BAÙO CHÍ TRONG ÑÔØI SOÁNG XAÕ HOÄI HIEÄN NAY
Transcript of BAÙO CHÍ TRONG ÑÔØI SOÁNG XAÕ HOÄI HIEÄN NAY
LƯU HÀNH NỘI BỘ
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN - TRUNG TÂM THÔNG TIN - KHOA HỌC
42014
BAÙO CHÍ TRONG ÑÔØI SOÁNG XAÕ HOÄI HIEÄN NAY
TH
ÔN
G T
IN C
HU
YÊ
N Đ
Ề SỐ
4-2014
BAN CHỈ ĐẠO PGS, TS Trương Ngọc Nam
PGS, TS Phạm Huy KỳPGS, TS Lương Khắc Hiếu
BAN BIÊN SOẠN
Ths Đỗ Thúy HằngThs Nguyễn Thanh ThảoThs Vũ Thị Hồng LuyếnThs Phạm Thị Thúy HằngThs Nguyễn Thị Hải YếnThs Nguyễn Thị Kim OanhCN Nguyễn Thị Lay Dơn
Địa chỉ: 36 Xuân Thủy - Cầu Giấy - Hà NộiĐT: 04.38340041
Ảnh bìa 1: Các phóng viên tác nghiệp tại Lễ Khai mạc Ngày hội những người làm báo 2010
PHẦN I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÁO CHÍ
• ĐOÀNTRỌNGHUYHồ Chí Minh - Nhà báo lỗi lạc
• PHẠMXUÂNMỸTư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách của người
làm báo cách mạng
• NGUYỄNDUYHẠNH,NGUYỄNTÙNGLÂMTư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa báo chí
• HÀQUANGTRƯỜNGQuan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về báo chí
• NGUYỄNTHỊTHÚYMAIHọc tập kinh nghiệm của Hồ Chí Minh trong
việc viết tiểu phẩm báo chí
• NGUYỄNHUYNGỌCVận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách
mạng trong phát triển báo chí ở nước ta hiện nay
• HÀMINHHUỆTư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng
Việt Nam
• NGUYỄNLÊTHANHPHƯƠNGDi sản báo chí cách mạng của Bác Hồ và vai trò
của báo chí trong sứ mệnh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo tổ quốc hiện nay
• NGUYỄNTHÙYVÂNANHTư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật báo chí và
đạo đức nhà báo hiện nay
• NGUYỄNTHỊHẢOBác Hồ với báo Nhân dân và những người làm
báo Đảng trong thời kỳ kháng chiến
PHẦN II: BÁO CHÍ – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
• NGUYỄNTHẾKỶHọc tập và làm theo phong cách tuyên truyền
của Hồ Chí Minh
• ĐỖCHÍNGHĨANhững quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng về
vai trò định hướng dư luận xã hội của báo chí
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN - TRUNG TÂM THÔNG TIN - KHOA HỌC
3
10
20
14
61
68
56
27
35
41
48
51
• NGUYỄNBẮCSONNâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động báo chí đáp ứng yêu cầu nền báo
chí cách mạng Việt Nam trong tình hình mới
• TRƯƠNGMINHTUẤNNâng cao trách nhiệm của cơ quan chủ quản
trong chỉ đạo, quản lý hoạt động báo chí
• PHẠMHUYKỲSự phát triển của báo chí hiện đại trong xu
thế toàn cầu hóa truyền thông đại chúng
• LÊHỒNGANHBáo chí phải đảm bảo tính tư tưởng, tính
chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu
• HỮUTHỌNgòi bút trách nhiệm
• PHẠMVĂNLINHXử lý tốt mối quan hệ giữa thông tin đối nội và
thông tin đối ngoại: trách nhiệm của cơ quan báo
chí và người cầm bút
• ĐẶNGTHỊTHUHƯƠNGNâng cao tính chuyên nghiệp của nền báo
chí Việt Nam bằng đào tạo chuyên nghiệp và
nghiên cứu chuyên nghiệp
• NGUYỄNĐỨCHẠNHVề tính chuyên nghiệp đặc thù của hoạt
động báo chí
• TRƯƠNGTHỊKIÊNNâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý báo chí ở
Việt Nam hiện nay
• PHẠMMINHSƠNSức mạnh của báo chí trong quan hệ quốc
tế thời kỳ toàn cầu hóa
• PHẠMTHỊTHANHTỊNHTruyền thông hội tụ: xét từ góc độ báo chí
• VŨTHÙYDƯƠNGVài nét về hoạt động báo chí nước ta trong
cơ chế thị trường hiện nay
PHẦN III: VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI
• DƯƠNGXUÂNNGỌCTrách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân
của nhà báo
• NGÔVƯƠNGANHBáo chí - một “binh chủng” quan trọng trong sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền hiện nay
• TRẦNHÙNGPHINâng cao vai trò của báo chí cách mạng trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
• HÀTHỊTHÙYDƯƠNGBáo chí với việc thực hiện dân chủ ở Việt
Nam hiện nay
• VŨTUẤNHÀVai trò định hướng của báo chí Việt Nam trong
nâng cao nhận thức về quyền trẻ em
• DOÃNTHỊTHUẬNBáo chí góp phần đấu tranh chống âm mưu
”diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng -
văn hoá
• NGUYỄNVĂNHÙNGBáo chí trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng
• PHẠMQUÝTRỌNGĐể báo chí thực sự là cầu nối giữa Trường
Sa với đất liền
• ĐỖVĂNQUÂNVai trò của báo chí trong thực hiện phản biện
xã hội
• NGUYỄNVĂNDỮNGBáo chí với tính nhân văn và niềm tin của
công chúng
• DƯƠNGXUÂNSƠNVăn hóa phản biện trên báo chí Việt Nam thời
kỳ hội nhập và phát triển
• NGUYỄNTHỊTRƯỜNGGIANGĐưa giá trị của báo chí vào truyền thông xã hội
• DƯƠNGMINHHUỆVai trò của báo chí cách mạng trong nhà
tù, trại giam của đế quốc thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền (1930-1945)
74
81
86
95
100
102
155
169
163
175
180
191
186
196
204
210
215
108
114
120
128
135
140
152
145
lời giới thiệuBáo chí có một vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Nó vừa là một
loại vũ khí sắc bén trong lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, vừa là một thứ “quyền lực thứ tư”
trong xã hội hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên sử dụng báo chí như một thứ vũ
khí chiến đấu hết sức mầu nhiệm trong suốt lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc; là người
mở đầu cho dòng báo chí cách mạng Việt Nam và giương cao ngọn cờ chiến đấu của
báo chí vô sản chống mọi kẻ thù dân tộc và giai cấp; là người Việt Nam cống hiến trí
tuệ, tài năng cho sự hình thành và phát triển của lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam.
Trong suốt chặng đường 89 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, báo chí cách
mạng Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trên nhiều mặt; phát triển nhanh chóng
và toàn diện, cả về số lượng và chất lượng, đội ngũ nhà báo, hệ thống kỹ thuật nghiệp
vụ... Từ Báo Thanh niên - tờ báo cách mạng được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng
lập và lãnh đạo năm 1925, đến nay, cả nước đã có hơn 800 cơ quan báo in với hơn 1000
ấn phẩm, 67 đài phát thanh, truyền hình, một hãng thông tấn quốc gia, hơn 90 báo điện
tử và hàng trăm trang thông tin điện tử...
Báo chí ngày càng thể hiện vai trò to lớn và thiết thực trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Quần chúng nhân dân ngày một quan tâm, gần gũi và gắn bó mật thiết với báo
chí hơn. Báo chí của chúng ta vừa là tiếng nói của Đảng và Chính phủ, vừa là diễn đàn
rộng rãi của nhân dân; là công cụ, phương tiện và là phương thức đẩy nhanh tiến trình
dân chủ hóa đời sống xã hội phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nhìn chung, báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phản ánh kịp thời những sự
kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nổi bật, phản ánh đúng nguyện vọng, tâm tư, tình
cảm của nhân dân. Báo chí góp phần đắc lực trong việc xây dựng những điển hình tiên
tiến trong các phong trào thi đua yêu nước, đấu tranh để phòng, chống nạn tham ô, tham
nhũng, lãng phí, quan liêu. Cán bộ hoạt động trong lĩnh vực báo chí xứng đáng là những
chiến sĩ trên mặt trận văn hóa theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu
đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
Song, bên cạnh những kết quả đạt được, báo chí Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều
vấn đề cần khắc phục để xây dựng một nền báo chí Việt Nam hiện đại và phát triển như:
một số thông tin chưa chính xác, thông tin chưa được cập nhật kịp thời; một số cơ quan
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
1
báo chí chưa nhạy bén về chính trị, có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, bị ảnh hưởng
bởi tác động tiêu cực của kinh tế thị trường nên chưa làm tốt chức năng là cơ quan tuyên
truyền, giáo dục về tư tưởng, văn hóa; đội ngũ cán bộ, phóng viên làm việc trong các cơ
quan truyền thông, báo chí vẫn chưa đủ về số lượng và chất lượng, chưa đáp ứng yêu
cầu mới của xã hội và của thời đại, cơ sở vật chất còn thiếu; công tác chỉ đạo, quản lý
báo chí còn nhiều hạn chế, bất cập.
Nhằm cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, nhà quản lý và bạn
đọc, đặc biệt là các nhà báo hoặc sinh viên báo chí, hiểu rõ hơn về vai trò của báo chí
trong đời sống xã hội, Ban Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã chỉ đạo Trung
tâm Thông tin - Khoa học tuyển chọn các bài viết đã công bố trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành của các nhà nghiên cứu, biên soạn và giới thiệu ấn phẩm Thông tin chuyên
đề: “Báo chí trong đời sống xã hội hiện nay”
Kết cấu của Thông tin chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí
Phần II: Báo chí - những vấn đề lý luận
Phần III: Vai trò của báo chí trong đời sống xã hội
Mặc dù tập thể cán bộ trong ban biên tập tham gia sưu tầm, tuyển chọn đã hết sức cố
gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Ban Biên tập xin trân trọng
giới thiệu cuốn Thông tin chuyên đề số 4/2014 và mong nhận được ý kiến đóng góp
của bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
BAN BIÊN TẬP
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
2
phần itư tưởng hồ Chí Minh
về báo Chí--------
HỒ CHÍ MINH – NHÀ BÁO LỖI LẠC
?PGS, TS ĐOÀN TRỌNG HUY
Đại học Sư phạm Hà Nội
1. Sự nghiệp báo chí đồ sộ Hồ Chí MinhSự nghiệp báo chí Hồ Chí Minh nằm
trong sự nghiệp văn học, sự nghiệp văn hóa
của một Danh nhân văn hóa thế giới – như
sự tôn vinh của UNESCO. Bạn bè thế giới
ca ngợi: “Đồng chí Hồ Chí Minh - nhà cách
mạng chân chính, nhà báo sâu sắc và nhà
thơ trữ tình tinh tế”.
Thật vậy trong những năm bôn ba ở
nước ngoài để tìm đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc đã rèn luyện mình trở
thành một nhà báo cách mạng kiên cường
và đã dùng ngòi bút như một vũ khí cách
mạng để chiến đấu với kẻ thù.
Bằng sự nỗ lực quyết liệt, Người nhanh
chóng học và sử dụng nhiều ngoại ngữ như
một phương tiện hiệu qủa nhất, để giao lưu,
tìm hiểu những con người và xã hội mới lạ,
cũng là để phát ngôn chiến đấu một cách
trực tiếp.
Khởi đầu sự nghiệp báo chí của Nguyễn
Ái Quốc là ở Pháp. Sau thời gian khổ công
tập viết, được bạn bè, nhất là chủ bút tờ báo
Dân chúng (Le peuple) Charles Longuet
tận tình chỉ bảo, người phóng viên tập sự
đã viết được từ mẩu tin dăm dòng đến
phóng sự một cột báo và bài chính luận cả
trang báo. Cây bút trẻ đã được đăng bài trên
các báo danh tiếng của Đảng Cộng sản
Pháp như Nhân đạo (L’ Humanité) hoặc
tờ báo của Tổng công đoàn Lao động Pháp
như Đời sống thợ thuyền (La vie ou-
vrière).
Rất nhanh chóng, chỉ vài năm sau
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
3
Nguyễn Ái Quốc đã lập ra báo Người cùng
khổ (Le Paria) đại diện cho Hội liên hiệp
thuộc địa. Ngày 1.4.1922, số báo đầu tiên
được xuất bản. Người làm chủ nhiệm, chủ
bút, trị sự kiêm phát hành.Tính ra, Người
đã viết được 38 bài trên tờ báo này.
Thời kỳ ở Liên Xô, Hồ Chí Minh đã đọc
trực tiếp sách của Lênin và đủ trình độ viết
một số bài báo bằng tiếng Nga cho các báo:
Sự thật (Pravda) của Đảng Cộng sản Liên
Xô, Phụ nữ - báo của hội Liên hiệp Phụ nữ
Liên Xô, Công nhân, Các vấn đề phương
Đông. Nguyễn Ái Quốc đã viết trên các tờ
báo có ảnh hưởng rộng khắp như Quốc tế
nông dân và Thư tín quốc tế về tình cảnh
nhân dân bị áp bức bóc lột ở thuộc địa,
nông dân Việt Nam, Bắc Phi, Tuynidi,
Palestin, Trung Quốc... Năm 1940, Người
tham gia hoạt động trong tổ chức quân sự
ở Trung Quốc. Với bút danh Bình Sơn,
Người còn viết cho Cứu vong nhật báo –
cơ quan của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Như vậy, với tư cách sáng lập, cộng tác
viên, nhà báo trẻ ở tầm vóc quốc tế, Người
đã dùng ngọn bút với tầm nhìn và chủ kiến
cách mạng về những vấn đề chính trị, xã
hội toàn cầu. Ngòi bút ấy thực sự đã gây
chấn động dư luận vì sức mạnh chiến đấu
cách mạng. Tích tụ ở đó là kho tri thức lý
luận và nhất là thực tiễn đồ sộ, hết sức
phong phú, sinh động về tình hình thế giới
khắp Âu, Á, Mỹ, Phi; là những khảo sát,
điều tra có giá trị qua lăn lộn với cực nhọc,
cần lao ở đại học “trường đời”; là những
thu hoạch từ các câu lạc bộ, các diễn đàn,
trong đó có tiếng nói của các anh em, bè
bạn bốn phương tại đại hội lần thứ 5 của
Quốc tế Cộng sản họp ở Mátxcơva tháng
6.1924 của 49 đoàn đại biểu đảng cộng sản
đến dự. Tiếng nói ngôn luận lại được trực
tiếp diễn đạt thông qua ngoại ngữ thông
dụng: Anh, Nga, Pháp, Đức, Hoa...
Nguyễn Ái Quốc chính là người sáng lập
8 tờ báo chủ lực của phong trào cách mạng.
Ngoài Người cùng khổ (Le Paria) ở Pháp,
còn có các tờ báo có tầm quan trọng đặc
biệt. Đó là tờ báo tiếng Việt Thanh Niên,
cơ quan ngôn luận của Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí hội, ra số đầu ngày
21.6.1925. Thời gian này, Nguyễn Ái Quốc
được Bộ Phương Đông của Quốc tế Cộng
sản cử về hoạt động tại Quảng Châu, Trung
Quốc. Ngày 3.12.1926, tờ Công nông –
báo của giai cấp công nhân và nông dân
xuất hiện. Tiếp đó, Người cho ra đời báo
Lính Kách Mệnh - ngày 4.12.1927 - tiền
thân của báo Quân đội nhân dân ngày nay.
Năm 1928, Nguyễn Ái Quốc về hoạt động
tại Xiêm (Thái Lan), đổi tên tờ Đồng
Thanh thành Thân ái - tờ báo cách mạng
của Việt kiều.
Từ khi về nước lập Mặt trận Việt Minh,
Người cho thành lập báo Việt Nam độc lập
(1941) và Cứu quốc (1942). Tiếp đó là tờ
Cờ giải phóng do Trường Chinh làm Tổng
biên tập, hoạt động từ 10.10.1942 đến
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
4
18.11.1945. Từ tháng 11.1945, tổ chức
Đảng hoạt động công khai dưới danh nghĩa
Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông
Dương và ra báo Sự thật (ngày 5.12. 1945).
Đó là tiền thân của báo Nhân dân – cơ
quan của Trung ương Đảng, hoạt động từ
tháng 3.1951 đến nay. Cần nói thêm rằng,
thời kỳ hoạt động cách mạng bí mật cho
đến trước năm 1945, với bút danh Lin,
Người còn tham gia viết cho một số báo
công khai và bí mật của tổ chức Đảng:
Tiếng nói chúng ta viết bằng tiếng Pháp
(Notrevoix), Búa liềm, Tranh đấu.
Từ ngày cách mạng thành công và trải
qua sự nghiệp xây dựng và kháng chiến bảo
vệ đất nước, suốt 24 năm với cương vị Chủ
tịch nước, Người vẫn viết báo, coi nghề
cũng là nghiệp, tự nhận là “người có duyên
nợ với báo chí”. Theo thống kê, trên 50
năm cầm bút, Người đã viết gần 2000 bài
với 174 bút danh khác nhau. Trước kia là
để bí mật, tránh hiểm nguy, sau này là để
tránh áp lực, uy thế, uy quyền cá nhân lãnh
tụ. Trước sau vẫn là ngòi bút mạnh mẽ để
vận động quần chúng, đấu tranh với kẻ thù
- kẻ thù nơi chiến tuyến và trên mặt trận tư
tưởng, chống cái xấu, cái ác, cũng là để
phát huy cái thiện, cái tốt, xây dựng con
người mới, xã hội mới. Chỉ tính riêng báo
Nhân Dân, Người đã viết 1025 bài; với bút
danh C.B là 706 bài. Bài viết cuối cùng dịp
kỷ niệm thành lập Đảng (3.2.1969): Nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân.
2. Cái Tâm và cái Tầm của một nhàbáo lớn
Sở dĩ Hồ Chí Minh trở thành nhà báo tầm
quốc tế vì trước hết, Người có cái Tâm lớn.
Hành trình đi tìm đường cứu nước đã thể
hiện một ý chí cực kỳ lớn lao. Đó là đi tìm
một sách lược cách mạng để giải phóng dân
tộc, đồng thời cũng là giải thoát nhân loại
khỏi áp bức, bóc lột.
Người là hình mẫu tuyệt vời đầu tiên của
người trí thức vô sản hóa, dấn thân vào tầng
lớp lao động và lặn tới đáy sâu của cực
nhọc cần lao khổ ải. Thương cảm dân tộc
gắn bó tự nhiên với cảm thức nhân loại chất
chứa trong trái tim lớn. Trái tim quảng đại,
đại độ từ bi, trong đó có nét nhân từ của
Phật Thích ca, nét bác ái của chúa Jesus.
Có nhiều lời nói tốt đẹp về Hồ Chí Minh,
nhưng phát biểu của ngài Romesh Chandra
- Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới tại lễ
kỷ niệm 90 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh có lẽ là rất chí lí và thật đặc sắc:
“Chúng ta tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Người lãnh tụ đó, Người tổ chức đó,
Người cộng sản đó và Người cách mạng
đó, con người yêu thương mọi người”
(Đoàn Trọng Huy- ĐTH)(l).
Chính vì lòng yêu thương lớn mà Người
cầm bút, làm tờ Người cùng khổ (Le
Paria). Khi trái tim nổi giận sẽ là những
tiếng thét phẫn nộ. Sự lên án chủ nghĩa thực
dân mới và cũ một cách gay gắt, quyết liệt
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
5
cũng nhằm mục đích tối cao: bảo vệ độc lập
cho đất nước, tự do cho dân tộc và hạnh
phúc cho nhân dân. Ý chí kiên cường, quả
cảm trong đấu tranh đã tạo nên cái dũng khí
của ngòi bút cách mạng. Ở đây, chỉ xin nêu
ra vài ví dụ tiêu biểu về việc “đánh” Mỹ.
Hành hình kiểu Linsơ tố cáo cái “văn
minh” man rợ của Mỹ đăng ở nhật báo
Diễn đàn thế giới (Die Weltribiine) của
Đảng cộng sản Đức số ra ngày 9.10.1924
và trên tạp chí Thư tín quốc tế (Correspon-
dance Internationale) số 59 năm 1924(2)
“Bình đẳng, bác ái kiểu Mỹ” trích lời thú
nhận của Tổng thống Kennedy về “sự thực
hiện bình đẳng tiến hành… phi thường
chậm chạp” (T.L - Nhân Dân số 3190 ngày
10.10.1962). Một buộc tội đanh thép: Tổng
Giôn và vụ giết chết nghị sĩ R.Kennơđi
(Chiến sĩ - Nhân Dân số 5177-15.6.1968).
Hồ Chí Minh rất coi trọng nghề báo và
người viết báo. Những huấn từ của Người
qua các Đại hội nhà báo và các buổi nói
chuyện rất sâu sắc, rất thiết thực mà hết sức
giản dị, bởi đó là những trải nghiệm một
đời cần chia sẻ, truyền thụ. Người luôn
nhấn mạnh yếu tố hàng đầu cũng là phẩm
chất tiên quyết là lý tưởng, đạo đức nhà
báo. “Vì ai mình viết? Viết cho ai? Viết để
làm gì?” chính là điều tâm niệm của Người
trước khi đặt bút lên trang giấy. Tuy nhiên,
một vấn đề cần đặt ra ngay như Người từng
đề cập: “Viết như thế nào?”, tức vấn đề tài
năng. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng tỏ
không chỉ về cái Tâm mà còn là cái Tầm
của người viết thông qua sự nghiệp báo chí
của Người. Tầm ở đây là sự thông tuệ, là
vốn sống, là trình độ viết.
Như đã nói ở trên, chủ bút Người cùng
khổ cực kỳ xứng danh vì Người đã hiểu
biết tường tận số phận, cuộc đời của những
kiếp người bị áp bức, bóc lột, bị đàn áp,
tước đoạt quyền sống, từ ruộng đồng Việt
Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Palestin, từ xóm
thợ nghèo Pari đến sa mạc hoang vắng châu
Phi. Rồi ngay ở Mỹ, dưới chân tượng Thần
tự do, Nguyễn Ái Quốc đã phải ghi lại
những lời xót xa, cay đắng về tình trạng
phản bội trái ngược của con người bị mất
tự do. Trên báo Người cùng khổ số 25
tháng 5.1924 có bài viết Đoàn kết giai cấp
là một phóng sự ngắn về phiên tòa xử
người Mỹ da đen đình công, chống lại bạo
lực, với kết luận: “Vậy là, dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người
bị bóc lột”(3). Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh là người viết báo bậc thầy. Bí quyết
văn phong báo chí được Người thâu tóm:
“giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, hoạt bát”.
Văn chương báo chí - văn chương thông
tấn – hay văn chương nghệ thuật đều có
đặc thù riêng, nhưng có một hằng số không
thay đổi. Đó đều là văn chương. Hơn thế,
giữa chúng còn có sự giao thoa, bởi báo
cũng có nhiều thể loại: phóng sự, điều tra,
ghi chép, ký sự,… Một đời viết báo, Người
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
6
đã thực hiện được tiêu chí đem lại hiệu quả
nghệ thuật tối đa: “Viết cho văn chương,
cho người đọc thấy hay, thấy văn chương
mới thích đọc”(4). Báo có văn, báo như văn
là vậy.
Tuy nhiên, cái tầm còn được phân biệt
và định giá dựa trên một nền rộng lớn. Vốn
sống cực kỳ quan trọng nhưng chưa phải là
tất cả, cho dù đó là sự trải nghiệm trên
phạm vi thế giới. Vốn ấy phải được thu
lượm, tích lũy theo một định hướng chính
trị: Vì ai? Cho ai? Rồi Từ đâu? Do đâu?
Tại sao?... Ta nói tới cái vốn tri thức chính
trị, xã hội, nhân văn,... nói rộng ra là cái
nền tảng văn hóa.
Thật vậy, Hồ Chí Minh là người viết -
viết báo, viết văn – có tầm văn hóa, một
tầm văn hóa cao được tích tụ trong khối óc
cực kỳ thông tuệ. Trong Những dấu ấn
của cuộc đời, Eremay Paranov, Liên Xô,
mở đầu cho giới thiệu Tập văn chọn lọc Hồ
Chí Minh của Nhà xuất bản Tiến bộ:
“Đồng chí Hồ Chí Minh – nhà cách mạng
chân chính, nhà báo sâu sắc và nhà thơ
tinh tế”(5). Vậy là tất cả trong một – đánh
giá tổng hợp về nhà văn hoá lớn - Danh
nhân văn hoá Hồ Chí Minh.
3. Học tập Hồ Chí Minh - nhà báo lỗi lạcSinh thời, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói
về mục đích, chức năng của báo chí và vai
trò, nhiệm vụ người viết báo. Chính Người
đã truyền thụ nhiều trải nghiệm quý báu về
đời làm báo, viết báo. Sự nghiệp báo chí đồ
sộ của Người là một kho tàng di sản rất giá
trị để tiếp tục khai thác. Đây là pho sách rất
lớn về cả lý luận và thực tiễn nghề nghiệp.
Hơn ai hết, giới báo chí ngày nay cần học
tập một cách thiết thực, sáng tạo sự nghiệp,
tấm gương và đạo đức báo chí Hồ Chí
Minh mà tựu trung là học tập đạo đức báo
chí của Người.
Trước hết, cần nhận rõ bức toàn cảnh
chính trị, xã hội thời nay với những đặc
điểm và yêu cầu cụ thể - lịch sử. Về mặt
đặc thù người làm báo, viết báo hôm nay
có những điều kiện, những phương tiện
hiện đại thuận lợi. Thông tấn xã có thời
phải in hàng tràng băng giấy để lọc lấy vài
tin mà nay, ta chỉ cần bấm vào từ khoá trên
máy tính. Với một máy ghi âm, máy ảnh
nhỏ, một laptop khi tác nghiệp, người
phóng viên như được chắp thêm tay, gắn
thêm mắt, cài thêm tai. Xã hội hiện đại có
phương tiện hiện đại nghe nhìn hỗ trợ đắc
lực trực tiếp cho truyền thông.
Mặt khác, đó cũng là những thách thức
lớn. Báo chí hôm nay phải đối mặt với
những thực tế nghiệt ngã của cơ chế thị
trường. “Báo cũng là một ngành kinh
tế”(Hồ Chí Minh). Báo phục vụ sự nghiệp
kinh tế nhưng bản thân phải làm kinh tế để
tự nuôi sống và phát triển. Lại phải chung
sống và “cạnh tranh” hoà bình, lành mạnh
giữa các loại hình. Mỗi báo có một đặc thù
và thế mạnh riêng. Phải tự xác định vị trí,
vai trò, tác dụng bản thân. Như báo in phải
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
7
trụ vững trước sự xuất hiện ồ ạt của báo
điện tử và văn chương mạng, kể cả blog cá
nhân phi chính thống.
Trong mọi biến hóa của báo, vẫn có một
sự bất biến nằm trong lời căn dặn của lãnh
tụ. Báo chí phải là vũ khí của cách mạng,
“Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách
mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén
của họ”(6). Nhà báo cũng như bất kỳ một
chiến sĩ nào trên mặt trận văn hóa – tư
tưởng trước hết đều cần có dũng khí.
Không còn là để xông pha lửa đạn như thế
hệ phóng viên thời chiến trước đây, nhưng
nhà báo cũng cần phải dấn thân vào những
hiểm nguy bất thường, như tham gia vào
các cuộc chiến chống tiêu cực: họ có thể bị
ngăn chặn, cản trở, đe dọa, thậm chí bị
những phần tử xấu hành hung. Do đó, cần
phải dũng cảm để giữ mình trước mọi cạm
bẫy, mọi áp lực, giữ được sự trung thực,
trung thành với lý tưởng. Dám nói, dám
viết, dám chịu trận. Có đủ lương tâm và
trách nhiệm. Chỉ nói, chỉ viết theo sự thật,
theo chân lý.
Cuộc đấu tranh chống cái xấu, cái ác nơi
xã hội, nhân quần hiện nay trong tình trạng
đạo đức suy thoái, nhân cách xuống cấp,
mọi giá trị đảo lộn -biểu hiện mặt trái của
cơ chế thị trường - phải là cuộc chiến dài
lâu và quyết liệt. Đó cũng là nhiệm vụ vẻ
vang của người cầm bút nói chung “Ngòi
bút cũng là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp
phò chính, trừ tà” (Hồ Chí Minh). Tất
nhiên, trong đạo đức nghề nghiệp rất cần ý
thức năng động, xông xáo: đến tận nơi,
xem tận việc, tìm tận người để thể hiện kịp
thời, chính xác nhất. Về mặt luyện tài cũng
là cả một công trình để có được cái tầm cao
như mong muốn.
Hồ Chí Minh là tấm gương lớn về nhà
báo thông tuệ, trí lực, uyên thâm, sắc sảo
và tài hoa. Bài viết của Người rất mẫu mực
về nhiều mặt, có sức mạnh đi sâu vào lòng
người để thức tỉnh, động viên, làm khiếp
vía kẻ thù. Học tập Người trước hết là tích
lũy thật phong phú tri thức toàn diện và
chuyên sâu về lý luận và vốn sống thực
tiễn. “Có bột mới gột nên hồ”, càng nhiều
bột thì hồ càng sánh! Khái quát nhất, “bảo
bối” là không ngừng nâng cao tay nghề,
tinh thông nghiệp vụ qua hành trình kiên
nhẫn, bền bỉ và hứng thú làm nghề.
Khi cầm bút viết báo, cũng như viết văn,
làm thơ - Hồ Chí Minh không hề quan tâm
đến tên tuổi và lợi ích riêng. Suốt đời,
Người chỉ hướng về cái đích thiêng liêng,
cao cả là đem trí tuệ qua ngòi bút của mình
để phục vụ sự nghiệp vì dân, vì nước.
Nhưng cũng chính vì vậy mà Người trở
thành nhà báo lỗi lạc tầm cỡ quốc tế “lưu
danh thiên cổ”.
Hồ Chí Minh là con người khiêm tốn,
chỉ nhận mình là một đồng chí “ít nhiều có
kinh nghiệm làm báo”, cũng như không bao
giờ tự nhận mình là nhà thơ, nhà văn.
Người cũng chỉ nhận là “người có duyên
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
8
nợ với báo chí”. Cái duyên nợ ấy chính là
cái “nghiệp báo chí” một đời của Người để
tạo nên một sự nghiệp báo chí đồ sộ!
Trong Đọc văn Người, Chế Lan Viên
cảm nhận sâu xa: “Bác muốn nhân dân cầm
trên tay không nặng lắm tên tuổi của
Người/ Người ký X.Y.Z, C.B như dân ký
Lúa, Xoài/ Người không muốn trang sách
hóa thần, nhân dân quỳ để đọc/ Dẫu tuyệt
bút thi thư cũng là con đẻ của đời”.
Nhưng cũng chính vì vậy mà những bài
báo, bài văn của Người đã tôn Người lên
hàng nhà báo lỗi lạc, nhà văn, nhà thơ thiên
tài, nhà văn hóa danh tiếng trong thời đại.n
……………..(l), (5) Nhiều tác giả, Một giờ với đồng chí Hồ Chí
Minh - Thanh niên (3), 2007.
(2) Bản dịch trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập I -
Nxb Sự thật, Hà Nôi
(3) Hồ Chí Minh, Tuyển tập văn học, Tập I, Nxb Văn
học, H., 1995
(4) Xem Bác Hồ - tấm gương sáng về đạo đức báo
chí - trích trên facebook, Nguồn: Hà Nội mới
(6) Xem Bác Hồ với báo chí cách mạng Việt Nam -theo lamdong.org, 19.6.2012.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &Truyền thông.- 2013.- Số tháng 11.- Tr.63 – 66.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH...(Tiếp theo trang 13)
Mỗi người làm báo cần sinh hoạt trongtổ chức của mình. “Hội nhà báo là một tổchức chính trị và nghiệp vụ. Nhiệm vụ củaHội là phải làm cho hội viên đoàn kết chặtchẽ, giúp đỡ lẫn nhau để nâng cao trình độchính trị và nghiệp vụ. Có như thế thì Hộinhà báo mới làm tròn nhiệm vụ của mìnhvà những người làm báo mới phục vụ tốtnhân dân, phục vụ tốt cách mạng”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về người làmbáo chí là một bộ phận trong di sản tưtưởng Hồ Chí Minh về báo chí, xuất bản,góp phần là thế giới quan, phương phápluận cho tất cả những người làm báo chícách mạng. Nghiên cứu, học tập và làmtheo tư tưởng, tấm gương làm báo củaNgười là trách nhiệm và là động lực phát
triển bền vững của mỗi nhà báo chúng ta.n……………(1),(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t9, Nxb CTQG,
H.,1995-1996, tr.414(2),(4) Sđd, t10, tr.616.(5),(7) Sđd, t7, tr.119,118.(6) Sđd, t5, tr.626(8)Sđd, t6, tr.429TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, tập 6, tập 7, tập 9,
tập 10, Nxb CTQG, H.,1995-1996.2. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 1, tập 2, tập
3, Nxb CTQG, H.,1993.3.TS. Hồng Vinh, PGS, TS. Đào Duy Quát, Hồ Chí
Minh với công tác tư tưởng, Ban Tư tưởng văn hóaTrung ương.
4. Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ XI, Nxb CTQG, H., 2011.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chínhtrị&Truyền thông.-2013.- Số tháng 8.-Tr.6 - 8.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
9
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969),
lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhà
văn hoá lớn của thế giới, người mở đầu,
người thầy của báo chí cách mạng Việt
Nam. Người để lại cho chúng ta hệ thống
quan điểm tư tưởng lý luận toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, trong đó có tư tưởng về báo chí
và người làm báo. Theo Người, tất cả
những người làm báo là người viết, người
in, người sửa bài, người phát hành v.v”(1).
Hồ Chí Minh quan niệm báo chí là mặt
trận chiến đấu của cách mạng nên “Cán bộ
báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây
bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”(2)
Mỗi bài báo là “tờ hịch cách mạng”,
“Tất cả những người làm báo… phải có lập
trường chính trị vững chắc. Chính trị phải
làm chủ; chính trị đúng thì mọi việc mới
đúng. Nhà báo phải góp phần nâng cao chất
lượng báo chí để nó làm tròn nhiệm vụ cao
cả của nó là phục vụ nhân dân, phục vụ
cách mạng”(3).
Muốn được như vậy, người làm báo “Cố
gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn
hóa; chú trọng học tập chính trị để nắm
vững chủ trương, chính sách của Đảng và
Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào
quần chúng lao động”(4)
Ngay từ ngày đầu của chính quyền non
trẻ, Người ký lệnh ban hành Luật Báo chí,
chỉ rõ những phép tắc cơ bản đối với người
làm báo cách mạng. Để có bản lĩnh chính
trị, nhà báo phải học tập, tu dưỡng không
ngừng, cần mẫn tích luỹ kiến thức về nhiều
mặt, nhất là về lý luận, phương pháp luận,
về thực tiễn và về pháp luật…; phấn đấu
nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn,
nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình,
giữ gìn lương tâm và đạo đức nghề nghiệp
trong sáng.
Người nói: người làm báo cần nâng cao
nhận thức về tính chiến đấu của báo chí,
thông tin hay, chính xác, kịp thời, nhưng
không được để kẻ địch lợi dụng chống phá
phải biết giữ bí mật. “Báo của ta có một địa
vị quan trọng trong dư luận thế giới. Địch
rất chú ý, bạn rất quan tâm đến báo chí
nước ta. Cho nên, làm báo phải hết sức cẩn
thận về hình thức, về nội dung, về cách viết”.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCHCỦA NGƯỜI LÀM BÁO CÁCH MẠNG
? PGS, TS PHẠM XUÂN MỸ
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
10
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nhà báo
cách mạng là người cách mạng nên phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Đạo đức của nhà báo là sống trung thực,
trong sáng; phải viết chân thực vì chân thực
là sức mạnh, là niềm tin. Mỗi bài viết phải
bắt nguồn từ thực tế cuộc sống với những
con số, những sự kiện đã được xem xét
kiểm tra, chọn lọc.
Về phong cách viết báo, Hồ Chủ tịch
thường dạy chúng ta: “Vì ai mình viết? Viết
cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì?. Người
yêu cầu viết và nói phải rõ đối tượng, có
mục đích, có nội dung. Viết mà không rõ
đối tượng, không rõ nội dung cần đề cập là
cái gì, không rõ ta, bạn, thù; không rõ mục
đích thì không thể tránh khỏi tình trạng báo
lạc đề, lạc điệu và lạc giọng. “Trước hết là
cần phải tránh cái lối viết “rau muống”
nghĩa là lằng nhằng “trường giang đại hải”,
làm cho người xem như là “chắt chắt vào
rừng xanh”. Mình viết ra cốt là để giáo dục
cổ động; nếu người xem mà không nhớ
được, không hiểu được, là viết không đúng,
nhằm không đúng mục đích. Mà muốn cho
người xem hiểu được, nhớ được, làm được
thì phải viết cho đúng trình độ của người
xem, viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng chữ
nhiều”(5)
Người phê bình cái bệnh dùng chữ và
khuyên chúng ta, tiếng nói là thứ của cải vô
cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân
tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó,
làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp.
Của mình có mà không dùng, lại đi mượn
của nước ngoài, đó chẳng phải đầu óc quen
ỷ lại hay sao? Những chữ mà không biết rõ
thì chớ dùng. Trong thư gửi lớp viết báo
đầu tiên Huỳnh Thúc Kháng, Người viết:
“Muốn viết bài báo khá thì cần:
1.Gần gũi dân chúng, cứ ngồi trong phòng
giấy mà viết thì không thể viết thiết thực.
2. Ít nhất cũng phải biết một thứ tiếng
nước ngoài, để xem báo nước ngoài, và học
kinh nghiệm của người.
3. Khi viết xong một bài, tự mình phải
xem lại ba bốn lần, sửa chữa lại cho cẩn
thận. Tốt hơn nữa, là đưa nhờ một vài
người ít văn hoá xem và hỏi họ những câu
nào, chữ nào không hiểu, thì sửa lại cho dễ
hiểu.
4. Luôn luôn cố gắng học hỏi, luôn luôn
cần tiến bộ”(6).
Trả lời câu tự hỏi: “Nói và viết như thế
nào?”, Người khẳng định: “Viết thế nào
cho phổ thông, dễ hiểu”. “Viết và nói phải
có mục đích, có nội dung”. Đối với đông
đảo quần chúng thì tính phổ thông, dễ hiểu
là cách giao tiếp chủ yếu nhất, nói và viết
dù chỉ một câu cũng làm cho người dân
bình thường hiểu và làm theo được. Người
dạy ta cách viết cho hay, cho chân thật, cho
hùng hồn, “Phải viết gọn gàng, rõ ràng, vắn
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
11
tắt. Nhưng vắn tắt không phải là cụt đầu,
cụt đuôi. Phải học cách nói, tiếng nói của
quần chúng. Viết phải thiết thực, nói có
sách, mách có chứng”, tức là nói cái việc
ấy ở đâu, thế nào, ngày nào, nó sinh ra thế
nào, phát triển thế nào, kết quả thế nào?”.
Viết cái hay, cái tốt thì phải có chừng
mực, chớ phóng đại, không được bịa đặt ra.
Không nên nói một chiều và thổi phồng các
thành tích, ít hoặc không nói đúng mức đến
khó khăn và khuyết điểm của ta. Viết để
nêu cái hay, cái tốt, đồng thời để phê bình
những khuyết điểm, hạn chế của dân ta, của
bộ đội, cán bộ ta. Không nên chỉ viết cái tốt
mà giấu cái xấu. Viết phê bình phải đúng
đắn, thật thà, chân thành, không để địch lợi
dụng để nó phản tuyên truyền.
Để viết tốt phải có tài liệu. “Muốn có tài
liệu thì phải tìm, tức là:
1. Nghe: lắng tai nghe các cán bộ, nghe
các chiến sĩ, nghe đồng bào để lấy tài liệu
mà viết.
2. Hỏi: hỏi những người đi xa về, hỏi
nhân dân, hỏi bộ đội những việc, những
tình hình ở các nơi.
3. Thấy: mình phải đi đến, xem xét mà thấy.
4. Xem: xem báo chí, xem sách vở. Xem
báo chí trong nước, xem báo chí nước ngoài.
5. Ghi: những cái gì đã nghe, đã thấy, đã
hỏi được, đã đọc được thì chép lấy để dùng
mà viết. Có khi xem mấy tờ báo mà chỉ
được một tài liệu thôi. Tìm tài liệu cũng
như những công tác khác, phải chịu khó.
Có khi xem tờ báo này có vấn đề này, xem
tờ báo khác có vấn đề khác, rồi góp 2,3 vấn
đề, 2,3 con số làm thành một tài liệu mà
viết. Muốn có nhiều tài liệu thì phải xem
cho rộng”(7)
“Viết rồi phải thế nào? Viết rồi thì phải
đọc đi, đọc lại. Thấy cái gì thừa, câu nào,
chữ nào thừa, thì bỏ bớt đi. Đọc đi đọc lại
4, 5 lần đã đủ chưa? Chưa đủ. Đọc đi đọc
lại, sửa đi sửa lại”.
Hồ Chí Minh còn chỉ cho chúng ta cách
đặt đầu đề của từng bài báo. Đầu đề bài báo
phải đạt được ba yếu tố: Thứ nhất là toát ra
được điểm chính, tinh thần chính ở trong
bài, nhưng phải ngắn gọn. Thứ hai là không
dùng câu bình thường đủ vị ngữ, chủ ngữ
mà nêu yếu tố chính thể hiện được cái linh
hoạt, sắc sảo. Thứ ba là hấp dẫn người đọc
bằng cách chơi chữ, âm thanh, hình tượng, tình
cảm... nhưng không cầu kỳ, lắt léo, lố bịch...
Cùng với lối viết ngắn gọn, ít chữ, ít
mệnh đề, đặt câu đơn giản không có ý thừa
trong câu, người đọc dễ hiểu, Người còn
vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao rất tài
tình, gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Người đệm thơ ca, hò vè, “lẩy Kiều” vào
bài báo, làm nổi tính dân tộc Việt Nam, làm
cho văn thêm sáng, hình tượng thêm hấp
dẫn. Người nói, làm báo cần học tập, tích
luỹ kiến thức dân gian với trí thức rộng, sâu;
ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, đúng tiếng Việt.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
12
Về rèn luyện chuyên môn báo chí, Hồ
Chí Minh nói: “Có đồng chí hỏi kinh
nghiệm làm báo của Bác. Kinh nghiệm của
Bác là kinh nghiệm ngược, Bác học viết
báo Pháp trước rồi học viết báo Trung Quốc,
rồi sau mới học viết báo Việt Nam. Còn học
thì một là học trong đời sống của mình, hai
là học ở giai cấp công nhân…”(8).
Trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ
III của Hội Nhà báo Việt Nam ngày
8.9.1962, Bác nói: kinh nghiệm của tôi là
thế này: Mỗi khi viết một bài báo, thì đặt
câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì?
Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn
gọn dễ đọc? Khi viết xong, thì nhờ anh em
xem và sửa giùm”.
Nhà báo cần sử dụng ngôn ngữ chắt lọc.
Cần xác định:
“l- Viết cái gì? Viết những cái hay, cái
tốt của dân ta, của bộ đội ta. Đồng thời để
phê bình khuyết điểm của chúng ta, của cán
bộ, nhân dân, bộ đội.
2- Viết cho ai? Viết cho công nông binh,
viết cho mọi tầng lớp người Việt Nam,
không phân biệt già trẻ, nam nữ, tôn giáo,
đảng phái.
3- Viết để làm gì? Viết để tuyên truyền,
để giác ngộ, để đoàn kết, để thức tỉnh quần
chúng.
4- Viết thế nào? Viết phải gọn gàng, sáng
sủa, mạch lạc, có đầu, có đuôi, có nội
dung”.
Là người Việt Nam, tập viết báo lần đầu
tiên trên đất Pháp, bằng tiếng Pháp, cho nên
Người bắt đầu viết từ những việc rất nhỏ,
viết những mẩu tin ba dòng, năm dòng, rồi
mới dần viết dài. Người viết, chữa đi, sửa
lại nhiều lần, để trong thời gian mấy tháng
những tin vài ba dòng, sau mới đưa tới báo.
Lúc ở Pari, tuy biết nhiều tội ác của thực
dân Pháp, nhưng Người không biết làm thế
nào để viết ra được. Một đồng chí công
nhân ở toà báo Đời sống thợ thuyền (báo
La VieOuvrière) cho Người biết báo ấy có
mục “tin tức vắn” mỗi tin chỉ năm, ba dòng
thôi và bảo người có tin tức gì thì cứ viết,
đồng chí ấy sẽ sửa lại cho. Từ đó, ngoài
những giờ lao động, Người bắt đầu viết
những tin rất ngắn. Người hiểu làm báo để
làm chính trị, làm cách mạng nên dù khó
khăn vất vả mấy. Người cũng cố gắng học,
vận dụng từng bước chủ nghĩa Mác-Lênin
để đưa lên báo, truyền bá về nước.
Hồ Chí Minh dạy chúng ta, một tác
phẩm báo chí tốt là có nội dung và hình
thức thể hiện tốt. Nhà báo cần coi trọng
thông tin chân thực, chính xác, cẩn thận về
nội dung và hình thức. Ngày 8.1.1946,
Người nói: “Tuyên truyền, anh em nên chú
ý là bao giờ cũng tôn trọng sự thực. Có nói
sự thực thì việc tuyên truyền của mình mới
có nhiều người nghe. Ta đừng bắt chước
những nước tuyên truyền tin chiến tranh
quá sai lạc sự thực”. (Xem tiếp trang 9)
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
13
Văn hóa báo chí là toàn bộ những
giá trị mà con người tạo ra được
biểu hiện và thẩm thấu trong hoạt
động báo chí. Nó biểu hiện trong nhận
thức, hành vi của các chủ thể tham gia hoạt
động báo chí và kết quả mà họ tạo ra trong
hoạt động đó. Có thể nói, văn hóa báo chí
trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cái
hay, cái đẹp, và là các giá trị bền vững của
báo chí cách mạng đối với sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người và xây dựng xã hội mới.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Người luôn coi báo chí như là vũ khí
sắc bén của cách mạng, là đội quân xung
kích trong công tác tư tưởng, là một bộ
phận cơ bản, quan trọng không thể tách rời
trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đó
là tư tưởng nhất quán trong hệ thống tư
tưởng của Người nói chung và về văn hoá
báo chí nói riêng. Có thể nêu những quan
điểm cơ bản về văn hóa báo chí trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là:
Thứ nhất, mục tiêu cao cả của báo chí
cách mạng là phục vụ nhiệm vụ giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người.
Điều này được khẳng định khi Hồ Chí
Minh coi báo chí là bộ phận khăng khít
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân, của dân tộc và của Đảng.
Báo chí là bộ phận của công tác tư tưởng,
luôn gắn liền với hoạt động của Đảng, phục
vụ mục tiêu của cách mạng. Báo chí là diễn
đàn rộng rãi, dân chủ của nhân dân, phục
vụ lợi ích của nhân dân. Có mục đích chiến
đấu rõ ràng, báo chí cần thực hiện tốt nhất
những nhiệm vụ của báo chí vô sản. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: mục đích của báo chí là “cốt
làm cho dân ta biết, biết các việc, biết đoàn
kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật làm cho Việt
Nam độc lập, bình đẳng tự do”(1). Từ việc
nhận thức một cách sâu sắc vai trò to lớn
của báo chí cách mạng, Hồ Chí Minh đã
trực tiếp viết báo, sử dụng báo chí làm vũ
khí sắc bén, là diễn đàn tố cáo và tiến công
địch, tuyên truyền cách mạng. Trong cuộc
đời hoạt động cách mạng, Người đã sáng
lập ra nhiều báo. Le Paria là tờ báo cách
mạng đầu tiên do Người sáng lập. Ngày 21-
tư tưởng hồ Chí Minh về vĂn hÓA báo Chí
?TS NGUYỄN DUY HẠNH
Học viện Chính trị khu vực I
THS NGUYỄN TÙNG LÂM Đại học chính trị, Bộ Quốc phòng
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
14
6-1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc),
Người sáng lập và trực tiếp chỉ đạo xuất
bản báo Thanh niên, cơ quan của Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, chính thức đặt
nền móng cho báo chí cách mạng Việt
Nam. Báo Thanh niên trên thực tế, đã là tờ
báo tuyên truyền đường lối cách mạng,
chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã sử dụng báo chí làm vũ
khí sắc bén chĩa vào chủ nghĩa thực dân,
đế quốc và tay sai của chúng ở trong nước
và nước ngoài, làm “đòn xoay chế độ”, góp
vào thành công của Cách mạng Tháng Tám
1945, giành độc lập dân tộc. Sau khi nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trên
cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh vai trò to lớn của báo chí trong sự
nghiệp xây dựng, chấn hưng đất nước. Báo
chí cách mạng được Đảng trao cho sứ
mệnh là người tiên phong trong việc tuyên
truyền, giáo dục về đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, phản ánh thực tiễn
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nói chuyện
với các thế hệ nhà báo Việt Nam, Người
nói về đề tài của mình: “Tất cả những bài
Bác viết chỉ có một "đề tài" là: chống thực
dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ,
tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Duyên nợ của Bác đối với báo chí
là như vậy đó”(2 ).
Thứ hai, báo chí góp phần nâng cao
dân trí nhằm hướng tới phát triển con
người toàn diện.
Hồ Chí Minh cho rằng báo chí cách
mạng có chức năng giáo dục, giúp cho dân
chúng “mở mắt, mở tai” hiểu biết đúng, sai,
chính, tà…Báo chí cần đem chủ trương của
đoàn thể, của Chính phủ để giải thích cho
dân, để cho mọi người cùng hiểu, cùng
đồng tâm hiệp lực làm cho được, đem kinh
nghiệm hay việc làm tốt mà phổ biến cho
dân chúng noi theo. Hồ Chí Minh còn coi
báo chí như là một diễn đàn để huấn luyện
và giáo dục về chính trị, nghiệp vụ và đạo
đức. Người nói: “Tờ báo của Đảng có
nhiệm vụ làm cho tư tưởng và hành động
thông suốt và thống nhất”(3). Người yêu
cầu: "Trong báo Đảng có những mục giải
thích về: Lý luận Mác - Lênin. Tình hình
thế giới và trong nước. Đường lối, chính
sách đối nội và đối ngoại của Đảng và của
Chính phủ. Chương trình và kế hoạch của
những công tác cấp thiết. Đời sống và ý
nguyện của nhân dân. Những kinh nghiệm
tốt và xấu của các ngành, các địa phương.
Cách học tập, công tác, tự phê bình và phê
bình…"(4). Người chỉ ra phương hướng
của việc giáo dục lý luận trên báo, nêu rõ
các phương châm giáo dục lý luận chính
trị, học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với
thực tiễn, học để làm việc, làm người.
Những tác phẩm báo chí của Hồ Chí Minh
đều là những tác phẩm mẫu mực về tính
15
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
giáo dục của báo chí.
Theo Người, báo chí phải góp phần
nâng cao trình độ hiểu biết, giúp cho người
đọc bổ sung vốn kiến thức về lịch sử, văn
hóa của dân tộc Việt Nam và thế giới, giúp
cho người dân có kiến thức mới xây dựng
nếp sống mới để xây dựng đất nước thành
quốc gia có nền văn hóa cao và đời sống
tươi vui, hạnh phúc. Và như vậy, báo chí là
một nhân tố quan trọng để phát triển con
người toàn diện.
Thứ ba, xây dựng một nền báo chí cách
mạng mang tính nhân dân và tính quần chúng.
Theo Người, báo chí phải bảo đảm tính
nhân dân, phổ thông, đại chúng. Người căn
dặn: “Ta là cán bộ cách mạng, ta viết và nói
cho quần chúng nhân dân mà mọi người
không hiểu ta nói gì, sao có thể gọi là cán
bộ cách mạng được”(5).
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở những
người làm báo, báo chí không phải để cho
một số ít người xem, mà để phục vụ nhân
dân, để tuyên truyền, giải thích đường lối
của Đảng và Chính phủ. Người dạy các nhà
báo phải chú ý đến đối tượng bạn đọc. Cần
viết sao cho phù hợp với trình độ của đại
đa số dân chúng Việt Nam, cho người ta
thích đọc, đọc rồi hiểu và dễ dàng vận
dụng, làm theo. Vì vậy, những người làm
báo phải biết lắng nghe quần chúng và phải
học cách nói của nhân dân: “Nhân dân ta
có truyền thống kể chuyện ngắn gọn mà lại
có duyên. Các chú phải học cách kể chuyện
của nhân dân…” (6).
Trên cương vị là Chủ tịch Đảng, Chủ
tịch nước, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến
việc hoạt động và phát triển các tờ báo cách
mạng nhằm hướng đến phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân một cách tốt nhất. Người
nhiều lần nhắc nhở những người làm báo:
“Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu
hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết
thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn
dễ đọc?”(7). Những câu hỏi Người đặt ra
chính là đòi hỏi báo chí phải xác định rõ
đối tượng tiếp nhận thông tin. Người chỉ
rõ: “Đối tượng của tờ báo là đại đa số dân
chúng”(8). Vì vậy, cách viết bài báo phải
đơn giản, dễ hiểu, ngôn ngữ phải trong
sáng, hạn chế dùng từ nước ngoài... Việc
xác định đúng đối tượng phục vụ của báo
chí cũng có nghĩa là nhà báo phải biết chọn
lựa những nội dung gì nên viết, cái gì
không nên viết. Viết phục vụ nhân dân thì
nhất định phải chọn cái gì có lợi cho dân
và phục vụ cách mạng. Báo chí phải phục
vụ nhân dân trên lĩnh vực chính trị, tư
tưởng làm cho đời sống tinh thần của nhân
dân ngày càng phong phú.
Tính nhân dân và tính quần chúng trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa báo chí,
chính là biểu hiện mối quan hệ gắn bó giữa
báo chí với đông đảo các tầng lớp nhân
dân, nhất là nhân dân lao động - những
16
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
người sáng tạo chân chính của lịch sử. Tính
nhân dân chính là sự tham gia tích cực,
thường xuyên của đông đảo nhân dân vào
các hoạt động của báo chí, đồng thời mọi
sản phẩm của báo chí phục vụ nhu cầu lành
mạnh của quần chúng. Sự tham gia của
đông đảo quần chúng nhân dân đã làm cho
báo chí thực sự trở thành diễn đàn dân chủ.
Bên cạnh đó báo chí cũng thu hút được trí
tuệ, tài năng, sáng tạo của toàn xã hội, để
nâng cao tính hấp dẫn, tính trí tuệ của báo chí.
Thứ tư, bảo đảm tính trung thực, khoa
học nhằm định hướng dư luận vì sự tiến bộ
của xã hội.
Người yêu cầu báo chí phải có sắc thái
riêng. Người luôn nhắc nhở: "Mục đích
chung của chúng ta là xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đấu tranh thực hiện thống nhất nước
nhà, giữ gìn hoà bình thế giới. Nhưng mỗi
tờ báo như báo của nông dân, báo của công
nhân, báo của thanh niên, báo của phụ nữ,
v.v., nên có đặc điểm của nó, về hình thức
thì không rập khuôn; rập khuôn thì báo nào
cũng thành khô khan, làm cho người xem
dễ chán"(9). Người căn dặn những người
làm báo: "Tuyên truyền, anh em nên chú ý
một điều này nữa là bao giờ ta cũng tôn
trọng sự thực. Có nói sự thực thì việc tuyên
truyền của mình mới có nhiều người
nghe"(10). Theo Hồ Chí Minh, để lôi cuốn
được công chúng, báo chí đòi hỏi phải hấp
dẫn, đáp ứng nhu cầu của người đọc, vì
"sinh hoạt đã cao hơn, người ta thấy hay,
thấy lạ, thấy văn chương thì mới thích
đọc"(11).
Tính trung thực hấp dẫn của báo chí
nhằm hướng đến vấn đề định hướng dư
luận của báo chí vì sự phát triển của cách
mạng cũng như sự tiến bộ của xã hội. Hồ
Chí Minh đòi hỏi báo chí phải lãnh đạo dư
luận. Người nói: “không biết lãnh đạo dư
luận, không biết thúc đẩy và nâng cao tinh
thần đấu tranh của nhân dân”(12) là một
trong những khuyết điểm của báo chí. Dư
luận có vai trò to lớn trong đấu tranh chống
kẻ thù xâm lược, tố cáo bộ mặt xâm lược
và các tội ác chiến tranh của chúng, phát
động lòng căm thù trong nhân dân, thúc
đẩy họ đứng lên giết giặc lập công. Dư luận
cũng có vai trò to lớn trong đấu tranh
chống các hiện tượng tiêu cực trong xã hội,
chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí.
Theo Hồ Chí Minh, báo chí không chỉ lãnh
đạo dư luận mà cần phải lãnh đạo, tổ chức
các phong trào hành động cách mạng của
quần chúng. Phương pháp lấy gương tốt
trong quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng
viên để giáo dục lẫn nhau, lấy quần chúng
giáo dục quần chúng là rất sinh động và có
sức thuyết phục lớn. Người trực tiếp viết
những bài báo biểu dương những người tốt,
cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước,
khen thưởng các anh hùng chiến sĩ thi đua,
khen thưởng cho những người có thành tích.
17
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Thứ năm, quyền tự do báo chí như là
một bộ phận của quyền con người.
Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX,
với tư cách một nhà cách mạng, đồng thời
là một nhà báo, Hồ Chí Minh đã trực tiếp
tham gia vào cuộc đấu tranh chống sự vi
phạm tự do báo chí của chủ nghĩa thực dân
và xác lập vai trò, vị trí của báo chí cách
mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Hồ Chí Minh không chỉ nhận thấy
vai trò của báo chí đối với sự nghiệp cách
mạng của dân tộc mà Người còn thấy
quyền tự do báo chí chính là một bộ phận
rất quan trọng của quyền con người. Trong
quá trình hoạt động cách mạng của mình
Người rất chú ý và quan tâm đến hoạt động
báo chí và quyền tự do báo chí, vừa coi đó
là một "vũ khí" và phương tiện trong quá
trình đấu tranh cách mạng, đồng thời
Người còn coi đó như là một cuộc đấu
tranh cho quyền con người. Hồ Chí Minh
đã mạnh mẽ tố cáo chế độ thực dân Pháp
ngăn cấm quyền tự do báo chí: "Chúng tôi
không có quyền tự do báo chí và tự do
ngôn luận…, chúng tôi phải sống trong
cảnh ngu dốt và tối tăm vì chúng tôi không
có quyền tự do học tập"(13). Trong tác
phẩm Đông Dương, Người viết: "Sự thật là
người Đông Dương không có một phương
tiện hành động và học tập nào hết. Báo chí,
hội họp, lập hội, đi lại đều bị cấm… Việc
có những báo hoặc tạp chí mang tư tưởng
tiến bộ một chút hoặc có một tờ báo của
giai cấp công nhân Pháp là một tội
nặng"(14). Trong một bài báo khác, bài
“Báo chí”, Người viết: “Giữa thế kỷ XX
này, ở một nước có đến 20 triệu dân mà
không có lấy một tờ báo. Các bạn có thể
tưởng tượng được như thế không? Không
có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đẻ của
chúng tôi”(15). Hồ Chí Minh không chỉ
trực tiếp viết báo, dùng báo chí làm diễn
đàn tố cáo và tiến công kẻ thù, tuyên truyền
cho cách mạng mà còn tự mình tổ chức ra
những tờ báo cách mạng như: Le Paria
(Người cùng khổ) - tờ báo cách mạng đầu
tiên do Người sáng lập. Người sáng lập và
trực tiếp chỉ đạo xuất bản báo Thanh niên,
cơ quan của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, chính thức đặt nền móng cho
báo chí cách mạng Việt Nam. Sau báo
Thanh niên, Người còn sáng lập ra các tờ
báo khác như tờ Công nông ở Trung Quốc,
Thân ái ở Thái Lan, Người trực tiếp chỉ đạo
tờ báo Đỏ, cơ quan của Chi bộ An Nam
Cộng sản Đảng tại Trung Quốc…
Thứ sáu, đề cao đạo đức người làm báo.
Theo Hồ Chí Minh, báo chí là một lĩnh
vực hoạt động đặc biệt, đòi hỏi năng lực
cao về trí tuệ, hiểu biết, kinh nghiệm cuộc
sống phong phú và nhiều năng lực nghề
nghiệp. Báo chí phải là sự tập hợp mọi tiềm
năng, mọi nguồn lực trí tuệ, có tầm hiểu
18
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
19
biết rộng lớn, có lương tâm và đạo đức
nghề nghiệp trong sáng. Mỗi bài viết đều
phải chứa đựng hàm lượng cao chất xám
và nhiệt huyết cao của người viết. Hồ Chí
Minh nói, nhiệm vụ của người làm báo là
quan trọng và vẻ vang. Người làm báo phải
phấn đấu rèn luyện không mệt mỏi và phải
nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Hồ Chí
Minh khẳng định: "Cán bộ báo chí cũng là
chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là
vũ khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm
vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần
phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, “cố
gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn
hóa; chú trọng học tập chính trị để nắm
vững chủ trương, chính sách của Đảng và
Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào
quần chúng lao động”(16). Người nhấn
mạnh tính giai cấp, tính định hướng chính
trị của các phương tiện thông tin đại chúng.
Bất cứ một phương tiện thông tin đại chúng
nào khi xây dựng một chương trình, xuất
bản một tác phẩm, thể hiện một đề tài đáp
ứng nhu cầu của độc giả... đều hàm chứa
định hướng chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, nhà báo làm ra sản
phẩm lao động là các giá trị tinh thần cụ thể
được xã hội hóa ở mức rất cao. Nếu nhà
báo không có trách nhiệm sâu sắc đối với
sản phẩm mà mình làm ra thì hậu quả sẽ
khôn lường. Vì thế hơn ai hết nhà báo phải
luôn trau dồi đạo đức cách mạng, đạo đức
nghề nghiệp thì mới đáp ứng được yêu cầu
của Đảng, của nhân dân, của xã hội.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay,
những quan điểm của Hồ Chí Minh về báo
chí là cơ sở lý luận để Đảng ta nhận thức
rõ vị trí và tầm quan trọng của việc xây
dựng nền báo chí cách mạng trong công
cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
XHCN; một nền báo chí dân chủ, trung
thực, khoa học và hiện đại vì sự tiến bộ và
phát triển của xã hội; một nền báo chí
hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ,
hướng tới sự phát triển con người toàn
diện; một nền báo chí mà người làm báo
luôn có ý thức trách nhiệm chính trị xã hội.
Đó là ý thức về một lập trường chính trị
cách mạng, là thái độ bảo vệ chế độ, bảo
vệ dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết
chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Đó là các
gốc rễ để mỗi nhà báo tự vượt lên trên
những tính toán vụ lợi, cống hiến toàn tâm,
toàn lực cho sự nghiệp cách mạng.r
…………….. (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc
gia, Ha Nôi, 2011, tr.661.
(2), (9), (11) Sđd, t.12, Sđd, tr.117, 167, 170
(3), (4) Sđd, t. 8, tr.514.
(5), (8) Sđd, t.15, tr.666.
(6), (16) Sđd, t.13, tr.465, 466.
(7) Sđd, t.6, tr.102
(10) Sđd, t.4, tr.172.
(12) Sđd, t.5, tr.481.
(13), (14), (15) Sđd, t.1, tr.34-35, 39, 428
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị.-2014.- Số 6.- Tr. 32 – 36.
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINHVỀ BÁO CHÍ
?TS HÀ QUANG TRƯỜNG
Tạp chí Tổ chức nhà nước
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
20
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-
1969), vị lãnh tụ thiên tài và là
nhà báo kiệt xuất. Người đã để lại
cho chúng ta hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, trong đó có quan điểm về
báo chí. Trong sự nghiệp cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập nhiều tờ báo,
viết trên dưới 2000 bài báo với phong cách
luôn rộng mở, bút pháp độc đáo, sáng tạo.
Các bài báo của Người thể hiện sự sắc sảo
về tư duy, chính xác, phong phú về cứ liệu,
sự kết hợp sắc bén lý luận với thực tiễn, từ
chiều sâu của tri thức, bề dày của văn hóa
dân tộc và thế giới, tạo nên tính chiến đấu,
sức thuyết phục cao, thấm đẫm hơi thở của
cuộc sống, đồng thời phản ánh nhất quán
các quan điểm về báo chí.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết
báo chí phải là tiếng nói của chính nghĩa,
“đối tượng của tờ báo là đại đa số dân
chúng”(1).
Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu
rõ báo chí là hoạt động thông tin - giao tiếp
xã hội nhưng lại có sức mạnh rất lớn để
liên kết và can thiệp xã hội từ yếu tố chủ
quan của người viết, từ mục đích đăng tải
của các tòa báo. Do đó, với quan điểm báo
chí phải bảo vệ chính nghĩa, phục vụ nhân
dân, phục vụ cách mạng, ngay từ ngày đầu
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Người
căn dặn các nhà báo: “Ngòi bút các bạn
cũng là những vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp phò chính trừ tà”(2), "cán bộ báo
chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút,
trang giấy là vũ khí sắc bén của họ"(3).
Nhà báo viết “phải đúng sự thật” “không
được bịa ra”(4) “chưa điều tra, chưa nghiên
cứu, chưa biết rõ, chớ nói chớ viết”(5) và
coi đó là một trong những tiêu chuẩn đạo
đức số một của người làm báo. Người cũng
chỉ rõ “…tất cả những người làm báo là
người viết, người in, người sửa bài, người
phát hành.v.v…”(6) nên một tòa báo từ
người sáng tạo ra tác phẩm báo chí đến chủ
nhiệm, chủ bút phải có trách nhiệm nói lên
tiếng nói chính nghĩa, phục vụ nhân dân.
Người từng phê bình các tòa báo là
"thường nói một chiều và đôi khi thổi
phồng các thành tích, mà ít hoặc không nói
đúng mức đến khó khăn và khuyết điểm",
tránh né những tiêu cực trong xã hội. Tin
tức thì có báo đưa “hấp tấp, nhiều khi thiếu
thận trọng”, “thiếu cân đối”(7), chỗ đáng khen
thì không khen, chỗ đáng chê lại đi khen.
Bảo vệ chính nghĩa, phục vụ nhân dân
cũng chính là đảm bảo tính chiến đấu của
báo chí, qua đó khẳng định “thương hiệu”
của tờ báo, danh dự, uy tín của nhà báo.
Người chỉ rõ, đối với bản thân báo chí, bản
thân người làm báo phải có tính chiến đấu
mới làm báo tốt được. Viết một bài báo mà
loại được những yếu tố cá nhân cũng là
một cuộc đấu tranh.
Như vậy, đội ngũ nhà báo, các báo trong
bất kỳ hoàn cảnh nào đều phải thực sự
khách quan, không chỉ trong việc phản ánh
thông tin mà ngay cả trong việc tiếp nhận
và xử lý thông tin đó. Đối với cái xấu, sự
dối trá, với kẻ thù, báo chí phải vận dụng
sức mạnh liên kết và năng lực can thiệp xã
hội của mình để "động viên quần chúng
đoàn kết đấu tranh", để "đánh thắng địch
về tuyên truyền, cũng như bộ đội đánh
thắng địch về mặt quân sự"(8). Cả cuộc đời
hoạt động báo chí của Người là sự khẳng
định về mục tiêu bảo vệ chính nghĩa của
báo chí là không giới hạn phạm vi, từ
những sự thật, lẽ phải trong đời sống
thường nhật, đến những công việc cần liên
kết tạo tiếng nói của cả dân tộc, mở rộng
ra là tiếng nói của các dân tộc trước công
lý, đạo đức và mục tiêu chung.
Thứ hai, tự do báo chí là nhu cầu tinh
thần quan trọng của mỗi quốc gia, dân tộc,
là đòi hỏi cơ bản của quyền con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình bằng tiếng
nói đấu tranh của báo chí. Thực tiễn đó
giúp Người nhận thức rõ, tự do báo chí là
một nhu cầu quan trọng trong tiến trình tồn
tại và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc;
là quyền được thông tin, trao đổi, giao tiếp,
thể hiện ý chí và nguyện vọng một cách
công khai thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng của mỗi con người.
Người nhận thấy rằng hoạt động báo chí
còn xuất phát từ nhu cầu phát triển nội tại
của một chế độ chính trị - xã hội, các giai
cấp, giai tầng xã hội sử dụng báo chí
chuyển tải ý chí và nguyện vọng của mình
trước những vấn đề mà cả xã hội quan tâm.
Thực tế cho thấy, trong giai đoạn đầu
của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản mới
ra đời chống lại giai cấp phong kiến, báo
chí tuyên truyền cho tư tưởng dân chủ tư
sản, pháp luật tư sản, có tác dụng tích cực,
cổ vũ việc xây dựng xã hội dân chủ tư sản.
Tuy nhiên, khi giai cấp tư sản đã thiết lập
được quyền thống trị đối với xã hội, báo
chí lại là công cụ đắc lực phục vụ quyền lợi
cho một thiểu số bóc lột. Để bảo vệ sự
thống trị của mình, giai cấp tư sản đã xếp
các loại báo bảo vệ chế độ tư bản là báo chí
21
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
"tiến bộ"; các tờ báo nói lên tiếng nói phản
kháng của số đông nhân dân thì bị liệt vào
loại “phản động”. Các tờ báo của người
dân lao động, của giai cấp công nhân đấu
tranh cho một xã hội không có người bóc
lột người, cũng đều bị coi là phản động!
Người đã nêu lên một tình trạng khó mà tin
được: “Giữa thế kỷ XX này ở một nước có
đến 20 triệu dân mà không có lấy một tờ
báo…Không có lấy một tờ báo bằng tiếng
mẹ”(9) bởi sự cấm đoán của chủ nghĩa thực
dân. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê
phán kịch liệt tình trạng mất tự do báo chí
và kiên quyết đấu tranh để báo chí trở
thành một bộ phận hữu cơ, một mặt trận,
là vũ khí lợi hại trong cuộc đấu tranh giành
chính quyền và xây dựng cuộc sống mới
của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao
động, của giai cấp công nhân. Từ quyền tự
do rộng khắp, báo chí sẽ có đối tượng phục
vụ chính là giai cấp công nhân, nhân dân
lao động - người không chỉ tiếp nhận các
thông tin do báo chí đem lại mà còn trực
tiếp tham gia sáng tạo nên các tác phẩm
báo chí, làm cho báo chí thực sự trở thành
diễn đàn để nhân dân bày tỏ nguyện vọng,
tâm tư của mình.
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
tự do báo chí không phải là tự do tùy tiện,
vô hạn độ, mà báo chí được quyền tự do
trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp
luật. Ngày 14/12/1956, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh số 282/SL quy định chế
độ báo chí, một mặt khẳng định đảm bảo
quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; mặt
khác, quy định báo chí phải tuân thủ pháp
luật để đảm bảo quyền tự do ngôn luận
được sử dụng một cách đúng đắn. Nhà
nước đã thừa nhận các quyền tự do dân chủ
cho mọi công dân theo Hiến pháp nhưng
không cho phép lợi dụng các quyền đó để
xâm phạm lợi ích của Nhà nước và nhân
dân. Tự do báo chí gắn với pháp luật, với
trách nhiệm và nghĩa vụ của các công dân
trong xã hội. Thực tiễn cho thấy, ở nước ta,
tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được
Nhà nước tôn trọng và bảo vệ trên cơ sở
từng người dân, từng nhà báo thực hiện
đúng pháp luật, nêu cao trách nhiệm xã hội
và nghĩa vụ công dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bất kỳ ai cố tình
lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí đi
ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc đều bị
xử lý nghiêm minh.
Thứ ba, sức mạnh của báo chí là ở tính
định hướng và khả năng dự báo.
Báo chí là vũ khí đấu tranh trên mật trận
chính trị tư tưởng và có tác động nhiều mặt
tới đời sống xã hội. Bên cạnh việc đáp ứng
quyền được thông tin của người dân, báo
chí phải giữ vai trò tiên phong trong việc
định hướng, truyền bá những tư tưởng và
tri thức tiến bộ. Theo Chủ tịch Hồ Chí
22
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Minh, để đảm bảo tính định hướng, các sản
phẩm báo chí phải được ra đời, xuất bản
đúng thời điểm và có hình thức phù hợp.
Lênin đã chỉ ra rằng: “tờ báo không phải
chỉ là người tuyên truyền tập thể và cổ vũ
tập thể, mà lại còn là người tổ chức tập
thể”(10). Do đó, mỗi tờ báo do Người sáng
lập ra đều đảm bảo “nhiệm vụ là tuyên
truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ
chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục
đích chung”(11). Mỗi bài báo do Người
viết ra đều có ích cho tổ chức, cho đời
sống, cho phong trào cách mạng. Nguyễn
Ái Quốc thành lập tờ báo Người cùng khổ
vào thời điểm phải thức tỉnh phong trào
đấu tranh chống chế độ thực dân ở các xứ
thuộc địa. Người đã viết 38 bài, bao gồm
cả những truyện ngắn, tiểu phẩm báo chí
bằng bút pháp độc đáo, có sức thuyết phục,
hấp dẫn, thâm thúy, trào lộng sâu cay, phê
phán gay gắt bộ mặt giả dối, tàn ác của bọn
người tự xưng là đi khai hóa, điển hình là
những tên đầu sỏ như Méclanh, Anbe
Xaro, Varen... Người sáng lập tờ Thanh
niên, với mục đích định hướng nhận thức
của lớp thanh niên ưu tú trước những trào
lưu cải cách, cải lương trong nửa đầu thế
kỷ XX, góp phần đưa phong trào cách
mạng sang một giai đoạn phát triển mới. 88
số báo đầu tiên đều do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp biên tập, viết bài và vẽ nhiều
tranh minh họa phù hợp với tâm lý thanh
niên. Năm 1941, sau thời gian hoạt động ở
nước ngoài. Người về nước trực tiếp lãnh
đạo phong trào cách mạng Việt Nam.
Trong thời gian này Người lập ra tờ Việt
Nam độc lập nhằm định hướng phong trào
cách mạng chuẩn bị cho cao trào đấu tranh
thời kỳ Cách mạng tháng Tám với những
bài viết giản dị, dễ đi sâu vào lòng người
đọc. Báo Việt Nam độc lập là mẫu hình của
tờ báo phát triển từ phong trào cơ sở. Điều
vĩ đại là trong con người Chủ tịch Hồ Chí
Minh như có nhiều nhà báo khác nhau, ở
nhiều nơi khác nhau để viết được các đề tài
quốc tế để phản ánh sinh động những vấn
đề chính trị, văn hóa, đời sống xã hội của
dân tộc trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc,
xây dựng chủ nghĩa xã hội; cổ vũ kịp thời
cái tốt cái mới, phê phán quyết liệt cái hạn
chế, tiêu cực.
Cơ sở của tính định hướng cao trong
những bài báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là ở các luận điểm khoa học chứa đựng
những dự báo, tiên đoán về nhiều vấn đề,
sự kiện quan trọng của thời đại. Đây là một
chức năng đặc thù của văn học nghệ thuật,
nhưng trước hết đó là sản phẩm sáng tạo
của một trí tuệ lớn trên nền tảng của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử nên càng có phẩm chất dự liệu
đặc biệt. Chính bởi yếu tố này mà phần lớn
các tác phẩm báo chí của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đến nay vẫn có sức sống, tác động tới
23
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
hiện tại, là suối nguồn chưa bao giờ cạn
cho các nhà nghiên cứu về chính trị, xã hội,
lịch sử, triết học, văn học. Do vậy, Người
luôn yêu cầu các nhà báo phải không
ngừng học tập, nâng cao trình độ mọi mặt,
đặc biệt là trình độ chính trị, đồng thời phải
hòa mình vào đời sống của quần chúng
nhân dân để viết cho đúng với tâm tư, nhu
cầu và nguyện vọng của họ.
Thứ tư, báo chí phải có đặc điểm và sắc
thái của riêng mình.
Sự hấp dẫn của báo chí là bởi sự đa dạng
trong loại hình, nội dung, tôn chỉ, mục đích
và hình thức thể hiện. Nếu nhiều tờ báo
cùng sử dụng một tin tức, trùng lặp về hình
ảnh, không có phản ánh mang tính cá nhân
của người viết sẽ gây nhàm chán, không
thu hút được người đọc. Sau Cách mạng
tháng Tám, với việc hàng trăm tờ báo của
nhà nước, đoàn thể được phép xuất bản,
Người đã yêu cầu báo chí phải có đặc điểm
riêng, báo cho đối tượng nào phải phù hợp
với đối tượng đó từ nội dung đến hình thức.
Người nêu rõ: “Mục đích chung của chúng
ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội đấu tranh
thực hiện thống nhất nước nhà, giữ gìn hòa
bình thế giới. Nhưng mỗi tờ báo như báo
của nông dân, báo của công nhân, báo của
thanh niên, báo phụ nữ .v.v… nên có đặc
điểm của nó, về hình thức thì không rập
khuôn; rập khuôn thì báo nào cũng khô
khan, làm cho người xem dễ chán”(12).
Bên cạnh đó, đặc điểm, sắc thái riêng
của báo chí còn thể hiện trong nghệ thuật
sử dụng ngôn từ. Trong Thư gửi báo Quân
du kích, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các
nhà báo: "Viết sao cho giản đơn, dễ hiểu,
thiết thực. Sao cho mỗi đồng bào, mỗi
chiến sĩ đều đọc được, hiểu được, nhớ
được, làm được"(13). Theo Người, viết cho
đơn giản, dễ hiểu nghĩa là đòi hỏi ngôn ngữ
báo chí phải thích ứng với mọi tầng lớp
công chúng, phải ngắn gọn, súc tích, không
viết "tràng giang đại hải", "dây cà ra dây
muống", không làm loãng thông tin, ảnh
hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người
đọc, người nghe. Không viết kiểu "cầu kỳ".
Nhà báo viết khó hiểu có thể do dùng từ
ngữ cao xa, đối tượng đọc không hiểu,
cũng có thể do không gần dân, không nói
đúng suy nghĩ và yêu cầu của dân. Như thế
thì mục đích tuyên truyền không đạt cần
sửa lại.
Yếu tố thiết thực trong báo chí đòi hỏi
ngôn ngữ báo chí phải mang tính thông tin,
thời sự, nhà báo phải tường thuật, miêu tả
cặn kẽ tới từng chi tiết nhỏ của hiện thực
giúp người đọc, người nghe có cảm giác
mình là người trong cuộc, đang trực tiếp
chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong
tác phẩm của mình. Cuối cùng để nhớ được
và thực hiện những hành động mà người
viết mong muốn (làm được) thì ngôn ngữ
báo chí cần mang tính biểu cảm với việc sử
24
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
dụng các từ ngữ, lối nói mới lạ, giàu hình
ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, sinh động hấp
dẫn hoặc gây được ấn tượng đối với độc
giả. Tính biểu cảm là hiện thân của cái hay,
cái hấp dẫn và chính là nhân tố tác động
mạnh mẽ tới tâm hồn của người nghe,
người đọc làm cho họ đạt tới một trạng thái
tâm lý, cảm xúc nhất định, để từ đó có
những hành động mà bài báo muốn hướng
tới. Sự phong phú của những sắc điệu ngôn
ngữ cũng chính là một trong những yếu tố
quan trọng góp phần tạo nên phong cách
báo chí đặc sắc Hồ Chí Minh.
Thứ năm, người làm báo phải có ý thức
trách nhiệm trong việc nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, tôn trọng, lắng
nghe ý kiến của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tự học viết báo
từ lúc còn bôn ba, lao động kiếm sống để
hoạt động cách mạng ở Pari (1917-1923).
Ban đầu, Người viết và gửi đăng những tin
ngắn, rất ngắn. Nếu được báo đăng, bao giờ
Người cũng đem so lại với bản lưu, xem
tòa báo sửa chữa ra sao, vì sao lại chữa.
Dần dần, Người viết dài thêm, thành tin
sâu, thành bài viết ngắn rồi lại viết lại lần
nữa để cũng những sự việc như vậy nhưng
được viết rõ, gọn hơn. Người tổng kết:
“Muốn tiến bộ, muốn viết hay thì phải cố
gắng học hỏi, ra công rèn luyện”(14); "Một
người phải biết học nhiều người. Hơn nữa,
cần phải làm cho món ăn tinh thần được
phong phú, không nên bắt mọi người chỉ
được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn
hoa, cần cho mọi người; được thấy nhiều
loại hoa đẹp"(15). Người luôn căn dặn các
nhà báo phải có trách nhiệm đối với người
đọc khi viết bài, phải học cách nói của nhân
dân, phải trau dồi kiến thức, chịu khó học
hỏi, khiêm tốn, tự phê bình và thành khẩn
đón nhận sự phê bình của nhân dân để khi
viết ra, người dân dễ dàng tiếp nhận. Đặc
biệt, kể cả đối với những tác phẩm, bài viết
đã được công chúng đón nhận, người làm
báo vẫn phải tiếp tục lắng nghe quần
chúng. Người nhắc nhở: “Ngành nào cũng
phải làm công tác tuyên truyền, giới thiệu.
Và các chú nhớ ở trang đầu mỗi cuốn sách
đều phải ghi một câu “Hoan nghênh bạn
đọc phê bình”. Từ nay trở đi, trên sách hay
trên báo, các chú nên luôn luôn có câu đó.
Bác biết các chú văn hay chữ tốt, nhưng dù
sao, nhân dân trăm tay nghìn mắt vẫn có
nhiều ý kiến thông minh có thể giúp cho
các chú tiến bộ hơn. Không riêng gì viết
sách báo, mà công tác gì muốn làm tốt đều
phải coi trọng ý kiến của nhân dân”(16).
Đó chính là sự tôn trọng đối với nhân dân
và nâng cao tinh thần trách nhiệm trong
từng câu, từng chữ viết trước nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất các
quan điểm sâu sắc và toàn diện về hoạt
động báo chí. Thực hiện lời dạy của Người,
hơn 80 năm qua nền báo chí cách mạng
25
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Việt Nam đã góp phần quan trọng trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm gần đây, báo chí nước ta
tiếp tục phát triển mạnh mẽ và toàn diện,
đóng góp thiết thực vào công cuộc đổi mới
đất nước. Tuy nhiên, trong hoạt động báo
chí cũng còn những yếu kém, khuyết điểm,
biểu hiện ở việc: một số cơ quan báo chỉ
còn coi nhẹ chức năng chính trị, xa rời tôn
chỉ, mục đích; bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
thương mại, chạy theo thị hiếu tầm thường.
Một số tờ báo đăng những thông tin sai sự
thật, khai thác và sử dụng thông tin thiếu
chọn lọc trái với quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
truyền thống văn hóa của dân tộc... tác
động xấu tới hoạt động sản xuất, kinh
doanh, ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của
quốc gia dân tộc, làm giảm lòng tin của
nhân dân vào sự nghiệp đổi mới, tạo kẽ hở
để các thế lực thù địch lợi dụng bôi nhọ, đả
kích, chống phá, làm xấu hình ảnh đất
nước. Một số báo, tạp chí, đài phát thanh,
truyền hình ở trung ương và địa phương
chậm đổi mới, nội dung và hình thức chưa
đủ hấp dẫn, chưa thuyết phục, chất lượng
và hiệu quả tuyên truyền, giáo dục chưa
cao, chưa làm tốt vai trò định hướng thông
tin và dư luận xã hội.
Vì vậy, việc tìm hiểu sự nghiệp báo chí
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nắm vững quan
điểm sâu sắc của Người về báo chí là một
yêu cầu cấp thiết giúp người làm báo vững
tâm hơn với nghề, không ngừng học tập,
rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề
nghiệp, nâng cao trình độ, kỹ năng làm báo
để xứng đáng là chiến sĩ xung kích trên mặt
trận tư tưởng - văn hóa của Đảng; thực hiện
tốt trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân;
đóng góp hiệu quả vào công cuộc đổi mới
và phát triển đất nướcr
………………
Ghi chú:
(1), (2), (11), (13) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb
CTQG, H.2000, tr. 1094; tr.368; tr.625; tr.655.
(3), (7), (14) sđd, tập 10, Nxb CTQG, H.2000,
tr.616; tr.614; tr.615.
(4), (15), (16) sđd, tập 12, Nxb CTQG, H.2000,
tr.568; tr.559; tr.562.
(5) sđd, tập 15, Nxb CTQG, H.2000, tr.543.
(6), (12) sđd, tập 9, Nxb CTQG, H.2000, tr.422;
tr.414.
(8) sđd, tập 7, Nxb CTQG, H.2000, tr.284.
(9) sđd, tập 1, Nxb CTQG, H.2000, tr.404.
(10) V.I.Lênin, toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, M.1980,
tr.210.
Nguồn: Tạp chí Tổ chức Nhà nước.-
2014.- Số 6.- Tr. 25 – 28, 32.
26
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
HỌC TẬP KINH NGHIỆM CỦA HỒ CHÍ MINHTRONG VIỆC VIẾT TIỂU PHẨM BÁO CHÍ
?NGUYỄN THỊ THÚY MAI
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
27
Xích Điểu, một nhà báo viết tiểu phẩm
báo chí được đông đảo bạn đọc biết đến,
cho rằng: “tiểu phẩm báo chí là thể loại vừa
cho phép phát triển tính chất điển hình của
văn học, vừa mang tính chất chân thật,
khoa học và kịp thời của báo chí, tiểu phẩm
vốn mang một tính chiến đấu cao, có khả
năng vạch bản chất tàn bạo của kẻ thù một
cách trực tiếp sâu cay và châm biếm khiến
cho người đọc vừa căm thù vừa khinh ghét
cười vào mũi chúng”(1)
Với lối viết giàu chất văn trên nền của
sự kiện và thông tin mang tính thời sự của
báo chí, tiểu phẩm đóng góp một phần
không nhỏ trong công cuộc đấu tranh cách
mạng và gìn giữ hòa bình ngày nay. Trong
giai đoạn đấu tranh cách mạng, tiểu phẩm
là một thứ vũ khí hữu hiệu để đấu tranh,
vạch mặt kẻ thù. Ngày nay, xã hội đang
trong thời kỳ đổi mới, tiểu phẩm giữ một
vị trí quan trọng trong việc giáo dục công
chúng, lên án, tẩy rửa những thói hư tật
xấu, vạch trần bộ mặt của những kẻ quan
liêu, tham nhũng để làm lành mạnh hóa xã
hội.
Ở Việt Nam, đã có nhiều cây bút thành
danh và gắn tên tuổi của mình với thể loại
này như Ngô Tất Tố, Tản Đà, Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng... trong đó không thể
không nhắc đến Hồ Chí Minh, một bậc
thầy về thể loại tiểu phẩm.
Tiểu phẩm Hồ Chí Minh rất phong phú
và đặc sắc. Nó phản ánh nhiều chiều, nhiều
khía cạnh về bản chất xấu xa, vô nhân đạo
của kẻ thù-những kẻ dưới vỏ bọc là “nước
mẹ” đi “khai hóa văn minh” cho các nước
khác, được thể hiện thông qua mối quan hệ
nhân dân ta và kẻ thù, các quan hệ giữa nội
bộ chúng, giữa chúng với nhân dân lao
động thế giới và phe xã hội chủ nghĩa...
