BẢN TIN THÁNG 07/2018 -...
Transcript of BẢN TIN THÁNG 07/2018 -...
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 1/54
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 07/2018
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Thiết bị mới có thể tăng thêm 100 lần tuổi
thọ pin của các thiết bị điện tử
Phát triển được laser với chùm ánh sáng
được khuếch đại bằng âm thanh
Pin mặt trời kết hợp silicon với perovskite
đạt hiệu suất kỷ lục 25,2%
Sinh viên phát minh 'túi khí' chống vỡ
màn hình điện thoại
Chế tạo thành công drone "rồng" có khả
năng "biến hình" khi đang bay
Camera có khả năng 'nhìn' xuyên tường
Hạt nano có triển vọng điều trị ung thư vú
Giới khoa học đã có thể đánh bại các dạng
ung thư khó chữa
Các nhà khoa học Nga phát minh phương
pháp mới điều trị ung thư
Kỹ thuật khắc phục thị lực không xâm lấn
Các nhà khoa học phát triển vật liệu có
khả năng tái tạo men răng
Vi khuẩn gắn trên chip giúp chẩn đoán
bệnh
Cảm biến siêu nhỏ mang lại hy vọng về
khả năng phát triển thiết bị đeo chẩn đoán
y tế
Chất hút ẩm mới thấm hút nước và mồ hôi
Thiết kế hệ thống nhỏ - 'miniecosystems'
để kiểm tra chức năng thuốc
Đột phá trong chiết xuất nước sạch từ
không khí sa mạc
Phương pháp sản xuất nhiên liệu sinh học
tiên tiến rất hiệu quả
Phương pháp mới phát triển được kim
cương uốn cong
Thuốc nổ mới có thể khiến TNT độc hại
trở nên lỗi thời
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0019111 Hệ thống mạng
1-0019176 Phương pháp và hệ thống
truyền tin nhắn thoại và vật lưu trữ máy
tính bất biến
1-0019279 Phương pháp mã hóa ảnh và
thiết bị xử lý thông tin
1-0019114 Phương pháp và thiết bị bảo vệ
theo thời gian thực
1-0019219 Thiết bị chiếu sáng bằng LED
dạng đèn
1-0019298 Phương pháp tạo ra dấu hiệu
chống giả dùng cho giấy tờ có giá và
phương pháp và thiết bị nhận dạng giấy tờ
có giá
1-0019241 Máy hút bụi
1-0019206 Phương pháp và thiết bị tạo
hình vỏ lon
1-0019127 Vòi bơm dầu
1-0019181 Khớp nối để nối chi tiết hình
ống và chi tiết hình ống có ren trong
1-0019137 Hệ thống làm mát chất rắn,
phương pháp làm mát chất rắn
bằng hệ thống này và hệ thống làm mát
tro và chất rắn từ môi trường khí hóa than
đá
1-0019106 Bộ phận mòn dùng cho thiết bị
nạo vét, cụm mòn có bộ phận mòn này và
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 2/54
phương pháp lắp bộ phận mòn vào thiết bị
nạo vét
1-0019183 Hệ thống khoá và phương tiện
giao thông kiểu ngồi chân để hai bên
1-0019118 Cụm công suất và phương tiện
giao thông bao gồm cụm công suất này
1-0019122 Động cơ và phương tiện giao
thông
1-0019110 Khuôn dập vuốt và phương
pháp sản xuất vật liệu được tạo hình
1-0019125 Dầu máy làm lạnh và chế
phẩm vận hành dạng lỏng dùng cho máy
làm lạnh
1-0019267 Ngòi bút làm bằng nhựa tổng
hợp
1-0019131 Màng polyeste co nhiệt và bao
bì được tạo ra từ màng này
1-0019166 Chế phẩm phủ, quy trình điều
chế chế phẩm phủ và nền kim loại được
phủ bằng chế phẩm này
1-0019196 Hỗn hợp chất xúc tác hydro
hóa chọn lọc, phương pháp tạo ra chất xúc
tác hydro hóa chọn lọc và phương pháp
hydro hóa chọn lọc sử dụng chất xúc tác
này
1-0019188 Màng phủ trong suốt, đồ dùng
được phủ bằng màng này và phương pháp
sản xuất màng phủ này
1-0019112 Phương pháp oligome hoá và
phương pháp điều chế polyalphaolefin
1-0019185 Chế phẩm mực dùng để in lưới
trên nền thủy tinh, vật liệu in có lớp chế
phẩm mực in này và phương pháp sản
xuất vật liệu in này
1-0019108 Dụng cụ thái
1-0019284 Chế phẩm chăm sóc răng
miệng và phương pháp làm trắng răng
1-0019256 Phương pháp sản xuất sữa
dạng rắn
1-0019094 Dụng cụ làm món kakiage và
phương pháp làm món kakiage
1-0019201 Bao gói thực phẩm và phương
pháp đóng hộp các viên thức ăn đã gói
riêng biệt bằng giấy gói trong hộp bao gói
1-0019249 Phương pháp sản xuất thực
phẩm và đồ uống được gia tăng vị kokumi
1-0019189 Phương pháp sản xuất chế
phẩm tạo hương vị
1-0019136 Phương pháp và hệ thống để
kiểm tra hoặc điều chỉnh việc hiệu chuẩn
của thiết bị đo huyết áp
1-0019104 Thiết bị tập chi dưới và
phương pháp kích thích khớp háng
1-0019113 Thuốc chứa chất chống khối u
và chất tăng cường hiệu quả của chất
chống khối u này
1-0019282 Viên nang phân rã trong ruột
già
1-0019179 Vacxin tái tổ hợp chứa vectơ
virut bất hoạt
1-0019116 Muối axit sulfonic của
imidazol được thế bằng dị vòng amit,
phương pháp điều chế và dược phẩm chứa
muối này
1-0019276 Tiền dược chất axit
phosphoramiđic của 5-[5-phenyl-4-
(pyriđin2 ylmetylamino)quinazolin-2-
yl]pyriđin-3-sulfonamit và dược phẩm
chứa hợp chất này
1-0019126 Chủng Edwardsiella ictaluri E-
ict-VL33 và chế phẩm vacxin chứa chủng
này
1-0019325 Chế phẩm để điều trị bệnh liên
quan đến béo phì chứa thể tiếp hợp peptit
kích thích insulin
1-0019102 Hợp chất benzothiazolon, quy
trình điều chế hợp chất này và dược phẩm
chứa nó
1-0019115 Hợp chất imidazo-oxazin và
dược phẩm chứa hợp chất này
1-0019132 Hợp chất C17-alkandiyl và
alkendiyl của axit oleanolic và dược phẩm
chứa chúng
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 3/54
1-0019138 Hợp chất triazolon có tác dụng
ức chế enzym prostaglandin
E synthaza-1 vi thể (mPGES-1), dược
phẩm chứa hợp chất này và quy trình
điều chế hợp chất này
1-0019153 Hợp chất pyroloquinolin
alkaloit dùng làm chất trị sốt rét
và quy trình điều chế hợp chất này
1-0019165 Hợp chất làm chất đối kháng
thụ thể 5-HT3 và dược phẩm chứa hợp
chất này
1-0019175 Hợp chất gây chết tế bào theo
chương trình và dược phẩm chứa hợp chất
này
1-0019207 Hợp chất 5,6-dihydro-4H-
pyrolo[1,2-a][1,4]-benzodiazepin và
6Hpyrolo[1,2-a][1,4]benzodiazepin đuợc
thế bằng các dẫn xuất phenyl có tác dụng
kháng nấm và dược phẩm chứa chúng
1-0019231 Hợp chất pyrazol có tác dụng
làm chất đối kháng phân tử tương đồng
thụ thể hóa ứng động được biểu hiện trên
tế bào TH2 (CRTH2) và dược phẩm chứa
hợp chất này
1-0019242 Hợp chất alkynylbenzen được
thế hai lần ở vị trí 3,5 và dược phẩm chứa
hợp chất này
