quy chế của toàn tang

lễ Lanuvium tổ chức tang lễ cho tất cả các thành viên đã có tiền đóng góp cho hội từ

khi họ còn sống. Đến thời Trung cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã được hình

thành và phát triển với bằng chứng là người ta đã tìm thấy các bản hợp đồng bảo hiểm

cổ xưa nhất ở các cảng biển Địa Trung Hải và Đại Tây Dương…

Khi cuộc sống và sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu an toàn cũng được con

người ngày càng quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt là khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ

phát triển, một mặt đã làm tăng năng suất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc

Page 5: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 5

sống của con người, nhưng mặt khác, nguy cơ gặp rủi ro của con người cũng ngày

càng nghiêm trọng. Để đối phó với rủi ro và khắc phục hậu quả tổn thất, lúc này con

người đã tìm ra nhiều cách thức khác nhau để phòng vệ. Từ góc độ quản trị rủi ro,

theo mục đích và các biện pháp xử lý rủi ro, những cách thức này thể hiện chủ yếu ở

hai nhóm biện pháp là kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.

1.1.2.1. Kiểm soát rủi ro

Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh né rủi ro, ngăn ngừa

tổn thất, giảm thiểu rủi ro.

Tránh né rủi ro: Đây là biện pháp được sử dụng phổ biến trong cuộc sống. Mỗi

cá nhân, mỗi tổ chức đều có thể lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh

rủi ro có thể xảy ra nhằm loại trừ nguy cơ dẫn đến bị tổn thất. Chẳng hạn, để né

tránh tai nạn giao thông người ta đã hạn chế việc đi lại, hay để phòng tránh tai nạn

lao động, người ta sẽ chọn những ngành nghề ít nguy hiểm hơn… Tuy vậy, trong

cuộc sống mà nhất là cuộc sống hiện đại như ngày nay, biện pháp này rất khó thực

hiện và thậm chí là không thể thực hiện được.

Ngăn ngừa tổn thất: Đây là biện pháp khá chủ

động bằng cách thực hiện các hành vi và hành động

cụ thể mà các cá nhân và tổ chức đưa ra nhằm giảm

mức độ thiệt hại khi gặp rủi ro. Chẳng hạn, để giảm

bớt tai nạn lao động, các khoá học cho người lao

động về an toàn, vệ sinh lao động được tổ chức.

Hay để phòng chống hoả hoạn, người ta đã thực

hiện tốt công tác phòng cháy chữa cháy…

Giảm thiểu tổn thất: Cho dù khi đã gặp phải rủi ro, người ta vẫn có thể có các

biện pháp làm giảm thiểu tổn thất. Ví dụ, khi hoả hoạn xảy ra, để giảm thiểu tổn

thất người ta đã sử dụng biện pháp cứu hoả. Hay khi bị tai nạn, để giảm thiểu các

thiệt hại về người, người ta đã đưa những người bị thương đi cấp cứu kịp thời và

điều trị…

Các biện pháp kiểm soát rủi ro nhìn chung đều mang tính chủ động và có tác dụng trong

việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro tổn thất nhưng vẫn không ngăn được rủi ro xảy ra

cũng như ngăn cản xảy ra thiệt hại. Hơn nữa, chi phí thực hiện các biện pháp kiểm soát

rủi ro có thể là rất lớn và nằm ngoài khả năng tài chính của các doanh nghiệp.

1.1.2.2. Tài trợ rủi ro

Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và bảo hiểm.

Chấp nhận rủi ro: Đây là biện pháp mà con người tự chấp nhận tổn thất khi gặp

phải rủi ro, điều đó cũng có nghĩa là họ tự bảo hiểm. Chẳng hạn, người ta có thể tự

lập ra quỹ dự trữ, dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất khi

gặp phải rủi ro. Hoặc khi rủi ro xảy ra, để khắc phục hậu quả cho người ta có thể đi

vay mượn tiền bạc để khắc phục hậu quả.

Bảo hiểm: Đây là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả. Có nghĩa là, nhiều

người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để hình thành quỹ bảo

Page 6: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

6 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

hiểm và quỹ này được dùng chủ yếu vào mục đích bồi thường hoặc chi trả khi một

hay một số người tham gia đóng góp gặp phải rủi ro tổn thất.

Theo đà phát triển của lịch sử và của các hình thái kinh tế xã hội cho thấy, trong số tất

cả các biện pháp thuộc hai nhóm biện pháp nêu trên, biện pháp bảo hiểm mà con

người áp dụng là phổ biến và có hiệu quả nhất. Bởi lẽ, hậu quả của rủi ro thông qua

bảo hiểm sẽ được phân tán cho nhiều người cùng gánh chịu. Hơn nữa, bảo hiểm

không chỉ thuần tuý là sự chuyển giao, sự chia sẻ rủi ro, mà nó còn là sự giảm thiểu

rủi ro, giảm thiểu tổn thất, thông qua các chương trình quản lý rủi ro được phối hợp

giữa các cá nhân, các tổ chức kinh tế – xã hội với các tổ chức bảo hiểm.

Từ thực tế diễn ra nêu trên đã chứng minh rằng, bảo hiểm ra đời là một đòi hỏi khách

quan của cuộc sống và sản xuất. Xã hội càng phát triển và văn minh thì hoạt động bảo

hiểm cũng ngày càng phát triển và không thể thiếu được đối với mỗi cá nhân, tổ chức

và mỗi quốc gia.

1.2. Khái quát về bảo hiểm

1.2.1. Bản chất của bảo hiểm

1.2.1.1. Khái niệm bảo hiểm

Mặc dù ra đời từ khá sớm, song cho đến nay vẫn chưa

có một khái niệm thống nhất về bảo hiểm, bởi vì người

ta đã đưa ra khái niệm về bảo hiểm ở nhiều góc độ

khác nhau.

Dưới góc độ tài chính, người ta cho rằng: “Bảo

hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân

phối lại những chi phí mất mát không mong đợi”.

Dưới góc độ pháp lý, giáo sư Hemard đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một nghiệp

vụ, qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo

hiểm hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để

trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên

khác là người được bảo hiểm, người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền

bù những thiệt hại theo Luật Thống kê”.

Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm, các công ty, các tập đoàn bảo hiểm thương mại

trên thế giới lại đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một

người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo

hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm

vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo

hiểm”...

Có thể nói, các khái niệm trên ít nhiều đã lột tả được bản chất của bảo hiểm trên các

khía cạnh về rủi ro, sự chuyển giao rủi ro giữa người được bảo hiểm và người bảo

hiểm thông qua phí bảo hiểm và số tiền bồi thường hoặc chi trả khi người được bảo

hiểm gặp phải rủi ro tổn thất. Cũng trên cơ sở các khía cạnh đó, khái niệm về bảo

hiểm có thể được hiểu như sau: “Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính, thông

qua đó một cá nhân hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả

Page 7: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 7

tiền bảo hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra nhờ vào khoản đóng góp phí bảo

hiểm cho mình hay cho người thứ ba. Khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này do một

tổ chức đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện bảo hiểm và bù

trừ chúng theo quy luật thống kê”.

Đây là khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm, bởi vì nó đã bao quát được phạm

vi và nội dung của tất cả các loại hình bảo hiểm (BHTM, BHXH, BHTN và BHYT).

1.2.1.2. Bản chất của bảo hiểm

Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định cuộc sống và sản xuất cho những

người tham gia, và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.

Chính vì vậy, bản chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội

giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát sinh khi

rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên, phân phối trong

bảo hiểm chủ yếu là phân phối không đều, và phần lớn không mang tính bồi hoàn trực

tiếp (loại trừ một số loại hình bảo hiểm, như: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tiền hưu trí).