Trong những mối quan hệ đó, tiểu phẩm
Hồ Chí Minh lại đề cập nhiều mặt như kinh
tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội... để
từ đó lên án bản chất phản động của kẻ thù,
cổ vũ, động viên nhân dân ta trong công
cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho tổ
quốc. Bên cạnh việc vạch trần bản chất xấu
xa của kẻ thù, Người cũng không quên phê
phán, nhắc nhở những mặt còn yếu kém,
những khuyết điểm còn tồn tại trong nội bộ
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
28
cán bộ và nhân dân. Đó là sự thiếu lòng tin
của một số cá nhân đối với công cuộc giải
phóng đất nước, là sự lãng phí trong điều
kiện nước ta còn nghèo nàn. Song trong
các tác phẩm này, cũng là những tiếng cười
châm biếm nhưng sự phê bình của Người
lại nhẹ nhàng, bao dung, mang tính xây
dựng, khuyến khích sửa chữa, khắc phục.
Cái tài của người làm báo là phải biết
nêu và giải quyết những vấn đề thời đại
mình. Nên có thể nói cái tài của Bác cũng
chính là điều đó. Tiểu phẩm của Người hay,
dễ đi vào lòng người, có sức thuyết phục
cao cũng bởi Bác biết nêu những vấn đề
phù hợp với thời đại, phù hợp với trình độ
và nắm trúng nhu cầu tâm lý người đọc.
Bác làm báo để làm tuyên truyền, tuyên
truyền trên mặt trận “không đánh mà
thắng” nên những mảng đề tài Người chọn
luôn mang tính thời sự nóng bỏng, phù hợp
với thời đại. Tiểu phẩm của Người phong
phú và độc đáo về phong cách thể hiện
cũng như nghệ thuật ngôn từ, đã tạo nên
một nét rất riêng biệt trong phong cách tiểu
phẩm Hồ Chí Minh.
Ngày nay xã hội đã có nhiều đổi thay,
song mỗi lần đọc lại tiểu phẩm của Người,
mỗi chúng ta - những người cầm bút chiến
đấu trên mặt trận văn hoá-tư tưởng vẫn
cảm nhận thấm thía những bài học tư
tưởng-nghệ thuật toát ra từ các trang viết
của Người. Quán triệt những bài học từ
việc viết tiểu phẩm của Hồ Chí Minh đối
với các nhà báo hôm nay, thiết nghĩ là một
công việc bổ ích và thiết thực. Với ý nghĩ
đó, bài viết này bước đầu xin khái quát hoá
một số bài học kinh nghiệm rút ra từ việc
viết tiểu phẩm của Bác như sau:
1. Kiên định lập trường tư tưởng và
bản lĩnh chính trị
Bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng
là một yếu tố quan trọng chi phối toàn bộ
hoạt động nghề nghiệp của nhà báo. Một
nhà báo cần phải có lập trường tư tưởng
vững vàng, ý chí kiên định, bởi nhà báo
chính là chiến sĩ tiên phong trên mặt trận
báo chí. Trong tác phẩm báo chí của mình,
nhà báo bày tỏ quan điểm, thái độ với các
sự kiện xảy ra; đấu tranh với các quan điểm
sai trái và các tư tưởng thù địch; lên án, phê
phán các hiện tượng tiêu cực, thói hư tật
xấu; bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp
của nhân dân. Vì thế Hồ Chí Minh luôn
quan tâm, nhấn mạnh đến nhận thức chính
trị của nhà báo, Bác cho rằng: Chính trị
phải làm chủ, chính trị đúng thì việc khác
mới đúng.
Thực vậy, trong các tiểu phẩm báo chí
của Hồ Chí Minh, Người đọc có thể nhận
ra ngay con người Hồ Chí Minh - một bản
lĩnh chính trị vững vàng trên từng trang
viết. Với mục đích viết để phục vụ nhân
dân, phục vụ chủ nghĩa xã hội, Bác tập
trung vào đề tài chống thực dân, phong
kiến: “Về nội dung viết, mà các cô các chú
gọi là đề tài thì tất cả những bài Bác viết
chỉ có một đề tài là chống thực dân, đế
quốc, chống phong kiến, địa chủ, tuyên
truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Duyên nợ của Bác đối với báo chí là như
vậy đó”(2).
Xác định rõ hướng đi của người cầm
bút, luôn đứng về lẽ phải, đứng về phía
người dân, bảo vệ công lý, ngòi bút của Hồ
Chí Minh không bao giờ nao núng trước kẻ
thù, ngược lại nó còn trở nên đanh thép, và
sắc bén hơn khi lên án, tố cáo những tội ác
của chúng. Với những dẫn chứng rõ ràng,
logic, kẻ thù không thể chối cãi được, bộ
mặt giả dối, đạo đức giả của thực dân và đế
quốc bị vạch trần, bóc mẽ trước nhân dân
ta và thế giới: Chúng luôn miệng nói trước
thế giới là hòa bình, tự do và chính nghĩa,
chúng thành lập các đội “hòa bình” để giúp
các nước đạt được tự do và tiến bộ nhưng
thực tế thì đó chính là những đội “họa
binh”; chúng đi do thám các nước để tiến
quân xâm lược, rồi can thiệp vào nội bộ các
nước, kích động chiến tranh, chia rẽ dân
tộc và tình hữu nghị giữa các quốc gia. Còn
tự do của chúng là “... tự do tham ô, tự do
hủ hóa, tự do làm đĩ, tự do giết người, cướp
của...” (Tiểu phẩm Tự do kiểu Mỹ). Người
chỉ cho nhân dân biết những hành động
hủy hoại loài người của kẻ thù: “Hôm 30-
1, chúng rót 3 vạn 6 nghìn lít bom dầu
xuống vùng Vu-ôn ở Triều Tiên....” khiến
cho vùng này “giống một vùng sa mạc” rồi
“Ngoài bom đạn, chúng còn dùng thuốc
độc”, chúng tiêm thuốc độc vào tù binh
Trung Quốc để làm thí nghiệm, “khi rút lui
khỏi vùng nào chúng tiêm bệnh đậu mùa
vào nhân dân vùng ấy”, “máy bay Mỹ từ
Tây Đức sang rải côn trùng sâu bọ xuống
đồng ruộng Tiệp Khắc”, .... (Tiểu phẩm
Quỷ sứ Mỹ)
Ngay cả tổng thống Mỹ cũng bị Người
trực tiếp vạch trần, bóc mẽ, thông qua một
loạt tiểu phẩm dưới dạng viết thư gửi đích
thân cho chính tổng thống hay phó tổng
thống: Gửi Mr. Nixon, phó Tổng thống Mỹ;
Thư gửi tổng thống; Thư không dán; Thư
không dán gửi Tổng thống Mỹ; Thư gửi
ông Ke-nơ-đi, Tổng thống mới của Mỹ...
Tổng thống Mỹ nói: “Mỹ là nước dân chủ
tự do, và không hề can thiệp vào nội bộ
chính trị nước khác...” nhưng “mỗi năm
Mỹ chỉ tiêu hàng trăm triệu đô la để thả
bom đặc vụ vào các nước ngoài, giúp hơn
hai nghìn triệu đô la vũ trang cho các nước
thân Mỹ để chuẩn bị chiến tranh. Mỹ đặt
250 căn cứ quân sự ở các nước. Đó không
phải can thiệp là gì?”.
Bản lĩnh chính trị vững vàng của nhà
báo cách mạng Hồ Chí Minh rõ ràng ở chỗ:
ngòi bút ấy rất công tâm khi phân biệt đối
tượng kẻ thù. Kẻ thù ở đây là chính quyền
thực dân và đế quốc, còn những người dân
29
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
vô tội trên đất nước bản địa thì Người luôn
đồng cảm, bảo vệ và đứng về phía họ. Bên
cạnh việc lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù,
Người đồng cảm sâu sắc với những người
dân trên chính đất kẻ thù, những người phải
ăn đói, mặc rét, sống lay lắt trên đường phố
hay trong những khu nhà ổ chuột. Đối với
nội bộ nhân dân, Người tích cực phê bình
những thói xấu nhưng sự phê bình của Người
lại nhẹ nhàng, bao dung, mang tính xây dựng,
khuyến khích sửa chữa, khắc phục.
Có thể nói, đọc tiểu phẩm của Người,
ta nhận thấy Hồ Chí Minh không những
luôn vững vàng trước những bom đạn, đòn
roi của kẻ thù mà còn sẵn sàng xông pha,
chiến đấu, chĩa ngòi bút vào phía quân thù
để lên án, vạch trần những xấu xa của
chúng. Đó là tinh thần “thép” xuyên suốt
trong các tiểu phẩm của Người. Tiểu phẩm
của Người tiếp thêm nhiệt huyết, tiếp thêm
sức chiến đấu cho những ngòi bút hôm nay
trước thời cuộc đổi mới của đất nước. Sự
đổi mới ấy đòi hỏi bản lĩnh chính trị của
nhà báo là phải luôn đặt lợi ích của giai
cấp, của dân tộc lên hàng đầu, tuy nhiên
cần phải thể hiện chúng một cách linh hoạt,
mềm dẻo. Báo chí phải là công cụ tư tưởng,
công cụ thông tin góp phần củng cố hệ
thống chính trị, nâng cao vị thế dân tộc trên
trường quốc tế, phát hiện, đấu tranh với cái
xấu, cái ác, những hiện tượng tham ô, lãng
phí, tiêu cực; biểu dương, cổ vũ, động viên
những điển hình tiên tiến, cái tốt, cái đẹp
trong đời sống xã hội, đề đạt những tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân với Đảng; đồng
thời, báo chí là diễn đàn, tập hợp ý kiến của
mọi tầng lớp nhân dân. Muốn vậy nhà báo
cần phải học tập trau dồi để có bản lĩnh
chính trị vững vàng, một ngòi bút tinh
thông trong mọi tình huống, diễn biến của
thời đại.
2. Cách viết đại chúng, dễ hiểu
Một đặc trưng nổi bật trong phong cách
báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là
sự phù hợp với trình độ nhận thức và cách
suy nghĩ của từng đối tượng người đọc,
người nghe. Nhờ đó, bài nói, bài viết của
Người luôn đạt được sự thấm thía và có sức
thuyết phục mạnh mẽ.
Trong cuộc đời hoạt động của mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi báo chí là
công cụ đắc lực không thể thiếu để tuyên
truyền, giác ngộ ý thức cách mạng, củng cố
và nâng cao nhận thức xã hội trong cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân. Đối với
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nói và viết không
phải đơn thuần chỉ là một hành động thông
tin mà chủ yếu là một quá trình tác động
lên người nghe, người đọc, nhằm thuyết
phục họ, cảm hóa họ, làm họ thay đổi nhận
thức, thay đổi quan niệm, tình cảm thẩm
mỹ và hành vi, hướng họ vào các hoạt động
thực tiễn phù hợp xu hướng tiến bộ của xã
hội, của thời đại. Như vậy, mục đích nói và
30
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
viết trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh không dừng lại ở chỗ làm cho người
nghe, người đọc hiểu về điều được nói,
được viết, mà cái cốt yếu là tác động lên
người nghe, người đọc, làm họ thay đổi
nhận thức, ý nghĩ, tình cảm, trên cơ sở đó,
làm thay đổi hành vi của họ, hướng họ vào
hành động theo nhận thức mới. Vì vậy,
Người luôn tìm cách nói, cách viết sao cho
đơn giản, dễ hiểu nhất.
Để quần chúng nắm bắt được, hiểu
được, Bác Hồ rất hay vận dụng ngôn ngữ
và cách nói của quần chúng. Theo Bác,
muốn tuyên truyền quần chúng, phải học
cách nói của quần chúng, mới lọt tai quần
chúng. Nên những lời ăn tiếng nói, thành
ngữ, tục ngữ ca dao… được Người ưa dùng
trong các bài nói, bài viết đặc biệt trong các
tiểu phẩm của mình.
Đọc tiểu phẩm Hồ Chí Minh, người đọc
cảm giác như đã gặp đâu đó những lời ăn
tiếng nói của chính mình trong cuộc sống
đời thường. Những thành ngữ, tục ngữ, ca
dao, hay những thói quen lẩy Kiều... của
quần chúng thường ngày được Người sử
dụng rất linh hoạt trong tiểu phẩm, khiến
chúng vừa gần gũi, dễ hiểu lại tạo được
những giá trị thẩm mỹ riêng, có sức lay
động trực tiếp và mạnh mẽ đến người đọc.
Ví dụ các từ như: cút, nặn, láo, tát, vố, nòi,
tợn, lừa, uỵch, to, vu, mồm, cừ, bịp, tỏng,
cóc (sợ), rặt, bợm, xỏ lá, cũ rích, rùm beng,
lu bù, hục hặc, cắn cấu, hôi thối, lừa bịp,
rêu rao, bà con… ; các cụm từ như: khua
mồm, luôn mồm, la hét om sòm, thốt ra, láo
toét, chối đây đẩy, thét vào mặt, luôn mồm
chửi rủa, cuốn gói chuồn, chết nhăn răng,
nhăn răng cười, trò hề trơ trẽn, chuyện gì
hay hay, bà con nghe đây… Bác viết: “Thế
là Tátxinhi bị bạn nó tát vào mồm” (tiểu
phẩm Tátxinhi bị tát ), hay tiểu phẩm Đại
bợm Giôn xơn miệng nói hòa bình tay vung
binh hỏa: “Tổng Giôn nói: “Mỹ không
muốn gì hơn là trở lại Hiệp định Giơnevơ
năm 1954”. Y ba hoa vậy thôi. Thực tế thì
Mỹ đã trắng trợn phá hoại hiệp định đó...
Thật là một trò xỏ lá bỉ ổi”. Các từ “nó”,
“tát”, “mồm” “ba hoa”, “trắng trợn”, “xỏ
lá”, “bỉ ổi” là những từ xuất hiện trong lời
ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng,
những từ ngữ này được Hồ Chí Minh sử
dụng rất nhiều trong các tiểu phẩm đúng
lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng có tác dụng
nêu rõ bản chất sự việc, có tác động trực
tiếp và mạnh mẽ đến người đọc.
Trong nhiều trường hợp, Người mạnh
dạn dùng những từ địa phương, từ thông
tục. Trong tiểu phẩm của Người, các từ
rảnh (nhàn rỗi), rặt (toàn là), đập (đánh),
choa (chúng tôi), trụt (tụt), mồm (miệng),
mi (mày), bầy tui (chúng tôi), đít, liếm…
xuất hiện hết sức tự nhiên, có vị trí và sức
sống mới trong câu văn:
“Dân Nghệ nhà choa
31
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Mỗi năm ăn quà
Hết chín ngàn bảy (9.750) tấn gang”
(Tiểu phẩm Làm thế nào cho lạc thêm
vui)
Ngoài việc sử dụng khẩu ngữ, trong các
tiểu phẩm Người còn sử dụng rộng rãi các
thành ngữ, tục ngữ phù hợp với nội dung
và hoàn cảnh nói năng. Có đến hàng trăm
thành ngữ, tục ngữ được sử dụng một cách
sinh động và sáng tạo. Có trường hợp
Người dùng nguyên vẹn các thành ngữ, tục
ngữ như: giả câm giả điếc, giấu đầu hở
đuôi, vỏ quýt dày có móng tay nhọn, lửa
thử vàng gian nan thử sức, treo đầu dê bán
thịt chó, nói thật mất lòng, nói toạc móng
heo, vơ đũa cả nắm, chớ để nước đến chân
mới nhảy, cõng rắn cắn gà nhà, rước voi
dày mả tổ, mồm loa mép giải… Tuy giữ
nguyên cách diễn đạt của dân gian nhưng
Hồ Chí Minh dùng chính xác cho từng đối
tượng, vấn đề, tạo được những ngữ cảnh
phù hợp có hàm ý sâu xa làm cho các thành
ngữ, tục ngữ có sự cộng hưởng về ngữ
nghĩa. Chẳng hạn, để làm nổi bật bản chất
ngoan cố của đế quốc Mỹ, Người viết: “Đế
quốc Mỹ lại bị mấy cái tát nữa. Trong mười
năm nay chúng bị nhiều vố đau. Nhưng
chết mà nết không chừa, chúng không chịu
rút kinh nghiệm” (tiểu phẩm Đốp!Đốp!).
Cũng có nhiều trường hợp Người cải biến
hình thức diễn đạt dân gian hết sức độc
đáo, thể hiện một sự sáng tạo mà chỉ có
Người mới làm được. Trong cách dùng của
Người, một số thành ngữ, tục ngữ được
thay thế một vài yếu tố nào đó trong cấu
trúc. Chẳng hạn, thành ngữ “nhát như cáy”
là sự sợ sệt quá mức, rất nhát. Sử dụng lối
nói so sánh dân gian nhưng Người thay yếu
tố “nhát” bằng cụm từ “to gan” trong tiểu
phẩm Đế quốc Mỹ rúc xuống hầm: “Các
ngài quân nhân Mỹ “to” gan như cáy,
chưa tối đã rúc xuống hầm”. Với việc chỉ
thay thế một yếu tố của thành ngữ, qua
cách xử lí của Người, nghĩa gốc của thành
ngữ không những vẫn giữ nguyên mà còn
được chồng lên một tầng nghĩa mới, gia
tăng sắc thái biểu cảm, có thêm hàm ý
châm biếm, mỉa mai.
Ngoài ra hình thức lẩy Kiểu trong các
tiểu phẩm của Người cũng rất linh hoạt độc
đáo. Nếu như trong cuộc sống hàng ngày,
quần chúng lẩy Kiều là để bộc lộ lòng
mình, để trao đổi với nhau bằng một hình
thức diễn đạt quen thuộc thì Hồ Chí Minh
lẩy Kiều trong tiểu phẩm báo chí là học tập
cách nói của quần chúng. Người tìm trong
những câu lục bát Truyện Kiều một cách
nói, một hình thức diễn đạt quen thuộc như
cách nói, cách diễn đạt của quần chúng làm
cho quần chúng dễ hiểu, nhớ lâu và quyết
tâm làm theo lời kêu gọi của mình. Dựa
vào câu Kiều: Có tài mà cậy chi tài, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra tình thế của kẻ mạnh một
cách hài hước:
32
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Có tiền mà cậy chi tiền
Có tiền như Mỹ cũng phiền lắm thay
(Tiểu phẩm Không chắc “có tiền mua
tiên cũng được”).
Như vậy, hiểu được thị hiếu của người
đọc, Hồ Chí Minh luôn tìm tòi vận dụng
những hình thức diễn đạt của quần chúng
vào trong các tiểu phẩm của mình khiến
cho tiểu phẩm của Người luôn mang lại sức
sống mãnh liệt đối với người đọc. Vì vậy,
các nhà báo ngày nay, khi viết tiểu phẩm
cần am hiểu tiếng nói dân tộc, trau dồi
ngôn ngữ quần chúng để có thể viết được
những tác phẩm hay phục vụ cho công
cuộc đổi mới và xây dựng xã hội.
3. Xử lý thông tin nhanh nhạy, chính xácQuá trình hình thành các bài báo là quá
trình xử lý thông tin và công bố thông tin.
Nhưng muốn xử lý thông tin chính xác,
đúng đắn, trước hết lại phải có nguồn thông
tin qua quá trình thu thập thông tin của một
nhà báo. Nhiều nhà báo có uy tín trong
nước và thế giới đều cho rằng, một nhà báo
giỏi bao giờ cũng rất giỏi thu thập thông
tin, thậm chí cho rằng cả cuộc đời làm báo
là cuộc đời thu thập thông tin. Ít nguồn
thông tin và bản lĩnh chưa vững của nhà
báo thường được coi là một trong những
nguyên nhân quan trọng nhất làm cho bài
báo kém chất lượng, thậm chí sai lạc. Cho
nên quá trình thu thập và xử lý thông tin
mang tính quyết định đối với một bài báo.
Hồ Chí Minh luôn coi trọng đến việc xử lý
thông tin sao cho phải chính xác, khách
quan khi công bố tác phẩm. Người căn dặn:
“Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết
rõ, chớ nói, chớ viết”. “Biết” theo từ điển
tiếng Việt, là “nhận rõ thực chất”, tức là
phải hiểu đến bản chất sự việc mới nói và
viết, nghĩa là thông tin tuy luôn luôn cần
nhanh, kịp thời nhưng phải được tìm hiểu,
phân tích sâu sắc trước khi công bố; không
thể làm việc vội vàng, hời hợt hoặc vì một
động cơ không chính đáng nào khác. Muốn
xử lý thông tin cho chính xác và đúng đắn
thì cùng với động cơ trong sáng, bản lĩnh
vững vàng còn cần có nhiều nguồn thông
tin nhiều chiều qua hoạt động thu thập
thông tin. Nhà báo Hồ Chí Minh cũng đưa
ra những lời khuyên về hoạt động thu thập
thông tin mà Người gọi là “Tìm tài liệu” để
nói và viết. Người nêu lên năm hoạt động:
Nghe, Hỏi, Thấy, Xem, Ghi. Năm phương
pháp đó là hoạt động thường xuyên của nhà
báo cũng như hoạt động chuẩn bị cho một
bài báo cụ thể, bao gồm thu thập thông tin
trực tiếp (qua thấy) và gián tiếp (qua nghe,
hỏi, xem). Nguồn thông tin cũng phải được
lấy và kiểm chứng nhiều chiều.
Luôn chú trọng tới việc xử lý thông tin
nên những bài báo của Người bao giờ cũng
khách quan, chính xác và trung thực. Đọc
các tiểu phẩm của Người chúng ta thấy rõ
ràng, quá trình thu thập và xử lý thông tin
của Người không những nhanh nhạy mà
còn chính xác và khách quan. Bất cứ vấn
33
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
đề, sự kiện nào đưa ra, Người đều “nói có
sách, mách có chứng” bằng những dẫn
chứng, những con số cụ thể, ngắn gọn, dẫn
chứng có trọng tâm, dễ hiểu... tạo được sự
liên tưởng trực tiếp cho người đọc. Điều
đặc biệt là, do mục đích căn bản của tiểu
phẩm Hồ Chí Minh là tố cáo, vạch trần kẻ
thù, nên Người luôn sử dụng chính những
lời nói của chúng để vạch trần chính bản
thân kẻ thù, bằng cách khai thác thông tin
trực tiếp từ báo chí của kẻ thù, từ đó tạo độ
tin cậy và tính khách quan hơn khi thông
tin. Đây cũng là cách thể hiện rất ấn tượng
phong cách báo chí Hồ Chí Minh. “… Tạp
chí Mỹ Người báo cáo viết: Công việc số
1 của Cục thanh tra Mỹ là khủng bố những
người tiến bộ. Còn việc chống tội phạm thì
họ chỉ nhằm vào bọn tôm tép, những công
ty tội phạm thì tha hồ hoành hành. Những
công ty này là thứ xí nghiệp phát triển nhất
và nhiều lãi nhất ở Mỹ…”
Còn tiểu phẩm Tự do và hòa bình kiểu
Mỹ, Bác viết: Chính phủ Mỹ luôn mồm nói
“tự do và hòa bình” nhưng sự thật thì thế
nào? Vài ví dụ: Nhân viên chính quyền, ai
mà tỏ ý tán thành hòa bình, thì liền bị cách
chức; có khi bị bỏ tù. Hơn 100 vị giáo sư
các trường đại học và nhiều văn nghệ sỹ
nổi tiếng vì tán thành hòa bình mà bị bỏ tù.
Có thể nói quá trình thu thập và xử lý
thông tin là khâu quan trọng, quyết định
đối với chất lượng bài báo. Ở tiểu phẩm Hồ
Chí Minh chúng ta dễ dàng nhận thấy kỹ
năng xử lý thông tin cuả một nhà báo dày
dạn và nhiều kinh nghiệm. Với nguồn tư
liệu phong phú và vốn tri thức dồi dào
nhưng cao hơn cả là kỹ năng bố trí, sắp
xếp, lựa chọn, kiểm chứng và cách đưa tin
tài tình, những tiểu phẩm của Người luôn
rõ ràng, dễ hiểu, có tính chính xác, trung
thực và độ tin cậy cao.
Tóm lại, những gì tiểu phẩm của Hồ Chí
Minh mang lại là những điều mà các nhà
làm báo luôn phải không ngừng học hỏi và
nghiên cứu nhằm không ngừng nâng cao
hiệu quả phản ánh và tác động của thể loại
báo chí đặc biệt nàyr……………
1,2. Theo Tạ Ngọc Tấn, Hồ Chí Minh về vấn đề báo
chí, Nxb CTQG, H.1995, tr.176.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (2008), Những kỹ năng về sử dụng
ngôn ngữ trong truyền thông đại chúng, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội
2. Hà Minh Đức (2000), Sự nghiệp báo chí và văn
học của Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Vũ Thị Ngọc Mai (2003), Ngôn ngữ tiểu phẩm
trên báo tuổi trẻ, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Báo
chí học, Phân viện Báo chí và Tuyên truyển, Hà Nội.
4. Đỗ Chí Nghĩa (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà báo và phương pháp sáng tạo báo chí, Luận văn
thạc sỹ KHXHNV, chuyên ngành báo chí, Hà Nội.
5. Tạ Ngọc Tấn (2009), Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí
Minh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
6. Tạ Ngọc Tấn (1995), Hồ Chí Minh về vần đề báo
chí, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân
viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &Truyền thông.- 2012.- Số tháng 4.-Tr.44-48.
34
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ BÁO CHÍ CÁCH MẠNG TRONG
PHÁT TRIỂN BÁO CHÍ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
?NGUYỄN HUY NGỌC
Ban Tuyên giáo Trung ương
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
35
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng
lập nền báo chí cách mạng Việt
Nam, đồng thời là một nhà báo
xuất sắc, người đã chăm lo gây dựng, dìu
dắt và rèn luyện đội ngũ những người làm
báo nước ta. Người đã để lại cho chúng ta
một di sản báo chí vô cùng quý báu với một
hệ thống tư tưởng và quan điểm chỉ đạo sâu
sắc về lý luận và nghiệp vụ báo chí cách
mạng cùng hàng nghìn tác phẩm báo chí
mẫu mực.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người không tách rời hoạt động báo chí.
Người làm báo là để làm cách mạng và đã
trở thành một nhà báo. Các tác phẩm báo
chí của Người có nội dung vô cùng sâu sắc
và hết sức mẫu mực về hình thức thể hiện,
tạo nên một phong cách độc đáo - phong
cách báo chí Hồ Chí Minh. Theo Người,
báo chí chúng ta chỉ có một đề tài xuyên
suốt là: "Chống thực dân đế quốc, chống
phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội"(1). Để thực
hiện được nội dung đó, báo chí cách mạng
phải có tính chiến đấu với tính cách là biểu
hiện cao nhất của tính đảng, là bản chất, là
tiêu chí cao nhất của báo chí cách mạng.
Điều đó trước hết thể hiện ở đường lối
chính trị của tờ báo. Báo chí thực chất là
hoạt động chính trị, thông tin trên báo chí
quan trọng nhất là thông tin chính trị. Theo
Người, báo chí là công cụ đấu tranh giai
cấp là vũ khí đấu tranh cách mạng.
Trong điều kiện cụ thể cách mạng nước
ta những năm đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Báo chí của ta cần phải phục vụ nhân dân
lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục
vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước
nhà, cho hòa bình thế giới. Người khẳng
định: “Đối với những người viết báo chúng
ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ
hịch cách mạng để động viên quần chúng
đoàn kết đấu tranh, chống chủ nghĩa thực
dân cũ và mới, chống chủ nghĩa đế quốc
đứng đầu là đế quốc Mỹ, vì độc lập dân tộc,
tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới”(2). Do
đó, báo chí của ta phải có đường lối chính
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
36
trị đúng, vì có đường lối chính trị đúng thì
các nội dung và hình thức thể hiện của báo
chí mới đúng được. Trên cơ sở đường lối
chính trị đúng, báo chí phải đi tiên phong
trong đấu tranh không khoan nhượng với
những gì đi ngược lại quy luật của lịch sử,
vạch trần tính chất phản động, giả dối, bịp
bợm của kẻ thù của dân tộc. Tính chiến đấu
không chỉ nhằm tiến công vào kẻ thù của
cách mạng, mà còn biểu dương những tấm
gương tiêu biểu trong chiến đấu và lao
động để cổ vũ mọi người hăng hái tham gia
cách mạng. Tính tư tưởng cách mạng của
báo chí quyết định chất lượng, tác dụng của
báo chí. Để bảo đảm tính tư tưởng, tính
đảng của báo chí thì trong đó phải thể hiện
được tính chiến đấu, tính giáo dục và tính
quần chúng của báo chí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc
nhở những người làm báo: "Mỗi khi viết
một bài báo, thì tự đặt câu hỏi:
Viết cho ai xem?
Viết để làm gì?"(3).
Những câu hỏi Người đặt ra chính là đòi
hỏi báo chí phải xác định rõ đối tượng tiếp
nhận thông tin. Việc xác định đó nhằm hình
thành phương pháp sáng tạo phù hợp cho
nhà báo. Người chỉ rõ: "Đối tượng của tờ
báo là đại đa số dân chúng"(4). Vì vậy,
cách viết bài báo phải đơn giản, dễ hiểu,
ngôn ngữ phải trong sáng, tránh dùng từ
nước ngoài… Việc xác định đúng đối
tượng phục vụ của báo chí cũng có nghĩa
là nhà báo phải biết chọn lựa những nội
dung gì nên viết, cái gì không nên viết. Viết
phục vụ nhân dân thì nhất định phải chọn
cái gì có lợi cho dân và phục vụ cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ
báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây
bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”(5).
Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình,
cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức
cách mạng, cố gắng trau dồi tư tưởng,
nghiệp vụ và văn hóa; chú trọng học tập
chính trị để nắm vững chủ trương, chính
sách của Đảng, Chính phủ, đi sâu vào thực
tế, đi sâu vào quần chúng lao động. Ở đây,
Người muốn nhấn mạnh đến tính giai cấp,
tính định hướng chi phối bởi ý thức hệ của
các phương tiện thông tin đại chúng. Bất
cứ một phương tiện thông tin đại chúng
nào khi xây dựng một chương trình, xuất
bản một tác phẩm, thể hiện một đề tài đáp
ứng nhu cầu của độc giả… đều chịu sự chi
phối của định hướng chính trị. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng nhận định: Báo chí của ta
đã có một địa vị quan trọng trong dư luận
thế giới. Địch rất chú ý, bạn rất quan tâm
đến báo chí ta. Cho nên làm báo phải hết
sức cẩn thận về hình thức, về nội dung và
cách viết. Đến nay nhận định này của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị,
mặc dù hiện nay các phương tiện thông tin
đại chúng đã được phát triển mạnh mẽ về
cả loại hình lẫn số lượng xuất bản. Tư
tưởng này được các đại hội Đảng trước đây
đề cập và đặc biệt là Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII: “Xây dựng và từng bước
thực hiện chiến lược truyền thông quốc gia
phù hợp đặc điểm nước ta và xu thế phát
triển thông tin đại chúng của thế giới. Đẩy
mạnh thông tin đối ngoại. Tận dụng thành
tựu của mạng internet để giới thiệu công
cuộc đổi mới và văn hóa Việt Nam với thế
giới, đồng thời có biện pháp hiệu quả ngăn
chặn, hạn chế tác dụng tiêu cực qua mạng
internet cũng như qua các phương tiện
thông tin khác”.
Thực hiện lời dạy của Người, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, báo chí đã tích cực
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân, đồng thời phản ánh kịp thời tâm
tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân
với Đảng, Nhà nước; góp phần tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cổ vũ, động
viên phong trào thi đua yêu nước, phát
hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển
hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt;
tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí, chống "diễn biến hòa
bình", góp phần giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước. Báo chí cũng đã góp phần tích cực
làm cho cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài và nhân dân thế giới ngày càng hiểu
rõ hơn đường lối, chính sách đúng đắn của
Đảng, Nhà nước, thành tựu đổi mới của
nước ta. Báo chí cách mạng nước ta cũng
đã thể hiện là công cụ sắc bén của Đảng và
Nhà nước trong công tác tuyên truyền, giáo
dục, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân đoàn kết, vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng
nước ta không ngừng tiến lên và giành
được những thành tựu to lớn. Nhiều nhà
báo đã không quản gian nguy đến những
nơi đầu sóng, ngọn gió để phản ánh cuộc
chiến đấu anh dũng và sáng tạo của chiến
sĩ, đồng bào. Hàng nghìn nhà báo đã ngã
xuống nơi chiến trường hay trong ngục tù
của thực dân, đế quốc, hiến dâng cả cuộc
đời mình cho sự nghiệp cách mạng của dân
tộc. Trong suốt các chặng đường lịch sử,
báo chí cách mạng Việt Nam đã trở thành
một bộ phận cấu thành của mọi biến cố,
mọi sự kiện trong tiến trình vận động của
cách mạng.
Lớp lớp đội ngũ nhà báo Việt Nam luôn
trung thành với lý tưởng của Đảng, kiên
định vững vàng trong những biến động của
lịch sử; có những đóng góp xứng đáng vào
sự nghiệp giành độc lập dân tộc, đấu tranh
thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Không
ngừng ra sức phấn đấu rèn luyện “trí sáng,
tâm trong, bút sắc”, thực hiện sứ mệnh cao
quý của người cầm bút, sáng tạo nhiều tác
phẩm báo chí có chất lượng cao hơn. Báo
37
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
chí đã có những đóng góp vào việc giáo
dục lòng yêu nước, niềm tự hào, ý chí tụ
cường dân tộc, truyền bá văn hoá, nâng cao
dân trí, nâng cao nhận thức chính trị và
trách nhiệm xã hội, củng cố niềm tin của
nhân dân vào Đảng, vào chế độ.
Trong những năm qua, dưới ánh sáng
của đường lối đổi mới của Đảng, nền báo
chí cách mạng Việt Nam đã có sự phát triển
mạnh mẽ và toàn diện. Báo chí nước ta đã
phát triển nhanh về số lượng ấn phẩm, các
loại hình báo chí (báo viết, báo nói, báo
hình, báo điện tử), về đội ngũ phóng viên,
biên tập viên; về cơ sở vật chất, tiềm lực tài
chính và từng bước nâng cao về chất lượng.
Tính đến nay, cả nước có hơn 700 tờ báo
và tạp chí với hơn 850 ấn phẩm; 1 hãng
thông tấn Nhà nước; 67 đài phát thanh -
truyền hình Trung ương và các tỉnh, thành
phố; trên 600 đài phát thanh cấp huyện và
hàng nghìn đài truyền thanh cấp phường,
xã, thị trấn...; 45 báo mạng điện tử (được
cấp phép), gần 100 tờ báo in đưa lên mạng
internet bằng các thứ tiếng, và hàng nghìn
trang điện tử, với hơn 17 nghìn người làm
báo chuyên nghiệp được cấp thẻ nhà báo.
Nội dung thông tin của các báo có nhiều
đổi mới, hấp dẫn, sinh động, phong phú,
kịp thời hơn. Bức tranh hiện thực khách
quan, chân thật của đất nước và thế giới
được báo chí phản ánh khá đầy đủ và toàn
diện. Nhờ vậy mà người dân Việt Nam có
hiểu biết nhiều hơn về tình hình thế giới để
tiếp tục giao lưu, hội nhập; bạn bè quốc tế
cũng hiểu nhiều và đúng hơn đất nước và
con người Việt Nam để thúc đẩy hợp tác,
đầu tư.
Việt Nam là một trong những thị trường
có số lượng công chúng báo chí lớn, hấp
dẫn và nhiều tiềm năng. Đây là điều kiện
tốt cho báo chí truyền thông phát triển,
đồng thời cũng khó khăn, phức tạp và
thách thức lớn đối với báo chí, truyền
thông. Công chúng hiện nay có trình độ,
bản lĩnh, chính kiến, đòi hỏi cao về chất
lượng thông tin từ các báo. Đồng thời, họ
còn tích cực tham gia trao đổi, thảo luận,
phản biện những vấn đề của đất nước và
báo chí, tạo không khí dân chủ, công khai,
minh bạch trong thông tin hai chiều, góp
phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Có thể nói, những năm qua, báo chí,
truyền thông Việt Nam đã có bước phát
triển mới và đang tiếp tục phát triển mạnh
mẽ, sôi động, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu thông tin, giải trí…của người dân
trong nước và giới thiệu Việt Nam với cộng
đồng quốc tế.
Tuy nhiên, hoạt động báo chí của ta
cũng còn những yếu kém, khuyết điểm.
Một số cơ quan báo chí có biểu hiện coi
nhẹ chức năng chính trị, tư tưởng, xa rời
tôn chỉ, mục đích; thiếu nhạy bén chính trị,
bị ảnh hưởng của khuynh hướng "thương
mại hóa", chạy theo thị hiếu tầm thường,
nặng thông tin về những hiện tượng tiêu
38
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
39
cực, yếu kém, mặt trái của xã hội, thổi
phồng, khoét sâu vào các thiếu sót, khuyết
điểm, làm "nóng" lên một số vấn đề chính
trị, kinh tế, xã hội của đất nước, của các
ngành, địa phương một cách thiếu ý thức;
ít chú ý việc phát hiện, cổ vũ, biểu dương
những tấm gương người tốt, việc tốt,
những nhân tố mới, điển hình tiên tiến
trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Một số tờ báo đăng những
thông tin sai sự thật, suy diễn chủ quan, khi
biết sai không cải chính hoặc cải chính
không nghiêm túc; khai thác và sử dụng
thông tin thiếu chọn lọc, trái với quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, truyền thống văn
hóa của dân tộc...
Những yếu kém, khuyết điểm này tuy
chỉ xuất hiện ở một số báo, nhưng đã gây
tác động xấu cho sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp, lợi ích kinh tế của đất nước,
gây lo lắng, làm giảm lòng tin của nhân dân
vào sự nghiệp đổi mới; để các thế lực thù
địch lợi dụng bôi nhọ, đả kích, chống phá
Đảng ta, chế độ ta; làm xấu đi hình ảnh đất
nước ta trong con mắt bạn bè quốc tế.
Những yếu kém này nếu không được khắc
phục kịp thời sẽ là những nguy cơ tiềm ẩn
gây mất ổn định chính trị - xã hội của đất
nước. Trong khi đó, một số tờ báo, tạp chí,
đài phát thanh, truyền hình ở trung ương và
địa phương chậm đổi mới, nội dung và
hình thức chưa đủ hấp dẫn, chưa thuyết
phục, do đó, chất lượng và hiệu quả tuyên
truyền, giáo dục chưa cao, chưa làm tốt vai
trò là lực lượng chủ lực, định hướng thông
tin và dư luận xã hội.
Vấn đề đặt ra cho đội ngũ các nhà báo
là sự ý thức tự giác về vai trò trách nhiệm
của mình trên cơ sở nhận thức rõ ràng về
bản chất chế độ, bản chất nền báo chí cách
mạng. Chỉ có một niềm tin vững chắc mới
giúp các nhà báo ra sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về báo
chí cũng chính là quán triệt ý thức trách
nhiệm chính trị xã hội của báo chí. Làm
báo thực chất là làm chính trị. Ý thức nghề
nghiệp của người làm báo trước hết là ý
thức chính trị. Đó là ý thức về một lập
trường chính trị cách mạng, là thái độ bảo
vệ chế độ, bảo vệ dân tộc, bảo vệ Tổ quốc,
kiên quyết chống lại sự phá hoại của kẻ
thù. Đó là các cơ sở gốc rễ để mỗi nhà báo
tự vượt lên trên những tính toán vụ lợi,
cống hiến toàn tâm, toàn lực cho sự nghiệp
cách mạng. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
về báo chí cách mạng, mỗi nhà báo cần
nắm vững, thấm nhuần tư tưởng báo chí
cách mạng của Người, vận dụng sáng tạo
vào hoạt động tác nghiệp của mình. Trong
điều kiện hiện nay, để xứng đáng là chiến
sỹ xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn
hóa của Đảng, thực hiện tốt trách nhiệm xã
hội và nghĩa vụ công dân, những người làm
báo phải xây dựng lập trường chính trị
DI SẢN BÁO CHÍ CÁCH MẠNG CỦA BÁC HỒ...(Tiếp theo trang 50)
ảnh hưởng tiêu cực đến hòa bình, ổn
định và phồn vinh trong khu vực và thế
giới; vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển
giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa được ký ngày 11/10/2011 tại Bắc Kinh
với sự chứng kiến của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng và Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào
cùng hai Đoàn đại biểu cấp cao hai nước
Việt Nam và Trung Quốc.
Chủ đề và nhiệm vụ tuyên truyền về
biển đảo là rất rộng lớn. Điều quan trọng
nhất là các nhà báo tiếp tục góp phần làm
cho dư luận hiểu đúng và đứng về phía
chúng ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền, mà nhiều khía cạnh ngày càng phức
tạp, đặc biệt trong bối cảnh đấu tranh thông
tin quốc tế hiện nay. Một trong những
nhiệm vụ trọng tâm là tập trung tuyên
truyền về chủ trương lớn của Việt Nam
phấn đấu đến năm 2020, “đưa nước ta trở
thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền
chủ quyền quốc gia trên biển, đảo mà Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương
Đảng (khóa X) đã đề rar
Nguồn: Tạp chí Dân vận.- 2014.- Số
6.- Tr.8-10.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
40
vững vàng, không ngừng học tập, rèn luyện
để nâng cao trình độ, kỹ năng làm báo, giữ
vững sự trong sáng của đạo đức nghề nghiệp.
Với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước; với ý thức thực hiện kiên
quyết, đồng bộ những biện pháp đã đề ra
của cơ quan báo chí và cơ quan chủ quản
báo chí, nhất là việc vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng,
nhất định hoạt động báo chí sẽ có bước
chuyển mạnh mẽ, tích cực, vững chắc,
khắc phục nhanh và có hiệu quả các yếu
kém, khuyết điểm để báo chí cách mạng
nước ta luôn làm tròn chức năng và sứ
mệnh cao cả của mình trên mặt trận chính
trị, tư tưởng có những đóng góp tích cực
hơn nữa vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minhr
……………….(l) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9. Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, tr.419.
(2) Sđd, t.11, tr.441.
(3), (5) Sđd, t.l0, tr.615, 616.
(4) Sđd, t.5, tr.625.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị.-
2012.- Số 10.- Tr. 27 – 31.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
?HÀ MINH HUệ
Hội Nhà báo Việt Nam
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
41
Lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh là
người đặt nền móng, lãnh đạo
thành công cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, đánh đuổi các thế lực thực
dân, đế quốc, khai sinh nước Việt Nam
mới, làm rạng rỡ non sông, đất nước, con
người Việt Nam. Người đã bôn ba khắp
năm châu, bốn biển để học tập, tiếp thu,
phát triển và xây dựng chủ thuyết cho cách
mạng Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người đã để lại một hệ tư tưởng
tổng hòa các quan điểm về cách mạng, về
thời đại, về các lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong đó có tư tưởng về báo chí cách
mạng Việt Nam. Người không chỉ để lại
một sự nghiệp báo chí đồ sộ, mà cao hơn
cả là một nền báo chí cách mạng Việt Nam.
1. Hồ Chí Minh - người sáng lập nềnbáo chí cách mạng Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại
của dân tộc ta, là anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời
là nhà báo lớn, người sáng lập và rèn luyện
báo chí cách mạng Việt Nam. Qua thực tiễn
hoạt động chính trị, Người nhận thấy sức
mạnh, phạm vi ảnh hưởng của báo chí và
luôn coi báo chí là vũ khí tư tưởng trong
cuộc đấu tranh cách mạng giành độc lập,
mang lại hạnh phúc cho nhân dân, xây
dựng một chế độ xã hội tiến bộ theo con
đường chủ nghĩa xã hội. Nền báo chí đó
mang đậm dấu ấn của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Trong những năm đầu hoạt động, Bác
Hồ đã đến nhiều nơi, làm nhiều nghề khác
nhau, trong đó có nghề báo. Người làm mọi
việc của nghề này, từ viết bài, sửa bài, biên
tập, tổ chức in ấn, phát hành, đến tổ chức,
lãnh đạo và chỉ đạo một tờ báo. Người
quan niệm: công việc viết báo, làm báo là
“công tác cách mạng” để “phụng sự Tổ
quốc”, “phụng sự nhân dân”, “phụng sự
giai cấp và nhân loại”. Qua các bài báo,
Người đã thu hút sự chú ý của phong trào
cộng sản yêu chuộng hòa bình trên thế giới
về một đất nước thuộc địa nhỏ bé nhưng
kiên cường đấu tranh giành độc lập; khởi
đầu cuộc cách mạng tư tưởng cho dân tộc
Việt Nam, truyền bá lý luận chủ nghĩa Mác
- Lênin vào Việt Nam. Người sử dụng báo
chí như một vũ khí chính trị, tư tưởng sắc
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
42
bén để giáo dục, thức tỉnh nhân dân hướng
theo con đường cách mạng và làm cách
mạng thành công. Đó là điều khác biệt so
với các bậc tiền bối trong việc tìm con
đường cứu nước, cứu dân, mang lại độc lập
tự do cho dân tộc.
Sinh thời, Người sáng lập ra 9 tờ báo.
Đó là các tờ báo: Người cùng khổ (Le Pa
ria, năm 1922), Quốc tế Nông dân (1924),
Thanh niên (1925), Công nông (1925).
Lính Kách mệnh (1925), Thân Ái (1928),
Tạp chí Đỏ (1929), Việt Nam độc lập
(1941), Cứu quốc (1942). Người đã viết
hơn 2.000 bài báo, sử dụng 150 bút danh,
viết bằng nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga,
Trung Quốc, Việt... đăng trên 50 báo, tạp
chí ở trong và ngoài nước. Bài báo đầu tiên
Người viết là bài “Vấn đề bản xứ” đăng
trên tờ báo Pháp L'Humanite ngày
02/8/1969 và bài báo cuối cùng là “Nâng
cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu
niên, nhi đồng”, đăng trên báo Nhân dân
ngày 01/6/1969.
Sau 11 năm bôn ba ở nước ngoài, năm
1922 tại Pari, thủ đô nước Pháp, Người
cùng một số nhà cách mạng thuộc địa châu
Á, châu Phi lập ra báo Người cùng khổ (Le
Paria). Tờ báo tố cáo chính sách đàn áp,
bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và
thực dân Pháp nói riêng. Tờ báo đã gây
tiếng vang, báo động về ách thực dân đè
nặng nhân dân các xứ thuộc địa. Cuối năm
1924, Người về Quảng Châu, Trung Quốc.
Tại đây, Người thành lập “Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí hội”, tổ chức tiền
thân của Đảng cộng sản Việt Nam và sáng
lập ra báo Thanh niên, là cơ quan ngôn luận
của Hội. Báo ra số đầu tiên vào ngày
21/6/1925. Lúc đó Người làm Tổng biên
tập, viết những bài quan trọng. Báo ra được
88 số. Tháng 4/1927, Tưởng Giới Thạch
khủng bố cách mạng Trung Quốc và những
người cách mạng Việt Nam trên đất Quảng
Châu. Người bí mật sang Liên Xô. Cơ quan
báo Thanh niên chuyển đến Hồng Kông,
tiếp tục xuất bản cho đến cuối năm 1929.
Đây là tờ báo cách mạng tiếng Việt đầu tiên
của nước ta, góp phần quan trọng chuẩn bị
về mặt tư tưởng, lý luận chính trị và tổ
chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam vào ngày 03/02/1930.
Đầu năm 1941, Người về nước chỉ đạo
Hội nghị Trung ương VIII, thành lập Mặt
trận Việt Minh và lập ra báo Việt Nam độc
lập với tư cách là cơ quan ngôn luận của
Mặt trận Việt Minh. Số đầu tiên Việt Nam
độc lập ra ngày 01/8/1941 tại Pắc Bó do
Người trực tiếp biên tập. Trên trang nhất số
báo này in bức tranh tuyên truyền do
Người vẽ với 4 câu thơ “Việt Nam độc lập
thổi kèn loa/ Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già/
Đoàn kết vững bền như khối sắt/ Để cùng
nhau cứu nước Nam ta”. Đấy là lời hiệu
triệu kêu gọi nhân dân Việt Nam khởi
nghĩa dưới lá cờ Việt Minh. Đây là tờ báo
bằng tiếng Việt đầu tiên được Người sáng
lập ở trong nước; đến ngày 30/9/1945 báo
ra được 120 số.
Sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập ngày
2/9/1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, ngày 07/9/1945, Người chỉ
thị thành lập Đài phát thanh quốc gia (nay
là Đài Tiếng nói Việt Nam) và sau đó thành
lập hãng Thông tấn quốc gia “Việt Nam
thông tấn xã” (nay là Thông tấn xã Việt
Nam) ngày 15/9/1945. Các phương tiện
thông tin đó của một nước Việt Nam mới
giành được độc lập đã làm tốt nhiệm vụ
tuyên truyền đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á, vận động toàn dân xây dựng
cuộc sống sau khi giành được độc lập trong
muôn vàn khó khăn. Người tiếp tục chỉ
đạo, cho ra đời một số tờ báo mới khi đất
nước bước vào thời kỳ 9 năm kháng chiến.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II,
tháng 02/1951, báo Sự thật ngừng xuất bản,
Người chỉ đạo ra báo Nhân dân - cơ quan
ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam,
số đầu tiên ra ngày 11/3/1951. Ngoài việc
sáng lập chỉ đạo hoạt động báo chí. Người
còn là cộng tác viên xuất sắc, đã viết và
đăng 1.205 bài trên báo Nhân dân với 23
bút danh khác nhau.
Ngày 14/12/1956, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký ban hành Sắc lệnh về chế độ báo
chí, quy định về tự do ngôn luận, làm tiền
đề cho các văn bản pháp luật về báo chí
Việt Nam ra đời sau này.
Để ghi nhớ công ơn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với nền báo chí cách mạng Việt
Nam, theo đề nghị của Hội Nhà báo Việt
Nam, ngày 05/02/1985, Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã quyết định lấy ngày ra số
báo Thanh niên đầu tiên - ngày 21/6/1925
làm Ngày báo chí cách mạng Việt Nam.
2. Tư tưởng báo chí cách mạng về độingũ báo chí cách mạng hiện nay
Cách mạng Việt Nam đã sản sinh ra
nhiều nhà lãnh đạo xuất sắc xuất thân từ
nghề báo. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ
thiên tài và là nhà báo kiệt xuất. Cuộc đời
hoạt động của Người không tách rời hoạt
động báo chí. Người coi làm báo chính là
làm cách mạng. Các tác phẩm báo chí của
Người có nội dung cách mạng sâu sắc,
mang tính giáo dục rõ rệt, thấm đậm tư
tưởng cách mạng, nhân văn, mẫu mực về
hình thức thể hiện, tạo nên một phong cách
độc đáo - phong cách làm báo Hồ Chí
Minh. Cả cuộc đời sự nghiệp phục vụ cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi báo
chí và những người làm báo là một bộ phận
của sự nghiệp cách mạng, là vũ khí văn hóa
- tư tưởng sắc bén trong công cuộc đấu
tranh giành độc lập cho dân tộc và xây
dựng đất nước giàu mạnh, mang lại cuộc
sống ấm no cho nhân dân.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
cái gì lợi cho dân thì hết sức làm, cái gì hại
cho dân thì hết sức tránh. Chính vì vậy, với
báo chí cách mạng, Người đặt rõ mục đích
43
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
hoạt động là vì nước, vì dân. Người nhắc
nhở những người làm báo: Không biết rõ,
hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì
cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ
viết càn. Để báo chí luôn là diễn đàn của
nhân dân, Người khẳng định: Một tờ báo
không được đại đa số (dân chúng) ham
muốn thì không xứng đáng là một tờ báo;
không riêng gì viết sách, viết báo, mà công
tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý
kiến của nhân dân, nhiệm vụ của báo chí là
phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng và
nhấn mạnh, báo chí không chỉ là người
tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ
chức tập thể; mà còn là vũ khí sắc bén
chống lại mọi biểu hiện phản động, tiêu
cực đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của
đất nước: báo chí là công cụ đấu tranh xã
hội, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp.
Về kỹ năng làm báo, Người nhắc nhở:
Làm báo phải hết sức cẩn thận về hình
thức, nội dung, cách viết. Cần xác định rõ:
Viết cái gì? Viết cho ai? Viết để làm gì?
Viết thế nào? Và Người không quên nhắc
các nhà báo phải viết chân thực trung thực,
mỗi bài viết của phóng viên phải bắt nguồn
từ thực tế cuộc sống với những con số,
những sự kiện đã được xem xét kiểm tra,
chọn lọc. Bài viết phải đem lại lượng thông
tin cao và chính xác. Viết phải đúng sự thật,
không được bịa ra, không nên nói ẩu, chưa
điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ
nói, chớ viết. Người còn dạy nhà báo phải
viết ngắn gọn, dễ hiểu, không nên viết “dây
cà ra dây muống”, khi viết xong phải đọc
cho người khác nghe góp ý .v.v… Tất cả
những điều đó cũng chính là kỹ năng viết
báo hiện đại, ngày nay giới báo chí đang
tiếp tục thực hiện. Người khuyên các nhà
báo chú ý giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt, vì “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng
lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc.
Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó,
làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, báo chí cách mạng nước ta 88 năm
qua đã trở thành công cụ tư tưởng sắc bén
của Đảng và Nhà nước trong tuyên truyền,
cổ vũ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân triển
khai thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Đội ngũ nhà báo
cách mạng luôn trung thành với lý tưởng
của Đảng, kiên định con đường đấu tranh
vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, có
những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp
giành độc lập dân tộc, đấu tranh thống nhất
đất nước trước đây, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn hiện nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, được Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, trong 88 năm qua
báo chí cách mạng Việt Nam đã trưởng
thành vượt bậc cả về số lượng và chất
44
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
lượng; trở nên phong phú cả về nội dung
lẫn hình thức; đội ngũ những người làm
báo và các thể loại báo chí không ngừng
lớn mạnh với đầy đủ các loại hình báo viết,
báo nói, báo hình, báo điện tử, hội tụ công
nghệ thông tin hiện đại. Đặc biệt, sau
những năm đổi mới, báo chí nước ta cũng
đã tự đổi mới, khởi sắc, sắc bén, nhanh
nhạy, thông tin toàn diện, đi đầu trong việc
định hướng tư tưởng, đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực, chống các luận điệu phản
động, thù địch góp phần làm lành mạnh xã
hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố
niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo các
Đảng; tham gia trực tiếp vào công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa để xây dựng
và phát triển đất nước.
Trong những năm qua, báo chí đã làm
tốt chức năng vừa là cơ quan ngôn luận của
Đảng, Nhà nước, vừa là diễn đàn của nhân
dân; góp phần tích cực giữ vững ổn định
chính trị, tăng cường an ninh, quốc phòng,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Hầu hết các cơ quan báo chí đã
bám sát thực tiễn đời sống xã hội thực hiện
đúng sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng
thông tin của Đảng, Nhà nước; thông tin
nhanh nhạy, kịp thời, đầy đủ, toàn diện về
mọi diễn biến của đời sống chính trị, kinh
tế - xã hội trong nước và quốc tế, đặc biệt
là các sự kiện lớn, đáp ứng tốt quyền được
thông tin của nhân dân. Đồng thời, thực
hiện tốt chức năng là diễn đàn của nhân
dân, góp phần quan trọng thực hiện dân
chủ hóa đời sống xã hội, kịp thời phát hiện
và biểu dương gương người tốt, việc tốt,
những điển hình tiên tiến. Phần lớn các cơ
quan báo chí hoạt động đúng tôn chỉ mục
đích và định hướng chính trị, hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao, có bước phát triển
về số lượng, trình độ, tham gia ngày càng
tích cực vào quá trình truyền thông, đồng
thời có những đóng góp tích cực, quan
trọng vào những thành quả mang ý nghĩa
lịch sử của quá trình đổi mới ở nước ta.
Công tác báo chí thời gian qua đã đáp
ứng được những yêu cầu đặt ra, trong đó,
nổi bật nhất là công tác thông tin, tuyên
truyền đưa Nghị quyết Đại hội XI, các nghị
quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ vào
cuộc sống; tiếp tục đẩy mạnh “Học tập, làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”:
tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội (giải pháp kiềm chế lạm
phát, duy trì tăng trưởng hợp lý, cơ cấu lại
nền kinh tế…); tuyên truyền về bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ vùng trời, vùng biển thiêng
liêng của Tổ quốc; giữ gìn môi trường hoà
bình, ổn định để đất nước phát triển nhanh
và bền vững.
Đảng, Nhà nước và nhân dân mong
những người làm báo cả nước tiếp tục phát
huy truyền thống vẻ vang của nền báo chí
cách mạng; không ngừng học tập, tu
dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình
độ, chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp; đề
45
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công
dân, vượt qua khó khăn, khắc phục hạn
chế, khuyết điểm để thông tin tuyên truyền
một cách toàn diện, sâu sắc, trung thực, kịp
thời công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
3. Trách nhiệm của người làm báotrong tình hình mới
Nghị quyết Trung ương 5 khóa X “Về
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước
yêu cầu mới” chỉ rõ: Báo chí phải nắm
vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có
hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, bám
sát nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực
tuyên truyền, cổ vũ thành tựu của công
cuộc đổi mới. Coi trọng đúng mức việc
phát hiện, biểu dương các nhân tố mới,
điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, góp
phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và
tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu quả những
thông tin, quan điểm sai trái, phản động,
thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư
tưởng của Đảng; tiếp tục phát huy tiềm lực
và ưu điểm, khắc phục những yếu kém,
khuyết điểm, nâng cao chất lượng tư tưởng,
tính hấp dẫn, mở rộng đối tượng độc giả, vươn
lên hiện đại về mô hình tổ chức hoạt động, về
cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ.
Báo cáo chính trị tại Đại hội toàn quốc
lần thứ XI của Đảng, khi nói về nhiệm vụ
phát triển hệ thống thông tin đại chúng,
nhấn mạnh: “Chú trọng nâng cao tính tư
tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông
tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội
của các phương tiện thông tin đại chúng vì
lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc
phục xu hướng thương mại hoá, xa rời tôn
chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất
bản. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây
dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản
vững vàng về chính trị, tư tưởng nghiệp vụ
và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời
kỳ mới. Rà soát sắp xếp hợp lý mạng lưới
báo chí, xuất bản trong cả nước theo hướng
tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng thời
đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật
chất - kỹ thuật theo hướng hiện đai. Phát
triển và mở rộng việc sử dụng internet,
đồng thời có biện pháp quản lý, hạn chế
mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt
động lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng
phản động, lối sống không lành mạnh”.
Đây là những nhiệm vụ của báo chí
trong giai đoạn hiện nay, vừa mang tính
chủ trương, vừa mang tính thực tiễn, hướng
dẫn các cơ quan quản lý, chỉ đạo báo chí,
các cơ quan báo chí, các nhà báo thực hiện
trong quá trình tác nghiệp. Có thực hiện tốt
những quan điểm này báo chí mới làm tốt
các chức năng thông tin, định hướng dư
luận xã hội, phản biện xã hội, nâng cao sức
chiến đấu.
Quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung
ương 5 khóa X và Nghị quyết Đại hội
46
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
47
Đảng lần thứ XI gắn với việc thực hiện Chỉ
thị 03 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”, học phong cách
làm báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi
nhà báo cần tiếp tục phấn đấu tu dưỡng, rèn
luyện về chính trị tư tưởng, vững về lập
trường, quan điểm chính trị, học tập nâng
cao trình độ nghiệp vụ, giỏi về chuyên
môn, ngoại ngữ, nắm vững công nghệ
thông tin hiện đại để đạt tới hiệu quả thông
tin cao nhất chuyển tải tới độc giả. Bên
cạnh đó, các cơ quan báo chí, các nhà báo
cần sớm khắc phục những khuyết điểm,
hạn chế, những ảnh hưởng tiêu cực của nền
kinh tế thị trường trong công tác thông tin,
không chạy theo xu hướng giật gân câu
khách, không “tầm thường hóa” nội dung
thông tin bằng những “tin tức lá cải”. Tiêu
chí chung nhất, cao nhất để đánh giá nhà
báo là nhà báo đó có thực hiện tốt trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân không.
Hoạt động báo chí đã có Luật Báo chí
điều chỉnh, các nhà báo phải thực hiện
nghiêm, đồng thời thực hiện thật tốt 9 điều
Quy định về đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo cách mạng Việt Nam, gồm
9 điều được thông qua tại Đại hội VIII Hội
Nhà báo Việt Nam tháng 8/2005, như sau:
1. Người làm báo phải tuyệt đối trung
thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng
phục vụ nhân dân
3. Hành nghề trung thực, khách quan,
tôn trọng sự thật.
4. Sống lành mạnh, trong sáng, không
lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái
pháp luật.
5. Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm
tròn nghĩa vụ công dân, làm tốt trách nhiệm
xã hội.
6. Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và
giữ bí mật cho người cung cấp thông tin.
7. Tôn trọng, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ
đồng nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp.
8. Thường xuyên học tập, nâng cao trình
độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, khiêm tốn
cầu tiến bộ.
9. Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc,
đồng thời tiếp thu có chọn lọc các nền văn
hóa khác.
Những người làm báo thực hiện tốt
những điều này là thiết thực học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo
tinh thần Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minhr
Nguồn: Tạp chí Tổ chức nhà nước .-
2013.- Số 6.- Tr.28-32.
DI SẢN BÁO CHÍ CÁCH MẠNG CỦA BÁC HỒ
VÀ VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG SỨ MỆNH
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO
TỔ QUỐC HIỆN NAY
?NGUYỄN LÊ THANH PHƯƠNG
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
48
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn coi báo chí là một bộ
phận quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc, là vũ khí sắc
bén, lợi hại nhất trên mặt trận tư tưởng.
Thời gian ở Pháp, năm 1921, Người
sáng lập Báo “Người cùng khổ” - cơ quan
ngôn luận của Hội Liên hiệp thuộc địa.
Bằng một loạt bài báo đầu tiên của mình
như Tâm địa thực dân, Đông Dương, Nền
văn minh thượng đẳng, Tội ác của chủ
nghĩa thực dân, Sự quái đản của công cuộc
khai hóa, Vực thẳm thuộc địa..., Nguyễn
Ái Quốc đã căn cứ vào những tài liệu và sự
việc cụ thể để tố cáo bản chất ăn cướp và
giết người của chủ nghĩa thực dân, đế quốc,
vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh”
của chúng. Người viết: “Để che đậy sự xấu
xa của chế độ bóc lột, giết người, chủ nghĩa
tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho
cái huy chương mục nát của nó bằng những
châm ngôn lý tưởng Bác ái, Bình đẳng”.
Người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà
khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp
ở Đông Dương, đồng thời bóc trần bộ mặt
phản dân, hại nước của bọn vua chúa, quan
lại đã vì quyền lợi và danh vọng cá nhân
mà chống lại đồng bào. Tác phẩm Bản án
chế độ thực dân Pháp - một tập hợp các bài
báo Người đã viết trước đó - thực sự vừa
là cáo trạng, vừa là bản án tử hình đối với
chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương. Tố
cáo và lên án kẻ thù của cách mạng, qua đó
thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên
làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và xã hội; thôi thúc các tổ
chức cách mạng đứng ra nhận sứ mệnh
lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc hoạt động
ở Quảng Châu (Trung Quốc). Để tuyên
truyền những tư tưởng cách mạng vào
trong nước. Người sáng lập tờ báo Thanh
niên; số đầu tiên xuất bản ngày 21/6/1925
đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng
nước ta.
Ngày 3/2/1930, sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam là một mốc son chói
lọi trong lịch sử cách mạng Việt Nam và
lịch sử báo chí cách mạng. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Bác Hồ, những nhà trí
thức yêu nước và cách mạng dùng bút làm
đòn xoay chế độ đã dùng báo chí đấu tranh
kiên cường, dũng cảm chống chế độ áp bức
thuộc địa trong suốt thời kỳ tiền khởi
nghĩa. Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, dựa
vào sức đấu tranh của quần chúng, báo chí
cách mạng xuất bản ở khắp ba kỳ (Bắc -
Trung -Nam), tạo thành một mặt trận dân
chủ rộng rãi, đấu tranh chống phát xít,
chống phản động thuộc địa, chống chiến
tranh, đòi hoà bình, dân sinh và dân chủ.
Sau nhiều năm hoạt động ở nước ngoài,
năm 1941, Bác về nước chỉ đạo cách mạng.
Tại Cao Bằng, Bác sáng lập tờ báo Việt
Nam độc lập, trực tiếp chỉ đạo xuất bản 36
số. Ngay số đầu, xã luận của báo rất ngắn
gọn, thể hiện mục đích rất rõ ràng: “Tây cốt
làm cho dân ta ngu, làm cho dân ta hèn. Ta
ngu hèn thì nó dễ trị, dễ ăn hiếp, dễ bóc
lột... Báo Việt Nam độc lập cốt làm cho dân
ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết
đánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Nam
độc lập, bình đẳng, tự do!”.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, tạo
điều kiện cho báo chí cách mạng Việt Nam
chuyển ra công khai và trở thành báo chí
chính thống của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa. Ở miền Bắc, báo chí lần lượt
được in và phát hành tại Hà Nội. Ở miền
Trung và miền Nam, trong hoàn cảnh
kháng chiến ác liệt, các nhà báo đã vượt
qua mọi khó khăn, xuất bản được nhiều tờ
báo để tuyên truyền cho đường lối kháng
chiến của Đảng, cổ vũ đồng bào dũng cảm
đánh giặc, cứu nước. Trên cương vị Chủ
tịch Nước, Hồ Chí Minh thành lập Bộ
Tuyên truyền, Đài Tiếng nói Việt Nam
(7/9/1945), Thông tấn xã Việt Nam
(15/9/1945) và cho phép hàng loạt tờ báo
hoạt động công khai, phát hành rộng rãi
như Cờ giải phóng (cơ quan ngôn luận của
Đảng), Cứu quốc, Lao động, Tiếng gọi phụ
nữ, Hồn nước của các tổ chức chính trị
quần chúng. Khi Đảng tạm thời rút vào
hoạt động bí mật, Hồ Chí Minh thường
xuyên chỉ đạo công tác của Báo Sự thật và
Tập san Sinh hoạt nội bộ, tiền thân của Báo
Nhân dân và Tạp chí Cộng sản hiện nay.
Trong kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, điều kiện thông tin và phát hành khó
khăn, Bác đã chỉ đạo cho phép nhiều
ngành, địa phương, đơn vị quân đội xuất
bản báo, thành lập đài phát thanh, cơ quan
xuất bản. Hệ thống báo chí xuất bản dưới
sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
góp công lao to lớn trong hai cuộc kháng
chiến chống xâm lược và phát huy truyền
thống vẻ vang đó trong sự nghiệp đổi mới
đất nước hiện nay.
49
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Với 50 năm gắn bó và hoạt động trong
lĩnh vực báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
để lại cho chúng ta một di sản báo chí vô
cùng đồ sộ, đồng thời cũng để lại một tấm
gương cao đẹp về đạo đức nghề nghiệp.
89 năm trôi qua kể từ ngày tờ báo cách
mạng đầu tiên do Bác Hồ sáng lập ra đời,
báo chí nước nhà đã không ngừng phát
triển và có những tiến bộ vượt bậc về mọi
mặt. Một thế hệ nhà báo mới, trẻ, năng
động, có học vấn và sức sáng tạo đang
được rèn luyện, thử thách, vững mạnh cùng
đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Thời gian qua, tình hình Biển Đông diễn
biến phức tạp do những hành động sai trái,
ngang ngược, bất chấp đạo lý và luật pháp
quốc tế của Trung Quốc, ngang nhiên đưa
giàn khoan Hải Dương - 981 cùng lực
lượng hộ tống bảo vệ, có cả máy bay, tàu
chiến xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam. Trung Quốc
liên tục có những hành động khiêu khích,
gây hấn, tấn công tàu thực thi pháp luật và
đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam
đang hoạt động trong vùng biển nước ta.
Hành động đó của Trung Quốc đã vi phạm
nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt
Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc
tế, trước hết là Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển năm 1982, vi phạm
Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển
Đông (DOC) mà Trung Quốc là một bên
tham gia ký kết.
Báo chí cả nước đã đồng lòng lên án
hành động trên của Trung Quốc với một
thái độ kiên quyết, mạnh mẽ; kịp thời
truyền tải lòng yêu nước, tiếng nói ủng hộ
của mọi người dân trên khắp các vùng
miền của Tổ quốc, của người Việt Nam ở
ngoài nước đối với Đảng và Chính phủ.
Báo chí đưa tin bằng tình yêu đất nước và
sự can trường của hàng vạn phóng viên
đang ngày đêm bám sát hiện trường và sự
kiện. Qua phản ánh của báo chí trong nước,
nhân dân ta đã nắm bắt đầy đủ thông tin,
một lòng ủng hộ và động viên các lực
lượng đang kiên cường đấu tranh bảo vệ
chủ quyền quốc gia, thể hiện niềm tin vững
chắc vào Đảng, Chính phủ. Hoạt động
thông tin đối ngoại của ta cũng đã phát huy
tốt hiệu quả; cộng đồng quốc tế đã kịp thời
bày tỏ quan điểm, lên án hành động vi
phạm luật pháp quốc tế và làm mất ổn định
tình hình trong khu vực của Trung Quốc.
Trong thời gian tới, báo chí tiếp tục đẩy
mạnh hơn nữa các biện pháp đấu tranh
ngoại giao, chính trị và truyền thông để
nhân dân thế giới, trong đó có nhân dân
Trung Quốc, hiểu rõ sự thật và thấy rõ
những hành động này của Trung Quốc là
vi phạm luật pháp quốc tế;
(Xem tiếp trang 40)
50
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁP LUẬT BÁO CHÍ
VÀ ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO HIỆN NAY
?THS NGUYỄN THUỳ VÂN ANH
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
51
Hồ Chí Minh - Anh hùng giảiphóng dân tộc Việt Nam, danhnhân văn hoá thế giới, Người
sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộngsản Việt Nam, nhà nước Việt Nam Dân chủcộng hoà và khai sinh ra nền báo chí cáchmạng Việt Nam. Tư tưởng của Người là hệthống quan điểm toàn diện về những vấnđề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kếtquả của sự vận dụng và phát triển sáng tạochủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thểcủa nước ta, kế thừa và phát triển các giátrị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thutinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinhthần vô cùng to lớn và quý giá của Đảngvà dân tộc ta. Trong di sản tư tưởng củaNgười có nội dung quan trọng về pháp luậtvà đạo đức báo chí.
Là một nhà báo lớn, Hồ Chí Minh luônđề cao quyền tự do báo chí và sử dụng luậtbáo chí phục vụ cách mạng. Trong nhữngnăm ở nước Pháp (1917-1923), Người viếtbáo, dựa vào luật pháp báo chí Pháp đểvạch trần cái gọi là “tự do báo chí tư sản”Pháp. Trong bài Đông Dương, đăng Tạpchí La Revue Communiste, số 14, tháng 4
năm 1921 Người tố cáo tội ác của thực dânPháp: “Sự thật là người dân Đông Dươngkhông có một phương tiện hành động vàhọc tập nào hết. Báo chí, hội họp, lập hội,đi lại đều bị cấm… Việc có những báo hoặctạp chí mang tư tưởng tiến bộ một chúthoặc có một tờ báo của giai cấp công nhânPháp là một tội nặng. Rượu cồn và thuốcphiện cùng báo chí phản động của bọn cầmquyền bổ sung cho cái công cụ ngu dân củachính phủ. Máy chém. Và nhà tù làm nốtphần còn lại”(1).
Trong bài “Báo chí” viết năm 1924,Người viết: “Những điều tôi sẽ kể về báochí An Nam nó kỳ dị quá đến nỗi khó màtin được. Giữa thế kỷ XX này ở một đấtnước có đến 20 triệu dân mà không có lấymột tờ báo mẹ đẻ của chúng tôi… Ký giảngười bản xứ chỉ được xin phép bằngnhững biện pháp quanh co. Anh ta phảithuê tiền một người Pháp có địa vị và đượckính nể… Vì ông ta vẫn sẽ là sáng lập viêncủa tờ báo… Chỉ việc cho mượn tên mình,người Pháp kia hàng tháng nhận một sốtiền rất hậu mà người ký giả bản xứ phảitrả cho ông lâu dài, báo còn ra là còn phải
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
52
trả”(2).Tại Pari, thủ đô nước Pháp, Người sử
dụng quyền tự do báo chí cổ động mua báocách mạng. Người nói báo Le Paria kêugọi đoàn kết, đấu tranh cho tiến bộ về vậtchất và tinh thần của các dân tộc thuộc địa;giải phóng những người bị áp bức khỏi cáclực lượng thống trị, thực hiện tình yêuthương bác ái. “Tờ báo này là tờ báo củabạn, giúp bạn thoát khỏi cảnh nô lệ và sẽphát hành rộng rãi tại các thuộc địa, nhằmdẫn dắt mọi người bị bóc lột thuộc mọimàu da đoàn kết lại dưới lá cờ đỏ búa liềmđể trong một phong trào cách mạng quốctế rộng lớn quét sạch mọi kẻ bóc lột màchúng ta là những người cùng khổ”(3).
Khẳng định báo chí mang tính giai cấp,phục vụ nhân dân và cách mạng nên khithành lập Đảng, Người nói “phải xuất bảnngay một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyêntruyền” để giúp nhân dân hiểu rõ tình cảnhmất nước, thức tỉnh quần chúng tham giacách mạng. Năm 1941, xã luận báo ViệtNam độc lập, Người viết: “Tây nó làm chota ngu hèn. Báo Việt Nam độc lập cốt làmcho dân ta biết các việc, biết đoàn kết đặngđánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Namđộc lập, bình đẳng, tự do”(4).
Hồ Chí Minh coi tờ báo Đảng nhưnhững lớp huấn luyện giản đơn, thiết thựcvà rộng khắp; thông tin về những điều cầnbiết, cần làm về tuyên truyền, tổ chức, lãnhđạo và giúp cán bộ nâng cao trình độ chínhtrị và năng suất công tác. Nếu ai cắm đầu
làm việc mà không xem, không nghiên cứubáo Đảng thì khác nào nhắm mắt đi đêm,nhất định sẽ lúng túng, vấp váp, hỏng việc.
Từ ngày đầu của chính quyền non trẻ,Người ký lệnh ban hành Luật báo chí, chỉrõ những luật lệ cơ bản đối báo chí cáchmạng. Báo chí hoạt động đúng pháp luật làphải đưa thông tin trung thực về mọi mặt.Người dạy nhà báo cách viết, đặc biệt làcách viết ngắn. Khi viết, luôn tự hỏi mình:Vì ai mà mình viết? Mục đích viết làm gì?Viết cho ai? Viết như thế nào? “Viết để nêunhững cái hay, cái tốt của dân ta, của bộ độita, của cán bộ ta, của bạn ta. Đồng thời đểphê bình những khuyết điểm của chúng ta,của cán bộ, của nhân dân, của bộ đội.Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu.Nhưng phê bình phải phải đúng đắn. Nêucái hay, cái tốt, thì phải có chừng mực, chớphóng đại. Có thế nào, nói thế ấy”(5).
Nhà báo viết bài phải từ thực tế cuộcsống với những con số, những sự kiện đãđược xem xét kiểm tra, chọn lọc. Ngườilàm báo cần có trách nhiệm với công việcvà sản phẩm của mình. Thước đo của tự dobáo chí chính là nhận thức của công chúng.Phải học cách nói, tiếng nói của quầnchúng. Quần chúng là người cung cấpthông tin, tự do nêu nhận xét, người xâydựng, ủng hộ, phát hành báo chí, tự do phêbình, đánh giá sự trung thực của báo chí.Bởi vậy, làm báo phải rất cẩn thận về hìnhthức, về nội dung, về cách viết. Muốn cótài liệu thì phải tìm, bằng cách: nghe, hỏi,
thấy, xem và ghi chép. Người nhấn mạnh, báo chí phải chấp
hành pháp luật vì kẻ thù luôn thu thậpthông tin phá hoại cách mạng. Báo chí khiphê bình thì phải thật thà, chân thành, đúngđắn, không phải để địch lợi dụng để phảntuyên truyền. Nói chuyện tại Đại hội lầnthứ III của Hội Nhà báo Việt Nam, Ngườinói “Báo của ta đã có một địa vị quan trọngtrong dư luận thế giới. Địch rất chú ý, bạnrất quan tâm đến báo chí ta. Cho nên, làmbáo phải hết sức cẩn thận về hình thức, vềnội dung, về cách viết”(6). Giữ bí mật thểhiện trách nhiệm và bản lĩnh chính trị củangười làm báo. Thông tin hay, chính xác,kịp thời, nhưng không được để kẻ địch lợidụng chống phá ta. Báo chí chấp hành phápluật là phản ánh, hướng dẫn dư luận xã hội,thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân.
Người nói, theo Lênin, trách nhiệm báochí là người tuyên truyền, người cổ động,người tổ chức chung, người lãnh đạochung. Vì vậy, nhiệm vụ của người làm báolà quan trọng và vẻ vang. “Cán bộ báo chícũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, tranggiấy là vũ khí sắc bén của họ. Để làm trònnhiệm vụ vẻ vang của mình thì cán bộ báochí phải tu dưỡng đạo đức cách mạng. Cốgắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và vănhóa, chú trọng học tập chính trị để nắmvững chủ trương chính sách của Đảng vàChính phủ, đi sâu vào thực tế, đi sâu vàoquần chúng lao động”(7).
Tư tưởng của Người về phẩm chất đạo
đức của người cách mạng gồm 4 tiêu chícơ bản là: Trung với nước, hiếu với dân;Yêu thương con người; Cần kiệm liêmchính, chí công vô tư; Có tinh thần quốc tếtrong sáng. Nhà báo cách mạng là ngườicách mạng nên cần có các phẩm chất đó.Không có đạo đức cách mạng, người tàigiỏi mấy cũng không lãnh đạo, hướng dẫnđược nhân dân.
Hồ Chí Minh nêu tấm gương mẫu mựcvề đạo đức báo chí cách mạng. Người coimỗi bài báo là “tờ hịch cách mạng” nhằmlàm tốt sự nghiệp “phò chính, trừ tà”. Bởivậy, “tất cả những người làm báo (ngườiviết, người in, người sửa bài, người pháthành v.v.) phải có lập trường chính trị vữngchắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lốichính trị đúng thì những việc khác mớiđúng được. Cho nên báo chí của ta đềuphải có đường lối chính trị đúng”(8).
Tấm gương đạo đức báo chí mẫu mựccủa Hồ Chí Minh nổi bật lên trước hết ở tácphong quần chúng, dân chủ, nêu gương.Báo chí của ta không phải để một số ítngười xem, mà để phục vụ nhân dân, đểtuyên truyền, giải thích đường lối, chínhsách của Đảng và chính phủ, cho nên phảicó tính chất quần chúng và tính chiến đấu.Một tờ báo không được đại đa số hamchuộng thì không xứng đáng là một tờ báo.
Người thường yêu cầu báo chí thực hiệntrách nhiệm phát hiện, biểu dương gươngcán bộ tốt, trong sạch, cần kiệm liêm chính,chí công vô tư, tận tuỵ với công việc;
53
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
gương người tốt, việc tốt ở các cấp, cácngành, các giới, nhất là những sáng kiếnnâng cao năng suất lao động. Người nói,một tấm gương sống còn có giá trị hơn mộttrăm bài diễn văn tuyên truyền. Những tácphẩm báo chí của Người đều là những mẫumực về giáo dục đạo đức học đi đôi vớihành, lý luận liên hệ với thực tiễn, học đểlàm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sựđoàn thể, nhân dân, Tổ quốc và nhân loại.Năm 1968, nói về việc xuất bản sách“Người tốt, việc tốt” nhằm tuyên truyền,nêu gương những nhân tố tích cực, Ngườinói: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phảisống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộcbao nhiêu sách mà sống không có tình, cónghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác -Lênin được”(9).
Hồ Chí Minh nói báo chí phải kết hợpxây và chống, xây tích cực, chống quyếtliệt, nhưng xây là chính. Người làm báocần tin tưởng sâu sắc vào bản chất tốt đẹpcủa con người. Mỗi con người có thiện vàác ở trong lòng; cần phải biết làm cho phầntốt trong mỗi con người nẩy nở như hoamùa xuân, và phần xấu bị mất dần đi.“Người đời không phải thánh thần, khôngai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta khôngsợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không biếtkiên quyết sửa nó đi”(10). Thang thuốc haynhất để chữa khuyết điểm là thiết thực phêbình và tự phê bình. Đây là vũ khí rất cầnthiết và rất sắc bén, nó giúp chúng ta sửachữa sai lầm và phát triển ưu điểm. Đối với
báo chí cũng vậy. Phê bình phải nghiêmchỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có sách,mách có chứng. Phải phê bình với tinh thầnthành khẩn, xây dựng, “trị bệnh cứungười”. Chớ phê bình lung tung. “Phê bìnhđúng thì phải đăng báo nhận khuyết điểmvà quyết tâm sửa chữa. Nếu phê bình saithì đăng báo giải thích. Quyết không được“phớt” lời phê bình và “trù” người phêbình”(11).
Người thường nói, một dân tộc, mộtđảng và mỗi con người, ngày hôm qua làvĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất địnhhôm nay và ngày mai vẫn được mọi ngườiyêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ khôngtrong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cánhân ... “Mỗi con người đều có thiện và ácở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốtở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùaxuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là tháiđộ của người cách mạng ...”(12). Ngườiphê bình các báo: “Bài báo thường quá dài,“dây cà ra dây muống”, không hợp với thờigiờ và trình độ của quần chúng. Thườngnói một chiều và thổi phồng các thànhtích… Đưa tin hấp tấp, nhiều khi thiếu thậntrọng. Thiếu cân đối… Khuyết điểm nặngnhất là dùng tiếng nước ngoài quá nhiều vànhiều khi dùng không đúng”(13).
Người dạy nhà báo cần nắm vững chứcnăng, pháp luật báo chí; hiểu rõ tôn chỉ,nhiệm vụ của tờ báo; cần thường xuyên rènluyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất cáchmạng, cần mẫn tích luỹ kiến thức nhiều
54
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
55
mặt, nhất là về lý luận, phương pháp luận,về thực tiễn và về pháp luật..., phấn đấunâng cao nghiệp vụ chuyên môn; nâng caotinh thần phê bình và tự phê bình, giữ gìnlương tâm và đạo đức nghề nghiệp trongsáng. Mình viết ra cốt là để giáo dục cổđộng; nếu người xem mà không nhớ được,không hiểu được, là viết không đúng, nhằmkhông đúng mục đích. Muốn cho ngườixem hiểu được, nhớ được, làm được, thìphải viết cho đúng trình độ của người xem,viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng chữ nhiều.Những chữ mà không biết rõ thì chớ dùng.“Nói tóm lại viết cũng như mọi việc khác,phải có chí, chớ dấu dốt, tự phê bình màtiến bộ. Quyết tâm thì việc gì khó mấycũng làm được” (14).
Tám mươi tám năm qua, báo chí cáchmạng Việt Nam đã trưởng thành mạnh mẽ,đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của dântộc. Tuy nhiên báo chí ta hiện nay vẫn cònnhiều hạn chế, yếu kém. Đại hội đại biểutoàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: Quản lý vănhoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếuchặt chẽ. Môi trường văn hoá bị xâm hại,lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuầnphong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạmvà sự xâm nhập của các sản phẩm và dịchvụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất làtrong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại.Phương hướng của Đảng là “Chú trọngnâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽchức năng thông tin, giáo dục, tổ chức vàphản biện xã hội của các phương tiện thông
tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đấtnước; khắc phục xu hướng thương mạihoá, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạtđộng báo chí, xuất bản. Tập trung đào tạo,bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt độngbáo chí, xuất bản vững vàng về chính trị,tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứngtốt yêu cầu của thời kỳ mới. Rà soát, sắpxếp hợp lý mạng lưới báo chí, xuất bảntrong cả nước theo hướng tăng cường hiệuquả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình,cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất - kỹ thuậttheo hướng hiện đại. Phát triển và mở rộngviệc sử dụng internet, đồng thời có biệnpháp quản lý, hạn chế mặt tiêu cực, ngănchặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng in-ternet để truyền bá tư tưởng phản động, lốisống không lành mạnh”(15)r
………………..(1), (2), (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t1, Nxb CTQG,
H.,1995, tr 27-28, 403 - 404, 461.
(4) Báo Việt Nam độc lập, Số 101 ngày 1.8.1941.
(5), (14) Sđd, t7. tr.118, 124.
(6), (7), (11), (13) Sđd, t10, tr.615, 616, 614, 614.
(8) Sđd, t9. tr.414.
(9), (12) Sđd, t12. tr.554, 558.
(10) Sđd, t4. tr.166.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.,2011, tr.225-226.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, 4, 7,9, 10, 12, Nxb
CTQG, H.,1996.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.,2011.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &Truyền thông.- 2013.- Số tháng 6.- Tr.8 –11.
BÁC HỒ VỚI BÁO NHâN DâN VÀ NHữNG NGƯỜI
LÀM BÁO ĐẢNG TRONG THỜI kỳ kHÁNG CHIếN
?THS NGUYỄN THỊ HảO
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
56
Báo Nhân Dân là tiếng nói chính
thức của Đảng, Nhà nước và của
nhân dân Việt Nam, là ngọn cờ
chính trị, tư tưởng của Đảng trên mặt trận
đấu tranh với kẻ thù. Báo không chỉ thực
hiện chức năng tuyên truyền, cổ động tập
thể, định hướng dư luận, bảo vệ chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, mà còn có
chức năng tổ chức tập thể, tập hợp quần
chúng dưới ngọn cờ cách mạng, kiên quyết
đấu tranh chống lại những luận điệu và
hành động sai trái của các thế lực thù địch.
Chính vì vậy, báo Nhân Dân luôn được
Trung ương Đảng quan tâm, chỉ đạo sát
sao. Ngay từ khi báo mới ra đời, Đảng và
Nhà nước ta đã ra nhiều Nghị quyết, trong
đó, chỉ rõ nhiệm vụ chính trị cũng như
phương châm công tác của báo Nhân Dân,
đánh giá những mặt đã làm được và những
mặt còn hạn chế, đồng thời, chỉ ra phương
hướng khắc phục.