1-0019261 Hợp chất quinolon và dược
phẩm chứa hợp chất này
1-0019265 Hợp chất este dihydro
phosphat của amino quinazolin làm chất
ức chế kinaza và dược phẩm chứa hợp
chất này
1-0019272 Hợp chất 4-
(metylaminophenoxy) pyridin-3-yl-
benzamit và dược phẩm chứa hợp chất
này dùng để điều trị bệnh ung thư
1-0019318 Hợp chất heteroaryl và dược
phẩm chứa hợp chất này làm chất ức chế
kinaza mTOR để điều trị hoặc phòng ngừa
bệnh ung thư
1-0019099 Phương pháp phòng trừ hoặc
ngăn ngừa sự phá hoại do mầm bệnh thực
vật hoặc vi sinh vật gây hại và vật liệu
nhân giống thực vật
1-0019186 Phương pháp kiểm soát bệnh
của cây
1-0019217 Phương pháp phòng trừ loài
chân đốt gây hại và hợp chất dị vòng
ngưng tụ
1-0019145 Chế phẩm chứa emodepside
dạng vô định hình
1-0019147 Chế phẩm chống nấm và
phương pháp làm tăng hoạt tính chống
nấm của metconazol
1-0019184 Dẫn xuất oxopyrazin và thuốc
diệt cỏ
1-0019161 Chế phẩm trừ cỏ và phương
pháp phòng trừ loài thực vật không mong
muốn
1-0019167 Chế phẩm diệt cỏ và phương
pháp phòng trừ sự tăng trưởng của thực
vật không mong muốn
1-0019099 Phương pháp phòng trừ hoặc
ngăn ngừa sự phá hoại do mầm bệnh thực
vật hoặc vi sinh vật gây hại và vật liệu
nhân giống thực vật
1-0019134 Cây thuốc lá biến đổi gen,
phương pháp tạo ra cây này, hạt của cây
này và phương pháp chiết dầu từ hạt của
cây này
1-0019101 Virut gây hội chứng rối loạn
hô hấp và sinh sản ở lợn typ châu Âu,
vacxin và phương pháp sản xuất vacxin
chứa virut này
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 4/54
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Thiết bị mới có thể tăng thêm 100 lần tuổi thọ pin của các thiết bị điện tử
Trong số những lời phàn nàn chủ yếu
về điện thoại thông minh, máy tính xách tay
và các thiết bị điện tử khác hoạt động bằng
pin, thì người sử dụng vẫn kêu ca rằng tuổi
thọ của pin quá ngắn và trong một số trường
hợp, các thiết bị còn sinh ra nhiệt. Giờ đây,
một nhóm các nhà vật lý do Deepak K. Singh,
phó giáo sư vật lý và thiên văn học tại trường
Đại học Missouri dẫn đầu, đã chế tạo được
một vật liệu có thể khắc phục cả hai hạn chế
nêu trên. Các nhà khoa học đã xin cấp sáng
chế cho vật liệu từ tính sử dụng một cấu trúc
độc đáo - mạng lưới "tổ ong" thể hiện các tính
chất điện tử đặc biệt.
PGS. Singh cho rằng: "Các điốt bán
dẫn và bộ khuếch đại, thường được chế tạo từ
silic hoặc germani, là các nguyên tố quan
trọng trong các thiết bị điện tử hiện đại. Một
điốt thông thường cho phép dòng điện và điện
áp đi qua thiết bị chỉ theo một chiều duy nhất,
nhưng khi điện áp được đảo ngược, dòng điện
sẽ bị ngắt. Quá trình chuyển đổi này gây lãng
phí nhiều năng lượng do hiện tượng tản nhiệt
hoặc cạn kiệt nguồn điện, do đó ảnh hưởng
đến tuổi thọ pin. Bằng cách thay thế chất bán
dẫn bằng một hệ thống từ tính, chúng tôi tin
rằng có thể chế tạo một thiết bị hiệu quả, tiêu
thụ ít năng lượng hơn nhiều với các thiết bị
cải tiến khác".
Nhóm nghiên cứu đã tạo ra một vật
liệu hai chiều có cấu trúc nano bằng cách lắng
đọng hợp kim từ tính trên một khuôn mẫu có
cấu trúc tổ ong của bề mặt silic. Vật liệu mới
cho phép dòng điện đơn hướng đi qua theo
một chiều và cũng có công suất tiêu hao ít
hơn nhiều so với điốt bán dẫn thường được sử
dụng trong các thiết bị điện tử.
Các điốt từ tính mở đường cho ra đời
các bóng bán dẫn từ tính mới và bộ khuếch
đại tiêu hao rất ít năng lượng, nên sẽ làm tăng
hiệu quả của nguồn điện năng. Điều này có
nghĩa là các chuyên gia thiết kế có thể tăng
tuổi thọ pin gấp 100 lần. Công suất tiêu hao ít
trong bộ vi xử lý máy tính cũng có thể làm
giảm nhiệt sinh ra trong CPU của máy tính
xách tay hoặc máy tính để bàn.
PGS. Singh cho rằng: "Dù cần thực
hiện thêm nhiều nghiên cứu mới phát triển
được sản phẩm cuối cùng, nhưng thiết bị này
cũng có nghĩa là sạc thông thường 5 giờ có
thể tương đương với sạc 500 giờ. Thiết bị
cũng có thể hoạt động như một “công tắc
bật/tắt” cho các linh kiện bên ngoài như
camera mạch kín hoặc bộ giảm tần số vô
tuyến, làm giảm công suất dòng điện chạy
qua thiết bị. Chúng tôi đã xin cấp sáng chế
của Hoa Kỳ và kết hợp với một công ty phái
sinh để giúp đưa thiết bị ra thị trường".
Theo vista.gov.vn, 04/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Phát triển được laser với chùm ánh sáng được khuếch đại bằng âm thanh
Nhờ loại laser silicon mới do các nhà
khoa học Mỹ phát triển, khi sóng âm thanh
được sử dụng như một bộ khuếch đại chùm
ánh sáng, sẽ xuất hiện các thiết bị điện tử
quang học mới vượt trội các thiết bị điện tử
hiện tại về công suất, tốc độ và có kích thước
siêu nhỏ.
Theo tạp chí Science, các nhà khoa
học đã phát triển thành công một loại laser
silicon mới, trong đó sóng âm thanh được sử
dụng như một bộ khuếch đại chùm ánh sáng.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 5/54
Loại laser này sẽ giúp tạo ra các dụng cụ mới
dùng cho thiết bị điện tử quang học.
Với laser silicon mới, sóng âm thanh được sử dụng như một bộ khuyếch đại chùm
ánh sáng. Ảnh: Fraunhofer IPM
Nếu sử dụng photon thay cho các
electron thì có thể tạo ra các thiết bị vượt trội
các thiết bị điện tử hiện tại về công suất và
tốc độ, đồng thời cón thu nhỏ được các thiết
bị đó gấp nhiều lần. Các nhà khoa học đã đặc
biệt chú ý đến việc nghiên cứu để tạo ra các
thiết bị dựa trên silicon.
Một nhóm nhà khoa học thuộc Đại học
Yale (Mỹ) đã tạo ra một loại tia laser
silicon,với việc tăng cường các chùm ánh
sáng bằng phương pháp sóng âm thanh.
Laser silicon rất cần thiết để tạo ra các
thiết bị quang học mới. Mặc dù về tính chất
vật lý, silicon cũng có ích cho các thiết bị
quang học, nhưng quá trình tạo ra một laser
trên nền silicon rất phức tạp. Chỉ có thể có
được bức xạ laser từ một tinh thể silicon bằng
cách dùng một dòng điện nhưng lại phải tiến
hành các quy trình phức tạp bổ sung. Trong
nghiên cứu mới, các nhà khoa học đã phát hiện
ra rằng có thể thu được một chùm tia laser
không phải nhờ dòng điện, mà bằng âm thanh.