Ngoài ra, bản chất của bảo hiểm còn được thể hiện ở các khía cạnh cụ thể sau đây:

Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm. Có nhiều cách tiếp cận

khái niệm rủi ro, song theo nghĩa thông dụng nhất thì rủi ro là biến cố gây thiệt hại

và không mong đợi. Để đối phó với rủi ro, con người luôn phải tìm cách phòng vệ.

Trong bảo hiểm hiện đại, bên cạnh rủi ro còn có các sự kiện liên quan đến bảo hiểm,

như: sự kiện sinh đẻ của lao động nữ, người lao động đến tuổi nghỉ hưu hay người

được bảo hiểm còn sống đến một thời điểm xác định trên hợp đồng BHNT…

Cơ chế chuyển giao rủi ro trong bảo hiểm được thực

hiện giữa bên tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm

thông qua các cam kết bảo hiểm. Theo cơ chế này,

bên tham gia phải nộp phí bảo hiểm và bên bảo

hiểm cam kết bồi thường hay chi trả tiền bảo hiểm

khi đối tượng bảo hiểm hay người được bảo hiểm

gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Tất nhiên, rủi

ro hay sự kiện bảo hiểm phải là ngẫu nhiên, khách quan mà hai bên đã thoả thuận.

Phí bảo hiểm mà bên tham gia nộp cho bên bảo hiểm phải được thực hiện trước

khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ngược lại, khoản tiền mà bên bảo hiểm trả

cho bên tham gia hay cho người thứ ba chỉ được thực hiện sau khi sự kiện bảo

hiểm hay rủi ro xảy ra gây tổn thất. Khái niệm người thứ ba trong bảo hiểm thường

được pháp luật quy định trong loại hình BHTM.

Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong bảo hiểm được bên bảo hiểm tính toán và

quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất, cũng như quỹ bảo

hiểm mà họ thiết lập được dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít.

Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải là hoạt động sản xuất.

Chính vì vậy, lợi ích của các bên phải được luật hoá rất cụ thể và vai trò quản lý

Nhà nước trong lĩnh vực này là rất quan trọng và không thể thiếu được đối với mỗi

quốc gia.

Page 8: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

8 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

1.2.2. Các loại hình bảo hiểm

Hiện nay trên thế giới có 4 loại hình bảo hiểm, đó là: Bảo hiểm thương mại (BHTM);

Bảo hiểm xã hội (BHXH); Bảo hiểm y tế (BHYT) và Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).

Tuỳ theo điều kiện kinh tế – xã hội và mô hình tổ chức ngành bảo hiểm mà mỗi nước

có thể triển khai tất cả hoặc chỉ triển khai một số loại hình trong số 4 loại hình bảo

hiểm nói trên.

1.2.2.1. Bảo hiểm xã hội

BHXH là loại hình bảo hiểm đóng vai trò hết sức quan trọng, liên quan trực tiếp đến

người lao động và người sử dụng lao động. Hoạt động BHXH không nhằm mục đích

kiếm lời và chịu sự chi phối chủ yếu của Luật BHXH cũng như định hướng chính sách

kinh tế – xã hội của từng quốc gia. BHXH có tính cộng đồng xã hội, tính nhân đạo,

nhân văn sâu sắc và là trụ cột chính của hệ thống ASXH của mỗi nước.

BHXH ra đời từ giữa thế kỷ 19. Năm 1850 một số bang của nước Phổ (Cộng hoà liên

bang Đức ngày nay) lần đầu tiên đã thành lập quỹ trợ giúp nỗi đau. Năm 1883, họ lại

tiếp tục ban hành Luật BHYT và bảo hiểm TNLĐ, sau đó là đạo luật về hưu trí. Người

khởi xướng đạo luật này là Tể tướng Bismark, với cơ chế 3 bên (nhà nước – giới chủ –

giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo vệ cho người lao động trong các trường hợp gặp

rủi ro. Ở Pháp, ý tưởng về bảo hiểm TNLĐ cho công nhân ngành đường sắt đã được

Klaves taing đề xuất năm 1850 nhưng đã bị giới thượng lưu từ chối, bác bỏ. Đầu năm

1860, ông buộc phải chuyển sang Bỉ để thành lập một công ty của mình là

Dveservatrice. Nửa đầu thế kỷ 20, BHXH phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước

Châu Âu và cả ở Bắc Mỹ. Tại Mỹ, năm 1935 đã ban hành đạo luật về ASXH với nội

dung đều tương tự như các chế độ BHXH ngày nay. Sau chiến tranh thế giới thứ 2,

Liên Hợp quốc được thành lập (1945) và một loạt các công ước, các khuyến nghị về

BHXH đã được khuyến cáo. Ngày 04 tháng 6 năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế

(ILO) thuộc Liên Hợp quốc đã ký công ước Giơ ne vơ (Công ước số 102) về “BHXH

cho người lao động” và khuyến nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động

tuỳ theo khả năng và điều kiện kinh tế – xã hội của mình. Từ đó, hầu hết các nước trên

thế giới tham gia công ước đã vận dụng và ban hành chính sách BHXH cho người lao

động và BHXH đã không ngừng phát triển cho đến ngày nay.

1.2.2.2. Bảo hiểm y tế

BHYT có thể được triển khai độc lập với các loại hình

bảo hiểm khác và cũng có thể chỉ là một chế độ trong

hệ thống các chế độ BHXH. Về cơ bản, loại hình bảo

hiểm này mang đầy đủ tính chất của BHXH. Xã hội

càng phát triển và văn minh thì BHYT cũng ngày càng

phát triển, bởi nhu cầu được bảo vệ, được chăm sóc

sức khoẻ, được khám chữa bệnh một cách bình đẳng là

những nhu cầu chính đáng và có tính xã hội rất cao – đối với mọi tầng lớp dân cư.

BHYT ra đời vào cuối thế kỷ 19 ở Cộng hoà liên bang Đức và một số nước Châu Âu.

Trong giai đoạn đầu của sự phát triển (1883 – 1914), BHYT chỉ được tổ chức mang

Page 9: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 9

tính đơn lẻ nhằm giúp đỡ lẫn nhau khi người lao động và gia đình họ gặp những rủi ro

về sức khoẻ. Sau đó, BHYT đã được một số nước Châu Âu ban hành những đạo luật

riêng. Năm 1941, BHYT đã được luật hoá tương đối chặt chẽ ở CHLB Đức và sau đó

phát triển sang các nước Bắc Mỹ, Châu Á và vùng Caribê. Từ khi có công ước 102 về

BHXH đến nay, có một số nước triển khai BHYT độc lập và cũng có khá nhiều nước

coi BHYT chỉ là chế độ chăm sóc y tế ban đầu nằm trong hệ thống các chế độ BHXH.

1.2.2.3. Bảo hiểm thất nghiệp

BHTN cũng có thể được triển khai độc lập với các loại hình bảo hiểm khác và cũng có

thể triển khai kết hợp với BHXH. Khi triển khai kết hợp, nó chỉ là một chế độ trong hệ

thống các chế độ BHXH. Vì thế, mục đích, đối tượng và tính chất của BHTN cũng

tương tự như BHXH. Có thể nói, Châu Âu là cái nôi của tất cả các loại hình bảo hiểm,

trong đó có cả BHTN. BHTN ra đời năm 1883 tại Thuỵ Sỹ và xuất phát nghề thuỷ

tinh và gốm sứ. Năm 1990 và 1910 Na Uy và Đan Mạch lần đầu tiên ban hành các đạo

luật về BHTN, tiếp đến là Anh, Mỹ và Canada. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2,

BHTN cũng được một số nước triển khai độc lập và khá nhiều nước coi BHTN chỉ là

một chế độ BHXH thuần tuý. Mặc dù vậy, nội dung, tính chất và cách thức quản lý

đều tương tự nhau. Theo số liệu của ILO năm 2005, trên thế giới có 72 nước triển khai

BHTN và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.