Không chỉ có sự quan tâm chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước, báo Nhân Dân còn đặc
biệt nhận được sự quan tâm, dìu dắt của
Bác Hồ. Với Bác, tờ báo Nhân Dân - tờ báo
đảng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong
sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Bác nói:
“Tờ báo Đảng là như những lớp huấn luyện
giản đơn, thiết thực và rộng khắp. Nó dạy
bảo chúng ta những điều cần biết, cần làm
về tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và công
tác. Hằng ngày, nó giúp nâng cao trình độ
chính trị và năng suất công tác của chúng
ta. Nếu ai cắm đầu làm việc, mà không
xem, không nghiên cứu báo Đảng, thì khác
nào nhắm mắt đi đêm, nhất định sẽ lúng
túng, vấp váp, hỏng việc. Vì vậy, cán bộ
trong Đảng và ngoài Đảng, toàn thể Đảng
viên và cốt cán, cần phải xem báo Đảng”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
xuyên viết bài cho báo Nhân Dân. Từ số
báo đầu tiên (11.3.1951) đến số 5526
(1.6.1969), Bác viết nhiều xã luận đăng
trong mục “Nói mà nghe”. Tổng cộng trong
vòng 18 năm, Bác Hồ đã viết cho báo Nhân
Dân 1.205 bài báo dưới nhiều bút danh
khác nhau: CB, Chiến Đấu, Chiến Sĩ, CS,
K.C, La Lập, Lê, Lê Ba, Lê Nông, Lê
Thanh Long, L.T., Luật sư Th.Lam, Nói
Thật, Ph.K.A, T., T.L, T.Lan, Thanh Lan,
Trần Lam, Trần Lực, Tuyết Lan, V.K., Việt
Hồng. Trong đó, bút danh CB được dùng
nhiều nhất (ở 706 bài), tiếp theo là bút danh
TL với 240 bài(2).
Không chỉ thường xuyên viết bài cho
báo, Người còn thường xuyên thăm hỏi,
khen ngợi báo, đồng thời cũng nghiêm túc
nhắc nhở, phê bình những thiếu sót của cán
bộ, phóng viên tòa soạn. Về điều này, nhà
báo Ngô Thi (báo Nhân Dân) đã kể lại: “...
Một hạnh phúc lớn lao đã đến với tập thể
báo Nhân Dân: Sáng ngày 18.7.1957, Bác
Hồ chính thức thăm báo. Hai lần trước,
nhân đi thị sát tình hình, Bác có ghé qua
khu nhà 71 Hàng Trống. Anh chị em chúng
tôi tề chỉnh đón Bác nhưng Bác lại đi thẳng
xuống nhà ăn. Bác vui lòng thấy gian bếp
sạch sẽ, gọn gàng. Bác gặp mặt toàn thể
cán bộ nhân viên tòa soạn. Mọi người đứng
quanh, ai cũng muốn được gần Bác. Bác
khuyên mọi người đoàn kết, cố gắng học
tập và công tác, hết lòng phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Bác nói đại ý: Công việc
cách mạng, ở vị trí nào cũng quan trọng.
Việc nhỏ, việc lớn, đều cần phải làm tốt.
Bác giơ chiếc đồng hồ quả quýt và giảng
giải thêm: “Đồng hồ chạy được là nhờ các
chi tiết hợp thành. Nếu thiếu một đinh ốc,
đồng hồ không còn chạy được”. Im phăng
phắc, anh chị em nghe rõ lời Người”(3).
Còn nhà báo Trần Quang Huy (báo
Nhân Dân) thì ghi nhớ mãi lời dặn của Bác
về trách nhiệm của người cầm bút viết báo
và biên tập báo: “Đăng lên báo là chú phải
chịu trách nhiệm. Không phải là Bác. Cho
nên chú phải xem kỹ. Chỗ nào cần chữa,
chú phải chịu trách nhiệm chữa”. Nhà báo
còn nhớ lại: “... Có lần chúng tôi dọn chỗ
nhà sàn của dân đã bỏ trống. Chúng tôi
trồng rau cải ở chỗ chuồng trâu cũ. Được
mấy luống cải lớn lắm. Anh em lấy mấy
cây cải to đưa sang biếu Bác. ở rừng thiếu
rau lắm. Bác hỏi tại sao cây rau to. Anh em
trình bày. Bác nói: “Các chú làm báo cũng
như trồng rau. Phải chọn chỗ đất nào tốt
nhất trồng rau cho cây rau to. Các chú làm
báo cũng phải chọn đề tài, chọn vấn đề, tức
là chọn chỗ, chọn việc, làm sao phát triển
như cây rau, mới thành công. Bác cám ơn
các chú ở báo Nhân Dân đã biếu bác hai
cây rau to”(4).
Như vậy, không chỉ dành thời gian thăm
hỏi, động viên cán bộ, phóng viên, Người
còn tận tình hướng dẫn hoạt động của báo
Nhân Dân, từ nội dung tuyên truyền, hình
thức trình bày, ngôn ngữ, văn phong, đến
việc đào tạo, rèn luyện năng lực chuyên
môn cho cán bộ... Tại Đại hội lần thứ ba
Hội nhà báo Việt Nam ngày 8.9.1962, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu rằng: “...
Báo chí của ta đã có một địa vị quan trọng
trong dư luận thế giới. Địch rất chú ý, bạn
57
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
rất quan tâm đến báo chí ta. Cho nên làm
báo phải hết sức cẩn thận về hình thức, về
nội dung, về cách viết. Ngoài những đồng
chí đã làm báo trong những năm cách
mạng và kháng chiến, số đông cán bộ báo
chí ta đều mới vào nghề, vì thế mà kinh
nghiệm còn ít, trình độ chưa cao. Muốn
tiến bộ, muốn viết hay thì phải cố gắng học
hỏi, ra công rèn luyện. Kinh nghiệm của tôi
là thế này: mỗi khi viết một bài báo, thì tự
đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm
gì? Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu,
ngắn gọn dễ đọc? Khi viết xong thì nhờ anh
em xem và sửa giùm. Chớ có tự ái cho bài
của mình là “tuyệt” rồi. Tự ái tức là tự phụ,
mà tự phụ là kẻ địch ngăn chặn con đường
tiến bộ của chúng ta... Hiện nay, các báo
thường có ảnh và tranh vẽ. Đó là một tiến
bộ nhưng ảnh thì thường lèm nhèm, vẽ thì
chưa khéo lắm. Cần phải cố gắng nhiều
hơn nữa...”(5).
Nhà báo Lê Tiến Dũng (báo Nhân Dân)
trong bài : “Bác Hồ nói về việc phê bình
trên báo chí” đăng trên Nội san Nhân Dân
đã viết rằng: “Bác không những là một nhà
báo vĩ đại mà Bác còn có nhiều ý kiến quan
trọng đối với sự phát triển của báo chí. Bác
rất quan tâm đến việc phê bình trên báo,
xem đó là một trong những nhiệm vụ trọng
yếu của báo chí cách mạng (...). Bác cũng
chỉ ra là phải phê bình như thế nào cho tốt,
cho có hiệu quả. Bác nói: “Phê bình phải
nghiêm chỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có
sách, mách có chứng. Phải phê bình với
tinh thần thành khẩn, xây dựng, trị bệnh
cứu người. Chớ phê bình lung tung, không
chịu trách nhiệm’’(6).
Bác đặc biệt quan tâm đến việc dùng từ
ngữ tiếng Việt của nhà báo. Thời kháng
chiến chống Mỹ, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam phát động phong trào “Ba đảm
nhiệm”, nhưng Bác Hồ muốn dùng “Ba
đảm đang” cho Việt Nam hơn. Ban Biên
tập báo Nhân Dân cũng như các đồng chí
lãnh đạo và cán bộ Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ rất tâm đắc và hoan nghênh ý
kiến của Bác Hồ(7). Như vậy, chỉ một việc
làm theo Bác Hồ, cố gắng dùng tiếng mẹ
đẻ để giữ gìn và làm phong phú thêm tiếng
Việt để bảo đảm tính khoa học, dân tộc, đại
chúng của nền báo chí Việt Nam cũng là sự
phấn đấu gian khổ không những đối với
mỗi nhà báo mà còn đối với cả xã hội. Nhà
báo Hà Đăng (báo Nhân Dân) đã kể lại có
lần, đồng chí Trường Chinh đã hỏi: “Tôi
muốn hỏi đồng chí có chú ý là trong bài
viết của mình, Bác rất ít trích dẫn không?
Quả có như vậy, ngay cả những bài Bác
viết về chủ nghĩa cộng sản, về Lênin, về
cách mạng tháng Mười, cũng chẳng thấy
Bác mấy trích dẫn. Đồng chí Trường Chinh
nói tiếp: Lúc đầu tôi tưởng đó là ngẫu
nhiên. Đọc nhiều mới thấy Bác có dụng ý.
Tôi có thắc mắc và hỏi thẳng Bác về điều
58
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
đó. Bác nói: Mác và Lênin là những bậc
thầy của cách mạng. Mác, Lênin nói rất
đúng và chúng ta phải học tập. Nhưng dù
đúng đến đâu, những việc, những điều mà
Mác, Lênin nói lúc bấy giờ cũng là ở trong
một hoàn cảnh khác, không hoàn toàn là
những việc, những điều mà chúng ta đang
nói và làm trong hoàn cảnh của ta. Vì vậy,
phải học tập, nắm vững tinh thần những lời
chỉ dẫn để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể,
nói cho sát thực tế, không nên lấy trích dẫn
để thay cho điều mình phải nghĩ tới”(8).
Được sự chỉ bảo, nhắc nhở thường xuyên
của Bác, báo Nhân Dân đã có những đóng
góp đáng kể vào việc bảo vệ sự trong sáng
của tiếng Việt nói chung và việc dùng tiếng
ta thay những từ Hán Việt nói riêng. Nhà
báo Việt Phương (báo Nhân Dân) và nhiều
đồng chí làm báo nổi tiếng đã kể về những
lần Bác duyệt bài, chữa bài cho báo. Chữa
bài, Bác thường nói: “Để Bác giúp các chú
chặt câu dài thành câu ngắn”. Bác bảo:
“Viết câu dài vì ưa giảng giải, biện hộ,
tham lam muốn khai thác hết mọi khía
cạnh”. Bác ví: “Các chú cứ ham trói voi bỏ
rọ. Chính vì quá nhiều chi tiết, nhiều ý cho
nên cái chính dễ bị lẫn trong cái phụ. Viết
câu ngắn, văn sẽ mạnh hơn”. Bác kỵ nhất
những gì dễ đưa đến văn hoa, sáo rỗng.
Người cho rằng, khi chữa, nên bỏ bớt các
tính từ, nhất là những tính từ thậm xưng.
Bác thường bảo: “Bỏ những chữ to, đẹp
này đi. Hãy dùng những chữ “nhỏ” để cho
cái lớn của người và sự việc tự nó hiện lên”
(...). Bác dặn, khi viết phải chọn những
cách diễn đạt chuẩn xác, không đại khái.
Sao cho người đọc chỉ hiểu theo một nghĩa
duy nhất. Diễn đạt ý và tình đúng mức
nhất, “không cao hơn cũng không thấp
hơn”. Có hình ảnh thì càng hay. Đọc một
câu nhàn nhạt, đều đều, Bác thường nói:
“Thế này cũng được, nhưng có cách nào tốt
hơn không ?”. Và sau khi Người sửa chữa
một vài chỗ tưởng chừng đơn giản thì câu
văn sáng rõ hẳn lên”(9).
Các bài Bác viết cho báo Nhân Dân
được anh chị em tòa soạn vui mừng đón
nhận và qua đó, rút ra được những bài học,
những kinh nghiệm quý báu về nghề báo.
“Bài Bác viết đi thẳng vào vấn đề. Văn của
Người có nét đặc trưng riêng, đa dạng,
phong phú, dí dỏm, sâu sắc, ngắn gọn mà
không khô khan, khúc chiết, rõ ràng mà
không mắc bệnh hô khẩu hiệu. Người
thường dùng lối so sánh, ví von hoặc ca
dao, tục ngữ, thành ngữ. Có khi là một vần
thơ lục bát hoặc lẩy Kiều, một từ tượng
thanh, tượng hình, hay lối chơi chữ được
Người dùng hợp lý, gây bất ngờ. Trong một
số bài viết cho báo Nhân Dân, Bác đặt đầu
đề thật sắc sảo. Về việc Mỹ xâm lược mà
vẫn khoe “văn minh, tốt đẹp”, Bác viết một
loạt bài: “Mỹ mà không đẹp”, “Mỹ mà
phong không thuần, tục không mỹ”, “Quân
59
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Mỹ chết nhăn răng, tướng Mỹ nhăn răng
cười”, “Taylo rồi chân cũng lo”, “Tướng
Vét mỡ lợn”, “Bỗng dưng mua não, rước
sầu làm chi”, “Phong trần ai cũng ghét
ai”... Lối chơi chữ của Người cũng rất gây
ấn tượng. Thời kỳ chúng ta hô hào tiết
kiệm để xuất khẩu, nhiều người đưa ra
khẩu hiệu “ăn lạc rang như ăn gang thép”,
Người viết nhẹ nhàng hơn “Làm thế nào để
cho Lạc thêm vui”(10).
Ngay trong các chi tiết bài báo, đầu đề,
Bác cũng thường xuyên góp ý với Bộ Biên
tập của báo. Nhà báo Hồ Dưỡng (báo Nhân
Dân) kể lại: “Lúc mới về thủ đô (1954), cơ
quan báo còn đóng ở Đồn Thủy. Một buổi
tối, Bác Hồ đi dạo, đến chỗ chúng tôi. Bác
nói chuyện vui về cái hay và cái buồn cười
còn thấy ở Hà Nội, rồi Bác nói về viết báo,
đại ý: “Có phải các chú ăn cơm, có tí ớt
mới thấy mặn mà không? Mỗi bài báo cũng
vậy, phải có ớt, tránh khô khan, nhạt nhẽo”.
Chất ớt đúng là không thể thiếu trong báo,
vừa cay, có khi chảy nước mắt, vừa thấm
sâu vào lòng. Tôi suy nghĩ mãi về bài học
sâu sắc mà lý thú đó”(11).
Như vậy, báo Nhân Dân - cơ quan ngôn
luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, luôn
nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của
không những Trung ương Đảng, mà còn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt quá
trình phát triển của mình, các thế hệ cán bộ,
phóng viên Báo Nhân Dân luôn nắm vững
đường lối chính trị, tuân thủ sự chỉ đạo
sáng suốt của Trung ương Đảng và đặc
biệt, luôn ghi nhớ sự chăm sóc ân cần và
những lời dạy sâu sắc của Bác Hồ đối với
những người làm báo Đảng. Những lời
nhắc nhở ân cần, sâu sắc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã thấm sâu vào tâm trí những
cán bộ, biên tập viên, phóng viên báo Nhân
Dân, trở thành kim chỉ nam cho hành động.
Từ khi ra đời đến nay, trong quá trình hoạt
động của mình, tờ báo Nhân Dân, những
người làm báo Nhân Dân luôn ghi nhớ và
thực hiện những lời dạy bảo của Bác, phấn
đấu trở thành những chiến sĩ trên mặt trận
tư tưởng và văn hóa của Đảng, được nhân
dân yêu quý và tin cậyr
………………..
(1) “Nội san Nhân Dân” (1985,1986,1987), Lưu
hành nội bộ, tr.102.
(2), (5), (6), (7), (8) Hồi ký “Nhớ một thời làm báo
Nhân Dân”, Nxb CTQG, H., 1996. tr.1, 1, 8-11, 8, 3.
(3), (4), (9), (10), (11) Hồ Chí Minh, Về công tác
tư tưởng, Nxb Sự Thật, H.,1985, tr. 105, 55, 31, 33, 38.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &
Truyền thông.- 2013.- Số tháng 5.- Tr.52
– 54.
60
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
61
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
1. Đảng lãnh đạo báo chí - mộtnguyên tắc, đòi hỏi khách quan
Báo chí là một bộ phận cấu thành quan
trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng, văn
hóa của Đảng; là một trong những công cụ
sắc bén, hiệu quả để xây dựng nền tảng tư
tưởng chính trị của Đảng; tuyên truyền chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, động viên,
cổ vũ, tổ chức nhân dân thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; đồng thời là chiếc cầu hữu nghị,
là cánh cửa để Việt Nam mở rộng giao lưu,
hội nhập với thế giới.
Xuất phát từ vai trò to lớn, quan trọng
của báo chí đối với đời sống xã hội, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng
định: báo chí có tính giai cấp, tính đảng,
tính nhân dân, tính văn hóa. Đảng cách
mạng phải lãnh đạo báo chí cách mạng, đó
là nguyên tắc bất di bất dịch. Thực tiễn hoạt
động báo chí ở nước ta 89 năm qua đã thể
hiện một cách sinh động báo chí là mũi
nhọn trên mặt trận chính trị, tư tưởng, văn
hóa của Đảng. Cuộc đấu tranh về chính trị,
tư tưởng thể hiện trên trận tuyến báo chí,
dù thời chiến hay thời bình thì tính chất,
cường độ về cơ bản là không khác nhau và
ngày càng cam go, quyết liệt. Vì vậy, trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã
dành cho báo chí sự lãnh đạo sát sao, sự
quan tâm sâu sắc, coi báo chí thực sự là vũ
khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, văn hóa.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế của nước ta ngày
càng sâu rộng. Cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và
phần ii
báo Chí - những vấn Đề lý luận
--------
ĐỔi Mới, nÂng CAo nĂng lỰC lÃnh ĐẠo
CỦA ĐẢng ĐỐi với báo Chí tRướC YÊu Cầu Mới
?PGS, TS NGUYỄN THẾ KỶ
Ban Tuyên giáo Trung ương
62
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ,
sâu sắc, tạo ra nhiều cơ hội và cả những
thách thức. Cách thức thu nhận, trao đổi
thông tin (mạng internet toàn cầu, các trang
thông tin điện tử, các blog cá nhân, sự
tương tác nhiều chiều trong thông tin); các
trào lưu, các khuynh hướng tư tưởng xâm
nhập, tác động vào nước ta ngày càng
mạnh mẽ, nhiều chiều. Các thế lực thù địch
tăng cường chống phá ta trên nhiều mặt,
nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn
hóa, báo chí, thực hiện âm mưu "diễn biến
hòa bình" ngày càng thâm độc, nham hiểm
hơn. Trong những năm tới, tình hình thế
giới, khu vực vừa đi theo xu thế lớn là hoà
bình, hợp tác và phát triển, vừa tiềm ẩn,
phát sinh những yếu tố bất trắc, khó lường.
Bên cạnh những ưu điểm, thành tích đạt
được, công tác tư tưởng nói chung, công
tác báo chí nói riêng đang bộc lộ một số
hạn chế cần khắc phục và đổi mới mạnh
mẽ trên nhiều mặt. Hiện nay đang xuất hiện
nhiều vấn đề rất mới về lý luận và thực
tiễn, đòi hỏi những người làm công tác tư
tưởng nói chung, báo chí nói riêng phải tích
cực, chủ động nghiên cứu, giải quyết; đòi
hỏi Đảng ta phải đổi mới tư duy, nâng cao
năng lực lãnh đạo đối với lĩnh vực trọng
yếu này.
2. Đổi mới tư duy, phương thức lãnhđạo của Đảng đối với công tác báo chí
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng ta khẳng
định: sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước đối với báo chí là đòi hỏi khách
quan, khoa học. Trước hết, đòi hỏi này xuất
phát từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
do Đảng lãnh đạo. Đảng lãnh đạo đất nước
bằng đường lối, nghị quyết và thể chế hóa
đường lối, nghị quyết đó bằng pháp luật,
chính sách của Nhà nước; vận động, tổ
chức, lãnh đạo các tầng lớp nhân dân hăng
hái thực hiện bằng các phong trào hành
động cách mạng. Theo đó, Đảng lãnh đạo
báo chí là đề ra nghị quyết, chỉ thị về công
tác báo chí; là định hướng quy hoạch, kế
hoạch phát triển hệ thống báo chí, là định
hướng nội dung thông tin, tuyên truyền của
báo chí; lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ,
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối
với tổ chức đảng và đảng viên trong cơ
quan báo chí; lãnh đạo các đoàn thể chính
trị - xã hội trong cơ quan báo chí; thể chế
hóa đường lối, quan điểm của Đảng về báo
chí bằng pháp luật, chính sách của Nhà
nước trong hoạt động báo chí.
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta
tiến hành công cuộc đổi mới đất nước,
Đảng ta đã có bước chuyển quan trọng
trong việc đổi mới tư duy, phong cách và
phương thức lãnh đạo đối với công tác báo
chí. Để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội VI
của Đảng, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra
Chỉ thị số 63-CT/TW ngày 25/7/1990 về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác báo chí, xuất bản.
Đại hội VII của Đảng thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991).
Đối với công tác báo chí, Đảng ta khẳng
định: “Bảo đảm quyền được thông tin,
quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát
triển các phương tiện thông tin đại chúng,
thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp thời,
chân thực và bổ ích”(1).
Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới
đất nước, báo chí nước ta đã có những khởi
sắc đáng mừng. Tuy nhiên, hoạt động trong
cơ chế thị trường, một số cơ quan báo chí
và nhà báo còn bộc lộ những non kém, lệch
lạc. Trước yêu cầu mới, ngày 17/10/1997,
Bộ Chính trị (khoá VIII) ban hành Chỉ thị
số 22- CT/TW về tiếp tục đổi mới và tăng
cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí.
Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII)
xác định quyết tâm hiện đại hóa hệ thống
thông tin đại chúng; sắp xếp hợp lý nhằm
tăng hiệu quả thông tin; xây dựng và từng
bước thực hiện chiến lược truyền thông
quốc gia phù hợp với đặc điểm nước ta và
xu thế phát triển của truyền thông thế giới;
ngăn chặn, hạn chế thông tin độc hại, tiêu
cực qua mạng internet; không ngừng nâng
cao trình độ chính trị và nghiệp vụ, chất
lượng tư tưởng, văn hóa của hệ thống
thông tin đại chúng; khắc phục khuynh
hướng thương mại hoá trong hoạt động báo
chí, chăm lo đặc biệt về định hướng chính
trị, tư tưởng, văn hóa cũng như kỹ thuật đối
với báo chí.
Trong Nghị quyết Đại hội IX, khi đề cập
đến công tác lãnh đạo báo chí, Đảng ta tiếp
tục khẳng định quan điểm mang tính khoa
học: "phát triển đi đôi với quản lý tốt...;
khắc phục khuynh hướng “thương mại
hóa” trong hoạt động báo chí; nâng cao bản
lĩnh chính trị, trình độ văn hóa và nghề
nghiệp, phẩm chất đạo đức của đội ngũ nhà
báo”(2).
Sau Đại hội IX, Hội nghị Trung ương
năm (khoá IX) ra Nghị quyết về công tác
tư tưởng, lý luận. Đối với báo chí, Nghị
quyết khẳng định: "Báo chí nước ta là báo
chí cách mạng, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự giám
sát và xây dựng của nhân dân"(3). Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành một số
chỉ thị, thông báo nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối
với công tác báo chí, trong đó có một số
văn bản quan trọng như: Thông báo kết
luận số 162-TB/TW ngày 01/12/2004 của
Bộ Chính trị “Về một số biện pháp tăng
cường quản lý báo chí trong tình hình
mới”.
Sau gần 3 năm lãnh đạo thực hiện
Thông báo kết luận số 162-TB/TW, ngày
11/10/2006 Bộ Chính trị (khoá X) ra Thông
báo kết luận số 41-TB/TW. Trong văn bản
này, Bộ Chính trị nêu nhiệm vụ chủ yếu
của các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí,
các cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
63
phải “chấn chỉnh ngay tình trạng một số cơ
quan chủ quản buông lỏng sự lãnh đạo,
quản lý công tác báo chí; một số báo, đài,
tạp chí xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng
phục vụ, vi phạm Luật Báo chí, có sai
phạm về quan điểm, đường lối, coi nhẹ
chức năng chính trị, tư tưởng của báo chí
cách mạng. Xử lý nghiêm minh sai phạm
của cán bộ lãnh đạo, phóng viên, nhân viên
các cơ quan báo chí, nhất là những đơn vị,
cá nhân sai phạm nghiêm trọng, lặp đi lặp
lại, kéo dài”.
Ngày 30/3/2007, Bộ Chính trị ban hành
Thông báo kết luận số 68-TB/TW về tiếp
tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước đối với báo chí.
Ngày 09/5/2007, Ban Bí thư ban hành Kế
hoạch số 03-KH/TW đề ra một số biện
pháp cụ thể nhằm thực hiện Thông báo kết
luận số 68-TB/TW của Bộ Chính trị. Để cụ
thể hóa, hiện thực hóa sự lãnh đạo của
Đảng đối với báo chí trên các mặt: nội
dung chính trị, tư tưởng; công tác tổ chức
và cán bộ; sự phối hợp giữa các cơ quan
Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, quản lý
báo chí, cuối năm 2007, Ban Bí thư ban
hành ba quyết định quan trọng là Quyết
định số 75- QĐ/TW, Quyết định số 155-
QĐ/TW và Quyết định 157-QĐ/TW.
Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành
Trung ương (khóa X) đã thảo luận và ra
Nghị quyết “Về công tác tư tưởng, lý luận,
báo chí trước yêu cầu mới”. Nghị quyết
nhấn mạnh: “Báo chí là tiếng nói của Đảng,
Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và
là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật; đảm bảo tính tư tưởng, tính chân thật,
tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa
dạng”.
3. Tăng cường thể chế hóa đường lối,nghị quyết của Đảng thành chính sách,pháp luật của Nhà nước về công tác báo chí
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, sự
lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực đời
sống xã hội chủ yếu được thông qua Nhà
nước. Ở lĩnh vực báo chí, đó là việc thể chế
hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của
Đảng thành luật pháp, kế hoạch, chính sách
về báo chí; kiểm tra hoạt động của tổ chức
đảng và đảng viên trong các cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí. Nội dung quản lý
nhà nước đối với hoạt động báo chí được
đặt ra ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa vừa ra đời. Nội dung quản lý
được thể hiện qua một số văn bản như: Sắc
lệnh số 282 ngày 24/12/1956 do Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký, quy định chế độ hoạt
động của báo chí; quy định về những điều
báo chí không được thông tin; quy định thủ
tục cấp giấy phép và điều kiện hoạt động
của báo chí và lưu chiểu; quy định hình
thức kỷ luật nếu báo chí vi phạm. Ngày
20/5/1957, Quốc hội đã thông qua quyết
định lấy Sắc lệnh này làm Luật Báo chí đầu
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
64
tiên của Nhà nước ta. Từ đó đến nay, cùng
với sự phát triển của cách mạng Việt Nam,
hệ thống văn bản pháp luật về báo chí được
sửa đổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện.
Năm 1989 Quốc hội ban hành Luật Báo
chí. Năm 1999, tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội
khóa X đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Báo chí (sau đây gọi
tắt là Luật Báo chí năm 1999).
Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, thông
báo kết luận của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (khóa X),
các cơ quan liên quan đã tham gia xây
dựng nhiều đề án, quy chế quan trọng. Đó
là Đề án Luật Sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật Báo chí (năm 1989, năm 1999);
xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày
28/5/2007 về Quy chế phát ngôn và cung
cấp thông tin cho báo chí; Thông tư số
07/2007/TT-VHTT của Bộ Văn hóa -
Thông tin hướng dẫn cấp, đổi và thu hồi
Thẻ nhà báo; Quyết định số 52/2008/QĐ-
BTTTT ngày 02/12/2008 của Bộ Thông tin
và Truyền thông về việc ban hành Quy chế
xác định nguồn tin trên báo chí; Thông tư
số 13/2008/TT-BTTTT ngày 31/12/2008
của Bộ Thông tin và Truyền thông hướng
dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ
quan đại diện, phóng viên thường trú trong
nước của các cơ quan báo chí; Nghị định
số 97/2008/NĐ-CP ngày 28/8/2008 của
Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ internet và thông tin điện tử trên
internet; Nghị định số 28/2009/NĐ-CP
ngày 20/03/2009 của Chính phủ quy định
xử phạt hành chính trong quản lý, cung
cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin
điện tử trên internet; Quy hoạch truyền
dẫn, phát sóng phát thanh, truyền hình đến
năm 2020; Quy hoạch hệ thống báo in, tạp
chí in đến năm 2020; Thông tư số
18/2009/TT-BTTTT ngày 28/5/2009 của
Bộ Thông tin và Truyền thông quy định
một số yêu cầu về quản lý hoạt động cung
cấp dịch vụ truyền hình cáp tương tự tại
đầu cuối của người sử dụng dịch vụ; Thông
tư số 19/2009/TT-BTTTT ngày 28/5/2009
của Bộ Thông tin và Truyền thông quy
định về việc liên kết trong hoạt động sản
xuất chương trình phát thanh, truyền
hình;...
4. Một số bài học kinh nghiệm- Về đổi mới nội dung lãnh đạo: Đảng,
mà trực tiếp là các cơ quan tham mưu cho
Đảng về công tác báo chí phải tích cực, chủ
động, sắc bén, kịp thời trong việc định
hướng chính trị tư tưởng, nhất là đối với
những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy
cảm trong nội dung thông tin của báo chí;
đưa đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đến với
người dân và tâm tư, nguyện vọng người
dân đến với Đảng và Nhà nước.
- Về mặt phương châm: công tác lãnh
đạo, chỉ đạo, quản lý báo chí cần kịp thời
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
65
nhưng phải đảm bảo tính khoa học, tính
thuyết phục, có lý có tình, tránh áp đặt,
mệnh lệnh, phải đạt tới sự tuân thủ một
cách tự giác, triệt để của các cơ quan báo
chí và đội ngũ những người làm báo.
- Về phương thức: bên cạnh những nghị
quyết, chỉ thị, quy định quan trọng mà Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã ban hành, đặc biệt là Nghị quyết
Trung ương năm (khóa X), cần tiếp tục xây
dựng, bổ sung thêm các quy định, quy chế
tạo cơ sở chính trị cho công tác lãnh đạo,
chỉ đạo báo chí. Tiếp tục thể chế hóa đường
lối, quan điểm của Đảng bằng việc bổ
sung, sửa đổi Luật Báo chí. Chiến lược
thông tin quốc gia tầm nhìn đến năm 2020,
xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy
phạm pháp luật; xây dựng chế tài đủ mạnh
để vừa tạo điều kiện cho báo chí phát triển
đúng hướng, vững chắc vừa xử lý kịp thời,
dứt điểm các sai phạm, nhất là các sai
phạm lớn, lặp đi lặp lại, kéo dài.
- Trên cơ sở rà soát chức năng, nhiệm vụ
từng cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí,
khẩn trương lập đề án đổi mới, sắp xếp lại
hệ thống các cơ quan báo chí cả nước, của
từng bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, đơn
vị theo hướng hợp lý, tinh gọn, thiết thực,
hiệu quả. Kiên quyết xử lý, thu gọn các
báo, tạp chí xét thấy không cần thiết, nội
dung trùng lặp, hoạt động không đúng tôn
chỉ, mục đích hoặc để sai phạm kéo dài.
- Coi trọng việc xây dựng tổ chức đảng
trong cơ quan báo chí vững mạnh về mọi
mặt; đề cao vai trò đảng viên của đội ngũ
làm báo, nhất là người giữ cương vị lãnh
đạo; trên cơ sở đó nâng cao năng lực lãnh
đạo, chỉ đạo, định hướng hoạt động theo
đúng tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan báo chí và nhà báo. Nâng
cao chất lượng tư tưởng, chính trị, văn hoá,
khoa học của từng cơ quan báo chí, để báo
chí thực sự là tiếng nói của Đảng, Nhà
nước; các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội
- nghề nghiệp và là diễn đàn tin cậy của
nhân dân.
- Không ngừng nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý báo chí; đào tạo phóng viên, biên
tập viên các cơ quan báo chí. Mở rộng
nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm quản lý,
đào tạo báo chí với các nước trong khu vực
và trên thế giới.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ
quan chỉ đạo, quản lý báo chí và cơ quan
chủ quản của báo chí; sự lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý của các ban cán sự đảng, đảng
đoàn, lãnh đạo cơ quan chủ quản với cơ
quan báo chí. Nâng cao chất lượng nội
dung, hình thức, khả năng chi phối thông
tin của các báo, đài chủ lực. Đầu tư thỏa
đáng cho hoạt động thông tin đối ngoại.
Tiếp tục mở rộng sóng phát thanh, truyền
hình ra các nước, các khu vực bằng công
nghệ thông tin hiện đại; đưa được sách, báo
có nội dung tốt trong nước phục vụ đồng
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
66
bào ta ở nước ngoài; tăng cường giới thiệu,
quảng bá hình ảnh về đất nước và con người
Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới.
- Kiên quyết đấu tranh chống thông tin,
quan điểm sai trái, thù địch bằng đội ngũ
nhà báo và chuyên gia giàu tâm huyết, có
kiến thức và kinh nghiệm, sử dụng các lực
lượng, hình thức, phương tiện phù hợp.
Ngăn chặn có hiệu quả hoạt động xâm
nhập báo chí nước ta của các thế lực thù
địch, phản động từ bên ngoài.
- Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật,
điều kiện hoạt động cho các cơ quan báo
chí. Nghiên cứu, đổi mới công nghệ, máy
móc, thiết bị theo hướng hiện đại; ưu tiên
phủ song phát thanh, truyền hình, phát
hành các ấn phẩm báo chí cho giới trẻ,
đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảor
……………….Ghi chú:
(1)Đảng Cộng sản Việt Nam (31/3/1992), Chỉ thị số
08/CT- TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo
và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác báo chí, xuất bản. tr.15.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.116.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (lưu
hành nội bộ), Nxb CTQG, H.2002, tr.124.
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng,
Nxb CTQG. H.2004
3. 80 năm báo chí cách mạng Việt Nam - Những bài
học lịch sử và định hướng phát triển (kỷ yếu hội thảo
khoa học), Nxb CTQG, H .2005.
4 . Báo chí - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 6 tập.
5. Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành,
Nxb CTQG, H.2004.
6. Một số văn bản của Đảng về lãnh đạo công tác
báo chí: Chỉ thị số 08-CT/TW của Ban Bí thư (khoá
VII) về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác báo chí, xuất bản. Chỉ
thị 22-CT/TW ngày 17/10/1997 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác
báo chí, xuất bản; Thông báo kết luận số 162-TB/TW
ngày 01/12/2004 của Bộ Chính trị (khoá IX); Thông báo
kết luận số 41-TB/TW ngày 11/10/2006 và Thông báo
kết luận số 68-TB/TW ngày 30/3/2007 của Bộ Chính trị
(khoá X) về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo, quản
lý báo chí và một số quy định của Đảng đối với hoạt
động báo chí, xuất bản.
7. Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để
báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong
thời gian tới, (Nguyễn Hồng Vinh, Nguyễn Thế Kỷ chủ
biên). Nxb Lý luận chính trị, H.2007.
8. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo,
quản lý báo chí trong giai đoạn hiện nay (chủ nhiệm đề
tài: Nguyễn Thế Kỷ); Đề tài khoa học cấp bộ, Ban
Tuyên giáo Trung ương, 2008.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb
Sự thật, H. 1991.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb
CTQG, H.1998.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa IX (lưu
hành nội bộ), Nxb CTQG, H.2002.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hình Trung ương Đảng khóa X, Nxb
CTQG, H.2007.
Nguồn: Tạp chí Tổ chức Nhà nước.-
2014.- Số 6.- Tr. 3 – 7.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
67
Dư luận xã hội (DLXH) là một vấn
đề phức tạp, luôn có sức hấp dẫn
và tạo ra sự tranh luận giữa các
luồng quan điểm khác nhau. B.K.Paderin -
nhà nghiên cứu DLXH thời Liên Xô (cũ)
đưa ra định nghĩa:
DLXH là tổng thể các ý kiến trong đó
chủ yếu là các ý kiến thể hiện sự phán xét,
đánh giá sự nhận định (bằng lời hoặc
không bằng lời), phản ánh ý nghĩa của các
thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối
với các tập thể giai cấp, xã hội nói chung
và thái độ công khai của các nhóm xã hội
lớn nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống
xã hội có động chạm đến các lợi ích chung
của họ(1).
Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ cũng nêu ra
định nghĩa tương tự. Ví dụ: “Công luận là
sự phán xét, đánh giá của các cộng đồng
xã hội đối với các vấn đề có tầm quan
trọng, được hình thành sau khi có sự tranh
luận công khai” (Young, 1923); “Công
luận là kết quả tổng hợp các ý kiến trả lời
của mọi người đối với các câu hỏi nhất
định, dưới điều kiện của cuộc phỏng vấn”
(Warner, 1939). Có những định nghĩa rất
đơn giản, nhưng rất phổ biến trong giới
nghiên cứu Mỹ: “Công luận là các tập hợp
ý kiến cá nhân ở bất kỳ nơi đâu mà chúng
ta có thể tìm được” (Childs, 1956) (2).
Theo PGS, TS. Lương Khắc Hiếu,
“DLXH là biểu hiện trạng thái ý thức xã
hội của cộng đồng người, là phương thức
tồn tại đặc biệt của ý thức xã hội, đồng thời
DLXH cũng là trạng thái tổng hợp và toàn
vẹn của ý thức xã hội”(3). Như vậy, chủ thể
của DLXH là một nhóm người, một cộng
đồng người, và DLXH thực chất “là sự
phán xét, đánh giá của cộng đồng người
đối với các sự kiện, hiện tượng mà họ quan
tâm”. Phán xét trước hết, đó là cách nhìn
nhận chủ quan của con người về các sự
kiện, hiện tượng, sự vật của thế giới khách
quan. Song, sâu xa trong đó chứa đựng
những giá trị lý tính bởi sự phán xét đó ít
nhiều đều dựa trên thực tế khách quan.
Nhận thức của con người luôn xuất phát từ
cái đã có, cái tồn tại trong hiện thực, gắn
nó với những suy luận cá nhân, theo lợi ích
cụ thể và thời điểm nhận thức cụ thể.
NHữNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CƠ BẢN CỦA ĐẢNG
VỀ VAI TRÒ ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ
?TS ĐỖ CHÍ NGHĨA
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
68
Nhưng suy luận ấy có thể đúng, có thể sai,
có thể bị “chế tác” đi vì những định kiến
thiên lệch, thậm chí những vụ án oan kiểu
“Thị Kính” chỉ vì nhận thức và tâm lý hạn
hẹp, không đặt vào hoàn cảnh cụ thể mà
phán xét. Không thể đồng nhất DLXH với
chân lý bởi con đường tạo ra DLXH rất
khác nhau và “hàm lượng” định kiến, cảm
tính cũng không hề giống nhau.
Đảng ta, với đường lối của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có một
cách nhìn sâu sắc về DLXH, cũng như ảnh
hưởng của báo tác động lên nó, nhằm
hướng tới mục tiêu rõ ràng. Bằng thực tiễn
đấu tranh cách mạng trong những năm
tháng giành và giữ chính quyền, cũng như
kinh nghiệm của thời kỳ hội nhập, đổi mới,
hướng nền kinh tế ra bên ngoài trong khi
vẫn giữ vững thể chế và quan điểm chính
trị XHCN, Đảng và Nhà nước đã dần hình
thành nên hệ thống quan điểm khá nhất
quán và sâu sắc về vai trò của báo chí trên
mặt trận công tác tư tưởng, trong đó, nổi
bật là vai trò của báo chí trong định hướng
DLXH.
Bài viết này không đi sâu phân tích lịch
sử vấn đề mà chỉ trình bày những nội dung
mới mẻ nhất, nổi bật nhất trong quan điểm
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về tác động
của báo chí đến DLXH. Đây là cơ sở trực
tiếp, cụ thể sát thực để phân tích việc vận
dụng những quan điểm đó vào hoạt động
của đời sống báo chí, thể hiện trong nhận
thức và hành động của các cơ quan báo chí
và cá nhân một nhà báo. Có thể khái quát
những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước về tác động của báo chí đến DLXH
trên hai nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, báo chí có vai trò to lớn và
đã thực sự đóng góp tích cực vào việc
định hướng đúng đắn DLXH
DLXH là phần nổi, là biểu hiện phản
ứng của dư luận trước những vấn đề, sự
kiện thời sự có ý nghĩa. Nó có thể biến
động tùy theo sự kiện, hay từng tình huống,
góc độ thông tin, cách thức đưa tin và bình
luận. Việc hình thành DLXH có thể diễn ra
rất nhanh chóng, tác động sâu sắc tức thời
vào đời sống xã hội, vào hoạt động của các
nhóm dân cư. Để “hình thành bản lĩnh, trí
tuệ, tâm hồn, khí phách con người Việt
Nam trong thời kỳ mới” là công việc lâu
dài, bền bỉ, song, định hướng DLXH lại là
việc cấp thiết, đòi hỏi ở báo chí sự nhạy
cảm, ý thức trách nhiệm sâu sắc và bản lĩnh
chính trị vững vàng. Ở khía cạnh đó, rõ
ràng, báo chí đã có những đóng góp xứng
đáng, góp phần ổn định trật tự an toàn xã
hội, xây dựng niềm tin vào chế độ và con
đường phát triển của đất nước.
Tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ
thị 22 của Bộ Chính trị được tổ chức vào
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
69
đầu năm 2007, PGS,TS. Tô Huy Rứa
nguyên Trưởng Ban Tư tưởng –Văn hoá
Trung ương (nay là ban Tuyên giáo Trung
ương) đã có một bài phát biểu quan trọng,
tổng kết thành tựu, hạn chế của báo chí
trong sự nghiệp đổi mới đất nước, trong đó
có khía cạnh quan trọng là định hướng
DLXH. Đi sâu phân tích những đóng góp
cụ thể của báo chí với công tác định hướng
DLXH, PGS,TS.Tô Huy Rứa nhận định:
Phần lớn các cơ quan báo chí hoạt động
đúng tôn chỉ, mục đích, đúng định hướng
chính trị, góp phần tuyên truyền chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; thông tin, cổ vũ
phong trào hành động cách mạng, phản ánh
tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân, phát hiện, cổ vũ các nhân tố mới, điển
hình tiên tiến, tham gia tích cực trong cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, chống âm mưu “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch, đồng
thời, báo chí là một tiếng nói góp phần vào
quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội. (...).
Báo chí phải đóng vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, làm cho hệ tư tưởng
của Đảng, của giai cấp công nhân, lý tưởng
xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp
trong truyền thống văn hóa dân tộc, những
tinh hoa văn hóa thế giới chiếm vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội(4).
Đằng sau những luận điểm có vẻ quen
thuộc ấy là sự ghi nhận sâu sắc về vai trò,
vị trí và những đóng góp lớn lao của đội
ngũ cán bộ báo chí với việc ổn định
DLXH, hướng DLXH đến những mục tiêu
tích cực và có trách nhiệm. Điều này cũng
phù hợp với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về “xây” và “chống” khi Người nêu
bật vai trò của việc biểu dương gương
“người tốt, việc tốt” để cái tốt đẩy lùi cái xấu:
Các cô các chú có thấy cháu bé nhặt
được của rơi, nửa đêm bắt mẹ dẫn đến đồn
công an trả người đánh mất có ý nghĩa như
thế nào không? Ở nước Mỹ và các nước tư
bản người ta giết nhau chỉ vì đồng bạc giấy
mà ở ta các cháu bé đã biết làm như vậy.
Văn minh chiến thắng bạo tàn. Xã hội ta
văn minh hơn xã hội Mỹ từ việc làm của
các cháu bé đó(5).
“Chiến lược thông tin quốc gia ban hành
kèm Quyết định số 219/2005/QĐ-TTg
ngày 10.9.2005 về phê duyệt chiến lược
phát triển thông tin đến năm 2010 cũng
khẳng định: “Trong những năm qua, hoạt
động thông tin ở nước ta có bước phát triển
mạnh mẽ, toàn diện cả về tính chất, nội
dung, hình thức và loại hình. (...) Thông tin
ngày càng khẳng định là phương tiện thiết
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
70
yếu của đời sống xã hội, không chỉ là công
cụ phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng,
Nhà nước mà còn thực sự là diễn đàn của
các tầng lớp nhân dân. Hoạt động thông tin
ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
nhân dân trong việc nắm bắt tình hình thời
sự chính trị trong nước và quốc tế, những
vấn đề liên quan đến các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, khoa học, công nghệ và mọi mặt
của cuộc sống. Tính hai chiều, tính công
khai, minh bạch, dân chủ trong hoạt động
thông tin ngày càng được coi trọng. Các
loại hình thông tin phát triển phong phú, đa
dạng. Hoạt động thông tin nước ta có khả
năng và điều kiện để đáp ứng yêu cầu hội
nhập và giao lưu hợp tác quốc tế, đấu tranh
có hiệu quả với các thông tin sai trái, các
quan điểm xuyên tạc của các thế lực thù
địch(6).
Thứ hai, một số cơ quan báo chí xa
rời tôn chỉ, mục đích, thiếu tính định
hướng, ảnh hưởng không tốt đến uy tín
của giới báo chí
Đánh giá cao thành tựu, nhưng Đảng,
Nhà nước cũng thể hiện rõ thái độ nghiêm
khắc trước những bất cập, yếu kém của
hoạt động báo chí, đặc biệt trong đó có
những yếu kém, khuyết điểm đã được chỉ
ra từ nhiều năm qua nhưng chậm được
khắc phục.
Phát biểu tại Hội nghị sơ kết thực hiện
Chỉ thị 62 của Bộ Chính trị, PGS, TS. Tô
Huy Rứa nêu rõ:
Một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén
chính trị, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, xa rời
tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung
thực, sa đà vào việc đưa tin tiêu cực và tệ
nạn xã hội. Khuynh hướng tư nhân hóa,
thương mại hóa báo chí, tư nhân núp bóng
để kinh doanh báo chí ngày càng tăng(7).
Tuy nhiên, hoạt động báo chí của ta
cũng còn những yếu kém, khuyết điểm,
chậm được khắc phục. Một số cơ quan báo
chí chưa tự giác chấp hành sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, có biểu
hiện coi nhẹ chức năng chính trị, tư tưởng
của báo chí cách mạng, xa rời tôn chỉ, mục
đích; thiếu nhạy bén chính trị, bị khuynh
hướng “thương mại hóa” chi phối, chạy
theo thị hiếu tầm thường, nặng thông tin về
những hiện tượng tiêu cực, yếu kém, mặt
trái của xã hội thổi phồng, khoét sâu vào
các thiếu sót, khuyết điểm, làm “nóng” lên
một số vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của
đất nước, của các ngành, địa phương một
cách thiếu ý thức; đăng cả những thông tin
mật của Nhà nước; những bí mật kinh tế
liên quan đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, khai thác đời tư cá nhân, vi
phạm luật báo chí; ít chú ý việc phát hiện,
cổ vũ, biểu dương những tấm gương người
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
71
tốt, việc tốt, những nhân tố mới, điển hình
tiên tiến trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Một số tờ báo đăng
những thông tin sai sự thật, suy diễn chủ
quan, khi biết sai không cải chính hoặc cải
chính không nghiêm túc; khai thác và sử
dụng thông tin của báo chí bên ngoài thiếu
chọn lọc trái với quan điểm, đường lối của
Đảng và Nhà nước, truyền thống văn hóa
của dân tộc… Những yếu kém, khuyết
điểm này tuy chỉ diễn ra ở một số báo, đài,
nhưng tác hại và hậu quả thì lớn, gây thiệt
hại cho sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp, lợi ích kinh tế của đất nước, gây
khó khăn cho sự chỉ đạo, điều hành của
Nhà nước, gây lo lắng, làm giảm lòng tin
của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới; để các
thế lực thù địch lợi dụng bôi nhọ, đả kích,
chống phá Đảng ta, chế độ ta; làm xấu đi
hình ảnh đất nước ta trong mắt bạn bè quốc
tế. Những yếu kém này nếu không được
khắc phục kịp thời sẽ là những nguy cơ
tiềm ẩn gây mất ổn định chính trị - xã hội
của đất nước, không thể xem thường.
Trong khi đó, một số tờ báo, tạp chí, đài
phát thanh, truyền hình ở trung ương và địa
phương chậm đổi mới, nội dung và hình
thức chưa đủ hấp dẫn, chưa thuyết phục, do
đó, chất lượng và hiệu quả tuyên truyền,
giáo dục chưa cao, chưa làm tốt vai trò là
lực lượng chủ lực, định hướng thông tin và
DLXH.
Sự “thiếu nhạy bén chính trị” có thể có
nhiều nguyên nhân, song bên cạnh vấn đề
trình độ, nhận thức thì tính chất “thương
mại hoá”, chạy theo thị trường, giành giật
công chúng bằng mọi giá chính là một trở
ngại lớn cho việc làm tốt định hướng
DLXH. Thực tế đời sống báo chí phát triển
sôi động, nở rộ nhiều ấn phẩm, song tình
trạng báo có nội dung na ná nhau, thiếu bản
sắc, đối tượng phục vụ không xác định rõ
ràng, tôn chỉ, mục đích cũng nhàn nhạt đã
khiến sự cạnh tranh càng gay gắt, và tính
chính trị càng bị coi nhẹ.
Phân tích sâu thực trạng này, đồng chí
Trương Tấn Sang chỉ rõ nguyên nhân từ sự
buông lỏng quản lý, chỉ đạo của cơ quan
chủ quản, đến việc phó mặc cho các báo tự
xoay xở về tài chính, dẫn đến thương mại
hoá và tư nhân thao túng:
Cơ quan quản lý báo chí và cơ quan chủ
quản của nhiều tờ báo còn buông lỏng chỉ
đạo, quản lý cả về định hướng thông tin,
nội dung tư tưởng chính của báo chí, để
một tờ báo cho tư nhân núp bóng hoạt
động; né tránh, ngại va chạm, khen ngợi
một chiều, ít phê bình, nhắc nhở, không
chủ động kiên quyết xử lý các vi phạm của
các cơ quan báo chí và người đứng đầu cơ
quan báo chí thuộc quyền(8).
Đồng chí cũng nhấn mạnh đến “yếu tố
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
72
con người” khi chỉ rõ nguyên nhân xa rời
định hướng còn xuất phát từ nhận thức và
trình độ cá nhân mỗi nhà báo: “Một số cán
bộ, phóng viên bản lĩnh chính trị yếu, còn
mơ hồ trong nhận thức về quan điểm chính
trị, tư tưởng, đường lối, quan điểm của
Đảng; thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo
đức, phẩm chất, có những hành động tiêu
cực, vi phạm pháp luật…”(9).
Tuy vậy, bên cạnh tình trạng thương mại
hóa, thì việc báo chí chưa làm tốt chức
năng của mình, chưa tạo sức hấp dẫn và thu
hút cần thiết với công chúng. PSG,TS.Tô
Huy Rứa chỉ rõ: “Các cơ quan báo chí chủ
lực của Đảng, Nhà nước chậm đổi mới, nội
dung và hình thức thiếu hấp dẫn, chất
lượng tuyên truyền không cao, chưa có khả
năng làm chủ, chi phối thông tin và định
hướng DLXH”(10).
Từ những trình bày trên đây cho thấy,
tác động của báo chí vào DLXH là một nội
dung đáng quan tâm khi nghiên cứu vai trò
của báo chí trong xã hội hiện đại. Sự phát
triển của báo chí gắn liền với ý thức hệ, với
lợi ích của các tầng lớp dân cư, các tổ chức
chính trị mà nó là đại diện. Việc định
hướng đúng đắn DLXH của báo chí được
Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Bên
cạnh việc đánh giá cao vai trò của báo chí
trong việc giữ vững trận địa thông tin, là
cầu nối giữa Đảng với dân, giữa cơ quan
quản lý với các thành tố khác trong xã hội,
các văn kiện của Đảng cũng thể hiện rõ sự
quan tâm, chỉ đạo, chấn chỉnh những yếu
kém, sai sót, nâng cao khả năng định
hướng DLXH của báo chí. Đây là một
nhiệm vụ quan trọng, để báo chí thể hiện
vai trò xứng đáng của phương tiện truyền
thông xung kích trên mặt trận công tác tư
tưởng rất quan trọng và cũng đầy thử thách
hiện nayr
....................(1),(2),(3) TS. Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (1999).
Dư luận xã hội trong sự nghiệp đổi mới, Nxb CTQG,
H., tr.6,8.
(4),(7),(10) Tô Huy Rứa (2007), “Phấn đấu để báo
chí nước ta phát triển đúng hướng, mạnh mẽ, vững chắc
trong thời gian tới”, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày
15.01.2007.
(5) Thủ tướng Chính phủ (2005), Chiến lược thông
tin quốc gia (ban hành kèm Quyết định số
219/2005/QĐ-TTg ngày 10.9.2005), Hà Nội.
(6) Tạ Ngọc Tấn (2004) Hồ Chí Minh về vấn đề báo
chí, Nxb CTQG, H., tr.134.
(8),(9) Trương Tấn Sang (2007), “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao
hơn nữa chất lượng, tính tư tưởng, tính hấp dẫn, tính
thuyết phục của báo chí”, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày
15.01.2007.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính
trị&Truyền thông.- 2013.- Số tháng 11.-
Tr.17-20.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
73
Trong suốt tiến trình cách mạng Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí
cách mạng Việt Nam luôn phấn đấu hoàn
thành sứ mạng của mình. Đảng ta luôn coi
báo chí là phương tiện hữu hiệu để tiến
hành giáo dục chính trị, lãnh đạo công tác
tư tưởng, vũ khí sắc bén trong đấu tranh
giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, là
cầu nối giữa Đảng với nhân dân, phục vụ
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X
đã nêu rõ công tác tư tưởng, lý luận và báo
chí là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan
trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng.
Trong bối cảnh đất nước ta bước vào
giai đoạn phát triển mới, với những nhiệm
vụ cách mạng mới, báo chí phải làm tốt
nhiệm vụ chính trị của mình trên lĩnh vực
tư tưởng, bảo vệ đường lối, quan điểm của
Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
đóng góp vào sự phát triển chung của toàn
xã hội. Thực tiễn đó đòi hỏi báo chí cần giữ
vững và phát huy hơn nữa bản chất cách
mạng, là công cụ công tác tư tưởng của
Đảng, là một bộ phận của sự nghiệp cách
mạng do Đảng lãnh đạo. Báo chí phải
hướng vào mục tiêu giữ vững ổn định
chính trị, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, làm
cho những nguyên lý cách mạng và khoa
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
NỀN BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
TRONG TÌNH HÌNH MỚI
?TS NGUYỄN BẮC SON
Bộ Thông tin và Truyền thông
Báo chí nước ta đang có vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị xã hội, đồngthời cũng ở vào giai đoạn nhạy cảm, vừa có những cơ hội lớn, vừa đứng trước nhiềuthách thức lớn, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vàđang tiếp tục hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Sự nghiệp báo chí Việt Namthời gian qua phát triển nhanh chóng và đa dạng. Xuất phát từ thực hiện mục tiêu“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân ta đãxác định, cần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí đápứng yêu cầu nền báo chí cách mạng trong tình hình mới.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
74
học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội. Trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí cần
được thực hiện thông qua hệ thống pháp
luật về báo chí và công tác quản lý nhà
nước về báo chí. Đó cũng chính là đòi hỏi
khách quan của việc nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về báo chí để đáp ứng
yêu cầu phát huy bản chất cách mạng của
báo chí nước ta trong tình hình mới.
Tình hình hoạt động báo chí trong
thời gian qua
Hiện nay, nước ta có 838 cơ quan báo
chí in, với 1.111 ấn phẩm, 67 đài phát
thanh, truyền hình, 92 báo, tạp chí điện tử
và 01 hãng thông tấn quốc gia. Báo chí đã
thông tin nhanh nhạy, toàn diện về mọi
diễn biến của đời sống chính trị, kinh tế -
xã hội ở trong nước và quốc tế; là diễn đàn
thực sự tin cậy của nhân dân; góp phần tích
cực tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực xây
dựng lý tưởng xã hội vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, góp phần ổn định chính trị tư tưởng,
làm phong phú đời sống tinh thần, huy
động nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân. Báo chí của chúng ta phát triển theo
nguyên tắc “Báo chí, xuất bản nước ta đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật”. Trong thời gian qua báo chí của
chúng ta đã kiên trì tính đảng, kiên trì bảo
vệ vị trí chủ đạo về lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong
ý thức tư tưởng, bảo đảm tính định hướng
chính xác, phục vụ nhân dân, phục vụ chủ
nghĩa xã hội, đặt hiệu quả xã hội lên vị trí
hàng đầu, bám sát thực tế, bám sát cuộc
sống, bám sát quần chúng nhân dân. Để tác
phẩm báo chí có hơi thở của cuộc sống, báo
chí đã thực hiện tốt một số công tác trọng
tâm: tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nghị
quyết Hội nghị Trung ương khóa X “Về
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước
yêu cầu mới”, các quan điểm chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước ta về tăng cường công tác
quản lý báo chí được thể hiện qua các chỉ
thị, như Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 17-10-
1997 của Bộ chính trị khóa VIII, Thông
báo số 162-TB/TW ngày 1-12-2004 của Bộ
Chính trị khóa IX, Thông báo số 41-
TB/TW ngày ll-12-2006 của Bộ Chính trị
khóa X. Có như thế báo chí mới hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình, góp phần quan trọng
trong việc bảo đảm tốt công tác tuyên truyền.
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách
mạng về công nghệ thông tin đã tác động
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
75
làm thay đổi cách thức thụ hưởng thông tin
của người dân. Số lượng độc giả của báo
chí in có xu hướng ngày càng giảm, trong
khi đó lượng độc giả truy cập báo mạng
ngày càng tăng. Trong lĩnh vực phát thanh,
truyền hình, số lượng độc giả vẫn giữ ở
mức ổn định và có xu hướng tăng. Nguồn
nhân lực báo chí có mức tăng trung bình
hàng năm khoảng 6,5%. Nếu như năm
2009 chỉ có 31.000 người làm việc trong
lĩnh vực báo chí, thì đến nay số người làm
việc trong lĩnh vực báo chí khoảng 35.000
người, trong đó có gần 17.000 nhà báo
đang công tác tại các cơ quan báo chí được
cấp thẻ hành nghề. Về trình độ chuyên
môn, phần lớn số người làm việc trong lĩnh
vực báo chí đều có trình độ cao đẳng, đại
học trở lên; số người làm báo có trình độ
dưới đại học đã giảm trung bình khoảng1%
năm. Năm 2009, tỷ lệ nhân lực có trình độ
đại học là 85% và trên đại học là 4%. Đến
năm 2013, tỷ lệ nhân lực có trình độ đại
học là khoảng 91% và trên đại học là 4.9%.
Mặc dù đội ngũ những người làm báo có
sự phát triển cả về số lượng và chất lượng,
nhưng trước những tác động bởi mặt trái
của cơ chế thị trường, một bộ phận những
người làm báo còn non kém về nhận thức
chính trị đã bộc lộ những khuyết điểm, yếu
kém, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, trong
số đó không ít người vi phạm pháp luật, bị
kỷ luật và bị thu hồi thẻ hành nghề. Người
đứng đầu một số cơ quan báo chí đã buông
lỏng quản lý nội dung thông tin và đội ngũ
phóng viên, biên tập viên dưới quyền, coi
trọng yếu tố lợi nhuận, xem nhẹ các chức
năng của báo chí, khai thác nhiều đề tài về
mặt trái của xã hội, với mức độ thông tin
có thời điểm dày đặc. Một số cơ quan báo
chí chưa coi trọng biểu dương, nhân rộng
những điển hình tiên tiến, những nhân tố
tích cực trong học tập, lao động và chiến
đấu. Một số ấn phẩm phụ thực hiện sai tôn
chỉ, mục đích, làm cho nội dung báo chí xa
rời chức năng định hướng, chức năng giáo
dục, chức năng thẩm mỹ, thiếu tính chuyên
nghiệp, tác động tiêu cực đến một bộ phận
công chúng. Cùng với những thông tin giật
gân, câu khách, vi phạm thuần phong mỹ
tục là xu hướng xem nhẹ quy trình thẩm
định nguồn tin, thông tin sai sự thật, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm cá nhân, làm
ảnh hưởng xấu tới uy tín của tổ chức.
Những hạn chế trên là do cơ quan, tổ
chức chưa làm tốt việc cung cấp thông tin
cho báo chí; công tác xử lý vi phạm trong
hoạt động báo chí còn thiếu kiên quyết,
hình thức xử lý chưa nghiêm. Một số lãnh
đạo cơ quan báo chí chưa chấp hành
nghiêm kỷ luật thông tin, có trường hợp
tìm cách né tránh việc thực hiện các quy
định. Không ít cơ quan chủ quản chưa phát
huy hết vai trò, trách nhiệm, buông lỏng
việc quản lý, nể nang, thiếu kiên quyết
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
76
trong xử lý vi phạm của cơ quan báo chí
thuộc quyền. Những hạn chế, khuyết điểm
của báo chí như nêu ở trên là một trong
những nguyên nhân làm giảm đi tính định
hướng, tính văn hóa, tính giáo dục của báo
chí cách mạng Việt Nam.
Những vấn đề đặt ra trong công tác
quản lý nhà nước về báo chí
Giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới
đang có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
những bất ổn khó lường. Nền kinh tế thế
giới phục hồi chậm. Ở trong nước, nền
kinh tế tiếp tục có nhiều khó khăn, thách
thức. Tình hình thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh
tiếp tục ảnh hưởng tới cuộc sống của người
dân và sản xuất, kinh doanh. Các thế lực
thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “diễn
biến hòa bình” trên nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa.
Những thuận lợi, khó khăn của tình hình
trong nước cùng xu thế toàn cầu hóa thông
tin và sự bùng nổ của truyền thông xã hội
tác động trực tiếp đến hoạt động báo chí và
công tác quản lý báo chí. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự chỉ
đạo trực tiếp của các cơ quan chủ quản, nỗ
lực của các cơ quan báo chí và đội ngũ nhà
báo, báo chí nước ta đã thực hiện tốt vai
trò, sứ mệnh của mình, góp phần xứng
đáng vào công cuộc đổi mới đất nước. Bên
cạnh những ưu điểm, thành tích, hoạt động
báo chí cũng còn nhiều hạn chế, khuyết
điểm, từ đó đặt ra những vấn đề trong công
tác quản lý nhà nước về báo chí, cụ thể là:
Thứ nhất, quản lý báo chí trong điều
kiện phát triển mạnh mẽ của truyền thông
xã hội đòi hỏi phải có phương pháp tiếp
cận mới. Trên bình diện quốc tế, cuộc cách
mạng công nghệ thông tin đã làm thay đổi
cách thức truyền tải và tiếp nhận thông tin
trên toàn cầu. Toàn cầu hóa thông tin đang
đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề trong công
tác chỉ đạo, quản lý thông tin. Thông tin ở
khắp mọi nơi trên thế giới được truyền tải
liên tục, nhiều chiều và dễ dàng tới công
chúng thông qua in-tơ-nét, với những dạng
thức truyền thông mới, trong đó mạng xã
hội đang chiếm ưu thế. Do vậy, quản lý báo
chí trong bối cảnh truyền thông xã hội phát
triển đòi hỏi phải hoàn thiện cơ chế, chính
sách, pháp luật để tạo điều kiện cho các cơ
quan báo chí nhà nước tiếp tục giữ vai trò
chủ đạo trong việc chi phối, định hướng dư
luận xã hội; là việc làm chủ thông tin thông
qua gia tăng cung cấp thông tin chính
thống cho báo chí, là làm rõ cơ chế mở
rộng tiếp cận thông tin và phát huy dân chủ
trong thông tin.
Thứ hai, đã có nhiều giải pháp được đưa
ra để hạn chế tình trạng thương mại hóa
báo chí, nhưng cho đến nay xu hướng này
vẫn chậm được khắc phục. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, thương mại hóa báo chí
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
77
vừa là vấn đề thực tiễn đồng thời lại mang
tính lý luận. Một mặt, báo chí phải bảo đảm
nhiệm vụ chính trị; mặt khác, phải cạnh
tranh thông tin, lo tăng số lượng phát hành
để phát triển, duy trì sự ổn định của cơ
quan báo chí. Thực tiễn cho thấy, hoạt động
báo chí vừa chịu sự tác động của hệ thống
các quy luật phát triển văn hóa - tư tưởng,
vừa chịu tác động của hệ thống các quy luật
kinh tế. Nếu chỉ chú trọng tới lợi ích kinh
tế sẽ dẫn tới thương mại hóa hoạt động báo
chí, làm báo chí xa rời nhiệm vụ chính trị.
Do vậy, trong công tác quản lý nhà nước
về báo chí cần chú trọng hơn các quy định,
biện pháp ngăn ngừa tác hại từ mặt trái của
kinh tế thị trường, làm ảnh hưởng đến định
hướng tư tưởng - văn hóa. Tuy nhiên, nếu
chỉ đề cao vai trò báo chí ở phương diện tư
tưởng - văn hóa thì báo chí sẽ không phát
huy hết khả năng đóng góp của mình với
xã hội.
Thứ ba, vấn đề thực hiện quy hoạch hệ
thống báo chí toàn quốc. Hiện nay, vẫn còn
sự chênh lệch lớn về sự hưởng thụ thông
tin báo chí giữa các khu vực, địa bàn, vùng,
miền. Mặc dù hầu hết các cơ quan, ban,
ngành trong hệ thống chính trị đều có cơ
quan báo chí, nhưng chất lượng chưa tương
xứng, còn trùng chéo về tôn chỉ, mục đích,
nội dung, đối tượng phục vụ. Ngoài ra,
chưa có nghiên cứu, phân loại, xác định
tính chất, nhiệm vụ của báo chí để có cơ
chế, chính sách phù hợp.
Thứ tư, vấn đề nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ của các cơ quan báo chí và cơ
quan quản lý để làm tốt hơn nữa chức năng
quản lý nhà nước về báo chí, kịp thời chấn
chỉnh, xử lý những thiếu sót, khuyết điểm,
tạo điều kiện để báo chí phát triển.
Thứ năm, vấn đề phát huy sức mạnh của
báo chí trong định hướng dư luận xã hội,
tập hợp, đoàn kết, cổ vũ các giai tầng trong
xã hội tích cực tiến hành thắng lợi công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Yêu cầu khách quan đó đòi hỏi hoạt
động báo chí phải nâng cao hơn nữa chất
lượng chính trị, chất lượng văn hóa, chất
lượng giáo dục của báo chí, hướng báo chí
vào mục tiêu giữ vững ổn định chính trị,
tiếp tục sự nghiệp đổi mới, từng bước xây
dựng con người mới, lối sống mới, làm cho
những nguyên lý cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, đạo
đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong
đời sống tinh thần xã hội.
Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về báo chí trong tình hình mới
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động báo chí đáp ứng yêu cầu
nền báo chí cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, cần thực hiện tốt các nhóm
giải pháp dưới đây:
1 - Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng
công tác xây dựng pháp luật, chính sách
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
78
Thứ nhất, nâng cao chất lượng công tác
tham mưu xây dựng chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng về báo chí, bảo đảm
bảo nguyên tắc báo chí phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước, phù hợp với xu thế phát triển chung
của xã hội. Cần có cơ chế giám sát chặt chẽ
và có ý kiến kịp thời về các nội dung thể
chế hóa chủ trương đường lối, chính sách
của Đảng về báo chí trong các văn bản
pháp luật của Nhà nước; đồng thời tăng
cường đôn đốc để công tác thể chế hóa này
bảo đảm tiến độ thời gian và chất lượng.
Thứ hai, xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật về báo chí để điều chỉnh
kịp thời những vướng mắc, phát sinh từ
thực tiễn phát triển của báo chí trong xu thế
truyền thông đa phương tiện.
Thứ ba, xây dựng cơ chế, chính sách
tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ
quan chủ quản đối với cơ quan báo chí
thuộc quyền.
Thứ tư, xây dựng cơ chế, chính sách huy
động nguồn lực xã hội tham gia phát triển
hệ thống báo chí theo quy định của pháp
luật.
Thứ năm, quy hoạch, sắp xếp hệ thống
báo chí, tạo cơ chế và nguồn lực để báo chí
phát triển. Hoàn chỉnh cơ chế, chính sách
đặt hàng, hỗ trợ tài chính đối với báo chí
làm nhiệm vụ chính trị, thông tin, tuyên
truyền thiết yếu; cơ chế, chính sách đối với
báo chí có tính chất giải trí thuần túy.
2- Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
Thứ nhất, cùng với sự phát triển của báo
chí và đội ngũ những người làm báo, cần
tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước
về báo chí, bảo đảm các yêu cầu về kiến
thức chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, tri
thức về khoa học công nghệ thông tin, kiến
thức và tri thức pháp luật, trình độ chính trị
vững vàng. Cần quy định hệ thống tiêu
chuẩn chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ phù
hợp với thực tiễn, bảo đảm công tác chuyên
môn của từng bộ phận công việc. Bên cạnh
đó hoàn thiện chính sách đào tạo và đào tạo
lại đội ngũ cán bộ quản lý báo chí để theo
kịp tốc độ phát triển chung của xã hội.
Thứ hai, các cơ quan chủ quản báo chí
cần bố trí cán bộ bảo đảm các tiêu chuẩn
về chuyên môn, nghiệp vụ, có kiến thức
pháp luật về báo chí để quản lý tốt báo chí
thuộc ngành mình.
Thứ ba, xây dựng chương trình đào tạo
cán bộ giảng dạy môn học quản lý nhà
nước về báo chí.
Thứ tư, xây dựng tiêu chuẩn các chức
danh lãnh đạo chủ chốt của cơ quan báo
chí. Tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ
cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên;
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
79
hoàn chỉnh chương trình giáo trình, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những
người làm báo về phẩm chất chính trị, đạo
đức, kỹ năng nghề nghiệp.
3- Nhóm giải pháp tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong
hoạt động báo chí
Thứ nhất, tăng cường lực lượng thanh
tra chuyên ngành báo chí, nâng cao năng
lực của cơ quan quản lý chuyên ngành báo
chí ở Trung ương và địa phương, đầu tư
trang thiết bị kỹ thuật hiện đại và điều kiện
làm việc bảo đảm thực thi công tác quản lý
nhà nước đạt hiệu quả.
Thứ hai, tăng cường công tác chỉ đạo,
định hướng, cung cấp thông tin cho báo
chí, đồng thời tiếp thu ý kiến phản ánh của
các tổ chức, cá nhân và thông tin báo chí
để chấn chỉnh, xử lý kịp thời các sai phạm.
Thứ ba, rà soát, xem xét rút giấy phép
đối với cơ quan báo chí không đủ điều kiệt
hoạt động, thường xuyên vi phạm các quy
định của pháp luật về báo chí
Thứ tư, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia
về báo chí, đầu tư nâng cấp hệ thống thông
tin hiện đại, đáp ứng yêu cầu công tác quản
lý nhà nước về báo chí trong giai đoạn mới.
4- Nhóm giải pháp về tăng cường hợp
tác quốc tế và ứng dụng khoa học công
nghệ trong công tác quản lý báo chí
Thứ nhất, mở rộng hợp tác quốc tế, tạo
điều kiện cho báo chí tiếp cận nhanh với
những thay đổi của công nghệ ứng dụng
trong lĩnh vực truyền thông, báo chí, đồng
thời, học tập kinh nghiệm quản lý và phát
triển báo chí trong xu thế truyền thông đa
phương tiện.
Thứ hai, thực hiện tin học hóa công tác
quản lý, xây dựng các chương trình quản
lý dữ liệu, xử lý thông tin điều hành, quản
lý, thủ tục hành chính.
Thứ ba, bên cạnh việc hợp tác khai thác
thông tin quốc tế có chọn lọc, phù hợp với
lợi ích của đất nước, của nhân dân, cần chủ
động đưa phóng viên đến nơi diễn ra các
sự kiện quốc tế lớn, phức tạp để có thông
tin trực tiếp, khách quan, tránh phụ thuộc
vào thông tin, quan điểm đánh giá của
truyền thông nước ngoài.
Thứ tư, chủ động tạo điều kiện để phóng
viên nước ngoài đến Việt Nam đưa thông
tin trung thực, khách quan, qua đó quảng
bá hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài, góp
phần bác bỏ sự xuyên tạc thông tin của các
thế lực thù địch về tình hình đất nước, con
người Việt Namr
Nguồn: Tạp chí Cộng sản.- 2014.- Số
860.- Tr.39 - 43.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
80
Trong những năm qua, nền báo chínước ta đã có những bước pháttriển nhanh chóng, mạnh mẽ về
nhiều mặt: số lượng và phạm vi phát hànhcác báo, tạp chí, đài truyền hình, ấn phẩm,chương trình ngày càng tăng; chất lượngnội dung, hình thức, công nghệ in ấn,truyền tải thông tin được cải thiện; đội ngũnhà báo và những người làm việc trong cáccơ quan báo chí phát triển cả về số lượngvà trình độ chuyên môn nghề nghiệp,…Đến nay, có thể nói, hầu như tất cả các cơquan bộ, ban, ngành Trung ương; các đoànthể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổchức nghề nghiệp từ Trung ương đến địaphương, mỗi cơ quan đều ít nhất có một tờbáo, tạp chí hoặc trang thông tin, báo điệntử; có đơn vị ở Trung ương hoặc địaphương có đến hàng chục cơ quan báo chívới rất nhiều các loại ấn bản khác nhau.
Báo chí đã tích cực thông tin, tuyêntruyền đường lối, chủ trương của Đảng,chính sách, pháp luật của Nhà nước; phảnánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền bảo vệmôi trường… thông tin cảnh báo, phòngchống lũ lụt thiên tai; phát hiện, cổ vũnhững nhân tố mới, điển hình tiên tiến,những thành tựu phát triển đất nước và hộinhập quốc tế; tham gia tích cực vào cuộcđấu tranh phòng, phòng chống tham nhũng,lãng phí, quan liêu và các tệ nạn xã hội; đấutranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biếnhòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnhvực, lý luận, tư tưởng, văn hóa; báo chícũng góp phần quan trọng trong việc tuyêntruyền đấu tranh bảo vệ chủ quyền biêngiới, lãnh thổ, bảo vệ các vùng biển đảothiêng liêng của Tổ quốc; góp phần quantrọng vào quá trình dân chủ hóa đời sốngxã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đốivới Đảng và chế độ, tạo sự đồng thuậntrong xã hội. Trong công tác thông tin đốingoại, báo chí đã góp phần làm cho ngườinước ngoài và người Việt Nam đang sinhsống, làm việc ở nước ngoài hiểu biết ngàycàng rõ nét và đúng đắn hơn về con ngườivà đất nước, con người Việt Nam, về
NâNG CAO TRÁCH NHIỆM CỦA
CƠ QUAN CHỦ QUẢN TRONG CHỈ ĐẠO,
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
?TS TRƯƠNG MINH TUẤN
Bộ Thông tin và Truyền thông
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
81
đường lối, chủ trương của Đảng, chínhsách, pháp luật của nhà nước ta, trên cơ sởđó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ củanhân dân thế giới, sự đóng góp của cộngđồng người Việt Nam ở nước ngoài trongsự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đasố các cơ quan báo chí đều hoạt động đúngtôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ theoquy định trong giấy phép thành lập, bảođảm thông tin trung thực, phù hợp với lợiích đất nước và nhân dân, góp phần ổn địnhchính trị, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầuvăn hóa lành mạnh của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm,thành tựu, hoạt động báo chí thời gian quacòn bộc lộ không ít hạn chế, khuyết điểm.Một số cơ quan còn thiếu nhạy bén chínhtrị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, vănhóa, thậm chí có biểu hiện xa rời tôn chỉ,mục đích, xa rời đối tượng phục vụ, thiênvề phản ánh các tiêu cực và tệ nạn xã hội,ít thông tin, tuyên truyền về các điển hìnhtiên tiến, gương người tốt, việc tốt, cổ vũcác phong trào thi đua yêu nước; khuynhhướng thương mại hóa báo chí theo kiểugiật gân câu khách, thiếu trách nhiệm vớiđạo đức xã hội ngày càng tăng. Một số cơquan báo chí chưa chú ý xây dựng và tuânthủ đúng quy trình tác nghiệp, thiếu nhạybén trong xử lý các tình huống; thông tinsai sự thật, thậm chí, có thông tin sai sót ởmức độ nghiêm trọng…
Những ưu điểm, thành tựu cũng nhưnhững hạn chế, khuyết điểm của hoạt động
báo chí trong thời gian qua bắt nguồn từnhiều nguyên nhân khách quan và chủquan, trong đó nguyên nhân trước hết là dosự hạn chế, bất cập trong công tác chỉ đạo,quản lý của cơ quan chủ quản.
Thực tế thời gian qua cho thấy, có tìnhtrạng buông lỏng quản lý, thiếu sâu sát,kiểm tra của cơ quan chủ quản và tự chorằng “vô can” trước những sai phạm của cơquan báo chí thuộc quyền. Không ít cơquan chủ quản, nhất là một số tổ chức xãhội, tổ chức nghề nghiệp buông lỏng vaitrò, trách nhiệm chỉ đạo, quản lý theo quyđịnh đối với cơ quan báo chí thuộc quyền;có nơi, cơ quan chủ quản sau khi xin giấyphép thành lập cơ quan báo chí đã “khoántrắng” cho cơ quan báo chí toàn quyềnquyết định mọi hoạt động; dẫn đến tìnhtrạng có những cơ quan báo chí không chịusự chỉ đạo, quản lý của cơ quan chủ quản.Một số cơ quan chủ quản thiếu quan tâm,hỗ trợ cơ quan báo chí tháo gỡ khó khăn,thậm chí còn yêu cầu cơ quan báo chí thuộcquyền đóng góp kinh phí hoạt động, lệthuộc vào kinh phí của cơ quan báo chí; cótrường hợp chưa tìm được cách tháo gỡkhó khăn, phải giải thể cơ quan báo chíthuộc quyền. Nhiều trường hợp xử lý saiphạm của cơ quan báo chí không nghiêmhoặc giải quyết không dứt điểm, kịp thờicác vụ tiêu cực trong cơ quan báo chí, cóbiểu hiện bao che cho người đứng đầu cơquan báo chí, dẫn đến khiếu nại, tố cáovượt cấp, tác động tiêu cực tới tư tưởng cán
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
82
bộ, phóng viên, biên tập viên.Một số trường hợp cơ quan chủ quản bổ
nhiệm cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chíkhông đúng quy định, hoặc khi người đứngđầu cơ quan báo chí mất uy tín nhưng cơquan chủ quản vẫn không có phương ánthay thế, khiến nội bộ cơ quan báo chí mấtđoàn kết kéo dài; chưa quan tâm đúng mứctới công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyênmôn, nghiệp vụ, nâng cao trách nhiệmchính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý vàphóng viên, biên tập viên của cơ quan báochí thuộc quyền. Có thể nói, vai trò tráchnhiệm chỉ đạo, quản lý của các cơ quan chủquản báo chí hiện nay chưa được thực hiệnđầy đủ. Trong lúc đó, tại Khoản 6, điều 12của Luật Báo chí phải: “Chịu trách nhiệmtrước pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ,quyền hạn của mình đối với các sai phạmcủa cơ quan báo chí trực thuộc”.
Tại Hội nghị báo chí toàn quốc triểnkhai nhiệm vụ trọng tâm năm 2014, tổ chứcngày 14/01/2014 tại Hà Nội, đồng chí ĐinhThế Huynh, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thưTrung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáoTrung ương phát biểu kết luận, đã nhấnmạnh cần phải: “quyết liệt chấn chỉnh,khắc phục tình trạng xa rời tôn chỉ, mụcđích, thông tin giật gân, câu khách. Các cơquan chỉ đạo, nhất là cơ quan quản lý, cơquan chủ quản cần thực sự vào cuộc, kiểmtra, xử lý nghiêm, kể cả việc có thể rút giấyphép hoạt động đối với những cơ quan báochí, sản phẩm báo chí, nhất là các sản phẩm
phụ, số chuyên đề, chương trình giải trí,trang thông tin điện tử không thực hiệnnghiêm túc tôn chỉ, mục đích, hạ thấp chấtlượng văn hóa của báo chí, chạy theo lợiích kinh tế một cách phi văn hóa, vô tráchnhiệm với xã hội… Ở đây, vai trò cơ quanchủ quản là rất lớn, trực tiếp, có ý nghĩaquyết định”.
Để hoạt động của cơ quan báo chí đúngtôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, cáccơ quan chủ quản báo chí cần nâng cao hơnnữa trách nhiệm trong công tác chỉ đạo, quảnlý đối với các cơ quan báo chí thuộc quyền.
Trước hết, trên cơ sở những định hướngchỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban bí thư vềcông tác báo chí, các cơ quan chủ quản cầntiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ củatừng cơ quan báo chí, sản phẩm báo chí, từđó khẩn trương xây dựng đề án đổi mới,sắp xếp lại các cơ quan báo chí, sản phẩmbáo chí của cơ quan, đơn vị, ngành mìnhtheo hướng tinh gọn, thiết thực và hiệu quả,để báo chí thực sự là tiếng nói của Đảng,Nhà nước, của các đoàn thể chính trị - xãhội, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, làdiễn đàn tin cậy của nhân dân. Kiên quyếtxử lý, thu gọn các báo, tạp chí, ấn phẩmphụ, chương trình giải trí, trang thông tinđiện tử xét thấy không cần thiết, hoạt độngkhông đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượngphục vụ hoặc để sai phạm kéo dài.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao,thường xuyên của ban cán sự đảng, đảngđoàn và lãnh đạo cơ quan chủ quản đối với
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
83
hoạt động của cơ quan báo chí thuộcquyền; coi trọng việc xây dựng tổ chứcĐảng trong cơ quan báo chí vững mạnh vềmọi mặt, đề cao vai trò, trách nhiệm đảngviên của người làm báo, nhất là nhữngngười giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trongcơ quan báo chí; đồng thời nâng cao nănglực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và địnhhướng hoạt động theo đúng tôn chỉ, mụcđích của cơ quan báo chí, và chức năng,nhiệm vụ của người làm báo. Điều đó đảmbảo sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổchức đảng và lãnh đạo cơ quan chủ quảnthông qua các chủ trương, định hướng,nhưng không dùng mệnh lệnh áp đặt hoặc“cầm tay chỉ việc” đối với cơ quan báo chíthuộc quyền.
Chú trọng việc thực hiện đầy đủ và cóhiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn của cơquan chủ quản báo chí theo quy định tạiĐiều 12 của Luật sửa đổi, bổ sung một sốđiều của Luật Báo chí và Nghị định số51/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy địnhchi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi,bổ sung một số điều của Luật Báo chí.
Để bảo đảm thực hiện có hiệu quảnhiệm vụ chỉ đạo, theo dõi hoạt động củacơ quan báo chí, chịu trách nhiệm trướcpháp luật trong phạm vi nhiệm vụ, quyềnhạn của mình đối với các sai phạm của cơquan báo chí trực thuộc, người đứng đầucơ quan chủ quản cần phân công cán bộlãnh đạo am hiểu Luật Báo chí và các quyđịnh pháp lý về cơ quan báo chí và nghề
làm báo trực tiếp phụ trách công tác báo chíđể chỉ đạo, quản lý toàn diện mọi hoạt độngvà thông tin trên báo chí thuộc quyền.Đồng thời bổ nhiệm những người có phẩmchất chính trị, đạo đức, năng lực chuyênmôn, nghiệp vụ và am hiểu báo chí để giữcác vị trí lãnh đạo, quản lý trong cơ quanbáo chí thuộc quyền. Kiên quyết không bổnhiệm, luân chuyển những người chưađược đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ báochí; chưa thực sự làm báo và qua công táclãnh đạo, quản lý báo chí tham gia lãnh đạocơ quan báo chí. Khi cơ quan báo chí thuộcquyền có sai phạm, lãnh đạo cơ quan chủquản phải chủ động phát hiện và nhận tráchnhiệm, đồng thời kịp thời và kiên quyết xử lýsai phạm theo đúng quy định của pháp luật.
Xây dựng quy chế chỉ đạo, quản lý cơquan báo chí phù hợp với đặc điểm, tínhchất của cơ quan, tổ chức; quy định chế độkiểm tra hoạt động của các cơ quan báo chívà thường xuyên tiến hành kiểm tra, giámsát các hoạt động báo chí một cách chặt chẽvà linh hoạt; định kỳ báo cáo về hoạt độngcủa cơ quan báo chí với Bộ Thông tin vàTruyền thông. Công tác kiểm tra, giám sátthường xuyên của cơ quan chủ quản gópphần giúp cơ quan báo chí phòng tránh tìnhtrạng xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượngphục vụ.
Quan tâm tạo điều kiện đào tạo, bồidưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụquản lý báo chí, nâng cao trách nhiệmchính trị nghề nghiệp cho cán bộ lãnh đạo,
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
84
quản lý trong cơ quan báo chí và các phóngviên, biên tập viên; quan tâm đầu tư cơ sởvật chất, phương tiện kỹ thuật, tạo điều kiệngiúp đỡ cho cơ quan báo chí ổn định về nhânsự, tài chính, thông tin đúng tôn chỉ, mục đích,đóng góp chung vào sự phát triển của cơ quan,đơn vị, ngành và của địa phương.
Trong công tác chỉ đạo, định hướng báochí, nhất là đối với các vụ việc, sự kiện lớn,quan trọng, phức tạp, nhạy cảm, cơ quanchủ quản cần chủ động phối hợp chặt chẽvới cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý Nhànước về báo chí. Lãnh đạo cơ quan chủquản trực tiếp phụ trách công tác báo chícó trách nhiệm phải tham gia đầy đủ cáccuộc giao ban định kỳ giữa lãnh đạo BanTuyên giáo Trung ương, Bộ thông tin vàTruyền thông, Hội nhà báo Việt Nam đểkịp thời chỉ đạo, định hướng thông tin trênbáo chí; có biện pháp giải quyết những khókhăn, vướng mắc, chấn chỉnh kịp thờinhững hạn chế, khuyết điểm của cơ quanbáo chí; đồng thời, biểu dương, khenthưởng những cơ quan báo chí thực hiệntốt công tác thông tin, tuyên truyền.
Cuối cùng, cần nhắc đến một số yếu tốquan trọng là đạo đức báo chí. Sinh thời,Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đếnviệc tu dưỡng đạo đức cách mạng chongười làm báo. Người chỉ rõ: “Cán bộ báochí cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây bút,trang viết là vũ khí sắc bén của họ. Để làmtròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộbáo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách
mạng” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chínhtrị quốc gia, H.2005 tập 10, tr.616 ) và “Tấtcả những người làm báo (người viết, ngườiin, người sửa bài, người phát hành…) phảicó lập trường chính trị vững chắc. Chínhtrị phải làm chủ, đường lối chính trị đúngthì công việc khác mới đúng được. Cho nêncác báo chí của ta phải có đường lối chínhtrị đúng” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxbchính trị quốc gia, H.2005, tập 9, tr.415).Để thực hiện tốt lời chỉ huấn đó của người,thiết nghĩ cơ quan chủ quản báo chí cầnđóng vai trò quan trọng trong việc chỉ đạoxây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý ởcác cơ quan báo chí thuộc quyền, trong đóviệc xây dựng bộ quy tắc đạo đức nghềnghiệp báo chí của cơ quan báo chí. Cơquan chủ quản phối hợp với hội Nhà báo,quan tâm đến cơ chế quản lý, cổ vũ thúc đẩyđạo đức báo chí trong quá trình xây dựng cơquan báo chí và tác nghiệp báo chí.