Các nhà khoa học đã phát triển một
thiết kế đặc biệt với ống dẫn sóng rộng chừng
1 nanomet, được thiết kế để vừa dẫn cả sóng
âm thanh lẫn sóng ánh sáng trong khi hai loại
sóng này tương tác với nhau. Khi đi dọc theo
ống dẫn sóng này cùng với sóng âm, chùm
ánh sáng được khuếch đại nhiều lần. Kết quả
là, ống dẫn sóng cho phép thu được bức xạ đủ
mạnh từ silicon một điều trước đây bị coi là
không thể. Để duy trì ánh sáng mạnh, các nhà
khoa học đã tạo ra một thiết kế tương tự như
đường đua cho chùm ánh sáng - bức xạ trong
đó di chuyển theo vòng tròn và nhờ vậy, mất
ít năng lượng hơn.
Theo motthegioi.vn, 09/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Pin mặt trời kết hợp silicon với perovskite đạt hiệu suất kỷ lục 25,2%
Trong lĩnh vực công nghệ quang điện,
pin mặt trời silicon chiếm đến 90% thị
trường. Xét về chi phí, mức độ ổn định và
hiệu suất (20-22% đối với pin mặt trời thông
dụng trên thị trường), thì pin mặt trời silicon
vượt trội về khả năng cạnh tranh.
Tuy nhiên, sau nhiều thập kỷ nghiên
cứu và đầu tư, pin mặt trời silicon hiện gần đạt
hiệu suất lý thuyết tối đa. Cần có những loại
pin mới để giảm giá điện mặt trời về lâu dài và
cho phép công nghệ quang điện trở thành một
phương thức phổ biến để sản xuất điện.
Một giải pháp được đưa ra, là đặt hai
loại pin mặt trời khác nhau chồng lên nhau để
tăng tối đa việc chuyển đổi các tia nắng mặt
trời thành điện năng. Hai pin mặt trời ghép
nối này đã được cộng đồng khoa học nghiên
cứu rộng rãi, nhưng chi phí sản xuất đắt đỏ.
Giờ đây, nhóm nghiên cứu tại Phòng thí
nghiệm quang điện thuộc trường Đại học
bách khoa liên bang Lausanne (EPFL) và
Trung tâm PVEM PV đã đưa ra một giải
pháp cạnh tranh kinh tế. Theo đó, các nhà
khoa học đã gắn pin perovskite trực tiếp lên
trên pin silicon thông thường để đạt hiệu suất
kỷ lục là 25,2%. Đây là phương thức triển
vọng vì sẽ chỉ cần một vài bước bổ sung cho
quy trình sản xuất pin silicon hiện nay và chi
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 6/54
phí sẽ hợp lý. Nghiên cứu đã được công bố
trên Tạp chí Nature Materials.
Pin Perovskite-silicon
Tính chất độc đáo của perovskite đã
thôi thúc việc thực hiện nhiều nghiên cứu sử
dụng vật liệu này cho pin mặt trời trong vài
năm qua. Trong khoảng 9 năm, hiệu suất của
loại pin này đã tăng theo hệ số 6. Perovskite
cho phép đạt hiệu suất chuyển đổi cao nhưng
chi phí sản xuất thấp.
Trong các pin kết nối song song,
perovskite bổ sung cho silicon thông qua
chuyển đổi ánh sáng xanh dương và xanh lá
cây hiệu quả hơn, trong khi silicon lại chuyển
đổi ánh sáng đỏ và hồng ngoại tốt hơn.
Florent Sahli và Jérémie Werner, những tác
giả chính của nghiên cứu cho rằng: "Bằng
cách kết hợp hai vật liệu, chúng tôi có thể tối
ưu hóa việc sử dụng quang phổ mặt trời và
tăng sản lượng điện. Các tính toán và nghiên
cứu mà chúng tôi thực hiện cho thấy hiệu
suất 30% sẽ sớm đạt được".
Tuy nhiên, việc tạo ra một cấu trúc
song song hoạt động hiệu quả bằng cách xếp
chồng hai vật liệu lên nhau không phải là
nhiệm vụ dễ dàng. Quentin Jeangros, đồng
tác giả giải thích: "Bề mặt của silicon bao
gồm một chuỗi kim tự tháp có kích thước
khoảng 5 micron, giữ lại ánh sáng và ngăn
chặn không để ánh sáng bị phản xạ. Tuy
nhiên, kết cấu bề mặt gây khó khăn cho việc
lắng đọng màng perovskite đồng nhất. Khi
perovskite được lắng đọng ở dạng lỏng, nó
thường tích tụ trong các rãnh giữa những kim
tự tháp trong khi để lộ các đỉnh, gây ra hiện
tượng đoản mạch".
Một lớp quan trọng đảm bảo cấu trúc
vi mô tối ưu
Nhóm nghiên cứu đã giải quyết vấn đề
đó bằng cách sử dụng các phương pháp bay
hơi để tạo thành một lớp nền vô cơ bao phủ
toàn bộ kim tự tháp. Lớp đó xốp cho phép giữ
lại dung dịch hữu cơ dạng lỏng, sau đó được
bổ sung bằng kỹ thuật lắng đọng màng mỏng.
Tiếp đến, các nhà nghiên cứu đã làm nóng
chất nền ở nhiệt độ tương đối thấp 150°C để
kết tinh một màng đồng nhất của perovskite
trên kim tự tháp silicon.
Nâng cấp các công nghệ hiện có
Loại pin mới ghép nối song song có
hiệu quả cao và tương thích trực tiếp với các
công nghệ silicon đơn tinh thể đã được tạo ra
và mang lại lợi nhuận. Christophe Ballif,
trưởng phòng thí nghiệm quang điện của
EPFL và Trung tâm PV CSEM giải thích:
"Chúng tôi đang đề xuất sử dụng thiết bị sẵn
có mà chỉ cần bổ sung thêm vài khâu. Các
nhà sản xuất sẽ không sử dụng công nghệ pin
mặt trời hoàn toàn mới, mà chỉ nâng cấp các
dây chuyền sản xuất đã được sử dụng cho pin
silicon”.
Hiện tại, nghiên cứu vẫn đang được
tiếp tục để tăng hơn nữa hiệu suất và mang
đến cho màng perovskite độ ổn định lâu dài.
Dù các nhà khoa học đã tạo bước đột phá,
nhưng vẫn cần nghiên cứu trước khi công
nghệ được chấp nhận thương mại.
Theo vista.gov.vn, 20/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Sinh viên phát minh 'túi khí' chống vỡ màn hình điện thoại
Một sinh viên Đại học Aalen ở Đức đã
phát minh ra một dạng „túi khí' cho điện thoại
tương tự túi khí xe hơi.
Tin vui cho những người thường
xuyên làm rơi điện thoại, đây chính là giải
pháp mà họ hằng mong ước: ốp lưng điện
thoại có cơ chế „chủ động giảm sốc‟ với cảm
biến tích hợp và 8 lò xo hình dạng móc.
Cảm biến tự động phát hiện ra tình
trạng rơi tự do của điện thoại, sau đó kích
hoạt lò xo bung ra nhằm bảo vệ điện thoại
khỏi va chạm trực tiếp với mặt đất.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 7/54
Philip Frenzel - người đã thiết kế ra
chiếc ốp lưng, gọi phát minh này là „túi-khí‟
cho điện thoại. Mỗi góc trong thiết kế được
trang bị 2 lò xo. Vẫn chưa rõ Frenzel áp dụng
biện pháp nào để ngăn lò xo tự động kích
hoạt ngoài ý muốn.
Sau khi nhặt điện thoại lên, người
dùng chỉ đơn giản gấp lò xo vào lại trong ốp
lưng để sẵn sàng cho… lần rơi tiếp theo.
Nhờ vào phát minh này, Frenzel đã
thắng giải thưởng cao nhất từ Hiệp hội Cơ
điện tử Đức, dù thiết kế chỉ mới là mẫu thử
nghiệm. Anh cũng đăng ký bản quyền sở hữu
cho thiết kế nên chúng ta có thể trải nghiệm
phát minh này trong một tương lai không xa.