Các nội dung chi tiết về Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp sẽ

được trình bày chi tiết trong bài 2.

1.2.2.4. Bảo hiểm thương mại

a. Khái niệm bảo hiểm thương mại

Bảo hiểm thương mại (BHTM) còn được gọi là bảo hiểm rủi ro hay bảo hiểm kinh

doanh, được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh với việc quản lý các rủi

ro của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Manh nha của hoạt động này có từ

rất lâu trong lịch sử văn minh nhân loại, từ thủa con người biết săn bắn tìm kiếm

thức ăn, đồ mặc, rồi tích trữ phòng khi không kiếm được hay khi có chiến tranh…

Khi xã hội phát triển hơn, nhu cầu được bảo đảm an toàn cũng lớn hơn. Với những

tác dụng vô cùng thiết thực đối với các cá nhân, các tổ chức và toàn cộng đồng,

hoạt động BHTM càng khẳng định sự có mặt không thể thiếu được trong cuộc

sống của con người.

BHTM là loại hình bảo hiểm kinh doanh với mục

tiêu chính là lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh

BHTM chịu sự chi phối chủ yếu của Luật Kinh

doanh Bảo hiểm, các điều ước và tập quán quốc tế.

Phạm vi hoạt động kinh doanh BHTM rất rộng do

đối tượng của nó chi phối. BHTM là loại hình bảo

hiểm chủ yếu và rất phát triển. Đã từ lâu, BHTM không chỉ xâm nhập vào các hoạt

động kinh tế – xã hội ở phạm vi một nước mà nó còn phát triển và mở rộng ra

phạm vi thế giới thông qua hoạt động tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm…

Cho đến nay, câu hỏi “bảo hiểm thương mại là gì?” có thể được trả lời theo nhiều

cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét từ góc độ pháp lý, “bảo hiểm là một thoả thuận,

Page 10: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

10 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

qua đó bên tham gia bảo hiểm cam kết trả cho doanh nghiệp bảo hiểm một khoản

tiền gọi là phí bảo hiểm; Ngược lại, doanh nghiệp bảo hiểm cũng cam kết sẽ chi

trả hoặc bồi thường một khoản tiền khi có rủi ro được bảo hiểm xảy ra gây tổn

thất”. Nhìn nhận bảo hiểm dưới góc độ quản lý rủi ro, một tập đoàn bảo hiểm lớn

của Mỹ cho rằng: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một người, một doanh

nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm, công ty

đó sẽ chi trả bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo

hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm” (AIG).

Dưới góc độ kỹ thuật bảo hiểm, có thể hiểu BHTM là biện pháp chia nhỏ tổn thất

của một hay một số ít người khi gặp một loại rủi ro dựa vào một quĩ chung bằng

tiền được lập bởi sự đóng góp của nhiều người cùng có khả năng gặp rủi ro đó

thông qua hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Bằng cách chia nhỏ tổn thất như

vậy, hậu quả lẽ ra rất nặng nề, nghiêm trọng với một hoặc một số người sẽ trở nên

không đáng kể có thể chấp nhận được đối với cả cộng đồng những người tham gia

bảo hiểm. BHTM, ở một phương diện khác, chính là tổng thể các mối quan hệ

kinh tế giữa các đơn vị và các cá nhân tham gia bảo hiểm với các doanh nghiệp

bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra để ổn định

đời sống và khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh.

b. Sơ lược lịch sử phát triển của bảo hiểm thương mại

Sự ra đời và quá trình phát triển của BHTM được thể hiện ở những loại hình bảo

hiểm chủ yếu dưới đây:

Bảo hiểm hàng hải. Bảo hiểm mà chúng ta biết tới hôm nay bắt đầu từ loại hình

bảo hiểm hàng hải. Tại Genor và Venice tỉnh Lombardy nước Italia người ta đã

tìm thấy bản HĐBH đầu tiên ký kết giữa các thương gia, các chủ tàu với các nhà

bảo hiểm vào ngày 23/10/1347. Đến năm 1385, người ta lại tìm thấy một bản

HĐBH nhằm bảo hiểm cho những tổn thất của hàng hoá và tàu thuyền do các

nguyên nhân bất khả kháng, tai nạn trên biển, hoả hoạn, hàng hoá bị vứt bỏ xuống

biển, bị chính quyền hoặc các cá nhân tịch thu, bị trả đũa hay do gặp phải bất kỳ

rủi ro nào (CLayton, Bảo hiểm Anh 1971). Tại nước Anh, HĐBH đầu tiên được

tìm thấy và còn lưu giữ đến ngày nay được ký kết năm 1547. Đây cũng là một

HĐBH hàng hải.

Bảo hiểm nhân thọ. Đây là loại hình bảo hiểm rất thông dụng và phát triển khá

nhanh trên thế giới. Hợp đồng BHNT đầu tiên được ký kết tại nước Anh vào năm

1583. Các công ty BHNT cũng xuất hiện lần đầu tại nước Anh vào giữa thế kỷ 17.

Ngày nay BHNT đã được triển khai ở hầu hết các nước trên thế giới.

Bảo hiểm hoả hoạn. Các nhà bảo hiểm trên thế

giới đều cho rằng, BHHH xuất hiện lần đầu tại

Hamburg (CHLB Đức). Tuy nhiên, điều làm cho

BHHH phát triển nhanh chóng cho đến ngày nay là

vụ cháy lớn tại Luôn Đôn năm 1666. Sau vụ cháy

này các thương gia, các tổ chức bắt đầu quan tâm

đến rủi ro bảo hiểm. Vào năm 1670, ông Barbon người Anh đã thành lập công ty

BHHH đầu tiên trên thế giới. Công ty chỉ bảo hiểm cho các căn nhà xây bằng

gạch. Tại Mỹ, Công ty BHHH đầu tiên ra đời năm 1732. Công ty này bảo hiểm

Page 11: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 11

cho cả nhà cửa và bất động sản trong dân chúng. Với cái tên lúc đầu chỉ là “Tổ

chức thân thiện”. Năm 1752 Benjamin Franklin thành lập Công ty BHHH với cái

tên “Đóng góp bảo hiểm cho nhà cửa do hoả hoạn Philadephia”.

Bảo hiểm tai nạn. Loại hình này chính thức ra đời vào đầu thế kỷ 19. Năm 1848

tờ thời báo nước Anh đưa tin rằng, hầu như ngày nào cũng xảy ra tai nạn đường

sắt. Những tai nạn này thường dẫn đến thương tật hoặc tử vong. Năm 1849 công ty

bảo hiểm hành khách đường sắt đã được thành lập tại Anh quốc để bảo hiểm cho

mọi hành khách đi trên tàu hoả.

Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 cho đến nay, còn có rất nhiều loại hình BHTM khác đã

ra đời, như: bảo hiểm kỹ thuật, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng không, bảo

hiểm dầu khí, bảo hiểm vệ tinh… Và cũng từ cuối thế kỷ 19 đến nay, BHTM đã

thực sự trở thành một ngành kinh doanh phát triển và không thể thiếu được đối với

mỗi quốc gia.

c. Nguyên tắc hoạt động bảo hiểm thương mại

Với tính chất của một hoạt động kinh doanh, BHTM đáp ứng cho các nhu cầu an

toàn của con người và đồng thời nhằm đạt tới mục tiêu cao nhất là lợi nhuận. Bởi

vậy, việc tiến hành hoạt động BHTM phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau.

Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít

o Hoạt động BHTM chính là một hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi,

theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để rồi

có khả năng sẽ phải trả một khoản tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường

cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khoản tiền bồi

thường hay chi trả này thường lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí mà các

doanh nghiệp bảo hiểm nhận được. Để làm được điều này, hoạt động BHTM

phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không

thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ BHTM nào, theo đó hậu quả của rủi

ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy

động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy.

o Thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết để giải quyết chi bồi thường cho

các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm,

doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo qui luật số lớn.

Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quĩ bảo hiểm

tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng hơn, rủi ro được san sẻ

cho nhiều người hơn. Thông thường, một sản phẩm bảo hiểm chỉ có thể được

triền khai khi có nhiều nhu cầu về cùng một loại bảo đảm đó.

Nguyên tắc 2: Rủi ro có thể được bảo hiểm

o Hoạt động BHTM cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ

chức có nhu cầu. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp, doanh nghiệp

bảo hiểm đều chấp nhận các yêu cầu bảo đảm. Hiếm có doanh nghiệp bảo hiểm

nào đồng ý thoả thuận bồi thường cho các trường hợp tổn thất gây ra do sự cố ý

của người được bảo hiểm. Cũng vậy, doanh nghiệp bảo hiểm thật khó chấp

nhận bảo đảm cho những thiệt hại vật chất của một chiếc xe ôtô ở trong tình

trạng không an toàn về kỹ thuật hay không được phép lưu hành.

Page 12: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

12 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

o Đây là một nguyên tắc không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của các

doanh nghiệp bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn

hoặc gần như chắc chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm: hao mòn vật chất tự

nhiên, hao hụt thương mại tự nhiên, xe vi phạm nghiêm trọng luật giao thông, cố

ý tự tử… Nói cách khác, những rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro

bất ngờ, không lường trước được. Với rủi ro bị chết là rủi ro chắc chắn xảy ra thì

yếu tố ngẫu nhiên được xem xét để bảo hiểm là thời điểm chết. Thêm vào đó,

nguyên nhân gây ra rủi ro có thể được bảo hiểm phải là nguyên nhân khách

quan, không cố ý. Tính đồng nhất của rủi ro là một yếu tố khác giúp doanh

nghiệp bảo hiểm có thể xem xét rủi ro có thể được bảo hiểm hay không. Trên cơ

sở tính đồng nhất của rủi ro doanh nghiệp bảo hiểm có thể tính toán được phí

bảo hiểm một cách chính xác và khoa học dựa vào các phương pháp toán học.

o Để bảo đảm nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm luôn có các rủi ro loại trừ tuỳ

thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Đối với các rủi ro được nhận bảo

hiểm lại có thể xem xét để phân loại, sắp xếp theo từng mức độ khác nhau (nếu

cần thiết) và áp dụng các mức phí thích hợp. Đối với các rủi ro có xác suất xảy ra

lớn hơn thì mức phí phải nộp cao hơn. Chẳng hạn trong bảo hiểm nhân thọ

(BHNT), những người không ở cùng độ tuổi sẽ có xác suất tử vong khác nhau do

đó phải đóng mức phí khác nhau. Chính vì vậy, một yêu cầu đặt ra đối với người

tham gia bảo hiểm là phải trung thực tuyệt đối khi khai báo rủi ro để doanh

nghiệp bảo hiểm có thể xác định chính xác rằng rủi ro đó có thể chấp nhận bảo

hiểm hay không, nếu có thì với mức phí như thế nào.

o Nguyên tắc rủi ro có thể bảo hiểm nhằm tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải

bồi thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc

chắn sẽ dẫn đến phá sản. Đồng thời nguyên tắc này cũng giúp các doanh nghiệp

bảo hiểm có thể tính được các mức phí chính xác, lập nên được một quĩ bảo

hiểm đầy đủ để bảo đảm cho công tác bồi thường. Không chỉ bảo đảm quyền lợi

cho các doanh nghiệp bảo hiểm mà ngay chính những người tham gia bảo hiểm

cũng thấy công bằng hơn khi nguyên tắc này được áp dụng.

Nguyên tắc 3: Phân tán rủi ro

o Là người nhận các rủi ro được chuyển giao từ

người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm lúc này

sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất có

thể rất lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù quĩ bảo

hiểm là một quĩ tài chính lớn, được lập ra bởi sự

đóng góp của nhiều người theo nguyên tắc số

đông và như vậy, với tư cách là người huy động

và quản lý quĩ, các doanh nghiệp bảo hiểm có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi

trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào doanh nghiệp bảo hiểm

cũng luôn đảm bảo được khả năng này. Điều này có thể thấy rất rõ với những

trường hợp quĩ bảo hiểm huy động được còn chưa nhiều (doanh nghiệp bảo hiểm

mới thành lập hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có qui mô nhỏ) trong khi đó giá trị

bảo hiểm (GTBH) lại rất lớn hoặc với những trường hợp có rủi ro liên tiếp xảy ra

gây tổn thất lớn.

Page 13: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 13

o Một kinh nghiệm trong hoạt động của các nhà BHTM là không nhận những rủi

ro quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên, để tránh được

điều tối kị là phải từ chối bảo hiểm đồng thời vẫn bảo đảm được hoạt động kinh

doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro. Có hai

phương thức phân tán rủi ro được sử dụng: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Nếu

trong đồng bảo hiểm, nhiều nhà bảo hiểm cùng nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn

thì tái bảo hiểm lại là phương thức trong đó, một nhà bảo hiểm nhận bảo đảm

cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà

bảo hiểm khác.

Nguyên tắc 4: Trung thực tuyệt đối

o Nguyên tắc này được thể hiện ngay từ khi doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu

để soạn thảo một HĐBH đến khi phát hành, khai thác bảo hiểm và thực hiện

giao dịch kinh doanh với khách hàng (người tham gia bảo hiểm).

o Trước hết, nguyên tắc trung thực tuyệt đối đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải

có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng bảo

đảm cho quyền lợi của hai bên. Sản phẩm cung cấp của nhà bảo hiểm là sản

phẩm dịch vụ nên khi mua, người tham gia bảo hiểm không thể cầm nắm nó

trong tay như các sản phẩm vật chất khác để đánh giá chất lượng và giá cả…

mà chỉ có thể có được một hợp đồng hứa sẽ bảo đảm. Chất lượng sản phẩm bảo

hiểm có bảo đảm hay không, giá cả (phí bảo hiểm) có hợp lý hay không, quyền

lợi của người được bảo hiểm có đảm bảo đầy đủ, công bằng hay không… đều

chủ yếu dựa vào sự trung thực của phía doanh nghiệp bảo hiểm.

o Ngược lại, nguyên tắc này cũng đặt ra một yêu cầu với người tham gia bảo

hiểm là phải trung thực khi khai báo rủi ro khi tham gia bảo hiểm để giúp

doanh nghiệp bảo hiểm xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận.

Thêm vào đó, các hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm khi thông báo, khai

báo các thiệt hại để đòi bồi thường (khai báo lớn hơn thiệt hại thực tế; sửa chữa

ngày tháng của HĐBH…) sẽ được xử lý theo pháp luật.

Nguyên tắc 5: Quyền lợi có thể được bảo hiểm

o Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia bảo

hiểm phải có lợi ích tài chính bị tổn thất nếu đối

tượng được bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác,

người tham gia bảo hiểm phải có một số quan hệ

với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật

công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua

quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng,

quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được

bảo hiểm. Cần chú ý rằng khi quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tài sản

được bảo hiểm thuộc hai chủ thể khác nhau thì vấn đề sẽ phức tạp hơn. Trong

trường hợp này, cả chủ sở hữu và chủ sử dụng đều có quyền lợi được bảo hiểm.