Cùng với cơ quan quản lý Nhà nước vềbáo chí, các cơ quan chủ quản báo chí cầnthực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn củamình theo định hướng của Đảng và quyđịnh của pháp luật nhằm góp phần quantrọng của mình vào việc phấn đấu xâydựng một nền báo chí Việt Nam chuyênnghiệp và hiện đại, phục vụ đắc lực cho sựnghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đấtnước, đáp ứng nhu cầu thông tin của cáctầng lớp nhân dânr
Nguồn: Tạp chí Toàn cảnh – Sự kiện– Dư luận.- 2014.- Số 287.- Tr. 6 – 7, 19.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
85
Xu thế toàn cầu hóa truyền thông
đại chúng đã và đang làm thay
đổi cơ bản diện mạo và phương
thức truyền thông, đặc biệt là sự phát triển
mạnh mẽ của các loại hình truyền thông
mới trong kỷ nguyên kỹ thuật số và môi
trường phát triển truyền thông đa phương
tiện hiện nay. Đây là cơ hội, nhưng cũng là
những thách thức cho sự phát triển của các
loại hình báo chí hiện đại.
Báo chí hiện đại được nhìn nhận trong
bối cảnh thế giới đang phát triển vượt bậc
về tất cả mọi mặt, trong đó đặc biệt phải kể
đến việc thay đổi những kỹ năng, phương
thức làm báo so với cách làm các loại báo
truyền thống.
Vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của
báo chí trong môi trường phát triển truyền
thông đa phương tiện hiện nay cần được
luận bàn một cách sâu sắc trên các diễn đàn
lý luận và nghiệp vụ về báo chí truyền
thông. Trong khuôn khổ bài báo, tác giả xin
được đề cập đến một số khía cạnh của vấn
đề này.
Một là, sự phát triển của báo chí hiện
đại tất yếu chịu tác động của tiến trình
toàn cầu hóa truyền thông đại chúng...
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu
tả các thay đổi trong xã hội và trong nền
kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và
trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia,
các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ chính
trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, môi trường...
trên quy mô toàn cầu.
Truyền thông đại chúng là quá trình trao
đổi thông tin từ chủ thể truyền thông đến
đối tượng tiếp nhận thông qua các phương
tiện truyền thông đại chúng đông đảo, phổ
biến trong đời sống xã hội như: sách, báo
chí, điện ảnh, quảng cáo, các dịch vụ
truyền thông trên Internet…
Toàn cầu hóa truyền thông đại chúng là
một hiện tượng tất yếu khách quan. Toàn
cầu hóa truyền thông đại chúng thực chất
là sự quy chuẩn về phương thức hoạt động,
quy mô và phạm vi ảnh hưởng của truyền
thông đại chúng. Nó là hệ quả tất yếu của
xu thế toàn cầu hóa trong tất cả các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội. Thực chất,
truyền thông là nhân tố quan trọng đáp ứng
giải quyết các nhu cầu khác trong đời sống
xã hội, do đó, nó là yếu tố được quan tâm
Sự PHÁT TRIỂN CỦA BÁO CHÍ HIỆN ĐẠI TRONG XU THế
TOÀN CầU HóA TRUYỀN THôNG ĐẠI CHúNG
?PGS, TS PHẠM HUY Kỳ
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
86
hơn cả trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay.
Kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho phép
ra đời và phát triển mạnh mẽ các hình thức
truyền thông mới, tạo nên sự đa dạng,
phong phú các kênh và phương tiện giao
tiếp của con người trong xã hội hiện đại.
Tuy nhiên, nó cũng đã tạo nên sự thay đổi
về môi trường truyền thông, tạo ra sự cạnh
tranh khốc liệt giữa các phương tiện truyền
thông mới với các phương tiện truyền
thông truyền thống.
Báo chí hiện đại tất yếu phải chịu sự tác
động của tiến trình toàn cầu hóa nói chung,
trong đó có vấn đề toàn cầu hóa truyền
thông đại chúng. Đó là sự hưởng lợi từ
những mặt tích cực của tiến trình này; đồng
thời phải chấp nhận chịu sự tác động của
những mặt trái từ toàn cầu hóa truyền
thông đại chúng.
Hai là, báo chí hiện đại có cơ hội mở
rộng quy mô, phạm vi ảnh hưởng và
phương thức phát triển trong điều kiện
toàn cầu hóa của truyền thông đại chúng
Những năm 80 của thế kỷ XX, việc một
hãng thông tấn, đài phát thanh, truyền hình
hoặc một tòa soạn báo in của quốc gia này
mở rộng quy mô phát tán thông tin ra khỏi
biên giới quốc gia diễn ra rất ít, chủ yếu tập
trung ở các nước tư bản phương Tây. Đến
nay, xu hướng quốc tế hóa báo chí không
chỉ còn là hiện tượng nhỏ lẻ nữa mà nó đã
diễn ra phổ biến với quy mô toàn cầu. Điều
này thể hiện ở tất cả các loại hình báo chí
như báo in, phát thanh, truyền hình và đặc
biệt là báo mạng điện tử.
Xu hướng quốc tế hóa báo chí đã và
đang tạo điều kiện để báo chí của các quốc
gia khu vực phát triển, khẳng định thương
hiệu của mình trong thị trường truyền
thông. Mặt khác, nó thể hiện được tính dân
chủ, bình đẳng giữa chủ thể truyền thông
và đối tượng tiếp nhận thông tin trong một
xã hội mở. Điều này cũng có nghĩa là thông
tin không chỉ là di sản của một cá nhân,
vùng, quốc gia, mà nó là tài sản chung của
nhân loại. Những quốc gia, khu vực có nền
báo chí phát triển mạnh sẽ càng có thêm cơ
hội để chi phối thông tin, truyền bá kỹ năng
và phương thức tác nghiệp, nhất là những
vấn đề về quy chuẩn thể hiện tính chuyên
nghiệp trong hoạt động báo chí.
Ba là, vấn đề kinh tế báo chí ngày càng giữ
vai trò quyết định sự sống còn của các sản
phẩm báo chí trong nền kinh tế thị trường
Các quốc gia phương Tây đã có một bề
dày lịch sử phát triển nền kinh tế thị
trường, do đó, nền báo chí của các nước ở
khu vực này là nền báo chí thương mại và
sản phẩm báo chí truyền thông đó là những
sản phẩm hàng hóa, đem lại giá trị sử dụng
và lợi nhuận kinh tế rõ ràng. Hoạt động
kinh tế - dịch vụ là thực hiện một trong các
chức năng xã hội tất yếu của báo chí hiện
đại. Kinh tế báo chí truyền thông là bộ
phận quan trọng góp phần duy trì và phát
triển bền vững báo chí trong các lĩnh vực
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
87
xã hội.
Hiện nay, nguồn thu lớn nhất của các
đơn vị sản xuất sản phẩm báo chí thị
trường đó là từ quảng cáo và các dịch vụ
phía sau mặt báo khác. Các khoản doanh
thu từ việc bán sản phẩm báo chí truyền
thông và các hoạt động tài trợ cũng đã đem
lại một phần lợi nhuận phục vụ cho tái sản
xuất của các cơ quan báo chí.
Sản phẩm báo chí thị trường phải là sản
phẩm hàng hóa và nó phải chịu sự tác động
khách quan của luật cung – cầu cũng như
quy luật giá trị và lợi nhuận. Khi nền kinh
tế của mỗi quốc gia, khu vực và trên thế
giới bị suy giảm, thì tất yếu, nền kinh tế
báo chí truyền thông đó cũng bị ảnh hưởng.
Khoa học, công nghệ phát triển kéo theo sự
bùng nổ các phương tiện truyền thông và
nhu cầu thông tin giao tiếp của công chúng
ngày càng cao đã và đang tạo ra những làn
sóng cạnh tranh mạnh mẽ, khốc liệt giữa
các loại hình báo chí truyền thông truyền
thống với các loại hình báo chí và hình
thức truyền thông mới. Doanh thu từ việc
bán báo, quảng cáo, dịch vụ, tài trợ ở các
khu vực báo chí truyền thông trên thế giới
đã và đang sụt giảm nghiêm trọng, đe dọa
sự sống còn của các cơ quan báo chí. Điều
này đã và đang biểu hiện rõ nét ở các quốc
gia vốn được coi là dẫn đầu về sự phát
triển báo chí truyền thông thương mại như:
Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bỉ,
Úc, Nhật Bản…
Với các nước chậm phát triển hoặc chưa
thực sự có nền kinh tế báo chí truyền thông
độc lập thì đây chưa phải là vấn đề cấp
bách được lưu tâm. Việt Nam là quốc gia
đang phát triển, mới bước vào nền kinh tế
thị trường hơn 20 năm qua. Mặc dù hoạt
động trong nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng sản phẩm
báo chí truyền thông vẫn chưa được coi là
những sản phẩm thương mại và kinh tế báo
chí truyền thông chưa phải là vấn đề mấu
chốt trong hoạt động báo chí của các nhà
báo. Một số đơn vị báo chí truyền thông
đang cố gắng tìm cách tăng nguồn thu từ
các dịch vụ quảng cáo, tài trợ và bán sản
phẩm báo chí với mục đích nhằm tăng
thêm nguồn thu để duy trì phát triển. Đã
đến lúc Chính phủ và các đơn vị báo chí
cần xem xét, coi trọng vấn đề kinh tế báo
chí truyền thông một cách nghiêm túc, vì
đây là vấn đề sống còn để các cơ quan báo
chí tạo ra những sản phẩm hàng hóa
chuyên nghiệp, có giá trị cao, đồng thời
tránh được những lãng phí về đầu tư tài
chính cho các hoạt động báo chí.
Bốn là, tái cấu trúc mô hình hoạt động
cơ quan báo chí để đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của báo chí trong tương lai
Mô hình tổ chức cơ quan báo chí sản
xuất sản phẩm đơn phương tiện đã được áp
dụng từ hàng trăm năm nay và đã trở nên
lạc hậu. Sự tác động mạnh mẽ của tiến
trình toàn cầu hóa truyền thông đại chúng
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
88
đã làm thay đổi rõ rệt về tính chất, quy mô
cùng những yêu cầu về hoạt động sản xuất
sản phẩm báo chí truyền thông. Điều này
đã buộc các cơ quan báo chí phải tìm cho
mình một mô hình tổ chức hoạt động mới,
phù hợp, nhằm duy trì, phát triển bền vững
trong hiện tại và tương lai.
Những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều
đơn vị báo chí có thương hiệu ở các nước
phương Tây như: Đức, Pháp, Tây Ban Nha,
Anh, Mỹ đã bắt đầu cải tiến mô hình tổ
chức hoạt động tòa soạn báo in truyền
thống theo phương thức tạo ra một tổ hợp
khép kín, sản xuất sản phẩm báo chí mang
tính chất công nghiệp. Đây cũng chính là
điều kiện để hình thành các tập đoàn truyền
thông hoạt động kinh doanh và mang lại lợi
nhuận kếch xù cho các ông chủ tư sản.
Trong khi thế giới còn đang tranh cãi về
mô hình tập đoàn truyền thông với tính
chất, quy mô và hiệu quả của nó thì đã diễn
ra hàng loạt cuộc thôn tính, phá sản hoặc
chuyển đổi mô hình kinh doanh mới nhằm
tăng lợi nhuận từ việc kinh doanh các sản
phẩm truyền thông cũng như đáp ứng nhu
cầu thông tin của công chúng xã hội.
Đưa ra mô hình tổ chức hoạt động nào
cho phù hợp, mang lại những giá trị là một
bài toán khó đối với các đơn vị báo chí
truyền thông hiện nay. Ở nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam, các đơn vị báo chí
truyền thống đã bắt đầu chú trọng tìm mô
hình tổ chức hoạt động mới, trong đó chú
trọng phương thức xây dựng tòa soạn theo
mô hình tòa soạn hội tụ, tích hợp truyền
thông đa phương tiện, sản xuất sản phẩm
báo chí đa loại hình. Mô hình hoạt động
này đã và đang mang lại những hiệu quả
nhất định, tạo nên sức mạnh, thương hiệu
cho đơn vị báo chí. Tuy nhiên, cũng có
không ít những cơ quan báo chí “đẻ ra” mô
hình phức tạp, hoạt động kém hiệu quả,
gây lãng phí về tài chính và nhân lực, thậm
chí còn dẫn tới sự thua lỗ, phá sản.
Internet đang là công cụ truyền thông
tiện ích, thậm chí là miễn phí đã và đang
gây ra khó khăn cho việc tổ chức hoạt động
của các loại hình báo chí truyền thống. Một
số đơn vị báo chí đã cắt giảm chi phí sản
xuất các sản phẩm truyền thống để chuyển
sang đầu tư thực hiện những sản phẩm
truyền thông mới; đồng thời tái cấu trúc lại
mô hình hoạt động theo hướng tổ chức mô
hình tòa soạn hội tụ, tích hợp truyền thông
đa phương tiện.
Cốt lõi của cuộc cạnh tranh sinh tồn này
không phải hoàn toàn ở vấn đề phát triển
về kỹ thuật, công nghệ truyền thông mà
còn do thế hệ công chúng mới đòi hỏi các
đơn vị báo chí truyền thông cần phải nỗ lực
sáng tạo hơn để tạo ra các sản phẩm mới,
chất lượng cao.
Những hệ quả tất yếu của việc tái cấu
trúc mô hình tổ chức hoạt động sẽ diễn ra.
Các sản phẩm báo chí được tạo ra theo mô
hình tổ chức sản xuất mới có thể sẽ không
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
89
được công chúng đón nhận như những
mong muốn của các nhà báo, nhưng chắc
chắn nó sẽ mang lại hiệu quả tiếp nhận đa
chiều cho công chúng. Công nghệ và các
hình thức truyền thông mới buộc các nhà
báo phải hoạt động chuyên nghiệp và cần
phải nỗ lực hơn nữa để đảm bảo tính xác
thực của thông tin.
Năm là, xử lý thông tin theo hướng
chuyên biệt sẽ thể hiện được sức mạnh của
báo chí truyền thông trong sự cạnh tranh
phát triển với báo chí đa phương tiện
Trước đây, các sản phẩm báo chí truyền
thống thường được tổ chức thông tin theo
lối tổng hợp, bao quát tất cả các sự kiện xảy
ra trong đời sống xã hội. Lý do lớn nhất mà
các đơn vị báo chí truyền thống áp dụng
cách làm này là hình thức các sản phẩm
còn đơn giản, tính phi định kỳ của báo chí
truyền thống với các sản phẩm báo in diện
tích trang ít ỏi hoặc thời lượng phát sóng
của các sản phẩm phát thanh, truyền hình
còn ít, nếu chú trọng chuyển tải thông tin
chuyên biệt khó có thể đáp ứng nhu cầu
tiếp nhận thông tin đa dạng của công
chúng.
Internet và báo mạng điện tử phát triển
được ví là một "kho" thông tin vô tận, một
cái “thùng không đáy”. Tính định kỳ của
báo chí truyền thống bị phá vỡ bởi tính phi
định kỳ, phi tuyến tính của Internet và báo
mạng điện tử. Báo mạng điện tử được ví
như là một "nồi lẩu thông tin" với đủ loại
tin tức từ phức tạp đến đơn giản, từ tin
chính trị đến tin tức giải trí… Do đó, thông
tin tổng hợp, đa dạng là thế mạnh của báo
mạng điện tử và truyền thông đa phương tiện.
Để cạnh tranh tồn tại và phát triển, các
loại hình báo chí truyền thống buộc phải đi
theo hướng thông tin chuyên biệt, chuyên
sâu về các vấn đề xã hội. Cuối thế kỷ XX,
xu hướng báo chí chuyên biệt đã phát triển
mạnh ở châu Âu và Mỹ. Biểu hiện rõ nét
nhất là sự ra đời và phát triển các tờ báo
chuyên biệt thông tin về các lĩnh vực kinh
tế, giới tính, môi trường, pháp luật… Hàng
loạt tờ báo về kinh tế ở phố Uôn (Wall-
stresst) của Mỹ đã có vị thế và thực sự trở
thành phương tiện kinh doanh hữu hiệu của
các nhà tài phiệt. Những tờ báo chuyên biệt
về lĩnh vực môi trường ở các nước châu Âu
đã được công chúng chú ý hơn, bởi nó
phục vụ những lợi ích thiết thực trong đời
sống của người dân. Các đài phát thanh,
truyền hình cũng đã chú trọng xây dựng
các kênh, chương trình chuyên biệt, nhất là
các kênh, chương trình, chuyên mục giải
trí, chỉ dẫn, do đó, đã thu hút số lượng lớn
công chúng chuyên biệt và nguồn quảng
cáo, tài trợ.
Ở Việt Nam, báo chí chuyên biệt cũng
phát triển mạnh vào những năm cuối của
thế kỷ XX. Trong lĩnh vực báo in, phát
triển nhiều nhất vẫn là các tờ báo thông tin
về pháp luật hoặc cho các nhóm đối tượng
cụ thể như về lứa tuổi, giới tính. Ở Việt
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
90
Nam cũng đã xuất hiện những tờ báo thông
tin chuyên biệt về kinh tế, môi trường, giáo
dục, văn hóa. Trong lĩnh vực phát thanh và
truyền hình, các đài lớn cùng đã hình thành
các kênh, chương trình, chuyên mục
chuyên biệt, thu hút công chúng tiếp nhận.
Ví dụ, Đài truyền hình Việt Nam (VTV)
ban đầu từ một kênh với thời lượng phát
sóng ít ỏi, nay đã tổ chức thành nhiều kênh
với thời lượng phát sóng 24/24 giờ. Các
kênh chuyên biệt của VTV như: Kênh
VTVl chuyên về thời sự chính trị tổng hợp;
Kênh VTV2 chuyên về khoa giáo; Kênh
VTV3 chuyên về giải trí và thông tin kinh
tế. Kênh VTV4 chuyên về thông tin đối
ngoại; Kênh VTV5 chuyên về các vấn đề
dân tộc; Kênh VTV6 chuyên về các vấn đề
của thanh thiếu niên… Việc phát triển báo
chí chuyên biệt là xu hướng tất yếu của báo
chí hiện đại. Tuy nhiên, các sản phẩm báo
chí chuyên biệt ở Việt Nam vẫn chưa thực
sự trở thành món ăn hấp dẫn thu hút sự
quan tâm của công chúng cũng như các
doanh nghiệp quảng cáo, tài trợ
Các loại hình báo chí truyền thông muốn
thể hiện được sức mạnh thông tin chuyên
biệt để tồn tại và phát triển bền vững trong
sự cạnh tranh với các hình thức thông tin
mới, mang tính tổng hợp như Internet, báo
mạng điện tử thì vấn đề đầu tiên cần phải
chú trọng đó là tính chuyên nghiệp của đội
ngũ nhà báo. Các nhà báo chuyên nghiệp
trong các đơn vị sản xuất sản phẩm báo chí
chuyên biệt được đánh giá như là những
chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau trong
đời sống xã hội. Bởi, để viết về một vấn đề
chuyên sâu, các nhà báo phải có kiến thức
sâu rộng về các lĩnh vực và phải đặt chúng
trong mối liên hệ với nhiều kiến thức khác
nhau. Không chỉ là chuyên gia trong lĩnh
vực chuyên biệt, các nhà báo chuyên
nghiệp còn đóng vai trò là cầu nối thông tin
giữa các chuyên gia của các lĩnh vực khác
nhau với công chúng xã hội.
Sáu là, tích hợp các kỹ năng đa
phương tiện là phương thức làm báo
chuyên nghiệp của nhà báo hiện đại
Xu hướng phát triển truyền thông đa
phương tiện (multime-dia) đã diễn ra mạnh
mẽ, tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Ý tưởng về truyền thông đa
phương tiện ra đời ở Mỹ vào những năm
1950, nhưng phải sang đến thế kỷ XXI nó
mới trở thành hiện thực, nhất là từ khi
ngành công nghiệp công nghệ thông tin
phát triển mạnh mà đỉnh điểm là khả năng
số hoá, tích hợp và xử lý dữ liệu đa phương
tiện trong các lĩnh vực truyền thông.
Đối với lĩnh vực báo chí, ứng dụng các
tính năng đa phương tiện trong hoạt động
nghề nghiệp của nhà báo là xu hướng tất
yếu khách quan. Đa phương tiện trong lĩnh
vực báo chí thực chất là tổ chức một đơn
vị báo chí hội tụ, tích hợp sản xuất sản
phẩm báo chí đa loại hình. Từ yêu cầu của
sản xuất sản phẩm đa loại hình, đòi hỏi nhà
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
91
báo phải có khả năng tích hợp các kỹ năng
đa phương tiện để sáng tạo tác phẩm và tổ
chức sản xuất sản phẩm báo chí. Yêu cầu
lớn nhất đối với một nhà báo hiện đại về
khả năng tích hợp các kỹ năng đa phương
tiện, đó là làm chủ việc xử lý mã ngôn ngữ
đa phương tiện như văn bản (text), hình
ảnh tĩnh và động (images still, video clips),
âm thanh (audio clips) và các chương trình
tương tác (interactiv programs). Bên cạnh
đó, các nhà báo đa phương tiện phải có khả
năng làm chủ các vấn đề về kỹ thuật biểu
đạt, đăng tải, truyền dẫn, phát song các sản
phẩm báo chí đa phương tiện.
Với ưu thế nổi trội của công nghệ tích
hợp và đa ngôn ngữ, báo chí đa phương
tiện cho phép công chúng được tiếp nhận
thông tin bằng cách thỏa mãn các giác quan
khác nhau, tạo nên hiệu ứng tương tác
mạnh mẽ nhất so với các loại hình truyền
thông truyền thống. Chỉ trong một thời
gian hình thành và phát triển ngắn, báo chí
đa phương tiện đã có một vị trí khá vững
chắc và khẳng định sẽ là xu hướng phát
triển về mặt phương thức truyền thông cả
trong hiện tại và tương lai. Phát triển báo
chí đa phương tiện sẽ là một hoạt động
kinh doanh trong tương lai của các công ty
truyền thông.
Làm thế nào để đào tạo đội ngũ nhà báo
đáp ứng yêu cầu này đang là một câu hỏi
lớn. Đội ngũ nhà báo ở Việt Nam hiện nay
có thể đáp ứng được phần nào các yêu cầu
của tác nghiệp báo chí đa phương tiện, tuy
nhiên, sẽ khó có thể đạt chuẩn ngay được.
Các nhà báo cần phải được bồi dưỡng các
kỹ năng làm báo đa phương tiện, trong đó
có việc sử dụng thành thạo các thiết bị làm
báo hiện đại. Đây là khoản đầu tư không
hề nhỏ vì các thiết bị đạt yêu cầu còn khá
đắt đỏ, nhất là đối với việc sản xuất các sản
phẩm truyền hình.
Bảy là, "báo chí công dân " là đối thủ tạo
động lực cho các loại hình báo chí truyền
thống đổi mới và tạo dựng thương hiệu
Internet phát triển mạnh trên thế giới
vào đầu những năm 1990, từ thế hệ web
1.0 đến thế hệ web 2.0 đã cho ra đời các
trang mạng xã hội, tạo ra cuộc cạnh tranh
thông tin khổng lồ với các loại hình báo
chí, kể cả những loại hình báo chí tiên tiến
nhất như truyền hình và báo mạng điện tử.
Các mạng xã hội nổi tiếng như: Twitter,
Facebook, My Space, Flickr và thậm chí
những chiếc điện thoại thông minh cũng
đang trở thành phương tiện truyền tải thông
tin nhanh chóng và tiện lợi. Internet và điện
thoại di động đang thay đổi nhiều nghề
nghiệp cũng như cách thức thu thập, chia
sẻ thông tin, từ đó, nó cũng thay đổi cách
sống của con người.
“Báo chí công dân” (citizen journalism)
xuất hiện ở Mỹ vào đầu những năm 1990.
Đó là hình thức đăng tải trên các trang
mạng xã hội những luận điểm, chính kiến
của một cá nhân hoặc nhóm công dân với
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
92
các chuyên gia, người dân về một vấn đề
liên quan đến lợi ích cụ thể cần phải giải
quyết. Phương thức này thể hiện tính dân
chủ hóa cao trong truyền thông, điều mà
các sản phẩm báo chí tập thể khó có thể đạt
được vì những lý do chủ quan, khách quan
chi phối.
Những sự kiện chấn động trên thế giới
thời gian vừa qua phần lớn đều được
“châm ngòi” từ các trang mạng xã hội.
Điều này đã minh chứng cho sức mạnh của
cái gọi là “báo chí công dân”. Những sự
kiện diễn ra với quy mô lớn, ảnh hưởng
đến nhiều người, sẽ không một đơn vị báo
chí nào đủ sức để theo dõi kịp thời cùng
một lúc mọi diễn biến từ nhiều góc nhìn
khác nhau. Nhưng với “báo chí công dân”,
không có gì là không thể làm được. “Báo
chí công dân” đang lấn lướt sức mạnh của
báo chí công cộng. Điều này đã buộc các
loại hình báo chí truyền thống và cả những
loại hình báo chí tiên tiến nhất cũng phải
nhanh chóng đổi mới phương thức, kỹ
năng hoạt động để thu hút công chúng và
lợi nhuận cũng như khẳng định thương
hiệu của mình trong hệ thống các phương
tiện truyền thông đại chúng.
Ở Việt Nam, sự tham gia của nhân dân
vào công việc truyền thông báo chí đã có
truyền thống từ lâu. Người dân có thể bày
tỏ tâm tư, nguyện vọng trên các diễn đàn
báo chí thông qua các hình thức như: ý kiến
bạn đọc, bạn đọc viết, hộp thư bạn đọc.
Một số đơn vị báo chí còn lập “đường dây
nóng” để công chúng phản ánh trên báo chí
về những vấn đề liên quan đến lợi ích của
họ. Các trang mạng xã hội cũng bắt đầu
phát triển mạnh ở Việt Nam và nó là nguồn
tin bổ ích để các nhà báo tìm kiếm, phát
hiện những đề tài thông tin hữu ích. Điển
hình, thời gian vừa qua, từ nguồn tin trên
Facebook, báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí
Minh và các cơ quan báo chí khác đã có
loạt bài vạch trần bảo mẫu bạo hành trẻ em
ở Đồng Nai, Ở Thành phố Hồ Chí Minh;
phản ánh người dân, học sinh vùng cao
Điện Biên hàng ngày phải qua suối bằng
túi nilon; phản ánh dịch sởi bùng phát ở Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh,…
Tám là, làm chủ kỹ thuật và công nghệ
mới là nhiệm vụ quan trọng của các nhà
báo hiện đại
Thế kỷ XXI, nhà báo được ví là nhà kỹ
thuật, bởi các nhà báo phải làm chủ các
phương tiện kỹ thuật để tác nghiệp trong
các môi trường khác nhau, giúp cho các tác
phẩm, sản phẩm của nhà báo đến với công
chúng một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Hai vấn đề chính về kỹ thuật và công
nghệ mà các nhà báo hiện nay quan tâm,
đó là khả năng sử dụng các thiết bị sáng tạo
tác phẩm và tổ chức sản xuất sản phẩm báo
chí. Các nhà báo truyền thống chỉ cần chiếc
bút, cuốn sổ là có thể hoàn thành việc sáng
tạo tác phẩm. Ngay cả công đoạn tổ chức
sản xuất sản phẩm họ cũng ít bận tâm, bởi
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
93
đó là phần việc của các kỹ thuật viên in ấn,
dàn dựng, phát sóng. Đối với các sản phẩm
báo chí hiện đại, nhất là báo chí đa phương
tiện, nếu không làm chủ được các thiết bị
kỹ thuật hiện đại, các nhà báo khó lòng có
thể hành nghề được toàn vẹn. Ví như,
muốn sáng tạo tác phẩm cho báo mạng
hoặc truyền hình, để thể hiện được đầy đủ
sự tích hợp truyền thông đa phương tiện,
các nhà báo phải thành thực sử dụng các
thiết bị như máy ghi âm, máy ảnh, camera
kỹ thuật số, máy vi tính, mạng Internet và
các dịch vụ truyền tin; các phần mềm vi
tính xử lý văn bản, hình ảnh, âm thanh, tổ chức
sản xuất; các kỹ thuật in ấn, dàn dựng, đăng
tải, truyền dẫn và phát sóng sản phẩm báo chí;
các kỹ thuật xử lý thông tin tương tác…
Ngày nay, các tờ báo lớn và nhỏ đều có
một lịch sử lâu dài tự thích nghi với những
thay đổi của công nghệ cho phép đưa tin về
các sự kiện một cách chi tiết và với tốc độ
mà trước đây chúng không có được. Công
nghệ mới đã đặt ra những thách thức đối
với ngành kinh doanh báo chí truyền thống,
đó là những mô hình kinh doanh chưa được
kiểm nghiệm, song những công nghệ này
cũng mang đến những khả năng và cơ hội
mới cho các đơn vị báo chí.
Nhìn chung, công nghệ mới giúp cho
các đơn vị báo chí cải thiện dịch vụ khách
hàng và kiểm soát chi phí. Một trong
những ích lợi mà công nghệ mang lại cho
các nhà báo, đó là việc thay đổi phương
thức tác nghiệp lỗi thời, nhất là đối với các
phóng viên thường trú. Các tờ báo nhỏ luôn
phải đối mặt với thách thức là có quá ít
phóng viên để có mặt ở mọi nơi cùng lúc
để xử lý thông tin. Công nghệ là một thứ
tinh xảo, và những người sớm áp dụng nó
đều hướng phần lớn đến tăng trưởng kinh
tế. Tuy nhiên, đôi khi, công nghệ chỉ là một
công cụ giúp con người và cộng đồng làm cái
việc mà họ vẫn luôn làm là kết nối với nhau.
Tóm lại, trong xu thế toàn cầu hóa mạnh
mẽ hiện nay, các loại hình báo chí tất yếu
phải đi theo những xu hướng phát triển
mới. Sự tồn tại và cạnh tranh vẫn là vấn đề
mấu chốt tạo ra những sản phẩm báo chí
truyền thông mới, chất lượng cao, đảm bảo
phục vụ hiệu quả nhu cầu truyền thông của
công chúng trong xã hội hiện đạir
……………TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Văn Dững, Báo chí truyền thống hiện đại
- Từ hàn lâm đến đời thường, Nxb. Đại học quốc gia,
H.,2011.
2. Đinh Thị Thúy Hằng, Xu hướng phát triển của
báo chí thế giới, Nxb Thông tấn, H.,2007.
3 . Loic Hervouet, Viết cho đọc giả, Hội Nhà báo
Việt Nam, H., 1999.
4. Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng, Nxb.
Chính trị quốc gia, H., 2001.
5. Thomas Mayer và Nicole Breyer, Tương lai của
nền dân chủ xã hội, Nxb Lý luận chính trị, H.,2007.
6. Thomas L Friedman, Chiếc Lexus và cây ô liu, Lê
Minh dịch, Nxb. Khoa học xã hội, H ,2005.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &Truyền thông.- 2014.- Số tháng 6.- Tr. 9– 14.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
94
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư
Trung ương Đảng, tôi xin gửi tới
các đồng chí đại biểu dự Hội nghị
cán bộ báo chí toàn quốc lời chào mừng
nồng nhiệt; qua các đồng chí, gửi tới anh
chị em làm báo cả nước những tình cảm
quý trọng, thân thiết nhất.
Tôi cơ bản nhất trí với nội dung Báo cáo
của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông
tin và Truyền thông và Hội Nhà báo Việt
Nam về đánh giá kết quả công tác năm
2011, triển khai nhiệm vụ năm 2012. Sau
đây, tôi phát biểu một số ý kiến.
Năm 2011, nước ta diễn ra nhiều sự kiện
chính trị trọng đại. Chúng ta đã tổ chức
thành công Đại hội XI, bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, đây
cũng là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại
hội XI của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011
– 2020. Trong bối cảnh nước ta cũng phải
đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức
như: suy thoái kinh tế toàn cầu; khủng
hoảng nợ công ở Tây Âu; biến động chính
trị ở Bắc Phi - Trung Đông; biến đổi khí
hậu toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến
phức tạp; các thế lực thù địch ráo riết thực
hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm
xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta; những vấn đề
liên quan đến chủ quyền, lãnh thổ đất nước...
Vượt lên những khó khăn, thách thức,
Đảng, Nhà nước ta đã kịp thời đề ra các
chủ trương, giải pháp phù hợp; tập trung
chỉ đạo điều hành quyết liệt, linh hoạt. Các
cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể
chính trị - xã hội, các doanh nghiệp…
quyết tâm cao, phấn đấu thực hiện có hiệu
quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị… Nhờ đó, sự nghiệp đổi mới đất
nước ta tiếp tục đạt được những thành tựu
quan trọng: kinh tế, chính trị - xã hội ổn
định và phát triển, tăng trưởng kinh tế liên
báo Chí phẢi ĐẢM bẢo tính tư tưởng, tính ChÂn thật, tính nhÂn dÂn, tính Chiến Đấu
?LÊ HồNG ANH
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
95
tục nhiều năm liền đạt trên dưới 7%; an
sinh xã hội bảo đảm; quốc phòng, an ninh
được tăng cường và củng cố; quan hệ đối
ngoại mở rộng và đi vào chiều sâu, vị thế
đất nước ta tiếp tục nâng cao trên trường
quốc tế.
Trong những thành tích mà đất nước ta
đạt được, có đóng góp rất quan trọng của
các cơ quan báo chí và những người làm
báo. Năm 2011, những ưu điểm nổi bật là:
1. Đã chủ động tuyên truyền thành công
Đại hội XI của Đảng, cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng
Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016;
tuyên truyền đưa Nghị quyết của Đảng vào
cuộc sống, gắn với đẩy mạnh học tập, làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Kịp
thời phát hiện, biểu dương các phong trào
thi đua yêu nước; đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhân dân; chủ động đấu
tranh chống thông tin, quan điểm sai trái,
thù địch; làm tốt công tác tuyên truyền để
nhân dân thấy rõ âm mưu chống phá của
các thế lực thù địch góp phần bảo vệ Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chủ quyền, lãnh
thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định, hợp tác để xây dựng đất nước.
2. Báo chí đã cơ bản đảm bảo đúng định
hướng của các cơ quan chỉ đạo, quản lý.
Tuyên truyền kịp thời việc triển khai thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước,
nhất là nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ ba, lần thứ tư (khoá XI). Chủ động xây
dựng, triển khai kế hoạch tuyên truyền góp
phần củng cố, tăng cường sự đồng thuận,
niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân
dân, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
3. Các cơ quan báo chí đã có nhiều cố
gắng xây dựng đơn vị vững mạnh; chăm lo
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên; coi
trọng công tác xây dựng Đảng; đổi mới mô
hình và phương thức hoạt động, bảo đảm
điều kiện tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật
cho hoạt động báo chí.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi
biểu dương những thành tích của các cơ
quan chỉ đạo, quản lý báo chí, các cơ quan
chủ quản, các cơ quan báo chí cùng toàn
thể anh chị em làm báo cả nước.
Bên cạnh kết quả đạt được, chúng ta cần
nhận thức rõ những hạn chế, thiếu sót của
công tác báo chí:
- Trong công tác lãnh đạo, điều hành,
việc thực hiện quy hoạch và quản lý hệ
thống báo chí còn bất cập, nhiều tờ báo và
cơ quan báo chí trùng lặp, chồng chéo chức
năng, nội dung; việc quản lý kênh, sóng
truyền hình chưa chặt chẽ, cho ra nhiều kênh,
chiếu nhiều phim nước ngoài; xuất bản nhiều
chuyên san, chuyên đề, ấn phẩm phụ.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
96
- Một số cơ quan báo chí chưa chú ý
biểu dương nhân tố tích cực, điển hình tiên
tiến, mà còn thiên về phản ánh mặt trái, tiêu
cực của xã hội; phản ánh đậm nét, miêu tả
chi tiết những hành vi tội ác trong các vụ
án hình sự, những việc làm trái luân thường
đạo lý, giật gân, câu khách, chạy theo thị
hiếu tầm thường, xâm phạm đời tư cá nhân,
vi phạm các quy định về quảng cáo, trái với
truyền thống văn hóa dân tộc… ; một số tờ
báo thiếu thận trọng khi thông tin, bình
luận, làm lộ bí mật Nhà nước; đề cập
những vấn đề phức tạp trong quan hệ đối
ngoại, những vấn đề kinh tế - xã hội nhạy
cảm của nước ta hoặc đưa lại thông tin không
chính xác, có hại từ báo chí nước ngoài… bị
các thế lực phản động, thù địch lợi dụng,
xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước.
- Một số phóng viên thiếu ý thức tu
dưỡng, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống, viết bài phản
biện thiếu tính xây dựng đối với một số chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
thậm chí, đòi “tự do báo chí”, tách báo chí
ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước;
có trường hợp vi phạm đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo, lợi dụng hoạt
động báo chí sách nhiễu tổ chức, cá nhân,
doanh nghiệp, thậm chí vi phạm pháp luật
phải xử lý hình sự…
- Lãnh đạo một số cơ quan báo chí
buông lỏng công tác quản lý, giáo dục chính
trị tư tưởng cán bộ, phóng viên cũng như
trong khâu biên tập, duyệt bài, khi có sai
phạm chưa chấn chỉnh nghiêm túc, kịp thời.
Những hạn chế, thiếu sót, bất cập nêu
trên không chỉ tác động tiêu cực đến xã hội,
đến chủ quyền lãnh thổ quốc gia và công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc mà còn ảnh
hưởng đến uy tín nền báo chí cách mạng.
Tôi đề nghị, chúng ta cần tập trung phân
tích, đánh giá, tự kiểm điểm thật nghiêm
túc, làm rõ nguyên nhân, nhất là nguyên
nhân chủ quan: đâu là hạn chế, bất cập của
cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí; đâu là
khuyết điểm, trách nhiệm của cơ quan chủ
quản, của Ban biên tập, đặc biệt là của tổng
biên tập; đâu là trách nhiệm của biên tập
viên, phóng viên… Trên tinh thần tự phê
bình và phê bình theo Nghị quyết Trung
ương lần thứ tư (khoá XI) “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” để
kiểm điểm với thái độ cầu thị và quyết tâm
khắc phục… Đó là cách làm tốt để xây
dựng nền báo chí nước ta ngày càng vững
mạnh, tiến bộ, chuyên nghiệp.
Năm 2012, cùng với những thuận lợi cơ
bản, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt và
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, gay
gắt, phức tạp hơn. Để hoàn thành tốt nhiệm
vụ trọng tâm của công tác báo chí, tôi nhấn
mạnh một số nội dung cần chú ý sau đây:
1- Lãnh đạo các cơ quan báo chí, phóng
viên cần nhận thức rõ, báo chí phải luôn đặt
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
97
động trong khuôn khổ pháp luật; phải đảm
bảo tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân
dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của
hoạt động báo chí.
Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông
tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt
Nam cần phối hợp tốt hơn với các ngành,
các cấp, các cơ quan liên quan để chỉ đạo,
định hướng nội dung thông tin trên báo chí
chính xác, sắc bén, kịp thời, nhất là đối với
các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm.
Công tác lãnh đạo, quản lý báo chí phải
dựa trên cơ sở chính trị, pháp lý đầy đủ.
Cần tiến hành đánh giá kết quả thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung
ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư: Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ năm
(khoá X) về “Công tác tư tưởng, lý luận,
báo chí trước yêu cầu mới”, Chỉ thị 52 -
CT/TW của Ban Bí thư (khóa IX) về “Phát
triển và quản lý báo điện tử ở nước ta hiện
nay”...; xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ
thống văn bản của Đảng và Nhà nước về
công tác báo chí.
Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí
cần tham mưu Chính phủ sớm ban hành đề
án quy hoạch báo chí; nghiên cứu hoàn
thiện hệ thống văn bản pháp quy về báo
chí, kịp thời điều chỉnh những bất cập, nảy
sinh trong hoạt động quản lý báo chí hiện
nay. Việc bổ nhiệm lãnh đạo các cơ quan
báo chí cần tuân thủ nghiêm chỉnh các quy
định về tiêu chuẩn tại Quyết định số
75/QĐ-TW của Ban Bí thư. Tổ chức tốt
công tác giao ban báo chí hàng tuần, cung
cấp thông tin báo chí, nâng cao chất lượng,
nội dung thông tin trên báo chí.
2- Các cơ quan chủ quản báo chí phải
chịu trách nhiệm về tổ chức, bộ máy, cán
bộ và hoạt động của cơ quan báo chí do
mình quản lý. Tập trung xây dựng và phát
triển toàn diện cơ quan báo chí, chú trọng
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, nhất là đội ngũ cốt cán; chỉ đạo cơ quan
báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích,
đối tượng phục vụ; có chế độ khen thưởng,
kỷ luật nghiêm minh, kịp thời.
3- Tăng cường vai trò, trách nhiệm chỉ
đạo quản lý của đảng uỷ, chi uỷ, Ban biên
tập, nhất là Tổng biên tập các cơ quan báo
chí. Xây dựng đảng bộ, chi bộ cơ sở trong
các cơ quan báo chí vững mạnh, thực sự là
hạt nhân chính trị lãnh đạo, tổ chức cho cán
bộ, đảng viên, biên tập viên, phóng viên
thực hiện đúng và nghiêm túc các quan
điểm, chủ trương, đường lối, Điều lệ, các
quy chế, quy định của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước và tôn chỉ, mục
đích của báo chí; lãnh đạo thực hiện hiệu
quả nhiệm vụ chính trị của cơ quan, xây
dựng, rèn luyện đội ngũ những người làm
báo có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi
về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức
trong sáng. Chú trọng công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, nâng cao đạo đức nghề
nghiệp, đạo đức lối sống cho biên tập viên,
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
98
phóng viên các cơ quan báo chí, nhất là đối
với đội ngũ phóng viên trẻ. Khi báo chí có
sai phạm cần nghiêm túc kiểm điểm, chấn
chỉnh kịp thời. Khi nhận đơn thư phản ánh
của bạn đọc cần nhanh chóng xử lý, trả lời,
tránh để tình trạng khiếu kiện kéo dài, gây
phức tạp tình hình.
4- Về thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền:
Cần tập trung tuyên truyền việc thực hiện
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; các nghị
quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt là cần tập
trung tuyên truyền tốt việc quán triệt, triển
khai Nghị quyết Trung ương lần thứ tư
(khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”, gắn với đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, đây là nhiệm vụ trọng
tâm, xuyên suốt trong năm 2012 và các
năm tới. Tiếp tục tuyên truyền việc thực
hiện các giải pháp thực hiện kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an
sinh xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng,
tái cơ cấu nền kinh tế; tuyên truyền các sự
kiện chính trị - xã hội quan trọng, các ngày
lễ lớn của đất nước; công tác đảm bảo quốc
phòng, an ninh trong tình hình mới; các
hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước
và đối ngoại nhân dân, Năm Đoàn kết Hữu
nghị Việt Nam-Lào, Việt Nam-Campuchia;
biểu dương, cổ vũ các phong trào thi đua
yêu nước, điển hình tiên tiến, gương người
tốt, việc tốt.
Tiếp tục phát huy vai trò, tính tiên
phong, tính chiến đấu của báo chí trong
công tác đấu tranh phòng chống tham
nhũng, lãng phí, các hiện tượng tiêu cực xã
hội, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân; làm tốt nhiệm vụ của một
trong những lực lượng nòng cốt đấu tranh
chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình”,
phản bác các quan điểm, thông tin sai trái
của các thế lực thù địch, chống phá cách
mạng nước ta.
Hàng năm chúng ta tổ chức Hội nghị
cán bộ báo chí toàn quốc vào đầu năm. Đây
là dịp để Ban Cán sự Đảng, Đảng đoàn,
Đảng uỷ các cấp, các cơ quan làm công tác
chỉ đạo, quản lý báo chí, các cơ quan chủ
quản, các cơ quan báo chí và toàn thể
những người làm báo nước ta nhìn lại
chặng đường đã qua, thấy rõ ưu điểm,
thành tích để phát huy; hạn chế, yếu kém
để khắc phục, sửa chữa. Tôi mong rằng,
sau Hội nghị quan trọng này, các đồng chí
trên cương vị và lĩnh vực công tác của
mình nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt
nhiệm vụ chính trị năm 2012 và những
năm tiếp theor
Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo .- 2012.-
Số 4.-Tr.3 - 6.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
99
Báo chí nước ta phát triển nhanh,
đặc biệt rất nhanh trong thời kỳ
đổi mới. Đến tháng 3-2012 đã có
786 cơ quan báo chí in với 1.016 ấn phẩm,
có 67 đài phát thanh và truyền hình trung
ương và địa phương. Thông tin điện tử ra
đời muộn cũng phát triển rất nhanh, đã có
61 báo, tạp chí, 287 trang tin điện tử của
các cơ quan báo chí và hàng ngàn trang tin
điện tử với sức phổ biến rất rộng. Đội ngũ
những người làm báo chuyên nghiệp cũng
ngày càng đông đảo, đã có hơn 17.000 nhà
báo được cấp thẻ hành nghề.
Trong hoàn cảnh tình hình thế giới,
trong nước sôi động và phức tạp, nhìn
chung các cơ quan truyền thông nước ta
được các cơ quan có thẩm quyền đánh giá
là đã thông tin nhanh nhạy, đầy đủ, toàn
diện, đúng định hướng những diễn biến của
đời sống chính trị, kinh tế-xã hội trong
nước và quốc tế. Nhiều cơ quan đã có
những sáng kiến thông tin giới thiệu những
nhân tố tích cực học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, tích cực đấu
tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng như
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và
các tiêu cực xã hội.
Song bên cạnh đó cũng có những khuyết
điểm, trong một số trường hợp tỏ ra thiếu
bản lĩnh và trách nhiệm khi thông tin
những vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh
tế... vì lợi ích đất nước và nhân dân. Đặc
biệt, có những thông tin sai sự thật, thậm
chí bịa đặt, vi phạm nghiêm trọng đạo đức
nghề nghiệp.
Có tờ báo đã công phu ngồi đếm những
dòng trong báo cáo tổng kết báo chí năm
ngoái để thấy phần viết về khuyết điểm dài
hơn phần viết về ưu điểm hơn một trăm từ!
Đánh giá đúng đắn công việc không thể
căn cứ vào độ dài ngắn của bản kiểm điểm
mà nên nhìn vào tính chất và hiệu quả mà
đánh giá. Vì nhớ lại, có những năm, khi
còn đương chức, đồng chí nguyên Thủ
tướng đánh giá những thông tin về các vụ
tham nhũng trên báo chí thì 80% là đúng,
10% có đúng, có sai và 10% là sai. Thực ra
với số liệu đó, người làm báo đã có thể
rung đùi thỏa mãn về “ưu điểm cơ bản” của
mình, nhưng ngay trong lúc đó tôi đã nhắc
nhở chớ vội chủ quan vì tính chất của các
sai sót trên các cơ quan truyền thông đại
chúng. Vì những sai sót trong thông tin,
bình luận dễ động tới uy tín, số phận một
NGÒI BúT TRÁCH NHIỆM
?HữU THỌ
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
100
con người, một gia đình, một tập thể, có khi
làm phá sản một doanh nghiệp, làm lao đao
một mặt hàng, thậm chí góp phần gây bất
ổn xã hội... Thông thường khi có khuyết
điểm thì chân thành nhận lỗi và sửa chữa,
nhưng đặc điểm những sai sót của báo chí
có khi không bao giờ sửa được, vì dù nhận
ra thiếu sót đăng cải chính nhưng không
phải người được đọc tin nêu khuyết điểm
cũng có điều kiện đọc tin cải chính, đó là
chưa kể ấn tượng sâu sắc của thông tin ban
đầu không dễ gì xóa bỏ nhanh. Làm nghề
gì thì cũng có thể có khuyết điểm, nhưng
làm nghề báo thì cố gắng không để xảy ra
sai sót hoặc hạn chế đến mức thấp nhất sự
sai sót. Nghe tôi nói và viết thế, có bạn
đồng nghiệp nói "sao ông yêu cầu cao
thế?", tôi trả lời vì cái nghề nó thế cho nên
phải rất cẩn trọng khi hạ bút, gõ máy. Để
tránh sai sót cần có bản lĩnh khi xử lý, công
bố thông tin và tính cẩn trọng nghề nghiệp
theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
"Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa hiểu
rõ, chớ nói, chớ viết”.
Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định
chức năng của báo chí nước ta là thông tin,
giáo dục, tổ chức, phản biện vì lợi ích nhân
dân và đất nước. Cho nên thông tin, bình
luận, gây dựng và tổ chức phong trào quần
chúng cũng như thực hiện phản biện xã hội
đều cần nhớ mục tiêu vì nhân dân và đất
nước, lúc này là góp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Thông tin nào hướng tới mục tiêu đó
thì thông tin, cổ vũ, nhân rộng, ngược lại
thông tin nào trái và có thể làm cản trở mục
tiêu cao cả đó thì không nên, chưa nên
thông tin.
Kỷ niệm lần thứ 87 Ngày Báo chí cách
mạng Việt Nam, trong quá trình triển khai
Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) "Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay", giới báo chí được trao trách nhiệm
thúc đẩy và giám sát việc triển khai, thực
hiện Nghị quyết cần nêu cao tinh thần tự
phê bình và phê bình, khẳng định những
việc làm được, nhận ra những thiếu sót,
khuyết điểm, kiên quyết khắc phục để xứng
đáng là chiến sĩ trên tuyến đầu đấu tranh
bảo vệ cái đúng, cái tốt, diệt trừ cái ác, cái
xấu, hết lòng vì nhân dân với Ngòi bút
trách nhiệm của nhà báo công dân trong
tình hình mớir
Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo.- 2012.- Số
6.- Tr.3.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
101
1. Về quan hệ giữa thông tin đối nội
và thông tin đối ngoại thông qua hệ
thống các cơ quan thông tấn, báo chíTrong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia,
dân tộc tạo dựng hình ảnh của mình bằngnhiều phương thức khác nhau, trong đó hệthống các cơ quan thông tấn, báo chí là mộtkênh quan trọng. Với sự phát triển nhanhchóng của khoa học, công nghệ, loại hìnhthông tin này không ngừng mở rộng vềphạm vi, tốc độ, hình thức và phương tiệntruyền tải thông tin. Hình thức báo viết, báonói truyền thống được bổ sung nhiều loạihình mới như báo hình, báo điện tử…vớicông nghệ ngày càng hiện đại. Mỗi ngườidân, mỗi đối tượng tiếp nhận thông tin cóthể tìm kiếm những vấn đề mình quan tâm,trên các phương tiện thông tin đại chúngvới nhiều sự lựa chọn khác nhau. Nhờ đó,giúp họ nâng cao nhận thức, điều chỉnhhành vi, bày tỏ quan điểm, chính kiến đốivới các vấn đề, sự kiện đang diễn ra ở trongnước và thế giới, đây cũng là phương thứcgiải trí hiệu quả đối với mỗi người dân. Cáccơ quan thông tấn, báo chí khi làm tốt chức
năng, tôn chỉ của mình, chính là cầu nốithông tin của mỗi cá nhân, tập thể, Nhànước và các quốc gia, là kênh quan trọngquảng bá hình ảnh, thúc đẩy sự phát triểnkinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, gìngiữ truyền thống và phát huy bản sắc vănhóa dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinhhoa văn hóa của nhân loại…
Về nguyên tắc, mỗi cơ quan thông tấn,báo chí đều có tôn chỉ, mục đích và đốitượng độc giả chính, song do sự khác nhauvề lịch sử, chất lượng và các điều kiện khácmà quy mô, phạm vi ảnh hưởng, đối tượngquan tâm lại rất khác nhau. Trên thực tế,không ít những cơ quan truyền thông, báochí có quy mô, phạm vi mở rộng không chỉtrong một nước mà nhiều quốc gia, vùnglãnh thổ, nhiều đối tượng độc giả quan tâm.Xét về nội dung, có loại hình báo chíchuyên sâu từng mảng, từng lĩnh vực nhưchính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, anninh, đối ngoại, thể thao, giải trí… hoặctheo lứa tuổi, giới tính, thành phần, nhưthanh thiếu niên, phụ nữ, người cao tuổi,công nhân, nông dân, trí thức, thông tin
Xử LÝ TỐT MỐI QUAN HỆ GIữA THôNG TIN
ĐỐI NỘI VÀ THôNG TIN ĐỐI NGOẠI: TRÁCH NHIỆM
CỦA CƠ QUAN BÁO CHÍ VÀ NGƯỜI CầM BúT
?PGS, TS PHẠM VăN LINH
Ban Tuyên giáo Trung ương
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
102
trong nước, thông tin quốc tế… tạo nên bứctranh đa sắc mầu của hệ thống các cơ quanthông tấn, báo chí trong cả nước. Tuynhiên, có loại hình báo chí, đặc biệt là cáccơ quan thông tấn lại thông tin tất cả cáclĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, xéttheo thời gian, có loại báo chí phát hànhtheo ngày, theo tuần, theo tháng, thậm chítheo quý, xong có loại thì cập nhật thườngxuyên từng giờ, từng phút nhất là các loạibáo điện tử, blog, báo nói, báo hình…Hiệntượng đưa tin lại những thông tin đã sửdụng cũng diễn ra khá phổ biến. Có nhữngthông tin các báo trong nước lấy lại củanhau, hoặc lấy lại của các hãng thông tấn,báo chí lớn của các quốc gia khác. Cónhững thông tin, các cơ quan báo chí bênngoài đưa lại thông tin đã được sử dụng từcác cơ quan thông tấn, báo chí trong nước.Vì thế trong điều kiện khoa học, công nghệphát triển mạnh mẽ như hiện nay, ranh giớigiữa thông tin đối nội và thông tin đốingoại (TTĐN) chỉ là tương đối.
Đối với mỗi quốc gia, TTĐN là việc giớithiệu, quảng bá hình ảnh của một quốc giara bên ngoài, qua đó làm cho bạn bè quốctế hiểu rõ hơn về trong nước nhằm tranhthủ sự đồng tình, ủng hộ từ bên ngoài, gópphần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảovệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đấtnước. Do đó, TTĐN là những thông tinkhách quan, trung thực, có chọn lọc, phùhợp từng đối tượng để giúp bạn bè quốc tếhiểu đúng, đầy đủ về tình hình đất nước,
những hướng ưu tiên, những vấn đề cầnquan tâm để tránh bị xuyên tạc, lợi dụng…
Thông tin đối nội là thông tin cho nhândân mình, trong quốc gia, lãnh thổ mỗinước, đó là bức tranh toàn cảnh về mọi mặtcủa đời sống xã hội hàng ngày, hàng giờđang diễn ra. Thông tin đối nội tốt cũngtrực tiếp bổ sung cho TTĐN. Trên thực tế,do tính chất thương mại hóa, một số ngườicầm bút, một số tờ báo chỉ thấy lợi íchtrước mắt, “lợi ích nhóm” nên chỉ chútrọng khai thác những thông tin giật gân,câu khách, thông tin thỏa mãn sự hiếu kỳcủa một nhóm đối tượng, v.v.. miễn sao gâyđược chú ý để nhiều người quan tâm, bánđược nhiều báo, nhiều quảng cáo, thu đượcnhiều lợi nhuận, trong khi đó nhiều thôngtin gương người tốt, việc tốt, thông tinchính luận, khách quan về sự phát triển mọimặt của đất nước lại ít được khai thác.Cách tuyên truyền như vậy sẽ làm méo móhiện thực, không có lợi cho việc giới thiệu,quảng bá hình ảnh đất nước, nhất là TTĐN.
2. Một số đánh giá về kết quả công tácTTĐN thời gian qua
Việt Nam là một đất nước đi lên từ sauhàng chục năm kháng chiến giành độc lập.Vết thương chiến tranh, sự chống phá từmột số lực lượng thù địch, cơ hội cùng vớiđiểm xuất phát thấp là những khó khăntrong quá trình phát triển, điều đó đòi hỏiphải tăng cường hơn nữa công tác TTĐN.Từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổimới sâu sắc và toàn diện đến nay đã hơn
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
103
25 năm. Nhờ phát huy được sức mạnh tổnghợp của cả dân tộc và được sự đồng tình,ủng hộ to lớn từ quốc tế, nền kinh tế ViệtNam liên tục giữ được mức tăng trưởngkhá, đất nước đã ra khỏi tình trạng nướcnghèo và kém phát triển, xã hội ổn định, anninh, quốc phòng được giữ vững, vị thếquốc tế không ngừng được nâng lên. Trongthành tựu chung này có một phần đóng góptích cực của công tác TTĐN, trong đó cáccơ quan thông tấn, báo chí giữ vị trí quantrọng. Nội dung cơ bản của TTĐN nước tanhững năm vừa qua là: Thông tin về nhữngchủ trương, đường lối đối mới của Đảng,chính sách pháp luật của Nhà nước trên cáclĩnh vực; thông tin về những thành tựu đãđạt được, những tiềm năng, thế mạnh củađất nước; về đất nước, con người, truyềnthống lịch sử, văn hóa Việt Nam; thông tincho cộng đồng người Việt Nam ở nướcngoài và thông tin phản bác các quan điểmsai trái, thù địch.
Thực tiễn công cuộc đổi mới, phát triểnkinh tế- xã hội ở nước ta từ Đại hội X đếnĐại hội XI cho thấy, công tác TTĐN đãgóp phần to lớn vào việc xây dựng hìnhảnh Việt Nam ở các quốc gia, vùng lãnhthổ trên thế giới, đặc biệt là các địa bàntrọng điểm, nhờ đó đẩy mạnh quá trình hộinhập quốc tế của đất nước. Tại cuộc điềutra dư luận xã hội do Viện nghiên cứu dưluận xã hội, thuộc Ban Tuyên giáo Trungương tiến hành trong năm 2009, tập trungvào các nhóm đối tượng làm công tác
TTĐN ở Trung ương và một số địa phươngtrọng điểm, cho thấy: Nhóm vấn đề về sựnhìn nhận, đánh giá của dư luận quốc tế vềtình hình Việt Nam, được tiếp cận ở 20 lĩnhvực, trong đó có 3 lĩnh vực được báo chívà dư luận quốc tế đánh giá tốt, đó là “Sựổn định chính trị của Việt Nam”. Có 75%số ý kiến được hỏi đồng tình; “Về đườnglối đổi mới và kết quả thực hiện” (61%);“Về quan hệ đối ngoại của Việt Nam”(56%).
Đánh giá về những nỗ lực của công tácTTĐN trong việc thông tin, tuyên truyềnvề một số chủ trương, đường lối đổi mớicủa Đảng, Nhà nước, qua các số liệu điềutra cho thấy, có 59% số ý kiến đồng tình vàđánh giá cao, cho rằng: “Đường lối đốingoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đaphương hóa, sẵn sàng là bạn, là đối tác tincậy, là thành viên có trách nhiệm với cộngđồng quốc tế”, chủ trương “Chủ động, tíchcực hội nhập quốc tế và mở rộng hợp tácquốc tế trên các lĩnh vực”; chủ trương“Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”;chủ trương “Đại đoàn kết toàn dân tộc”, đãđược thông tin nhiều với bạn bè quốc tế.
Đánh giá về nỗ lực của công tác TTĐNtrong việc thông tin về lập trường kiênquyết bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền lãnhthổ, không phận, biển, đảo của Đảng, Nhànước ta, có 58% số người được hỏi chorằng, TTĐN đã làm tốt vấn đề này. Bêncạnh đó, khi đánh giá về việc phát huy lợithế của các lực lượng, nhân tố để chuyển
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
104
tải, cung cấp cho thế giới những thông tintrung thực, chính thống về tình hình ViệtNam, trong số 15 loại hình thông tin chủ yếu,thì các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lựcđược 45% số người được hỏi xếp loại tốt, tứclà đứng thứ 2 trong số các loại hình này.
Những thành tựu chủ yếu của công tácTTĐN có thể khái quát ở những điểmchính như sau:
Nội dung thông tin phong phú hơn,phương thức hoạt động đã có sự đổi mới,linh hoạt hơn, bước đầu áp dụng các côngnghệ hiện đại trong công tác TTĐN; cáclực lượng tham gia công tác TTĐN đượctăng cường, ngày càng đông đảo, đa dạng,hoạt động hiệu quả hơn; đối tượng, địa bànhoạt động TTĐN được mở rộng. Thông tinchính thống từ Việt Nam đến với bạn bèquốc tế và cộng đồng người Việt Nam ởnước ngoài phát triển nhanh chóng, đadạng hơn về nội dung và hình thức. Kếtquả nói trên đã góp phần quan trọng vàoviệc đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tếcủa đất nước, nâng cao vị thế và uy tín củaViệt Nam trên thế giới; từng bước làm thấtbại những âm mưu phá hoại của các thế lựccơ hội, thù địch, giữ vững ổn định chính trị,bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới lãnhthổ; củng cố và mở rộng quan hệ hợp tácvới các nước và tổ chức quốc tế, đẩy mạnhquan hệ kinh tế-thương mại, thu hút đầu tưnước ngoài, khách du lịch quốc tế, khuyếnkhích, động viên đồng bào ta ở nước ngoàigắn bó với quê hương; đóng góp tích cực
vào những thành tựu chung của công cuộc đổimới đất nước. Những kết quả này có sự đónggóp không nhỏ của các cơ quan thống tấn, báochí và những người làm báo ở Việt Nam.
3. Những vấn đề đặt ra và yêu cầumới đối với các cơ quan thông tấn, báochí hiện nay trong xử lý mối quan hệgiữa thông tin đối nội và TTĐN
Về những vấn đề đặt ra:Một là, thách thức của quá trình hội
nhập quốc tế đối với hoạt động TTĐN củacác cơ quan thông tấn, báo chí. Đại hội XIcủa Đảng đã đề ra chủ trương chủ động vàtích cực hội nhập quốc tế, đây là yêu cầu,là vấn đề đặt ra đối với các cơ quan thôngtấn, báo chí trước tình hình mới. Hội nhậpđòi hỏi thông tin phải đa dạng về nội dungvà phong phú về hình thức, thể loại; đốitượng tiếp nhận mở rộng hơn, các vấn đềđược dư luận trong và ngoài nước quan tâmvề hình ảnh Việt Nam cũng nhiều hơn, dovậy, từ tình hình hiện nay của các cơ quanthông tấn, báo chí trong hoạt động TTĐN,chắc chắn sẽ đặt ra nhiều vấn đề cần giảiquyết. Tính đa dạng của thông tin cũng làyếu tố thuận lợi, nhưng cũng là môi trườngphức tạp, khó kiểm soát trong việc khaithác thông tin, dễ bị lợi dụng, bị xuyên tạc,nhất là với những phần tử cơ hội, thù địch.
Hai là, mối quan hệ giữa cơ quan thôngtấn, báo chí hiện có với yêu cầu xây dựng,phát triển một số cơ quan chuyên tráchTTĐN trong thời gian tới. Cho đến nay, căncứ vào Chỉ thị 11 của Ban Bí thư (khóa
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
105
VII) và Chỉ thị 26 của Ban Bí thư (khóa X),Kết luận số 16- KL/TW ngày 14-2-2012của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Chiến lượcphát triển thông tin đối ngoại giai đoạn2011-2020”, lực lượng chủ yếu làm côngtác TTĐN hiện nay vẫn là một số cơ quanthông tấn, báo chí hiện có. So với quy mô,phạm vi trong nước thì đây là các cơ quanbáo chí lớn, nhưng so với khu vực và thếgiới, nhất là về TTĐN, về mức độ chuyênsâu, số lượng ngôn ngữ sử dụng thì còn quánhỏ. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng,phát triển mới chuyên sâu hay sử dụng cáccơ quan báo chí hiện có, cả thông tin đốinội và đối ngoại. Cần có cơ chế chỉ đạothông tin như thế nào để đảm bảo địnhhướng, hiệu quả, xử lý tốt mối quan hệgiữa thông tin đối nội và TTĐN, đề caotrách nhiệm của mỗi người cầm bút trongvấn đề này?
Ba là, hiện nay và những năm tiếp theo,tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn cònnhiều khó khăn. Những hạn chế, yếu kémnội tại của nền kinh tế trong phát triển tiếptục bộc lộ, tệ quan liêu, tham nhũng, hối lộ,sự suy thoái về đạo đức, lối sống; vấn đềgiao thông và ô nhiễm môi trường chưađược khắc phục, đẩy lùi như mong muốn.Một số bức xúc trong đời sống xã hội củangười dân vẫn diễn biến phức tạp, điều nàylà những hạn chế trong việc quảng bá hìnhảnh của Việt Nam ra bên ngoài. Thực tếcho thấy, đây là vấn đề rất dễ bị lợi dụng.Ở nước ta hiện nay, những yếu kém trên là
có thật, là những hạn chế, thiếu sót trongquá trình phát triển, song Đảng, Nhà nướcViệt Nam luôn cố gắng, nỗ lực để từngbước khắc phục. Điều đó thể hiện rõ nét sựquyết tâm của Đảng ta trong Nghị quyếtTrung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấpbách về xây dựng Đảng hiện nay”. Song,bên cạnh đó, để có được sự phát triển hômnay, những kết quả đạt được, những gươngngười tốt, việc tốt cũng rất nhiều. Ngườicầm bút, và cơ quan báo chí cần nêu caotrách nhiệm, cần khách quan, vì lợi ích củađất nước, dân tộc, cần thông tin trung thực,tránh bị lợi dụng, ảnh hưởng đến TTĐN.
Bốn là, sự chống phá quyết liệt của cácthế lực cơ hội, thù địch vẫn diễn biến phứctạp, tinh vi, thâm độc hơn. Bên cạnh đó,những diễn biến mới về tình hình an ninhtruyền thống, an ninh phi truyền thống, cácxung đột trong khu vực và một số nơi trênthế giới, đặc biệt là vấn đề Biển Đông…đòi hỏi TTĐN và thông tin đối nội phảithực sự linh hoạt, xử lý đúng đắn vấn đềđối tượng, đối tác; vấn đề lợi ích, chủquyền dân tộc với tạo dựng hình ảnh trongtuyên truyền…
Những yêu cầu mới đối với cơ quanthông tấn, báo chí trong xử lý giữa thôngtin đối nội và TTĐN thời gian tới là:
Thứ nhất, phải phục vụ đắc lực và hiệuquả cho việc triển khai chính sách đốingoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạnghóa các quan hệ quốc tế trên tinh thần ViệtNam là bạn, đối tác tin cậy, là thành viên
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
106
có trách nhiệm của các nước trong cộngđồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiếntrình hợp tác quốc tế và khu vực. Thông tinđối nội và TTĐN phải chủ động ứng phóvới những tình huống phức tạp nảy sinh,xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa hợp tácvà đấu tranh, tạo được sự đồng thuận trongnước và tranh thủ được sự ủng hộ của quốctế, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹnlãnh thổ của đất nước và môi trường hòabình, ổn định cho phát triển đất nước.
Thứ hai, phải tham gia tích cực và hiệuquả nhất vào việc nâng cao vị thế của ViệtNam trên trường quốc tế, phải làm cho bạnbè thế giới hiểu sâu, hiểu đúng về các chủtrương, đường lối của Đảng, chính sách củaNhà nước, về đất nước, lịch sử, con ngườivà văn hóa Việt Nam nhằm tranh thủ sựđồng tình, ủng hộ của dư luận trong nướcvà quốc tế đối với công cuộc đổi mới củađất nước ta, tạo mọi điều kiện thuận lợinhất cho công cuộc công nghiệp hóa, hiệnđại hóa đất nước. Đây là vấn đề đòi hỏithông tin đối nội phải luôn bám sát địnhhướng, vì lợi ích to lớn, lâu dài của đấtnước, tạo sự thống nhất cao ở trong nước,là cở sở để TTĐN được thuận lợi hơn.
Thứ ba, tập trung xây dựng và tiếp tụcquảng bá hình ảnh một Việt Nam hòa bình,hữu nghị, đổi mới và hội nhập thành công.Trong bối cảnh mới, hình ảnh của ViệtNam cần được xây dựng từ thành tựu củahơn 25 năm đổi mới; trên nền tảng văn hóađậm đà bản sắc dân tộc; tinh thần độc lập
tự chủ, ý chí quật cường vươn lên, sự hòahiếu, thủy chung của con người Việt Nam;gắn với những đóng góp tích cực, có tráchnhiệm của Việt Nam ở khu vực và trên thếgiới vào cuộc đấu tranh chung vì hòa bình,độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội; gắn vớisức sống năng động, tiềm năng hợp tác củađất nước, là mục tiêu và yêu cầu thông tinđối nội và TTĐN cần hướng tới, giới thiệuhình ảnh một Việt Nam “ổn định, năngđộng, nhiều tiềm năng và có trách nhiệmvới cộng đồng quốc tế”.
Thứ tư, là lực lượng nòng cốt trong xây
dựng nội dung, lập luận để kiên quyết đấu
tranh, phản bác các thông tin sai trái, làm
thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù
địch sử dụng mặt trận thông tin để chống
phá Việt Nam. Đây cũng là yêu cầu và
trách nhiệm với mỗi cơ quan báo chí và
người cầm bút ở nước ta. Làm tốt vấn đề
này đòi hỏi thông tin phải trung thực, cách
tiếp cận sự kiện, cách nêu vấn đề phải đứng
trên lợi ích lâu dài của đất nước, dân tộc;
thông tin mang tính chất xây dựng, nói cái
xấu để khắc phục, nêu cái tốt để khuyến
khích phát triểnr
Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo.- 2012.- Số
6.- Tr.10-13.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
107
Trong bài viết này, chúng tôi xin đềcập đến tính chuyên nghiệp trongviệc đào tạo và nghiên cứu báo chí
- hai yếu tố quan trọng trong việc xây dựngnền báo chí chuyên nghiệp, cách mạng ởViệt Nam hiện nay.
1. Bốn yếu tố để đào tạo chuyênnghiệp các nhà báo chuyên nghiệp
Đào tạo và nghiên cứu báo chí truyềnthông là một lĩnh vực đặc biệt, không chỉthu hút sự quan tâm của giới học thuật màcòn của cả ngành truyền thông đại chúngvới nhiều ý kiến đan xen, trái ngược nhau.Trong khi nhiều ý kiến cho rằng báo chí làmột nghề đòi hỏi kỹ năng tác nghiệp vàmang tính thực hành cao, thì việc đào tạobáo chí truyền thông tại các cơ sở đào tạoở Việt Nam vẫn phần lớn được thực hiệnmột cách “tầng bậc” trên giảng đường, từcử nhân, đến thạc sỹ, tiến sỹ, nặng về lýthuyết. Đồng thời, trong khi đào tạo báo chítruyền thông ở Việt Nam bị phê phán lànặng về lý thuyết, thì nhiều ý kiến lại chorằng việc nghiên cứu lý luận báo chí truyềnthông ở Việt Nam bị xem nhẹ và chưa thực
sự hữu ích đối với ngành công nghiệptruyền thông.
Lịch sử đào tạo báo chí truyền thông ởnhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, việcđào tạo phóng viên ban đầu chỉ được thựchiện ở các tòa soạn. Nhiều người còn chorằng báo chí là một nghề chỉ có thể trau dồiqua cách học trên đầu việc (learning onjob) và “một nhà báo xuất chúng có thểchẳng cần qua trường lớp nào cả” (HughStephenson 1996, tr.23). Bởi vậy, ngay ởAnh, một trong những chiếc nôi của báochí thế giới, nơi tờ báo đầu tiên bằng tiếngAnh xuất hiện ở London từ năm 1665, vàđài phát thanh đầu tiên ra đời từ năm 1922,thì đào tạo báo chí với tư cách là một ngànhhọc ở bậc đại học chỉ xuất hiện từ năm 1971.
Ở các nước phát triển trên thế giới, ngaycả khi ngành báo chí truyền thông đượckhẳng định là một ngành khoa học xã hội,có phương pháp và đối tượng nghiên cứuđặc thù, thì việc đào tạo báo chí truyềnthông vẫn không giống như đào tạo cửnhân của bất kỳ ngành khoa học xã hội nàokhác. Điểm cơ bản nhất trong việc đào tạo
NÂNG CAO TÍNH CHUYÊN NGHIỆP CỦA NỀN
BÁO CHÍ VIỆT NAM BẰNG ĐÀO TẠO CHUYÊN
NGHIỆP VÀ NGHIÊN CỨU CHUYÊN NGHIỆP
?TS ĐẶNG THI THU HƯƠNG
Đại học khoa học xã hội và Nhân văn
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
108
báo chí truyền thông là phải “cho ra lò”những người “thạo việc”, có kỹ năng săntin, viết bài, biết cách ghi âm, sử dụng máyquay, biết thực hiện các chương trình phátthanh, truyền hình, biết cách tổ chức sựkiện, biết làm truyền thông hợp tác và tiếpthị quảng cáo. Cũng chính bởi vậy, rènluyện kỹ năng làm báo luôn là ưu tiên sốmột trong các trường đào tạo báo chítruyền thông nước ngoài.
Trong khi đó, ở Việt Nam, các chươngtrình đào tạo báo chí còn nặng về lý thuyết,kỹ năng thực hành chỉ bao gồm các thaotác đơn giản. Bên cạnh sự thiếu hụt nghiêmtrọng về máy móc, trang thiết bị là sự thiếuhụt đội ngũ giáo viên thực hành để hướngdẫn sinh viên. Việc hướng dẫn sinh viênsáng tạo tác phẩm báo chí cũng rất khóthực hiện vì nhiều giảng viên báo chí chưabao giờ làm báo thực sự. Chính vì vậy,nhiều sinh viên tốt nghiệp loại khá, nhưngvẫn không có đầy đủ các kỹ năng về nghềđể viết báo hay sản xuất chương trình phátthanh - truyền hình.
Tuy nhiên, việc rèn luyện kỹ năngkhông phải là điểm mấu chốt nhất trongviệc đào tạo một nhà báo chuyên nghiệp.Bởi lẽ, đào tạo báo chí không giống nhưđào tạo kỹ sư điện hay chế tạo máy. Hoạtđộng báo chí là hoạt động thông tin chínhtrị - xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳngđịnh, không một lực lượng cách mạng nàokhông dùng báo chí làm phương tiện tuyêntruyền cho mục đích, tôn chỉ và tập hợp lực
lượng quần chúng; không một giai cấpthống trị nào không nắm lấy bộ máy thôngtin tuyên truyền báo chí để góp phần củngcố và điều hành xã hội. Có nghĩa là, mộttrong những nhiệm vụ hàng đầu của việcđào tạo báo chí truyền thông không chỉ làkỹ năng, nghiệp vụ, mà phải đào tạo mộtcách toàn diện kiến thức chung về văn hóa,xã hội, nhưng quan trọng và đặc biệt nhấtlà đào luyện về chính trị tư tưởng và đạođức nghề nghiệp cho người làm báo.
Bên cạnh đó, hiệu quả của ngành báochí truyền thông chỉ đạt được khi ngườihọc nắm vững kiến thức lý luận về truyềnthông và truyền thông đại chúng, hiểu rõquy luật phát triển của truyền thông đạichúng trong xã hội, cũng như mô hình hoạtđộng kinh tế của ngành công nghiệp báochí truyền thông phát triển, đặc biệt tronggiai đoạn hiện nay, khi Việt Nam áp dụngchính sách mở cửa, đổi mới, phát triển theomô hình kinh tế thị trường có định hướngxã hội chủ nghĩa; khi mô hình cho sự pháttriển của ngành công nghiệp báo chí truyềnthông ở Việt Nam hiện nay chưa từng cótiền lệ trên thế giới.
Nói cách khác, bốn yếu tố then chốt củaviệc đào tạo có tính chuyên nghiệp về báochí truyền thông là phải có sự kết hợp hàihòa giữa nền tảng chính trị của chủ nghĩaMác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiếnthức chung về văn hóa xã hội; kiến thứcchuyên sâu về lý luận báo chí truyền thôngvà kỹ năng nghiệp vụ tác nghiệp báo chí.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
109
Hạn chế và bất cập của việc đào tạo báo chítruyền thông trong thời gian qua là minhchứng cho sự nhận thức chưa đầy đủ vềlĩnh vực đào tạo đặc thù này.
2.Nghiên cứu chuyên nghiệp để xâydựng nền tảng và định hướng cho hoạtđộng báo chí trong nền kinh tế thịtrường theo định hướng XHCN
Hơn hai thập niên trước đây, Đảng Cộngsản Việt Nam đã đánh dấu một bướcchuyển biến quan trọng trong sự phát triểncủa quốc gia bằng cách chuyển đổi từ nềnkinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tếthị trường theo định hướng XHCN. Kinhtế thị trường (KTTT) là một kiểu tổ chứckinh tế - xã hội; trong đó, quá trình sảnxuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đềuđược thực hiện thông qua thị trường. Vì thếKTTT không chỉ là “công nghệ”, là“phương tiện” để phát triển kinh tế - xã hội,mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội.Nó không chỉ gồm lực lượng sản xuất màcòn cả một hệ thống quan hệ sản xuất.KTTT định hướng XHCN là nền kinh tếvẫn tuân theo quy luật của KTTT, vừa chịusự chi phối của các nhân tố định hướngXHCN. Vì thế, KTTT ở nước ta vừa cónhững đặc trưng chung, phổ biến của mọinền KTTT, vừa có những đặc trưng mangtính đặc thù-định hướng XHCN.
Sự đổi mới về kinh tế không chỉ đưaViệt Nam từ một trong những quốc gianghèo nhất trên thế giới thành một trongnhững đất nước thành công nhất trong việc
phát triển kinh tế, mà còn có tác động mạnhmẽ đến nền báo chí truyền thông ở ViệtNam. Trong khoảng thời gian từ đầu nhữngnăm 1990 đến 2010, ngành công nghiệptruyền thông ở Việt Nam đã có những bướcphát triển vượt bậc với sự gia tăng mạnhmẽ về số lượng các sản phẩm truyền thông,quy mô của ngành công nghiệp báo chí, lợinhuận từ quảng cáo, cùng với đó là “độnóng” trong cạnh tranh giữa các cơ quanbáo chí truyền thông.
Không chỉ gia tăng về số lượng, màquan trọng hơn là sự thay đổi trong tư duylàm báo ở Việt Nam sau Đổi mới. Thựchiện chủ trương “phê bình, tự phê bình” và“nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” doĐảng phát động, thay vì tuyên truyền mộtchiều như giai đoạn trước đây, báo chítruyền thông ở Việt Nam đã trở thành kênhthông tin quan trọng, phản ánh khá toàndiện cuộc sống, và thể hiện tiếng nói củađông đảo các tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Sau Đổi mới, báo chí Việt Nam là môhình truyền thông kết hợp giữa nguyên tắcbất di bất dịch – “báo chí đặt dưới sự lãnhđạo của Đảng và Nhà nước” - với nhữngnguyên tắc của nền cơ chế thị trường cóđịnh hướng XHCN. Trong mô hình này, cơquan báo chí tự hạch toán kinh tế, khôngchỉ phát hành sản phẩm truyền thông, thuhút quảng cáo, mà còn triển khai các hoạtđộng kinh doanh đa dạng với xu hướngphát triển thành tập đoàn báo chí, nhưng tấtcả đều không tách rời sự lãnh đạo toàn diện
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
110
của Đảng.Nền báo chí truyền thông Việt Nam sau
Đổi mới là hình mẫu hòa trộn giữa nền báochí Nhà nước với nền báo chí có yếu tốkinh tế thị trường theo định hướng XHCN.Theo mô hình này, có sự cạnh tranh giữacác cơ quan báo chí, có sự đa dạng hoạtđộng của các công ty truyền thông, trongbối cảnh nguồn tài chính bao cấp của Nhànước ngày càng thu hẹp lại, dẫn tới sự pháttriển mạnh mẽ của ngành công nghiệpquảng cáo.
Từ nền báo chí “đơn chức năng” (theocách gọi của Schramm), báo chí Việt Namđã trở thành nền báo chí “đa chức năng”,không chỉ tập trung tuyên truyền đường lốichính sách của Đảng, mà cung cấp thôngtin, tạo ra dòng chảy liền mạch, tạo nênchất kết dính về thông tin chặt chẽ giữaĐảng, Chính phủ và nhân dân. Báo chí ViệtNam không chỉ dừng lại ở chức năng phảnánh đời sống xã hội mà còn có thêm chứcnăng phản biện xã hội. Báo chí Việt Namtừ chỗ là cơ quan ngôn luận của Đảng vàNhà nước, đã và đang trở thành diễn đàncủa đông đảo quần chúng nhân dân.
Đảng và Chính phủ Việt Nam khônglãnh đạo báo chí theo cách “cầm tay chỉviệc”, mà bằng định hướng tư tưởng, vàbằng cách tạo lập hành lang pháp lý chobáo chí hoạt động. Việt Nam đã điều chỉnhLuật báo chí và hệ thống văn bản pháp luậtnăm 1989 và 1999, đồng thời ban bố nhiềuvăn bản pháp luật trong thời gian qua. Từ
năm 1990 đến nay, có 47 văn bản pháp luậtliên quan đến báo chí được ban hành, trongđó, chỉ trong hơn 2 năm sau khi Việt Namra nhập WTO (tính riêng từ 2006-2009), đãcó 24 văn bản, nghị định, chỉ thị, quyếtđịnh của Thủ tướng Chính phủ và BộThông tin và Truyền thông về hoạt độngbáo chí. Đây có thể được coi là giai đoạnmà Chính phủ Việt Nam ban hành nhiềuvăn bản pháp luật liên quan đến báo chítruyền thông nhiều nhất kể từ nước ViệtNam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Như vậy, sự chuyển đổi từ nền báo chíđơn chức năng sang đa chức năng khônglàm suy yếu, giảm sút sự lãnh đạo, chỉ đạocủa Đảng đối với báo chí, mà ngược lại, làđộng lực để báo chí phát triển. Xu hướngphát triển mới đang đặt ra những đòi hỏimới, phức tạp hơn và ở tầm cao hơn chocông tác quản lý nhà nước về báo chí, đặcbiệt là ở khả năng dự báo chiến lược nhằmtạo điều kiện để báo chí phát triển nhưngvẫn đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của côngtác quản lý nhà nước ở lĩnh vực này. Vấnđề của giai đoạn hiện nay là chuyển đổi tưduy quản lý báo chí, từ tư duy “ Quản lýđược đến đâu thì mở đến đó” đến tư duy“Quản lý phải theo kịp với yêu cầu củaphát triển”, và hiện nay là “Quản lý phảithúc đẩy phát triển”.
Do sự khác biệt với các nước phươngTây về thể chế chính trị, hoàn cảnh địaphương, yếu tố lịch sử và các giá trị vănhóa, xã hội – những yếu tố được coi là cơ
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
111
bản để tạo nên những mô hình và chế địnhchức năng, nhiệm vụ của các nền báo chítruyền thông khác nhau trên toàn thế giới(Zelizer 2004, tr.154-157; Halin và Macini2004; Gunaratne 1999) - báo chí Việt Namcó mô hình phát triển và những chức năng,nhiệm vụ khác hẳn với báo chí ở các nướctư bản. Và nghiên cứu báo chí chuyênnghiệp là phải chỉ ra những giá trị cốt lõi,định hướng cho sự phát triển của nền báochí Việt Nam trong tương lai.
Báo chí Việt Nam có vai trò quan trọnglà bộ phận tiên phong trong công tác tưtưởng của Đảng, có nhiệm vụ quan trọnglà tích cực tuyên truyền đường lối, chủtrương của Đảng, pháp luật của Nhà nước,đóng góp hữu ích vào công cuộc đổi mớicủa đất nước, đồng thời là diễn đàn củaquần chúng nhân dân. Và do vậy, quanniệm “báo chí là cơ quan quyền lực thứ tư”- bên cạnh cơ quan lập pháp, hành pháp, tưpháp - xuất hiện từ thế kỷ 18 và hiện rấtphổ biến ở các nước phương Tây hiện nay(Moy và Scheufele 2000, tr.744; Zelizer2004, tr.147), không phù hợp với điều kiệnở Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia ở phươngĐông, nơi triết lý Nho giáo vẫn còn có ảnhhưởng sâu sắc tới đời sống xã hội, thậmchí, triết lý này đã góp phần quan trọnggiúp nhiều quốc gia trong khu vực nhưNhật Bản và “bốn con rồng châu Á” xáclập vị trí kinh tế khiến thế giới vì nể. Triếtlý của đạo Khổng luôn đạt quyền lợi của
xã hội lên trên quyền lợi của gia đình, đặtquyền lợi gia đình lên trên quyền lợi cá nhân,trong khi nhận thức giá trị bản thân (self-re-alisation) lại được coi là một trong những giátrị cao nhất của xã hội phương Tây.
Một điểm thú vị là báo chí ở các nướcđang phát triển, đặc biệt là ở châu Á và khuvực Đông Nam Á có nhiều điểm chungtrong một hình mẫu báo chí trên cơ sở ýthức quốc gia dân tộc (Đặng Thị ThuHương 2001b). Báo chí ở châu Á gắn liềnnhững giá trị phương Đông, trong đó, nổibật lên sự song hành giữa tự do báo chí vàtrách nhiệm xã hội: đặt quyền lợi tráchnhiệm xã hội: đạt quyền lợi của quốc gialên trên quyền lợi của cá nhân, báo chíđồng hành cùng với sự phát triển của quốcgia dân tộc (Mehra 1989 trích theo Gu-naratne 1999, tr.207). Đây chính là lí do cơbản cho sự đồng thuận giữa báo chí và chínhquyền ở các quốc gia châu Á, mà tiêu biểulà Trung Quốc, Việt Nam, Singapore…
Tuy Việt Nam và nhiều quốc giaASEAN có một số điểm chung trong hìnhmẫu báo chí mang đậm ý thức quốc gia dântộc, theo nghĩa là báo chí cùng với chínhquyền xây dựng sự đồng thuận trong xã hộiđể cùng phát triển bền vững (Đặng Thị ThuHương 2001b), thì hình mẫu của báo chíViệt Nam vẫn có những sắc thái rất khácbiệt so với các quốc gia khác trong khuvực. Trong khi Thái Lan và Philippineschịu ảnh hưởng khá sâu sắc báo chíphương Tây; Singapore, Malaysia, Indone-
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
112
sia đang áp dụng cơ chế nửa quản lý báochí (semi-controlledpress) (Guanarate1999, p.208; Busch 2004, p.9), thì ở ViệtNam, báo chí đặt hoàn toàn dưới sự lãnhđạo của đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Tất cả những thay đổi này đang tạo ramột diện mạo mới cho báo chí Việt Nam,tạo ra những chức năng, nhiệm vụ mới, vànguyên tắc hoạt động mới mẻ cho nền báochí cách mạng của nước ta. Với tính Đảngxuyên suốt, báo chí Việt Nam cần chủ độngtạo dựng, xây dựng và phát triển ngànhcông nghiệp truyền thông vừa đáp ứng yêucầu về chính trị, vừa tạo nên thành quả kinhtế của một ngành công nghiệp quan trọngphục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước,và trên hết, phải là đại diện cho tiếng nóicủa đông đảo công chúng Việt Nam.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu báo chítruyền thông ở Việt Nam vẫn chưa đượcđánh giá và quan tâm đúng mức. Cácnghiên cứu về báo chí truyền thông cònthiếu về số lượng và yếu về chất lượng,chưa đóng góp hiệu quả cho việc đàonguồn nhân lực cho ngành công nghiệptruyền thông, cũng chưa tạo nên địnhhướng cho sự phát triển chuyên nghiệp củangành công nghiệp này trong xu thế pháttriển của nền KTTT theo định hướngXHCN.