Ốp lưng kì diệu này hoạt động hoàn
hảo trên bề mặt bằng phẳng, nhưng chưa có
thông tin cho biết liệu thiết kế sẽ mang lại kết
quả tương tự nếu như điện thoại rơi ở bề mặt
gồ ghề, nhiều cạnh nhọn.
Trên thị trường ốp lưng, người dùng
tìm được vô số lựa chọn cho mình, từ thiết kế
không thấm nước cho đến lời giới thiệu
„không thể bị phá hủy‟, nhưng thiết kế của
Frenzel quả là độc nhất vô nhị.
Theo tuoitre.vn, 29/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo thành công drone "rồng" có khả năng "biến hình" khi đang bay
Các nhà nghiên cứu tại phòng thí
nghiệm JSK ở Đại học Tokyo vừa phát triển
thành công một con drone "rồng" tạo thành từ
nhiều drone nhỏ khác nhau và có khả năng
biến hình trong khi đang bay.
Theo TheVerge, con drone này không
những có thể biến đổi thành những hình dạng
khác nhau như hình vuông hay đường cong,
nó còn có thể tự động quyết định hình dạng
cần thiết để thay đổi tùy thuộc vào không
gian xung quanh.
Tên gọi "Rồng" (DRAGON) của con
drone này thực ra là viết tắt cho "Dual-rotor
embedded multilink Robot with the Ability of
multi-deGree-of-freedom aerial
transformatiON". Nó được thiết kế dựa trên
mô hình những con diều hình rồng truyền
thống - vốn có đuôi được ghép từ một chuỗi
các con diều nhỏ, liên kết lại với nhau.
Mỗi con drone nhỏ được trang bị một
cặp quạt có khả năng tinh chỉnh theo lực đẩy
vector theo bất kỳ hướng nào. Toàn bộ con
drone lớn lấy năng lượng từ một bộ dev kit
Intel Euclid và có một viên pin gắn dọc theo
xương sống, cho phép bay trong vòng tối đa 3
phút. Phiên bản DRAGON mà bạn thấy trong
video dưới đây có 4 module và đang tự sắp
xếp thành một hình vuông, và đang bay qua
một lỗ nhỏ:
Dù ứng dụng hiển nhiên của loại drone
này là để điều hướng trong các không gian
chật hẹp, nhưng tham vọng của nhóm nghiên
cứu lớn hơn rất nhiều. Drone DRAGON
phiên bản cuối này có thể sẽ được tạo nên từ
12 module và hoạt động như một cánh tay
bay - tức nó sẽ tương tác, di chuyển và điều
khiển vật thể, thậm chí là nhặt các đồ vật
bằng cách sử dụng hai drone ở đầu như một
gọng kìm.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 8/54
Các trường hợp có thể sử dụng drone
này trong thực tế có vẻ khá mập mờ, nhưng
công nghệ mà nó sở hữu quả thực rất thú vị.
Nó có thể được sử dụng trong môi trường
công nghiệp (di chuyển trong các ống dẫn),
hoặc có thể được sử dụng trong các cuộc tìm
kiếm và giải cứu.
Moju Zhao, trợ lý giáo sư tại Đại học
Tokyo, cho biết họ sẽ chưa dừng lại ở đây.
"Chúng tôi sẽ tiến tới thiết kết một mẫu 'nhiều
chân' với 4 module liên kết cơ bản. Khi đó
robot không chỉ có thể bay, nó còn có thể đi
trên mặt đất. Nó sẽ giúp tiết kiệm năng lượng
hơn" - ông nói - "Những quyết định tự động
hóa liên quan phương thức di chuyển tùy
thuộc vào môi trường quả thực là một nghiên
cứu rất thú vị. Mơ ước lớn nhất của chúng tôi
là tạo ra được một robot hình người bay được,
giống như một Iron Man không người lái vậy".
Theo vnreview.vn, 30/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Camera có khả năng 'nhìn' xuyên tường
Các nhà nghiên cứu Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT) đã chế tạo được loại
camera tích hợp công nghệ trí tuệ nhân tạo
(AI) có khả năng “nhìn” xuyên qua tường.
Theo báo Daily Mail, dự án phát triển
camera tích hợp AI nhận biết chuyển động
của con người này có tên là RF-Pose.
Theo đó các nhà nghiên cứu đã sử
dụng hàng ngàn đoạn clip ghi lại các hoạt
động di chuyển khác nhau của con người
cùng với những tín hiệu vô tuyến tương ứng
của các hành động đó để "huấn luyện" phần
mềm AI của camera thông minh.
Cách làm này giúp phần mềm AI nhận
ra mối liên hệ giữa các thay đổi của sóng
radio với từng cử động của con người ra sao.
Theo đó hệ thống phần mềm AI sử
dụng các tần số sóng vô tuyến để nhận biết
chuyển động, từ đó giúp nó có khả năng
"nhìn" thấy mọi người đi lại, nhảy lên hay
ngồi xuống, ngay cả khi không thể nhìn thấy
trực tiếp họ bằng mắt.
Mặc dù mọi người người có thể e ngại
việc camera này có thể bị sử dụng vào mục
đích theo dõi người khác, song các nhà
nghiên cứu hy vọng có thể ứng dụng nó trong
các ứng dụng chăm sóc sức khỏe cho con
người, đặc biệt là người lớn tuổi.
Chẳng hạn người ta có thể sử dụng loại
camera thông minh này trong các nhà dưỡng
lão để có thể biết ngay khi ai đó chẳng may té
ngã trong các phòng đóng kín cửa.
Trong hơn một thập kỷ, giáo sư Dina
Katabi thuộc Phòng thí nghiệm trí tuệ nhân
tạo và Khoa học máy tính (CSAIL) tại MIT
đã phụ trách một nhóm nghiên cứu tập trung
vào việc phát triển một hệ thống cho phép
con người có thể nhìn xuyên tường.
RF-Pose là công trình mới nhất của họ
và nhóm nghiên cứu dự định trình bày dự án
này tại hội nghị khoa học công nghệ ở thành
phố Salt Lake bang Utah cuối tháng này.
Hệ thống camera AI có khả năng theo
dõi cử động của nhiều người cùng lúc, có thể
hoạt động trong điều kiện môi trường hoàn
toàn tối đen và chỉ sử dụng các tín hiệu mạng
không dây
Theo tuoitre.vn, 14/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 9/54
Hạt nano có triển vọng điều trị ung thư vú
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Southern California (USC) đã xác định được
giải pháp mới để ngăn chặn protein làm cho
ung thư vú di căn, nguyên nhân hàng đầu gây
tử vong ở phụ nữ. Kết quả nghiên cứu đã
được công bố trên tạp chí Nature
Communications.
Nghiên cứu này cung cấp giải pháp
mới để ngăn chặn ung thư vú di căn vào phổi.
Đó là tin vui cho những bệnh nhân bị ung thư
vú bộ ba âm tính (TNBC), loại ung thư nguy
hiểm nhất, chiếm 20% số trường hợp ung thư
vú và đặc biệt rất khó điều trị. Các nhà nghiên
cứu quan tâm nhiều đến việc tìm kiếm
phương pháp mới điều trị TNBC.
Min Yu, phó giáo sư sinh học tế bào
gốc và y học tái sinh và là đồng tác giả
nghiên cứu cho biết: “Đối với loại ung thư vú
này, có ít lựa chọn điều trị di căn và thông
thường, các liệu pháp gây độc ở mức cao.
Việc hiểu rõ các tế bào khối u và tương tác
giữa chúng với các cơ quan và mô có thể giúp
thiết kế các liệu pháp xử lý di căn".