Chẳng hạn, chủ xưởng sửa chữa ôtô có quyền hợp pháp khi tham gia bảo hiểm

cho chiếc xe ôtô mà anh ta đang đảm nhận sửa chữa. Đó là quyền chiếm hữu.

Đồng thời chủ xe ôtô cũng có thể tham gia bảo hiểm cho chiếc xe này.

Page 14: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

14 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

o Nguyên tắc về quyền lợi có thể được bảo hiểm nhằm loại bỏ khả năng bảo

hiểm cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu

lợi từ một đơn bảo hiểm.

Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình BHTM sẽ có thêm

các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại như nguyên tắc bồi

thường, nguyên tắc khoán…

d. Phân loại bảo hiểm thương mại

Trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều sản

phẩm bảo hiểm khác nhau. Dựa vào các tiêu thức khác nhau, các sản phẩm bảo

hiểm được phân loại thành từng nhóm có cùng đặc trưng. Việc phân loại như vậy

trước hết sẽ thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển các sản phẩm bảo

hiểm khác nhau. Mặt khác, phân loại bảo hiểm giúp các doanh nghiệp bảo hiểm

quản lý tốt nghiệp vụ, tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu quả.

Phân loại BHTM thường căn cứ vào ba tiêu thức chủ yếu sau:

Theo phương thức quản lý: BHTM có thể phân loại

thành bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc.

Phần lớn các sản phẩm BHTM đều là bảo hiểm tự

nguyện. Việc tham gia bảo hiểm hay phụ thuộc vào

nhận thức và nhu cầu của người tham gia bảo hiểm.

Các doanh nghiệp bảo hiểm có đáp ứng được hay

không cũng tuỳ thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của công

ty đó. Trong khi đó, bảo hiểm bắt buộc bao gồm các sản phẩm bảo hiểm mà luật

pháp có những qui định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền tối thiểu

mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ

phải thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc thường gắn với các rủi ro có hậu quả tổn thất

không chỉ ảnh hưởng đến một đối tượng hay một chủ thể mà còn ảnh hưởng đến

lợi ích của toàn xã hội. Ví dụ như bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) chủ xe

cơ giới, BHTNDS của chủ lao động đối với người lao động…

Theo kỹ thuật bảo hiểm: Các đặc trưng kỹ thuật được dùng làm căn cứ để phân

loại BHTM thành bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia và bảo hiểm theo kỹ thuật tổn

tích. Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia là các bảo hiểm có thời hạn ngắn (thường là

một năm) bảo đảm cho các rủi ro có tính chất tương đối ổn định và độc lập với tuổi

thọ con người. Khi có rủi ro được bảo hiểm phát sinh trong thời hạn hợp đồng thì

quĩ bảo hiểm được sử dụng để chi trả luôn. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm các

bảo hiểm về tài sản, về trách nhiệm dân sự và các bảo hiểm con người phi nhân thọ

khác chính là loại bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia. Kết quả thu – chi của các bảo

hiểm này được phân bổ hết hàng năm.

Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích có đặc trưng là thời hạn dài, quĩ được tích tụ qua

nhiều năm mới được sử dụng để chi trả. Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích thường bảo

đảm cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tượng, và thường

gắn liền với tuổi thọ con người. BHNT thuộc loại bảo hiểm có kỹ thuật tổn tích.

Theo đối tượng được bảo hiểm: Tiêu thức này cho phép phân chia BHTM thành ba

loại chủ yếu: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con

Page 15: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 15

người. Cũng căn cứ vào đối tượng được bảo hiểm, nhưng nếu phân loại một cách

chi tiết hơn, BHTM có thể được phân chia thành: bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm phi

hàng hải, bảo hiểm trách nhiệm pháp lý, bảo hiểm xe cơ giới…

Sau đây là ba loại bảo hiểm được phân chia theo đối tượng được bảo hiểm: bảo

hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm con người.

o Bảo hiểm tài sản

Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng là tài sản của người được bảo hiểm. Ví dụ:

bảo hiểm cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, bảo hiểm hàng hoá của các chủ hàng

trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà

trong bảo hiểm trộm cắp.

Một số vấn đề liên quan đến BHTS:

Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh

toán chi trả bảo hiểm. Số tiền bồi thường

(STBT) mà người được bảo hiểm nhận được

trong mọi trường hợp không vượt quá thiệt hại

thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ xe

máy tham gia bảo hiểm cho toàn bộ chiếc xe

của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn, xe bị hư hỏng giá trị thiệt

hại là 8 triệu đồng, STBT mà chủ xe nhận được trong bất kỳ trường hợp nào

cũng chỉ là 8 triệu đồng.

Áp dụng “nguyên tắc thế quyền hợp pháp” khi xuất hiện người thứ ba có lỗi

và do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. Theo

nguyên tắc này, sau khi trả tiền bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được

thay quyền của người được bảo hiểm để thực hiện việc truy đòi trách nhiệm

của người thứ ba có lỗi. Nguyên tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo

quyền lợi của người được bảo hiểm, chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm của

người thứ ba có lỗi, đồng thời đảm bảo cả nguyên tắc bồi thường.

Lấy lại ví dụ trên, trong vụ tai nạn này, lỗi một phần là của một xe ô tô đi

ngược chiều (70%). Lúc này, với thiệt hại 8 triệu đồng của chủ xe máy, trách

nhiệm của ông chủ xe ô tô sẽ là: 70% 8 triệu đồng = 5,6 triệu đồng. Sau khi

bồi thường 8 triệu đồng theo HĐBH vật chất xe cho chủ xe máy, doanh

nghiệp bảo hiểm được thay quyền của chủ xe máy này truy đòi trách nhiệm

5,6 triệu từ chủ xe ô tô. Nguyên tắc thế quyền được áp dụng. Và người được

bảo hiểm trong ví dụ này (chủ xe máy) cũng không thể nhận STBT vượt quá

thiệt hại 8 triệu đồng, như vậy nguyên tắc bồi thường được đảm bảo.

Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp.

Đó là khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha

mẹ… của người được bảo hiểm.

Bảo hiểm trùng: Trong BHTS, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng thời được

bảo đảm bằng nhiều HĐBH cho cùng một rủi ro với những doanh nghiệp

bảo hiểm khác nhau, những HĐBH này có điều kiện bảo hiểm giống nhau,

thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và tổng STBH từ tất cả những hợp đồng này

lớn hơn giá trị của đối tượng bảo hiểm đó thì gọi là bảo hiểm trùng.

Page 16: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

16 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

Trong trường hợp có bảo hiểm trùng, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra để

giải quyết. Thông thường, bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của

người tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc,

doanh nghiệp bảo hiểm có thể huỷ bỏ HĐBH nếu phát hiện thấy bảo hiểm

trùng có gian lận. Nếu các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì

lúc này, trách nhiệm của mỗi công ty đối với tổn thất sẽ được phân chia

theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể:

STBHcủa HĐ KH A STBTcủa HĐ KH A = Giá trị thiệt hại thực tế

STBH

Trên thực tế, một trong số các doanh nghiệp bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho

đối tượng được bảo hiểm trùng này có thể sẽ đứng ra bồi thường theo số

thiệt hại thực tế, sau đó sẽ đòi lại các doanh nghiệp bảo hiểm khác phần

trách nhiệm của họ.