Và bởi vậy, đẩy mạnh nghiên cứu báochí truyền thông với tư cách là một ngànhkhoa học, có nền tảng lý luận, có đối tượngnghiên cứu, phương pháp nghiên cứu đặc
thù là yếu tố quan trọng, là động lực nângcao chất lượng đào tạo về báo chí truyềnthông một cách bài bản và chuyên nghiệp;đồng thời, quan trọng hơn là tạo lập nềntảng lý luận vững chắc, tạo tiền đề, địnhhướng cho sự phát triển đúng đắn của nềnbáo chí cách mạng và chuyên nghiệp ở ViệtNam hiện nayr
……………..Tài liệu tham khảo
1. Busch, W.(ed.),2004, The Asia Media Directory,
Konrad Adenauer Foundation (Singapore).
2. Đặng Thị Thu Hương, 2009, Đào tạo báo chí tại
Vương quốc Anh, Tạp chí Người làm báo, số 10.2009
3. Đặng Thị Thu Hương, 2001a, Quản lý báo chí
trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Người làm báo, số
1 (2001), tr.5-8.
4. Đặng Thị Thu Hương, 2001b, Ý thức quốc gia dân
tộc của báo chí ASEAN, trong cuốn: Báo chí – những
vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
5. ESTERLINE, J.H., 1988, Vietnam in 1987: Steps
towards Rejuvenation. Asian Survey, 28 (1), 86-94, Pub-
lished by University of California Press.
6. Hữu Thọ, 1997, Tình hình và nhiệm vụ báo chí
xuất bản trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước. Trong cuốn: Tiếp tục đổi mới và tăng cường
quản lí công tác báo chí xuất bản, Ban Tư tưởng Văn
hóa Trung ương – Bộ Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
7. Lê Đình Đạo, 2003, Định hướng nghiên cứu phát
triển phát thanh thương mại, Đề án khoa học năm 2003
của VOV.
8. Trần Hữu Quang, 2001, Diện mạo của công chúng
truyền thông, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính
trị&Truyền thông.- 2011.- Số 7.- Tr.7-11.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
113
1. Về khái niệm tính chuyên nghiệp
nói chungTừ điển tiếng Việt do Nxb. Đà Nẵng và
Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2010giải thích tính từ chuyên nghiệp nghĩa là:chuyên về một nghề, phân biệt với nghiệpdư hay cũng có nghĩa là có tính chấtchuyên môn hóa cao, đáp ứng yêu cầu vềchất lượng(l). Theo Từ điển Oxford Dic-tionary, tính từ chuyên nghiệp - profes-sional được sử dụng để biểu thị một số khíacạnh, nhưng trước hết, nó cho phép liêntưởng đến một khái niệm về nghề nghiệpcần có được sự huấn luyện, kỹ năng đặcbiệt, hay cần được đào tạo ở một mức độcao (connected with a job that needs spe-cial training or skill, especially one thatneeds a high level of education)(2).
Ở đây, chúng ta thử xem xét vấn đề tínhchuyên nghiệp như là tác phong, như là yêucầu về khả năng đáp ứng công việc có tínhthời đại trong tất cả các lĩnh vực hoạt động.Nói đến tính chuyên nghiệp là nói đến đòihỏi cao về khả năng lao động, đem lại hiệuquả về cả năng suất và chất lượng; là khảnăng giải quyết một khối lượng công việc
khổng lồ trong khoảng thời gian ngắn nhấtvà đáp ứng những đòi hỏi cao nhất. Nghĩalà, vấn đề tính chuyên nghiệp đề cập tớinhững yêu cầu của đời sống hiện đại: Tốcđộ nhanh, hiệu suất cao, sản phẩm đa dạngnhưng được tiêu chuẩn hóa.
Người ta quan niệm rằng, một người cótác phong làm việc chuyên nghiệp luôn cónhu cầu học hỏi để sẵn sàng đáp ứng mọiđòi hỏi của công việc. Quan niệm học thuậthiện đại đề cao những người có kiến thứcrộng và phong phú. Chính điều này sẽ tạonhững điều kiện tốt nhất để có kiến thứcchuyên ngành sâu. Những người làm việcchuyên nghiệp không những đáp ứng đượcnhững đòi hỏi phức tạp của công việc, màcòn tạo ra được hiệu suất và chất lượngcao. Đối với đời sống hiện đại, chỉ cónhững người làm việc chuyên nghiệp mớiđáp ứng được những đòi hỏi cao về năngsuất và chất lượng. Một chuyên gia giỏi làngười biết tường tận về tất cả các khía cạnhcủa công việc và có thể giải quyết côngviệc tốt nhất. Tính chuyên nghiệp đối lậpvới sự tùy tiện. Tính chuyên nghiệp đòi hỏiphải tuân thủ những nguyên tắc nghiêm
VỀ TÍNH CHUYÊN NGHIỆP ĐẶC THÙ CỦA HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
?TS NGUYỄN ĐỨC HẠNH
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
114
ngặt. Người ta thường nói đến sự đối lậpcủa tác phong chuyên nghiệp với nhữngngười làm việc không chuyên nghiệp,không có nguyên tắc. Đó là kiểu làm việcđược gọi là tài tử (amateur), những ngườimuốn đốt cháy giai đoạn để đạt được kếtquả trước mắt nhưng không bền vững.
Người ta cũng thường coi khái niệm vềtính chuyên nghiệp gắn liền với đức tính vàphẩm chất của những người sống có tráchnhiệm với bản thân, với công việc và vớicộng đồng xã hội. Người làm việc chuyênnghiệp có mục đích rõ ràng, có kế hoạch,có nề nếp và luôn biết tiết kiệm thời gian,công sức, của cải của xã hội. Làm việcchuyên nghiệp cũng có nghĩa là luôn cảmthấy niềm hạnh phúc khi được cống hiếnđiều tốt đẹp nhất cho mọi người. Người cótác phong làm việc chuyên nghiệp cũng lànhững người không từ nan mà sẵn sàng đốimặt với mọi thử thách, khó khăn, coi thửthách, khó khăn là cơ hội để nâng cao bảnlĩnh nghề nghiệp và khả năng lao độngsáng tạo. Chính tác phong làm việc chuyênnghiệp sẽ tạo cho một người biết tìm cáchthích hợp với mọi hoàn cảnh,vượt qua hoàncảnh để đạt được mục tiêu công việc. Tácphong làm việc chuyên nghiệp cũng đượccoi là một quá trình liên tục hoàn thiện bảnthân của con người hiện đại.
Song, nói đến tính chuyên nghiệp cũngcòn là nói đến một môi trường làm việchoàn thiện mà ở đó, công việc của mỗi
nhân sẽ trở thành một phần không tách rờicủa hệ thống. Không thể có những ngườilàm việc chuyên nghiệp trong một môitrường làm việc thiếu chuyên nghiệp, vàcũng không thể xây dựng môi trường làmviệc chuyên nghiệp trên cơ sở những conngười làm việc thiếu chuyên nghiệp.
2. Về tính chuyên nghiệp đặc thù củacác hoạt động báo chí
“Nghề làm báo, nói cho đúng hơn lànghề của những ai được trả lương hay trảnhuận bút để làm chức năng thông tin, tứclà tìm tòi hay chuyển tải tin tức cho một ấnphẩm định kỳ, một phương tiện nghe –nhìn hay cho một cơ quan thông tấn”(3).Trong hoạt động báo chí, không chỉ có hoạtđộng của phóng viên - người viết báo. Đócòn là hoạt động của các quy trình biên tậpvà xử lý thông tin, của nhân viên kỹ thuật,của phát hành, quảng cáo và hàng loạt hoạtđộng liên quan đến các quy trình khác nhaucủa một cơ quan báo chí.
Không phải ngay từ khi xuất hiện nhưmột lĩnh vực hoạt động đặc thù, báo chí đãmang đầy đủ tính chuyên nghiệp. Nhưngrõ ràng, hoạt động báo chí đòi hỏi một quátrình tự hoàn thiện rất mau chóng. Ngay từthế hệ báo chí đầu tiên trên thế giới, quátrình hoạt động của các cơ quan báo chí đãtạo nên áp lực về sự hoàn thiện nghềnghiệp rất cao. Người ta từng nói tới mẫuhình nhà báo vừa là nhà chính trị, nhà vănhóa, nhà khoa học, nhà giáo dục… Nhà báo
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
115
thường được coi là đại diện cho các chuẩnmực giá trị của xã hội, có khả năng thuyếtphục và dẫn dắt mọi người.
Trong hoạt động báo chí, có những khíacạnh rất cần tác phong công nghiệp: Kỹnăng khai thác và xử lý thông tin; khả năngứng dụng công nghệ và liên kết tri thức;tính nghiêm cẩn về quy tắc đạo đức nghềnghiệp; tinh thần say mê, gắn bó nghềnghiệp; làm việc khoa học, ngăn nắp, có kếhoạch; thái độ ứng xử văn minh… Mặc dùvậy, giữa những cái đó cũng vẫn có nhữngkhu vực cần phải phát triển them mộthướng suy nghĩ linh hoạt hơn. Hoạt độngbáo chí, truyền thông gắn với những yếu tốcó tính chất nguyên thủy của nghề nghiệp,gắn với cuộc đời và số phận con người, gắnvới những biến động chính trị, kinh tế, xãhội mà rất nhiều trong số đó là vượt khỏimọi kinh nghiệm, nằm ngoài mọi dự đoán.Có những thứ không thể giải quyết bằngcác công thức, không thể dùng kỹ thuậthiện đại, chúng nằm ngoài mọi kinhnghiệm và kỹ năng. Có những thứ thuộc vềbản năng và cảm giác, là những giá trịthuộc về thế giới tinh thần. Trong cuộcsống, chúng ta không loại trừ có nhữngtrường hợp mà cách làm việc tài tử, khôngđịnh trước, tính bất thần không theo quy tắccó khi vẫn đạt được hiệu quả… Tuy nhiên,điều đó chỉ càng khẳng định rằng, hơn ởđâu hết, hoạt động báo chí càng gắn vớinhịp sống hiện đại thì càng phải tăng cường
tính chuyên nghiệp của nhà báo, của độingũ những người làm báo. Cần phải khẳngđịnh tầm quan trọng của kiến thức chuyênmôn, những kiến thức liên ngành tối thiểuđể làm cho đội ngũ ký giả và ngành báo chínói chung trở nên chuyên nghiệp hơn, giúpnâng cao vai trò của báo chí đối với xã hội.
Nhưng nói đến tính chuyên nghiệp cũnglà nói đến một mô hình hoạt động đồng bộvà có tính hệ thống. Tính chuyên nghiệpđòi hỏi được áp dụng ở tất cả các khâu.Không thể có một nhà báo chuyên nghiệphoạt động ở một tòa soạn không chuyênnghiệp, hay cũng không thể có một cơ quanbáo chí truyền thông chuyên nghiệp trongmột môi trường kinh tế - xã hội lạc hậu,thiếu tác phong công nghiệp. Hơn nữa, mộtnhà báo chuyên nghiệp sẽ không thể pháttriển đầy đủ nếu thiếu một môi trường làmviệc chuyên nghiệp.
Hệ thống báo chí, truyền thông hiện đạithường đòi hỏi một đội ngũ nhà báo chuyênnghiệp có khả năng lao động với cường độcao và giải quyết một khối lượng công việclớn. Nói đến tính chuyên nghiệp là nói tớinăng lực sản xuất cao, tới sự tiêu chuẩn hóacác sản phẩm… Dường như ở đây chúngta đang tiến gần đến điều gì đó tương tựnhư những cỗ máy lạnh lùng và đơn điệu.Nhưng tính chuyên nghiệp trong báo chíphải gắn với tài năng và sự nhạy cảm tâmhồn. Trong một cuốn sách có tiêu đề phụ làNhững gì người ta không dạy bạn ở các
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
116
Trường Báo chí, nhà báo Tom Plate đã viết:“Theo cảm nhận của riêng tôi, cơ quantruyền thông càng lớn thì sự thú vị ở đócàng giảm”(4). Nếu như cảm nhận củaTom là đúng thì không thể chối cãi rằng,gắn với khái niệm về tính chuyên nghiệptrong hoạt động báo chí hiện đại còn có cảnguy cơ về sự tẻ nhạt nữa, mà điều này thìđối nghịch hoàn toàn với đòi hỏi đích thựccủa nghề làm báo: luôn luôn mới mẻ, luônluôn hấp dẫn!
Có người sẽ hỏi, dường như những quanđiểm nay đòi hỏi một nhà báo phải trởthành một nhà văn chăng? Thực ra, vấn đềkhông nằm ở khía cạnh này mà nằm ở tínhhợp lý giữa nội dung và hình thức củathông tin. Ngôn ngữ báo chí và hình thứcthể loại báo chí làm thành cơ sở của nhauvà phục vụ mục tiêu của việc truyền đạtthông tin. Trong quan niệm của chúng tôi,một nhà báo cũng phải thấu cảm nhân tình,cũng có thể có những trang văn đẹp khôngthua kém gì những trang tiểu thuyết.Nhưng nhà báo không tưởng tượng ra sựkiện mà tư duy trên nền sự kiện và đánhthức tư duy của cộng đồng qua việc phảnánh nó. Những thứ này không thể sản xuấthàng loạt được, cũng không thể nói có thểlàm ra bằng một thái độ tài tử, nghiệp dư.Trong sự sáng tạo của nhà báo, có cái phầncó thể đào tạo được thành kỹ năng, thànhquy tắc, nhưng cũng còn có phần không thểđào tạo được, đó là cái hồn cốt của mỗi tác
phẩm. Mỗi tác phẩm báo chí sẽ cần phải làmột trường hợp dường như duy nhất khônglặp lại. Nhà báo có thể viết về hai sự kiệntương tự nhau, nhưng chắc chắn sẽ cónhững phần không bao giờ lặp lại bởi cuộcsống là một dòng chảy và luôn luôn biếnvận trong vô cùng. Đấu tranh cho một xãhội tốt đẹp và nhân văn hơn là đặc điểm, làsứ mạng tiên phong của báo chí.
3. Quan niệm về tính chuyên nghiệpcủa người làm báo hiện đại ở Việt Nam
Một quan niệm về tính chuyên nghiệpcủa người làm báo hiện đại ở Việt Namchắc chắn phải là một quan niệm phù hợpvới đặc điểm phát triển của xã hội ViệtNam hiện đại. Nhưng xã hội Việt Nam hiệnđại không phải tự nhiên mà có, nó đượchình thành bởi hàng loạt yếu tố cấu thànhkhác nhau theo đồng đại và lịch đại. Hiệnnay, Việt Nam đang trong giai đoạn tiếnhành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đấtnước. Chủ thể cho quá trình công nghiệphóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện naychính là những con người mà phần lớnđược coi là có liên hệ chặt chẽ với mô hìnhxã hội nông nghiệp cổ truyền, với đặc điểmnhân cách nổi bật gắn với cái gọi là tâm lýtiểu nông. Có nhiều ý kiến cho rằng về cơbản, toàn bộ lý thuyết phát triển của xã hộiViệt Nam hiện nay xoay quanh việc giảiquyết về nguyên tắc mối quan hệ giữa conngười truyền thống với con người hiện đại.Đặt vấn đề như vậy, cũng có nghĩa là cần
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
117
xem xét và giải quyết việc xây dựng môhình người làm báo chuyên nghiệp và hiệnđại của Việt Nam trên nguyên tắc giảiquyết về mối quan hệ giữa con ngườitruyền thống và con người hiện đại.
Báo chí là một lĩnh vực hoạt động xã hộixuất phát từ con người và gắn liền với conngười. Một cái nhìn đơn giản hóa thực tạisẽ không thể giải thích được những khảnăng sáng tạo trong khái niệm hoàn chỉnhvề tính chuyên nghiệp của hoạt động báochí. Lối nhìn đơn giản hóa thực tại khônggiải quyết được một cách rốt ráo quan niệmvà đòi hỏi đích thực của chúng ta về tínhchuyên nghiệp đối với sự phát triển báo chínói chung và hoạt động của đội ngũ nhàbáo hiện nay. Chúng ta sẽ không thể nàogiải thích được những hình mẫu nhà báokinh điển trong lịch sử phát triển báo chíViệt Nam và thế giới khi mà có những nhàbáo đạt được đỉnh cao giá trị trong hoạtđộng báo chí nhưng lại sống và làm việctrong những điều kiện không thể gọi là môitrường công nghiệp hiện đại.
Trong nhiều công trình nghiên cứuthuộc lĩnh vực khoa học xã hội ở Việt Namtrước đây, người ta có xu hướng theo đuổinhững hằng số chung mang tính phổ quátđể nêu lên nhận thức về con người và xãhội Việt Nam trong các mối tương quangiữa truyền thống và hiện đại. Chúng tathường được biết đến những quan điểm lýthuyết áp dụng chung cho mọi nhóm
người, mọi tầng lớp xã hội, mọi địa phươngtrong cả nước. Người ta hay nói đến mộtsố ưu điểm trong đặc điểm tính cách conngười Việt Nam như: có tinh thần đoàn kết,yêu lao động, có tính cộng đồng…; và bêncạnh đó là một số nhược điểm như: đầu óctiểu nông hạn hẹp, thói quen làm việc tùytiện… Rất dễ nhận thấy là những luậnđiểm khái quát như vậy có rất ít giá trị thựctiễn. Với những công cụ nhận thức này,chúng ta không thể giải thích được cónhững nhóm người trong xã hội Việt Namhoàn toàn không nằm trong bất kỳ kháiniệm phổ quát nào từng được nêu ra. Thựctế là bên cạnh những nhóm người mangđậm đặc tính chất tiểu nông thì cũng cónhững nhóm người do những đặc trưngriêng về hoàn cảnh gia đình, địa phương,điều kiện giáo dục, cuộc sống cá nhân… đãvượt lên rất xa trong môi trường hiện đại.Đó là những nhà văn hóa, nhà khoa học,nhà chính trị, nhà doanh nghiệp Việt Namvới những thành công lớn, trở thành hìnhmẫu cho rất nhiều thế hệ người Việt Namnoi theo.
Cũng như bất cứ lĩnh vực hoạt động nàokhác của con người, hoạt động báo chítrước hết phải phù hợp với môi trường vàhoàn cảnh đã sản sinh ra nó. Nhà báo ViệtNam phải gắn hoạt động của mình với đốitượng công chúng ở Việt Nam. Bản thânmỗi cá nhân nhà báo hay cơ quan báo chíphải xác định được mục tiêu hướng tới và
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
118
xác định rõ ràng đối tượng công chúng củamình. Chúng ta biết rằng, đời sống xã hộilà một thực thể đa dạng bao gồm nhiềutầng lớp có những đặc điểm tâm lý nhậnthức và nhu cầu khác biệt nhau. Không thểcó một sản phẩm báo chí chung chung trừutượng cho những đối tượng công chúngcũng chung chung và trừu tượng. Muốn rènluyện và đào tạo nhà báo chuyên nghiệp,trước hết, phải xây dựng cho họ nền tảngtri thức và khả năng nắm bắt thực tiễn. Nhàbáo chỉ có thể trở nên chuyên nghiệp khihọ đáp ứng được những đòi hỏi ngày càngcao về chất lượng sản phẩm đa dạng,phong phú và hấp dẫn, thích ứng với môitrường hiện đại phát triển năng động vàphức tạp. Nhà báo chỉ có thể được đánh giálà hoạt động chuyên nghiệp khi mà hoạtđộng đó gắn liền với những tác dụng thựctế đối với những nhóm người cụ thể, giúpcho những nhóm người này có được thôngtin và nhận thức đúng đắn, phù hợp với tâmlý, thị hiếu, tình cảm, nhận thức và khảnăng lao động sáng tạo của bản thân họ,góp phần làm cho họ có thể phát huy caonhất khả năng lao động của bản thân để xáclập được chỗ đứng và vị trí xứng đángtrong cộng đồng xã hội đang ngày càngphát triển.
Nói đến hoạt động của đội ngũ nhà báo,không thể không nói đến hệ thống các cơquan báo chí với tất cả các bộ phận và yếutố cấu thành của nó. Ở Việt Nam, chúng ta
thấy rằng, chỉ có xuất phát từ thực tiễn vớitất cả sự phong phú, phức tạp của nó mớiđem lại cho nhà báo khả năng nhận thứcphù hợp. Như bất cứ nơi nào, hoạt độngbáo chí ở Việt Nam hiện nay rất cần có độingũ nhà báo chuyên nghiệp và một hệthống cơ quan báo chí chuyên nghiệp, hiệnđại. Song, một lần nữa chúng tôi muốnnhắc lại rằng, không có một khái niệmchung chung về tính chuyên nghiệp vàcũng không có một mô hình nhà báochuyên nghiệp chung cho tất cả mọi hoạtđộng báo chí. Đối với sự phát triển của xãhội Việt Nam hiện đại, chúng ta cần cónhững nhà báo Việt Nam chuyên nghiệpphù hợp với nhu cầu phát triển cụ thể củaxã hội Việt Nam. Đây là những nhà báochuyên nghiệp có thể đáp ứng đòi hỏi củanhững đối tượng công chúng cụ thể vànhững điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hộicụ thể. Có lẽ đó chính là đòi hỏi về tínhchuyên nghiệp của hoạt động báo chí vànhà báo Việt Nam hiện nayr
……………(l) Trung tâm Từ điển học. Từ điển tiếng Việt, Nxb
Đà Nẵng, 2010.
(2) http://www.oxfordadvancedlearn-ersdic-
tionary.com/dictionary/professional
(3) Philippe Gaillard, Nghề làm báo (bản dịch của
Nguyễn Văn Đóa), Nxb Thông tấn, H.,2007, tr.31.
(4) Tom Plate, Lời tự thú của một nhà báo Mỹ (bản
dịch của Đan Linh), Nxb Trẻ, Tp.HCM. 2010, tr.298.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &Truyền thông.- 2013.- Số tháng 12.- Tr. 32 –35.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
119
1. Quản lý báo chí có thể được xem là
quá trình xây dựng chiến lược, kế hoạch,
chính sách phát triển báo chí; ban hành, chỉ
đạo, kiểm soát việc thực hiện pháp luật về
báo chí nhằm tăng cường chất lượng, hiệu
quả hoạt động trong lĩnh vực này.
Ở Việt Nam, Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý báo chí; Ban Tuyên giáo Trung
ương chịu trách nhiệm chỉ đạo, lãnh đạo
hoạt động này; Bộ Thông tin và Truyền
thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về báo chí; ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương là cơ quan quản lý nhà nước
về báo chí ở địa phương.
Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí
bao gồm: Các cơ quan báo chí và tất cả các
yếu tố để đảm bảo sự ra đời, hoạt động của
cơ quan đó, như: người đứng đầu cơ quan;
đội ngũ cán bộ, phóng viên; tên gọi, tôn
chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, phạm vi
phát hành chủ yếu, công suất, thời gian, tần
số, phạm vi toả sóng và ngôn ngữ thể hiện
của cơ quan báo chí; trụ sở chính, tài chính,
nhân sự, nội quy hoạt động của toà soạn,
sản phẩm báo chí với các yếu tố nội dung
thông tin và kỹ thuật in ấn/ truyền dẫn/phát
sóng/phát hành…
Về nội dung quản lý nhà nước về báo
chí, Điều 17 Luật Báo chí quy định rõ, các
cơ quan quản lý nhà nước về báo chí chịu
trách nhiệm: 1. Xây dựng và chỉ đạo thực
hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển sự nghiệp báo chí; 2. Ban hành và tổ
chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính
sách về báo chí; 3. Tổ chức thông tin cho
báo chí và quản lý thông tin của báo chí; 4.
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính
trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội
ngũ cán bộ báo chí; 5. Tổ chức, quản lý
hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh
vực báo chí; 6. Cấp, thu hồi giấy phép hoạt
động báo chí, thẻ nhà báo; 7. Quản lý hợp
tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động
của báo chí Việt Nam liên quan đến nước
ngoài và hoạt động báo chí nước ngoài tại
Việt Nam; 8. Kiểm tra báo chí lưu chiểu;
120
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
NÂNG CAO HơN NữA HIỆU QUẢ QUẢN LÝ BÁO CHÍ
ở VIỆT NAM HIỆN NAY
?TS TRƯƠNG THỊ KIÊN
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
quản lý kho lưu chiểu báo chí; 9. Tổ chức,
chỉ đạo công tác khen thưởng trong hoạt
động báo chí; 10. Hướng dẫn, thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách,
quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí và
việc chấp hành pháp luật về báo chí; thi
hành các biện pháp ngăn chặn hoạt động báo
chí trái pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố
cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí.
2. Trong những năm qua, công tác quản
lý báo chí ở nước ta đạt được nhiều thành
tựu to lớn. Báo chí phát triển mạnh mẽ cả
về số lượng và chất lượng. Trong Nghị
quyết TW 5, khóa X, Đảng ta nhận định:
“Báo chí tiếp tục phát triển nhanh về số
lượng, loại hình, ấn phẩm, đội ngũ người
làm báo và số lượng người đọc; cơ sở vật
chất kĩ thuật, công nghệ, năng lực tài chính
được tăng cường; tác động, ảnh hưởng của
báo chí được mở rộng. Phần lớn báo chí
hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phản
ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, biểu dương phong trào thi đua yêu
nước, đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu và các tệ nạn xã hội,
chống “diễn biến hoà bình”... góp phần tích
cực vào thành tựu chung của đất nước”.
Hội nghị cán bộ báo chí toàn quốc triển
khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2013 cũng
nêu rõ những thành tựu của báo chí: “Báo
chí tiếp tục phát huy vai trò tích cực góp
phần vào việc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và các tệ
nạn xã hội. Báo chí tích cực đấu tranh phản
bác thông tin và luận điệu sai trái của các
thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị lợi
dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn
giáo để xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Các cơ quan báo chí tăng
cường triển khai công tác thông tin, tuyên
truyền bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biển đảo
thiêng liêng của Tổ quốc, giữ gìn môi
trường hòa bình, ổn định, hợp tác để phát
triển đất nước”.
Theo số liệu được báo cáo trong Hội
nghị nêu trên, tính đến tháng 2.2013, cả
nước có 954 cơ quan phát thanh, truyền
hình, báo in, báo mạng điện tử, 336 mạng
xã hội, 1.174 trang thông tin điện tử tổng
hợp. Cả nước có gần 17.000 nhà báo được
cấp thẻ hành nghề; hơn 19.000 hội viên
Hội Nhà báo. Việc phát triển mạnh về số
lượng nhà báo và cơ quan báo chí là một
minh chứng cho sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước tới sự nghiệp báo chí, đồng thời
cũng khẳng định nền báo chí cách mạng
Việt Nam tiếp tục thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao phó.
Đạt được những thành tựu trên là bởi,
trong những năm qua, Ban Tuyên giáo
Trung ương - thay mặt Bộ Chính trị và Ban
Bí thư, lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc toàn diện
121
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
hoạt động báo chí. Bộ Thông tin và Truyền
thông – trực tiếp là Cục Báo chí, Cục Phát
thanh-Truyền hình và Thông tin điện tử
quản lý hoạt động báo chí theo đúng Luật
và đúng định hướng của Đảng. Bộ cũng
thực hiện nghiêm túc các nội dung quản lý
nhà nước về báo chí theo luật định. Ngoài
ra, không thể không nói đến vai trò quản lý
trực tiếp của các cơ quan chủ quản, các cấp
ủy đảng. Thông qua việc xây dựng tôn chỉ,
mục đích hoạt động, cử và quản lý, giám
sát các chức danh lãnh đạo, quản lý; chỉ
đạo, quản lý trực tiếp nội dung, hình thức
truyền thông…, nhiều cơ quan chủ quản,
cấp ủy đảng đã thể hiện được vai trò là bộ
máy quản lý trực tiếp quan trọng.
3. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
công đáng ghi nhận, hoạt động báo chí còn
thể hiện một số bất cập, hạn chế. Trong
Nghị quyết TW 5, khóa X, Đảng ta nhận
định về những yếu kém, khuyết điểm của
báo chí: “Một số cơ quan báo chí thiếu
nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng
tư tưởng, văn hoá, có biểu hiện xa rời sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin
không trung thực, thiếu chính xác, phản
ánh nhiều về tiêu cực và tệ nạn xã hội, ít
tuyên truyền các điển hình tiên tiến, gương
người tốt, việc tốt, cổ vũ phong trào thi đua
yêu nước; khuynh hướng tư nhân hoá,
thương mại hoá báo chí, tư nhân núp bóng
để ra báo, kinh doanh báo chí ngày càng
tăng. Các cơ quan báo chí quan trọng của
Đảng, Nhà nước chậm đổi mới, nội dung
và hình thức chưa hấp dẫn, chất lượng và
hiệu quả tuyên truyền không cao, chưa chi
phối, làm chủ thông tin và định hướng
được dư luận xã hội. Công tác chỉ đạo,
quản lý báo chí còn nhiều hạn chế. Hệ thống
đài phát thanh, truyền hình phát triển thiếu
quy hoạch, gây lãng phí, tốn kém lớn”.
Mới đây nhất, tại Hội nghị giao ban
công tác quản lý Nhà nước tháng 7.2013,
Thông báo Kết luận của Bộ trưởng Nguyễn
Bắc Son nêu rõ một số hạn chế nổi cộm
trong lĩnh vực báo chí truyền thông: “Một
số đơn vị truyền hình trả tiền chưa thực
hiện đúng quy định về truyền dẫn, phát
sóng các kênh truyền hình thiết yếu của
quốc gia; Việc cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực truyền hình trả tiền chưa
được giải quyết dứt điểm. Nhiều trang web,
trang tin tổng hợp hiện nay cũng “làm báo”
chạy theo công nghệ, “sống ký sinh”,
“copy” tin bài từ những tờ báo chính thống
thêm bớt đôi chỗ rồi cho đăng, thậm chí
làm sai lệch nội dung để câu khách, gây bất
bình trong dư luận”.
Bên cạnh đó, thương mại hóa báo chí,
đề cao mục đích lợi nhuận khiến nhiều tờ
báo xa rời tôn chỉ mục đích, nhiệm vụ
chính trị, thiên về phản ánh tin giật gân, câu
khách, chạy theo nhu cầu, thị hiếu tầm
122
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
123
thường của một bộ phận công chúng.
Nhiều nhà báo vì đồng tiền mà bẻ cong
ngòi bút, tô hồng hoặc bôi đen sự thật, xúc
phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm và hoạt
động của một số cá nhân, tổ chức, từ đó,
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển xã hội
nói chung.
Từ thực tiễn hoạt động báo chí, có thể
thấy, hoạt động quản lý báo chí cũng còn
một số hạn chế:
+ Chưa xây dựng được hệ thống pháp
luật về báo chí hoàn thiện, đồng bộ. Luật
Báo chí có nhiều điểm lạc hậu, như: quy
định về vai trò, nhiệm vụ của cơ quan chủ
quản chưa cụ thể; hành lang pháp lý điều
chỉnh các vấn đề của báo mạng điện tử yếu
và thiếu; chưa quy định rõ trách nhiệm
pháp lý của một loạt chủ thể như cơ quan
quản lý nhà nước, cơ quan chủ quản, cơ
quan báo chí, tổng biên tập, nhà báo; chưa
có quy định về quyền ra báo của các tập
đoàn lớn, nhưng thực tiễn, nhiều tập đoàn
lớn đã có báo; quy định về các điều kiện
thành lập cơ quan báo chí còn lỏng lẻo;
chưa quy định rõ trách nhiệm của cơ quan
báo chí, cơ quan, tổ chức đối với quyền tự
do báo chí, quyền tự do ngôn luận…
+ Chưa có các chiến lược phát triển báo
chí mang tính ổn định lâu dài. Chiến lược
thông tin quốc gia, công tác quy hoạch báo
chí còn chưa tương xứng với sự phát triển
của ngành. Lý luận chưa theo kịp thực tiễn,
gây lúng túng cho công tác quản lý. Việc
cấp giấy phép hoạt động báo chí còn thiếu
chặt chẽ, gây ra tình trạng nhiều tờ báo ra
đời có chức năng, nhiệm vụ, đối tượng
phục vụ chồng chéo, gây lãng phí, tốn kém.
+ Nhiều người làm công tác quản lý báo
chí chưa được đào tạo chuyên sâu về
nghiệp vụ quản lý báo chí; vì trên thực tế,
tại các cơ sở đào tạo báo chí cả nước chưa
có loại hình đào tạo này.
+ Một số cơ quan chủ quản chưa nhận
thức đầy đủ, đúng mức về vai trò, chức
năng của hoạt động báo chí, chưa làm tốt
nhiệm vụ chỉ đạo công tác tổ chức, cán bộ,
định hướng nội dung, cung cấp thông tin
và uốn nắn các sai phạm kịp thời; chưa
quan tâm đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất kỹ
thuật, trang thiết bị cho báo chí, v.v..
Như vậy, muốn hoạt động báo chí đạt
hiệu quả cao hơn, cần phải có những giải
pháp phù hợp trên phương diện quản lý báo
chí.
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản
lý báo chí ở Việt Nam hiện nay
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác quản lý truyền thông ở
Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi báo
chí là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng,
văn hóa. Đảng thường xuyên quan tâm
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
124
phát triển sự nghiệp truyền thông, thể hiện
bằng hệ thống các Chỉ thị, Nghị quyết đã
được ban hành, ở hầu hết các Văn kiện Đại
hội của Đảng. Tuy nhiên, trong giai đoạn
hiện nay, Đảng phải hoàn thiện hơn những
chủ trương, đường lối phát triển báo chí.
Phải xây dựng, hoàn thiện các quy chế hoạt
động báo chí; sửa đổi, bổ sung Luật Báo
chí và các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan; thực hiện tốt các quy định của
Đảng về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen
thưởng, kỷ luật cán bộ lãnh đạo các cơ
quan truyền thông…
Đảng cần chú trọng xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý vừa hồng vừa chuyên; kiểm
tra chặt chẽ việc thực hiện những chủ
trương, đường lối về hoạt động truyền
thông trong thực tiễn, từ đó, phát hiện
những điểm bất cập, hạn chế, kịp thời điều
chỉnh cho phù hợp. Đảng cần đặc biệt chú
ý chăm lo công tác phát triển Đảng tại các
cơ quan báo chí, làm cho đội ngũ đảng viên
ngày càng đông và vững mạnh, đề cao
trách nhiệm đảng viên của người làm công
tác quản lý báo chí, nhất là người giữ
cương vị lãnh đạo. Chăm lo phát triển khoa
học công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực báo
chí, sắp xếp và quy hoạch hợp lý hệ thống
truyền thông từ cơ sở đến trung ương, đảm
bảo các cơ quan truyền thông phát triển
hợp lý về số lượng và chất lượng. Đảng cần
chú trọng hơn nữa giải quyết các chế độ,
chính sách tiền lương, tiền thù lao tương
xứng với sức lao động của đội ngũ báo chí,
có chính sách khen thưởng, xử phạt kịp
thời, nghiêm minh, hợp lý.
- Kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy
các cơ quan quản lý truyền thông
Ở nước ta, Cục Báo chí, Cục Phát thanh
Truyền hình và Thông tin điện tử được Bộ
Thông tin và Truyền thông giao trách
nhiệm trực tiếp quản lý các cơ quan báo
chí. ở cấp địa phương, các phòng quản lý
báo chí được Sở Thông tin và Truyền thông
giao trực tiếp quản lý hoạt động của các cơ
quan báo chí địa phương. Hiện nay, tại
nhiều cơ quan, tổ chức bộ máy chưa ổn
định. Chẳng hạn, Cục Báo chí của Bộ
Thông tin và Truyền thông mới được thành
lập trên cơ sở kiện toàn Vụ báo chí năm
2002; Cục Phát thanh Truyền hình và
Thông tin điện tử được thành lập năm
2008, số lượng cán bộ còn ít nên rất vất vả
trong việc quản lý hàng trăm cơ quan phát
thanh, truyền hình, báo mạng điện tử, trang
tin điện tử các cấp.
Nhiều địa phương còn chưa có bộ phận
chuyên trách quản lý báo chí. Dưới góc độ
quản lý theo ngành dọc, Bộ Thông tin và
Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương
cũng cần có những quy định phân cấp quản
lý nhiều hơn cho các cơ quan lãnh đạo,
quản lý truyền thông ở cấp địa phương.
Đồng thời, cần xây dựng các quy định cụ thể,
rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối
hợp của bộ máy quản lý, tránh chồng chéo.- Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo
chí đủ phẩm chất và năng lực
Việc chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ
quản lý báo chí có đủ phẩm chất, năng lực
là nhiệm vụ cấp thiết để đảm bảo hoạt động
quản lý báo chí đạt được hiệu quả. Đối với
đội ngũ cán bộ quản lý tại các cơ quan quản
lý truyền thông, trình độ năng lực của đội
ngũ này vẫn còn những hạn chế, bất cập
nhất định. Các địa phương gặp khó khăn
trong việc tuyển dụng cán bộ quản lý nhà
nước về báo chí. Chẳng hạn, nhiều cán bộ
quản lý “bắc ngang” công tác, ít hoặc
không am hiểu quy trình tác nghiệp báo chí
nên phóng viên không nể phục, dẫn đến
không tạo được uy thế của cơ quan quản lý
nhà nước tại địa phương… Hay, đối với
quản lý hoạt động phát thanh, truyền hình,
internet, xuất bản, người cán bộ quản lý
phải vừa nắm bắt được kiến thức chuyên
môn, vừa hiểu biết về công nghệ, kỹ thuật
mới, nhưng trên thực tế, trình độ, năng lực
của cán bộ quản lý ở một số địa phương
chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, dẫn đến
tình trạng hoặc là lúng túng, buông lỏng
quản lý, làm lu mờ vai trò chỉ đạo, định
hướng, hoặc là đùn đẩy, né tránh trách
nhiệm trong việc xử lý sai phạm, ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động truyền thông.
Quản lý báo chí là quản lý những người
làm công tác thông tin, tuyên truyền, người
làm chính trị, vì vậy, đội ngũ cán bộ quản
lý phải tận tụy với công việc, sáng tạo và
tinh thông nghiệp vụ, nhạy bén về chính trị,
trong sạch và liêm khiết, có tinh thần trách
nhiệm cao, tìm ra được biện pháp quản lý
phù hợp. Để góp phần xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý truyền thông đủ phẩm chất
và năng lực quản lý, trong thời điểm hiện
nay, tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý truyền thông
cần được xem là nhiệm vụ ưu tiên. Bộ
Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên
giáo Trung ương chịu trách nhiệm chính
trong công tác này, đồng thời, có thể phối
hợp với Học viện Chính trị Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền tổ chức các khóa đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí.
- Xây dựng hoàn thiện hệ thống chính
sách và pháp luật báo chí
Hiện nay, hệ thống các văn bản luật và
dưới luật về quản lý báo chí còn thiếu đồng
bộ, chưa theo kịp thực tiễn, làm cho các cơ
quan quản lý gặp không ít khó khăn. Ví dụ:
có tỉnh, thành phố tổ chức kiểm tra hoạt
động báo chí trên địa bàn, một số cơ quan
báo chí hoạt động sai phạm như văn phòng
125
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
hoạt động không có giấy phép, nhiều
trưởng đại diện không đạt chuẩn... nhưng
không có chế tài nào để xử phạt những sai
phạm trên; hiện nay, các đài PT-TH địa
phương vẫn do đài PT-TH Trung ương
quản lý về nghiệp vụ chuyên môn, nhưng
cơ quan chủ quản lại là UBND tỉnh, thành
phố chứ không phải Sở Thông tin và
Truyền thông, do vậy, việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm giám đốc các đài địa phương không
cần qua Sở Thông tin và Truyền thông.
Đây là những bất cập, gây khó khăn cho
công tác quản lý.
Trong thời gian tới, cần thực hiện tốt
công tác quy hoạch truyền thông, quy
hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý. Ban
Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và
Truyền thông cần gấp rút hoàn thiện trình
Quốc hội thông qua 2 luật: Luật Tiếp cận
thông tin và Luật Báo chí sửa đổi, ban hành
các văn bản dưới luật để phục vụ công tác
quản lý. Luật Báo chí cần hoàn thiện, chi
tiết hóa quy định về phát ngôn và cung cấp
thông tin, cải chính thông tin báo chí; quy
định cụ thể hơn về vai trò, nhiệm vụ, trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan báo và
cơ quan chủ quản; bổ sung các quy định
điều chỉnh các vấn đề của báo mạng điện
tử; có quy định về quyền ra báo của các tập
đoàn lớn; chặt chẽ hơn trong quy định về
các điều kiện thành lập cơ quan báo chí…
Đồng thời, cần nhanh chóng xây dựng các
chiến lược phát triển báo chí mang tính ổn
định, tương xứng với sự phát triển của
ngành trong giai đoạn mới.
- Đồng bộ và hiện đại hóa các phương
tiện truyền thông và phương tiện quản lý
truyền thông
Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động báo chí, Chính phủ đã ban hành
nhiều Đề án hiện đại hóa các phương tiện
truyền thông. Chẳng hạn, năm 2005, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
219/2005/QĐ-TTg ngày 09.9.2005 phê
duyệt Chiến lược phát triển thông tin đến
năm 2010; năm 2009, Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 22/2009/QĐ-
TTg Phê duyệt Quy hoạch truyền dẫn, phát
sóng phát thanh, truyền hình đến năm
2020; năm 2012, Chính phủ ban hành Dự
thảo cho Đề án số hóa truyền dẫn, phát
sóng truyền hình tương tự mặt đất đến năm
2020…
Việc hiện đại hóa các phương tiện
truyền thông cũng đồng thời đặt ra yêu cầu
về hiện đại hóa các phương tiện, phương
thức quản lý truyền thông, nếu không, quản
lý sẽ tiếp tục không theo kịp thực tiễn. Để
làm được điều này, trước hết, quản lý loại
hình báo chí nào, cần am hiểu công nghệ
hiện đang được áp dụng ở loại hình đó, cơ
quan đó, và vận dụng hiệu quả vào công
126
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
tác quản lý. Chẳng hạn, ở lĩnh vực quản lý
phát sóng phát thanh, truyền hình, cán bộ
phải nắm được các vấn đề thuộc lĩnh vực
tần số vô tuyến điện, cách thức phân chia
băng tần, phương thức quản lý nhà nước về
tần số vô tuyến điện, cấp phép tần số vô
tuyến điện nói chung và truyền thanh
không dây nói riêng… Việc này giúp kiểm
soát việc phát sóng vô tuyến điện của các
đài phát trong nước, các đài nước ngoài
phát sóng đến Việt Nam thuộc các nghiệp
vụ vô tuyến điện theo quy định của pháp
luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết hoặc gia nhập... Với báo
mạng điện tử, công tác quản trị hệ thống
mạng, bảo vệ, chống các tấn công và tăng
cường an ninh cho hệ thống mạng máy tính
là một yêu cầu cần thiết mà những nhà
quản lý cần nắm vững.
Thứ hai, các cơ quan quản lý truyền
thông phải được tiếp cận các phương tiện
quản lý hiện đại, đồng bộ. Cần xây dựng
các phần mềm quản lý hiện đại hơn, chẳng
hạn: phần mềm quản lý thẻ nhà báo, thẻ
biên tập viên; thẻ báo cáo viên và các phần
mềm quản lý khác như phần mềm biên tập
quản lý phát hành báo chí nhằm tăng khả
năng kết nối giữa các tòa soạn báo, giữa tòa
soạn báo và cơ quan quản lý báo chí; phần
mềm quản lý tòa soạn để hỗ trợ đổi mới
quy trình quản lý; phần mềm quản lý tác
phẩm báo chí…
Tóm lại, trong thời gian tới, công nghệ
quản lý truyền thông cần được quan tâm
đầu tư đúng mức, để đủ sức đáp ứng yêu
cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của
công tác quản lýr
…………….
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương - Bộ Văn
hóa - Thông tin, Tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh
đạo quản lý công tác báo chí - xuất bản, tập 1, H.,1997.
2. TS. Hoàng Quốc Bảo (chủ biên), Lãnh đạo và
quản lý hoạt động báo chí ở Việt Nam hiện nay, Nxb.
Chính trị- Hành chính, H.2010.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5, Khóa X về Công tác tư tưởng, lý luận và
báo chí trước yêu cầu mới, H.,2007.
4. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí, năm 1999.
5. Hội nghị cán bộ báo chí toàn quốc triển khai
nhiệm vụ trọng tâm năm 2013,
http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-
kien/item/19851602-.html.
6. Nguyễn Thế Kỷ, Công tác lãnh đạo, quản lý báo
chí trong 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Nxb.
Chính trị quốc gia, H.,2012.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &
Truyền thông.- 2014.- Số tháng 1.- Tr. 29
– 33.
127
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Trong một thế giới đang thay đổi
mạnh mẽ dưới tác động của toàn
cầu hóa, nhiều nhân tố mới, nhiều
mối quan hệ mới đang nảy sinh và phát
triển. Báo chí với sức mạnh to lớn của
mình cũng đang tham gia tích cực vào quan
hệ quốc tế, tác động cả tích cực lẫn tiêu cực
và làm nảy sinh nhiều vấn đề mới cần phải
sớm được giải quyết. Bài viết này sẽ đề cập
đến những thay đổi trong quan hệ quốc tế
thời kỳ toàn cầu hóa, sức mạnh của báo chí
trong quan hệ quốc tế và một số vấn đề đặt
ra hiện nay.
1. Quan hệ quốc tế thời kỳ toàn cầu hóaToàn cầu hóa thường được hiểu là sự gia
tăng hội nhập của các nền kinh tế trên thế
giới, đặc biệt là thông qua thương mại và
các nguồn tài chính nhờ sự tiến bộ của
khoa học và công nghệ. Trong quan hệ
quốc tế, toàn cầu hóa chủ yếu được xem
xét, phân tích từ góc độ các chủ thể quan
hệ quốc tế, biểu hiện qua việc gia tăng, đan
xen các mối quan hệ, trao đổi giữa các
quốc gia, tổ chức hay các cá nhân trong tất
cả các lĩnh vực trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu hóa, một mặt, làm tăng khả
năng liên kết các quốc gia, các tổ chức và
cá nhân trên thế giới, mặt khác, đang thách
thức vai trò, chức năng của quốc gia trong
quan hệ quốc tế. Trong thời kỳ toàn cầu
hóa, ranh giới giữa các quốc gia, giữa các
nền văn hóa trở nên mờ nhạt. Toàn cầu hóa
đang làm thay đổi vị trí, vai trò của từng
con người, tổ chức, của quốc gia và toàn
bộ hệ thống thế giới. Thế giới đang trở nên
thống nhất, cùng phụ thuộc nhau hơn.
Nhưng bên cạnh đó, thế giới cũng ngày
càng trở nên kém đa dạng, phong phú và
ngày càng “phẳng” hơn.
Quan hệ quốc tế đang chịu sự tác động
mạnh mẽ của toàn cầu hóa và được biểu
hiện rõ nét qua hai sự vận động mang tính
quy luật là mức độ cùng phụ thuộc giữa
các quốc gia ngày càng gia tăng và sự đa
dạng hóa các chủ thể quan hệ chính trị
quốc tế.
Trước hết, trong thời kỳ toàn cầu hóa,
mức độ cùng phụ thuộc giữa các quốc gia
ngày càng gia tăng. Sự cùng phụ thuộc
trước hết được hiểu là sự cùng chung số
128
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
SỨC MẠNH CỦA BÁO CHÍ TRONG QUAN HỆ QUỐC Tế
THỜI kỳ TOÀN CầU HóA
?PGS, TS PHẠM MINH SƠN
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
phận. Trong kỷ nguyên hạt nhân hiện nay,
không có chỗ đứng riêng cho các quốc gia,
ngay cả quốc gia rất hùng mạnh về quân
sự, tất cả các quốc gia đều chung một số
phận khi có chiến tranh hạt nhân xảy ra.
Điều này chứng tỏ rằng các quốc gia đang
có chỗ đứng giống nhau và có một tương
lai chung. Việc bảo vệ cho hiện tại và
tương lai chỉ có thể thực hiện được nhờ sự
cùng chung hợp tác chống sản xuất, tàng
trữ, phổ biến vũ khí hạt nhân, ngăn chặn
thảm họa hạt nhân.
Các quốc gia ngày càng có nhiều lợi ích
chung, bên cạnh lợi ích riêng, lợi ích đặc
thù của mỗi quốc gia. Sự đan xen lợi ích
giữa các quốc gia thể hiện ngày càng rõ
ràng và số lượng, phạm vi những lợi ích
chung được mở rộng không ngừng. Để
thực hiện những lợi ích chung này, vai trò
của các thiết chế quốc tế được nâng cao,
mở rộng, tăng cường. Nhiều tổ chức quốc
tế mới được thành lập và tập hợp ngày càng
nhiều thành viên. Sự hoạt động của các tổ
chức quốc tế sẽ góp phần củng cố mối liên
hệ, thúc đẩy mức độ quan hệ, mở rộng
phạm vi, lĩnh vực quan hệ giữa các quốc
gia. Sự hiện diện và phát triển của các tổ
chức quốc tế làm tăng thêm sự cùng phụ
thuộc giữa các quốc gia.
Bên cạnh đó, thế giới đang đứng trước
nhiều vấn đề toàn cầu đòi hỏi cần có sự
phối hợp giữa các quốc gia, các tổ chức
quốc tế để khắc phục và giải quyết. Bên
cạnh những vấn đề toàn cầu truyền thống
như bảo vệ hòa bình, giải quyết xung đột,
bảo vệ môi trường, chữa trị bệnh tật hiểm
nghèo, duy trì mức tăng dân số hợp lý, đã
xuất hiện và ngày càng trở nên bức xúc
nhiều vấn đề toàn cầu mới như an ninh phi
truyền thống, chống khủng bố, tội phạm
quốc tế, sử dụng, quản lý hiệu quả mạng
Internet… Đó là những vấn đề mà không
một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải
quyết một cách triệt để, và do vậy cần có
sự hợp tác chặt chẽ của các quốc gia và khu
vực trên thế giới.
Sự phát triển của kinh tế, tài chính,
thương mại quốc tế nhờ sự phát triển của
khoa học và công nghệ đang làm cho các
quốc gia cùng phụ thuộc vào nhau hơn bất
cứ lúc nào khác. Sự phát triển của mỗi
quốc gia đang phụ thuộc và chịu ảnh
hưởng trực tiếp vào tình hình, diễn biến
các sự kiện trên thế giới, và trước hết là vào
tình hình của nền kinh tế toàn cầu. Nền
kinh tế của mỗi quốc gia đang dần trở
thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu
và những biến động trong nền kinh tế toàn
cầu lập tức tác động, ảnh hưởng đến kinh
tế của các quốc gia.
Cùng với quá trình toàn cầu hóa về kinh
tế, các giá trị chung về văn hóa, xã hội và
chính trị đang được phổ biến ngày càng
rộng rãi. Điều này đòi hỏi quá trình dân chủ
hoá đời sống quốc tế phải được thúc đẩy,
làm cơ sở cho sự hợp tác bình đẳng, cùng
129
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
có lợi giữa các quốc gia.
Thứ hai, trong thời kỳ toàn cầu hóa, các
chủ thể quan hệ quốc tế ngày càng trở nên
đa dạng. Đó là những thực thể chính trị - xã
hội có các hoạt động có tác động, ảnh
hưởng xuyên quốc gia, làm nảy sinh và phát
triển các mối quan hệ chính trị quốc tế.
Quốc gia có chủ quyền là chủ thể chính,
đầy đủ nhất của quan hệ quốc tế, là những
thực thể chính trị cao nhất có khả năng và
trách nhiệm trực tiếp thừa nhận nghĩa vụ
và quyền lợi của mình trong hệ thống luật
pháp quốc tế. Quốc gia có vai trò chủ đạo
và không thể phủ định được trong quan hệ
chính trị quốc tế. Bản chất của nền chính
trị thế giới là mối quan hệ giữa các quốc
gia, là cuộc đấu tranh không khoan nhượng
vì lợi ích giữa các quốc gia.
Trong thời kỳ toàn cầu hóa, xuất hiện
ngày càng nhiều các chủ thể quan hệ quốc
tế mới, phi truyền thống, chủ thể ngoài
quốc gia, “ngoài chủ quyền” tham gia vào
đời sống thế giới. Đó là các tổ chức quốc
tế phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế, tài
chính, các công ty xuyên quốc gia, các tập
đoàn truyền thông, các cộng đồng dân tộc,
các tổ chức tôn giáo, các tổ chức không
chính thức, bất hợp pháp (kể cả các tổ chức
tội phạm, maphia, khủng bố...), các nhóm
lợi ích, nhóm cá nhân, các thủ lĩnh, cá
nhân... Quốc gia - nhà nước đang mất dần
quyền kiểm soát hoạt động xuyên quốc gia
của các chủ thể này. Nhiều khi, hoạt động
của các chủ thể ngoài quốc gia vi phạm
nguyên tắc chủ quyền quốc gia và đi ngược
lại lợi ích quốc gia - một điều mang tính
nguyên tắc trong quan hệ quốc tế từ trước
đến nay. Do vậy, sự độc quyền của quốc gia
trong quan hệ quốc tế đang dần bị phá vỡ
bất chấp các nỗ lực và cố gắng của các
chính phủ. Quốc gia không còn là chủ thể
duy nhất trong quan hệ quốc tế, mặc dù nó
vẫn chiếm vai trò chủ đạo. Vai trò của các
chủ thể khác, chủ thể ngoài quốc gia, đang
ngày càng lớn mạnh. Điều này làm đa dạng
hóa nhưng cũng phức tạp hóa quan hệ
quốc tế.
Tuy nhiên, quốc gia và cùng với nó là
các đặc điểm, xu hướng vận động vẫn là
khái niệm cơ bản khi phân tích các quá
trình chính trị thế giới. Chính phủ các quốc
gia, bằng việc thông qua các quyết định,
các điều luật, vẫn duy trì sự kiểm soát và
điều hoà hoạt động của mình và các chủ thể
khác ngoài quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Nói khác đi, sự cùng phụ thuộc giữa các
quốc gia, sự đa dạng hoá các chủ thể quan
hệ quốc tế, sự chuyển biến trong quan niệm
an ninh không đẩy quốc gia ra khỏi đời
sống quốc tế mà chỉ làm thay đổi và phức
tạp hoá vai trò của nó trong gìn giữ ổn định
và an ninh quốc tế.
Sự tham gia ngày càng tích cực của các
chủ thể ngoài quốc gia vào đời sống quốc
tế, một mặt, làm nảy sinh nhiều mối quan
hệ quốc tế mới, làm cho nội dung, hình
130
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
thức quan hệ ngày càng đa dạng, phong
phú, mặt khác, làm phức tạp hóa các mối
quan hệ vốn dĩ đã không đơn giản, làm cho
quan hệ quốc tế ngày càng trở nên khó dự
báo, khó lường trước được.
Vai trò của các chủ thể ngoài quốc gia
đang ngày càng lớn mạnh và chính sách
đối với các chủ thể này không thể xây dựng
trên cơ sở cách suy nghĩ truyền thống về
chính sách đối ngoại, về ngoại giao nhà
nước. Các khái niệm cơ bản gắn với quốc
gia như chủ quyền, an ninh, sức mạnh, lực
lượng, cân bằng lực lượng… cần phải được
điều chỉnh và áp dụng một cách linh hoạt
trong quan hệ với các chủ thể ngoài quốc gia.
2. Sức mạnh của báo chí trong quanhệ quốc tế hiện nay
Báo chí thường được nhìn nhận như một
trong những công cụ quan trọng để thực
hiện toàn cầu hóa. Tuy nhiên, dưới góc độ
quan hệ quốc tế, báo chí là một trong những
chủ thể ngoài quốc gia đang tích cực tham
gia quá trình toàn cầu hóa, tác động cả tích
cực lẫn tiêu cực đến quan hệ quốc tế.
Trước hết, báo chí thúc đẩy và củng cố
sự cùng phụ thuộc trong quan hệ quốc tế.
Với sự hỗ trợ của kỹ thuật và công nghệ,
đặc biệt là truyền hình kỹ thuật số, truyền
hình vệ tinh và mạng Internet toàn cầu, báo
chí hiện đại có tác động và tầm ảnh hưởng
hơn hẳn trước đây. Các kênh truyền hình
quốc tế như CNN, BBC World, DW, RT,
KBS, CCTV… đang được hàng triệu
người xem trên toàn thế giới. Báo chí điện
tử với dung lượng thông tin rất lớn, tốc độ
cung cấp thông tin nhanh, không bị giới
hạn về không gian lãnh thổ, đường biên
giới quốc gia…, do vậy, những thông tin
về các sự kiện nóng hổi trên thế giới lập tức
được phổ biến trên phạm vi toàn cầu một
cách nhanh chóng và rộng rãi nhất.
Báo chí, một mặt, vẫn tiếp tục đảm nhận
thực hiện các chức năng của mình trong
nước, mặt khác, đang thực hiện ngày càng
nhiều chức năng trong quan hệ quốc tế.
Báo chí cung cấp thông tin nhanh chóng,
kịp thời về các sự kiện, diễn biến, giúp cho
các quốc gia phổ biến thông tin về đất nước
mình ở khắp nơi trên thế giới, góp phần
làm rõ quan điểm, chính sách của các quốc
gia. Báo chí cũng cung cấp thông tin quốc
tế vào trong nước, giúp công chúng trong
nước hiểu rõ hơn về các sự kiện, diễn biến
trên thế giới, góp phần giúp các quốc gia,
các dân tộc và mọi người dân trên thế giới
hiểu nhau hơn. Báo chí cũng đấu tranh
chống các luận điệu xuyên tạc, thù địch gây
chia rẽ hay làm tổn hại các quan hệ quốc
tế. Nhờ sự hoạt động tích cực của báo chí,
chưa bao giờ mọi người trên thế giới lại
hiểu nhau và gần gũi với nhau như hiện
nay. Sức mạnh của báo chí, do vậy, cũng
chưa bao giờ lớn mạnh như ngày hôm nay.
Thứ hai, báo chí với sức mạnh to lớn
của mình đang trở thành một chủ thể ngoài
quốc gia quan trọng, có tính độc lập tương
131
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
đối trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi
một quốc gia, nhiều nhà nghiên cứu so
sánh sức mạnh của báo chí với sức mạnh
của các nhánh quyền lực khác trong hệ
thống chính trị quốc gia, biểu hiện qua
những ngôn từ nói về báo chí như: “nhánh
quyền lực thứ tư”, “thiết chế chính trị”, “bộ
phận không thể thiếu của hệ thống chính
trị”, “công cụ của chính quyền”… Trong
thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay, báo chí đang
dần trở thành một lực lượng có tính độc lập
tương đối, có hoạt động xuyên quốc gia, có
tác động ảnh hưởng xuyên quốc gia, làm
nảy sinh nhiều mối quan hệ quốc tế mới.
Sức mạnh của báo chí đã vượt qua biên giới
của quốc gia và tác động, ảnh hưởng đến
nhiều nước, thậm chí mang tính toàn cầu.
Những sự kiện gần đây trong đời sống
báo chí quốc tế đang thách thức cách nhìn
nhận truyền thống về vai trò, chức năng
của báo chí trong đời sống của quốc gia và
trong quan hệ quốc tế. Đó là sự kiện năm
2005 báo Jyllands-Posten của Đan Mạch
và sau đó là một số tờ báo của châu Âu cho
đăng tải 12 bức biếm họa Đấng tiên tri Mô-
ha-mét của đạo Hồi. Việc đăng tải này đã
gây ra làn sóng phản đối dữ đội trong thế
giới Hồi giáo. Ở khắp nơi, từ Đông Nam Á
đến Trung Đông, Trung Á, Bắc Phi, những
nơi có người Hồi giáo sinh sống, người dân
đã kéo đi biểu tình, đốt cờ Đan Mạch, tấn
công đại sứ quán các nước châu Âu. Điều
này dẫn đến căng thẳng trong quan hệ giữa
các nước Hồi giáo và các nước châu Âu.
Một sự kiện khác liên quan đến trang tin
WikiLeaks và nhà báo Julian Assange.
Năm 2009 và 2010, các báo nổi tiếng thế
giới như New York Times (Mỹ), Der
Spiegel (Đức), Le Monde (Pháp), Guardian
(Anh), El Pais (Tây Ban Nha), Aftenposten
(Oslo, Na Uy) đã đăng tải hơn 92.000 báo
cáo mật về cuộc chiến Afghanistan và hơn
250.000 tài liệu mật của Bộ Ngoại giao Mỹ
từ nguồn tin của WikiLeaks và nhà báo Ju-
lian Assange, bất chấp sức ép lớn từ chính
phủ Mỹ. Đây được ví như một vụ “tấn
công 11.9” vào nền ngoại giao Mỹ, gây ảnh
hưởng mạnh mẽ đến quan hệ ngoại giao
của Mỹ với các nước.
Trong những ngày qua, sự kiện các tờ
báo nổi tiếng như Guardian (Anh), Le
Monde (Pháp), Der Spiegel (Đức) đăng tải
những thông tin do Edward Snowden cung
cấp đang làm dấy lên dư luận phản đối
chính phủ Mỹ ở khắp nơi thế giới. Báo chí
đã tiết lộ việc cơ quan an ninh quốc gia
(NSA) Mỹ đã tiến hành xâm nhập hệ thống
máy chủ của các tập đoàn truyền thông lớn
như Verizon, Microsoft, Google, Face-
book, Apple, Yahoo, PalTalk, Skype,
YouTube nhằm kiểm tra các đoạn phim,
ảnh, tư liệu của người sử dụng, kể cả công
dân Mỹ và công dân các nước trên thế giới.
Ngoài ra, NSA còn tiến hành theo dõi điện
thoại, tin nhắn, email của công dân và lãnh
đạo của nhiều nước trên thế giới, kể cả của
132
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
lãnh đạo đồng minh rất thân cận của Mỹ ở
châu Âu là bà Merkel, Thủ tướng Đức.
Điều này làm cho chính phủ nhiều nước
phản ứng gay gắt và yêu cầu Mỹ giải thích
rõ về các vụ việc đó.
Những vụ việc nêu trên đã thể hiện sức
mạnh của báo chí, đồng thời cho thấy vị trí,
vai trò ngày càng lớn của báo chí trong quan
hệ quốc tế thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay.
3. Một số vấn đề đặt ra đối với báo chítrong thời kỳ toàn cầu hóa
Trong thời kỳ toàn cầu hóa, cùng với sự
gia tăng sức mạnh, báo chí cũng đang đứng
trước nhiều vấn đề lớn, đòi hỏi cần có câu
trả lời sớm.
Trước hết, phải xác định vị trí, vai trò
của báo chí như thế nào trong thế giới toàn
cầu hóa. Sức mạnh của báo chí trong thế
giới toàn cầu hóa có tác động và ảnh hưởng
xuyên quốc gia, vậy liệu báo chí chỉ cần
tuân thủ theo các quy định của luật pháp
quốc gia, hay cần phải nhìn nhận cả dưới
góc độ ảnh hưởng, tác động đến quan hệ
quốc tế?
Báo chí với sức mạnh của mình đã trở
thành một chủ thể quan trọng của quan hệ
quốc tế, vừa phải tuân thủ theo những quy
định luật pháp quốc gia, đồng thời cũng
phải tuân theo những quy định của luật
pháp quốc tế. Tuy nhiên, khác với chủ thể
quốc gia, đối với báo chí cần có cách tiếp
cận riêng, cần có những công cụ, biện pháp
điều chỉnh riêng.
Thứ hai, sức mạnh của báo chí sẽ thuộc
về ai và phục vụ cho ai? Toàn cầu hóa tạo
ra khả năng và cơ hội lớn để báo chí đến
với mỗi con người và mỗi con người đều
có cơ hội trở thành những nhà báo, có thể
là nhà báo chuyên nghiệp hay nhà báo công
dân. Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi
ích nhóm, lợi ích quốc gia và lợi ích nhân
loại sẽ được điều hòa ra sao một khi hiện
nay sức mạnh của báo chí đang nằm chủ
yếu trong tay các tập đoàn truyền thông lớn
và họ có ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình
thông tin toàn cầu.
Những yêu cầu báo chí phải phục vụ cho
lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội hiện nay
cần phải được nhìn nhận trên phạm vi thế
giới, phạm vi nhân loại, chứ không chỉ giới
hạn trong phạm vi một quốc gia. Cơ hội để
đóng góp cho sự phát triển của xã hội của
nhà báo trong bối cảnh toàn cầu hóa do vậy
cũng sẽ lớn hơn rất nhiều so với trước đây.
Thứ ba, kiểm soát và điều khiển sức
mạnh của báo chí như thế nào trong thế
giới toàn cầu hóa? Sức mạnh này tạo ra
cho người sở hữu chúng một quyền lực to
lớn. Tuy nhiên, quyền lực cũng làm nảy
sinh một vấn đề khác là lạm dụng quyền
lực - một việc sẽ gây hậu quả khôn lường
trong thế giới thời kỳ toàn cầu hóa. Do vậy,
để đảm bảo báo chí luôn phát huy sức
mạnh của mình vì lợi ích chung, vì lợi ích
của người dân, cần phải có biện pháp, cơ
chế điều khiển sức mạnh của báo chí.
133
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Vấn đề kiểm soát và điều khiển sức
mạnh của báo chí cũng sẽ trở thành vấn đề
quốc tế chứ không còn là vấn đề nội bộ của
một quốc gia, nhất là khi nó ảnh hưởng đến
hòa bình, an ninh quốc tế. Những vấn đề
báo chí trong một nước sẽ dễ trở thành vấn
đề quan tâm của nhiều nước. Việc hợp tác
giữa các quốc gia trong phát triển cũng như
quản lý báo chí sẽ ngày càng được mở
rộng, chặt chẽ với nhau hơn.
Thứ tư, trách nhiệm, đạo đức nhà báo
hiện nay cần được nhìn nhận ra sao một
khi tác động của báo chí đã vượt qua biên
giới của một địa phương, một đất nước?
Một bài báo, bài phân tích của một tờ báo
quốc gia, thậm chí của địa phương, không
chỉ có công chúng của đất nước hay địa
phương đó tiếp cận đọc, mà hiện nay, với
sự hỗ trợ của các phương tiện như truyền
hình, Internet, nó có thể được phổ biến trên
phạm vi thế giới. Điều đó đòi hỏi người
làm báo cần phải có trách nhiệm không chỉ
đối với công chúng của đất nước, của địa
phương mình, mà cần nâng trách nhiệm lên
tầm quốc tế, có trách nhiệm với công
chúng thế giới. Trách nhiệm này trước tiên
phải được quy định rõ ràng trong các quy
tắc đạo đức của nhà báo. Trong các quy tắc
đạo đức báo chí sẽ ngày càng chú trọng đến
những quy tắc liên quan đến những vấn đề
quan hệ quốc tế, những vấn đề trên phạm
vi nhân loại, phạm vi thế giới. Nhưng quan
trọng hơn cả là bản thân mỗi người làm báo
phải ý thức và tự giác tuân thủ về trách
nhiệm quốc tế của mình đối với mỗi sản
phẩm báo chí của mình.
Có thể khẳng định, toàn cầu hóa đang
ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến mọi
mặt của đời sống quốc tế. Báo chí đang trở
thành một chủ thể ngoài quốc gia có sức
mạnh to lớn, tác động trực tiếp đến quan hệ
quốc tế. Vị trí, vai trò của báo chí càng
được nâng cao thì trách nhiệm, đạo đức của
người làm báo cũng cần phải được nâng
lên một cách tương xứng. Có như vậy sức
mạnh của báo chí mới thực sự phục vụ cho
lợi ích chung của xã hội và nhân loạir
………………..Tài liệu tham khảo:
1. International Monetary Fund. Globalization:
Threat or Opportunity? https://www.internationalmon-
etaryfund.com/external/np/exr/ib/2000/041200.htm#II
2. Naomi Klein. No Logo. Publisher Flamingo,
2001.
3. Phạm Minh Sơn, “Tìm hiểu các quy luật cơ bản
trong quan hệ chính trị quốc tế”, Thông tin nghiên cứu
quốc tế, Số 4 (10/2005)
4. Phạm Minh Sơn, “Toàn cầu hoá và sự vận động
của quan hệ chính trị quốc tế hiện nay”, Lý luận chính
trị và Truyền thông, số 10/2007
5. Thomas Friedman, Chiếc Lexus và cây Ô liu -
Toàn cầu hóa là gì? Nxb Khoa học xã hội, 2005;
6. Thomas Friedman, Thế giới phẳng - Tóm lược lịch
sử thế giới thế kỷ 2, Nxb. Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh, 2006.
7. Viện quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ chí Minh, Tập bài giảng Quan hệ quốc tế, Nxb Lý
luận chính trị, H.,2004.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &Truyền thông.- 2013.- Số tháng 11.- Tr.12-16.
134
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Truyền thông hội tụ là vấn đề không
mới hiện nay. Tuy nhiên, đang có
nhiều ý kiến khác nhau về khái
niệm này. Truyền thông hội tụ được nhiều
người đề cập, nhưng chưa có sự thống nhất
về nội dung.
Trong bài viết “Xu thế hội tụ trong lĩnh
vực truyền thông, tác giả Nguyễn Trung
Kiên (Học viện Bưu chính - Viễn thông)
cho rằng: “Truyền thông bao gồm viễn
thông, Internet, phát thanh, truyền hình.
Mặc dù hiện tại các giải pháp kỹ thuật thực
hiện các mảng này vẫn phát triển độc lập
tương đối với nhau nhưng nét chủ đạo đang
được kỳ vọng và cũng đang diễn ra trong
thực tế là sự hình thành của một môi
trường tích hợp chung, môi trường này làm
nền tảng cho các dịch vụ truyền thông hợp
nhất (UC- Unify Communication). Sự
chuyển đổi theo xu hướng này diễn ra trong
các khía cạnh khác nhau: từ phía thiết bị
người dùng cuối, phương thức truy nhập,
mạng chuyển tải và giải pháp cung cấp
dịch vụ”...
Truyền thông đại chúng là khái niệm
bao gồm nhiều lĩnh vực: sách; báo chí gồm
báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng
Internet; viễn thông; quảng cáo; điện ảnh;
hãng tin tức… Như vậy, cần phải làm rõ
hội tụ trong truyền thông cụ thể ở lĩnh vực
nào, hay hội tụ tất cả các sản phẩm của
truyền thông đại chúng. Bài viết này sẽ đề
cập đến vấn đề hội tụ truyền thông trong
lĩnh vực báo chí, bao gồm các loại hình báo
chí cụ thể như báo in, phát thanh, truyền
hình và báo mạng Internet.
Hội tụ truyền thông trong lĩnh vực báo
chí chính là sự hợp nhất của các loại hình
báo chí truyền thống trong cùng một cơ
quan báo chí về cấu trúc tòa soạn, sản xuất
tin bài, phản hồi thông tin… Để thực hiện
được quá trình này, cần khẳng định rằng,
nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
trong đó có mạng Internet là cơ sở hạt nhân
cho xu hướng này.
Thời đại Internet cho phép thông tin
135
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
tRuYền thÔng hỘi tỤ: XÉt tỪ gÓC ĐỘ báo Chí
?TS PHẠM THỊ THANH TỊNH
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
được truyền tải trên một môi trường khác,
không phải chỉ là sản phẩm giấy in, radio
hay trên một chiếc tivi truyền thống, mà
thông tin được chủ động phân phối theo
cách mà công chúng cần tiếp nhận nó
nhanh nhất, chất lượng nhất, đầy đủ nhất.
Như vậy, cơ quan báo chí phải tổ chức lại
để trở thành một cơ sở sản xuất chương trình,
phân phối thông tin phục vụ theo nhu cầu
của công chúng về nội dung lẫn hình thức,
phù hợp thời điểm mà họ muốn tiếp nhận.
1. Tổ chức tòa soạn
Tòa soạn báo phải là một “tổ chức
phẳng” với chỉ một vài cấp lãnh đạo.
Những người lãnh đạo cấp cao cũng tham
gia vào mọi công việc hằng ngày. Việc thu
gọn bộ máy các cấp lãnh đạo cũng sẽ khiến
nhân viên làm việc năng suất và sáng tạo
hơn khi họ được tham gia nhiều hơn vào
quá trình đưa ra quyết định. Các nhà quản
lý và nhân viên cùng làm việc trên một mặt
phẳng, tạo ra hệ thống giao tiếp mở. Ở đây,
phóng viên có thể thu thập, xử lý thông tin
ngay tại chỗ và thể hiện các bản tin qua các
phương tiện truyền thông khác nhau trong
tòa soạn.
Không gian làm việc của tòa soạn được
thiết kế mở, hầu hết các lãnh đạo đều ngồi
làm việc trong không gian chung để gần
gũi và lãnh đạo sâu sát hơn hoạt động của
nhân viên. Không gian mở cũng giúp mọi
người giao lưu với nhau nhiều hơn và tạo
điều kiện cho các cuộc tranh luận cởi mở.
Các ban khác nhau trong tòa soạn được
thuận lợi trao đổi ý tưởng và thông tin dễ
dàng hơn.
Tòa soạn cần có phương pháp để phát
triển cân bằng và phối hợp chặt chẽ giữa
các loại hình báo chí đang có. Có thể bố trí
bàn làm việc của những người làm báo
mạng ngay bên cạnh bàn làm việc của
những người làm báo in, hoặc phát thanh,
truyền hình. Ngoài ra, một nhóm phóng
viên chuyên biệt cũng được hình thành
nhằm đảm bảo sự kết hợp trơn tru giữa các
loại hình báo chí trong tòa soạn.
2. Hoạt động của phóng viên sản xuất
tin bài
Đối với hoạt động của cơ quan báo chí
trước đây, phóng viên chỉ quan tâm sản
xuất nội dung cho báo của mình. Trong
truyền thông hội tụ, các phóng viên hỗ trợ
nhau trong công việc, cùng thu thập tin tức,
chia sẻ và thống nhất cách đưa tin.
Phóng viên có thể sử dụng dữ liệu thông
tin của ban khác để sáng tạo tác phẩm.
Phóng viên báo in có thể sử dụng tư liệu,
ảnh trong bài viết. Phóng viên truyền hình
có thể sử dụng thông tin trên báo in làm lời
dẫn cho mình. Bản tin truyền hình có thể
sử dụng đồ họa hay số liệu của báo in và
báo mạng đã đăng tải. Báo mạng sử dụng
136
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
sản phẩm của truyền hình và file studio
trong phát thanh.
Trong tòa soạn hội tụ, phóng viên phải
là người đa năng. Phóng viên báo in biết
dẫn, thuật lại sự kiện trên truyền hình.
Phóng viên ảnh biết viết bài và thực hiện
phỏng vấn. Phóng viên phát thanh biết
quay phim, sử dụng hình ảnh… Nhà báo
phải biết sử dụng các thiết bị kỹ thuật cho
cơ quan báo chí đa phương tiện. Nhà báo
phải chuẩn bị bản tin đa dạng để có thể
đăng tải trên nhiều phương tiện truyền
thông khác nhau.
Trong quá trình sáng tạo tác phẩm,
không chỉ phóng viên mà cả biên tập viên,
họa sĩ trình bày, phóng viên ảnh sẽ đều
tham gia vào quá trình lên ý tưởng và kế
hoạch thực hiện bài viết ngay từ đầu. Đồng
thời, trong quá trình lên kế hoạch, các cá
nhân sẽ bàn bạc với nhau để đảm bảo công
việc diễn ra trôi chảy. Các cá nhân cũng sẽ
phải đặt mình vào vị trí độc giả để xây
dựng một sản phẩm báo chí gần gũi và hấp
dẫn nhất với người đọc. Đây là điểm khác
biệt với cách làm việc trong các tòa soạn
báo truyền thống. Ở các tòa soạn báo
truyền thống, quy trình sáng tạo một tác
phẩm báo chí thông thường là: phóng viên
viết bài, chụp ảnh rồi gửi về cho biên tập
viên và sau đó họa sĩ trình bày sẽ tự biết
cách trình bày bài viết lên trang báo. Cách
làm này có nhược điểm là: người sáng tạo
tác phẩm báo chí - người am hiểu đứa con
tinh thần của mình nhất lại không phải là
người biên tập và trình bày bài báo của
mình. Chính vì vậy, những ý đồ của người
phóng viên có thể sẽ bị biên tập viên vô tình
cắt đi, hoặc những bức ảnh sẽ bị người trình
bày bỏ bớt vì thiếu trang, v.v. Như vậy, chất
lượng bài báo sẽ giảm đi rất nhiều.
Khi cần thiết kế tin bài theo các chủ đề đặc
biệt hoặc cho ra đời các ấn phẩm mới, tòa
soạn cần thành lập các nhóm dự án bao gồm
tổng thư ký tòa soạn, một họa sỹ thiết kế và
một vài nhân viên từ các ban khác nhau.
SVENSKA DAGBLADET (SvD) là
một trong những tòa soạn thiết kế theo
hướng hội tụ ở Bắc Âu, hoạt động trong
lĩnh vực báo in và báo mạng điện tử.
SvD trực tuyến được cập nhật hàng trăm
lần mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần (24/7). SvD
thực hiện chính sách đưa tin trên mạng
trước, mỗi phóng viên hoàn thành một bài
viết thì một tin ngắn gọn luôn được chuyển
để đẩy ngay lên SvD.se. Tiếp tục suốt cả
ngày và đêm, SvD.se sẽ liên tục cập nhật
và bổ sung thông tin cho bài viết đó. Khi
có một tin nóng từ khu vực đang xảy ra sự
kiện, bên cạnh các thông tin mới nóng, các
thông tin sâu, các bài phân tích cũng được
đăng tải qua các đường link để người đọc
tìm hiểu thêm. Các thông tin đã đăng trên
137
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
SvD.se sau đó có thể lại được in trên báo
giấy sáng ngày hôm sau, kèm theo ý kiến
của độc giả từ trên trang mạng viết về sự
kiện đó.
Tòa soạn đã liệt kê 4 câu hỏi mà mỗi
phóng viên cần trả lời khi viết báo:
Độc giả muốn biết những gì?
Phóng viên cần thể hiện bài viết như thế
nào cho thật hiệu quả và hấp dẫn?
Những gì là phù hợp nhất với báo mạng
và phù hợp nhất với báo in?
Cần làm gì để độc gia tham giả đóng
góp ý kiến nhiều hơn?
SVENSKA DAGBLADET có hơn 40
phóng viên chuyên viết bình luận về các
lĩnh vực khác nhau như thời sự, thể thao,
phim ảnh, văn học… Các bài bình luận
phản ánh quan điểm riêng của người viết
chứ không phải là quan điểm của tờ báo.
Độc giả đánh giá rất cao các ý kiến mạnh
mẽ, sắc sảo của những cây viết bình luận.
Các tác giả thường xuất hiện trên báo in và
báo mạng với một bức chân dung bên cạnh
một câu nói “đinh” trong bài.
Tác phẩm báo chí trong tòa soạn hội tụ
được trình bày dưới dạng kết hợp chữ viết,
hình ảnh, âm thanh, video, blog, liên kết
đến các trang web, audio trực tuyến. Tòa
soạn có thể sử dụng thế mạnh và khả năng
của các kênh, tiếp cận đối tượng bất cứ ở
đâu, lúc nào thông qua phương tiện truyền
thông thích hợp nhất sẵn có trong tòa soạn.
Xây dựng theo cách này, tin tức rõ ràng,
nhất quán trên các thiết bị và các loại hình
báo chí. Điều này sẽ góp phần củng cố
thương hiệu cho cơ quan báo chí.
3. Công chúng tương tác
Tòa soạn tiếp nhận một cách nghiêm túc
các ý kiến đóng góp của công chúng, từ đó,
tiến hành những thay đổi thực sự theo
mong muốn của họ. Tuy nhiên, tiếp thu ý
kiến công chúng không đồng nghĩa với
việc chạy theo thị hiếu và doanh số lợi
nhuận, những thay đổi mà họ tiến hành đều
được nghiên cứu rất kĩ nhằm đảm bảo mục
tiêu và tính bền vững cao nhất.
Các ý kiến của độc giả luôn được đăng
tải trên các mặt báo, chương trình. Họ cũng
được đề nghị gửi thông tin, video và ảnh
về các sự kiện thông qua số điện thoại miễn
phí, qua email hoặc tin nhắn. Tòa soạn có
phương pháp khuyến khích công chúng
giúp kiểm soát chất lượng các sản phẩm
báo chí như thông báo về những lỗi sai,
những thông tin chưa chính xác. Để đảm
bảo an toàn, tòa soạn cần chú trọng việc
bảo vệ bí mật nguồn tin.
Khả năng tương tác của công chúng
được phát huy tối đa trên báo mạng điện
tử. Một số phương pháp tương tác với công
chúng cụ thể sau:
Tương tác có định hướng: trên các
138
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
chuyên mục luôn có sự định vị như các nút
“xem tiếp”, “trang sau”. Đi đến cuối, ta có
thể nhìn thấy Upp (lên đầu trang)… Điều
này giúp cho công chúng chủ động và dễ
dàng di chuyển trong một trang.
Tương tác chức năng: Là sự linh hoạt
của các đường dẫn cho phép người đọc khả
năng tham chiếu tới các nội dung khác.
Nhiều liên kết (link) tạo thành các siêu liên
kết (hyperlink), tạo mối quan hệ giữa thông
tin mới nhất với các thông tin tham chiếu,
bổ sung trong cùng một chủ đề. Sự xuất hiện
của nhiều siêu liên kết làm tăng sự lựa chọn,
định vị nội dung thông tin cho người đọc.
Tương tác tùy biến: Là sự thông minh
của các công cụ cá nhân cho phép tờ báo
có thể nhận sự phản hồi về tin bài, về tác
giả bài báo, về hình thức… và nhanh chóng
trả lời công chúng. Xây dựng các trang để
hoan nghênh thư của độc giả gửi về với các
ý kiến đóng góp cho chính tờ báo cũng như
các vấn đề thời sự. Trang web cũng có chức
năng phản hồi dễ sử dụng, cho phép độc
giả có thể gửi ý kiến và đưa quan điểm của
họ về tất cả các bài viết đã đăng. Thông qua
một mẫu khai có sẵn trên trang web, độc
giả có thể thông báo lỗi để sau đó các lỗi
này được sửa sai ngay trên trang web.
Tòa soạn cũng có thể lập riêng một blog,
một trang mạng xã hội như Facebook làm
nơi thu thập ý kiến độc giả. Cuối mỗi bài
báo, bên cạnh họ tên, bút danh, địa chỉ
email của tác giả cũng được cung cấp, tạo
điều kiện cho độc giả gửi ý kiến phản hồi.
Xu thế hội tụ truyền thông bắt nguồn từ
công chúng báo chí, khi nhu cầu được
tương tác thông tin, được quyền thông tin
nhiều chiều ngày càng mở rộng. Cùng với
vai trò cá nhân trong đời sống truyền
thông, hội tụ công nghệ, tích hợp đa
phương tiện trong truyền thông đại chúng
đang là một xu thế tất yếu. Hiện nay, ở Việt
Nam, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
số lượng thuê bao Internet băng thông
rộng, sự phát triển của công nghệ mới đã
thực sự trở thành một xu thế mở ra thuận
lợi và thách thức mới. Xu thế này đã và
đang có những tác động mạnh mẽ vào hoạt
động báo chí nước ta. Những người làm
báo chí - truyền thông phải nhanh chóng
nhận thức được xu hướng và đón bắt, tận
dụng nó như một cơ hội để tồn tại và phát
triểnr
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &
Truyền thông.- 2014.- Số tháng 4.- Tr. 26
– 28.
139
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Hiện nay, nước ta có 706 cơ quanbáo chí in, trong đó có 178 tờ báoin xuất bản hàng ngày, cách ngày,
hàng tuần, 528 tờ tạp chí; 1 đài phát thanhquốc gia; 2 đài truyền hình quốc gia; 64 đàiphát thanh - truyền hình tỉnh, thành phố;606 đài truyền thanh cấp huyện. Lĩnh vựcthông tin điện tử có 21 báo điện tử (inter-net), 160 trang điện tử của các cơ quan báoin, và hàng ngàn bản tin điện tử của các cơquan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, hội,hiệp hội và doanh nghiệp. Hiện có khoảng17.000 người đang công tác trong các cơquan báo chí hoặc liên quan đến báo chíđược cấp thẻ nhà báo.
Để tồn tại trong cơ chế thị trường, mỗicơ quan báo chí phải tự hạch toán kinhdoanh, phải đối mặt với vấn đề lỗ - lãi bởilẽ, Nhà nước không còn bao cấp như trướcnữa. Điều đó cũng có nghĩa là giữa các báosẽ xuất hiện sự cạnh tranh: cạnh tranh vềthông tin, về số lượng phát hành… tất cảcũng nhằm thu hút lượng độc giả. Trong cơchế thị trường, độc giả chính là người nuôisống tờ báo.
Có thể nói, cơ chế thị trường đã làm thayđổi cả diện mạo đất nước trên nhiều
phương diện. Trong bối cảnh này, các cơquan báo chí phải đối mặt với hai sự lựachọn: hoặc là đổi mới để thích ứng với cơchế thị trường, với xã hội, hoặc là giữnguyên sự yếu kém của mình, tiếp tụcthông tin kiểu bao cấp. Tất nhiên, những cơquan báo chí yếu kém sẽ không có cơ hộitồn tại trong môi trường báo chí mới.Hướng đi tất yếu khách quan phù hợp vớixu thế chung là phải chuyển từ một nền báochí bao cấp sang tự hạch toán kinh doanh.Sự lựa chọn này đem đến những vận hộiphát triển mới cũng như những thách thứcđối với các cơ quan báo chí.
1. Những thành tựu đã đạt đượcNhững năm đầu của thời kỳ đổi mới,
đương đầu với sóng gió của nền kinh tế thịtrường, báo chí đã gặp rất nhiều khó khăn.Nhiều tờ báo chao đảo, lắt lay trong thờigian đầu và bị đặt giữa hai sự lựa chọn “tồntại hay không tồn tại”. Trải qua một chặngđường dài, hoạt động báo chí của nước tanói chung đã thoát khỏi tình trạng bỡ ngỡ,khó khăn thủa ban đầu, vượt qua nhiều thửthách, có những tiến bộ và phát triển mớivề số lượng cũng như chất lượng, về nộidung và hình thức. Hoạt động báo chí đã
140
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
VÀI NéT VỀ HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ NƯỚC TA
TRONG CƠ CHế THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY
?THS Vũ THÙY DƯƠNG
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
có những đóng góp tích cực vào việc giữgìn ổn định về chính trị, thúc đẩy côngcuộc đổi mới về kinh tế và dân chủ hoá xãhội, góp phần đấu tranh chống tiêu cực,tham nhũng và các tệ nạn xã hội…
Cũng chính báo chí là lực lượng đi đầu,phản ánh một cách toàn diện đời sống kinhtế - chính trị - xã hội của đất nước và đi đếntận cùng những vấn đề nóng, bức xúc củanhân dân. Ví dụ như trên báo Tuổi trẻ đãthông tin về: Công ty Tung Kuang xả nướcthải ra sông Ghẽ, thành phố Hải Dương…Khi Nhà nước có chủ trương tăng giá điệnsinh hoạt vào tháng 3.2010, trên báo Tuổitrẻ đã liên tục xuất hiện những tin bài xoayquanh vấn đề này. Không chỉ đưa tin, Tuổitrẻ còn tìm hiểu nguyên nhân tại sao lại cóchủ trương tăng giá điện sinh hoạt, nếu giáđiện sinh hoạt tăng sẽ có tác động gì tới xãhội? ai là người thiệt thòi nhất khi điện tănggiá? Bên cạnh những bài phỏng vấn ngườiđứng đầu các cơ quan ban ngành có liênquan, báo còn đăng tải những ý kiến bứcxúc của người dân xung quanh vấn đề này.Chỉ xin nêu một tờ báo nhỏ là Tuổi trẻ,không thể nêu hết những công sức củanhiều tờ báo khác trong cả nước, đã trởthành nơi tin cậy của nhân dân, phản ánhnhững vấn đề được dân quan tâm.