Trong phòng thí nghiệm của PGS. Yu,
nhóm nghiên cứu đã chứng minh nhờ ức chế
protein TAK1, họ có thể làm giảm tình trạng
di căn phổi ở chuột mắc TNBC. TAK1 được
xem là cho phép các tế bào ung thư vú ác tính
sống sót trong phổi và hình thành các khối u
di căn mới. Di căn là nguyên nhân phổ biến
nhất gây tử vong do ung thư.
Một loại thuốc tiềm năng có tên là 5Z-
7-Oxozeaenol hoặc OXO có khả năng ức chế
TAK1 và gây khó khăn cho các tế bào ung
thư vú trong việc di căn vào phổi. Tuy nhiên,
OXO không ổn định trong máu nên sẽ không
phát huy tác dụng ở bệnh nhân.
Để khắc phục trở ngại này, nhóm
nghiên cứu đã tạo loại hạt nano, bao gồm một
túi chất béo nhỏ, hoạt động giống một “quả
bom thông minh” để chứa thuốc di chuyển
qua máu và phân phối thuốc trực tiếp cho
khối u. Các nhà khoa học đã nạp thuốc OXO
cho hạt nano này và sử dụng nó để điều trị
cho chuột được tiêm các tế bào ung thư vú ở
người. Dù OXO không thu nhỏ kích thước
các khối u trong vú, nhưng nó làm giảm đáng
kể các khối u di căn trong phổi với rất ít tác
dụng phụ.
PGS. Yu cho biết: “Đối với bệnh nhân
ung thư vú bộ ba âm tính, hóa trị liệu có hệ
thống phần lớn là không hiệu quả và gây độc
ở mức cao. Vì vậy, các hạt nano là một
phương pháp đầy triển vọng cung cấp liệu
pháp mục tiêu như OXO để ngăn chặn quá
trình di căn chết người".
Theo Quỹ Ung thư vú quốc gia, ung
thư vú di căn cũng được phân loại là ung thư
vú giai đoạn 4, khi nó lây lan sang các bộ
phận khác của cơ thể, thường là phổi, gan
hoặc não. Ung thư vú di căn đến các cơ quan
này bằng cách thâm nhập vào hệ thống tuần
hoàn hoặc hệ bạch huyết và di chuyển qua
các mạch máu.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, ung
thư vú là căn bệnh phổ biến mà phụ nữ Hoa
Kỳ hay mắc phải ngoài ung thư da và nguy cơ
phát triển ung thư vú trung bình là 1/8 phụ
nữ. Khoảng 266.120 ca mới mắc ung thư vú
xâm lấn được chẩn đoán mỗi năm và khoảng
40.920 phụ nữ theo ước tính sẽ tử vong vì căn
bệnh này.
Nghiên cứu của trường Đại học
Southern California đang trong giai đoạn phát
triển sớm với các thử nghiệm trên động vật.
Phương pháp mới có triển vọng, nhưng cần
thực hiện thêm nghiên cứu trước khi có thể
được áp dụng để điều trị trên người.
Theo vista.gov.vn, 01/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 10/54
Giới khoa học đã có thể đánh bại các dạng ung thư khó chữa
Các nhà sinh vật học phân tử từ Hoa
Kỳ lần đầu tiên đã thành công trong việc “tái
lập trình” các tế bào miễn dịch trong cơ thể
người và hướng chúng để tiêu diệt khối u vú
của một phụ nữ. Sau khi điều trị, bệnh nhân
từ Florida đã sống thêm hơn hai năm - và
không quan sát thấy triệu chứng tái phát bệnh.
Các nhà khoa học từ Viện Nghiên cứu
Ung thư Quốc gia ở Bethesda đã tạo ra một
loại liệu pháp kết hợp miễn dịch mới, nhờ đó
cơ thể con người có thể chống lại các dạng
ung thư vú đang phát triển. Phương pháp thử
nghiệm đã được sử dụng để cứu mạng sống
của Judy Perkins, 49 tuổi, người không thể
điều trị bằng hóa trị và phẫu thuật.
Sự thay đổi của các tế bào T và cơ chế
"tái lập trình " một số gen nhất định đã cho
phép các nhà khoa học đạt được kết quả tuyệt
vời: sáu tháng sau khi bắt đầu điều trị, tất cả
di căn biến mất, và trong tuần thứ 48, tất cả
các dấu vết của ung thư hoàn toàn biến mất
khỏi cơ thể.
Trước đó, các nhà khoa học có thể đạt
được kết quả tương tự khi điều trị bệnh nhân
bị ung thư gan và ruột kết, hoàn toàn "loại
bỏ" bệnh khỏi cơ thể.
Theo dantri.com.vn, 06/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học Nga phát minh phương pháp mới điều trị ung thư
Đài Sputnik dẫn lời của cơ quan Y tế
Moskva cho biết, các nhà khoa học y khoa
Moskva đã phát minh phương pháp mới để
điều trị u lympho (ung thư hạch bạch huyết).
"Phương pháp mới đối với Nga để điều
trị u lympho, gọi là liệu pháp hình ảnh đang
được thử nghiệm lâm sàng ở viện MONICA
mang tên Vladimirsky" — Bộ trưởng Bộ Y tế
tỉnh Moskva, ông Dmitry Markov cho biết.
Như chúng ta đã biết, phương pháp
hóa trị thông thường tuy hiệu quả những có
tác dụng phụ tiêu cực nghiêm trọng. Chính vì
về liệu pháp hình ảnh được kỳ vọng sẽ thay
thế được phương pháp hóa trị thông thường.
Khi sử dụng liệu pháp hình ảnh, máu
bệnh nhân đi vào một thiết bị đặc biệt, trong
đó các tế bào miễn dịch được ủ trong một
ngày đêm, sau đó lại truyền cho bệnh nhân.
Do vậy, hiệu quả phản ứng miễn dịch được
tăng lên gấp mười lần - các khối u bị phá hủy
mà không có tác dụng phụ. Đồng thời, việc
điều trị bằng phương pháp mới không ảnh
hưởng phụ đến các tế bào khỏe mạnh.
Theo dantri.com.vn, 16/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Kỹ thuật khắc phục thị lực không xâm lấn
Tình trạng mất thị lực do cận thị đang
ngày càng trở nên phổ biến trên toàn thế giới.
Tỷ lệ người mắc chứng cận thị tại Hoa Kỳ và
các nước châu Âu hiện nay tăng gấp đôi so
với 50 năm trước. 70 - 90% thanh thiếu niên
ở các nước Đông Á bị cận thị. Theo ước tính,
đến năm 2020 sẽ có khoảng 2,5 tỷ người trên
toàn cầu có thể bị ảnh hưởng bởi cận thị.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 11/54
Kính cận và kính áp tròng được coi là
các giải pháp đơn giản dành cho những người
có vấn đề về mắt. Ngoài ra, một kỹ thuật phổ
biến cũng thường xuyên được áp dụng trong
điều trị cận thị là phẫu thuật khúc xạ giác
mạc. Tuy tỷ lệ thành công của phương pháp
phẫu thuật điều chỉnh thị lực tương đối cao,
nhưng nó là một thủ thuật xâm lấn, gây biến
chứng sau phẫu thuật, và thậm chí có trường
hợp gây mất thị lực vĩnh viễn. Phẫu thuật điều
chỉnh khúc xạ của mắt trong đó sử dụng chùm
tia laser excimer cắt gọt sửa lại hình dạng
giác mạc theo những thông số đã định LASIK
(viết tắt của Laser In-situ Keratomileusis) và
cắt keratectomy chiếu quang quang (PRK)
vẫn sử dụng công nghệ Laser phân hủy
(Ablative), có thể bào mòn và trong một số
trường hợp làm suy yếu giác mạc.