Chế độ bồi thường bảo hiểm

Chế độ bảo hiểm theo mức miễn thường

Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách

nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị

thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thoả

thuận gọi là mức miễn thường. Việc áp dụng bảo hiểm theo mức miễn

thường thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. Nếu giữa doanh nghiệp bảo hiểm và

người tham gia bảo hiểm thoả thuận sẽ không bồi thường đối với những tổn

thất nhỏ hơn mức miễn thường trên cơ sở tự nguyện thì phí bảo hiểm sẽ

được giảm bớt phụ thuộc vào mức miễn thường cụ thể. Trong trường hợp

miễn thường bắt buộc, phí bảo hiểm vẫn giữ nguyên. Bảo hiểm theo mức

miễn thường không chỉ tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường

những tổn thất quá nhỏ so với GTBH mà còn có ý nghĩa trong việc nâng cao

ý thức và trách nhiệm đề phòng hạn chế rủi ro của người được bảo hiểm.

Có hai loại miễn thường: Miễn thường không khấu trừ và miễn thường

có khấu trừ. Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ bảo đảm chi

trả cho những thiệt hại thực tế vượt quá mức miễn thường nhưng STBT

sẽ không bị khấu trừ theo mức miễn thường.

STBT = Giá trị thiệt hại thực tế

Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ, thiệt hại thực tế phải

lớn hơn mức miễn thường quy định mới được bồi thường nhưng STBT sẽ

bị khấu trừ theo mức miễn thường này.

STBT = Giá trị thiệt hại thực tế – Mức miễn thường

Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ

Có hai loại tỷ lệ được áp dụng: Tỷ lệ Số tiền bảo hiểm/Giá trị bảo hiểm

(STBH/GTBH) và tỷ lệ Số phí đã nộp/Số phí lẽ ra phải nộp.

Tỷ lệ STBH/GTBH được áp dụng trong các trường hợp bảo hiểm dưới giá trị:

STBH STBT = Giá trị thiệt hại thực tế

GTBH

Page 17: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 17

Còn trong trường hợp có sự khai báo không chính xác rủi ro, bên bảo

hiểm thường áp dụng tỷ lệ “Số phí bảo hiểm đã nộp/Số phí bảo hiểm lẽ ra

phải nộp” để thanh toán nếu chấp nhận bồi thường:

Phí bảo hiểm đã nộp STBT = Giá trị thiệt hại thực tế

Phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp

Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên:

Theo chế độ bồi thường này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả STBT theo

một giới hạn đã thoả thuận. Các tổn thất của người được bảo hiểm nằm

trong giới hạn này được gọi là tổn thất thuộc rủi ro đầu tiên hoặc tổn thất

đầu tiên. Còn tổn thất vượt quá giới hạn thoả thuận này có thể sẽ được

bảo hiểm bằng một đơn bảo hiểm Vượt quá. Chế độ bồi thường này

thường được áp dụng trong bảo hiểm trộm cắp. Người ta lý luận rằng, ít

khi toàn bộ tài sản bị mất trộm, do vậy chủ tài sản thường chỉ muốn bảo

hiểm cho phần tổn thất có thể nhất, và đó được gọi là tổn thất đầu tiên.

o Bảo hiểm trách nhiệm dân sự

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) có đối tượng được bảo hiểm là trách

nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo luật định. Ví

dụ: BHTNDS của chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động, Bảo hiểm trách

nhiệm sản phẩm, Bảo hiểm trách nhiệm công cộng…

Theo luật dân sự, trách nhiệm dân sự của một chủ

thể (như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp…) được

hiểu là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại

về tài sản, về con người… gây ra cho người khác

do lỗi của người chủ đó. Trách nhiệm dân sự có

thể là trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách

nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Thông thường các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp

sự bảo đảm cho các trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.

Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người

được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại (một người thứ ba khác) nên trong

loại bảo hiểm này người được bảo hiểm là người có trách nhiệm dân sự cần

được bảo đảm thường chính là người tham gia bảo hiểm. Còn người thụ hưởng

quyền lợi bảo hiểm lại là những người thứ ba khác. Người thứ ba trong

BHTNDS là những người có tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm

và được quyền nhận bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm với tư cách là người

thụ hưởng. Người thứ ba có quan hệ về mặt trách nhiệm dân sự với người được

bảo hiểm nhưng chỉ có mối quan hệ gián tiếp với doanh nghiệp bảo hiểm.

BHTNDS và BHTS đều được xếp vào loại bảo hiểm thiệt hại, là loại bảo hiểm

bảo đảm cho các thiệt hại phát sinh. Do vậy, BHTNDS cũng áp dụng nguyên

tắc bồi thường khi giải quyết bồi thường bảo hiểm.

o Bảo hiểm con người

Bảo hiểm con người (BHCN) có đối tượng được bảo hiểm là tuổi thọ, tính

mạng, tình trạng sức khoẻ con người hoặc các sự kiện liên quan tới cuộc sống

và có ảnh hưởng tới cuộc sống con người.

Page 18: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

18 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

Nếu như trong bảo hiểm thiệt hại, việc thanh

toán bồi thường bảo hiểm được dựa vào nguyên

tắc bồi thường thì trong BHCN, nguyên tắc chi

phối việc giải quyết thanh toán tiền bảo hiểm là

“nguyên tắc khoán”. Khi có sự kiện được bảo

hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thực

hiện chi trả một khoản tiền dựa vào STBH đã

được thoả thuận lựa chọn khi ký kết hợp đồng bảo hiểm chứ không dựa vào

thiệt hại thực tế. Việc thanh toán chi trả tiền bảo hiểm trong BHCN chỉ mang

tính trợ giúp về tài chính cho người được bảo hiểm và thân nhân (bảo hiểm con

người phi nhân thọ) hoặc “hoàn lại” khoản tiền tích luỹ được của người được

bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ) khi xảy ra các sự kiện được bảo hiểm. Điều này

đơn giản là vì tính mạng và tình trạng sức khoẻ của con người là vô giá nên

không thể xác định được bằng một khoản tiền nào đấy. STBH trong các HĐBH

con người hoàn toàn không phải là sự biểu hiện giá trị của bản thân người được

bảo hiểm mà về cơ bản chỉ có ý nghĩa là một số tiền mà người tham gia bảo

hiểm “khoán” cho doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.

Trong các HĐBH con người, do vậy cũng không tồn tại điều khoản giá trị bảo

hiểm. Thuật ngữ “chi trả bảo hiểm” hoặc “thanh toán bảo hiểm” được sử dụng để

thay thế cho “bồi thường bảo hiểm” trong bảo hiểm thiệt hại. Số tiền này do các

bên tham gia hợp đồng thoả thuận, tuỳ theo khả năng tài chính cũng như nhu cầu

của người tham gia bảo hiểm.

Ở các nước kinh tế phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Nhật, dịch vụ

BHCN rất phát triển. Khi người dân tham gia các dịch vụ bảo hiểm này, họ

thường lập nên một kế hoạch tài chính trong gia đình mình để xác định số tiền

bảo hiểm cần chọn lựa. Bằng việc sử dụng một hệ thống máy tính cá nhân và

các thiết bị điện tử rộng khắp, họ có thể đánh giá chính xác nhu cầu về lượng

tiền trong tương lai. Bao gồm cả việc đánh giá trạng thái biến động của lạm

phát, số con, tình hình tăng trưởng… vì thế STBH trong BHCN, nhất là trong

BHNT được họ lựa chọn rất phù hợp. Phần lớn STBH khi lựa chọn, đều dựa

vào một số nhu cầu tài chính trong tương lai đã được đánh giá cụ thể. Các nhu

cầu này thường bao gồm:

Nhu cầu bù đắp chi phí lúc bị chết;

Nhu cầu tạo lập quỹ đào tạo, giáo dục con cái;

Nhu cầu chi dùng hàng ngày, nếu không may người trụ cột trong gia đình bị

chết, mà những người sống phụ thuộc lại chủ yếu nhờ cậy vào tiền lương

của anh ta;

Nhu cầu chi trả những khoản nợ nần còn tồn đọng;

Nhu cầu chi phí bảo dưỡng tài sản…

Căn cứ vào tổng các nhu cầu nêu trên, người tham gia bảo hiểm lựa chọn

STBH để mua. Số tiền này chính là mức chênh lệch giữa tổng giá trị các nhu

cầu trong tương lai để hoàn thiện kế hoạch tài chính so với tổng giá trị tài sản

hiện có để đáp ứng nhu cầu.