Trong những năm qua, báo chí thườngxuyên đóng vai trò là kênh thông tin quantrọng, cung cấp thông tin nhiều chiều củađời sống xã hội, phản ánh được tâm tư,nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân,giúp các cơ quan lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước nắm bắt tình hình kịp thời, cụ thểđể điều chỉnh lại chính sách. Một sự việc,sự kiện được báo chí thông tin nhanh giúpcông chúng cập nhật thông tin trong nướcvà thế giới. Ví dụ: phỏng vấn, giao lưu trựctuyến về biển đảo Hoàng Sa đăng trên báođiện tử Vietnamnet tháng 4.2010 đã giúpngười đọc hình dung cuộc sống trên biểncủa các “chiến binh” (ngư dân QuảngNgãi) đang ngày đêm bất chấp hiểm nguyđể mưu sinh, là hành động dũng cảm củahọ nhằm khẳng định chủ quyền thiêngliêng của Việt Nam bằng cách cắm nhữngcột mốc chủ quyền “sống” tại vùng biểnnày. Báo điện tử Vietnamnet đã tổ chứccuộc giao lưu trực tuyến với thuyền trưởngTiêu Viết Hồng, Nguyễn Thanh Tuấn vàphóng viên Vũ Trung, tạo cầu nối trực tiếpđể độc giả thể hiện những tình cảm với ngưdân Quảng Ngãi…
Bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụđối nội, báo chí của chúng ta cũng đãthường xuyên chuyển thông tin ra nướcngoài, giúp cho nhân dân thế giới, cộngđồng người Việt Nam ở nước ngoài cóđược hiểu biết về tình hình đất nước, tranhthủ ngày càng rộng rãi sự đồng tình, ủnghộ của họ đối với công cuộc đổi mới và sựnghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của nhândân ta.
2. Những hạn chế của hoạt động báochí trong cơ chế thị trường
- Báo chí phong phú về số lượngnhưng chưa đảm bảo về chất lượng
Nếu xét về số lượng thì báo chí nước ta
141
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
đã có một bước tiến đáng kể. Điều này thểhiện nền dân chủ, quyền tự do ngôn luậnmà Hiến pháp nước ta đã cho phép. Tuyvậy, cũng giống như thông tin trên báo chí,ấn phẩm báo chí hiện nay vừa thừa lại vừathiếu. Những tờ báo nghiêm túc mà vẫnhấp dẫn người đọc không nhiều trong khinhững tờ giật gân, câu khách có xu hướnggia tăng. Các tạp chí đua nhau xuất hiệntrong làng báo nhưng lại tồn tại tình trạngnội dung các tờ na ná giống nhau mặc dùtên gọi khác nhau. Các kênh thông tin đadạng hơn nhưng chất lượng thông tinkhông nhiều tờ có sắc thái riêng. Ngườiđọc bị nhiễu thông tin còn người quản lýbáo chí rất khó xác định thông tin này đãcó ở bao nhiêu tờ báo. Số ấn phẩm báo chícàng nhiều, sự cạnh tranh chiếm lĩnh độcgiả càng khốc liệt, dễ nảy sinh cạnh tranhkhông lành mạnh. Và người chịu hậu quảchính là độc giả.
Ngày càng có nhiều tờ báo ra ấn phẩmphụ, khá nhiều những ấn phẩm này tư vấnmua sắm, thị trường giá cả, cách làm đẹpnhư: Mốt, Thời trang trẻ, Cẩm nang muasắm, Tiếp thị và gia đình, Văn hoá thôngtin, Đẹp, Thế giới phụ nữ… Hiện trạng nàythể hiện quá trình đa dạng hoá thông tincũng như sự nhạy bén trong việc đáp ứngnhu cầu độc giả. Tuy vậy, không phải tờnào ra các ấn phẩm phụ cũng đúng theo tônchỉ, mục đích, đảm bảo định hướng chínhtrị. Vì vậy, thực hiện Chỉ thị 22/ CT - TWchúng ta đã giảm 2 báo, 37 tạp chí, 15 ấnphẩm phụ. Trong đó có chuyên đề Kinh
doanh và pháp luật của Tạp chí Pháp lý,chuyên đề Tuổi trẻ sống đẹp, Tuổi trẻ hạnhphúc, Tuổi xanh của Trung ương Đoàn,chuyên đề Gia đình văn hoá - Hạnh phúc -Tình yêu của tạp chí Toàn cảnh sự kiện,chuyên đề Gia đình và trẻ em của tạp chíVì trẻ em, chuyên đề Người bảo vệ công lýcủa tạp chí Toà án nhân dân… Thêm vàođó, theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước,Bộ Văn hoá - Thông tin đã đình bản 64 bảntin ngân hàng ở 64 tỉnh, thành trong cảnước; đình bản 2 tạp chí, 2 bản tin theo đềnghị của Bộ Công an… Theo quy hoạch,từ năm 2011 tạp chí không được ra ấnphẩm phụ.
Việc tăng nhanh số ấn phẩm báo chí làmột trong những nguyên nhân khiến độingũ nhà báo hiện nay đông đảo hơn trước.Nhưng có một bộ phận nhà báo ngại “lănxả” vào cuộc sống, ngại va chạm cho nênbài viết của họ không phục vụ lợi ích chođộc giả. Vì thế báo chí tuy phản ánh đờisống đa dạng hơn, toàn diện hơn nhưng vẫnchưa thực sự đi sâu, đi sát, phản ánh đúngtâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
- Khuynh hướng thương mại hoá báochí vẫn chưa được khắc phục
Có thể nói, vấn đề nổi cộm hiện naytrong hoạt động báo chí là khuynh hướngthương mại hoá báo chí. Đây là một xuhướng có nguy cơ “lây lan” cao trong môitrường báo chí và có những biểu hiện khólường, trở thành hiểm hoạ đưa báo chíxuống cấp.
Thương mại hoá báo chí xuất phát từ
142
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
một số tờ báo tìm cách thu hút độc giả,chạy theo những thị hiếu tầm thường củamột bộ phận công chúng, cạnh tranh độcgiả, cạnh tranh về thị phần của các tờ báo.Bất cứ tờ báo nào cũng mong muốn cóđược lượng độc giả lớn. Đặc biệt trong nềnkinh tế thị trường, độc giả không chỉ là đốitượng mà báo chí cung cấp thông tin, họcòn là người nuôi sống chủ yếu các tờ báomột cách trực tiếp hay gián tiếp. Đó là lýdo hầu hết các cơ quan báo chí hiện nay đặtra phương châm: độc giả là mục tiêu sốmột. Có thể số lượng báo bán ra của cácbáo này sẽ tăng lên (đồng nghĩa với việcthu được nhiều lợi nhuận) nhưng nó khôngcó tính ổn định và không giữ được độc giảlâu dài. Nếu không có sự kiện, sự việc gìgiật gân, lạ đời, chuyện riêng của các ngôisao…thì các báo này sẽ ít người mua. Tìnhtrạng đó bắt buộc các báo phải săn tìmbằng được những câu chuyện thu hút đượcđộc giả. Vô hình chung cách thức “ăn xổi”của các tờ báo này đã dẫn đến việc vi phạmđạo đức nghề báo.
Sự chậm nhận thức của người làm báođể hoà nhập trong cơ chế thị trường lànguyên nhân dẫn đến xu hướng thương mạihoá báo chí. Ngày càng có nhiều nhà báorơi vào “mê hồn trận” của đồng tiền, quyềnlực, của lợi ích cá nhân, đi ngược đạo đứcnghề nghiệp của mình.
Về mặt nội dung, thương mại hoá biểuhiện ở xu hướng phi chính trị, phi địnhhướng trong thông tin, chỉ chú ý đến lợi íchkinh tế, hay phục vụ lợi ích cá nhân của
người làm báo và tờ báo. Điều này dẫn tớitình trạng “vừa thừa, vừa thiếu” trongthông tin báo chí. Những thông tin thiếtthực và có ích cho người dân không nhiềutrong khi những thông tin mang tính giảitrí đơn thuần, những tin tức xa xôi, vô bổlại tràn lan trên các báo. Cũng không ít tờbáo sa đà vào việc miêu tả, tường thuật cácchuyện dung tục, kỳ lạ, chuyện tình yêu,tình dục, bới móc đời tư của các ngôi sao(chuyện nghệ sĩ hài Hiệp “gà” cưới vợ lầnhai, ca sĩ Hồ Ngọc Hà mang thai...). Đặcbiệt, các vụ án giật gân, man rợ khôngnhững được tường thuật chi tiết, tỉ mỉ màcòn được đăng liên tục nhiều kỳ. Do trongthời kỳ đổi mới, lượng thông tin bùng nổnhư hiện nay, tờ báo muốn thu hút độc giảthì cách thức thông tin phải độc đáo, sắcsảo, nóng hổi. Việc tìm những thông tin ấy,đôi khi vượt quá khả năng một tờ báo nênhọ tìm cách khuyếch trương tầm quantrọng của vấn đề bằng đặt tít, dùng từ tạocảm giác mạnh… kích thích trí tò mò củacông chúng. Nhà báo bị cuốn vào đó màquên đi trách nhiệm của mình: “ viết choai”, “ viết để làm gì”, “ viết như thế nào”.Đó còn là một thực trạng tồn tại trong đờisống báo chí hiện nay.
Nghiêm trọng hơn, thương mại hoá cònlen lỏi vào mặt tổ chức hoạt động của cáccơ quan báo chí. Một số báo không thựchiện đúng tôn chỉ, mục đích của tờ báo,chạy theo kinh doanh, bán giấy phép chođầu nậu. Báo không cần ra chuyên san, phụsan vẫn xin phép ra phụ san, chuyên san,
143
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
sau đó bán giấy phép cho đầu nậu, chỉkhoán trắng một khoản thu nhất định.Những cơ quan báo chí này (mà thực chấtlà một vài cá nhân đứng đầu) đã khôngnhững coi thường pháp luật mà còn đingược lại những qui ước đạo đức. Công tácquản lý báo chí gặp nhiều khó khăn vìnhững “đầu nậu” được các cơ quan báo chínày bán lại giấy phép, ấn phẩm báo chíthường không có chuyên môn, bản sắc phatạp. Những tờ báo được làm ra dưới bàn taycủa giới đầu nậu sẽ tiềm tàng những ẩn hoạkhó lường, dễ tác động tiêu cực đến nhậnthức của xã hội
Công tác phát hành báo chí cũng chịuảnh hưởng của thương mại hoá. Để bánđược nhiều, bán nhanh, đa số các báo đềuphát hành ở những thành phố lớn, đặc biệtlà Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hoặcnhững nơi người dân có mức sống cao.Năm 1997, có tới 93% báo chí được tiêuthụ ở các thành thị. Trong khi đó, nôngthôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa là nhữngnơi luôn thiếu thốn thông tin thì số đầu báolại hiếm hoi, chỉ có 7% tổng số lượng báophát hành trong cả nước. Đến nay, tuy sốlượng báo chí cho nông thôn, vùng sâu,vùng xa đã tăng lên 20% nhưng vẫn cònquá chênh lệch so với số lượng báo chíphân bố ở thành thị (80%).
Tóm lại, “tính lợi nhuận thuần túy”chính là nguyên nhân sâu xa, cốt lõi của xuhướng thương mại hoá báo chí trong nềnkinh tế thị trường. Loại bỏ xu hướng này,trả lại sự trong sạch cho nền báo chí không
phải là việc dễ làm và có thể thực hiệntrong một thời gian ngắn. Báo chí trong cơchế thị trường muốn phát huy được thếmạnh cần có một cơ chế hợp lý, một hànhlang pháp lý cho người làm báo nhưngcũng cần có hệ thống quản lý việc thựchiện pháp luật cụ thể và nghiêm minh.
Qua hơn hai mươi năm trong cơ chế thịtrường, báo chí nước ta đã giữ vững đượctính định hướng của Đảng và sự quản lýcủa Nhà nước, thể hiện rõ là tiếng nói củaĐảng, của Nhà nước và các đoàn thể quầnchúng, đồng thời ngày càng trở thành diễnđàn của nhân dân, thoả mãn ngày càng tốthơn nhu cầu thông tin của công chúng; nộidung, chất lượng thông tin phong phú vàsinh động, tính kịp thời, hấp dẫn cũng ngàycàng được nâng lên… Những ưu điểm vàtiến bộ này càng trở nên nổi bật trong bốicảnh phức tạp với nhiều thách thức của tìnhhình thế giới và trong nước hiện nay. Bêncạnh đó, hoạt động báo chí nước ta còn bộclộ nhiều hạn chế như chất lượng chưa cao,chưa tương ứng với sự phát triển về lượngvà chủng loại; hiện tượng thương mại hoábáo chí tồn tại dai dẳng đang đe doạnghiêm trọng đến sự phát triển của nền báochí Việt Nam. Tất cả những hạn chế nàyđòi hỏi phải có những giải pháp khắc phụcđồng bộ và hữu hiệu từ phía cơ quan quảnlý báo chí cho đến chính nội bộ các tờ báo.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &Truyền thông.- 2010.- Số tháng 5.-Tr.33-36.
144
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
145
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
1. Trong xã hội ta hiện nay, làm báo là
một nghề, nhưng là một nghề đặc biệt,
mang tính chất một hoạt động chính trị –
xã hội rộng lớn và sâu sắc. Mỗi tác phẩm
báo chí, dù với thể loại nào, đều trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động đến tâm tư, tỉnh
cảm công chúng, lay động tâm hồn, góp
phần hướng dẫn dư luận xã hội, định
hướng tư tưởng, xác lập thái độ và hành vi
của mỗi người. Đặc biệt, trong bối cảnh
trong nước và thế giới đang thay đổi nhanh
chóng, khó lường, thời cơ và thứch thức
đan xen; cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ có những bước phảt triển đột phá với
sự bùng nổ và hội tụ của công nghệ thông
tin, để thích ứng với thời cuộc, tiếp tục
được xã hội thừa nhận và tôn vinh, báo chí
nói chung, người làm báo nói riêng cần nêu
cao trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề
nghiệp.
phần iiivAi tRò CỦA báo Chí
tRong Đời sỐng XÃ hỘi--------
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ NGHĨA VỤCôNG DâN CỦA NHÀ BÁO
?GS, TS DƯƠNG XUÂN NGỌC
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Năm nay, báo giới nước nhà cùng nhân dân cả nước kỷ niệm 87 năm ngày báo chícách mạng Việt Nam (21-6-1925- 21-6-2012). Kỷ niệm ngày truyền thống báo chí cáchmạng, cũng là dịp để báo giới cả nước ngẫm suy về trách nhiệm xã hội của nhà báo,về sự gắn bó chặt chẽ giữa báo chí với công chúng; là dịp để cấp uỷ Đảng, chínhquyền các cấp nêu cao trách nhiệm, tạo điều kiện tốt hơn cho báo chí hoạt động vì lợiích của cộng đồng, xã hội…
146
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Ở nước ta, tới nay có trên 720 cơ quan
báo chí với trên 800 ấn phẩm, kênh sóng,
chương trình; trên 470 tạp chí; 2 đài phát
thanh, truyền hình quốc gia, 1 đài truyền
hình ngành và 63 đài phát thanh truyền
hình tỉnh, thành phố với trên 16.000 nhà
báo chuyên nghiệp. Với lực lượng hùng
hậu này, báo chí nước ta - tiếng nói của
Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã
hội và là diễn đàn của nhân dân, thực sự
đóng vai trò ngày càng to lớn đối với sự
nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đã
trải qua chặng đường hơn 25 năm, như
Đảng ta đã khẳng định, đã thu được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng: Chúng
ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những
tác động tiêu cực của hai cuộc khủng
hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn
cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất
quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang
phát triển có thu nhập trung bình... Diện
mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế
và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều;
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan
trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện
đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân(1). Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu, vẫn còn nhiều hạn chế,
bất cập: mặt trái của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng bộc
lộ và tác động tiêu cực vào mọi mặt của đời
sống xã hội; tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ
hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận
cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng;
hiện tượng "thương mại hoá" phát triển
tràn lan kể cả ở các lĩnh vực xã hội, giáo
dục, văn hoá và báo chí. Đối với lĩnh vực
báo chí còn một số báo chưa làm tốt chức
năng tư tưởng - văn hóa còn chạy theo lợi
nhuận đơn thuần và thị hiếu tầm thường
của một số ít công chúng; nặng về thông
tin những mặt tiêu cực, mặt trái của xã hội
và những thông tin giật gân, câu khách,
thiếu tính giáo dục, định hướng tư tưởng và
hành động. Một số ít người làm báo động
cơ không trong sáng, thiếu thái độ xây
dựng và trách nhiệm với xã hội. Cá biệt còn
có trường hợp lợi dụng chống tiêu cực để
làm việc tiêu cực, tiếp tay cho tiêu cực,
tham nhũng, buôn lậu. “Một số cơ quan
báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm
tốt chức năng tư tưởng, văn hoá, có biểu
hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lí của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích,
thông tin không trung thực, thiếu chính
xác, phản ánh nhiều về tiêu cực và tệ nạn
xã hội, ít tuyên truyền các điển hình tiên
tiến, gương người tốt, việc tốt, cổ vũ phong
trào thi đua yêu nước; khuynh hướng tư
nhân hoá, thương mại hoá báo chí, tư nhân
núp bóng để ra báo, kinh doanh báo chí
ngày càng tăng”(2). Trước tình hình như
vậy, báo chí và mỗi người làm báo cần làm
gì và làm như thế nào để góp phần cùng
toàn Đảng, toàn dân giữ vững ổn định
chính trị, tiếp tục đổi mới và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh? Điều đó chỉ có thể
trả lời một cách rõ ràng và dứt khoát là:
phải nâng cao trách nhiệm xã hội của báo
chí Việt Nam nói chung, trách nhiệm xã hội
và nghĩa vụ công dân của nhà báo nói riêng.
2. Từ năm 1983, Tổ chức quốc tế các
nhà báo (IOJ) đã nêu lên mười nguyên tắc
quốc tế của đạo đức nghề nghiệp làm báo
chuyên nghiệp mà bất kỳ tổ chức và nhà
báo chuyên nghiệp nào cũng phải tuân
theo(3), trong đó trách nhiệm xã hội của
nhà báo được đặc biệt nhấn mạnh: 1)
Quyền của con người được biết thông tin
thực sự; 2) Thái độ tận tâm của nhà báo đối
với sự thực khách quan; 3) Trách nhiệm xã
hội của nhà báo; 4) Tính liêm chính nghề
nghiệp của nhà báo; 5) Sự tiếp cận và tham
gia của công chúng; 6) Tôn trọng sự riêng
tư và phẩm giá con người; 7) Tôn trọng lợi
ích công: cộng đồng các dân tộc, các thể
chế dân chủ và nhân cách công chúng; 8)
Tôn trọng những giá trị toàn cầu và sự đa
dạng của các nền văn hoá; 9) Loại trừ chiến
tranh và những tai họa lớn khác mà nhân
loại đang phải đối mặt; 10) Phát triển thông
tin thế giới mới và nội quy truyền thông.
Mặc dù cho tới nay còn có ý kiến khác
nhau về khái niệm trách nhiệm xã hội, song
giữa những điểm khác biệt vẫn có điểm
tương đồng, thống nhất khi quan niệm
rằng: trách nhiệm xã hội là một hệ chuẩn
mực giá trị về đạo đức, theo đó, một thực
thể, có thể là một tổ chức hoặc cá nhân có
nghĩa vụ phải hành động để mang lại lợi
ích cộng đồng, xã hội.
Từ đó có thể hiểu rằng, khi nói trách
nhiệm xã hội của báo chí là nói đến hiệu
quả xã hội của hoạt động báo chí nói
chung, còn khi nói đến trách nhiệm xã hội
của nhà báo là chủ yếu nói về phẩm chất
và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Với
chức năng cung cấp thông tin, báo chí, nhà
báo có trách nhiệm đem đến cho công
chúng những thông tin nhanh chóng, chân
thực và chính xác như bản chất vốn có của
nó. Thông tin báo chí không chỉ góp phần
định hướng dư luận xã hội mà còn tác động
trực tiếp, sâu sắc đến quyền lợi kinh tế,
chính trị và nhân phẩm của cá nhân, tập thể
hoặc cộng đồng. Hơn thế nữa, tác phẩm
báo chí, tiếng nói của nhà báo còn có giá
trị như một căn cứ pháp lý đồng thời là
tiếng nói phản biện xã hội.
Bởi thế, người làm báo phải nêu cao
trách nhiệm xã hội, nêu cao phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp, không được cẩu thả trong
khai thác, xử lý và cung cấp thông tin, càng
không cho phép việc cung cấp thông tin sai
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
147
sự thật. Điều này quả thật không dễ chút
nào, thậm chí còn vô cùng gian khó, không
ít rủi ro, nguy hiểm, nhưng cũng thật hứng
thú của nghề báo thời nay.
Trách nhiệm xã hội của báo chí đòi hỏi
nhà báo phải không ngừng trui rèn phẩm
chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng
lực nghiệp vụ và phải nêu cao ý thức công
dân, chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và
pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp.
Một khi gương mẫu và thực hiện tốt nghĩa
vụ công dân thì cũng có nghĩa là nhà báo
đã làm tốt trách nhiệm xã hội của mình.
Mặt khác, một khi thực hiện tốt trách
nhiệm xã hội thì cũng có nghĩa là nhà báo
đã tôn trọng và thực hiện tốt nghĩa vụ công
dân. Hơn nữa, để hoàn thành tốt nghĩa vụ
công dân và trách nhiệm xã hội đòi hỏi nhà
báo phải ra sức học tập, rèn luyện để không
ngững nâng cao năng lực và phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp, đồng thời phải am hiểu
và thực hiện tốt hiến pháp và pháp luật
trong hoạt động nghề nghiệp của mình.
3. Để nêu cao trách nhiệm xã hội và
nghĩa vụ công dân của nhà báo trong thời
kỳ phát triển mới của đất nước đòi hỏi nhà
báo phải hội đủ các phẩm chất cơ bản sau:
Một là, nhà báo phải có tư duy mới, giỏi
về chuyên môn, tinh thông về nghề nghiệp.
Ông cha ta đã dạy “Nhất nghệ tinh, nhất
thân vinh”; “một nghề cho chín hơn chín,
mười nghề”. Những lời chỉ dạy đó vẫn giữ
nguyên giá trị trong thời đại toàn cầu hoá.
Tư duy, tầm nhìn toàn cầu và sự tinh thông
nghề nghiệp vẫn sẽ là phẩm chất của công
dân toàn cầu.
Thực tế trong bổi cảnh toàn cầu hoá, sự
cạnh tranh nghề nghiệp sẽ diễn ra ngày
càng gay gắt và quyết liệt hơn, đặc biệt
trong lĩnh vực hoạt động báo chí, truyền
thông. Bởi vậy, trách nhiệm xã hội của nhà
báo, trước hết phải được thể hiện ở nhận
thức mới, tư duy mới phản ánh sự am
tường, tinh thông về nghề nghiệp. Có như
vậy nhà báo mới vững vàng về “bút pháp’
khi tác nghiệp.
Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, khi
mà các loại hình báo chí đang có xu hướng
đan xen, lồng ghép vào nhau, thì sự tinh
thông nghề nghiệp không chỉ được thể hiện
ở chỗ, nhà báo phải “giỏi ” về chuyên môn,
nghiệp vụ, năng động, sáng tạo trong việc
“săn” tin, tạo nguồn tin, nuôi tin, phát triển
tin, mà hơn nữa, phải “thuần thục”, “sáng
tạo” thao tác các công cụ truyền thông đa
phương tiện trong hoạt động nghiệp vụ để
xây dựng những tác phẩm báo chí có chất
lượng, giá trị cao đáp ứng nhu cầu phong
phú đa dạng của công chúng thời mở cửa,
hội nhập.
Hai là, nhà báo phải là người nắm vững
pháp luật và gương mẫu tác nghiệp theo
pháp luật.
Công cuộc đổi mới trong 25 qua đã thu
nhiều thành tựu to lớn, trong đó, đặc biệt
quan trọng là đã tạo ra được những tiền đề,
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
148
điều kiện và môi trường văn hoá chính trị
cho việc giải phóng những tiềm năng sáng
tạo của mỗi người, trong đó có các nhà báo.
Một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân
ngày càng được xác lập, củng cố và tảng
cường; quyền dân chủ của nhân dân ngày
càng được đề cao và phát huy. Thực tế này
cho phép và đòi hỏi rất cao người làm báo
phải nắm vững pháp luật và gương mẫu tác
nghiệp trong khuôn khổ pháp luật.
Thời gian qua đã có những trường hợp
đáng tiếc xảy ra, có trường hợp nhà báo
thành tâm, đam mê với nghề nghiệp, song
đã vướng phải “vòng lao lý”, thậm chí có
nhà báo phải chấm dứt nghề báo mà suốt
đời muốn theo đuổi không phải do năng lực
kém, cũng không phải do phẩm chất đạo
đức kém, mà do chính sự kém hiểu biết về
pháp luật dẫn đến việc vi phạm pháp luật
trong hoạt động nghiệp nghiệp. Đã đến lúc,
cần cảnh báo: nhà báo ngoài phẩm chất
"mắt sáng, lòng trong, tinh thông nghề
nghiệp", cần phải hiểu biết sâu về pháp
luật, trước hết là Luật Báo chí để định
hướng cho hoạt động nghề nghiệp của
minh, tránh mắc phải những sai lầm không
đáng có những “rủi ro” nghề nghiệp.
Ba là, nhà báo phải có bản lĩnh trong
thực hành tôn chỉ, mục tiêu của mỗi tờ báo
và trong xử lý những tình huống có vấn đề.
Trách nhiệm xã hội cũng đòi hỏi nhà báo
phải có bản lĩnh để phân biệt cái gì đúng
để ủng hộ, cái gì sai để chống lại.Bản lĩnh
trong thực hành tôn chỉ mục tiêu của tờ báo
cũng chính là trách nhiệm xã hội của nhà
báo. Đặc biệt, trước những tình huống có
vấn đề hay đấu tranh chống tiêu cực, chống
tham nhũng, các nhà báo (nhất là các nhà
báo thực hiện phóng sự điều tra) thường bị
nhiều áp lực và bị các thế lực chống đối
bằng mọi thủ đoạn “vây ép” từ mọi hướng.
Làm báo thời nay, nhà báo thường phải đối
mặt với sự thật là: ranh giới giữa cái đúng
và cái sai hết sức mong manh, có khi thay
đổi hôm nay là sai nhưng ngày mai lại
đúng hoặc hiện tại là đúng nhưng thời gian
sau lại sai... Nghiệt ngã hơn là, trong quá
trình làm rõ đúng sai, nhà báo thường vấp
phải sự chống trả, sự phản công quyết liệt
từ các thế lực xấu muốn che giấu, bảo vệ
cái sai, cái xấu. Bằng những thủ đoạn xảo
quyệt, tinh vi: gây áp lực “từ bên trên”,
hăm dọa, “khủng bố bằng tin nhắn”, thậm
chí bằng tiền, tài, cho ăn chơi sa đọa để đưa
những nhà báo thiếu bản lĩnh “sập bẫy” với
vô số những tài liệu, chứng cứ, lời lẽ xấu
xa. Trong trường hợp như thế đã không
hiếm những bài báo, những ngòi bút bị “bẻ
cong, lương tâm, đạo đức nhà báo bị hoen
ố... Trước những cái xấu, cái ác, trước
những hiện tượng tiêu cực, mới cần bản
lĩnh và sự dũng cảm đấu tranh của các nhà
báo để góp phần củng cố niềm tin của nhân
dân với Đảng, chính quyền và chế độ. Làm
được như vậy, báo chí mới thật sự là kênh
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
149
thông tin quan trọng trong quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành của các
cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp.Bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức
nghề nghiệp trong sáng và năng lực nghềnghiệp của nhà báo sẽ quyết định việc giảiquyết mối quan hệ giữa việc cung cấpthông tin nhanh chóng, chính xác với việcbảo đảm đúng định hướng chính trị. Sựnhạy bén chính trị sẽ giúp cho nhà báo pháthiện và nắm bắt được bản chất của vấn đề,tìm kiếm hình thức phản ánh phù hợp vàchọn thời điểm thích hợp để công bố thôngtin bảo đảm hiệu quả nhất mà vẫn giữ vữngổn định chính trị- xã hội, không làm lộ bímật quốc gia, không gây hoang mang trongdư luận.
Muốn đáp ứng được yêu cầu đó, nhàbáo cần phải có năng lực, có bản lĩnh chínhtrị vững vàng và đạo đức nghề nghiệp trongsáng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cánbộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng. Câybút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Đểlàm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cánbộ báo chí cần tu dưỡng đạo đức cáchmạng”(4). Hơn nữa, đã là nhà báo chuyênnghiệp, không bao giờ được quên lời dạycủa Nhà báo Hồ Chí Minh: “Trước khi viếtphải tự đặt câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làmgì? Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu,ngắn gọn dễ đọc?”(5).
Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất, sâusắc nhất trách nhiệm xã hội và nghĩa vụcông dân cao cả của nhà báo.
Bốn là, nhà báo phải là một công dânkiểu mẫu, trung thực, sáng tạo và tinh tếtrong hoạt động tác nghiệp.
Trong xã hội văn minh, nhà báo, cũngnhư mọi công dân, muốn thực hành tốtchức năng của mình, trước hết phải là mộtcông dân tốt. Đó là con người có tinh thầnyêu nước, tự hào dân tộc, phấn đấu vì độclập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chívươn lên đưa đất nước phát triển sánh vaicùng các dân tộc tiến bộ trên thế giới; có ýthức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi íchchung.; có lối sống lành mạnh, nếp sốngvǎn minh, cần kiệm, trung thực, nhânnghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quyước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cảithiện môi trường sinh thái; lao động chǎmchỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật,sáng tạo, nǎng suất cao vì lợi ích của bảnthân, gia đình, tập thể và xã hội...Hơn thếnữa, với một nghề đặc thù, để xây dựngmột tác phẩm báo chí có chất lượng và cógiá trị cao, một công trình khoa học có ýnghĩa, đòi hỏi nhà báo phải là một côngdân kiểu mẫu, trung thực, sáng tạo và tinhtế, khôn khéo trong hoạt động tác nghiệp.Trong hoạt động nghiệp vụ, nhà báo phảigiỏi và thành thạo kỹ năng tác nghiệp từkhâu xác định ý tưởng, đến khâu thu thậpthông tin, xử lý thông tin, xây dựng “kịchbản” cho tác phẩm báo chí và cuối cùng làbồi đắp cho tác phẩm báo chí đạt được cáctiêu chí của một tác phẩm báo chí hay, hấpdẫn, có tính định hướng xã hội. Làm báovừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Nhà
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
150
báo, do đó, cũng cần phẩm chất của nhàkhoa học và hoạt động nghề nghiệp phảiđạt trình độ nghệ thuật. Đương thời, HồChí Minh dạy những người làm công tácdân vận: “Dân vận khéo thì việc gì cũngthành công”. Trong hoạt động tác nghiệp,nhất là khâu tìm tin, để có được tin đáp ứngyêu cầu của tác phẩm báo chí, nhà báocũng phải biết dân vận, phải giỏi về chuyênmôn, nghiệp vụ và phải tinh tế, “khônkhéo” trong hành sử...r
....................(1) ĐCSVN: Văn kiện Đai hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr…
(2) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.37.
(3) Tổ chức quốc tế các nhà báo (IOJ) được thành
lập ngày 09-6-1946 tại Copenhagen, Đan Mạch.
Nguyên tắc quốc tế của đạo đức nghề làm báo đã được
soạn thảo trong các cuộc họp tư vấn của tổ chức quốc
tế và khu vực các nhà báo chuyên nghiệp từ năm 1978
đến năm 1983 với sự tham dự của Tổ chức quốc tế các
nhà báo (IOJ), Liên đoàn các nhà báo quốc tế (IFJ),
Hiệp hội Công giáo báo chí quốc tế (UCIP), Liên đoàn
các nhà báo châu Mỹ Latinh (FELAP), Liên đoàn báo
chí người lao động châu Mỹ Latinh (FELATRAP), Hiệp
hội các nhà báo châu Phi (UJA), Liên minh các nhà báo
các nước Đông Nam Á (CAJ).
(4),(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb CTQG, Hà
Nội, 2002, tr. 616, 615.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị.-2012.- Số 6.- Tr. 3 – 7.
NâNG CAO VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ...(Tiếp theo trang 162)
Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nayđang đặt ra cho những người làm báo tráchnhiệm to lớn, nặng nề. Để hoàn thành tốtnhiệm vụ của mình, báo chí nước ta phảiphát triển mạnh mẽ hơn nữa về cả lựclượng, trình độ kĩ thuật - công nghệ, quymô, uy tín xã hội. Trước mắt, báo chí nướcta phải nỗ lực cùng đất nước vượt quanhững khó khăn, kịp thời phản ánh sinhđộng tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa,xã hội trong và ngoài nước, góp phần thựchiện thắng lợi đường lối phát triển đất nướccủa Đảng, đưa nước ta phát triển nhanh vàbền vững. Trong giai đoạn phát triển mới,những người làm báo vẫn phải luôn học tậpvà làm theo tấm gương đạo đức Hồ ChíMinh, mà cụ thể là tấm gương và đạo đứcnghề nghiệp của nhà báo vĩ đại Hồ Chí
Minh. Học tập và làm theo tư tưởng củaNgười là phải không ngừng và nỗ lực phấnđấu nâng cao tính tư tưởng, trình độ, tínhchuyên nghiệp trong hoạt động báo chí. Đólà một yêu cầu khách quan của báo chí hiệnđại, đồng thời cũng là bài học sâu sắc từ thựctiễn báo chí nước ta trong thời gian quan
…………….(1) ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb CTQG, HN.2007,
tr.35-36.
(2) ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb CTQG, HN.2006, tr.107.
(3) ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb CTQG, HN.2007,
tr.49.
Nguồn: Tạp chí Khoa học chính trị.-2010.- Số 3.- Tr.65-71.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
151
Thông tin – truyền thông không tạo
ra những vụ nổ thật trên chiến
trường nhưng những “vụ nổ” nó
tạo ra trong dư luận, trong tâm thức mọi
người hoàn toàn có thể thay đổi cả thế giới.
Ở Việt Nam, từ buổi đầu cách mạng giải
phóng các dân tộc, báo chí đã được lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và các học trò của Người
sử dụng như một vũ khí sắc bén chống lại
chế độ cai trị thực dân đế quốc.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, báo
chí – truyền thông cũng là lực lượng đi đầu,
nêu gương cổ vũ cái tốt, đấu tranh bài trừ
cái xấu.
Khi tổ quốc lâm nguy, báo chí – truyền
thông gióng lên hồi chuông cảnh báo, nêu
những tư liệu chứng minh, truyền những
thông điệp kêu gọi và giương cao ngọn cờ
chính nghĩa.
Từ ngày 2-5-2014 đến nay, Biển Đông
lại dậy sóng vì những hành động ngang
ngược của Trung Quốc hạ đặt trái phép
giàn khoan Hải Dương – 981 trên vùng
biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Báo
chí – truyền thông Việt Nam lại một lần
nữa đi tiên phong trong cuộc đấu tranh bảo
vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc. Chủ đề “Đấu tranh, đẩy đuổi giàn
khoan 981” luôn thường trực trên các trang
nhất báo giấy, trên “top” các báo mạng,
trên “giờ vàng” các kênh truyền hình trong
những ngày qua… Các tầng lớp nhân dân
cũng dõi theo từng diễn biến nhỏ của sự
biến (cả trên biển và đất liền) được báo chí
– truyền thông phản ánh. Câu chuyện Biển
Đông cũng đã được đưa lên nhiều diễn đàn
(cả ảo và thật), thu hút được sự quan tâm
rộng lớn trong xã hội.
Chưa có số thống kê đầy đủ về số lượng
các bài viết, bài nói, trả lời phỏng vấn về
sự gây hấn của Trung Quốc trên các báo,
đài đã phát trong thời gian qua, nhưng có
thể thấy nổi lên những nét lớn sau:
Bám sát diễn biến, kịp thời phản ánh
Yếu tố quan trọng nhất để làm nên chiến
thắng trong lĩnh vực thông tin chính là tốc
độ - sự kịp thời. Trong sự kiện giàn khoan
Hải Dương – 981, các phương tiện truyền
thông đã kịp thời bám sát các diễn biến mới
nhất để đưa thông tin đến với độc - khán –
báo Chí MỘt “binh ChỦng” QuAn tRỌng
tRong sỰ nghiệp bẢo vệ ChỦ QuYền hiện nAY
?TS NGÔ VƯƠNG ANH
Báo Nhân dân
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
152
thính giả. Để có được điều đó đã có sự
“hợp đồng binh chủng” chặt chẽ và nhịp
nhàng giữa báo chí – truyền thông và các
cơ quan hữu trách (Bộ ngoại giao, Tổng
cục Cảnh sát biển, Tổng cục nghề cá...).
Các phóng viên của nhiều báo, đài trong
nước, phóng viên của người Việt ở nước
ngoài và nhiều phóng viên quốc tế đã được
tạo điều kiện đi theo tàu của các lực lượng
chấp pháp trên biển của Việt Nam để trực
tiếp chứng kiến và phản ánh sự việc.
Những hình ảnh, bài viết sống động từ
chân giàn khoan trái phép đã có sức thuyết
phục công luận về sự ngang ngược của
Trung Quốc. Điều đó cũng đưa ra lời cảnh
báo với những nước láng giềng có quyền
lợi liên quan trực tiếp và cho cả thế giới về
những nguy cơ tiềm ẩn về một lối ứng xử
thô bạo, bất chấp luật pháp quốc tế của
những kẻ vẫn đang lòe bịp thế giới về thiện
chí của mình.
Công bố nhiều tư liệu lịch sử quan trọng
Đây cũng là lĩnh vực được nhiều báo,
đài chú trọng để nêu bật những căn cứ lịch
sử và pháp lý về chủ quyền không thể tranh
cãi của Việt Nam đang bị Trung Quốc cố
tình biến thành “vùng tranh chấp”. Các
báo, đài khi tìm và công bố hệ thống tư liệu
phong phú về chủ quyền biển đảo của Việt
Nam đã chứng minh những sự: Đầu tiên –
Lâu dài – Liên tục – Xác thực và Đúng
công pháp quốc tế trong việc thực thi chủ
quyền của Việt Nam. Đây là những căn cứ
để chúng ta nêu cao chính nghĩa và phản
bác những luận điểm phi lý nhằm “tung
hỏa mù” cho dư luận của những kẻ bồi bút.
Kho tư liệu được các phương tiện thông
tin – truyền thông công bố không chỉ nằm
ở Việt Nam mà còn ở nhiều cơ quan lưu trữ
tại các quốc gia trên thế giới cũng thừa
nhận về nhiều mặt qua thời gian lâu dài của
quốc tế với những vấn đề thuộc chủ quyền
biển đảo Việt Nam. Gần đây nhất (ngày 13-
5, tại Hà Nội) là việc công bố tập Atlas của
nhà địa lý nổi danh Phillipppe Vandermae-
len xuất bản năm 1827 ở Hà Lan càng làm
dày thêm cơ sở lịch sử và pháp lý về chủ
quyền của Việt Nam đối với quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và cả trên Biển
Đông.
Bình luận kịp thời và sâu sắc
Trong khi sự việc hạ đặt giàn khoan trái
phép còn đang diễn tiến, nhiều báo, đài đã
kịp thời đăng tải ý kiến của các chuyên gia,
những nhà nghiên cứu có tên tuổi và đã có
quá trình theo dõi tình hình địa - chính trị -
kinh tế khu vực Đông Nam Á và Châu Á
lâu năm cả trong và ngoài nước. Nhiều ý
kiến sắc sảo chứng tỏ tầm nhìn và logic
chặt chẽ của những chuyên gia hàng đầu về
Việt Nam trên thế giới đã cho công luận cái
nhìn toàn diện hơn về những biến động gần
nhất ở Biển Đông và mưu đồ lâu dài của
nhà cầm quyền Trung Quốc. Những bình
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
153
luận này có tính định hướng quan trọng với
dư luận thế giới nói chung và trong nước
nói riêng, góp phần tham khảo cho những
ứng xử ở tầm vĩ mô cũng như với mỗi cá
nhân.
Nêu những thông điệp hòa bình, đoàn
kết, tránh kích động
Trong lúc tình hình đang diễn biến căng
thẳng, đã có những sự kích động, lợi dụng
sự kiện giàn khoan Hải Dương - 981 hạ đặt
trái phép trên vùng biển Việt Nam để gây
rối trên đất liền, chống phá sự nghiệp xây
dựng đất nước trong hòa bình của chúng ta.
Việc thể hiện lòng yêu nước là rất đáng
quý, nhưng những hành động lợi dụng lòng
yêu nước để kích động gây rối là điều cần
nhìn nhận rõ ràng và loại trừ. Các phương
tiện thông tin – truyền thông đã làm tốt
công tác này, góp sức cùng với các cơ quan
thực thi pháp luật ổn định tình hình. Dù
rằng “kẻ thù buộc ta ôm cây súng” như một
lời bài hát cách đây 35 năm nhưng khát
vọng hòa bình, ổn định và phát triển của
nhân dân Việt Nam không hề thay đổi.
Những tiếng nói của nhân dân đồng lòng
với Chính phủ bảo vệ chủ quyền đất nước
đã được các phương tiện thông tin – truyền
thông nêu khá đậm trong thời gian qua
càng làm sáng rõ điều đó.
Qua việc tuyên truyền đa diện, với tần
suất và dung lượng lớn về chủ quyền biển
đảo của Việt Nam, các báo, đài cùng góp
phần đoàn kết dân tộc, tăng sức mạnh để
bảo vệ chủ quyền. Đặc biệt, các báo, đài
của người Việt ở nước ngoài, sau chuyến
đi thực tế trên quần đảo Trường Sa được
Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài tổ
chức từ ngày 19 đến ngày 27-4-2014, đã có
nhiều bài nhấn mạnh tinh thần đoàn kết,
hòa hợp dân tộc để chung tay bảo vệ Tổ
quốc thiêng liêng.
Nền báo chí, thông tin – truyền thông
không xa rời mục tiêu phục vụ đất nước,
phục vụ nhân dân. Với “ đề tài nóng” hôm
nay là cuộc đấu tranh để bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển đảo, báo chí – truyền thông
đang không ngừng góp sức. Con đường
đấu tranh của chúng ta chưa thể kết thúc
mà còn kéo dài do những mưu đồ đen tối
của nhà cầm quyền Trung Quốc. Cuộc đấu
tranh chính nghĩa của chúng ta vẫn đang
tiếp tục và báo chí – truyền thông vẫn cập
nhật tình hình từng giờ. Việc tuyên truyền
nêu cao chính nghĩa của chúng ta đòi hỏi
cả nền báo chí – truyền thông đến từng
phóng viên kiên trì, tỉnh táo và cương
quyết. Những “điểm nhấn” thành công đã
có trong thời gian qua cần được làm đậm
thêm, mở rộng hơnr
Nguồn: Tạp chí Nhịp cầu tri thức.-
2014.- Số 6.- Tr. 4 – 6.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
154
Cách đây 85 năm (21/06/1925-
21/06/2010), báo Thanh niên do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã
ra số đầu tiên, trở thành ngọn cờ tiên
phong, khởi đầu cho lịch sử phát triển hào
hùng và vẻ vang của nền báo chí cách
mạng Việt Nam.
Từ đó cho đến nay, báo chí cách mạng
đã song hành cùng những bước tiến của sự
nghiệp cách mạng, góp phần quan trọng
vào công cuộc đấu tranh giành, giữ và xây
dựng đất nước. Kể từ khi đất nước tiến
hành công cuộc đổi mới toàn diện, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, mở cửa hội nhập quốc tế, báo chí
cách mạng Việt Nam đã không ngừng lớn
mạnh cả về chất và lượng (hiện cả nước có
706 cơ quan báo chí, gồm 4 loại hình: báo
in, báo hình, báo nói và báo điện tử), đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin
của nhân dân, giữ vững vai trò là cầu nối
giữa Đảng và nhân dân.
1.Vai trò của báo chí trong xã hội hiện đại
Báo chí là một hiện tượng xã hội đặc
biệt, một biểu trưng của văn hóa. Cùng với
tiến trình lịch sử phát triển của xã hội loài
người, báo chí đã nhanh chóng khẳng định
vai trò to lớn của mình đối với đời sống xã
hội. Sự phát triển ngày càng cao của xã hội
loài người đã kéo theo sự phát triển của báo
chí và ngược lại, báo chí phát triển đã góp
phần thúc đẩy xã hội loài người tiến lên. Vì
vậy, có thể khẳng định, khả năng hưởng thụ
báo chí là một chỉ số quan trọng của xã hội
văn minh.
Trong thời đại ngày nay (toàn cầu hóa
và bùng nổ thông tin), việc xây dựng một
nền báo chí phát triển, đáp ứng nhu cầu của
công chúng, đóng góp xứng đáng vào sự
nghiệp phát triển đất nước là một điều kiện
quan trọng để mỗi quốc gia - dân tộc hội
nhập và phát triển.
Trong xã hội hiện đại, vai trò của báo
chí được biểu hiện:
- Trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng: Báo
chí luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng,
là lực lượng xung kích trên mặt trận này.
Bất kỳ một lực lượng cầm quyền nào trong
NâNG CAO VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
TRONG CôNG CUỘC ĐỔI MỚI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
?THS TRầN HÙNG PHI
Học viện Chính trị-Hành chính khu vực II
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
155
các quốc gia trên thế giới đều sử dụng báo
chí như một công cụ để tuyên truyền, tác
động vào tư tưởng, tình cảm của công
chúng nhằm tạo ra ở họ những nhận thức
mới, những định hướng có giá trị cho cuộc
sống. Vai trò của báo chí trên lĩnh vực
chính trị - tư tưởng là hướng dẫn nhận thức
và hành động cho công chúng. Bên cạnh
đó, báo chí còn là công cụ tham gia quản lí
xã hội, giám sát quần chúng, phản ánh tâm
tư nguyện vọng của quần chúng đối với lực
lượng cầm quyền...
Vì vậy, trong xã hội hiện đại, lực lượng
nào nắm được các phương tiện thông tin
đại chúng thì có thể hướng mọi người đi
theo đường hướng do chính họ đặt ra, có
nghĩa là dùng các phương tiện thông tin đại
chúng để liên tục phát đi những thông điệp
nhằm giáo dục ý thức, tư tưởng, thuyết phục
quần chúng làm theo ý muốn của mình.
- Trên lĩnh vực kinh tế: Xã hội hiện đại
gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thị trường mà ở đó các quan hệ kinh
tế liên tục diễn ra. Trong nền kinh tế thị
trường, thông tin mà có thể là thông tin về
kinh tế chính xác, kịp thời là sức mạnh tạo
nên thắng lợi trong cạnh tranh.
Với khả năng phản ánh rộng khắp, đa
chiều, nhanh chóng, báo chí cung cấp cho
bạn đọc các thông tin kinh tế như: thông tin
thị trường, hàng hóa (bao gồm thông tin giá
cả, sức tiêu thụ, thị hiếu và xu hướng biến
đổi thị hiếu tiêu dùng…); thông tin thị
trường tài chính - tiền tệ (vốn, giá cả, cổ
phiếu, sự vận động của các dòng tài chính);
thị trường lao động, vật tư thiết bị, đặc biệt
là thị trường công nghệ (công nghệ mới, sự
chuyển giao công nghệ)... Báo chí không
chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin
thuần túy mà còn có thể hướng dẫn thị
trường, hướng dẫn việc áp dụng khoa học
- kĩ thuật và công nghệ mới, giới thiệu
những mô hình, điển hình tiên tiến trong
sản xuất kinh doanh, phổ biến những kinh
nghiệm thành công hay thất bại trong quản
lí, kinh doanh và áp dụng công nghệ mới,
tiết kiệm chi phí trong sản xuất…
Như vậy, với hoạt động thông tin kinh
tế đa chiều, nhanh nhạy, báo chí góp phần
tạo nên hiệu quả kinh tế to lớn cho xã hội.
- Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Vai trò của
báo chí thể hiện trên những mặt cơ bản sau:
+ Báo chí làm giàu, làm đẹp cho vốn
ngôn ngữ, báo chí vừa là nơi giữ gìn vừa là
nơi sáng tạo ra nhiều từ mới, thuật ngữ mới
cả trong cách viết và trong cách thể hiện,
trong việc chuẩn hóa ngôn ngữ nói và viết;
+ Báo chí đăng tải các tác phẩm văn học
nghệ thuật khoa học, âm nhạc và các lĩnh
vực khác;
+ Báo chí góp phần quan trọng trong
việc nâng cao dân trí. Thông qua báo chí,
công chúng có thể tiếp nhận được nhiều tri thức
ở những lĩnh vực khác nhau của nhân loại;
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
156
+ Báo chí góp phần nâng cao đời sống
văn hóa, giải trí, làm cho mọi người ngày
càng hiểu nhau, xích lại gần nhau hơn, chia
sẻ tâm tư, tình cảm, đồng thời cùng học tập,
tiếp thu được nền văn hóa đa dạng của các
dân tộc trên thế giới;
+ Báo chí có vai trò to lớn đối với việc
hình thành và phát triển lối sống trong xã hội,
bởi vì thông tin trên báo chí có sức tác động
rất mạnh và nhanh, phạm vi tác động rộng.
2. Báo chí cách mạng với công cuộc
đổi mới của đất nước
Sau gần 25 năm thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện của Đảng, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế của nước ta trong thời
gian qua luôn duy trì ở mức độ cao; ngay
cả trong thời kì kinh tế thế giới suy thoái,
nền kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng dương.
Đất nước sau gần một phần tư thế kỉ đổi
mới đã có những chuyển biến mạnh mẽ;
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
đã được nâng lên rõ rệt; vị thế của đất nước
trên trường quốc tế ngày càng được nâng
cao. Trong tất cả những thành tựu đã đạt
được đó có sự đóng góp không nhỏ của báo
chí cách mạng.
Trong những năm qua, báo chí nước ta
tiếp tục phát huy vai trò to lớn trong việc
tuyên truyền, cổ động, đã bám sát nhiệm
vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, tập
trung tuyên truyền nâng cao nhận thức của
các tầng lớp nhân dân về các nghị quyết,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước trong giai
đoạn mới, góp phần phục vụ nhiệm vụ
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống tinh thần cho nhân dân.
Các cơ quan báo chí đã kịp thời phản
ánh sâu rộng những thành tựu kinh tế - xã
hội của đất nước, tập trung tuyên truyền về
tình hình sản xuất - kinh doanh, giới thiệu
những điển hình tiên tiến, gương người tốt,
việc tốt. Đồng thời, phản ánh những khó
khăn, vướng mắc mà người sản xuất - kinh
doanh gặp phải do tác động của thời tiết,
giá cả thị trường lên xuống, tác động của
tình hình kinh tế trong và ngoài nước, của
cơ chế, chính sách…; Tuyên truyền, cổ vũ
các hoạt động văn hóa, phong trào xây
dựng đời sống văn hóa mới, định hướng lối
sống mới, phê phán lối sống thực dụng “coi
đồng tiền là trên hết” hay lối sống gấp đang
xuất hiện trong một bộ phận thanh thiếu
niên; góp phần giữ gìn và phát huy truyền
thống dân tộc thông qua việc tuyên truyền,
tổ chức, cổ động cho các phong trào đền ơn
đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo…; Báo chí
góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu
tinh văn hóa nhân loại nhằm làm giàu cho
nền văn hóa Việt Nam.
Báo chí ngày càng tích cực tham gia vào
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
157
công tác đấu tranh phòng, chống tiêu cực
tham nhũng, lãng phí trong cán bộ, đảng
viên. Trong thời gian qua, báo chí đã đi sâu
tìm hiểu, điều tra, phát hiện, cung cấp
thông tin ban đầu; phối hợp, hỗ trợ các cơ
quan chức năng điều tra, phát hiện tham
nhũng, với tinh thần trung thực, công
tâm… qua đó đã đưa ra ánh sáng nhiều vụ
việc tham nhũng lớn, được nhân dân hết
sức hoan nghênh. Bên cạnh đó, báo chí
cũng đẩy mạnh việc tuyên truyền phòng,
chống các tệ nạn xã hội, tình trạng ô nhiễm
môi trường.
Đặc biệt, các cơ quan báo chí đồng loạt
mở thêm nhiều chuyên trang, chuyên mục,
tăng thời lượng phát sóng, nhằm tuyên
truyền cho cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Cho Minh”,
trong đó có nhiều bài viết nêu bật phẩm
chất đạo đức cách mạng của Bác Hồ, các
tấm gương tiêu biểu về học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã góp
phần nâng cao ý thức của các ngành, các
cấp và người dân trong rèn luyện đạo đức,
lối sống.
Bên cạnh những vấn đề nêu trên, báo chí
nước ta đã góp phần nâng cao chất lượng
thông tin đối ngoại, quảng bá và giới thiệu
đất nước, văn hóa, con người Việt Nam với
bè bạn quốc tế, góp phần nâng cao vị thế
và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Hoạt động của các cơ quan báo chí đã
có những cải tiến rõ rệt, chất lượng không
ngừng nâng cao, nội dung đảm bảo tính
Đảng, tính đại chúng, đáp ứng được thông
tin, thu hút sự quan tâm của người đọc,
người nghe. Phương tiện kĩ thuật chế bản,
in ấn ngày càng hiện đại; hạ tầng kỹ thuật
phục vụ cho việc truyền dẫn thông tin, khai
thác và thu nhận thông tin được hiện đại
hóa; giao lưu quốc tế được rộng mở tạo
điều kiện cho báo chí nước ta phát triển,
tiếp thu tinh hoa của nền báo chí thế giới.
Có thể nói, trong thời gian qua, báo chí
nước ta “tiếp tục phát triển nhanh về số
lượng, loại hình, ấn phẩm, đội ngũ những
người làm báo và số lượng người đọc; cơ
sở vật chất kĩ thuật, công nghệ, ảnh hưởng
của báo chí được mở rộng…”(1); đã làm
tốt chức năng vừa là cơ quan ngôn luận của
Đảng, Nhà nước vừa là diễn đàn của nhân
dân; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước mở rộng giao lưu và
hội nhập quốc tế. Báo chí nước ta đã tham
gia phản ánh nhiều vấn đề có ý nghĩa quan
trọng, những sự kiện nóng bỏng của đất
nước, được đông đảo các tầng lớp nhân dân
quan tâm. Nhiều tác phẩm đã gây xúc động
trong dư luận xã hội, tạo ra những ảnh
hưởng lớn, đề xuất để hoàn thiện cơ chế,
chính sách trong một số lĩnh vực, góp phần
phát hiện và giải quyết những vấn đề bức
xúc, có ý nghĩa trong đời sống xã hội nước
ta. Nhiều cơ quan báo chí đã thực sự đi
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
158
trước, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng
thuận xã hội đối với các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, xứng đáng là
đội quân tiên phong trên mặt trận tư tưởng;
thể hiện sự nhạy bén, tỉnh táo, trách nhiệm
trước nhiều vấn đề quan trọng của đất
nước. Điều đó chứng tỏ, báo chí là một
kênh thông tin quan trọng trong đời sống
hàng ngày của người dân, món ăn tinh thần
không thể thiếu của nhân dân; báo chí đã
luôn có mặt ở những mũi nhọn của cuộc
sống, thể hiện ý thức trách nhiệm xã hội
cao với sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm nổi bật và
thành tích to lớn nêu trên, hoạt động báo
chí và công tác lãnh đạo, quản lý báo chí
trong những năm qua cũng bộc lộ một số
thiếu sót, khuyết điểm cần nhìn nhận đúng,
rõ để tập trung sức khắc phục:
- Một số cơ quan báo chí có biểu hiện
coi nhẹ chức năng chính trị - tư tưởng, giáo
dục của báo chí cách mạng, xa rời sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước;
- Xu hướng thương mại hóa phát triển
dẫn đến xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng
phục vụ, sa đà khi phản ánh các vụ án, mặt
tiêu cực, mặt trái của xã hội; một số tờ báo
và đài truyền hình quảng cáo quá nhiều đã
gây ra phản cảm đối với người đọc và xem;
tư nhân núp bóng để ra báo, kinh doanh
báo chí ngày càng tăng;
- Chưa coi trọng phát hiện, biểu dương
các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương
người tốt, việc tốt, cổ vũ phong trào thi đua
yêu nước;
- Các cơ quan báo chí quan trọng của
Đảng, Nhà nước chậm đổi mới, nội dung
và hình thức chưa hấp dẫn, chất lượng và
hiệu quả tuyên truyền không cao, chưa đủ
sức chi phối, làm chủ thông tin và định
hướng được dư luận xã hội;
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan báo chí trong thông tin đối với
những vấn đề nhạy cảm, bức thiết;
- Chưa tham gia có hiệu quả vào việc
xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước;
- Công tác giáo dục, bồi dưỡng chính trị,
nghiệp vụ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp
cho đội ngũ những người làm báo chưa được
tiến hành thường xuyên và hiệu quả.
3. Nâng cao vai trò của báo chí cách
mạng trong công cuộc đổi mới của nước
ta hiện nay
Trong điều kiện tình hình trong nước và
quốc tế hiện nay diễn biến mau lẹ, thời cơ
và thách thức, thuận lợi và khó khăn đan
xen, vai trò của báo chí đối với xã hội càng
trở nên quan trọng hơn, trách nhiệm của
báo chí đối với đất nước, với nhân dân
càng nặng nề hơn. Báo chí không chỉ là cầu
nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân mà
còn phải phản ánh kịp thời, phân tích, đánh
giá đúng mức tình hình phát triển kinh tế,
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
159
chính trị, xã hội, góp phần nâng cao nhận
thức của nhân dân và định hướng dư luận
xã hội về các sự kiện, vấn đề thời sự trong
nước và trên thế giới. Báo chí không chỉ
phục vụ nhu cầu thông tin, góp phần nâng
cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân trong nước mà còn phải
trở thành nhịp cầu thông tin, văn hóa, góp
phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau cũng
như tinh thần hữu nghị giữa nhân dân ta và
các dân tộc trên thế giới.
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH,
HĐH của nước ta được tiến hành trong
điều kiện tồn tại nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN. Do vậy,
nhu cầu của các đối tượng trong xã hội về
tiếp nhận thông tin và cung cấp thông tin
ngày càng cao và đa dạng. Xu hướng hội
tụ thông tin ngày càng diễn ra mạnh mẽ là
yếu tố tích cực tác động đến sự phát triển
thông tin ở nước ta. Thông tin trên báo chí
ngày càng khẳng định là nhu cầu thiết yếu
trong đời sống xã hội, chi phối sâu sắc toàn
diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng
đã chỉ rõ: “Tạo điều kiện cho các lĩnh vực
xuất bản, thông tin đại chúng phát triển,
nâng cao chất lượng tư tưởng và văn hóa,
vươn lên hiện đại về mô hình, cơ cấu tổ
chức và cơ sở vật chất kỹ thuật; đồng thời
xây dựng cơ chế quản lý phù hợp, chủ
động, khoa học” (2).
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X đã xác định
nhiệm vụ chủ yếu của báo chí như sau:
“Báo chí phải nắm vững và tuyên truyền
sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, bám sát nhiệm vụ công tác
tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành
tựu của công cuộc đổi mới. Coi trọng đúng
mức việc phát hiện, biểu dương các nhân
tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu
tranh, góp phần ngăn chặn và từng bước
đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các
tiêu cực và tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu
quả những thông tin, quan điểm sai trái,
phản động, thù địch, bảo vệ vững chắc trận
địa tư tưởng của Đảng; tiếp tục phát huy
tiềm lực và ưu điểm, khắc phục các yếu
kém, khuyết điểm, nâng cao chất lượng tư
tưởng, tính hấp dẫn, mở rộng đối tượng độc
giả, vươn lên hiện đại về mô hình tổ chức
hoạt động, về cơ sở vật chất, kỹ thuật và
công nghệ” (3).
Có thể nói, vai trò của báo chí đối với
sự phát triển xã hội đã được khẳng định.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước
ta, bên cạnh việc quán triệt và làm tốt các
vấn đề nêu trên, báo chí nước ta trong thời
gian tới cần chú trọng đến hai nhiệm vụ
chưa thật sự được phát huy đầy đủ, đó là:
- Nâng cao vai trò phản biện xã hội của
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
160
báo chí
Thời gian qua, báo chí nước ta đã và
đang từng bước phát huy vai trò phản biện
xã hội, tổ chức và điều hành tốt những diễn
đàn và nhịp cầu phản biện. Bằng cách nêu
“gợi ý” về một vấn đề kinh tế - xã hội nào
đấy, nhiều tờ báo đã tạo được diễn đàn
công khai, rộng rãi, thu hút được nhiều ý
kiến bàn luận của đông đảo các tầng lớp xã
hội. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, mức độ
tham gia và hiệu quả đạt được vẫn còn hạn
chế. Vì vậy, nâng cao vai trò phản biện xã
hội của báo chí là một trong những yêu cầu
cơ bản để nâng cao vai trò của báo chí đối
với công cuộc đổi mới ở nước ta.
Báo chí là một trong những phương tiện,
công cụ quan trọng để đưa những chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
đến với các giai tầng xã hội, cổ vũ, động
viên, góp phần làm cho chủ trương, chính
sách đi vào cuộc sống, thành những phong
trào hành động cách mạng sôi động. Đồng
thời, chính từ thực tiễn cuộc sống, báo chí
đã kịp thời cho ra những khiếm khuyết, tồn
tại của các quyết sách đã ban hành; đề xuất,
kiến nghị với Đảng và Nhà nước cần sửa
đổi, bổ sung để đáp ứng nhu cầu cuộc sống,
nguyện vọng của nhân dân. Thông qua báo
chí, nhân dân có thể đề đạt những tâm tư,
nguyện vọng của mình với Đảng và Nhà
nước. Tất cả đã giúp cho Đảng và Nhà
nước ta, các cơ quan chuyên môn, các nhà
quản lý có sự điều chỉnh kịp thời, hợp lý
trong việc hoạch định chính sách, triển khai
các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Để báo chí làm tốt vai trò phản biện xã
hội thì Đảng và Nhà nước cần tạo ra cơ chế
cho báo chí tham gia thật sự sâu rộng vào
quá trình hoạch định chủ trương, đường lối,
xây dựng chính sách, pháp luật; cần có cơ
chế cung cấp thông tin chính xác, kịp thời
cho các cơ quan báo chí. Đồng thời, báo
chí một mặt phải bám sát cơ sở, gần dân để
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng nhân dân, mặt khác, cần tạo ra
những diễn đàn trao đổi, phản ánh đầy đủ
các hoạt động của đời sống xã hội; báo chí
cũng phải thể hiện chính kiến của mình
trên tất cả các lĩnh vực. Nghĩa là báo chí
cần đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng
để thực sự trở thành chiếc cầu nối hữu hiệu
giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân
dân, là diễn đàn quan trọng, tập hợp mọi
lực lượng trong xã hội trao đổi thông tin.
Bên cạnh đó, báo chí cũng phải coi trọng
việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những
người làm báo. Công tác này phải được
tiến hành một cách bài bản, có hệ thống và
chính trị tư tưởng, kinh tế, văn hóa - xã hội,
chuyên môn nghiệp vụ, coi đây là đòi hỏi
bắt buộc đối với mỗi nhà báo. Chỉ có làm
như vậy mới tạo ra được đội ngũ những
người làm báo có nhân sinh quan, thế giới
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
161
quan một cách khoa học, biện chứng, tư
duy phân tích và đánh giá vấn đề nhanh
nhạy, sâu sắc. Nhà báo không am hiểu
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước cặn kẽ, có kiến thức sâu rộng
về các lĩnh vực của đời sống xã hội thì nhất
định báo chí sẽ không làm tốt vai trò phản
biện xã hội.
- Nâng cao vai trò của báo chí trong
phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Điếu 86 Luật Phòng, chống tham nhũng
quy định: Nhà nước khuyến khích cơ quan
báo chí, phóng viên đưa tin phản ánh về vụ
việc tham nhũng và hoạt động phòng,
chống tham nhũng; cơ quan báo chí có
trách nhiệm biểu dương tinh thần và những
việc làm tích cực trong công tác phòng,
chống tham nhũng; lên án, đấu tranh với
những người có hành vi tham nhũng; tham
gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
phòng chống tham nhũng, cơ quan báo chí,
phóng viên có quyền yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp
thông tin, tài liệu liên quan đến hành vi
tham nhũng; cơ quan báo chí, phóng viên
phải đưa tin trung thực, khách quan.
Một trong những giải pháp quan trọng
để phòng ngừa tham nhũng, đó là công
khai, minh bạch. Có thể nói, hơn lúc nào
hết báo chí có lợi thế trong giải pháp này.
Càng công khai, càng minh bạch thì càng
khó tham nhũng. Mọi hoạt động đều bị
kiểm soát, trong đó có sự giám sát của công
chúng, của giới truyền thông, thì ít bị lợi
dụng, lạm dụng để vụ lợi. Về khía cạnh
phẩm chất, đạo đức thì hành vi vụ lợi phải
bị mọi người lên án, phê phán, tẩy chay,
ghét bỏ. Làm được điều này chắc chắn
tham nhũng sẽ ít đi. Báo chí đã, đang và
cần tăng cường phát huy lợi thế của mình
để góp phần loại trừ tham nhũng.
Báo chí là một trong những kênh thông
tin quan trọng trong công tác phòng, chống
tham nhũng, là công cụ hữu hiệu trong việc
thúc đẩy hoạt động xem xét, xử lý hành vi
tham nhũng nhanh nhạy, chính xác, khách
quan và đúng pháp luật, là phương tiện góp
phần bảo đảm hiệu quả trong hoạt động
phòng ngừa tham nhũng. Trên thực tế, báo
chí đã phát hiện nhiều vụ việc có dấu hiệu
tham nhũng. Với những tài liệu, hồ sơ mà
các phóng viên thu thập được, với những
bình luận sắc sảo của những cây viết
chuyên nghiệp thì các cơ quan có thẩm
quyền thường vào cuộc nhanh hơn và sớm
đưa ra kết luận. Ngoài ra, thông qua việc
cung cấp thông tin sớm, báo chí đã góp
phần thúc đẩy hoàn thiện cơ chế quản lý,
chấn chỉnh sai phạm, tăng cường hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước.
Vì vậy, để làm tốt nhiệm vụ này báo chí
phải được tiếp cận thông tin nhanh và
chính xác cần có sự hỗ trợ của các cơ quan
có thẩm quyền nhằm tiếp cận thông tin và
xử lí thông tin khó đưa lên trang báo.
(Xem tiếp trang 151)
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
162
Dân chủ được Đảng ta xác định
vừa là động lực, vừa là mục tiêu
của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Thực hiện
đầy đủ những nội dung của dân chủ XHCN
vừa thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta,
vừa phát huy được trí tuệ, sức sáng tạo của
đông đảo quần chúng vào sự nghiệp cách
mạng vĩ đai của dân tộc. Trong đó, nền báo
chí cách mang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập có vai trò đặc biệt quan trọng
trong tiến trình dân chủ hoá đời sống xã hội
ở nước ta hiện nay.
Có thể nói, báo chí là phương tiện góp
phần vào việc thực hiện dân chủ nên nó trở
thành yếu tố không thể thiếu và ngày càng
có vai trò quan trọng trong xã hội hiện đại.
Không chỉ ở Việt Nam mà tất cả các nước
khác nói chung, thì báo chí đều góp phần
vào cuộc đâu tranh đòi quyền dân chủ cho
nhân dân, là trường học đào luyện khả
năng làm chủ xã hội của nhân dân. Ở Việt
Nam, báo chí chính là công cụ quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta, là phương tiện,
diễn đàn của nhân dân trong việc thực hiện
nền dân chủ XHCN.
1. Vai trò của báo chí với việc thựchiện dân chủ ở nước ta hiện nay
Những quyền của người dân được quy
định trong Hiến pháp, pháp luật chỉ trở
thành hiện thực khi có những điều kiện
nhất định. Báo chí góp phần vào việc chuẩn
bị những điều kiện cần thiết để biến quyền
về pháp lý trở thành hiện thực. Về mặt lý
luân, báo chí đóng vai trò quan trọng trong
xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta
trên những khía cạnh chính sau:
Thứ nhất, báo chí thông tin nhanh, đa
dạng cho các tổ chức cá nhân và xã hội các
định hướng của Đảng về dân chủ hóa; các
chính sách, pháp luật của Nhà nước về
quyền và nghĩa vụ thực hiện dân chủ của
nhân dân. Qua đó, người dân biết được
những gì mình được làm và không được
làm, được biết và không được biết… Để
người dân không chỉ là người chủ của xã
hội về măt pháp lý mà còn là người làm
chủ trên thực tế thì trước tiên họ phải hiểu
biết một cách sâu sắc những quyền của
mình. Do đó, báo chí có nhiệm vụ giải
thích cho người dân hiểu họ chính là chủ
nhân thực sự của đất nước này, chế độ này;
BAO CHI VƠI VIÊC THƯC HIÊN DâN CHU
Ơ VIÊT NAM HIÊN NAY
?THS HÀ THI THUỳ DƯƠNG
Hoc viện Chính tri - Hành chính khu vực IV
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
163
cổ vũ, khích lệ tinh thần trách nhiệm, thái
độ tích cực cua họ trong việc thực hiện
quyền làm chủ của mình. Có thể nói, sự
thiếu hiểu biết cơ bản về quyền của người
dân hay hiểu biết những thờ ơ không muốn
tham gia đều dân đến việc người dân không
trở thành người chủ thực sự của đất nước
trên thực tế. Đồng thời, báo chí góp phần
giải thích, làm rõ nền dân chủ mà chúng ta
đang xây dựng là nền dân chủ XHCN, nền
dân chủ vì đại đa số nhân dân dựa trên sự
tôn trọng kỷ cương, trật tự; tích cực phê
phán những quan điểm sai trái, chống
những luận điệu thù địch về dân chủ.
Thứ hai, Lênin đã từng nói, những
người mù chữ đứng ngoài chính trị. Khi
dân trí thấp thì người dân không có nhu cầu
và năng lực để làm chủ đất nước, xã hội.
Chính vì lẽ đó, bọn thực dân, đê quốc khi
xâm chiếm đất nước ta luôn thực hiện
chính sách ngu dân. Nâng cao trình độ dân
trí chính là một trong những điều kiện thiết
yếu, điều kiện cần đê nhân dân thực hiện
được quyền làm chủ của mình. Thông qua
việc đáp ứng nhu cầu, hiểu biết đa dạng của
các tâng lớp nhân dân trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ, văn
hóa, xã hội..., báo chí góp phần nâng cao
trình độ dân trí nói chung.
Thứ ba, báo chí đảm bảo quyền được
cung cấp thông tin của nhân dân. Chỉ trên
cơ sở nắm vững thông tin thì người dân
mới có thể thực hiện quyền làm chu của
mình. Thông tin chính là một trong những
điều kiện cần thiết cho viêc biến địa vị làm
chủ pháp lý của người dân trở thành người
làm chu thực sự. Chăng hạn, nếu người dân
không có thông tin một cách cặn kẽ, sâu
rộng về người được bầu cử thì họ sẽ không
thể chọn đúng người đại diện quyền lực
cho mình. Hoặc người dân có quyền tham
gia xây dựng, đóng góp ý kiến cho đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước nhưng lại không hiểu biết về những
đường lối, chính sách đó thì khó có thể
đóng góp, bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện
những chính sách, pháp luật đó.
Thứ tư, báo chí không chỉ là công cụ
thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, mà còn là
phương tiện để quần chúng thực hiện
quyền làm chủ của mình, thực hiện khâu
hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” thông qua báo chí. Bằng sức mạnh dư
luận mạnh mẽ của báo chí, người dân buộc
các nhà lãnh đao, quản lý phải sớm thay
đổi những chính sách, chủ trương, hay
những dự thảo, đề án chủ trương, chính
sách không phù hợp với lợi ích của nhân
dân và đất nước. Đồng thời, báo chí là
phương tiện, là điều kiện để nhân dân đóng
góp tài năng, trí tuệ của mình đối với sự
phát triển đất nước, như tham gia xây dựng
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng.
Báo chí cũng tạo điều kiện để nhân dân
thực hiện quyền giám sát, kiểm soát đối với
hoạt động cua các cơ quan Đảng, Nhà
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
164
nước, đoàn thể và toàn xã hội, góp phần
đăc lực vào cuộc đấu tranh chống tham
nhũng và tệ nạn xã hôi, góp phần làm trong
sạch Đang và bộ máy công quyền, khôi
phục lòng tin của nhân dân đối với Đảng
và chế độ XHCN. Sự giám sát của nhân
dân qua báo chí là sự giám sát bằng dư luận
xã hội, là một sự răn đe, cảnh tỉnh đôi với
các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức
phải thực hiện nghiêm phận sự và chức
trách của mình. Bởi lẽ, những sai phạm của
họ nếu bị báo chí phanh phui sẽ là một
“hình phạt” đối với danh dự, uy tín của bản
thân và tổ chức.
Thứ năm, báo chí thông qua việc nêu
những tâm gương người tốt, việc tốt, giới
thiệu những kinh nghiệm tốt của cơ sở
trong việc vừa đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân, vừa giữ vững được kỷ cương xã
hội, sẽ góp phần nhân rộng ra trong quần
chúng nhân dân. Đồng thời, báo chí tích
cực tham gia đấu tranh chống những biểu
hiện tiêu cực, những biểu hiện dân chủ
hình thức, những hành vi ức hiếp, vi phạm
quyền làm chu của nhân dân để ngăn chặn,
đẩy lùi những hành vi gây cản trở cho việc
thực hiên dân chủ. Không chỉ vây, báo chí
còn phê phán những hành động lợi dụng
dân chủ để chống phá cách mạng, chống
phá Đảng và Nhà nước, răn đe những kẻ
muốn núp dưới chiêu bài dân chủ đê thực
hiện những ý đồ xấu. Thông qua việc nêu
gương tốt và xấu trong việc thực hiện dân
chủ, báo chí đã góp phần nhân rộng những
gương tốt và hạn chế, ngăn chặn những
gương xấu, qua đó thúc đẩy việc thực hiện
dân chủ ở nước ta.
Thứ sáu, báo chí còn có trách nhiệm tiếp
nhận, điều tra, trả lời các đơn thư khiếu nại,
tố cáo của công dân, theo dõi và giải quyết
đơn thư. Báo chí bằng sức mạnh của mình
đưa những khiếu nại, tô cáo của người dân
đến được với các cơ quan có thẩm quyền
với yêu cầu phải giải quyết những khiếu
nại, tố cáo đó một cách nhanh chóng,
nghiêm túc, công bằng… Qua đó, báo chí
trở thành một lực lượng quan trọng trong
việc bảo vệ quyền lợi của người dân, ngăn
chặn những hành vi xâm phạm lợi ích của
nhân dân.
Trên thưc tê, những kết quả đạt được của
quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội ở
nước ta trong thời gian qua có sự tham gia
đắc lực của các cơ quan báo chí. Vai trò của
báo chí trong việc thực hiện dân chủ ở
nước ta thời gian qua thể hiện ở những nét
chính sau:
Nội dung thông tin của báo chí ngày
càng phong phú, đa dạng, nhiều chiều và
hấp dân, bước đầu đáp ứng được nhu cầu
thông tin của đại đa số nhân dân. Thông tin
trên báo chí không chỉ chủ yếu là thông tin
chính trị như trước đây mà bao gồm tất cả
các thông tin từ tình hình chính trị đến kinh
tế, khoa học – công nghệ, văn nghệ, môi
trường… Qua đó, báo chí không chỉ đáp
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
165
ứng nhu cầu văn hoá, tri thức rất đa dạng
của quân chúng, góp phần nâng cao tri
thức, trình độ của quần chúng nhân dân mà
còn đáp ứng ngày càng tốt hơn quyền được
thông tin của nhân dân. Như vậy, báo chí
đã tích cực tham gia chuẩn bị những điều
kiện cần thiết để người dân thực hiên
quyền dân chủ của mình.
Đặc biêt, báo chí đã nêu được tiếng nói
của đông đảo quân chúng nhân dân lao
động về các vấn đề xây dựng đất nước, xây
dựng Đảng, quản lý xã hội. Nhiều thông
tin, kiến nghị của báo chí giúp Đảng, Nhà
nước bổ sung, hoàn thiện các chủ trương,
chính sách quan trọng và kịp thời uốn năn
những sai sót, lệch lạc trong quá trình thực
hiện chủ trương, chính sách đó.
Báo chí đã tích cực giám sát và theo dõi
việc giải quyết đơn thư khiếu nại của các
cơ quan chức năng có thẩm quyền. Báo chí
đã tạo áp lực công luận buộc các cơ quan
phải giải quyết nhanh chóng, nghiêm túc
theo pháp luật những đơn thư, khiếu nại đó
của công dân. Theo số liệu thống kê, 82,9%
người được hỏi khẳng định báo chí và
truyền thông có khả năng tác động vào các
việc giải quyết khiếu nại, tranh chấp. Hơn
90% cho rằng báo chí và truyền thông có
vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ
quyền lợi người dân.
Không ít nhà báo đã có công phát hiện,
kiên trì, dũng cảm đâu tranh chống các hiện
tượng tiêu cực, quan liêu, tham nhũng,
buôn lậu lãng phí; tình trạng suy thoái đao
đức lối sống trong xã hội và các tệ nạn xã
hội nhức nhối khác. Qua đó, báo chí đã thể
hiện tốt hơn vai trò phương tiện quan trọng
đê nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực
nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất
đáng kể của báo chí trong việc góp phần
vào tiến trình dân chủ hoá đời sống xã hội
nước ta thời gian vừa qua thì báo chí cũng
còn những hạn chế gây cản trở cho việc
thực hiện dân chủ ở nước ta, cụ thể là:
Báo chí chưa thực sự đảm bảo đầy đủ
quyền được thông tin của công dân. Có
những vụ việc báo chí thông tin thiếu chính
xác, thiếu khách quan, gây nhiễu thông tin,
vi phạm đạo đức nghề nghiệp, đưa tin sai
không cải chính hoặc cải chính chiếu lệ
làm ảnh hưởng tới uy tín đội ngũ làm báo.
Một số báo đài chỉ nhấn mạnh một chiều
quyền thông tin báo chí mà chưa đề cao
trách nhiêm của báo chí trong thông tin và
tác hại của thông tin sai sự thật. Khi có sai
sót, khuyết điểm của thông tin thường chưa
nghiêm túc tự phê bình và phê bình, còn có
biểu hiện cửa quyền, coi thường dư luận.
Theo báo cáo của Cục Báo chí Việt Nam,
trong năm 2009. Cục Báo chí đã tiếp nhận
và xử lý 293 đơn thư khiếu nai, tố cáo liên
quan đên 132 vụ việc được đăng, phát trên
các cơ quan báo chí, trong đó có nhiều đơn
khiếu nại về nội dung thông tin sai sự thật,
xuyên tac, vu khống hoặc xúc phạm đến
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
166
danh dư, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức.
Báo chí là trường học, là diên đàn để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình. Tuy nhiên, ý thức trách nhiệm làm
chủ của người dân vẫn chưa cao. Điều này
có nhiều nguyên nhân trong đó có một
phần thuộc về các cơ quan báo chí. Chẳng
hạn, trong những đợt bầu cử Hội đồng
nhân dân và Quốc hội, báo chí cổ động,
tuyên truyền khá rầm rộ nhưng tình trạng
nông dân đi bầu thay còn khá phổ biến.
Bên cạnh đó, vẫn có những tờ báo vì lợi
nhuận chạy theo thị hiếu tầm thường của
công chúng, không chú ý đúng mức đến
các lĩnh vực chính trị, xã hôi…, do đó cũng
không làm tốt vai trò là phương tiện để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Về việc chống tiêu cực của báo chí thì
bên cạnh những thành tựu kể trên, báo chí
có lúc còn có những biểu hiện quá sa đà,
quá chú trọng vào việc nêu những vụ việc
tiêu cực một cách tràn lan, thiếu trọng điểm
mà chưa đảm bảo điều tra kỹ lưỡng, chính
xác. Vì vậy, nhiều tờ báo cùng đăng về một
vụ việc nhưng thông tin lại khác nhau, có
khi ngược chiều nhau, thậm chí, nêu những
vụ việc tiêu cực lại làm lộ thông tin quốc
gia. Sự quá chú trọng việc phản ánh các
biểu hiện thiếu dân chủ hoăc dân chủ hình
thức của các cơ quan chức năng và không
chú ý đúng mức đên việc nêu gương tốt vê
những cá nhân, tổ thức thực hiện nghiêm
túc quy đinh về dân chủ dê tạo cảm giác
xã hội ta dường như mất dân chu. Từ đó,
báo chí dê khiến người dân suy giảm ý chí,
tinh thân làm chủ của họ.
2. Một số phương hướng để báo chíphát huy tôt hơn vai trò của mình trongviệc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay
Để báo chí tham gia đắc lực và có hiệu
quả vào việc thực hiện dân chủ, góp phân
quan trọng vào sự nghiệp xây dựng nền
dân chủ XHCN ở nước ta thì báo chí cân
chú ý thực hiện tốt những vấn đề sau:
Thứ nhât, báo chí phải thực hiện nghiêm
túc quyền thông tin của nhân dân. Nhà báo
phải khách quan, trung thực, tôn trọng sự
thật. Mọi thông tin đưa ra công luận phải
phản ánh đúng bản chất, sự thật khách quan
gắn với bối cảnh xã hội của nó, tuyệt đối
không xuyên tạc, cường điệu sự việc, sự
kiện. Nhà báo có trách nhiệm cung cấp cho
công chúng hình ảnh chân thật, đúng bản
chất và quá trình của sự kiện, tình huống
được thông tin. Báo chí phải thực hiện
trách nhiệm trả lời và cải chính trên báo chí
như là một nguyên tắc cấu thành tự do dân
chủ báo chí. Nhà báo có quyền kiên trì
quan điểm và thông tin đúng đăn của mình
nhưng phải tôn trọng quyền được trả lời và
quyền được cải chính của công dân theo
đúng pháp luật. Ngày 31.3.1992, Ban Bí
thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 08 –
CT/TW về phương hướng hoạt động của
báo chí, đó là phát triển sự nghiệp thông
tin, báo chí xuất bản theo hướng nâng cao
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
167
chất lượng, đáp ứng nhu cầu thông tin và
nâng cao kiến thức mọi mặt cho nhân dân.
Thông tin trên báo chi phải đa dạng, nhiều
chiều, phong phú, cả về nội dung cũng như
hình thức thông tin; nói, viết, truyền hình
sao cho đúng, hay, đẹp.
Thứ hai, báo chí phải trở thành phương
tiện để các tầng lớp nhân dân, nhât la người
lao động thực hiện quyền va năng lực làm
chủ đất nước. Báo chí cần phải làm tốt hơn
nữa chức năng là diên đàn để nhân dân bày
tỏ ý chí và nguyện vong, phát biểu ý kiến
góp phần giai quyết những vấn đê đặt ra
cho đất nước, hình thành dư luận xa hội
lành mạnh, tạo ra sự nhất trí cao trong suy
nghĩ và hành động của toàn xã hội. Đồng
thời, báo chí cung cân quan tâm hơn nữa
đến viêc thu hút trí tuệ, tài năng của các
tầng lớp nhân dân, có đồng bào trong nước
hoặc định cư ở nước ngoai, thông qua báo
chí mà đóng góp vào sự nghiệp cua đất
nước. Nâng cao tính nhân dân cua báo chí
- tức là tăng cường quyền kiểm tra, giam
sat của nguời dân đối với hoạt động của cơ
quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể và toàn xã
hội, góp phần đắc lực vào cuộc đâu tranh
chống quan liêu, tham nhung, lãng phí và
các tệ nan xã hội khác. Muốn vậy, cách
tuyên truyền của báo chi phải thực sự có
chiều sâu để khích lệ tinh thần làm chủ cua
người dân để người dân hăng hái thực hiện
quyền làm chủ cua mình qua báo chi. Cung
vơi đo, cac cơ quan báo chi phải đặc biệt
quan tâm mở rộng diên đàn của nhân dân,
đăng tai những ý kiến của nhân dân, có
những chuyên trang, chuyên mục về mọi
lĩnh vực của xã hội để người dân đóng góp
ý kiến, thực hiện việc giám sát đối vơi hoạt
động của các cơ quan nhà nước và cán bộ
công chức.
Thứ ba, các cơ quan báo chí cũng đăc
biệt chú ý đến viêc tiêp nhân, điều tra, tra
lơi các đơn thư, khiếu nai, tô cao của công
dân, theo doi va giai quyêt đơn thư. Đây là
công việc đòi hỏi sự cố găng rất nhiều, cả
về thời gian, công sức và nhât la trach
nhiêm, bản linh, lương tâm của các cơ quan
báo chí. Nếu không có y thức trách nhiệm,
cơ quan bao chi rât dê buông trôi những sự
việc bưc xúc. Măt khac, nếu không nắm
vững pháp luật, chính sách, không tinh
thông nghiệp vụ, nhà báo co thể phạm sai
lâm, thậm chí măc mưu của những phần tử
xấu, bât mãn, lợi dụng dân chủ để gây rôi.
Xây dựng nền dân chu XHCN hiện nay
quả là một công việc vô cùng khó khăn
phức tạp. Báo chi với vai trò công cụ,
phương tiện và là trường học dân chu cho
ca người dân và những nhà lãnh đạo cần
tích cực hơn nữa để làm tốt nhiệm vụ đór
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &
Truyền thông.- 2012.- Số tháng 5.- Tr.35
– 38.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
168
1. Thực trạng vê trẻ em và quyên trẻ
em ở Việt NamVới những thành tựu của hơn 20 năm
đôi mới, kinh tê – xã hội nước ta đã có
những phát triên tích cực, đời sông người
dân đã được cải thiện đáng kê; năm 2010,
Việt Nam bước vào hàng ngũ các nước có
thu nhập trung bình. Cùng với sự phát triên
vê kinh tê – xã hội, với đường lôi của Đảng
coi con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực phát triên, coi trọng vân đê bảo vệ và
chăm sóc trẻ em, các quyên cơ bản của trẻ
em Việt Nam đã được quan tâm thực hiện
tôt hơn.
Việc thực hiện Quyêt định sô
23/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
Phủ vê việc phê duyêt Chương trình hành
động quôc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoan
2001 – 2010 đã đạt được những kêt quả
đáng khích lệ, các mục tiêu vê y tê, giáo
dục cơ bản đêu đạt so với mục tiêu đê ra.