Nhà nghiên cứu, giảng viên ngành kỹ
thuật cơ khí Sinisa Vukelic, trường Đại học
Columbia, đã phát triển một phương pháp
mới không xâm lấn nhằm khắc phục vĩnh
viễn thị lực, cho thấy sự hứa hẹn tuyệt vời
trong các mô hình tiền lâm sàng. Phương
pháp của ông sử dụng một máy tạo dao động
sử dụng tia laser femtosecond - tia laser tần số
cao cung cấp các xung năng lượng rất thấp
với tốc độ lặp lại cao, cho phép thay đổi có
chọn lọc và cục bộ hóa các tính chất sinh hóa
và sinh học của mô giác mạc. Kỹ thuật không
phẫu thuật này có thể thay đổi hình dạng vĩ
mô của mô, ít tác dụng phụ và hạn chế hơn so
với phẫu thuật khúc xạ. Ví dụ, phẫu thuật
khúc xạ thường không được áp dụng đối với
những bệnh nhân có giác mạc mỏng, mắt khô
và các bất thường khác về mắt. Nghiên cứu
mở ra hy vọng đối với khả năng phát triển
những liệu pháp điều trị các bệnh về mắt như:
cận thị, viễn thị, loạn thị và loạn thị không
đều. Bài báo về kết quả nghiên cứu được
đăng tải trên tạp chí Nature Photonics.
Vukelic cho biết "Nghiên cứu của
chúng tôi là nghiên cứu đầu tiên sử dụng chế
độ đầu ra laser để thay đổi không xâm lấn độ
cong giác mạc hoặc điều trị các vấn đề lâm
sàng khác”. Phương pháp của ông sử dụng
máy tạo dao động sử dụng tia laser
femtosecond để thay đổi các đặc tính sinh hóa
và sinh học của mô collagen mà không gây
tổn thương tế bào hay phá vỡ mô. Kỹ thuật
này cung cấp năng lượng điện đủ để tạo ra
plasma có mật độ thấp trong khối lượng tiêu
điểm đã thiết lập nhưng không đủ để gây tổn
thương mô trong vùng điều trị.
Quan sát cho thấy mật độ plasma thấp
trong kỹ thuật chụp ảnh đa ảnh, đây được coi
là một tác dụng phụ không mong muốn.
Vukelic khẳng định có thể biến tác dụng phụ
này thành một phương pháp điều trị khả thi
để tăng cường tính chất cơ học của các mô
collagen.
Yếu tố quan trọng đối với phương
pháp của Vukelic là khả năng gây ra sự ion
hóa các phân tử nước trong giác mạc của
phương pháp sử dụng plasma mật độ thấp. Sự
ion hóa này tạo ra một loại ôxy phản ứng
(một loại phân tử không ổn định chứa oxy và
dễ dàng phản ứng với các phân tử khác trong
tế bào), từ đó, tương tác với các sợi collagen
để tạo thành các liên kết hóa học hoặc liên kết
chéo. Việc đưa vào có chọn lọc các liên kết
chéo này gây ra những thay đổi về tính chất
cơ học của mô giác mạc được điều trị.
Khi áp dụng kỹ thuật của Vukelic để
ghép mô giác mạc, liên kết chéo làm thay đổi
các đặc tính collagen trong các vùng được
điều trị, cuối cùng dẫn đến những thay đổi
trong cấu trúc vĩ mô tổng thể của giác mạc.
Phương pháp điều trị ion hóa các phân tử mục
tiêu trong giác mạc, đồng thời, tránh được
quá trình phá hủy mô bởi ánh sáng của mô
giác mạc. Vì là quá trình quang hóa nên nó
không phá vỡ mô và các thay đổi gây ra vẫn
trong tình trạng ổn định.
Vukelic cho rằng nếu điều chỉnh
những thay đổi này một cách cẩn trọng thì có
thể điều chỉnh độ cong giác mạc và do đó,
thay đổi công suất khúc xạ của mắt. Ông nhấn
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 12/54
mạnh: “Đây là một sự khởi đầu cơ bản từ việc
điều trị bằng tia laser siêu nhanh hiện đang
được áp dụng trong cả nghiên cứu và thiết
lập lâm sàng cũng như dựa vào quá trình phá
hủy mô bởi ánh sáng của vật liệu đích và sự
hình thành bong bóng cavitation (bọt khí
chân không) tiếp theo".
Bác sĩ Leejee H. Suh, Giáo sư nhãn
khoa Miranda Wong Tang, Trung tâm Y tế,
Đại học Columbia, người không tham gia
nghiên cứu cho biết: “Phương pháp phẫu
thuật khúc xạ được sử dụng rộng rãi trong
những năm gần đây. Tuy là công nghệ tiên
tiến, lĩnh vực này vẫn đang tìm kiếm một giải
pháp thay thế ít xâm lấn trong một thời gian
dài. Phương thức thế hệ tiếp theo của Vukelic
được coi là sự hứa hẹn tuyệt vời. Nó có thể là
một tiến bộ lớn trong điều trị và giải quyết
đại dịch cận thị cho phần đông dân số trên
toàn cầu”.
Nhóm của Vukelic hiện đang xây dựng
một nguyên mẫu lâm sàng và dự định bắt đầu
thử nghiệm lâm sàng vào cuối năm nay. Ông
cũng đang nỗ lực phát triển phương pháp dự
đoán cách vận hành của giác mạc như chức
năng chiếu xạ laser, giác mạc biến dạng như
thế nào nếu chỉ xử lý một diện tích tương
đương với một vòng tròn nhỏ hoặc một hình
elip. Nếu các nhà nghiên cứu biết giác mạc sẽ
vận hành như thế nào, họ sẽ có thể xác định
phương pháp điều trị thông qua kỹ thuật quét
giác mạc của bệnh nhân và sau đó sử dụng
thuật toán của Vukelic để thực hiện các thay
đổi cụ thể nhằm cải thiện thị lực cho bệnh
nhân.
"Điều đặc biệt thú vị là kỹ thuật của
chúng tôi không giới hạn ở môi trường mắt
mà có thể được áp dụng đối với các mô giàu
collagen khác", Vukelic bổ sung. “Chúng tôi
cũng đang hợp tác với phòng thí nghiệm của
Giáo sư Gerard Ateshian để điều trị bệnh
thoái hóa khớp ngay từ thời điểm ban đầu, và
kết quả sơ bộ rất đáng khích lệ. Chúng tôi tin
rằng phương pháp tiếp cận không xâm lấn
của chúng tôi có khả năng mở ra các con
đường mới trong điều trị hoặc sửa chữa mô
collagen mà không gây tổn thương mô".
Theo vista.gov.vn, 05/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dụng cụ quang hợp cho các tế bào nhân tạo
Để tạo ra một tế bào nhân tạo, các nhà
khoa học thường sử dụng hai phương pháp
tiếp cận: một là: tái cấu trúc phần mềm hệ
gen của một tế bào sống; hai là: tập trung vào
phần cứng của tế bào, xây dựng ngay từ lúc
ban đầu các cấu trúc đơn giản giống tế bào,
có khả năng bắt chước chức năng của tế bào
sống. Tuy nhiên, một trong những thách thức
lớn nhất thường gặp trong phương pháp thứ
hai là khả năng bắt chước các phản ứng hóa
học và sinh học phức tạp cần thiết để tế bào
có thể thực hiện các hành vi phức tạp.
Mới đây, một nhóm các nhà nghiên
cứu quốc tế từ trường Đại học Harvard (Hoa
Kỳ) và Đại học Sogang ở Seoul (Hàn Quốc)
đã thiết kế một cấu trúc giống tế bào có khả
năng khai thác quá trình quang hợp để thực
hiện các phản ứng trao đổi chất, bao gồm thu
thập năng lượng, cố định cacbon và hình
thành cytoskeleton. Bài báo về nghiên cứu
được công bố trên tạp chí Nature
Biotechnology.
Kit Parker, Giáo sư Khoa Kỹ thuật Y
sinh và Vật lý Ứng dụng, Trường Kỹ thuật và
Khoa học Ứng dụng John A. Paulson
(SEAS), Đại học Harvard cho biết: "Nghiên
cứu mới của chúng tôi mở ra một hy vọng về
khả năng xây dựng cấu trúc ở cấp độ tế bào.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 13/54
Chúng tôi đã kích thích hoạt động trao đổi
chất bằng cách sử dụng ánh sáng, xây dựng
một mạng lưới protein theo yêu cầu trong một
tế bào sống và kết hợp tất cả các thành phần
cần thiết vào trong một tế bào".