Page 19: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 19

Số tiền bảo hiểm

lựa chọn để mua =

Tổng giá trị các

nhu cầu trong tương lai –

Tổng giá trị

tài sản hiện có

Kế hoạch trên được lập với giả định rằng, người tham gia bảo hiểm bị chết, sau cái

chết, tổng giá trị các nhu cầu trong tương lai cần phải được đáp ứng bằng cách lựa

chọn một STBH thích hợp để mua. Nhưng đó mới chỉ là một nửa của kế hoạch tài

chính được lập, còn nửa kia họ phải tính đến mức phí bảo hiểm phải nộp và phương

thức nộp phí (nộp một lần hay nhiều lần…). Phần này hoàn toàn phải dựa vào mức

thu nhập hiện tại để cân đối và có tính đến mức độ ổn định nơi làm việc, khả năng

tăng lương… Nếu mức thu nhập thấp, khả năng nộp phí bảo hiểm bị hạn chế, thì

STBH sẽ phải được điều chỉnh giảm đi và ngược lại. Điều đó có nghĩa là STBH mà

người tham gia bảo hiểm sẽ được công ty bảo hiểm thanh toán luôn tỷ lệ thuận với

số phí bảo hiểm phải nộp. Phần lý giải này sẽ làm rõ thêm số tiền mà người bảo

hiểm chi trả thực chất là một số tiền đã được “khoán” tương ứng với một mức phí

phải nộp và phương thức nộp phí. Tất cả đều được thể hiện rõ trong bản hợp đồng.

Khác với các BHTS, trong BHCN mỗi đối tượng bảo hiểm có thể đồng thời

được bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng với một hoặc nhiều doanh nghiệp bảo

hiểm khác nhau. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, việc trả tiền bảo hiểm của

từng hợp đồng độc lập nhau. Chẳng hạn, ngày 10/5/2007 anh A ký kết HĐBH

sinh mạng cá nhân với doanh nghiệp bảo hiểm X có STBH: 10 triệu đồng, và

ký kết với doanh nghiệp bảo hiểm Y một HĐBH trợ cấp nằm viện phẫu thuật

có STBH là 5 triệu đồng. Ngày 22/9/2007, trong một vụ tai nạn, anh A bị

thương nặng phải vào viện phẫu thuật nhưng sau đó bị tử vong. Trong trường

hợp này, người thừa kế hợp pháp của anh A sẽ nhận được khoản tiền cao nhất

bằng tổng STBH từ hai hợp đồng: 10 triệu đồng + 5 triệu đồng = 15 triệu đồng.

Trong BHCN, không có sự thế quyền hợp pháp của người bảo hiểm. Điều đó có

nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả STBH, không được phép

thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để

khiếu nại người thứ ba truy đòi số tiền bồi thường tương ứng. Nói cách khác, một

người có thể đồng thời nhận được khoản thanh toán chi trả của công ty bảo hiểm

và những khoản thanh toán bồi thường của người thứ 3 gây ra tai nạn, thiệt hại.

Mặc dù vậy, thực tế hiện nay, phạm vi bảo hiểm của một số nghiệp vụ bảo

hiểm con người phi nhân thọ bảo đảm cho cả các chi phí y tế thực tế phát sinh.

Do vậy, bên cạnh nguyên tắc khoán, các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng kết

hợp nguyên tắc bồi thường để giải quyết chi trả cho các khoản thiệt hại chi phí

y tế khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.

1.2.3. Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm

1.2.3.1. Vai trò kinh tế

Bảo hiểm nói chung và từng loại hình bảo hiểm nói riêng đều mang lại những lợi ích kinh

tế – xã hội thiết thực. Xét về mặt kinh tế, bảo hiểm có những vai trò rất to lớn sau đây:

Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư

Từ khi các loại hình bảo hiểm ra đời cho đến nay đã chứng minh bảo hiểm góp

phần rất to lớn trong việc ổn định tài chính cho các cá nhân và các tổ chức tham

gia bảo hiểm. Có thể là ổn định về thu nhập nếu tham gia BHXH hay BHTN. Cũng

Page 20: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

20 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

có thể là ổn định về tài chính nếu tham gia BHYT hay BHTN. Bởi lẽ, khi rủi ro

hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm, nếu bị tổn thất, các cơ quan

hay DNBH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời để người tham gia nhanh chóng

khắc phục hậu quả, ổn định cuộc sống và sản xuất,

làm cho sản xuất kinh doanh phát triển bình

thường. Vai trò này đáp ứng được mục tiêu kinh tế

của người tham gia nên đối tượng tham gia bảo

hiểm ngày càng đông đảo. Trong các nền kinh tế

hiện đại, bảo hiểm đã trực tiếp đảm bảo cho các

khoản đầu tư. Nhà kinh tế học người Pháp Jerome

Yeatman đã viết: “Không phải các kiến trúc sư mà là các nhà bảo hiểm đã xây nên

New York, chính là vì không một nhà đầu tư nào dám mạo hiểm hàng tỷ đô la cần

thiết để xây dựng những toà nhà chọc trời ở Manhattan mà lại không có đảm bảo

được bồi thường nếu hoả hoạn hoặc sai phạm về xây dựng xảy ra. Chỉ có các nhà

bảo hiểm mới dám đảm bảo điều đó nhờ cơ chế bảo hiểm”. Điều này đúng với hầu

hết các loại đầu tư, như: đầu tư xây dựng các giàn khoan dầu khí, đầu tư thiết kế và

sản xuất các loại vệ tinh; đầu tư xây dựng siêu thị… Chủ đầu tư không thể mạo hiểm

ngồi nhìn số tiền đầu tư của mình “tan thành mây khói” một khi không có bảo hiểm.

Hầu hết các dự án đầu tư hiện nay đã đòi hỏi phải có bảo hiểm. Không có sự đảm

bảo của bảo hiểm thì các chủ đầu tư, mà nhất là các ngân hàng liên quan sẽ không

dám mạo hiểm đầu tư vốn cho dự án. Bởi vậy, bảo hiểm là một hoạt động kích thích

đầu tư.

Bảo hiểm là một trong những kênh huy động vốn rất hữu hiệu để đầu tư phát

triển kinh tế – xã hội

Các cơ quan và DNBH thu phí bảo hiểm trước khi rủi ro và sự kiện bảo hiểm xảy

ra với đối tượng bảo hiểm. Điều đó cho phép họ có một số tiền rất lớn và cần phải

quản lý chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Ngoài ra,

giữa thời điểm xảy ra rủi ro do tổn thất và thời điểm chi trả hoặc bồi thường luôn

có một khoảng cách. Khoảng thời gian này có thể kéo dài nhiều năm, nhất là trong

BHTN và BHXH. Bởi vậy, số phí thu được phải dựa vào dự trữ, dự phòng và phải

đem đầu tư để thu lãi. Thêm vào đó là các loại hình BHTN và BHXH lại ngày phát

triển nhanh chóng và số phí được tồn tích lại ngày càng lớn. Điều đó càng khẳng

định thêm vai trò huy động vốn để đầu tư của toàn ngành bảo hiểm là vô cùng

quan trọng đối với các nền kinh tế. Theo số liệu thống kê năm 2005, số tiền do các

DNBH thương mại đang quản lý và đầu tư là rất lớn, ở Mỹ là 2.500 tỷ đô la, ở

Anh là 1119 tỷ bảng Anh còn ở Pháp là 630 tỷ Ero… Ở Anh, các DNBH đầu tư

chủ yếu vào cổ phiếu nhờ quỹ hưu trí, còn ở Mỹ và Pháp danh mục đầu tư đa dạng

hơn và cũng chủ yếu vào quỹ dự phòng từ BHTN và BHXH.