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em
đã phát huy tác dụng, tạo cơ sở pháp lý
cũng như góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của trẻ em. Việc thành lập
Cục, các chi cục Bảo vệ và Chăm sóc trẻ
em cũng như có cán bộ phụ trách công tác
bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở cấp huyện, xã đã
thể hiện rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước
ta trong chiến lược phát triển con người.
Ngày 31.5.2012, Việt Nam đã bảo vệ
thành công Báo cáo thực hiện Công ước
của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em giai
đoạn 2007-2011 tại Uy ban Quyền trẻ em
Liên hợp quốc. Uy ban của Liên hợp quốc
đã đánh giá: hệ thống pháp luật Việt Nam
đến nay đã tương đối đầy đủ và toàn diện,
phù hợp với các nguyên tắc và quy định
của Công ước; Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật, phê
duyệt nhiều chiến lược, chương trình, dự
án liên quan đến bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em; trẻ em Việt Nam ngày càng
được bảo vệ và chăm sóc tốt hơn; trẻ em
đã được phát huy quyền tham gia và bày
tỏ ý kiến của mình trong các chương trình,
kế hoạch quôc gia có liên quan đến mình.
Tuy nhiên, kinh tế phát triển cũng đặt ra
những bất cập trong thực hiện quyền trẻ
em: khoảng cách giàu nghèo càng gia tăng
cũng tạo nên sự bât bình đăng về cơ hội
được sống, được bảo vệ và phát triển giữa
VAI TRÒ ĐỊNH HƯỚNG CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM
TRONG NâNG CAO NHẬN THỨC VỀ QUYỀN TRẻ eM
?THS VU TUÂN HA
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
169
các nhóm trẻ em hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em
nghèo với các nhóm trẻ em khác. Các mục
tiêu y tế giáo dục trong Chương trình hành
động quôc gia cơ bản đạt được nhưng mục
tiêu bảo vệ trẻ em, vui chơi giải trí lại
không đạt vào năm 2010. Tính đến năm
2009, cả nước vân còn 4,28 triệu trẻ em
thuộc các nhóm nghèo, bị bạo lực, bị buôn
bán, bị tai nạn thương tích (chiếm 18,2%
so với tổng trẻ em va 5% dân số cả nước).
Đa phân các nhóm trẻ này vẫn găp nhiều
rào cản trong việc tiếp cận với các dịch vụ
và phúc lơi xã hội.
Việc phô biến Công ước quôc tế Quyền
trẻ em từ Trung ương đến địa phương được
triên khai theo ngành dọc từ bộ - cục - chi
cục/sở - phòng LĐTBXH/cán bộ chuyên
trách công tác trẻ em huyện - cán bộ
chuyên trách tại xã. Bên cạnh đó việc phổ
biến còn diễn ra thông qua sự phôi, kết hợp
với các ban ngành đoàn thể khác như Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Hội Liên hiệp phụ
nữ, Đoàn Thanh niên và diễn ra từ cấp
trung ương đến cấp cơ sở.
Việc phổ biến quyền trẻ em trong những
năm qua chưa được phổ biến thành chương
trình riêng. Các nội dung của quyền chỉ
được tuyên truyền lông ghép với các hoạt
động khác. Bên cạnh những hoạt động
ngành dọc của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội, từ năm 2004 Bộ Giáo dục - Đào
tạo cũng đưa nội dung cơ bản của Công
ước QT QTE vào giảng dạy trong chương
trình môn Giáo dục công dân ở các lớp 6
và 7.
2. Báo chí với quyền trẻ emCông tác thực hiện quyền trẻ em vẫn
chưa thực sự ngang tầm thực tế, theo đúng
quan điểm của Đảng. Có nhiều lý do khác
nhau trong đó có trách nhiệm của bộ máy
tuyên truyên nhất là báo chí. Thậm chí,
nhìn vào hoạt động bảo vệ quyền trẻ em
những năm qua thì thấy vai trò của báo chí
mờ nhạt hơn rất nhiều sự đóng góp của nó
trong các hoạt động liên quan tới kinh tế,
chính trị, văn hóa - thể thao - giải trí…
Nghị quyết Trung ương 5, khóa X về
Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí chỉ
rõ: Trong hoạt động báo chí, một số yếu
kém, khuyết điểm được nhăc nhở nhiều lần
nhưng chậm khăc phục, có mặt, có lúc, có
nơi còn trầm trọng hơn. Một số cơ quan
báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm
tốt chức năng tư tưởng, văn hoá, có biểu
hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lí của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích,
thông tin không trung thực, thiếu chính
xác, phản ánh nhiều về tiêu cực và tệ nạn
xã hội, ít tuyên truyền các điển hình tiên
tiến, gương người tốt, việc tốt, cổ vũ phong
trào thi đua yêu nước; khuynh hướng tư
nhân hoá, thương mại hoá báo chí, tư nhân
núp bóng để ra báo, kinh doanh báo chí
ngày càng tăng. Các cơ quan báo chí quan
trọng của Đảng, Nhà nước châm đổi mới,
nội dung và hình thức chưa hấp dẫn, chất
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
170
lượng và hiệu quả tuyên truyền không cao,
chưa chi phối, làm chủ thông tin và định
hướng được dư luận xã hội. Công tác chỉ
đạo, quản li báo chí còn nhiều hạn chế. Hệ
thống đài phát thanh, truyền hình phát triển
thiếu quy hoạch, gây lãng phí, tốn kém lơn.
Báo chí Việt Nam hiện nay đang có hiện
tượng chạy theo những thông tin giật gân
câu khách và xa rời dân nhiệm vụ định
hướng tư tưởng chính trị. Điều này thể hiện
cả trong việc báo chí bảo vệ quyên trẻ em.
Quan sát lượng tin, bài và chất lượng tác
phẩm báo chí về trẻ em có thê nhận thấy
chủ yếu là phản ánh những sự vụ đơn lẻ,
nghiêng về những tin tức mang tính giật
gân. Báo chí chủ yếu nêu các sự việc đáng
tiếc đã xảy ra chứ không có những chuyên
mục thường xuyên về bảo vệ quyền trẻ em.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên
là do chưa có sự phối hợp hiệu quả giữa các
cấp ủy đảng cơ quan bảo vệ trẻ em, báo chí,
các tổ chức xã hội liên quan…; báo chí
chạy theo các thông tin giật gân với mục
đích làm kinh tế hơn là nhiệm vụ chính trị.
Báo chí chưa thực sự thể hiện vai trò là vũ
khí hữu hiệu của cách mạng trong lĩnh vực
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Trong khi các cơ quan báo chí chuyên
biệt cho trẻ em chủ yếu làm chức năng giải
trí, giáo dục cho trẻ thì các cơ quan báo chí
khác chủ yếu khai thác các sự vụ liên quan
vi phạm nghiêm trọng quyền trẻ em; thiếu
vắng những chuyên mục mang tính giáo
dục, định hướng thường xuyên về quyên
trẻ em. Tình trạng này cũng đặt ra vấn đề
là các nhà báo có ít kiến thức về trẻ em thì
lại thường giải quyết những vụ việc liên
quan tới quyền của nhóm đối tượng này.
Giữa các cơ quan bảo vệ quyền trẻ em,
các chương trình truyền thông về trẻ em
với báo chí chưa có sự phối hợp hiệu quả.
Trong khi đó, với nhiều người dân, việc
tiếp nhận thông tin từ báo chí tỏ ra gần gũi
hiệu quả hơn so với các chương trình tuyên
truyền; hoặc được xem là đáng tin cậy hơn
với các chương trình truyền thông của các
tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ.
Điều này cũng không khó giải đáp, xuất
phát từ lý luận chức năng báo chí và bối
cảnh chính trị - xã hội ở nước ta.
3. Kiến nghị và giải phápNgày nay, lý luận báo chí đang có những
bước tiên mới, phù hợp, đáp ứng thực tiễn,
nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế
trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học
– công nghệ diên ra mạnh mẽ. Báo chí nói
chung và báo chí về trẻ em nói riêng cần
có những phát triển ngang tầm đòi hỏi.
Thực tiên ở Việt Nam cũng cho thấy, dù
kinh tế là điều kiện quan trọng cơ bản, là
nguồn lực cho phát triển các vấn đề về an
sinh xã hội, nhưng chúng ta có thể khắc
phục được những khó khăn kinh tế khi hệ
thống chính trị và nhân dân chung sức
đồng lòng thực hiện các mục tiêu xã hội.
Chẳng hạn, chúng ta đã có chỉ số phát triển
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
171
con người HDI, chỉ số quốc gia hòa bình,
việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới,
dân số kế hoạch hóa… tốt hơn nhiều nước
có điều kiện kinh tế cao hơn. Đó là do sự
ưu việt về quan điểm, đường lối phát triển
đất nước; đồng thời trong quá trình thực
thi, bộ máy tổ chức, tuyên truyền - có phần
đóng góp to lớn của báo chí.
Từ quan điểm của Đảng, Nhà nước về
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, có thể
khẳng định đây là một trong những nhiệm
vụ cơ bản, thường xuyên, lâu dài của công
cuộc cách mạng mà Đảng đang lãnh đạo
dân tộc thực hiện. Báo chí, với tư cách là
một vũ khí, công cụ cách mạng quan trọng,
với nhiệm vụ định hướng dư luận xã hội,
cần đặt nhiệm vụ bảo vệ quyền trẻ em là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm,
xuyên suốt. Đồng thời, với tư cách là một
bộ phận quan trọng trong bộ máy tuyên
truyền cách mạng, báo chí cần gắn bó chăt
chẽ với các cơ quan khác có chức năng bảo
vệ quyền trẻ em. Theo chúng tôi, báo chí
Việt Nam cần nhận thức rõ các vấn đề sau:
Trước hêt, báo chí là công cụ vũ khí
tuyên truyền sắc bén cua Đảng ta trong mọi
lĩnh vực của đời sống, trong đó có bảo vệ
quyền trẻ em. Vi thế, báo chí cần thể hiện
vai trò của mình trong lĩnh vực này ngang
yêu cầu nhiệm vụ mà cách mạng đặt ra –
con người đươc coi là mục tiêu và động lực
cua phát triển, trẻ em là tương lai của đất
nước, đối tượng cần thụ hưởng tôt nhất
thành quả phát triển. Báo chí cần quán triệt
nhiệm vụ bảo vệ quyền trẻ em là một
nhiệm vụ quan trọng đối với bất cứ nền báo
chí chân chính nào, nhất là báo chí cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Báo chí nước ta là
cơ quan ngôn luận của các tô chức chính
trị, xã hội, là tiếng nói của các giai tầng,
nhóm xã hội trong vấn đề bảo vệ quyên trẻ
em. Vi vậy, các cơ quan báo chí xét tổng
thể, chính là tiêng nói của toàn xã hội bảo
vệ quyền trẻ em.
Mặt khác, chức năng cơ bản, quan trọng
nhất của báo chí là định hướng dư luận xã
hội. Đó là “quyền lực” cũng là trách nhiệm
mà xã hội trao cho báo chí. Bởi vậy báo chí
cũng là kênh quan trọng để định hướng
người dân về thực hiện quyền trẻ em. Nếu
báo chí không làm tốt trách nhiệm này thì
rất khó để bộ máy các cơ quan quản lý,
tuyên truyền vê quyền trẻ em Việt Nam
thực hiện tốt nhiệm vụ, nhất là trong điều
kiện kinh tế còn khó khăn.
Đó là những cơ sở để cho thấy, nếu báo
chí làm tốt vai trò định hướng cho nhân dân
về quyền trẻ em thì ở lĩnh vực này Việt
Nam sẽ có những bước tiến đáng kể, trẻ em
được bảo vệ tốt hơn, đúng theo quan điểm
của Đảng trong lãnh đạo cách mạng đất
nước. Đê nâng cao hiệu quả vai trò của báo
chí trong đinh hướng nhân dân về quyền
trẻ em, xin đề xuất một số giải pháp:
- Tăng số lượng, chất lượng tác phẩm
báo chí về bảo vệ quyền trẻ em. Bảo vệ
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
172
quyền trẻ em là trách nhiệm của tất cả các
cơ quan báo chí chứ không của riêng các
cơ quan chuyên vê trẻ em. Tiêu chí các bài
viết là cung cấp kiến thức cho nhân dân về
quyền trẻ em; quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ
em, trách nhiệm xã hội và cá nhân với
quyền trẻ em. Đây là nguồn tác phẩm chính
chứ không phải là các tác phẩm khai thác các
sự việc đau lòng về vi phạm quyền trẻ em.- Trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em,
báo chí tiếp tục thể hiện là diễn đàn củanhân dân trong các lĩnh vực của đời sốngxã hội; là nơi gần dân nhất, cơ quan phảnbiên xã hội quan trọng nhất. Thực tế ở ViệtNam, nhân dân vẫn đang chọn báo chí làcơ quan bảo vệ quyền trẻ em gần gũi nhất,hầu hết các vụ việc vi phạm quyền trẻ emlà do báo chí phản ánh. Báo chí cần đáp lạihiệu quả sự tin tưởng này.
- Các cơ quan quản lý tuyên truyềnquyền trẻ em phối hợp chặt chẽ với báo chítrong tuyên truyền cho nhân dân về quyêntrẻ em. Thực tế cho thấy, rất nhiều mụctiêu, nhiệm vụ an sinh xã hội đa được ViệtNam hoàn thành nhờ tập trung được ýĐang với lòng dân, thông qua bộ máytuyên truyền, trong đó có báo chí. Thờigian qua, sự phối hợp này chưa tốt nên đãảnh hưởng tới việc thực thi quyền trẻ emnước ta.
- Các chiến dịch tuyên truyền, truyềnthông, nhất là của các tổ chức quốc tế và tổchức phi chính phủ tại Việt Nam chỉ thành
công tốt đẹp khi phối hợp được với hệthống tuyên truyền, trong đó có báo chí.Kết hợp hiệu quả giữa mô hình truyềnthông và những điểm mạnh của hệ thốngtuyên truyền sẽ giúp các chiến dịch đạthiệu quả mong muốn, tác động mạnh vàonhận thức nhân dân.
- Đội ngũ nhà báo cần được trang bị đầyđủ kiến thức về quyền trẻ em. Thực tế thờigian qua cho thấy, nhiều tác phẩm báo chíkhi đưa ra các viêc vi phạm quyền trẻ emcòn chưa chỉ ra được đó là vi phạm quyềngì, mức độ nào. Điều đó khiến chất lượngtác phẩm bị hạn chế và mới chỉ khơi đượcdư luận về việc ngược đãi trẻ em, vi phạmLuật Hình sự…chứ chưa trang bị, địnhhướng được cho nhân dân về quyền trẻ em.Đối với các cơ quan báo chí chuyên biệtcho trẻ em, cần đóng cả vai người hỗ trợpháp lý, là đại diện cho tiếng nói trẻ em.
- Tăng tiếng nói của trẻ em trên các tác
phẩm báo chí. Phần lớn các tác phâm báo
chí vẫn đang là người lớn viết về trẻ em và
đối tượng tiêp nhận cũng mới chỉ là người
lớn. Trẻ em cần được biết mình có quyền gì
để có thể tự bảo vệ mình; đồng thời, định
hướng cho nhân dân đủ kiến thức để về quyền
trẻ em và nhiệm vụ bảo vệ quyền trẻ em.n
……………TÀI LIÊU THAM KHẢO
1. Báo cáo quốc gia lần thứ ba và thứ tư Việt Nam
thực hiên Công ước quốc tế Quyền trẻ em giai đoan
2002-2007.
2. Báo cáo bổ sung của NGO cho báo cáo đinh kỳ
lần thứ ba, thứ tư cua Chinh phủ về kết quả thực hiện
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
173
Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em tại Việt Nam
giai đoạn 2002-2007.
3. Báo cáo phân tích tình hinh trẻ em tai Viêt Nam
2010 có tổ chức UNICEF.
4. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chi thị 55-CT-
/TW cua Bô Chinh tri khóa VII về tăng cường sư lãnh
đao của các cấp ủy đảng ở cơ sở đôi với công tác bảo
vê chăm sóc và giáo duc trẻ em.
5. Chỉ thi 13/2001/CT-TTg về viêc tổng kết 10 năm
thi hành Luât Bảo vê Chăm sóc và Giao duc tre em giai
đoan 1991-2000.
6. Chương trinh hành động quốc gia bảo vệ trẻ em
2011-2015.
7. Công ước Liên hợp quốc về quyền tre em.
8. Hoàng Văn Nghĩa, 2011. Môt sô thành tưu vê bảo
đảm quyên trẻ em trong thời kỳ đôi mới ở nước ta, truy
cập tại:
http://molisa. Gov.vn/detail2/ tabid/ 371/ newsid/
53772/seo/Mot-so-thanh-tuu-ve-bao-dam-quyen-tre-
em-trong-thoi-ky-doi-moi-o-nuoc-ta/language/vi-
VN/Default.aspx.
9. Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của
Quốc hội.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &Truyền thông.- 2012.- Số tháng 7.- Tr. 62– 65.
báo Chí tRong CuỘC Đấu tRAnh...(Tiếp theo trang 185)
Và hơn thế, trong tương lai, Luật tiếp
cận thông tin ra đời tạo thêm điều kiện
thuận lợi để các nhà báo hành nghề. Sự
tham gia có tính trực tiếp của luật pháp hiện
hành, trong đó có bộ luật hình sự, hình
thành cơ chế thống nhất, hành lang pháp lý
sẽ bảo vệ hữu hiệu quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhà báo trong quá trình tác
nghiệp. Bảo vệ sự nghiệp báo chí cách
mạng, cụ thể hơn là bảo vệ nhà báo trong
quá trình tác nghiệp (nhất là các hoạt động
điều tra chống tiêu cực, tham nhũng) phụ
thuộc trước hết vào các quy định của luật
pháp đối với họ - với hai tư cách: công dân
và nhà báo. Tiếp đó, phụ thuộc vào ý thức
chủ quan của nhà báo, phải biết tự bảo vệ
mình bằng sự dũng cảm, khôn khéo, nắm
vững pháp luật. Một yếu tố khác tưởng như
vô hình, đó là cái tâm của những người
thực thi nhiệm vụ bảo vệ pháp luật. Bảo vệ
nhà báo chân chính, bảo vệ công cụ của
Đảng và Nhà nước vì mục tiêu cao cả xây
dựng cái chân, thiện, mỹ là bảo vệ, cái đẹp,
đẩy lui cái xấu ra khỏi đời sống xã hội, vì
sự phát triển của đất nước, dân tộcn
Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo.- 2011.- Số
1.- Tr.48 - 52.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
174
Chiến lược “diễn biến hòa bình”chống phá Việt Nam của các thếlực phản động được tiến hành
đồng thời trên nhiều lĩnh vực khác nhaunhưng tấn công trên mặt trận tư tưởng đượccoi là “mũi đột phá”, nhằm làm mất niềmtin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạora “những khoảng trống” để dần đưa hệ tưtưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảngviên và nhân dân, từng bước chuyển hoá,xoá bỏ hệ tư tưởng XHCN. Đáng lưu ý,trong những năm gần đây, lợi dụng xu thếtoàn cầu hoá kinh tế thế giới và cuộc cáchmạng khoa học – công nghệ, nhất là mạnginternet, chúng triệt để lợi dụng cácphương tiện thông tin hiện đại như sách,báo, báo điện tử, trang tin điện tử, blog đểchuyển tải thông tin, quan điểm sai trái, thùđịch chống đối chế độ ta. Chúng lợi dụngnhững khó khăn, thách thức nảy sinh do tácđộng tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinhtế, tài chính toàn cầu và những diễn biếnphức tạp mới trong tranh chấp chủ quyềnBiển Đông, ráo riết đẩy mạnh chiến lược
“diễn biến hoà bình” chống phá cách mạngnước ta. Những phần tử cơ hội chính trịtrong nước hùa theo những luận điểm saitrái của địch, ra sức công kích Đảng và chếđộ xã hội chủ nghĩa.
Chúng tiếp tục tiến công xuyên tạc, phủđịnh, xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tưtưởng Hồ Chí Minh với một thang bậc vàluận điệu mới; khoét sâu sự suy thoái vềđạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,đảng viên, sự xuống cấp về văn hóa trongmột bộ phận xã hội để hủy hoại các giá trịvăn hóa dân tộc; gieo rắc văn hóa, lối sốngtư sản, văn hóa phương tây, văn hóa đồitrụy, bạo lực; kích thích tư tưởng thựcdụng, lối sống hưởng lạc chạy theo đồngtiền, hành vi phi nhân tính… từ đó làm phainhạt dần mục tiêu, lý tưởng làm tha hóa độingũ cán bộ, đảng viên tiến tới tha hóa toànxã hội; kích động văn nghệ sĩ đòi tự dosáng tác, tự do công bố các tác phẩm vănhọc nghệ thuật, phản đối sự kiểm duyệt củacơ quan nhà nước, đòi được công khai,đánh giá lại các sự kiện, nhân vật lịch sử
BÁO CHÍ GóP PHầN ĐấU TRANH CHỐNG âM MƯU ”DIễN BIếN HOÀ BìNH”TRÊN LĨNH VựC TƯ TƯỞNG - VăN HOÁ
?THS DOãN THỊ THUẬN
Ban Tuyên giáo Trung ương
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
175
theo quan điểm của phương Tây, từng bướcthoát ly sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vựcvăn hoá, văn nghệ. Tăng cường tán phátbăng đĩa , các bộ phim có nội dung bạo lực,đồi truỵ gây tác động xấu đến một bộ phậngiới trẻ.
Đấu tranh chống âm mưu diễn biến hoàbình của các thế lực thù địch trên mặt trậntư tưởng văn hoá là trách nhiệm chung củatoàn Đảng, của nhiều cơ quan, bộ, ngành,trong đó báo chí luôn được coi là lực lượngxung kích, có vai trò và ảnh hưởng lớn tớiđời sống chính trị tư tưởng của toàn xã hội.
Nhìn tổng thể, các cơ quan báo chí thờigian qua đã có nhiều đóng góp vào cuộcđấu tranh chống “Diễn biến hoà bình”,chống các luận điệu xuyên tạc của các thếlực thù địch. Số lượng, chất lượng tin, bàivề chủ đề này trên các loại hình báo chí tuykhác nhau trong mỗi thời điểm, nhưng đãphát huy tác dụng, góp phần nâng cao nhậnthức cho nhân dân về bản chất các luậnđiệu, quan điểm sai trái; đồng thời, vạch rõnhững hành động xấu, gây phương hại đếnlợi ích quốc gia, dân tộc qua từng vụ việccụ thể.
Các cơ quan báo chí đã tăng cườngtuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,đường lối của Đảng, chính sách, pháp luậtcủa Nhà nước có bước tiến bộ mới, cả vềnội dung, hình thức, phương pháp, đem lạihiệu quả, tạo được sự thống nhất trongĐảng, sự đồng thuận trong xã hội, giữ được
ổn định chính trị - xã hội. Các báo Nhândân, Quân đội nhân dân, Sài Gòn giảiphóng, Hà Nội Mới, Công an Nhân dân,Tuổi trẻ TPHCM, báo điện tử Đảng Cộngsản, các tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng,Quốc phòng toàn dân, Tuyên giáo, Công annhân dân… Đài Truyền hình Việt Nam,Đài Tiếng nói Việt Nam… có nhiều bài viếtvà chương trình tọa đàm với sự tham giacủa các học giả, nhà nghiên cứu, phân tíchmột cách khoa học và có sức thuyết phụcvề con đường đi lên chủ nghĩa xã hiện nayở nước ta, về sức sống của chủ nghĩa xã hộivà học thuyết Mác- Lênin , tư tưởng HồChí Minh; chủ động tiến công phản bácnhững quan điểm sai trái, phản động, gópphần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam;xây dựng vững chắc nền tảng chính trị-tưtưởng của xã hội; bảo vệ và phát huynhững giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹpcủa dân tộc ta; khẳng định vai trò lãnh đạocủa Đảng trong suốt quá trình cách mạng;tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa;truyền bá hệ tư tưởng Mác - Lê-nin, tưtưởng Hồ Chí Minh sâu rộng, có tínhthuyết phục cao trong toàn xã hội.
Báo chí đã chủ động, kịp thời phản báclại thông tin xuyên tạc, bôi nhọ cán bộ cấpcao của Đảng, Nhà nước, xuyên tạc truyềnthống cách mạng và các sự kiện lịch sử, rasức gây chia rẽ nội bộ, làm giảm lòng tincủa nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng,
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
176
tung tin thất thiệt, lan truyền các tài liệu tráiphép, tán phát tài liệu gây rối nội bộ và sựquản lý của Nhà nước ... Báo chí một mặtvạch rõ những luận điệu xuyên tạc lịch sử,mưu toan phủ nhận thành quả cách mạng.Mặt khác tăng cường thông tin thành tựucủa đất nước sau 25 năm đổi mới do Đảnglãnh đạo; chủ trương và kết quả công tácphân giới cắm mốc biên giới trên bộ, vềbảo vệ chủ quyền biển đảo; kết quả thựchiện Cuộc vận động “Học tập và làm theotấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Cuộcvận động Xây dựng chỉnh đốn Đảng, làmtrong sạch đội ngũ, đẩy mạnh cuộc đấutranh chống tham nhũng, quan liêu mất dânchủ và hiện tượng suy thoái về chính trị,đạo đức, lối sống.
Trong thời gian qua, nhiều cơ quan báochí Việt Nam đã phát huy vai trò xung kíchtrên mặt trận đấu tranh dư luận... Đãä cóhàng ngàn bài viết được đăng tải trên cácphương tiện thông tin đại chúng và mạnginternet về vấn đề dân chủ, nhân quyền,biên giới lãnh thổ với những lập luận chặtchẽ có sức thuyết phục, với những dẫnchứng xác đáng, phản bác lại những luậnđiệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thùđịch và cơ hội chính trị. Mặt khác báo chícũng tăng cường tuyên truyền, phổ biếncác quan điểm, chủ trương, chính sách củaĐảng và Nhà nước về tôn giáo, dân tộctrong cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất làtrong chức sắc, chức việc, nhà tu hành vàtín đồ các tôn giáo. Giáo dục truyền thống
yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thốngnhất của Tổ quốc, làm cho các tôn giáo gắnbó với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩaxã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảovệ Tổ quốc. Giữ gìn và phát huy truyềnthống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơnnhững người có công với Tổ quốc, dân tộcvà nhân dân; tôn trọng tín ngưỡng truyềnthống của đồng bào các dân tộc và đồngbào có đạo, thông qua đó tăng cường sựđồng thuận giữa những người có tínngưỡng, tôn giáo và những người không tínngưỡng, tôn giáo; giữa những người có cáctín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; đồng thời,tạo cơ sở để đấu tranh chống những tà đạo,những hoạt động mê tín dị đoan, lợi dụngtôn giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc,dân tộc và nhân dân. Tuyên truyền cổ vũxây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc làgián tiếp góp phần đấu tranh chống cácluận điệu sai trái trên các lĩnh vực nhânquyền, tự do tôn giáo, tín ngưỡng.
Các cơ quan báo chí đã tăng cường côngtác thông tin đối ngoại, một mặt đấu tranhtrực diện chống lại các luận điệu sai trái,thù địch; mặt khác kịp thời tuyên truyền vềcác sự kiện chính trị lớn của đất nước, cáchoạt động hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực;giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, lịchsử, văn hoá, con người Việt Nam ra nướcngoài. Cung cấp thông tin chân thực về tìnhhình Việt Nam, tranh thủ sự tuyên truyềnủng hộ của bạn bè quốc tế.
Nhìn chung báo chí đã có những đóng
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
177
góp tích cực trong đấu tranh chống “diễnbiến hòa bình”, đấu tranh với các luận điệusai trái, phản động của các thế lực thù địch,làm sáng tỏ đường lối, chủ trương, chínhsách của Đảng, Nhà nước, giữ vững địnhhướng tư tưởng của Đảng.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt đã làmtốt nêu trên, việc thực hiện nhiệm vụ đấutranh chống “diễn biến hòa bình” của mộtsố cơ quan báo chí thời gian qua còn bộclộ một số hạn chế sau:
Trên mặt trận đấu tranh chống “diễnbiến hòa bình” một số cơ quan báo chí “vàocuộc” chưa kịp thời, thậm chí lúng túng, bịđộng. Điều này có lý do từ cả hai phía. Ởcấp chỉ đạo có lúc định hướng chậm. Phíacác cơ quan báo chí chưa chủ động, có kếhoạch đấu tranh với âm mưu, hoạt động“diễn biến hòa bình” của các thế lực thùđịch. Việc rèn luyện, đào tạo các nhà báoviết chính luận còn bị coi nhẹ, số đông cáccơ quan báo chí không có phóng viênchuyên trách hoặc kinh nghiệm tác chiếntrong lĩnh vực này. Đây là điểm hạn chếcủa báo chí chúng ta.
Còn ít bài viết kịp thời mang tính địnhhướng dư luận xã hội về các sự kiện và vấnđề nhạy cảm liên quan đến dân chủ, nhânquyền, tự do báo chí, tôn giáo, biên giới,lãnh thổ. Bên cạnh đó một số bài viết vềcác vấn đề trên còn đơn điệu, thiếu tínhlogíc, khoa học, thiếu thuyết phục, lập luậnchưa sắc bén, do đó hiệu quả đấu tranh cònhạn chế.
Nhận thức chính trị của một số phóngviên, thậm chí cả một số lãnh đạo cơ quanbáo chí còn hạn chế, vì vậy vẫn còn tìnhtrạng đề cao mục đích thương mại, xaonhãng việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, cólúc đưa tin không chính xác, thiếu thậntrọng, thậm chí sai trái, lệch lạc về quanđiểm chính trị, tư tưởng để các thế lực thùđịch lợi dụng suy diễn, xuyên tạc, bất lợivề chính trị. Khi thông tin liên quan đếnmặt trái xã hội và đấu tranh chống tiêu cực,một số báo và nhà báo vẫn bộc lộ nhữngnon kém, lệch lạc khi phê phán, làm“nóng” vấn đề bằng cách giật “tít” gây bứcxúc trong dư luận xã hội, dễ bị các thế lựclợi dụng nói xấu chế độ.
Để nâng cao chất lượng thông tin trênbáo chí, góp phần làm thất bại âm mưu“diễn biến hòa bình”, các cơ quan báo chícần tiếp tục thực hiện trí và sáng tạo nhữnggiải pháp đã được tổng kết, trong đó nổi lênmột số vấn đề sau:
- Tuyên truyền, giáo dục trong toànĐảng, toàn quân, toàn dân chủ trương,đường lối, chính sách của Đảng và Nhànước, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sựđồng thuận trong xã hội đối với Cươnglĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, phápluật của Nhà nước.
Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục theochiều sâu nhằm nâng cao nhận thức chocán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu,thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thếlực thù địch. Làm cho mọi người thấu suốt
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
178
quan điểm phòng chống “diễn biến hoàbình” giúp cán bộ, đảng viên và nhân dântự đề kháng, không mắc mưu những thủđoạn của kẻ thù và chủ động đấu tranhchống lại các quan điểm sai trái, thù địch.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ và nhịpnhàng hơn giữa các cơ quan chỉ đạo, quảnlý báo chí và cơ quan báo chí trong côngtác đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”.Các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí cầnphân vai, phân nhiệm cụ thể cho các cơquan báo chí trong từng thời điểm, vụ việc,vấn đề cụ thể, tránh tình trạng đồng loạt“lên tiếng” như một chiến dịch, sau đó lại“im lặng” cả thời gian dài.
- Lãnh đạo các cơ quan báo chí và cácnhà báo cần nhận diện kỹ hơn hoạt động“diễn biến hòa bình” của các thế lực thùđịch; đổi mới nội dung, phương thức tuyêntruyền cho phù hợp, kết hợp đấu tranh trựcdiện và đấu tranh gián tiếp giữa “xây” và“chống”, thể hiện sự sắc bén, linh hoạt.Đặc biệt, cần quan tâm tới công tác đào tạo,bồi dưỡng, nâng cao trình độ, bản lĩnhchính trị cho đội ngũ những người làmcông tác lý luận phê bình.
- Tăng cường công tác lãnh đạo và quảnlý báo chí. Bảo đảm an ninh thông tin, nhấtlà trên mạng. Chủ động kịp thời cung cấpthông tin, định hướng thông tin cho cán bộ,đảng viên, nhân dân. Sớm phát hiện và giảiquyết khẩn trương các vấn đề bức xúc, cácđiểm “nóng” về khiếu kiện, đình công, giữvững ổn định chính trị - xã hội.
Phản bác kịp thời có hiệu quả các quanđiểm sai trái, thù địch; đấu tranh chống cácluận điệu phủ định, bóp méo chủ nghĩaMác – Lênin, xuyên tạc đường lối quanđiểm của Đảng, chính sách, pháp luật củaNhà nước; vạch trần thủ đoạn thổi phồngnhững sơ hở, yếu kém của Đảng, Nhà nướcta nhằm kích động tâm lý bất mãn, chốngđối chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ khối đạiđoàn kết toàn dân tộc.
- Tăng cường thông tin đối ngoại giúpcộng đồng người Việt Nam ở nước ngoàivà bạn bè quốc tế có nhận thức đúng đắnvề tình hình Việt Nam. Giới thiệu quảng báhình ảnh đất nước, con người, văn hoá ViệtNam ra nước ngoài theo các kênh: tác độngvào chính giới; tác động qua giới doanhnghiệp, doanh nhân; tác động qua cácphương tiện thông tin đại chúng trong nướcvà nước ngoài, qua con đường du lịch…
- Coi trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹthuật, từng bước hiện đại hoá các phươngtiện phục vụ cuộc đấu tranh chống âmmưu, hoạt động “diễn biến hoà bình”. Cócác giải pháp kỹ thuật kiểm soát chặt chẽhệ thống Internet, hạn chế tối đa việctruyền phát những thông tin xấu; tích cựcngăn chặn các tài liệu phản động từ bênngoài đưa vào; có biện pháp hữu hiệu phásóng các đài phát thanh phản độngr
Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo.- 2011.- Số
5.- Tr.50 -53.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
179
Để cuộc đấu tranh chống tham
nhũng có hiệu quả hơn
Xây dựng mối quan hệ giữa báo chí và
những người chống tham nhũng
Tham nhũng là căn bệnh trầm kha, và
cuộc đấu tranh chống tham nhũng không
thể đi tới đích thắng lợi nếu thiếu đi những
con người dũng cảm, dám dấn thân đương
đầu với cái tiêu cực, cái xấu, cái ác. Những
người tố cáo tham nhũng vừa là người cung
cấp nguồn thông tin chính thống, vô cùng
quý giá cho các cơ quan chức năng, cho
báo chí và hơn thế họ còn là nhân chứng
sống để phản biện, đối chất khi cần thiết.
Đã từ lâu, mối quan hệ báo chí và người tố
cáo tham nhũng đã hình thành một cách tự
nhiên, hữu cơ, nhân quả. Ngoài hình thức
đơn thư tố cáo tham nhũng được gửi đến
các cơ quan có trách nhiệm từng cấp, rất
nhiều đơn thư tố cáo vượt cấp đã xuất hiện
khi không được giải quyết thỏa đáng ở cơ
sở. Người tố cáo tham nhũng dưới nhiều
phương cách khác nhau đã có sự kết nối
bền chắc với các nhà báo trong cuộc đấu
tranh này.
Khi nào người tố cáo tham nhũng muốn
báo chí vào cuộc? Có hai tình huống
thường xảy ra: Một là, ngay từ khi phát
hiện cá nhân (hay tổ chức) có dấu hiệu
tham nhũng hoặc thu thập được các chứng
cớ tham nhũng, người chống tham nhũng
sẽ liên hệ với một (hay vài) cơ quan báo chí
để cùng hợp tác đấu tranh. Hai là, sau một
thời gian tự mình phanh phui tham nhũng,
người phát hiện, tố cáo tham nhũng gặp
khó khăn, bị cản trở, đe dọa, uy hiếp đến
tính mạng; bị đối tượng bị tố cáo gây cản
trở trong công việc, họ mới nhờ cậy đến cơ
các cơ quan báo chí bảo vệ mình trước dư
luận và pháp luật. Trong cả hai trường hợp
này báo chí đều có thể can dự một cách
chính đáng và có trách nhiệm. Ngược lại,
muốn có thông tin để triển khai đấu tranh
báo Chí tRong CuỘC Đấu tRAnhChỐng thAM nhũng
?NGUYỄN VăN HÙNG
Ban Tuyên giáo Trung ương
Các nhà báo, những cơ quan báo chí tích cực tham gia cuộc đấu tranh chống thamnhũng sẽ không bao giờ đơn độc. Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn là chỗ dựa tincậy, vững chắc để họ vững tin khi tác nghiệp gặp khó khăn, hiểm nguy.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
180
chống tham nhũng, báo chí phải có nguồn
tin thật sự tin cậy, bằng các nghiệp vụ báo
chí của mình, nhà báo có thể xây dựng các
“cộng tác viên đặc biệt” của mình, “nuôi”
họ bằng cơ chế riêng của mình. Song, thực
tế cho thấy, những người trực tiếp hay gián
tiếp tham gia đấu tranh chống tham nhũng
nên lựa chọn phương án kết hợp ngay từ
đầu với các cơ quan báo chí. Xây dựng mối
quan hệ chặt chẽ với báo chí sẽ mang lại
kết quả khả thi hơn.
Từ trước đến nay, dường như chưa có cơ
chế phối hợp giữa những người chống
tham nhũng với các cơ quan báo chí, mà
mới chỉ hình thành “cơ chế tự phát”, sáng
tạo. Tuy nhiên, việc hình thành “đường dây
nóng” của các cơ quan báo chí, các cơ quan
chức năng cũng phần nào giúp cho cá nhân
chống tham nhũng có thêm sự tự tin vào
những quyết định không dễ dàng của mình.
Báo chí không tự mình có được tất cả các
tư liệu, chứng cứ về hành vi tham nhũng
mà nhất định phải dựa vào những “cộng tác
viên” của mình. Xét cho cùng họ cũng là
những người bạn đồng hành trong cuộc đấu
tranh này, nhưng có thể ẩn phía sau cuộc
chiến. Xây dựng mối quan hệ chiến lược
giữa báo chí và người tố cáo tham nhũng
thông qua cơ chế cụ thể; thể hiện bằng các
văn bản pháp quy cần sớm được xây dựng
và ban hành. Cá nhân chống tham nhũng
phải “tựa” lưng vào báo chí cũng, như báo
chí phải khơi dậy, nuôi dưỡng tinh thần
chống tham nhũng của mọi tầng lớp nhân
dân, coi những người dám đương đầu với
tham nhũng, dũng cảm tố cáo tham nhũng
là những hạt nhân tích cực, cộng tác viên
“ruột” của mình. Và đương nhiên, bằng
mọi cách phải bảo vệ họ trước sự tấn công
của kẻ tham nhũng. Mối quan hệ hữu cơ,
nhân quả ấy đã bắt đầu hình thành nhưng
chưa thật sự có cơ sở pháp lý bền chặt,
vững chắc. Sức lan tỏa mạnh mẽ của cuộc
đấu tranh còn khiêm tốn bởi không phải cá
nhân, hay bất cứ cơ quan báo chí nào cũng
dám dấn thân vào cái việc mà người đời
thường khuyên “được vạ má sưng”, “đám
ăn tìm đến, đám đòn tìm đi” là thế.
Những biện pháp để báo chí bảo vệ
người tố cáo tham nhũng
Những năm qua, nhất là từ khi Chính
phủ ban hành Nghị quyết số 21/NQ-CP về
Chiến lược quốc gia phòng, chống tham
nhũng đến 2010, khi nhận được sự hợp tác
từ phía những người chống tham nhũng, đa
phần các cơ quan báo chí đều sốt sắng tham
gia. Trong rất nhiều vụ việc, khi thấy tính
chất nghiêm trọng (vụ việc lớn, có ảnh
hưởng xấu đến uy tín Đảng, Nhà nước, để
lại hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế,
chính trị, xã hội) gây bức xúc trong xã hội,
báo chí đều tỏ thái độ bênh vực đến cùng,
sẵn sàng bảo vệ người tố cáo tham nhũng
đúng pháp luật. Có thể hình dung đấu tranh
chống tham nhũng cũng khó khăn như
đánh giặc. Kẻ thù luôn lắm mưu, nhiều kế,
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
181
thủ đoạn tinh vi và liều lĩnh, sẵn sàng trả
đũa khi bị tấn công, cản bước tiến của
chúng. “Giặc” tham nhũng (giặc nội xâm)
thường biết dựa vào các thế lực “bợ đỡ”
chúng. Kẻ tham nhũng nếu có thế (ô dù),
có lực (chức tước, địa vị, tiền của) lại càng
không dễ tiêu diệt. Vì thế, tổ chức chống
tham nhũng, đôi khi, trong một số trường
hợp cụ thể được xem như là tổ chức một
trận đánh trong quân sự, cũng yêu cầu phải
có lớp lang, bài bản: trinh sát nắm tình
hình, đánh giá phân tích, dự báo các tình
huống có thể diễn ra, xây dựng quyết tâm
trên cơ sở chuẩn bị lực lượng, vạch kế
hoạch tác chiến, chọn thời điểm tiến hành
trận đánh.
Nhiều cơ quan báo chí đã chủ động phát
hiện vấn đề tiêu cực, tổ chức khai thác
thông tin, xây dựng mạng lưới “cộng tác
viên” theo kiểu đặc tình. Khi đã chín mùi,
họ sẽ đưa thông tin lên báo chí. Những
cộng sự của báo chí xét cho cùng cũng là
những người chống tham nhũng. Vụ phanh
phui tiêu cực về đất đai ở thị xã Đồ Sơn
(Hải Phòng) cách đây vài năm do ông Đinh
Đình Phú, đại tá công an (đã nghỉ hưu) kết
hợp chặt chẽ với một nữ phóng viên, có sự
hỗ trợ tiếp sức, chia lửa, bảo vệ đến cùng
của các phương tiện truyền thông, đã mang
lại kết quả đúng như mong đợi. Cuộc đấu
tranh chống tham nhũng này để lại nhiều
bài học quý về việc bảo vệ người tố cáo
tham nhũng. Ở đây, chủ thể tố cáo vốn là
một cán bộ công an có nghiệp vụ, nắm
vững pháp luật, được hậu thuẫn, đồng tình
rất lớn từ phía cán bộ, nhân dân địa
phương. Nhiều vụ tham nhũng lớn liên tiếp
được báo chí và một số cá nhân tố cáo ở
Tổng công ty Dầu khí, tổng công ty Hàng
không, tổng công ty Thủy sản… rồi vụ
PMU18 cũng được xem là “trận đánh” lớn,
có sự tham gia đắc lực của báo chí. Chưa
khi nào, chưa bao giờ, chống tham nhũng
nhận được sự dõi theo, ủng hộ từ báo chí
và được sự chia sẻ của nhân dân lớn đến
như vậy. Các vụ án này đã cung cấp bài học
quý về công tác bảo vệ những người tố cáo
tham nhũng. Thiết lập mối quan hệ chặt
chẽ trên cơ sở nguyên tắc đấu tranh theo
luật pháp, có tổ chức, có bài bản mới giúp
cho việc hợp đồng tác chiến nhịp nhàng,
đạt hiệu quả như mong muốn.
Báo chí chống tham nhũng thông qua
việc bênh vực lẽ phải cho người chống
tham nhũng, đã trở thành công việc thường
nhật của không ít cơ quan báo chí. Nói đến
việc này cần ghi nhận, nêu gương các cơ
quan báo chí đi đầu, trong đó nổi bật lên là
báo Pháp luật TpHCM (Sở Tư pháp
TpHCM). Trước khi Quốc hội ban hành
Luật Phòng chống tham nhũng (PCTN),
Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị
quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
về đấu tranh PCTN, báo đã có nhiều bài
viết điều tra về các vụ việc có dấu hiệu
tham nhũng. Từ năm 2002 khi Quốc hội
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
182
sửa đổi Bộ Luật Tố tụng Hình sự, sửa đổi
Luật Báo chí, báo chí đã có nhiều bài viết
bàn về cơ chế bảo vệ người tố giác, bảo vệ
nguồn tin. Một số báo đài cũng đã có nhiều
đóng góp trong cuộc đấu tranh và bảo vệ
người tố cáo tham nhũng, tiêu biểu như
Nhân dân, Quân đội nhân dân, Sài gòn giải
phóng, Tuổi trẻ, Tiền phong, Thanh niên,
Đại đoàn kết, Cựu chiến binh, Người cao
tuổi, Đài truyền hình VN, Đài Tiếng nói
VN, Văn nghệ Trẻ, Công an nhân dân,
Công an TpHCM… thậm chí có cả những
tờ tạp chí, báo chí điện tử cũng tích cực
phát hiện và góp tiếng nói bảo vệ người
chống tham nhũng. Trong bối cảnh chung
là các cơ quan chức năng chưa thực sự
quan tâm tới công tác PCTN, đâu đó vẫn
chưa thiện cảm, hay soi xét động cơ của
những người tố giác tham nhũng, các báo
vẫn tìm đến gương sáng, kinh nghiệm tốt
trong công tác PCTN. Tôn vinh, biểu
dương khen thưởng kịp thời các cá nhân có
thành tích trong cuộc đấu tranh này cũng
là một cách bảo vệ họ. Tuy vậy, trên thực
tế, số các cơ quan báo chí tham gia đến
cùng vụ việc tiêu cực, tham nhũng và bảo
vệ người tố cáo chống tham nhũng chưa
nhiều. Việc khen thưởng thích đáng cho
những lực lượng có thành tích trong cuộc
đấu tranh chống tham nhũng là rất cần thiết
nhưng phải được xem xét kỹ, thận trọng để
khen cho đúng và trúng đối tượng, tránh để sai
sót, thiếu công bằng hay khen thưởng không
tương xứng với thành tích mà họ đạt được.
Xây dựng lực lượng “nòng cột” chống
tham nhũng ở các bộ, ngành trung ương
Mặc dù đã có những chuyển biến bước
đầu tích cực nhưng năm 2010, tội phạm
tham nhũng vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong số
các vụ án tham nhũng bị khởi tố; cả nước
mới chỉ có 25 cơ quan, tổ chức, đơn vị tự
phát hiện được tham nhũng. Điều này càng
cho thấy, nếu không có những người dám
đương đầu tố cáo và chống tham nhũng,
nếu không có báo chí đồng hành, giám sát,
kiểm tra, phát hiện tiêu cực, tham nhũng thì
khó có thể phát hiện và từng bước đẩy lui
quốc nạn này. Đây được coi là hai lực
lượng chủ công, rường cột của cuộc đấu
tranh này. Báo chí đã đề cao trách nhiệm
hỗ trợ, sẻ chia những khó khăn của các cá
nhân chống tham nhũng; nhân rộng các
tấm gương sáng giữa đời thường; phổ biến
giáo dục cho xã hội một triết lý tưởng như
quá quen thuộc: mình vì mọi người, sống
vì lý tưởng cao đẹp. Báo chí phát hiện và
phản ánh những kinh nghiệm quý được đúc
rút từ các cuộc đấu tranh chống tham
nhũng thành công và chưa thành công. Qua
giám sát cho thấy, các vụ tham nhũng được
phát hiện và xử lý chủ yếu ở cấp cơ sở; số
người bị phát hiện được và bị khởi tố ở cấp
trung ương là rất ít, nhưng số tiền bị chiếm
đoạt lại rất lớn. Bởi vậy, trong hoạt động
phòng chống tham những các cơ quan chức
năng như Bộ Công an, Bộ Nội vụ, lãnh đạo
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
183
các bộ, ngành ở trung ương cũng phải đồng
hành, “vào cuộc” mới có thể giành thắng lợi.
Xây dựng và hoàn thiện thể chế về
PCTN
Trong các năm 2004-2006 báo chí (nhất
là báo chí khối chính trị, nội chính, trong
đó đi tốp đầu là báo Pháp luật Tp. HCM)
đã bám sát thông tin, tuyên truyền về quá
trình xây dựng Luật PCTN, có nhiều kỳ
báo giới thiệu, phân tích các nội dung mới,
có tính chiến đấu cao của nghị quyết Trung
ương 3 về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong công tác PCTN và thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí”. Nghị quyết này
với nhiều nội dung lớn đến nay vẫn còn
nguyên giá trị thời sự trong công cuộc
PCTN. Sau khi có Luật PCTN và Nghị
quyết Trung ương 3, báo chí đã có nhiều
bài viết bám sát quá trình triển khai luật,
nghị quyết. Báo chí đã phản ánh những khó
khăn, bỡ ngỡ ban đầu, như việc Văn phòng
Ban chỉ đạo trung ương về PCTN vừa ra
mắt đã “ngập đầu” trong đơn thư khiếu tố.
Hay như nhiều khó khăn, lúng túng trong
thực hiện kê khai tài sản của cán bộ, công
chức, người có chức vụ quyền hạn theo
Luật PCTN và Nghị định của Chính phủ về
minh bạch tài sản, thu nhập. Báo chí cũng
đi sâu phân tích những vướng mắc, bất cập
trong thực tiễn thi hành Quy chế về tặng
quà, nhận quà tặng của Chính phủ…
Báo chí bám sát kết quả thực hiện Luật
PCTN hàng năm của Chính phủ, kết quả
giám sát của Quốc hội về thực hiện Luật
PCTN, cũng như việc sơ kết thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3. Qua đó có nhiều
bài viết phân tích sâu về hiện tượng số
lượng vụ án được phát hiện, khởi tố mới
giảm liên tục từ 2008 đến nay…Báo chí
cũng phản ánh những vướng mắc của các
cơ quan tố tụng trong việc phát hiện, xử lý
án tham nhũng, trong đó có cả những
vướng mắc trong thực hiện cơ chế báo cáo
cấp ủy trước khi khởi tố cán bộ thuộc diện
cấp ủy quản lý. Việc hoàn thiện thể chế về
PCTN xét ở góc độ nào đó cũng góp phần
gián tiếp tạo điều kiện, hỗ trợ công tác
PCTN nói chung và người tố cáo tham
nhũng có những cơ sở pháp lý để đấu tranh
PCTN có hiệu quả hơn.
Đây là một nội dung rất quan trọng cần
phải được quan tâm nghiên cứu, đề xuất,
kiến nghị với Chính phủ sớm ban hành cơ
chế này nhằm bảo vệ có hiệu quả, dễ thực
thi đối với người tố cáo tham nhũng.
Thực tế cuộc đấu tranh chống tham
nhũng thời gian qua cho thấy, nếu thế giới
đã có quy định rõ việc nhà báo có quyền từ
chối cung cấp nguồn tin, được phép bảo vệ
đến cùng nguồn tin, thì ở ta chuyện này,
trong một số vụ việc cụ thể lại buộc phải
chứng minh rõ nguồn gốc tư liệu, thông tin
có được. Ví như, ở ta có quy định: khi để
xử lý tội phạm nghiêm trọng (dự kiến mức
án 5 năm trở lên), chánh án tòa án, viện
trưởng viện kiểm sát tỉnh mới được hỏi
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
184
nguồn tin của báo chí sử dụng; song lại có
những trường hợp có những lực lượng
được hỏi nhà báo nguồn tin như công an,
ủy ban nhân dân, chính quyền… Điều này
cho thấy, người làm báo, khi chưa có Luật
tiếp cận thông tin thì việc tìm kiếm, khai
thác, xử lý và công khai thông tin trên báo
chí đang gặp không ít trở ngại; nay lại càng
khó khăn hơn khi phải trung thực khai ra
người cung cấp thông tin cho mình.
Để tạo điều kiện tốt nhất cho nhà báo
hoạt động, song hành với Luật Báo chí,
Đảng đã ban hành một hệ thống các văn
bản về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý
báo chí. Nó được coi là cơ sở pháp lý quan
trọng cho quá trình tác nghiệp, hành nghề
của các nhà báo. Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã ra Quy định về việc chỉ đạo, định
hướng chính trị, tư tưởng, nhất là đối với
các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm
trong nội dung thông tin của báo chí (Ban
hành kèm theo Quyết định số 157-QĐ/TƯ
ngày 29/4/2008) nhằm định hướng báo chí
thông tin đúng đắn, chính xác, kịp thời các
vấn đề chính trị, tư tưởng theo quy định của
pháp luật và quy định của Đảng, phù hợp
với lợi ích của đất nước, của Đảng. Các
Văn bản đó giải thích rõ các khái niệm, như
“vấn đề quan trọng”, “phức tạp, nhạy cảm”
theo cách định tính, định lượng để những
người làm báo dễ hiểu hơn khi tiếp cận
thông tin và xử lý thông tin đăng, phát trên
báo chí.
Bên cạnh những thuận lợi, những năm
gần đây, hoạt động tác nghiệp của các nhà
báo còn gặp những khó khăn như tiếp cận
thông tin, bị cản trở ở nhiều mức khác
nhau: từ chối hợp tác, đe dọa tính mạng,
hành hung gây thương tích, uy hiếp tinh
thần, trả thù… Nhất là trên lĩnh vực đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực xã hội,
nhà báo phải đối mặt với hiểm nguy, trong
những hoàn cảnh ấy, đôi khi người làm báo
cảm thấy lo lắng, đơn thương, độc mã, mặc
cảm, tủi thân khi bị chèn ép, thậm chí tấn
công vô cớ. Điều này cho thấy người làm
báo và người tố cáo tham nhũng, tiêu cực
dễ có sự đồng cảm với nhau khi họ cùng
hướng đến cái đích cao cả phục vụ cho xã
hội, đất nước bằng những việc làm tốt đẹp -
đẩy lui cái xấu, cái ác ra khỏi đời sống xã hội.
Sát cánh cùng nhà báo chống tham
nhũng tiêu cực, các cơ quan quản lý nhà
nước- Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội
Nhà báo VN, Ban Tuyên giáo Trung ương
đều có ý kiến đồng thuận, kiên quyết làm
sáng tỏ các vụ việc đã được công khai
trong dư luận và nhất là trên các phương
tiện truyền thông. Cho dù chưa có kết quả
điều tra cuối cùng nhưng các nhà báo,
những cơ quan báo chí tích cực tham gia
cuộc đấu tranh chống tham nhũng sẽ không
bao giờ đơn độc. Đảng, Nhà nước và nhân
dân luôn là chỗ dựa tin cậy, vững chắc để
họ vững tin khi tác nghiệp gặp khó khăn,
hiểm nguy. (Xem tiếp trang 174)
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
185
1. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về“Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”đã đặt ra mục tiêu đưa nước ta trở thànhquốc gia mạnh về biển, hướng ra biển vàlàm giàu từ biển. Nghị quyết Trung ương 4cũng đã khẳng định công tác tuyên truyền,giáo dục nhận thức về chủ quyền biển, đảolà một trong những giải pháp quan trọngcần phải đẩy mạnh trong hệ thống các giảipháp nhằm thực hiện thành công Chiếnlược. Công tác tuyên truyền về biển, đảogóp phần làm cho người dân Việt Namnhận thức được vị trí, tầm quan trọng vàchủ quyền của biển, đảo Việt Nam, để từđó thấy được nghĩa vụ và trách nhiệm củamình trong việc bảo vệ chủ quyền thiêngliêng của Tổ quốc trên biển.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước vànhân dân ta đã không ngừng hướng về nơibiển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; quantâm, đầu tư xây dựng để quần đảo TrườngSa ngày càng hiện đại, phát triển. Diện mạocủa huyện đảo Trường Sa đang đổi mớitừng ngày. Các công trình kinh tế kết hợpvới quốc phòng phục vụ dân sinh được chútrọng đầu tư như: sân bay, âu tàu, cầu cảng,trạm hải đăng, đài khí tượng thuỷ văn, trạm
thu phát truyền hình vệ tinh, trạm thu pháttín hiệu viễn thông, hệ thống năng lượngsạch, máy phát điện gió… Cùng với đó,các công trình như nhà tưởng niệm Chủtịch Hồ Chí Minh, đài tưởng niệm liệt sĩ,nhà khách Thủ đô, chùa Trường Sa, chùaSong Tử, Sinh Tồn… đã trở thành nơi giaolưu, sinh hoạt văn hoá tinh thần, giáo dụctruyền thống văn hoá dân tộc cho quân vàdân huyện đảo.
Ngư trường quần đảo Trường Sa hômnay thu hút một lượng lớn ngư dân của cácđịa phương như Đà Nẵng, Quảng Nam,Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, KhánhHòa, Ninh Thuận, Bình Thuận… thườngxuyên đánh bắt. Ngoài việc có thể ghé vàoTrường Sa mua xăng dầu, nước ngọt, ngưcụ cần thiết, ngư dân còn yên tâm hơn khitrên quần đảo đã có cả trạm sửa chữa tàuthuyền; cũng như có đội ngũ y, bác sỹ sẵnsàng khám, chữa bệnh cho người dân. Cánbộ, chiến sỹ và nhân dân huyện đảo cònthường xuyên tuyên truyền, phổ biến chongư dân những kiến thức về tìm kiếm, cứuhộ, cứu nạn, thông tin dự báo thời tiết; đấutranh chống các hành vi vi phạm các quyđịnh về trật tự, an toàn giao thông trên biển,
ĐỂ BÁO CHÍ THựC Sự LÀ CầU NỐI
GIữA TRƯỜNG SA VỚI ĐấT LIỀN
?PHẠM QUý TRỌNG
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
186
phá hoại môi trường sinh thái biển…Đại tá Nguyễn Công Sơn, Chủ nhiệm
Chính trị Vùng 4 Hai quân, chia sẻ: “Đảolà nhà, biển cả là quê hương”, gạt đi nhữnggiọt mồ hôi mặn mòi hơi biển, quân và dânhuyện đảo Trường Sa hôm nay bằng trí tuệvà sự hy sinh quên mình, luôn sẵn sàng vàquyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyềnbiển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; xâydựng, đưa đời sống của quân, dân huyệnđảo ngày một nâng cao, đưa “huyện đảoTrường Sa gần hơn với đất liền”. Ở thị trấnTrường Sa lớn đời sống tinh thần của quân,dân trên đảo từng bước nâng lên đáng kểtừ khi có Nhà văn hóa, Bưu điện, phònghọc... Trụ sở làm việc của UBND các xãđảo Song Tử Tây, Sinh Tồn, thị trấn đảoTrường Sa được xây dựng khang trang vớicác trang thiết bị cần thiết. Đường nội bộ,khu xử lý nước thải, trạm phát điện, hệthống điện hạ thế, bể nước trên các xã đảo…đều được quy hoạch, xây dựng hoàn chỉnh.
Khoảng cách về không gian, địa lý giữahải đảo và đất liền đã gần hơn nhờ côngnghệ thông tin. Sóng truyền hình, sóngviễn thông được phủ trên phần lớn các đảothuộc Trường Sa, “nhà nhà”, “ngườingười” đều có thể xem được ti vi, nghe đài,đọc báo cũng như trò chuyện với ngườithân trong đất liền thường xuyên. Người đi“bám đảo, bám biển mưu sinh” cũng khôngcòn nỗi lo canh cánh về “hậu phương” đấtliền, người ở nhà cũng vơi đi những khắckhoải chờ đợi ngóng tin từ phía biển xa.
Trường Sa hôm nay không còn xa nữa.Ngày càng có nhiều chuyến tàu đến đâykhông chỉ đánh bắt thủy hải sản xa bờ haythăm hỏi quân và dân huyện đảo mà trongtương lai sẽ phát triển cả tham quan, dulịch, trao đổi, học tập. Thiếu tá Phạm SĩHoài, đảo Song Tử Tây cho biết: “Mỗichuyến tàu ra đảo, ngoài những món quàvật chất, các chiến sỹ còn chờ đợi nhữngmón quà tinh thần, đó là những cuốn tiểuthuyết, tập truyện ngắn, các ấn phẩm báovà tạp chí để chiến sỹ thư giãn ngoài giờluyện tập, trực chiến”.
Không chỉ vậy, mỗi cuốn sách, cẩmnang cuộc sống, sổ tay chăm sóc sức khỏecòn là “chỗ dựa kiến thức” cho mỗi ngườidân trên đảo Trường Sa. Những công dânnhỏ được chào đời trên đảo được chăm sóctừ chính những kiến thức trong sách ấy.“Có những vấn đề phát sinh từ thực tế liênquan đến chăm sóc sức khỏe trẻ em trênđảo, chúng tôi phải vào thư viện, tìm kiếmtrong các ấn phẩm, tài liệu khoa học mớicó được cách giải quyết, xử lý hiệu quả”.Anh Đoàn Anh Kiệt, ngư dân trên đảoSong Tử Tây tâm sự.
Nắm bắt được những nhu cầu về thôngtin, kiến thức khoa học kỹ thuật đối vớiquân, dân vùng hải đảo trong những nămqua, trên những con tàu đến với Trường Sacùng với những món quà vật chất của nhândân cả nước gửi tặng quân, dân trên đảocòn rất nhiều sách báo, tài liệu của đại diệncác bộ, ban, ngành Trung ương và địa
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
187
phương mang tặng. Những món quà tinhthần ấy là nguồn tư liệu, tri thức cực kỳ hữuích đối với cán bộ, chiến sỹ, người dânhuyện đảo Trường Sa. Đại tá Ngô HoàBình, Phó Chủ nhiệm Chính trị Vùng 4 Hảiquân bộc bạch: “Nhu cầu tìm hiểu thôngtin, kiến thức khoa học cũng như thông tinthời sự là nhu cầu thiết yếu đối với đờisống của cán bộ, chiến sỹ và nhân dânhuyện đảo Trường Sa. Từ chỗ có thông tinvà chủ động về mặt kiến thức, quân và dânhuyện đảo đẩy mạnh tăng gia sản xuất,nâng cao hiệu quả khai thác đánh bắt, nuôitrồng hải sản góp phần nâng cao đời sốngkinh tế của quân và dân huyện đảo”. Thờigian qua, cán bộ, chiến sỹ và người dâncùng nhau xây dựng khu tăng gia tập trungđể thường xuyên cung cấp, bổ sung thựcphẩm cho các đảo như: chăn nuôi bò, heo,đào ao nuôi cá, trồng rau, củ, quả. Do điềukiện khí hậu đặc thù, việc trồng rau xanhcần những kỹ thuật khác với ở đất liền; việcchăn nuôi gia súc cũng cần có những“phương thức chăm sóc đặc biệt” để vậtnuôi trưởng thành, ít bệnh tật.
Trao đổi với một số chiến sỹ và ngườidân, những thông tin về các điển hình, nhântố mới trong phát triển kinh tế biển, đảo;ứng dụng, chuyển giao những thành tựukhoa học tiên tiến trong nuôi trồng, đánhbắt, khai thác nguồn lợi thủy sản, hải sảntrên báo chí luôn được người dân các xãđảo đón nhận. Báo chí bước đầu đã làm tốtvai trò cung cấp thông tin cho người dân
các xã đảo và đang thực sự là cầu nối giữaTrường Sa với đất liền.
2. Báo chí đến với Trường Sa, viết vềTrường Sa nói riêng và biển, đảo nói chungthật sự là cánh tay nối dài đưa biển đảo đếnvới đất liền khi và chỉ khi mỗi người làmbáo cần ý thức đầy đủ nghĩa vụ công dânvà trách nhiệm xã hội trong hoạt động nghềnghiệp của mình. Không phải ngẫu nhiên,mỗi chuyến thăm Trường Sa, ngoài đạidiện của các bộ, ban, ngành Trung ương vàđịa phương luôn có đoàn nhà báo đại diệncho nhiều cơ quan truyền thông đại chúngkhác nhau. Đảng, Nhà nước và Quân độiluôn quan tâm, đánh giá cao vai trò của báochí trong các hoạt động tuyên truyền về hảiđảo, biên cương.
Viết về Trường Sa, về biển, đảo thế nàocho đúng, cho đủ, cho hay và hấp dẫn? Câuhỏi này luôn trăn trở thường trực trong mỗinhà báo khi bước chân lên tàu đến vớiTrường Sa. Viết chủ đề gì, lựa chọn gócnhìn, đề tài ra sao trong khi đã có rất nhiềuphóng viên đi trước đã phản ánh. Cuộcsống ở huyện đảo Trường Sa đa dạng, làchủ đề phong phú để nhà báo khai thác.Phóng viên mảng nông nghiệp sẽ khai thácvấn đề trồng rau sạch, nuôi thủy hải sản;phóng viên mảng y tế khai thác chủ đềchăm sóc sức khỏe ngư dân, người dân trênđảo; phóng viên nội chính sẽ tập trung vàolĩnh vực rèn luyện, kỷ luật chiến đấu củacán bộ, chiến sỹ, phóng viên mảng giáodục sẽ tìm hiểu về việc dạy và học trên các
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
188
xã đảo hôm nay… Mỗi tờ báo là một gócnhìn, là một cách phản ánh, nhưng tựuchung lại các chủ đề phản ánh luôn toát lênsức sống mãnh liệt, sự can trường của cánbộ, chiến sỹ và nhân dân đang ngày đêmbám biển, bám đảo giữ gìn sự bình yên choTổ quốc. Cũng chính từ những chuyến đithăm, tìm hiểu và tuyên truyền về cuộcsống sinh hoạt, học tập, công tác của quânvà dân trên huyện đảo Trường Sa, nhà dànDK1 và các đảo ven bờ mà các nhà báo đãcó được những tác phẩm báo chí xuất sắc,đạt giải cao trong Giải báo chí quốc gia.
Có thể kể đến một số tờ báo lớn luôn cónhững chuyên mục, chuyên trang dành chobiển, đảo và quần đảo Trường Sa như báoNhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, ĐàiTiếng nói Việt Nam, báo Quân đội Nhândân, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Tuyên giáo,báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam…Thông tấn xã Việt Nam phối hợp với Vănphòng Thường trực Ủy ban Chỉ đạo Nhànước về Biển Đông – Hải đảo xây dựng vàphát sóng chương trình “Biên giới – biển,đảo – quê hương”, chuyển tải kịp thời tớicán bộ, đảng viên và nhân dân những chủtrương, quan điểm của Đảng, chính sáchcủa Nhà nước, thông tin về các vấn đề liênquan đến biển, đảo. Tạp chí Tuyên giáo,báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam mởchuyên trang “Biển và Hải đảo Việt Nam”phản ánh những tình cảm, tinh thần tráchnhiệm của các tầng lớp nhân dân hướng vềbiển đảo cũng như tinh thần quyết tâm bảo
vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổquốc. Nhiều báo điện tử đã tổ chức tốtchuyên trang, chuyên mục về biển, đảoViệt Nam (bằng tiếng Việt, tiếng Anh vàtiếng Trung) giúp nhân dân ở trong vàngoài nước có những thông tin chính xác,đầy đủ về biển, đảo Việt Nam…
Tuy nhiên, theo nhà báo Hoàng TrườngGiang – báo Quân đội Nhân dân, việc tổchức các đoàn nhà báo ra Trường Sa rất tốt,nhưng do thời gian lưu trú trên đảo còn hạnchế, nên một số nhà báo chưa thật sự cảmnhận, thấu hiểu nỗi vất vả, gian truân củaquân và dân huyện đảo để thể hiện trongbài viết. Nếu như được Quân chủng HảiQuân bố trí thêm thời gian, được cung cấpđầy đủ thông tin về đặc thù từng đảo, chắcchắn các nhà báo sẽ có thời gian xây dựngchủ đề, tìm hiểu, đào sâu từng vấn đề giúpcho bài viết sâu sắc hơn. Mỗi tin, bài khôngchỉ là phản ánh các hoạt động tri ân, tặngquà, thăm hỏi mà còn là những sẻ chia,lắng đọng những phút giây tình cảm, khắckhoải thấm đẫm tình người, tình quân dân.Đến với Trường Sa, dù là nhà báo hayngười dân bình thường, không chỉ đểkhẳng định mình đã từng đặt chân đến với“đầu sóng ngọn gió”, tiền tiêu Tổ quốc màcòn để được sống với đảo, “cảm nhận đảo”,cảm thông, sẻ chia những gian khó, và cảtự hào về những con người đang ngày đêmbảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Là những độc giả đọc báo thườngxuyên, cán bộ, chiến sỹ và người dân cũng
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
189
mong muốn, báo chí cần có sự kết nối giữahậu phương và tiền tuyến. Ví như, bêncạnh các bài viết tuyên truyền về TrườngSa, cũng nên có những bài viết về “hậuphương” của các chiến sỹ, làm nổi bật vịtrí, trách nhiệm người đang ngày đêm vữngtay súng bảo vệ chủ quyền, nhưng cũng cầncó thông tin bên lề để động viên người hậuphương nơi đất liền. Người chiến sỹ, ngưdân sẽ thấy vui hơn khi “hậu phương” củahọ cùng xuất hiện trên trang báo, giúp họvững tin hơn để yên tâm gắn bó lâu dài vớicác xã đảo Trường Sa.
Qua chuyến đi thực tế tại huyện đảoTrường Sa, chúng tôi có thể cảm nhận cánbộ, chiến sỹ và nhân dân trên đảo vẫn cònthiếu thốn rất nhiều chủng loại sách, báo,tạp chí, tài liệu, phương tiện thông tin… Vàmong muốn chung của cán bộ, chiến sỹ lànội dung tuyên truyền trên báo chí viết vềbiển, đảo cần phong phú, đa dạng hơn…Để báo chí thực sự là cầu nối giữa TrườngSa với đất liền, theo chúng tôi cần tập trunglàm tốt một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tập trung tuyên truyền về ứngdụng, chuyển giao những thành tựu khoahọc tiên tiến trong nuôi trồng, đánh bắt,khai thác nguồn lợi thủy sản, hải sản; vấnđề tài nguyên, môi trường biển, phát triểnkhoa học – công nghệ biển, bảo vệ môitrường biển cho ngư dân, người dân sốngở huyện đảo Trường Sa.
Thứ hai, tuyên truyền về các chính sáchcủa Nhà nước khuyến khích nhân dân ra
định cư trên đảo, làm ăn dài ngày trên biển;tuyên truyền nâng cao tinh thần tráchnhiệm, tình cảm của mọi tầng lớp nhân dânđối với cán bộ, chiến sỹ và nhân dân đangngày đêm làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyềnbiển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; Tậptrung tuyên truyền các gương điển hình tậpthể, cá nhân dũng cảm, quên mình bảo vệchủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc; tậptrung tuyên truyền, phản ánh các hoạt độngtri ân, tặng quà, hỗ trợ đời sống của vợ con,gia đình, người thân của các cán bộ, chiếnsỹ đang ở đất liền.
Thứ ba, báo chí phải tạo cầu nối để các
nhà khoa học, các nhà kinh tế đưa các ứng
dụng, nghiên cứu khoa học ra ngoài đảo.
Thứ tư, các cơ quan báo chí quan tâm hỗ
trợ kinh phí phát hành để các ấn phẩm đến
với cán bộ, chiến sỹ, nhân dân trên đảo
được thường xuyên hơn. Đặc biệt, cần xây
dựng đội ngũ cộng tác viên là cây bút sắc
sảo, các chuyên gia, các nhà khoa học về
biển, đảo để viết những bài chuyên sâu về
Trường Sa; tăng cường việc tổ chức, bồi
dưỡng, tập huấn, thâm nhập thực tế cho đội
ngũ phóng viên tuyên truyền biển, đảor
Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo 2014.- Số
4.- 66 - 69.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
190
Cách đây hơn 160 năm C.Mác chorằng: báo chí tự do - đó là con mắtsáng suốt của tinh thần nhân dân;
là hiện thân sự tin cậy của nhân dân đối vớibản thân mình, là những dây liên hệ biếtnói, gắn liền các cá nhân với nhà nước vàvới toàn thế giới, nó là hiện thân nền vănhóa đang biến cuộc đấu tranh vật chấtthành cuộc đấu tranh tinh thần và lý tưởnghóa hình thức vật chất thô bạo của cuộc đấutranh đó... báo chí tự do là toàn diện, nơinào cũng có mặt, cái gì cũng biết(1).
Ngày nay, báo chí là hiện tượng xã hộiđặc biệt, một loại hình truyền thông đạichúng đa chức năng. Trong xã hội hiện tạibáo chí đang có những chuyển biến rấtmạnh mẽ từ loại hình, phương thức đến nộidung. Theo nhận thức chung của xã hội,báo chí có 4 chức năng chính: Là công cụchính trị - tư tưởng của Đảng và Nhà nước;phương tiện cung cấp thông tin và nâng caonhận thức cho người dân; cung cấp thôngtin kịp thời, đa dạng và toàn diện; kênh chủyếu để hình thành dư luận xã hội(2). Còntác giả Michael Schudson đã xác định 7
mục tiêu mà báo chí cần đạt tới: 1) Báo chícung cấp cho công dân những thông tin đầyđủ và công bằng; 2) Báo chí cung cấp mộtkhuôn khổ chặt chẽ để giúp công dân có cáinhìn tổng thể về thế giới chính trị phức tạp;3) Báo chí nên đóng vai trò làm ngườichuyển tải chung cho các quan điểm củanhóm người khác nhau trong xã hội; 4) Báochí cung cấp thông tin đáp ứng nhu cầu củathị trường; 5) Báo chí đại diện cho lợi íchvà tiếng nói của công chúng; 6) Báo chíkhơi dậy sự cảm thông và hiểu biết sâu sắccủa con người; 7) Báo chí nên cung cấpdiễn đàn đối thoại giữa những công dân(3).
Tại Điều 6, Luật Báo chí Việt Nam sửađổi năm 1999 khẳng định báo chí có 6nhiệm vụ và quyền hạn, bao gồm: 1) Thôngtin trung thực; 2) Tuyên truyền, phổ biến,góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối,chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luậtcủa Nhà nước; 3) Phản ánh và hướng dẫndư luận xã hội; 4) Phát hiện, nêu gương tốt;đấu tranh phòng, chống các hành vi viphạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cựcxã hội khác; 5) Góp phần giữ gìn sự trong
VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG
THựC HIỆN PHẢN BIỆN XÃ HỘI
?THS ĐỖ VăN QUÂN
Viện Xã hội học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
191
sáng của tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểusố Việt Nam; 6) Mở rộng sự hiểu biết lẫnnhau giữa các nước và các dân tộc. Trên cơsở những quan điểm nêu trên, chúng tôicho rằng, báo chí ở Việt Nam đang thựchiện 5 chức năng chính: thông tin; giáo dụcvà định hướng chính trị tư tưởng; văn hoá,giải trí; giám sát, phản biện xã hội, quản lýxã hội; kinh doanh - dịch vụ.
Vai trò của báo chí đối với hoạt độngphản biện xã hội trong điều kiện ở ViệtNam hiện nay được thể hiện trên các khíacạnh sau:
Một là, báo chí - chủ thể khơi nguồn chophản biện xã hội. Báo chí là một sản phẩmcủa xã hội văn minh, có khả năng kết nốicộng đồng nhờ sự ứng dụng các thành tựukhoa học công nghệ vào đời sống. Với bảnchất hoạt động là truyền tải thông tin, nhậnđịnh, bàn luận về các sự kiện, hiện tượngmới xảy ra có ý nghĩa với đời sống xã hội,báo chí và phản biện xã hội có những mốiquan hệ rất mật thiết và sâu sắc. Những sựkiện, vấn đề mang tính chất bất cập củachính sách trong đời sống xã hội. Nhữngsự kiện, vấn đề ấy lại là đối tượng phản ánhcủa báo chí. Cho nên, trong xã hội hiện đại,phần lớn các sự kiện phản biện xã hộiđược châm ngòi hay “khởi động, khơinguồn” từ báo chí. Phản biện xã hội cũnglà khởi nguồn cho việc điều tra, tìm kiếmthông tin và phản ánh sự kiện của báo chí.Trong trường hợp này, từ một nguồn tin, từmột hoặc nhiều ý kiến phản ánh đến toà
soạn báo hay thông qua các kênh truyềnthông khác, nhà báo và cơ quan báo chí tìmthấy vấn đề mà xã hội đang quan tâm đểtiếp tục khai thác đến cùng sự kiện đó.Thực tế cho thấy báo chí đang là kênhthông tin quan trọng, là tiếng nói đại diệncho tâm tư, nguyện vọng chính đáng củacác giai tầng xã hội; là phương tiện cổ vũtập thể, tuyên truyền mang tính định hướngvới quy mô lớn. Do vậy, phản biện xã hộilà một sản phẩm cơ bản, quan trọng củabáo chí khi tác động vào các thiết chế vànhận thức xã hội. Tại Việt Nam trongnhững năm vừa qua, sức mạnh của báo chíđược thể hiện qua việc khơi nguồn, tạo ramôi trường, điều kiện cho phản biện xã hội.Chính vì vậy, báo chí đang dần trở thànhmột trong những “dòng chảy chủ đạo” củahoạt động phản biện xã hội.
Hai là, phản biện xã hội là đối tượngphản ánh của báo chí. Tại sao báo chí phảiphản ánh hoạt động phản biện xã hội? Theochúng tôi báo chí luôn phản ánh mọi mặtcủa đời sống xã hội, mà phản biện là mộthiện tượng có ý nghĩa trong đời sống xãhội, nhất là trong các xã hội dân chủ, vănminh và phát triển, do đó nó cũng là mộtđối tượng quan trọng để báo chí phản ánh.Không những vậy, báo chí luôn gắn bó chặtchẽ với dòng thông tin thời sự, gắn bó vớinhững sự kiện nóng bỏng của đời sống xãhội, trong khi đó phản biện xã hội biểu lộthái độ, tình cảm, nhận thức, tính tự nguyệnvà trí tuệ của công chúng trong xã hội về
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
192
những vấn đề cụ thể. Báo chí chính là kênhthông tin có thẩm quyền, có khả năng vànhận trách nhiệm chuyển tải thái độ, nhậnthức, tình cảm, trí tuệ của các chủ thể phảnbiện xã hội đến bộ máy công quyền nhằmphát ra các thông điệp cần thiết, giúp bộmáy ấy điều chỉnh, xử lý những vấn đề liênquan đến quốc kế dân sinh.
Về bản chất, bộ máy công quyền phảituân theo pháp luật, lấy pháp luật làm căncứ xử lý mọi quan hệ xã hội. Trong xã hộihiện đại và nhà nước pháp quyền thì việc“thượng tôn pháp luật” càng được đề cao.Do vậy, các cơ quan công quyền không thểra quyết định, xử lý công việc chỉ duy nhấtvì áp lực của phản biện xã hội, tuy nhiêntrên thực tế, phản biện xã hội lại có sứcmạnh to lớn. Nó thể hiện lý trí, tình cảm,thái độ, trí tuệ và quyết tâm của cá nhân, tổchức và cộng đồng trước những sự kiện,chính sách liên quan đến quốc kế dân sinh.Nếu như cơ quan công quyền làm ngơtrước sức mạnh như vậy có thể dẫn đếnnhững sai lầm mà hệ quả có thể rất khókhắc phục. Báo chí khi chuyển tải các sựkiện này cũng không bỏ qua cơ hội đặt vấnđề lên đúng tầm vóc của nó bằng cách nhấnmạnh vào sự quan tâm của hoạt động phảnbiện xã hội, coi đó như một tiêu chí, mộtnguyên nhân chính đáng để báo chí phảnánh sâu, kỹ và thực hiện tốt hơn tráchnhiệm xã hội. Trong phương diện này, phảnbiện xã hội được phản ánh như một phầnhoặc toàn bộ nội dung thông tin về sự kiện
trong tác phẩm báo chí (nhiều trường hợpphản biện xã hội là đối tượng phản ánh duynhất trong tác phẩm báo chí). Trong nhữngtrường đặc biệt quan trọng báo chí có thểdành hẳn một hoặc một số trang, mục, bàiviết, diễn đàn để bạn đọc, công chúng bàytỏ quan điểm, thái độ của mình.
Ba là, báo chí định hướng tạo ra sức lantỏa của phản biện xã hội. Báo chí phản ánhphản biện xã hội, nhưng sự phản ánh ấykhông thụ động mà có ý thức rõ ràng,hướng tới mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên thựctế cho thấy, vẫn còn tồn tại một số cáchnhìn nhận chưa đầy đủ về vai trò này củabáo chí. Có người cho rằng, báo chí đơnthuần có nhiệm vụ đưa tin, còn nhận thứclà vấn đề của cá nhân không ai áp đặt được.Đặc biệt, hoạt động phản biện xã hội làhành vi mang tính lý trí và trách nhiệm, chonên không cần phải định hướng. Còn nếugiả sử họ lầm lạc, nhận thức sai, hành độnglệch lạc thì đã có sự điều chỉnh của các quyphạm pháp luật, chứ không phải thuộcphạm trù trách nhiệm định hướng của báochí. Theo chúng tôi quan điểm này xem racũng có cơ sở nhất định, đặc biệt đặt trongbối cảnh các nước phương Tây phát triển.Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, trên thựctế, báo chí không thể chỉ phản ánh đơnthuần hoạt động phản biện xã hội, mà sựphản ánh đó luôn có mục đích cụ thể. Bởivì, mục đích của thông tin báo chí trước hếtvà chung nhất là nhằm để công chúng“biết” đến sự thật đang diễn ra xung quanh
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
193
mình, nhưng sâu xa hơn là phải hướng đếnviệc tích cực hoá đời sống chính trị- xã hội,được phản ánh bằng sự hiểu biết và kiểmsoát bởi lý trí của công chúng. Đặc biệt,trong điều kiện mặt bằng dân trí còn chưacao và không đồng đều, pháp luật cònnhiều bất cập thì việc báo chí thực hiệnchức năng định hướng của hoạt động phảnbiện xã hội còn là điều cần thiết.
Bốn là, báo chí làm gia tăng sức mạnhcủa các kênh và các chủ thể phản biện xãhội khác.
Phản biện xã hội qua báo chí có nhữngđặc điểm khác biệt so với các kênh phảnbiện xã hội khác như: 1) Phản biện xã hộiqua báo chí thể hiện tính minh bạch côngkhai, thể hiện ý chí chung của nhiều người,nhiều giai tầng xã hội, nhiều chủ thể xã hộikhác nhau, cho nên có xu hướng đảm bảotính khách quan trong các nhận xét đánhgiá cho phép khắc phục tình trạng “vừa đábóng vừa thổi còi”; 2) Phản biện xã hội quabáo chí cho phép tập hợp rộng rãi trí tuệ,phát huy sáng kiến của mọi giai tầng xã hội(nhà báo, nhà khoa học, nhân sĩ, doanhnhân, cán bộ công chức về hưu, sinhviên...), đảm bảo sự tham gia của nhiềuthành phần xã hội khác nhau một cáchcông bằng, bình đẳng; 3) phản biện xã hộiqua báo chí là diễn đàn, môi trường chophép các kết quả của các loại hình phảnbiện xã hội do các chủ thể khác thực hiệnnhư (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cácđoàn thể chính trị - xã hội; các tổ chức và
cá nhân nhà khoa học; các tổ chức xã hộidân sự...) được gia tăng sức mạnh. Thôngqua đó đảm bảo tính công khai, minh bạch,chất lượng, hiệu quả hoạt động phản biệnxã hội.
Theo xu hướng đổi mới và hội nhập, báochí Việt Nam hiện nay được phát huyquyền dân chủ hơn để chủ động tham giaphản biện xã hội. Thực tế cho thấy, có khánhiều vấn đề, nhất là những vấn đề phứctạp, nhạy cảm, mới mẻ nảy sinh, các cơquan chức năng và nhà quản lý không tiênlượng, dự báo, bao quát đầy đủ. Nhưng nhờphản biện xã hội qua báo chí đúng lúc, kịpthời, thấu lý, đạt tình mà các cơ quan côngquyền đã có những điều chỉnh, bổ sungnhằm không ngừng hoàn thiện cơ chế,chính sách, đáp ứng nhu cầu, lợi ích củatuyệt đại đa số nhân dân. Mặt khác, nhằmkhơi gợi vấn đề, khuyến khích động viênđông đảo công chúng tham gia ý kiến. Mộtsố cơ quan báo chí đã mở diễn đàn tập hợpcác ý kiến phản biện xã hội của các nhàkhoa học, chuyên gia và các tầng lớp nhândân đối với các quyết sách, dự án của cơquan công quyền. Thực tế cho thấy, nhiềuvấn đề đã được các cơ quan công quyềncân nhắc, sửa đổi, điều chỉnh, thậm chí hủybỏ nhằm đáp ứng lợi ích bền vững củaquốc gia, dân tộc. Do có khả năng bám sátsự kiện, thông tin nhanh nhạy, nắm đúngbản chất sự kiện, phân tích trúng vấn đềcho nên không ít cơ quan báo chí trở thànhdiễn đàn đáng tin cậy cho hoạt động phản
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
194
biện xã hội. Bởi thế, vai trò, chức năngphản biện xã hội của báo chí ngày càngđược khẳng định, niềm tin của công chúngđối với báo chí được nâng lên. Có thể nói,báo chí đã đi từ đưa tin đến tạo ra diễn đàn, môitrường cho hoạt động phản biện xã hội diễn raphong phú, đa chiều, kịp thời và sâu sắc.
Một vấn đề cần khẳng định, trong bốicảnh hiện nay nếu thiếu hoạt động phảnbiện xã hội thì báo chí thiếu lý do để tồn tạivà phát triển. Việc hình thành phản biện xãhội qua báo chí, nhất là báo điện tử chínhlà tạo ra một “không gian” rộng cần thiếtđể công chúng, mà trước hết là nhà báo, tríthức, nhân sĩ, lão thành cách mạng, cán bộvề hưu... có thể thực hiện trách nhiệm côngdân của mình trước xã hội. Từ thực tếnghiên cứu có thể thấy: nhà báo, trí thức,nhân sĩ, lão thành cách mạng, cán bộ vềhưu... là những chủ thể tiên phong trongviệc chấp nhận phản biện xã hội, tìm đếnphản biện xã hội qua báo chí để xác nhậnchân giá trị của chính mình. Muốn vậy,trong điều kiện hiện nay rất cần những diễnđàn do báo chí tổ chức, đặc biệt là báo điệntử. Để tổ chức thành công phản biện xãhội, nhất thiết phải có sự tham gia cùng lúccủa nhiều chủ thể với những vai trò phảnbiện xã hội khác nhau. Chính đặc trưng nàysẽ làm cho các chủ thể tham gia phản biệnxã hội qua báo chí có được góc nhìn đầyđủ và toàn diện hơn về chủ đề phản biện.
Như vậy, báo chí chính là một kênh,diễn đàn phản biện xã hội lớn, chứa đựng
nhiều hy vọng của xã hội và đất nước, đốivới quá trình phát triển xã hội. Vai trò phảnbiện xã hội của báo chí đã và đang đồnghành với sự nghiệp xây dựng và phát triểnđất nước. Từ những phân tích trên, có thểnhận thấy việc tạo ra diễn đàn cho hoạtđộng phản biện xã hội là một chức năngcủa báo chí. Phản biện xã hội là thước đochính kiến xã hội ở những thời điểm khácnhau, trước những sự kiện khác nhau. Báochí phản ánh đời sống xã hội, phản ánh cácsự kiện nóng bỏng vừa đáp ứng nhu cầuthông tin đa dạng của xã hội, đồng thờicũng cung cấp thông tin phục vụ hoạt độngphản biện xã hội. Việc tạo ra môi trườngthuận lợi cho hoạt động phản biện xã hộiqua báo chí sẽ góp phần giúp các cơ quancông quyền hoạch định chính sách phù hợpvới nhu cầu, nguyện vọng của công chúngtrong xã hội. Hơn nữa, khi phản biện xã hộiđược thể hiện công khai trên mặt báo, nócó xu hướng trở thành một loại hình“quyền lực thực sự”, có khả năng gây áplực lên cơ quan công quyền trong điềuchỉnh, thay đổi các quyết sáchr
......................(1) Xem C.Mác và F.Ănghen: Toàn tập, t.1, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.99.