Kwanwoo Shin, Giáo sư Khoa Hóa
học tại Sogan đồng thời là Giám đốc Viện
Giao diện Sinh học cho biết: “Các cơ chế
chúng tôi đã chứng minh được coi là bước
đầu tiên trong quá trình phát triển mạng lưới
điều tiết đa nhánh để các tế bào nhân tạo có
thể biểu hiện cân bằng nội môi và hành vi tế
bào phức tạp”.
Để xây dựng hệ thống tổng hợp này,
các nhà nghiên cứu đã thiết kế một bào quan
quang hợp từ các thành phần đơn nhất của thế
giới thực vật và động vật.
Keel Yong Lee, nghiên cứu sinh sau
tiến sĩ tại SEAS và là tác giả đầu tiên của
nghiên cứu cho biết: "Ý tưởng của chúng tôi
vô cùng đơn giản. Đó là, chúng tôi đã chọn
hai chất chuyển quang protein - một chất từ
thực vật và chất kia từ vi khuẩn - có khả năng
tạo ra một gradient trên màng tế bào để kích
hoạt các phản ứng".
Hai chất chuyển quang tỏ ra nhạy cảm
với các bước sóng ánh sáng màu đỏ và màu
xanh lá cây. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành
gắn các protein vào trong một màng lipid đơn
giản cùng với các enzym có khả năng tổng
hợp adenosine triphosphate (ATP) - nguồn
năng lượng thiết yếu của tế bào. Khi chiếu
ánh sáng đỏ vào màng, phản ứng hóa học
quang hợp xảy ra, tạo ra các phân tử mang
năng lượng ATP. Trong khi đó, khi màng
được chiếu ánh sáng xanh, quá trình hình
thành ATP sẽ dừng lại. Khả năng bật và tắt
quá trình sản xuất năng lượng cho phép các
nhà nghiên cứu kiểm soát nhiều phản ứng
trong tế bào, bao gồm sự trùng hợp actin (yếu
tố chính quyết định hình dạng của tế bào), các
khối xây dựng tinh túy của tế bào và mô.
Nhà nghiên cứu Sung-Jin Park tại
SEAS và Wyss, đồng tác giả của bài báo chia
sẻ: “Nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực này
đã sử dụng các protein để tạo ra ATP, nhưng
chỉ có thể tạo ra từng phân tử ATP một. Bằng
cách kết hợp những thành phần tinh túy nhất
của hai thế giới thực vật và động vật, chúng
tôi có thể kiểm soát và điều chỉnh quá trình
sản xuất nguồn năng lượng cần thiết cho hoạt
động của tế bào. Hiện nay, chúng tôi đang
sản xuất những tế bào này theo phương pháp
từ dưới lên, bắt đầu với những protein riêng
biệt này".
Khả năng kiểm soát và điều chỉnh hoạt
động sản xuất actin cho phép các nhà nghiên
cứu kiểm soát hình dạng của màng tế bào,
đồng thời, cung cấp phương pháp chế tạo các
tế bào di động. Phương pháp tiếp cận từ dưới
lên có thể được áp dụng để xây dựng các bào
quan nhân tạo khác, như màng lưới nội chất
hoặc hệ thống có cấu trúc giống nhân tế bào;
đây cũng là bước đầu tiên hướng tới khả năng
phát triển hệ thống giống tế bào nhân tạo có
khả năng bắt chước các hành vi phức tạp của
tế bào sinh học.
"Việc đưa mạng lưới các protein chức
năng và bào quan vào môi trường tế bào
nhân tạo mở đường cho việc phát triển khả
năng xây dựng một tế bào lại từ đầu", Shin
cho biết.
"Từ các khái niệm như thuốc hỗ trợ
sinh sản, vết thương bị tổn thương hay những
căn bệnh kỳ lạ khác, giờ đây chúng ta đã
được cung cấp những nhận thức cơ bản về
các công cụ và điều kiện cần thiết để có thể
kiểm soát hoạt động bên trong tế bào. Kết
quả nghiên cứu là cơ sở cho khả năng sản
xuất bộ phận giả tế bào trong tương lai",
Parker nhấn mạnh.
Theo vista.gov.vn, 04/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 14/54
Phân tử tổng hợp chống lại các siêu khuẩn rất hiệu quả
Vi khuẩn đang phát triển khả năng
kháng thuốc tốt nhất với tốc độ đáng báo
động, do đó, việc bào chế thuốc kháng sinh là
một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng. Giờ đây,
các nhà nghiên cứu tại trường Đại học North
Carolina đã lấy cảm hứng từ một phân tử tự
nhiên được sản sinh bởi các vi sinh vật biển để
tổng hợp một hợp chất mới có tính chất kháng
khuẩn triển vọng chống lại siêu khuẩn.
Nhiều thập kỷ lạm dụng và kê đơn quá
nhiều thuốc kháng sinh đã dẫn đến tình trạng
ngày càng nhiều vi khuẩn có khả năng kháng
kháng sinh và theo một báo cáo gần đây, đến
năm 2050, vi khuẩn sẽ cướp đi sinh mạng của
10 triệu người mỗi năm. Báo cáo của Trung
tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh châu
Âu (ECDC) cho thấy hàng phòng thủ cuối
cùng của chúng ta đã bắt đầu thất bại trước số
lượng lớn vi khuẩn.
Rất may, những vũ khí mới đang được
bổ sung. Các hợp chất mới đầy triển vọng
đang xuất hiện ở nhiều nơi như mật ong, siro
phong, nọc độc rắn chuông và sữa thú mỏ vịt.
Các loại kháng sinh trước đây bị bỏ qua được
cho là cơ hội thứ hai và các nhà khoa học
đang chuyển sang sử dụng các loại polyme và
gel mới, biến đổi di truyền và thậm chí là tận
dụng vi khuẩn săn mồi để tìm kiếm những vi
khuẩn kháng thuốc.
Nghiên cứu mới tập trung vào
lipoxazolidinone A, một phân tử được sản
sinh tự nhiên bởi một số vi khuẩn sống ở đáy
biển. Các nhà khoa học trước đây nhận thấy
hiệu quả của phân tử này trong việc chống lại
một số vi khuẩn như MRSA đã phát triển khả
năng kháng nhiều loại thuốc. Nhóm nghiên
cứu bắt đầu tạo ra phiên bản tổng hợp của
phân tử và thậm chí còn cải thiện khả năng
diệt khuẩn.
Sau khi khẳng định được rằng phân tử
tổng hợp có cấu trúc hóa học giống như
lipoxazolidinone A tự nhiên, nhóm nghiên
cứu đã phân lập được các phần của phân tử
hiệu quả nhất và tập trung vào nó. Kết quả
cuối cùng tạo ra một hợp chất thậm chí gây
chết người được gọi là JJM-35.
Sau đó, các nhà khoa học đã thử
nghiệm hợp chất mới trên một loạt các vi
khuẩn trong phòng thí nghiệm, bao gồm một
số loài có khả năng kháng các loại thuốc hiện
có và những loài khác thì không. Điều thú vị
là JJM-35 không chỉ có hiệu quả chống lại vi
khuẩn kháng thuốc, mà thực sự còn tiêu diệt
vi khuẩn đó hiệu quả hơn các vi khuẩn không
kháng thuốc. Trong một số trường hợp, phiên
bản tổng hợp có hiệu quả cao hơn 50 lần so
với lipoxazolidinone A tự nhiên. Khía cạnh
này mở ra tiềm năng bào chế thuốc trong
tương lai từ JJM-35. Dù hợp chất này chưa
sẵn sàng được sử dụng, nhưng là nền tảng
vững chắc để phát triển loại kháng sinh mới.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Angewandte Chemie.