Bảo hiểm góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách đồng thời thúc đẩy

phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước

Với các loại quỹ bảo hiểm ngày càng tăng do người tham gia đóng góp, các cơ quan,

DNBH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời cho họ để ổn định đời sống và sản xuất,

nếu như đối tượng bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Vì vậy, ngân sách

Nhà nước không phải chi tiền để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi

Page 21: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 21

gặp rủi ro, (trừ những trường hợp tổn thất mang tính xã hội rộng lớn). Mặt khác,

hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực BHTM còn có trách nhiệm đóng góp vào ngân

sách thông qua các loại thuế mà các DNBH phải nộp. Và cũng trong hoạt động này,

mối quan hệ quốc tế giữa các DNBH ngày càng được mở rộng thông qua tái bảo

hiểm hoặc đồng bảo hiểm để phân tán rủi ro. Điều đó cho thấy, vai trò ổn định và

tăng thu cho ngân sách, đồng thời phát triển được các mối quan hệ quốc tế của hoạt

động bảo hiểm là rất đáng kể trong điều kiện thế giới ngày nay.

1.2.3.2. Vai trò xã hội

Bên cạnh vai trò về kinh tế, vai trò xã hội của bảo hiểm cũng không hề thu kém. Điều

này thể hiện ở chỗ:

Bảo hiểm góp phần ngăn ngừa, đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc

sống của con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn.

Trong quá trình tham gia bảo hiểm, các cơ quan,

DNBH sẽ cùng với người tham gia bảo hiểm phối

hợp để thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế

tổn thất thông qua một loạt các hoạt động như:

o Tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng

tránh tai nạn, vệ sinh, an toàn lao động;

o Xây dựng thêm các biển báo và các con đường lánh nạn để giảm bớt tai nạn

giao thông;

o Tư vấn và hỗ trợ tài chính để xây dựng và thực hiện các phương án phòng

cháy, chữa cháy;

o Tiêm chủng và chăm sóc y tế cộng đồng…

Tất cả những hoạt động nói trên của bảo hiểm đều nhằm mục đích góp phần ổn

định cuộc sống, sản xuất và từ đó góp phần đảm bảo ASXH.

Các loại hình bảo hiểm phát triển đã tạo thêm công ăn việc làm cho người lao

động, đồng thời còn tạo nên một nếp sống tiết kiệm trên phạm vi toàn xã hội

Tiết kiệm trong bảo hiểm thường là tiết kiệm một cách có kế hoạch từ nội bộ mỗi gia

đình, mỗi cơ quan, doanh nghiệp. Với những khoản tiền rất nhỏ, các cá nhân, các hộ

gia đình vẫn có thể tiết kiệm được thông qua loại hình BHTN. Hay trong BHXH, thì

tiết kiệm hôm nay là để bảo đảm cuộc sống cho ngày mai khi người lao động về

hưu… Có thể nói, vai trò xã hội của bảo hiểm ở đây đã góp phần làm giảm tình trạng

thất nghiệp cho người lao động và tạo dựng một nếp sống đẹp trên phạm vi xã hội.

Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế – xã hội

Thật vậy, chỉ với một mức phí bảo hiểm rất khiêm tốn mà các cơ quan, các DNBH

thu được, họ vẫn có thể giúp đỡ cho các cá nhân, các gia đình, các cơ quan doanh

nghiệp khắc phục được hậu quả rủi ro, cho dù đó là những rủi ro khôn lường trong

cuộc sống và sản xuất. Đó cũng chính là chỗ dựa để họ yên tâm hơn, tin tưởng hơn

vào cuộc sống tương lai. Chính vì thế, ông Wisston Clurcholl – một chính khách

đã nói: “Nếu có thể, tôi sẽ viết từ “bảo hiểm” trong mỗi nhà và trên trán mỗi

người. Càng ngày tôi càng tin chắc rằng, với một giá khiêm tốn, bảo hiểm có thể

giải phóng các gia đình ra khỏi thảm họa không lường trước được”.

Page 22: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

22 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

Tóm lược cuối bài

Rủi ro là sự cố không may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người hoặc tài sản. Rủi ro có đặc

điểm rõ nét là sự không chắc chắn, bất ngờ, ngẫu nhiên hay còn gọi là tính bất định của một

biến cố nào đó. Cần phân biệt rủi ro với nguy cơ là nguyên nhân chính gây tổn thất và hiểm

họa là nhân tố ảnh hưởng đến hậu quả tổn thất. Có nhiều loại rủi ro, bao gồm rủi ro thuần và

rủi ro đầu cơ; rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính; rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt.

Để đối phó với những thiệt hại do rủi ro gây ra, có hai nhóm biện pháp là kiểm soát rủi ro và

tài trợ rủi ro. Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh né rủi ro, ngăn

ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro

và bảo hiểm.

Bảo hiểm là một công cụ quản trị rủi ro hiệu quả. Hiện nay trên thế giới có 4 loại hình bảo

hiểm, đó là: Bảo hiểm thương mại (BHTM); Bảo hiểm xã hội (BHXH); Bảo hiểm y tế

(BHYT) và Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Mỗi loại hình ra đời trong những hoàn cảnh, thời

gian và điều kiện khác nhau. Bảo hiểm có quan hệ chặt chẽ và biện chứng với sự phát triển

kinh tế – xã hội của đất nước.

BHTM là hoạt động kinh doanh bảo biểm nên có các nguyên tắc hoạt động riêng và có nhiều

loại BHTM. Hiện nay phổ biến là phân loại BHTM thành bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách

nhiệm dân sự, và bảo hiểm con người. Các loại BHTM có đối tượng bảo hiểm, nguyên tắc

tham gia bảo hiểm và nguyên tắc bồi thường không giống nhau.

Bảo hiểm có vai trò kinh tế và xã hội to lớn, góp phần mang lại những lợi ích kinh tế – xã hội

thiết thực cho cá nhân, cho tổ chức, cho các doanh nghiệp và cho toàn xã hội.

Page 23: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 23

Câu hỏi ôn tập

1. Anh/chị hiểu rủi ro là gì?

2. Phân loại rủi ro?

3. Doanh nghiệp có thể áp dụng những công cụ quản trị rủi ro nào?

4. Có những loại hình bảo hiểm nào?

5. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại?

6. Vai trò của bảo hiểm?

Page 24: BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂMeldata2.neu.topica.vn/TXBHKT01/Giao trinh/02_NEU... · 10/5/2007 · Căn cứ vào vào ... các tập đoàn lính

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

24 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

Danh mục chữ viết tắt

1. BH: Bảo hiểm

2. BHXH: Bảo hiểm xã hội

3. BHYT: Bảo hiểm y tế

4. BHTN: Bảo hiểm thất nghiệp

5. BHTM: Bảo hiểm thương mại

6. GTBH: Giá trị bảo hiểm

7. STBH: Số tiền bảo hiểm

8. STBT: Số tiền bồi thường

9. HĐBH: Hợp đồng bảo hiểm

10. TTBP: Tổn thất bộ phận

11. TTTB: Tổn thất toàn bộ

12. TTC: Tổn thất chung

13. TTR: Tổn thất riêng

14. TNDS: Trách nhiệm dân sự

15. BHCN: Bảo hiểm con người

16. BHNT: Bảo hiểm nhân thọ

17. BHPNT: Bảo hiểm phi nhân thọ