(2) Trương Xuân Trường: Vai trò của truyền thông
đại chúng trong thời kỳ hội nhập ở nước ta hiện nay,
Tạp chí Xã hội học, số 4, năm 2008
(3) Michael Schudson: Sức mạnh của tin tức truyền
thông, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.55-56.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị.-2012.- Số 6.- Tr. 8 - 11.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
195
1. Ngay bây giờ đây, với từ khóa “xác
chết không đầu” làm công cụ tìm kiếm trên
Goolge, bạn sẽ tìm thấy 27.200.000 kết quả
trên các sản phẩm báo chí truyền thông
tiếng Việt. Có tờ báo mạng điện tử không
ngần ngại “treo lủng lẳng” tít của cụm bài
“xác chết không đầu” dưới măng-séc vài
tháng liền. Không những thế, hàng trăm bài
viết (mà phần lớn là trùng lặp nhau) trên
các báo miêu tả cận cảnh tất cả các chi tiết
của vụ án mạng này làm cho công chúng
sởn gai ốc và cảm thấy mình như bị tra tấn.
“Làm đậm” vụ án mạng ghê rợn này với
những chi tiết rùng rợn dã man như thế,
liệu báo chí có gia tăng được hàm lượng
văn hóa trong sản phẩm của mình, có tôn
trọng tính nhân văn, có gieo vào công
chúng xã hội niềm tin yêu cuộc sống? Với
cách thức tiếp cận và kiểu cách thông tin
sự kiện này, liệu có khoét sâu thêm nỗi bất
hạnh của người thân nạn nhân, có tra tấn
công chúng của mình?
Thứ nữa, cứ mỗi lần có vụ tự tử của
thiếu nữ thất tình do thiếu kỹ năng xử lý
khủng hoảng cá nhân, hoặc cứ mỗi lần do
sơ suất mà ca sĩ, diễn viên để “lộ hàng” trên
sân khấu… là hàng chục sản phẩm truyền
thông lại dấy lên làn sóng tin tức, dồn dập
khai thác. Liệu đó có phải là “chiêu” thu
hút công chúng có đẳng cấp của báo chí
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
196
BÁO CHÍ VỚI TÍNH NHâN VăN VÀ NIỀM TIN CỦA CôNG CHúNG
?PGS, TS NGUYỄN VăN DữNG
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Mươi năm trở lại đây, cùng với những đóng góp to lớn của báo chí vào sự nghiệpđổi mới và phát triển đất nước, công chúng xã hội cũng đã nhìn nhận ngày càngnghiêm túc hơn về những gì báo chí đã và đang thông tin, suy ngẫm lại những điềucăn cốt trong cuộc sống và sự phát triển của cộng đồng; từ đó, công chúng lựa chọnsản phẩm báo chí nào nên đọc và gửi gắm được niềm tin, cao hơn là có thể tin cậyđược; tức là có thể tin và cậy nhờ khi mà cuộc sống thường xuyên diễn ra với ngổnngang những điều tốt và xấu, hay và dở, tàn bạo và nhân văn, chân thành và dối trá,lừa lọc, bản lĩnh và sự hèn nhát… Một trong những vấn đề mà bài viết này tham góp,bàn thảo là tính nhân văn của báo chí và niềm tin của công chúng đối với báo chíhiện nay.
chuyên nghiệp? Nếu quan tâm quá mức
theo kiểu như thế, thì những đất nước cùng
châu lục này, mỗi ngày có hàng chục vụ tự
tử, ắt báo chí không còn điều kiện thông tin
về những vấn đề quan trọng khác. Và mỗi
người làm báo chúng ta thử tự hỏi liệu đấy
có phải là cách thức tốt đẹp để lôi kéo sự
quan tâm của công chúng vào tầm ảnh
hưởng của mình? Hoặc, khi mới triển khai
Nghị định Chính phủ về lập lại trật tự trong
lĩnh vực văn hóa, đã có đài truyền hình đưa
hình ảnh một phụ nữ cùng đứa con gái 13
tuổi của cô lên màn ảnh nhỏ, chỉ trích rằng
người phụ nữ này tham gia hoạt động bán
dâm. Sáng hôm sau đi học, các bạn của
cháu bé xúm lại bảo rằng, hôm qua truyền
hình nói mẹ cháu thế này thế kia…Vậy là,
do xấu hổ về mẹ, cháu bé đã bỏ học và bỏ
nhà đi bụi. Như vậy, báo chí chỉ trích một
người, nhưng lại đẩy một người khác (cháu
bé) vào con đường bất hạnh, liệu báo chí
có nhân văn?
Đầu tháng 5 năm nay, ở Khánh Hòa có
việc một cô giáo do không làm chủ được
hành vi, đã đánh một học sinh; sau đó cũng
do bức xúc, bố của học sinh bị đánh đã tát
và chửi bới cô giáo này trước mặt hàng
chục học sinh trong lớp học. Đó là những
sự kiện có thật xảy ra. Ngay sau đó, gần
chục tờ báo giấy và báo mạng điện tử đã
đưa tin giống nhau về sự kiện này, trong
đó, nhiều báo không hề phân tích, bình
luận và phê phán ở các bình diện khác
nhau, phù hợp với góc độ quan tâm của
công chúng để có thể hình thành và định
hướng dư luận. Một trường hợp khác; vụ
án mạng trong xe Lexus. Vụ án này, người
bị hại đã không còn cơ hội nói về những gì
đã xảy ra; trong khi báo chí chủ yếu thông
tin theo lời kể của kẻ sát nhân (cứ cho là
như vậy) nhằm biện hộ cho mình. Thử hỏi,
nếu báo chí thông tin như vậy, khi bình tĩnh
nhìn lại toàn cảnh thông tin về sự kiện này,
từ trong đáy lòng mình, liệu người viết có
gì day dứt?
Có thể dẫn ra rất nhiều sự kiện tương tự
để nhìn rõ thêm một góc khuất của thông
tin khi trao đổi về tính nhân văn của báo
chí và niềm tin của công chúng hôm nay.
Có lẽ không ai cấm báo chí thông tin về
những sự kiện tương tự nêu trên, hay
những sự kiện thuộc loại “tiền, tình, tù, tội,
đâm chém, hãm hiếp”, vấn đề là thông tin
và giải thích, phân tích như thế nào để vừa
phản ánh được mặt trái và những đốm đen
của cuộc sống đang diễn ra, lại vừa bảo
đảm được chất lượng văn hóa của sản
phẩm truyền thông; hơn thế nữa - gây dựng
và củng cố được niềm tin của công chúng
và thu phục được họ vào tầm ảnh hưởng
của mình. Đó mới chính là thông điệp đích
và mục tiêu chiến lược của mỗi tòa soạn
báo chí cách mạng và chuyên nghiệp. Thực
tế cho thấy, các “chiêu” thông tin theo kiểu
“yêu thì thật lâm li, chết thì thật bi thảm”
đã và đang góp phần làm cho công chúng
197
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
198
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
mất dần niềm tin vào báo chí. Và do đó, vai
trò, vị thế xã hội của không ít tờ báo có thể
bị giảm sút, công chúng dần rời xa.
2. Có lẽ bất kỳ ai bước vào nghề báo
cũng đều tâm niệm lời thề nghề nghiệp là
tôn trọng sự thật, bảo đảm tính khách quan
chân thật của thông tin báo chí. Tính khách
quan chân thật của báo chí đòi hỏi báo chí
không phải và không thể thông tin tất cả
những gì có thật xảy ra, mà cần chọn lựa
những gì có ích cho công chúng và đất
nước mình. Như Balzac đã từng đưa ra “ba
bộ lọc” khi chọn sự kiện thông tin: Sự kiện
có thật không? Thật, nhưng có thú vị
không? Thú vị nhưng thông tin có lợi ích
gì không? Tức là nếu không thông tin thì
thôi, nhưng khi đã thông tin là phải đúng -
cái đúng mang tính bản chất, đồng thời cái
đúng ấy lại cần đòi hỏi bảo đảm lợi ích cho
ai khi thông tin và hàm lượng văn hóa của
thông tin, đặc biệt là đề cao tính nhân đạo
và nhân văn của thông tin báo chí. Bởi xét
cho cùng, tính nhân văn của báo chí như
sợi chỉ đỏ xuyên suốt, liên kết cộng đồng,
cùng hướng tới giá trị cao cả nhất - vì con
người và những giá trị nhân bản, vì sự tiến
bộ bền vững của cộng đồng xã hội. Tính
nhân văn chính là sợi dây vô hình kết nối
con người trên khắp hành tinh lại với nhau.
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu
nước của dân tộc ta, nhiều người trên khắp
hành tinh, dù chưa một lần đến Việt Nam,
nhưng thông qua báo chí, biết đất nước ấy
đang hứng chịu hàng triệu tấn bom đạn của
quân xâm lược dội xuống, giết chết hàng
loạt người vô tội, hàng triệu người đã đứng
dậy hô vang khẩu hiệu “đả đảo đế quốc
Mỹ” và quyên góp tiền của ủng hộ nhân
dân ta. Hoặc, khi nghe tin động đất và sóng
thần ở Nhật Bản đã cuốn phăng mạng sống
hàng chục ngàn người, lòng mỗi chúng ta
se lại, quặn đau. Cái gì đã khơi thức giá trị
nhân loại trong mỗi con người và tạo nên
sức mạnh cảm xúc ấy, nếu không phải tính
nhân văn của thông tin báo chí? Mỗi buổi
sáng thức dậy, khi chúng ta nhận được tin
vui từ bạn bè, người thân và đồng loại (đặc
biệt là qua thông tin báo chí), chắc hẳn
ngày làm việc sẽ hứng khởi, hiệu quả hơn
bởi lòng chúng ta phấn chấn; ngược lại, khi
mỗi sáng đón nhận những thông tin buồn,
liệu có ai vui trên nỗi đau của đồng loại?
Thông tin báo chí không nên là tiếng kèn
đám ma, cũng không nên lúc nào cũng là
tiếng kèn đám cưới; thông tin báo chí nên
là tiếng kèn xung trận, luôn thổi vào trí tuệ
và cảm xúc của lòng người sức mạnh của
niềm tin. Niềm tin là sức mạnh mềm của
cộng đồng không bao giờ cạn kiệt, ngược
lại, nó là nguồn sức mạnh vô biên, nếu báo
chí biết khơi dậy, củng cố và nhân lên trong
mỗi con người thông qua giá trị của tin tức
hằng ngày cung cấp cho công chúng. Báo
chí thông tin về tiêu cực, nhưng cố gắng
luôn nhằm đạt được hiệu ứng tác động xã
hội tích cực; viết về cái ác, nhưng làm thế
nào khơi dậy và đề cao cái thiện; viết về
khoảng tối hay đốm đen nhưng với mục
đích là giúp công chúng tìm ra và đi tới
khoảng sáng;…
Tính nhân văn của báo chí vừa là vấn đề
có tính chất trừu tượng, nhưng lại rất cụ thể
và hiện hữu trong mỗi tác phẩm hay sản
phẩm báo chí. Tựu trung lại, có thể nêu các
cấp độ khác nhau của tính nhân văn như sau:
Thứ nhất, mảng đề tài mà báo chí quan
tâm. Báo chí chú trọng, ưu tiên cho những
sự kiện và vấn đề thời sự - mối quan tâm
trong sản xuất và đời sống hằng ngày của
cộng đồng, mà nếu giải quyết được những
vấn đề ấy sẽ giúp ích cho sự phát triển bền
vững, nâng cao chất lượng cuộc sống, hay
là chú tâm quá mức vào những góc tù nước
đọng để góp phần làm mờ, làm đen tấm
gương phản chiếu cuộc sống hôm nay. Nói
khác đi, hướng ưu tiên đề tài của thông tin
báo chí là nhìn ra chân trời, góc biển để nới
rộng tầm mắt, nối dài tầm tay của công
chúng mình, hay ngoái nhìn về góc tù nước
đọng bằng việc đáp ứng nhu cầu thị hiếu
của nhóm nhỏ thông qua các sự kiện giật
gân câu khách - mà việc giật gân này dần
dần hạ thấp vai trò, vị thế xã hội của báo
chí và làm suy giảm niềm tin của công
chúng? Công chúng chỉ cần nhìn lướt qua
giao diện của báo mạng điện tử, nhìn qua
những tin tức bài vở của các trang báo hay
nghe qua các đầu đề tác phẩm trong
chương trình phát thanh, truyền hình cũng
có thể biết được hướng đề tài ưu tiên của
tòa soạn.
Thứ hai, khi tiếp cận sự kiện và vấn đề
thông tin, nhà báo chọn lựa góc nhìn nào
để làm ánh lên những giá trị nhân bản? Sự
kiện ba thanh niên ở Hà Tây (cũ) bị án tù
oan ức mười năm, được một phụ nữ dày
công tìm cách lôi ra ánh sáng công lý, được
báo chí phân tích dưới góc nhìn văn hóa và
nhân văn, như vậy vừa soi rọi vào mảng tối
của xã hội, vừa chỉ ra luồng sáng, khơi dậy
niềm tin cho công chúng vào chân lý cuộc
đời, dù còn nhiều gian truân và uẩn khúc.
Thứ ba, tính nhân văn của báo chí thể
hiện ở cách thức lựa chọn chi tiết thông tin
về sự kiện và vấn đề trong tác phẩm. Nhà
báo tập trung lựa chọn chi tiết để khoét sâu
nỗi bất hạnh của con người và tra tấn công
chúng mình bởi những thông tin giật gân
câu khách, hay là ngay trong thông tin sự
kiện về những vụ án mạng dã man, vẫn có
thể tìm lựa những gì không làm đau thêm
nỗi đau của người trong cuộc, không làm
cho công chúng và cộng đồng bi lụy và
cuộc sống đen tối thêm, đó cũng chính là
cách thể hiện tính nhân văn. Báo chí Hoa
Kỳ thông tin về sự kiện ngày 11 tháng 9
năm 2001 ở nước Mỹ là một ví dụ. Ngay
sau chương trình truyền hình CNN phát đi
phóng sự với nhiều chi tiết cận cảnh những
nạn nhân bị dập nát chân tay mặt mũi, máu
chảy be bét được khiêng ra từ tòa nhà đổ
nát, Tổng thống Mỹ đã thông qua trợ lý báo
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
199
200
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
chí của mình gửi tới giới truyền thông Hoa
Kỳ một thông điệp: không nên thông tin
những gì làm cho người Mỹ bi lụy hơn.
Ngay lập tức, chương trình hôm sau phát
lại, các chi tiết cận cảnh trong phóng sự đã
bị cắt bỏ. Bởi vì, những chi tiết cụ thể, sinh
động và đang cựa quậy trong tác phẩm có
sức tác động ghê gớm tới lý trí và cảm xúc
con người. Hàm lượng văn hóa và giá trị
nhân văn của tác phẩm báo chí ẩn chứa sức
mạnh dồi dào đằng sau những chi tiết do
nhà báo cung cấp.
Thứ tư, ngôn từ và giọng điệu trong tác
phẩm cũng là công cụ quan trọng, trực tiếp
biểu hiện tính nhân văn của thông tin báo
chí; đồng thời đó cũng là thang đo đẳng cấp
văn hóa và tính chuyên nghiệp của nhà báo.
Cũng là giọng điệu chỉ trích phê phán,
nhưng nhà báo dùng từ chỉ trích phê phán
thế nào cho “lọt tai” để công chúng dễ chấp
nhận, bài viết thể hiện sự thiện chí và cái
tâm sáng của người viết. Ông cha ta có câu:
“Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà
nói cho vừa lòng nhau”. “Vừa lòng nhau”
ở đây không phải chiều lòng nhau, bợ đỡ
hay nịnh nọt nhau, mà là tính chất và cấp
độ của từ ngữ sử dụng cần tương thích với
bản chất của sự kiện giao tiếp, tính chất,
mục đích và bối cảnh thông tin. Gần đây,
trên một số sản phẩm báo chí xuất hiện
ngày càng dày những từ nóng, “hót” mang
tính sáo rỗng như “kinh hoàng”, “khủng
khiếp”, “rùng mình”,… chủ yếu do người
viết tạo ra, chứ bản chất sự kiện không tới
mức như thế. Cho dù bản chất sự kiện có
đúng là vậy, nhà báo nên dùng những từ
“mềm” hơn, thật hơn, gần gũi hơn. Chọn
lựa chi tiết và cách dùng từ ngữ giọng điệu
liên quan mật thiết với nhau. Ngôn ngữ báo
chí chủ yếu là ngôn ngữ sự kiện. Tác giả
nên để cho sự kiện và chi tiết giao tiếp trực
tiếp với công chúng, để cho sự kiện và chi
tiết nói lên bản chất sự kiện, vấn đề thông
tin và ý đồ, ý định của nhà báo. Nhà báo
không cần và không nên dùng từ ngữ khoa
trương, sáo rỗng, làm cho thông tin sự kiện
trong bài viết nhẹ tênh, nhạt nhẽo, thậm chí
sự kiện thông tin bị sai lệch. Hoặc mới đây,
trong trận chung kết Champions League
giữa câu lạc bộ Barcelona và Manchester
United, rạng sáng ngày 29.5.2011, spost
quảng cáo trên kênh VTV3 của Đài THVN
đã gây phản cảm và bức xúc đối với khán
giả truyền hình. “Việc quảng cáo một sản
phẩm vào giờ vàng trong trận chung kết
bóng đá được khán giả cả nước quan tâm,
nhưng không hiểu sao VTV lại có sơ suất
đáng tiếc như vậy. Không những khán giả
môn túc cầu bực tức mà đoạn quảng cáo
như những tiếng nổ chát chúa lặp đi lặp lại
liên tục khiến những người đang ngủ cũng
phát hoảng”(1). Rất đáng mừng là không
như những lần trước chần chừ và biện hộ,
lần này VTV đã kịp thời xin lỗi công chúng
truyền hình. Nhưng thử hỏi, lần nào cũng
là “lần đầu tiên và đáng tiếc”, liệu niềm tin
201
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
của công chúng đối với đài truyền hình
quốc gia có suy giảm, trong khi nhiều đài
truyền hình khác đang trở thành đối thủ
cạnh tranh nặng ký?
Thứ năm, thời điểm đăng tải bài viết -
xã hội hóa sự kiện và vấn đề thông tin đúng
lúc và đúng liều lượng, có chừng mực để
có thể tạo ra hiệu ứng xã hội tốt nhất, phù
hợp với tâm lý và tâm trạng xã hội. Mấy
năm trước, đoạn phim quảng cáo sản phẩm
Kotex trên VTV1 phát sóng ngay trước
chương trình thời sự 19 giờ, đúng vào thời
điểm công chúng truyền hình đang ăn cơm
tối đã gây phản cảm trong tâm lý tiếp nhận.
Vấn đề cần chú ý là, nhà báo viết về sự
kiện và con người cụ thể với tư cách là đối
tượng phản ánh bằng thái độ và quan điểm
tiếp cận của mình - dù chỉ trích, phê phán
hay ngợi ca, nhưng thông qua tác phẩm,
công chúng và dư luận xã hội nhìn vào nhà
báo và phán xét anh ta về mọi phương diện.
Nhà báo có thể phê phán, chỉ trích một vấn
đề, một con người, nhưng công chúng và
dư luận xã hội sẽ nhìn vào nhà báo và tòa
soạn báo chí để thẩm định, phán xét nhân
cách nhà báo và lập trường xã hội của tòa
soạn. Thiết nghĩ, nêu ra vấn đề này để các
nhà báo chúng ta cùng suy nghĩ, hướng tới
hạn chế thông tin theo kiểu “dậu đổ bìm
leo”, “đục nước béo cò”. Bởi vì, trong quá
trình xây dựng, nâng cao tính chuyên
nghiệp và cách mạng của báo chí Việt
Nam, một trong những vấn đề quan trọng
là, xây dựng và củng cố lập trường chính
trị, bản lĩnh nghề nghiệp và tính nhân văn
của báo chí, để có thể gia tăng niềm tin của
công chúng xã hội vào báo chí. Báo chí của
nước ta là cơ quan ngôn luận của tổ chức
Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của nhân
dân vì sự phồn thịnh và phát triển bền vững
của đất nước.
3. Có thể nhận thấy rằng, nhờ năng lực
nghề nghiệp của nhà báo, sự hỗ trợ của kỹ
thuật và công nghệ truyền thông số, thông
tin sự kiện trên báo chí hiện nay rất nhanh
nhạy. Nhưng trên thực tế, có những người
làm báo vội vàng đưa tin về tất cả những
gì họ biết, họ mắt thấy tai nghe mà chưa
cân nhắc cẩn thận đến hiệu quả tác động
của thông tin đó. Trong nghệ thuật làm báo,
nhà báo không phải chỉ có nghe, nhìn mà
còn phải suy nghĩ, cân nhắc, xem xét vấn
đề một cách kỹ lưỡng để thấy rõ ý nghĩa
tác động của thông tin mà nhà báo cung
cấp cho công chúng. Nhà báo phải có óc
phân tích tốt, biết phân tích bản chất sự
kiện, vấn đề cũng như năng lực tác động
của nó trong các mối quan hệ đang đặt ra.
Bởi nếu thông tin nhanh mà thiếu chọn lọc,
cân nhắc và nhất là thiếu phân tích kỹ
lưỡng thì khả năng đem lại niềm tin cho
công chúng sẽ bị suy giảm. Mà khi công
chúng mất niềm tin vào thông tin báo chí,
thì sức mạnh xã hội của báo chí sẽ không
còn. Báo chí đánh mất niềm tin nơi công
chúng là mất tất cả.
202
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Trong cuộc cạnh tranh giữa các loại hình
báo chí hiện nay, báo in sẽ mất dần lợi thế
về tính nhanh nhạy của thông tin,
“nhường” ưu thế này cho báo mạng điện tử
và báo hình, báo nói. Nhưng thế mạnh cố
hữu của báo in sẽ không bao giờ mất đi vì
nó gắn với văn hóa đọc, gắn với thuộc tính
“văn bia” đã “xe duyên” với công chúng
qua hàng mấy thế kỷ. Báo in biết chọn lọc
và phân tích thông tin theo chiều sâu trí tuệ
và cảm xúc nhân văn sâu lắng trong mỗi
con người, trong sự phù hợp với đối tượng
tiếp nhận.
Hiện nay, báo in Mỹ đang giai đoạn
khủng hoảng khá trầm trọng. Nhân cuộc
khủng hoảng này, người ta nói báo in sẽ
chết. Nhưng cũng vài năm nay, báo in Mỹ
đã và đang tìm được phương thức tồn tại,
con đường phát triển của mình thông qua
đọc báo trả tiền trên mạng internet và sự
kết hợp linh hoạt giữa nó với các dạng thức
truyền thông trên mạng toàn cầu. Báo in
châu Á (như ở Nhật Bản và Ấn độ) lại vẫn
như “chưa có chuyện gì lớn” xảy ra. Nhưng
thực tế cho thấy một số ấn phẩm báo in
Việt Nam đã suy giảm lượng phát hành
trông thấy. Nguyên nhân suy giảm, một
phần do báo mạng điện tử phát triển trong
môi trường công nghệ số, nhưng phần lớn
do chính cách làm báo in của chúng ta. Đó
là có thể do nhiều tờ báo in “sức yếu” lại
“ra gió” trong cuộc chạy đua thông tin về
các sự kiện “nóng” với các loại hình báo
chí điện tử, trong khi lại ít chú ý đến vấn
đề chọn lọc thông tin, phân tích sự kiện,
vấn đề theo chiều sâu để tạo ra sự khác
biệt. Hoặc, đó cũng có thể là do một số tòa
soạn “lực bất tòng tâm” bởi đội ngũ nhà
báo chậm đổi mới phong cách làm nghề;...
Mặt khác, lý do nằm “ngoài nghề” cũng
khó vượt qua. Ví như vấn đề công chúng
quan tâm như chống tiêu cực - tham nhũng
lại “khó nói”, đôi khi “buộc” phải săn tìm
những sự kiện bên lề cuộc sống, hoặc thậm
chí giật gân câu khách, hoặc “đào bới” lại
những sự kiện mà đáng lẽ cần giúp công
chúng lướt qua, quên càng nhanh càng tốt.
Tối hôm trước đọc báo mạng điện tử, sáng
hôm sau mua tờ báo lại thấy nguyên xi như
những gì đã đọc được hôm qua, không hề
có sự khác biệt, không thấy chiều sâu của
sự phân tích thú vị và góc nhìn mới lạ về
những gì đã diễn ra.
Như vậy, trong nhiều nguyên nhân đánh
mất công chúng, quan trọng nhất là làm suy
giảm niềm tin vào thông tin báo chí. Do đó,
“phẩm chất quan trọng nhất của nhà báo
nằm ở khả năng phân tích vấn đề, khả năng
hoài nghi, biết hoài nghi và biết cách thoát
ra khỏi hoài nghi. Chúng tôi luôn giáo dục
sinh viên phải biết hoài nghi và sau đó biết
cách thoát khỏi hoài nghi. Chính sự hoài
nghi giúp người ta nhận ra con đường đúng
đắn của nhận thức. Nhà báo đã tụt hậu so
với kiến thức chung của nhân loại trên
nhiều lĩnh vực và đó là điều rất đáng lo
203
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
ngại”(2).
Những vấn đề trên đây, đã và đang đặt
ra cho hoạt động đào tạo báo chí (kể cả đào
tạo cơ bản ban đầu và đào tạo lại) những
vấn đề vừa cơ bản, vừa bức thiết cần quan
tâm. Muốn gia tăng hàm lượng văn hóa và
tính nhân văn của thông tin báo chí, cần
chú trọng tạo lập những yếu tố nền tảng để
có thể hình thành nhân cách văn hóa cho
sinh viên báo chí ngay trên ghế nhà trường.
Đây là vấn đề không dễ dàng, bởi phần
đông sinh viên hiện nay nhanh nhạy và dễ
nắm bắt kỹ thuật và công nghệ truyền
thông số nhưng lại ngại đọc sách; ngại đọc
sách thì khó có thể có nhân cách văn hóa
vững để phát triển bền lâu trong nghề, nhất
là với nghề báo in vốn mang tính đẳng cấp
và lịch lãm. Mặt khác, muốn giúp sinh viên
biết hoài nghi và biết cách thoát khỏi hoài
nghi để có năng lực phân tích sự kiện, vấn
đề thời sự trên các bình diện pháp lý, chính
trị, văn hóa, xã hội và đạo đức, thì cùng với
việc bản thân sinh viên biết cách và có ý
thức tự “xây” kiến thức nền tảng của mình,
người thầy cần chú trọng hơn nữa tới việc
trang bị phương pháp tiếp cận, khả năng
phân tích sự kiện và vấn đề thời sự cho
người học. Với tốc độ phát triển mạng in-
ternet và công nghệ số như hiện nay, người
thầy nên hướng dẫn sinh viên các phương
pháp như: truy cập, tìm tòi, tiếp cận thông
tin, phương pháp và kỹ năng phân tích vấn
đề một cách thuyết phục. Bởi rèn nghề, xét
cho cùng, chủ yếu là rèn cách tư duy, rèn
kỹ năng và cách thức thông tin, rèn cách
phân tích lập luận thuyết phục và tạo sự
khác biệt thú vị có được trong sản phẩm
báo chí; thông qua đó, lôi kéo và thuyết
phục công chúng xã hội vào tầm ảnh
hưởng của mình. Nghề báo, thực chất là
nghề thuyết phục công chúng và dư luận xã
hội. Chỉ có thuyết phục, thuyết phục bằng
sự kiện và phân tích sự kiện, báo chí mới
có thể thu hút sự quan tâm và gây dựng
niềm tin cho công chúng xã hội. Báo chí
hiện đại ngày càng cần phải có hàm lượng
văn hóa trong nội dung và phương thức
thông tin giao tiếp; đồng thời phải đặc biệt
chú trọng tính nhân văn để thu phục lòng
ngườir
………………..
1. Nguồn: //vietnamnet.vn/vn/vn/xahoi/23647/vtv-
cao-loi-ve-may-loc-nuoc-hang-dau-vn-.html.
2. Giáo sư Yaxen N.Zaxurơxki, trong bài nói chuyện
với cán bộ và sinh viên báo chí Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, tháng 1.2010.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &
Truyền thông.- 2011.- Số tháng 6.- Tr.8 -
13.
204
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
1. Đặt vấn đề
Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ trên toàn thế giới như hiện nay,
hoạt động thông tin nói chung và báo chí
truyền thông nói riêng ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong đời sống xã hội.
Không chỉ thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền
quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng nhân dân, kiên quyết đấu tranh
chống tiêu cực, tham nhũng..., báo chí
truyền thông còn góp phần giáo dục truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, lưu giữ bản sắc
văn hóa Việt, đồng thời tiếp thu những tinh
hoa văn hóa của thế giới.
Mặt khác, khi xã hội ngày càng phát
triển, nhu cầu tranh biện trên báo chí càng
trở nên cần thiết. Từ đó, vấn đề phản biện,
văn hóa phản biện (văn hóa tranh luận) của
báo chí ngày càng được nhiều người quan
tâm. Đặc biệt, từ Đại hội X của Đảng, vấn
đề nâng cao tính phản biện của báo chí, văn
hóa phản biện trên báo chí truyền thông
càng trở nên quan trọng hơn.
Thực tế hiện nay, thuật ngữ văn hóa
phản biện trên báo chí vẫn chưa được định
nghĩa một cách chính xác và đầy đủ. Thông
thường, các công trình nghiên cứu đều tập
trung xem xét có phản biện xã hội của báo
chí về các vấn đề dân chủ, tự do ngôn luận,
giám sát và quản lý xã hội, nhất là trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực, diễn biến hòa bình...
Nghiên cứu và hiểu rõ bản chất của văn
hóa phản biện trên báo chí trong thời kì hội
nhập và phát triển giúp chúng ta có một cái
nhìn thấu đáo về phản biện, vai trò và giá
trị của phản biện trên báo chí truyền thông.
Bởi vì, mọi sự vật, hiện tượng cần được
xem xét dưới góc độ biện chứng. Vai trò
của văn hóa phản biện trên báo chí chính
là việc phát hiện và phản ánh các mâu
thuẫn ấy, đưa ra ánh sáng, tìm cách tháo gỡ
để xã hội ngày càng phát triển tốt hơn.
2. Quan niệm về văn hóa phản biện
Về quan niệm “Văn hóa”, như chúng ta
đã biết, văn hóa là tổng thể các giá trị tình
VăN HóA PHẢN BIỆN TRÊN BÁO CHÍ VIỆT NAM
THỜI kỳ HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
?PGS, TS DƯƠNG XUÂN SƠN
Đại học khoa học xã hội và nhân văn
205
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
cảm và tri thức, vật chất và tinh thần, là hệ
thống giá trị gắn liền với con người, với
dân tộc, với lịch sử; những giá trị vật chất
có thể nắm bắt được như đền đài, miếu
mạo, cảnh quan...; những giá trị phi vật
chất như nếp sống, lối ứng xử, giao tiếp,
hành vi đạo đức... Văn hóa là sự đúc kết
qua cuộc sống của nhiều thế hệ trong một
xã hội nhất định. Nó vừa là nền tảng xã hội
mới, vừa là động lực giải quyết các vấn đề
xã hội. Mỗi nền văn hóa khác nhau đều có
những giá trị riêng và những đặc trưng
riêng trong quá trình phát triển của mình.
Theo quan niệm chung, văn hóa được
nhìn nhận bằng hai cách:
- Biểu thị trình độ hiểu biết của con
người về đối tượng
- Trở thành một giá trị được con người
tiếp nhận, biến thành nhu cầu và lối sống
của cá nhân.
Có thể coi đây là những cấp độ phổ biến
dễ nhận thấy của sự phát triển văn hóa.
Ở trình độ hiểu biết, văn hóa được biểu
hiện bởi học vấn, học thức, kinh nghiệm
sống thực tiễn mà cá nhân tích lũy được
qua học tập và hoạt động thực tiễn. Tuy
nhiên, văn hóa không đồng nhất với học
vấn. Người có kiến thức, có kinh nghiệm
(về một lĩnh vực nào đó) chưa hẳn đã trở
thành người có văn hóa. Do đó, học vấn ở
trình độ cao mới có thể là một trong những
cơ sở để hình thành văn hóa, nhất là văn
hóa phản biện trên báo chí truyền thông.
Để hiểu và phân tích được chính xác,
đầy đủ về văn hóa phản biện trên báo chí
truyền thông, cũng cần phải hiểu thế nào là
“phản biện”. Theo Từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà
Nẵng và Trung tâm Từ điển học phát hành
năm 2000 thì phản biện là một động từ với
nội hàm: “Đánh giá chất lượng một công
trình khoa học khi công trình được đưa ra
bảo vệ để lấy học vị trước hội đồng chấm
thi”.
Theo Từ điển Hán - Việt của tác giả
Thiều Chiểu thì phản biện là tranh luận
ngược lại, tranh luận theo cái nhìn ngược
lại. Như vậy, theo nghĩa Hán - Việt thì phản
biện là tranh luận với những ý kiến có
trước bằng lập luận theo chiều hướng
ngược lại.
Trong cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ
trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng, phản biện được hiểu
là “nhận xét, đánh giá, bình luận, thẩm định
công trình khoa học, dự án, đề án trong các
lĩnh vực khác nhau” .
Những khái niệm trên phản ánh khá rõ
nét ý nghĩa xã hội của khái niệm phản biện.
Thực hành tự phản biện và phản biện,
chính là hoạt động của nhận thức lý luận,
của nhận thức khoa học. Mục đích của sự
phản biện mà con người tiến hành là nhằm
đi đến một kết quả mới cả về nhận thức lẫn
206
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
hoạt động thực tiễn. Kết quả đó cũng là nhằm
phục vụ lợi ích của con người, lợi ích của xã
hội. Như vậy, phản biện là một hoạt động tất
yếu của con người, của xã hội loài người.
Từ đó, theo chúng tôi, có thể hiểu: Phản
biện là một hoạt động khoa học, đồng thời
còn là phương pháp khoa học cần thiết để
con người sử dụng nhằm thể hiện vai trò
làm chủ của mình đối với bản thân, tự
nhiên và xã hội. Trình độ làm chủ đó được
biểu hiện qua nội dung vấn đề được nêu,
phương pháp tranh luận vấn đề và cách
thức tổ chức tranh luận để đi đến quyết nghị
về nhận thức vấn đề đó trong thực tiễn.
Khi xem xét văn hóa như một tập hợp
các giá trị được con người tiếp nhận, lựa
chọn, biến nó thành nhu cầu, lối sống cá
nhân, chúng ta nói tới sự chuyển hóa của
tri thức thành tư tưởng, tình cảm, niềm tin
và động lực của hành vi, của hành động.
Bước chuyển biến này có sự thâm nhập sâu
sắc giữa tri thức lý luận và hoạt động thực
tiễn, đặc biệt là kinh nghiệm sống trực tiếp
của cá nhân. Những tri thức và kinh
nghiệm giữa các thế hệ có vai trò to lớn,
góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm
các giá trị văn hóa cá nhân và cộng đồng.
Từ đó có thể thấy, văn hóa phản biện là
văn hóa bảo vệ các giá trị. Tranh luận là
một phương thức phản biện, nhưng tranh
luận phải dựa trên hiểu biết, kiến thức, kinh
nghiệm thực tiễn.
Như vậy, nếu xét văn hóa như là thước
đo về trình độ hiểu biết thì văn hóa phản
biện trên báo chí trước hết phải được nhận
dạng như là trình độ hiểu biết về khoa học
và hoạt động thực tiễn của nhà báo. Tức là
sự nắm vững các tri thức, tạo thành cơ sở
giúp nhà báo nhận thức đúng bản chất của
lợi ích đất nước, dân tộc, biết phân biệt sự
khác nhau về động cơ, thái độ và hành vi
trong một đất nước, một thế giới trong thời
kỳ biến đổi và hội nhập phát triển. Sự phân
biệt này đương nhiên không chỉ dựa vào
trình độ học vấn, mà còn dựa trên kinh
nghiệm sống và hoạt động thực tiễn.
3. Văn hóa phản biện trên báo chí
trong thời kỳ hội nhập và phát triển
Văn hóa phản biện trên báo chí trong
thời kỳ hội nhập và phát triển được xác
định bởi cách thức và biểu hiện của tính
văn hóa trong giao tiếp, ứng xử, giải quyết
các mối quan hệ giữa cá nhân và tổ chức,
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa dân tộc và
thế giới. Hình thức trực tiếp của văn hóa
phản biện biểu hiện trên phương diện này
là văn hóa đố thoại, văn hóa tranh luận, văn
hóa nói và văn hóa viết.
Văn hóa phản biện của báo chí ở đây
chính là tư duy phản biện và năng lực phản
biện của người làm báo. Văn hóa phản biện
đòi hỏi người làm báo phải có nhận thức
khoa học về các vấn đề xã hội, đặc biệt là
phải hết sức nhạy cảm với lợi ích của đất
nước, dân tộc, thông qua sự tác động của
các chính sách; phải có năng lực tổ chức
các tranh luận khoa học, có năng lực phản
ánh những tranh luận khoa học đó bằng
những tác phẩm báo chí có giá trị. Người
làm báo phải biết phát hiện được những ý
kiến xã hội mang tính phản biện.
Khi xảy ra một vấn đề ảnh hưởng đến
lợi ích của dân tộc, đất nước, thường phát
sinh nhiều ý kiến xã hội. Dư luận xã hội là
một trong số các dạng ý kiến xã hội đó,
biểu hiện định lượng của vấn đề, là tổng
hợp ý kiến bộc lộ thái độ, tâm trạng xã hội.
Văn hóa phản biện qui định nhận thức khoa
học về vấn đề đó, cả nguyên nhân và tương
lai của vấn đề, là chiều sâu suy nghĩ của xã
hội, là thể hiện kiến thức và trình độ làm
chủ của nhân dân. Nếu xem dư luận xã hội
là “hàn thử biểu” của xã hội, thì trách
nhiệm tìm ra nguyên nhân của tình trạng
đó chính là vai trò của phản biện xã hội.
Thông qua thái độ, năng lực và phong cách
của người tham gia vào các cuộc đối thoại,
tranh luận trên báo chí truyền thông, có thể
nhận xét, đánh giá mức độ hiểu biết và kỹ
năng thực hành văn hóa đối thoại và văn
hóa tranh luận của người đó. Để đạt tới tính
văn hóa trong đối thoại, tranh luận, ứng xử
mỗi nhà báo rất cần tới những hiểu biết về
dân chủ và rèn luyện về văn hóa dân chủ.
Văn hóa phản biện trên báo chí có
những đặc điểm sau:
- Thấm nhuần thế giới quan khoa học
duy vật biện chứng. Trong thời kỳ đổi mới,
hội nhập và phát triển như hiện nay, báo chí
còn phải thấm nhuần và vận dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh mà nền tảng là chủ
nghĩa Mác - Lênin.
- Thể hiện tính cách mạng triệt để dựa
trên lập trường chính trị của giai cấp công
nhân hiện đại, phấn đấu theo mục tiêu
XHCN, tiến tới một xã hội thực sự nhân
đạo, dân chủ, công bằng, vì sự nghiệp giải
phóng cá nhân và giải phóng xã hội.
- Ngày nay, nhà báo cách mạng là người
thể hiện tính chủ động, tích cực tham gia
vào công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Đảm bảo tính khách quan, trung thực
trong việc xem xét, đánh giá các sự kiện,
hiện tượng, các diễn biến chính trị, các xu
hướng phát triển.
- Có tư duy phê phán, phản biện khoa
học, sáng tạo, có quan điểm thực tiễn, quan
điểm phát triển, quan điểm lịch sử.
- Sự thống nhất giữa tính nguyên tắc và
tinh thần cởi mở, năng động, sáng tạo; biết
thâu tóm những thành tựu văn hóa, những
di sản tinh thần của thời đại, của truyền
thống; biết kết hợp thực tiễn và kinh
nghiệm làm phong phú tri thức và vốn sống
thực tiễn; không ngừng học tập và rèn
luyện theo phong cách của nhà báo, nhà
truyền thông thời hiện đại.
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
207
208
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Văn hóa phản biện trên báo chí truyền
thông phải thỏa mãn những yêu cầu sau:
- Nói thẳng, nói thật, nhìn thẳng vào sự
thật, nói đúng sự thật.
- Dựa trên nền tảng lấy dân làm gốc, dựa
trên hiến pháp, pháp luật về quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí.
- Chủ động cung cấp thông tin cho công
chúng và tham gia tích cực vào việc hoàn
thiện chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước; phản ánh, phân tích kịp thời tình
hình quốc tế diễn ra trong nước và thế giới;
đề xuất sáng kiến, đưa ra các kiến nghị, giải
pháp cho hoạt động quản lý hiệu quả hơn;
tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước trong thực tiễn của các cấp, các ngành
và toàn thể nhân dân.
Để tăng cường hiệu quả của văn hóa
phản biện trên báo chí trong kỷ nguyên
toàn cầu hóa chúng ta cần thực hiện các
biện pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường giáo dục nhận
thức khoa học về chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh cho các nhà báo,
nhà truyền thông; đẩy mạnh học tập, nâng
cao trình độ hiểu biết về nghiệp vụ chuyên
môn, pháp luật, đạo đức, lối sống... cho họ
khuyến khích tìm tòi, tranh luận trên một
định hướng đúng.
Thứ hai, các phương tiện truyền thông
đại chúng bao gồm báo in, phát thanh,
truyền hình, báo mạng điện tử cần phải đẩy
mạnh thông tin, tuyên truyền tới đông đảo
công chúng trong nước và quốc tế về
những thành tựu và triển vọng của sự đổi
mới đất nước thời kỳ hội nhập và phát
triển. Đặc biệt, chú trọng tổng kết thực tiễn
đổi mới và tạo ra sự nhất trí xã hội rộng rãi
đối với chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
Thứ ba, báo chí truyền thông cần thấm
nhuần ý thức dân tộc, góp phần đắc lực vào
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc cũng như tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
Thứ tư, tăng cường các hình thức giao
tiếp, văn hóa phản biện theo tinh thần dân
chủ hóa, mở rộng đối thoại, trau dồi kỹ năng
và phương pháp văn hóa tranh luận văn hóa
phản biện trên báo chí truyền thông.
Thứ năm, mở rộng các hoạt động trao
đổi và giao lưu quốc tế của nhà báo dưới
nhiều hình thức: gửi nhà báo đi công tác
nước ngoài nhằm đưa tin về những sự kiện
lớn, cử các đoàn nhà báo đi tham quan,
nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm nghề
nghiệp, trao đổi các sản phẩm định kỳ,
thông tin tư liệu...
Cuối cùng, cần tập hợp lực lượng các
chuyên gia, các nhà báo giỏi, các nhà khoa
học, các nhà hoạt động chính trị xã hội trên
các lĩnh vực để viết và nói (truyền thông
trực tiếp) về các vấn đề chính trị xã hội,
209
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
trong đó có văn hóa phản biện. Đặc biệt,
coi trọng nghiên cứu và khai thác di sản Hồ
Chí Minh về văn hóa phản biện trong hoạt
động báo chí như: nghệ thuật tuyên truyền
nói và viết, nghệ thuật ứng xử, nghệ thuật
tranh luận.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến
động phức tạp, thời cơ và thách thức đan
xen, đất nước ta lại chịu ảnh hưởng của vấn
đề toàn cầu hóa, những thách thức khắc
nghiệt của môi trường, mặt trái của kinh tế
thị trường..., nhưng dù trong hoàn cảnh
nào, Đảng ta vẫn kiên trì định hướng
XHCN và đặc biệt quan tâm đến vấn đề
văn hóa, coi đây là nền tảng tinh thần, là
động lực của phát triển xã hội. Cùng với
những thành tích đáng tự hào của đất nước,
báo chí truyền thông thời gian qua đã có
những đóng góp hết sức quan trọng trong
quá trình hội nhập và phát triển. Báo chí
truyền thông đã góp phần giáo dục truyền
thống tự lực, tự cường, mở rộng thông tin
đối ngoại, góp phần giới thiệu đất nước, con
người Việt Nam với bạn bè quốc tế, thực
hiện đường lối tự chủ, đa dạng, đa phương
hóa các mối quan hệ quốc tế, góp phần
nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam.
Như đã biết, báo chí vừa là sản phẩm
của một nền văn hóa, vừa là diễn đàn của
nền văn hóa, bởi lẽ văn hóa là một lĩnh vực
quan trọng trong đời sống tinh thần của
mỗi dân tộc. Mối quan hệ giữa văn hóa và
báo chí là mối quan hệ cộng sinh, trong đó,
văn hóa quyết định và thúc đẩy sự phát
triển của báo chí, còn báo chí là phương
tiện để phát ngôn và truyền bá văn hóa, góp
phần vào công cuộc chấn hưng văn hóa dân
tộc. Vì thế, hơn lúc nào hết, văn hóa phản
biện trên báo chí trong giai đoạn hiện nay
là thực sự quan trọng và cần thiếtr
..................... TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Mạnh Bình, Vai trò của báo chí trong
phản biện, giám sát trong thực thi quyền lực nhà nước
ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và
Truyền thông, số tháng 7/2009.
2. Bộ Thông tin và Truyền thông, Một số văn bản
chỉ đạo và quản lý của Đảng, Nhà nước về hoạt động
báo chí, Nxb Thông tin, H., 2010.
3. Nguyễn Văn Dững, Nâng cao năng lực giám sát
xã hội của báo chí, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền
thông, số Xuân Đinh Hợi năm 2007.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H., 2011.
5. Văn Hoài, Không nên có vùng cấm trong phản
biện, báo Nông thôn ngày nay, số ra ngày 21/6/2011.
6. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang,
Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, tái bản lần thứ 4,
Nxb Đại học Quốc gia, H., 2011.
7. Dương Xuân Sơn (2011), Chủ trì đề tài, Báo chí
Việt Nam thời kỳ đổi mới: Tiếp cận dưới góc độ báo chí
học và khoa học chính trị, nghiệm thu tháng 9/2011.
8. Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân, Phản
biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb
CTQG, H.,2009.
9. GS,VS. Hoàng Trinh, Vấn đề văn hóa và phát
triển, Nxb CTQG, H.,1996.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &Truyền thông.- 2013.- Số tháng 4.- Tr. 17– 20.
210
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Mỗi sáng thức dậy, thay vì bật tivi,
mở đài, cầm tờ báo và vào các trang báo
mạng điện tử để xem tin tức, rất nhiều
người lại bắt đầu một ngày mới bằng
những dòng thông tin rất ngắn trên các
trang mạng xã hội. Điều này đã tạo ra sự
chuyển biến lớn trong cách sử dụng các
phương tiện truyền thông hiện nay của
công chúng, ảnh hưởng rất lớn đến lưu
lượng, giá trị thông tin được truyền tải.
Công chúng đã thay đổi
Những năm gần đây, thế giới chứng kiến
sự bùng nổ mạnh mẽ của các trang mạng
xã hội như Facebook, MySpace, Twitter,
CyWorld, trang web chia sẻ hình ảnh You
Tube hay Zing Me, VietSpace… bởi chúng
đáp ứng được khát khao cập nhật và chia
sẻ tin tức của nhiều người. Rất khó để có
những số liệu chính xác về sự gia tăng chia
sẻ thông tin trên các trang mạng xã hội. Chỉ
biết rằng, đó là sự biến đổi hàng ngày.
Với các tính năng tiện lợi như trò
chuyện (qua Messenger chat), chia sẻ tập
tin (Send files), gửi thư điện tử (Email),
xem phim, ảnh, điện thoại (Voice chat),
nhật ký điện tử (Blog), trò chơi (Games)…
mạng xã hội đã thu hút sự tham gia, sử
dụng và trở thành một phần tất yếu trong
đời sống xã hội của hàng trăm triệu người
trên khắp thế giới.
Sự lớn mạnh của các mạng xã hội cùng
ưu điểm vượt trội đã và đang làm thay đổi
thói quen tìm kiếm, chia sẻ và sử dụng các
phương tiện truyền thông của công chúng.
Tuy không phải là các kênh chính thống
đối với các vấn đề kinh tế, chính trị nhưng
nó lại là kênh thu hút nhiều người, dễ tạo
ra trào lưu và hiệu ứng tức thời.
Ngày nay, công chúng không còn muốn
chỉ là người thụ động tiếp nhận thông tin
từ một phía. Họ mong muốn được nghe,
được đặt câu hỏi. Họ có thể đào sâu hơn
vấn đề, tìm kiếm thông tin theo sở thích,
bám sát các mối quan tâm và chia sẻ những
kiến thức, niềm đam mê với những người
có chung sở thích. Họ cũng muốn nhận lại
những thông tin liên quan đến cuộc sống,
mối quan tâm của họ và muốn kiểm soát
ĐưA giá tRị CỦA báo Chí vào tRuYền thÔng XÃ hỘi
?TS NGUYỄN THỊ TRƯỜNG GIANG
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
211
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
những nguồn thông tin đó. Họ muốn kết
nối và duy trì mối quan hệ với những người
họ trò chuyện. Và cứ thế, sự tin tưởng được
thiết lập. Khi cần thông tin, họ chỉ việc kết
nối với mạng lưới những người họ đặt
niềm tin. Những sự kiện quan trọng hoặc
thú vị xảy ra sẽ được thông báo.
Dường như mạng xã hội có thể cung cấp
mọi thông tin, từ những thông tin ảnh
hưởng đến đời sống của nhiều người như
động đất, sóng thần, bão lũ, hoả hoạn,
chiến tranh, đâm xe, bạo lực, tội phạm…
đến những điều nhỏ nhặt, bình thường
trong cuộc sống riêng tư, sinh hoạt của mỗi
người. Và dù là chủ đề gì thì thông tin luôn
phong phú.
Không chỉ vậy, những tiện ích chia sẻ
của mạng xã hội giúp người dùng được tuỳ
chọn để tạo ra một không gian riêng, khiến
ai cũng có cơ hội trở thành trung tâm của
đám đông. Một chính trị gia nổi tiếng, một
cô ca sĩ thành danh hay một chị bán hàng
tạp hoá, một bác xe ôm… dường như đều
có cơ hội ngang nhau để thể hiện mình.
Các mạng xã hội đem đến cho những người
tham gia nhận thức rằng họ đang là một
phần trong câu chuyện.
Tại Mỹ, Anh… trong các cuộc bầu cử,
các ứng viên đều khai thác và tận dụng
mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, Twitter,
để quảng bá hình ảnh cá nhân, thu hút cử
tri và gây quỹ tranh cử. Nhiều ngôi sao
điện ảnh, ca nhạc cũng sử dụng mạng xã
hội để kết nối với người hâm mộ.
Đối với kinh doanh, mạng xã hội được
xem là hình thức marketing mới. Nhờ
những tiện ích của mình mà các mạng xã
hội trở thành những phương tiện quảng cáo
rất hiệu quả. Quảng cáo trên các phương
tiện truyền thông truyền thống đang có xu
hướng dần chuyển sang mạng xã hội.
Những hiểm hoạ từ cộng đồng ảo
Tính chất ảo trên các mạng xã hội tạo
điều kiện cho các thành viên giấu tung tích
và dựng lên một con người ảo. Chỉ cần một
tài khoản cá nhân, người tham gia có thể tự
do phát tán thông tin theo ý thích. Tính chính
xác, khách quan của thông tin dường như
chẳng bao giờ là mối quan tâm của ai cả.
Một thực tế dễ nhận thấy là trên các
mạng xã hội đang tồn tại rất nhiều những
hội cuồng tín, phản động, tội phạm…
Chúng sử dụng mạng xã hội để phục vụ
cho mục đích xấu xa, có thể là bôi xấu hình
ảnh của cá nhân, tổ chức nào đó hoặc lợi
dụng để can thiệp công việc nội bộ các
nước khác. Cuộc nghiên cứu của Công ty
tư vấn quản lý Digital Daya cho thấy, các
quốc gia thường hay xảy ra bất ổn về chính
trị đều có khuynh hướng xem truyền thông
xã hội là một mối đe doạ.
Trên mạng xã hội, người ta thoải mái
chê bai, thậm chí là sỉ nhục danh dự cá
nhân, tổ chức mà không chịu sự kiểm soát
212
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
hoặc phán xét của bất kỳ ai. Hàng ngày,
diễn ra hàng nghìn các cuộc đôi co, tranh
cãi cùng với vô số các lời lẽ nhận xét chủ
quan, gay gắt, thoá mạ, mạt sát nhau. Rất
nhiều người, tổ chức, doanh nghiệp… trở
thành nạn nhân của những dụng tâm ác ý,
có chủ đích. Chỉ trong tích tắc, danh dự,
nhân phẩm, thương hiệu… bị phá hoại mà
không cách nào khắc phục. Khá nhiều vụ
tự tử xảy ra do bị lừa đảo hoặc lôi kéo trên
mạng. Những trào lưu sống không lành
mạnh cũng nhờ đó mà lây lan rất nhanh.
Các thông tin cá nhân cũng dễ dàng bị
công bố mà không cần quan tâm tới bản
quyền hay ý kiến của chủ nhân. Việc bị ăn
cắp thông tin cá nhân là một mối nguy
hiểm thực sự qua hình thức phát tán thông
tin không hạn chế trên mạng xã hội.
Cả thế giới giờ đây đã bắt đầu cảm nhận
được những sự nguy hiểm từ sự quá tự do
trên mạng xã hội và đang cùng nhau tìm
cách khắc phục.
Giá trị của truyền thông có bị thay đổi?
Khách quan, chính xác luôn là nguyên
tắc quan trọng của tin tức. Nguồn gốc, quy
trình, con đường đi… hay câu trả lời cho
câu hỏi ai cung cấp, tin tức đến từ đâu vẫn
là mong muốn được biết của nhiều người
nhưng dường như ít quan trọng bằng tính
khẩn cấp, sự tức thời của tin tức. Có một
tâm lý chung của những người dùng mạng
xã hội là thích hướng về những thông tin
nóng, mới hơn là biết chúng đến từ đâu, có
chính xác hay không. Các mạng xã hội
dường như cũng không quan tâm đến điều
này. Vì vậy, nhiều người lo lắng rằng
những giá trị cốt lõi của truyền thông đang
đứng trước nguy cơ mất dần.
Đối với rất nhiều người, mạng xã hội
đem lại cho họ nhiều thông tin hơn là
những cuốn sách kiểu bách khoa toàn thư.
Những thông tin cực ngắn hấp dẫn hơn là
những cuốn tiểu thuyết nhiều tập. Vì vậy,
những mẩu ghi chép, đoạn video, âm thanh,
bản nhạc ngắn… được người ta nhanh
chóng truyền đi và “gọi” nhau cùng đọc.
Tuy nhiên, những thông tin mà người
dùng có được mỗi khi truy cập vào các
mạng xã hội là vô số. Làm thế nào để chọn
lựa, đánh giá, phân tích hay giải thích? Rất
khó để có thể xử lý những thông tin quá tải
này. Đó chính là sự khác biệt giữa báo chí
và truyền thông xã hội. Và đó cũng chính
là lý do để những giá trị của truyền thông
luôn tồn tại.
Rất nhiều người vẫn tìm đến những
thông tin từ báo chí và tin tưởng vào báo
chí. Đơn giản đó là vì họ cảm thấy báo chí
vẫn còn đáp ứng những nhu cầu của họ.
Trách nhiệm của báo chí không chỉ là có
mặt đúng lúc và đưa ra những thông tin
chính xác một cách kịp thời đến độc giả.
Báo chí giúp công chúng chọn lựa, phân
loại đúng đắn nhất những thông tin phục
213
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
vụ cho mục đích lâu dài của họ từ những
nguồn tin riêng biệt, giúp họ trở thành
những công dân tốt, có trách nhiệm.
Cộng sinh giữa báo chí và truyền
thông xã hội
Báo chí không còn vai trò độc quyền sở
hữu tin tức nữa. Bây giờ, công chúng có rất
nhiều lựa chọn. Nếu như báo chí không là
nguồn tin hữu ích và nhà báo lại tách mình
ra khỏi những vấn đề thực sự quan trọng
đối với công chúng thì ngay lập tức họ có
thể tìm được những thông tin họ cần thông
qua các kênh thông tin khác.
Cũng đã qua rồi cái thời công chúng
phải tự đi tìm thông tin bởi vì thông tin tự
tìm đến với họ. Đơn giản, họ chỉ cần kết
nối với mạng lưới những người bạn mà họ
tin tưởng. Với tư cách là người tiêu thụ và
định hướng cách thức đưa tin, công chúng
ngày nay có nhiều sức mạnh hơn.
Giờ đây, thay vì ngồi chờ công chúng
đến, báo chí phải năng động hơn, chủ động
tiếp cận xem họ thích gì, đang đề cập đến
gì để hướng sự chú ý của họ vào những
thông tin do mình cung cấp. Nhà báo thay
vì là người đưa tin, gác cổng thông tin trở
thành thành viên cùng tham gia chia sẻ
thông tin trong một không gian công cộng.
Đối với báo chí nói chung, truyền thông
xã hội đang giúp họ nối dài cánh tay, nếu
họ biết tận dụng. Truyền thông xã hội có
thể được sử dụng như là một cách thức để
báo chí thiết lập những mối quan hệ và lắng
nghe ý kiến của công chúng. Rất nhiều các
cơ quan báo chí đang thực hiện những
chiến lược nhằm khai thác truyền thông xã
hội để thu hút, gia tăng lượng người truy
cập. Họ chủ động sử dụng các công cụ trên
mạng xã hội để truyền tải nội dung thông
tin, truyền tải những giá trị của văn hoá báo
chí đến nhiều đối tượng hơn nữa.
Các tờ báo mạng điện tử hiện nay dường
như đều thấy cần thiết phải trang bị những
ứng dụng để tự động cho phép cập nhật
những bài báo của mình lên các mạng xã
hội. Trên Facebook, Twitter, Zing me... số
lượng các liên kết được chia sẻ liên tục
thay đổi theo xu hướng lớn lên hàng ngày.
Đồng nghĩa với đó là số lượt người truy
cập vào các tài khoản của các tờ báo cũng
tăng lên.
Các cơ quan truyền thông lớn trên thế
giới như CNN, BBC, Washington Post,
New York Times, Daily Telegraph … đều
có những bước đi quyết liệt, chủ động để
quảng bá nội dung của mình trên các mạng
xã hội. Họ yêu cầu các phóng viên của
mình phải hội nhập và lắng nghe để có sự
hiểu biết hơn về công chúng - những người
đang có liên quan trực tiếp đến thương hiệu
của họ.
Ở Việt Nam, điều này cũng đang được
214
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
quan tâm đặc biệt. Các tờ báo như Viet-
NamNet, VnExpress, Tuổi trẻ Online…
đều xây dựng các trang giới thiệu trên các
mạng xã hội nhằm thu hút, đáp ứng nhu
cầu thông tin nhanh, cập nhật của cộng
đồng mạng xã hội.
Dưới mỗi bài viết của VietNamNet đều
có sử dụng các công cụ chia sẻ thông tin
của Facebook, Zing Me… Không chỉ trên
trang chính, các chuyên trang như Tuan-
vietnam, Diễn đàn kinh tế Việt Nam, Bảo
vệ người tiêu dùng… đều đưa thêm phần
Bookmarks để giúp công chúng có thể chia
sẻ và cùng bình luận với bạn bè về các bài
viết. Điều này đã giúp cho tên tuổi của
VietNamNet trở nên phổ biến đối với cư
dân của các trang mạng xã hội.
Báo chí cũng sử dụng mạng xã hội như
công cụ để thu thập những thông tin gắn
bó, gần gũi với cuộc sống hàng ngày, với
địa phương của công chúng. Bởi nhà báo
không thể có mặt ở mọi nơi khi sự kiện
diễn ra, nhưng công chúng thì có. Ngay lập
tức, khi có những thông tin xảy ra xung
quanh mình, mọi người cùng kết nối và
chia sẻ với người khác trên mạng xã hội.
Việc sử dụng các mạng xã hội đã giúp
báo chí quảng bá hình ảnh, tên tuổi, chất
lượng thông tin đến với hàng tỷ người
trong cộng đồng mạng. Không chỉ vậy, nó
còn tạo thêm sự phong phú, nhiều lựa chọn
về thông tin cho các thành viên. Sự hội
nhập sâu vào các phương tiện truyền thông
xã hội là một bước đi quan trọng đánh dấu
sự cải thiện tin, bài và gần gũi hơn với các
nguồn tin. Ngược lại, các trang mạng xã
hội cũng được lợi. Rất nhiều người khi truy
cập vào tờ báo đã biết đến và tham gia vào
Facebook, Twitter hay Zing Me.
Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, nếu
báo chí chỉ sử dụng truyền thông xã hội
như một công cụ để phục vụ cho mình thôi
thì chưa đủ. Điều quan trọng hơn là làm thế
nào để mang những giá trị báo chí vào
được thế giới truyền thông xã hội rộng lớn
ấy. Quan niệm này đang được nhiều người
ủng hộ.
Vấn đề ở đây là lợi ích của cộng đồng.
Những giá trị tốt đẹp từ bao đời nay của
báo chí là công bằng, khách quan, tôn trọng
sự thật cần được đưa rộng rãi vào truyền
thông xã hội làm cho nó lành mạnh hơn,
mang tính trách nhiệm hơn, thu hút được
trí tuệ, khả năng sáng tạo của hàng triệu
người nhằm phục vụ lợi ích chung của
cộng đồngr
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &
Truyền thông.- 2012.- Số tháng 8.- Tr. 63
– 65.
215
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Trong lịch sử lãnh đạo cách mạng
Việt Nam hơn 80 năm qua, Đảng
và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh cùng các thế hệ lãnh đạo của
Đảng rất quan tâm và sử dụng có hiệu quả
báo chí. Đặc biệt, vào thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền (1930-1945), báo chí
cách mạng đã xuất hiện trong các nhà tù đế
quốc và là một lợi khí đấu tranh của các
chiến sĩ yêu nước và cách mạng bị tù đày.
Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng, từ
địa ngục trần gian Côn Đảo giữa trùng
khơi, đến nhà đày Buôn Mê Thuột ở Tây
Nguyên hay nhà ngục Sơn La ở miền Tây
Bắc, báo chí cách mạng trở thành nguồn
dẫn đưa ánh sáng của Đảng soi rọi và làm
bật dậy sức đấu tranh mãnh liệt của các
chiến sĩ yêu nước nơi ngục tối. Cũng từ quá
trình đó, một thế hệ nhà báo cách mạng
được đào tạo và rèn luyện ngay trong song
sắt nhà tù, góp phần làm nên những nét đặc
sắc của dòng báo chí cách mạng Việt Nam
thời kỳ đấu tranh giành chính quyền.
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản
Đông Dương và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
về báo chí
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam thành lập, đánh dấu một bước ngoặt
trọng đại của cách mạng Việt Nam; đồng
thời, mở ra một thời kỳ phát triển rất mạnh
mẽ của nền báo chí cách mạng Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất quyết định: Bỏ những tờ
báo do Đông Dương Cộng sản Đảng và An
Nam Cộng sản Đảng xuất bản trước đây;
Ban Trung Ương có thể xuất bản một tạp
chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền; Bỏ
những tờ báo của các hội quần chúng do
Đảng chỉ đạo; Duy trì tất cả những tờ báo
do quần chúng chủ trương.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được
thành lập, quan điểm về báo chí cũng như
sự chỉ đạo công tác báo chí của Đảng và
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ngày càng phát
triển và hoàn thiện.
VAI TRò CỦA BÁO CHÍ CÁCH MẠNG TRONG NHÀ Tù,
TRẠI GIAM CỦA ĐẾ QUỐC THờI Kỳ ĐấU TRANH
GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
?TS DƯƠNG MINH HUệ
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
216
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Trong những năm 1936-1939, tranh thủ
tình hình thuận lợi, Đảng Cộng sản Đông
Dương chủ trương đẩy mạnh xuất bản báo
chí công khai để tuyên truyền đường lối
của Đảng, tập hợp quần chúng rộng rãi,
chống lại các quan điểm sai trái, vạch trần
bộ mặt cơ hội, lừa bịp của các phần tử
Tờrốtkít. Nghị quyết hội nghị toàn thể Ban
Trung ương của Đảng Cộng sản Đông
Dương (9.1937) cho rằng: Sách báo công
khai là những lợi khí tuyên truyền rất mạnh
và dễ phổ cập… để giải thích và giác ngộ,
để huấn luyện cho quần chúng(1).
Là người sáng lập nền báo chí cách
mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã có nhiều chỉ đạo quí báu về công tác báo
chí. Năm 1939, Người chỉ thị Ban Chấp
hành Trung ương phải kiểm soát các báo
chí của Đảng để tránh những khuyết điểm
về kỹ thuật và chính trị. Trong báo cáo tại
Đại hội các đoàn thể cách mạng Việt Nam
ở nước ngoài họp tại Liễu Châu (Quảng
Tây - Trung Quốc) tháng 3.1944, Người
viết: “Làm báo bí mật là công việc rất (…
) có thể gặp nguy hiểm. Song nếu biết dựa
vào sự sốt sắng của các hội viên, dẫu có
khó khăn gì cuối cùng vẫn tìm được cách
giải quyết. (…). Báo chí là thứ vũ khí của
ta mà địch căm ghét nhất”(2).
Tuy không có chỉ thị cụ thể về công tác
báo chí trong tù, nhưng với quan điểm
“mỗi một tổ chức Đảng cần ra một tờ báo”
cùng những quan điểm báo chí phục vụ
nhiệm vụ cách mạng, đã thôi thúc các tổ
chức đảng, các đảng viên trong nhà tù tạo
nên sự độc đáo của báo chí cách mạng Việt
Nam: tiến hành công tác báo chí ngay trong
song sắt nhà tù đế quốc.
2. Vai trò của báo chí cách mạng
trong các nhà tù, trại giam đế quốc thời
kỳ 1930-1945
- Công tác báo chí trong tù đã góp phần
tuyên truyền đường lối cách mạng của
Đảng, giữ vững tinh thần bất khuất cho các
chiến sĩ bị giam giữ, góp phần xây dựng
lực lượng cách mạng, xây dựng tổ chức
Đảng trong tù và đào tạo đội ngũ cán bộ
Tại nhà tù Hoả Lò, báo Lao tù tạp chí và
Tạp chí Cộng sản thường xuyên đăng các
bài viết tuyên truyền cách mạng, giác ngộ
quần chúng, vạch trần tội ác của đế quốc,
phê phán những quan điểm sai trái của
Quốc dân Đảng về quan điểm, lập trường,
ý thức sinh hoạt… Nhân dịp kỷ niệm
Quảng Châu Công xã, ngày 12.12.1934, tờ
Lao tù Tạp chí ra số đặc biệt nêu cao tinh
thần đấu tranh dũng cảm của các chiến sỹ
Quảng Châu công xã và liên hệ với phong
trào cách mạng Đông Dương sau Cao trào
1930-1931. Vừa tố cáo tội ác của đế quốc,
phong kiến ở Đông Dương, bài báo vừa
kêu gọi anh em tù nhân dũng cảm đấu
217
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
tranh: “Hỡi anh chị em tù nhân, hãy tỉnh
ngộ! Chớ nên nản lòng thoái chí. Sau thất
bại Quảng Châu công xã, các đồng chí
Trung Quốc đã lấy lại sức mạnh và nghị
lực để gây dựng lại Đảng. Nhờ tinh thần
dũng cảm ấy mà cách mạng lại trở nên
sung sức hơn bao giờ hết. Giờ đây, nhân
dân Đông Dương đã bị áp bức, bóc lột
thậm tệ bởi đế quốc Pháp, lại thêm khổ cực
nữa về khủng hoảng kinh tế. Tình hình
quần chúng rất bi thảm. Chả lẽ chúng ta có
thể thờ ơ trước bao thảm cảnh như vậy
?”(3). Tờ Lao tù tạp chí còn đăng nhiều bài
vận động tù nhân vào Lao tù hội.
Tại nhà tù Sơn La, báo Suối reo đăng
khá nhiều bài viết và thơ ca cách mạng
phản ánh niềm tin và ý chí chiến đấu của
người chiến sĩ cách mạng. Những bài viết
đó được chuyền tay từ người này sang
người khác, từ trại này sang trại khác, từ
đảng viên tới quần chúng, tiếp thêm sức
mạnh, ý chí lạc quan cho các chiến sĩ cách
mạng, giúp họ vượt qua khó khăn, gian khổ
trong những ngày tù ngục. Tết Quý Mùi
(1943), khi nhân dân cả nước đang lâm vào
cảnh “một cổ hai tròng”, cả Pháp và Nhật
ra tay đàn áp chính trị, bóc lột kinh tế phục
vụ chiến tranh, và cũng là dịp kỷ niệm 13
năm Đảng ra đời, Ban biên tập báo Suối
Reo đồng tâm nhất trí phải có báo ra mắt
“bạn đọc” trong dịp này, với nội dung thật
phong phú, khác với báo ra ngày thường.
Hưởng ứng chủ trương này, các cộng tác
viên, trại viên gửi về “tòa soạn” nhiều bài
viết và bài thơ được đồng chí Xuân Thuỷ
và Ban biên tập đăng tải, trong đó có những
bài thơ, câu thơ mang đầy ý nghĩa chính trị:
“Tiếng Đảng ta nghe gọi/ Cờ Đảng ta đi
theo/ Chúc mừng ngày sinh Đảng/ Lòng ta
như Suối Reo”…
Tại nhà tù Côn Đảo, trong những năm
1930-1935, sự ra đời của báo chí cách
mạng đã góp phần quan trọng trong công
tác giáo dục lý luận tại nhà tù. Nhiều đồng
chí bị giam cầm đã trưởng thành về lý luận
Mác - Lênin ngay trong nhà tù đế quốc.
Sau này, họ đã trở thành những người lãnh
đạo xuất sắc của Đảng. Đồng chí Trần Huy
Liệu viết: “Nhờ ở việc xây dựng tập thể
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến thắng
hoàn cảnh ác liệt, biến nhà tù thành trường
học lớn, thành lò đào tạo cán bộ”(4).
Có thể thấy, hầu hết các tờ báo trong các
nhà tù, trại giam đế quốc đều truyên truyền
về đường lối đấu tranh cách mạng của
Đảng, động viên các chiến sĩ bị đày ải giữ
vững khí tiết và lòng tin vào thắng lợi của
cách mạng. Cũng từ đó, báo chí cách mạng
trong tù, một mặt là sản phẩm của các tổ
chức Đảng trong tù, một mặt là nhân tố góp
phần xây dựng Đảng, tập hợp lực lượng,
hình thành một mặt trận đấu tranh chung
218
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
của người tù. Chính sự ra đời của báo chí
cách mạng đã góp phần gây dựng, củng cố
các chi bộ Đảng trong các nhà tù của thực
dân Pháp. Hầu như ở nhà tù nào của thực
dân Pháp có giam cầm các chiến sĩ cộng
sản thì ở đó, họ đều tìm cách thiết lập tổ
chức đảng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Sự hoạt động của báo chí đã góp phần
làm cho công tác tuyên truyền cách mạng,
rèn luyện cán bộ tiến triển, làm cho chính
quyền thuộc địa rất lo sợ. Báo cáo định kỳ
về các hoạt động chống Pháp ở Đông
Dương của Mật thám Pháp (quý I-1933)
viết: “Việc cải tạo các chính trị phạm hãy
còn là chuyện xa vời. Sự giam giữ dường
như là để ca ngợi tinh thần cách mạng của
họ, mỗi chính trị phạm đều tận dụng
khoảng thời gian trong tù để trau dồi kiến
thức hoặc để giáo dục những tù nhân khác,
kể cả tù thường phạm”(5).
- Vai trò của báo chí chí cách mạng trong
lãnh đạo các cuộc đấu tranh ở các nhà tù,
trại giam của đế quốc thời kỳ 1930-1945
Báo chí cách mạng trong tù đã góp phần
cổ vũ, động viên tù nhân đấu tranh đòi cải
thiện chế độ lao tù khắc nghiệt, chống đánh
đập, hạn chế khổ sai, bảo vệ nhân cách
người cộng sản, đòi ân xá chính trị... với
nhiều hình thức phong phú: từ lãn công, bãi
công, hô khẩu hiệu, hò la, đưa yêu sách đến
tuyệt thực diễn ra thường xuyên trong các
nhà tù đế quốc.
Tại nhà tù Hỏa Lò, Lao tù Tạp chí đăng
nhiều bài nêu lên các cuộc đấu tranh phản
đối việc ngược đãi tù thường; kêu gọi tù
nhân đoàn kết đấu tranh đòi thực dân Pháp
cải thiện đời sống; hỏi và đáp về chủ nghĩa
cộng sản; vận động, tuyên truyền lính
người Việt, lính người Pháp và một số cai
đội…(6). Cùng với Lao tù tạp chí, báo Đời
tù của Lao tù hội tại nhà tù Hỏa Lò đã đăng
nhiều bài tuyên truyền các tù nhân, hướng
dẫn, giáo dục phương pháp công tác,
phương pháp đấu tranh; trao đổi ý kiến,
kinh nghiệm chống bọn phản bội. Tại nhà
tù Sơn La, báo Suối Reo đăng những bài
thơ nói lên nỗi cực nhục của người lính bản
xứ, tha thiết kêu gọi người lính hãy tỉnh
ngộ cùng toàn dân đứng lên chống kẻ thù
chung. Tại nhà tù Côn Đảo, hai tờ báo Ý
kiến chung, Tiến lên đóng vai trò tuyên
truyền, vận động, cổ vũ cho cuộc đấu tranh
chống chế độ nhà tù dã man, đòi cải thiện
đời sống cho tù nhân, đòi ân xá tù chính trị,
đòi không được đánh đập, ngược đãi tù
thường phạm. Giữa năm 1935, báo Người
tù đỏ ở Banh II được chuyển về Banh I và
đổi tên là báo Tiến lên. Ngay sau khi đổi
tên, báo Tiến lên liên tục đăng bài phản ánh
chế độ cai trị tù nhân khắc nghiệt và các
cuộc đấu tranh dũng cảm của tù nhân nhà
tù Côn Đảo.
219
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
- Báo chí cách mạng trong các nhà tù đế
quốc là vũ khí sắc bén trên mặt trận đấu
tranh tư tưởng, chống những luận điệu
phản động, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin,
bảo vệ Đảng
Ngoài cuộc đấu tranh đối với địch, các
chi bộ trong tù còn sử dụng báo chí đấu
tranh trong nội bộ tù chính trị. Đó là cuộc
đấu tranh về tư tưởng, lý luận với những
đối tượng tù chính trị khác, nhất là cuộc
đấu tranh tù chính trị Quốc dân Đảng, bọn
Tờrốtxkít và tù nhân thuộc các đảng phái
phản động để bảo vệ chủ nghĩa Mác, bảo
vệ quan điểm, đường lối đúng đắn của
Đảng. Cuộc đấu tranh trên phương diện tư
tưởng diễn ra chủ yếu ở hai nhà tù Côn Đảo
và Hoả Lò.
Tại Côn Đảo, trong những năm ba mươi
của thế kỷ XX, các cuộc đấu tranh giữa
những tù cộng sản với tù nhân Quốc dân
Đảng diễn ra khá quyết liệt. Bên cạnh việc
tranh luận trực tiếp những vấn đề về tình
hình thế giới, về chủ nghĩa Mác - Lênin,
chủ nghĩa Tam dân, tù nhân cộng sản - dưới
sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, đã sử dụng
một số tờ báo như Ý kiến chung, Người tù
đỏ để đấu tranh quyết liệt với tù nhân Quốc
Dân Đảng và tuyên truyền, phổ biến đường
lối của Đảng. Qua cuộc tranh luận, tù nhân
cộng sản dần gây được ảnh hưởng trong tù
Quốc Dân Đảng. Âm mưu của một số phần
tử Quốc Dân Đảng cực đoan giết hại các
đồng chí đứng đầu trong nhóm tù cộng sản
cũng bị đập tan.
Tờ báo DELFRAG (viết gọn lại của câu
Dessus les flots rageux: Cưỡi làn sóng dữ)
do Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm đã
khéo léo hướng dẫn, thảo luận, nghiên cứu
các vấn đề của chủ nghĩa Mác - Lênin, phê
phán những xu hướng tư tưởng trước Mác,
phê phán các quan điểm duy tâm, các quan
điểm nghệ thuật vị nghệ thuật lúc đó. Các
cuộc thảo luận còn hướng tới chỗ khẳng
định niềm tin vào con người với những học
thuyết khoa học có khả năng cải tạo được
xã hội. Qua thảo luận và qua tác động của
báo, nhiều người vốn là đảng viên Quốc
dân Đảng dần hiểu rõ hơn về chủ nghĩa
Mác - Lênin, nhiều người đã dứt khoát
đứng về phía những người cộng sản.
Tại nhà tù Hỏa Lò, cuộc đấu tranh tư
tưởng của các chiến sỹ cộng sản diễn ra rất
quyết liệt. Đó là cuộc đấu tranh về quan
điểm chính trị với tù nhân Quốc dân Đảng
(1932-1935) do các đồng chí Trường
Chinh, Lê Duẩn... trực tiếp thực hiện. Các
đồng chí đã sử dụng hữu hiệu các báo do
tù nhân cộng sản phụ trách như Lao tù tạp
chí, Tạp chí cộng sản, Đuốc đưa đường,
Con đường chính, Đuốc Việt Nam, Thế giới
để đấu tranh với tờ báo Bút tiêu sầu của tù
Quốc dân Đảng. Các đồng chí chỉ rõ: muốn
220
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của đế
quốc, phong kiến, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động phải đi theo con đường
cách mạng vô sản do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Chỉ có Đảng Cộng sản mới có đủ năng
lực và trình độ lãnh đạo thắng lợi cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam. Qua đấu tranh, các đồng chí đã thu
phục được một số tù thân Nhật lầm đường
trở về với con đường chính nghĩa; cô lập
bọn cầm đầu phản động; xây dựng lòng tin
trong tù nhân về tương lai của cách mạng.
Các cuộc đấu tranh quyết liệt về tư
tưởng, lý luận của các chiến sỹ cộng sản
trong nhà tù đế quốc đã góp phần nâng cao
trình độ lý luận, chính trị cho cán bộ, đảng
viên, cảm hóa và đánh bại tư tưởng phản
động, phi vô sản trong các nhà tù, góp phần
vào cuộc đấu tranh tư tưởng của Đảng thời
kỳ 1930-1945.
- Báo chí cách mạng trong các nhà tù,
trại giam thời kỳ 1930-1945 góp phần phát
triển phong trào cách mạng bên ngoài nhà
tù, nhất là các vùng phụ cận
Tờ Dòng sông Công đã vượt ra ngoài
trại giam, lưu hành trong quần chúng, xúc
tiến việc tổ chức cách mạng ở ngoài. Tờ
Bình minh trên sông Đà không chỉ làm
công cụ tuyên truyền, phổ biến đường lối,
chủ trương cách mạng của Đảng, hướng
dẫn phong trào đấu tranh của tù nhân, mà
còn có tác dụng chỉ đạo các cơ sở cách
mạng bên ngoài nhà tù Hòa Bình. Tờ báo
Người tù đỏ cùng với các tài liệu khác của
chi bộ nhà tù Hỏa Lò năm 1933 đã được
Tỉnh uỷ Thái Bình tiếp nhận, nghiên cứu
và trên cơ sở đó, quyết định xuất bản Tạp
chí Đỏ để tuyên truyền phong trào cách
mạng trong tỉnh(7). Sau khi tù chính trị làm
chủ Côn Đảo vào tháng 8.1945, báo Độc
lập của chi bộ đặc biệt nhà tù Côn Đảo đã
đóng vai trò quan trọng trong việc kêu gọi
tổ chức các đoàn thể quần chúng như
Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc
nhằm giáo dục, vận động một số công
chức, gác ngục, con em và gia đình họ theo
đường lối của Mặt trận Việt Minh, có thái
độ đúng đắn với tù chính trị. Đặc biệt, báo
Suối reo có vai trò quan trọng trong phát
triển phong trào cách mạng và mở đầu cho
báo chí cách mạng ở Sơn La. Sau khi thoát
ngục trở về, tháng 4.1945, đồng chí Lê
Trung Toản - một trong những người tham
gia làm báo Suối reo được Xứ ủy Bắc Kỳ
điều quay trở lại Sơn La tham gia củng cố,
phát triển phong trào, chuẩn bị khởi nghĩa
giành chính quyền. Trở lại Sơn La, theo sự
bố trí của đồng chí Chu Văn Thịnh, đồng
chí Lê Trung Toản được đưa về Mường
Chanh, cùng cán bộ địa phương trực tiếp
lãnh đạo phong trào cách mạng trong tỉnh.
Các tổ chức cứu quốc được gấp rút củng cố
221
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
và phát triển. Trên cơ sở đó, Ban lãnh đạo
khu căn cứ Mường Chanh quyết định thành
lập Hội người Thái cứu quốc (Côn tay chất
mương), mà nòng cốt là các tổ Thanh niên
cứu quốc, để tập hợp quần chúng nhân dân
tham gia Mặt trận Việt Minh, tham gia
phong trào kháng Nhật cứu nước. Hội
người Thái cứu quốc đã xuất bản tờ báo
Lắc Mương (Trụ cột của đất nước) bằng
chữ Thái và chữ Quốc ngữ do đồng chí Lê
Trung Toản và Cầm Minh chỉ đạo kiêm chủ
bút. Tuy hình thức thô sơ: viết tay, in thạch,
mỗi số ra được khoảng chục tờ, nhưng báo
Lắc Mương đã nêu cao tính chiến đấu, vạch
rõ tội ác của đế quốc và bọn tay sai bán
nước, kêu gọi đoàn kết dân tộc, tập hợp
dưới lá cờ của Mặt trận Việt Minh để
kháng Nhật cứu nước. Đây là tờ báo có cả
chữ Thái đầu tiên ở vùng Tây Bắc, gây
được tác dụng, ảnh hưởng sâu rộng trong
quần chúng, góp phần thúc đẩy phong trào
đấu tranh tiến tới khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân ở Sơn La.
- Công tác báo chí trong tù đã đào luyện
và hình thành cho Đảng, cho cách mạng
một đội ngũ nhà báo ưu tú, góp phần phát
triển và làm phong phú thêm loại hình báo
chí cách mạng Việt Nam
Năm 1935, đồng chí Tạ Uyên, người
từng tham gia làm báo ở Côn Đảo, sau khi
vượt ngục, đã về tham gia lãnh đạo phong
trào cách mạng ở tỉnh Vĩnh Long thông
qua tờ Lao khổ.
Đầu năm 1936, một số lượng lớn tù
chính trị tại các nhà tù lần lượt được trả tự
do. Đồng chí Phạm Văn Đồng (mãn hạn tù
Côn Đảo về quản thúc ở Mộ Đức) đã chỉ
đạo và tham gia viết nhiều bài trên Tạp chí
Đỏ - cơ quan tuyên truyền của Đảng bộ
Quảng Ngãi, như: Tình hình quốc tế và sự
chỉ đạo chiến lược của Đảng Cộng sản
Đông Dương; Những đảng viên cộng sản
và những người dân chủ phải làm gì; Bộ
mặt của Tờrốtxkít…(8).
Các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Chí
Diểu, Bùi San, Phan Đăng Lưu trở về Huế
hoạt động. Bằng vốn lý luận và kinh
nghiệm hoạt động dày dạn trong tù, những
người cộng sản đã thể nghiệm thành công
trên nhiều lĩnh vực hoạt động như: củng cố,
xây dựng cơ sở đảng; tổ chức quần chúng
mít tinh, biểu tình, diễn thuyết... và là
những người lãnh đạo chủ chốt của phong
trào cách mạng ở Trung Kỳ cũng như trên
mặt trận báo chí.
Qua thực tiễn đấu tranh, nhiều đồng chí
đã trở thành những cán bộ lãnh đạo xuất
sắc của Đảng trong cao trào Mặt trận dân
chủ Đông Dương (1936-1939) như
Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Lê
Duẩn, Nguyễn Chí Diểu, Ung Văn Khiêm,
Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Linh, Hà Huy
222
th«ng tin chuyªn ®Ò sè 4/2014
Giáp, Trần Huy Liệu... Đồng chí Nguyễn
Văn Cừ được cử vào Ban Thường vụ Trung
ương Đảng (tháng 3.1938) và sau đó giữ
chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông
Dương.
Nói tóm lại, lập ra hệ thống nhà tù, chính
quyền thuộc địa muốn đày ải, giam cầm và
vô hiệu hóa những người cộng sản, những
người yêu nước và cách mạng, làm tàn lụi
ý chí đấu tranh của nhân dân ta. Song, chế
độ nhà tù dã man, khắc nghiệt đã không
tiêu diệt được ý chí tự do, độc lập của
những chiến sĩ cách mạng bị tù đầy. Các
chiến sĩ cộng sản trong các nhà tù đế quốc
đã không nản chí, mà biến nhà tù thành
trường học rèn luyện ý chí và quyết tâm
cách mạng, đồng thời cũng biến nhà tù
thành nơi tuyên truyền, giác ngộ các đối
tượng khác đi theo cách mạng, đi theo con
đường của chủ nghĩa cộng sản.
Dưới sự tổ chức, lãnh đạo của các chi bộ
Đảng, báo chí cách mạng trong các nhà tù,
trại giam đế quốc đã đóng vai trò quan
trọng trong cuộc đấu tranh của những
người cộng sản. Báo chí trong tù góp phần
tuyên truyền đường lối cách mạng của
Đảng, giữ vững tinh thần cho các chiến sĩ
bị giam giữ, góp phần xây dựng lực lượng
cách mạng, xây dựng tổ chức Đảng trong
tù và đào tạo đội ngũ cán bộ; là phương
tiện để tổ chức Đảng lãnh đạo các cuộc
đấu tranh với những mục tiêu và phương
pháp khác nhau trong các nhà tù, trại giam
của đế quốc; là vũ khí sắc bén trên mặt trận
đấu tranh tư tưởng, chống những luận điệu
phản động, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin,
bảo vệ Đảng; là nhân tố góp phần phát triển
phong trào cách mạng bên ngoài nhà tù,
nhất là các vùng phụ cậnr
……………….(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn
tập, t6, Nxb CTQG, H.,2000, tr.274.
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.,1995,
t3, tr.455-456.
(3), (6) Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội - Viện Lịch
sử Đảng: Đấu tranh của các chiến sỹ yêu nước và cách
mạng tại nhà tù Hoả Lò (1899-1954), Nxb CTQG,
H.,1994, tr.86.
(4) Hồi ký Trần Huy Liệu, Nxb KHXH, H.,1991,
tr.754.
(5) N.P.M.Ier trimestre - 1933. SLOTFOM. III.
C.52. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
(7), (8) Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Lịch
sử Báo Đảng bộ các tỉnh và thành phố (Sơ thảo), Nxb
CTQG, H.,2000, tr.610, 529.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị &
Truyền thông.- 2013.- Số tháng 12.- Tr.
27 – 31.