Theo vista.gov.vn, 08/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học phát triển vật liệu có khả năng tái tạo men răng
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Queen Mary, Luân Đôn (Anh
quốc) đã tìm ra một phương pháp phát triển
vật liệu khoáng hoá có khả năng tái tạo các
mô cứng như men răng và xương.
Men răng là lớp ngoài cùng, bao bọc
răng, bảo vệ ngà răng và các dây thần kinh
bên trong. Men răng là mô xương cứng nhất,
khó bị tác động trong cơ thể, cho phép răng
hoạt động và chịu được áp lực liên tục từ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 15/54
những thao tác nhai, cắn, nghiến, mài hay tiếp
xúc với các loại thức ăn và đồ uống có tính
axit cao và nhiệt độ nóng lạnh thất thường
trong phần lớn thời gian trong cuộc đời mỗi
người. Ưu điểm đáng chú ý này có được là
nhờ cấu trúc có tổ chức cao của men răng.
Tuy nhiên, không giống như các mô
khác của cơ thể, men răng không có khả năng
tái tạo hay phục hồi một khi nó bị tổn thương,
từ đó, dẫn đến tình trạng đau, ê buốt và thậm
chí là mài mòn, mất răng. Những vấn đề về
răng miệng ảnh hưởng đến chất lượng và
cuộc sống của hơn 50% dân số thế giới, vì
vậy, việc tìm kiếm phương pháp tái tạo men
răng từ lâu đã trở thành một nhu cầu cấp thiết
trong lĩnh vực nha khoa.
Nghiên cứu, được công bố trên tạp chí
Nature Communications, cho thấy phương
pháp tiếp cận mới có thể tạo ra các vật liệu có
độ chính xác và trật tự vượt trội cũng như có
cấu tạo và hoạt động giống men răng.
Vật liệu mới có thể được sử dụng trong
điều trị một loạt các biến chứng nha khoa như
ngăn ngừa và điều trị sâu răng hoặc sự nhạy
cảm của răng hay còn được gọi là quá mẫn
cảm với dentin.
Tiến sĩ Sherif Elsharkawy, Trường Kỹ
thuật và Vật liệu Khoa học Queen Mary, nha
sĩ và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu từ cho
biết: “Điều này thật thú vị vì tính đơn giản và
linh hoạt của nền tảng khoáng hóa mở ra cơ
hội trong điều trị và tái tạo các mô răng.
Chúng tôi có thể phát triển loại băng kháng
axit có khả năng thấm qua, khoáng hóa và
che chắn các ống răng không được bảo vệ để
điều trị hiện tượng quá mẫn cảm với dentin
của răng".
Cơ chế được phát triển dựa trên một
loại vật liệu protein cụ thể có khả năng kích
hoạt và dẫn hướng sự phát triển của các tinh
thể nano apatit ở lớp cao răng, tương tự như
cách thức phát triển của các tinh thể này khi
men răng phát triển trong cơ thể con người. Tổ
chức cấu trúc đóng vai trò quan trọng cho các
tính chất vật lý nổi bật của men răng tự nhiên.
Giáo sư Alvaro Mata, thuộc Trường Kỹ
thuật Vật liệu và Khoa học Queen Mary, đồng
thời là người đứng đầu nghiên cứu cho biết:
“Mục tiêu chính trong khoa học vật liệu là học
hỏi từ thiên nhiên để phát triển các dạng vật
liệu hữu ích dựa trên sự điều chỉnh, kiểm soát
chính xác các khối xây dựng phân tử. Do đó,
chúng tôi đã tìm ra một giải pháp để có thể dễ
dàng phát triển các vật liệu tổng hợp mô
phỏng cấu trúc có tổ chức theo cấp bậc tại các
vị trí có diện tích rộng lớn và có khả năng điều
chỉnh các thuộc tính của chúng".
Khả năng kiểm soát quá trình khoáng
hóa cho phép tạo ra các loại vật liệu có tính
chất bắt chước các mô cứng khác ngoài men
răng như xương và ngà răng. Như vậy, công
trình nghiên cứu có tiềm năng được sử dụng
trong một loạt các ứng dụng y học tái sinh.
Ngoài ra, nghiên cứu còn cung cấp thông tin
chi tiết về vai trò của sự rối loạn chuyển hóa
protein trong sinh lý học và bệnh lý của con
người.
Theo vista.gov.vn, 06/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 16/54
Mô “thông minh” trong tương lai có thể được nuôi cấy thành mọi cơ quan cấy ghép
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
California đã tạo ra loại mô tổng hợp có thể
được ghép lại thành bất cứ cơ quan nào của
cơ thể. Từ đó, nhóm nghiên cứu có thể tự
động điều chỉnh có hiệu quả các tế bào này để
chúng có các cấu trúc và màu sắc khác nhau,
một quá trình tương tự như những gì diễn ra ở
những giai đoạn đầu của sự phát triển phôi
thai tự nhiên.
Nhóm nghiên cứu đã thiết lập một hệ
thống nuôi cấy các cơ quan phức tạp theo
cách chúng hình thành trong tử cung, mang
hy vọng đến cho 114.000 người đang chờ cấy
ghép nội tạng trước thực trạng thế giới đang
thiếu nội tạng cấy ghép.
Y học hiện đại đã có những bước nhảy
vọt trong lĩnh vực cấy ghép, làm giảm tình
trạng đào thải bộ phận cấy ghép và tìm cách
cấy ghép được nhiều nội tạng cho bệnh nhân.
Dù vậy vẫn không đủ. Mỗi ngày, trung bình
có 20 người trên thế giới chết vì không được
cấy ghép kịp thời. Các phòng thí nghiệm tiên
tiến nhất hiện đang khắc phục tình trạng thiếu
hụt bằng cách in 3D và nuôi cấy các cơ quan
nội tạng phù hợp cho người nhận. Tuy nhiên,
cho đến nay, chỉ có số ít cơ quan được nuôi
cấy thành công bằng những kỹ thuật đó.
Các nhà khoa học đang sử dụng ngày
càng nhiều tế bào gốc để tạo ra các cơ quan
giống như của chính bệnh nhân. Nhưng giờ
đây, chỉ có khoảng 11 cơ quan đã được nuôi
cấy trong phòng thí nghiệm thành công từ vết
xước và nhiều cơ quan trong số đó là dạng
thu nhỏ so với các cơ quan của người trưởng
thành. Việc sử dụng máy in 3D để tạo ra các
cơ quan mất ít chi phí, thu hút sự chú ý của
cộng đồng y học, nhưng máy in thực sự chỉ
có khả năng tạo ra các bộ phận phẳng như da,
mạch máu hoặc các cơ quan rỗng như bàng
quang.
TS. Wendell Lim, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng: “Mọi người nói về các cơ quan
in 3D, nhưng điều đó thực sự khác biệt so với
cách sinh học tạo nên các mô. Hãy tưởng
tượng nếu bạn phải tạo hình một con người
bằng cách lắp ghép tỉ mỉ mọi tế bào vào nơi
cần thiết và dán nó vào đúng vị trí. Thật khó
để tưởng tượng cách bạn sẽ in một bộ phận
hoàn chỉnh, sau đó, chắc chắn rằng nó đã
được kết nối đúng vào dòng máu và phần còn
lại của cơ thể”.
Theo TS. Kole Roybal, đồng tác giả
nghiên cứu, công nghệ cho phép các nhà khoa
học lập trình các tế bào để liên lạc và phối
hợp với nhau để phát triển thành các mô hoàn
chỉnh. Đây là một phương pháp cải tiến so
với các phương pháp nuôi cấy các cơ quan
trước đây.
Ngay cả khi các cơ quan phát triển đủ
lớn để được sử dụng ở bệnh nhân, thì cần
thực hiện thao tác phẫu thuật đầy rủi ro để
cấy ghép chúng và kết nối tất cả các mạch
máu và dây thần kinh cần thiết để các cơ quan
hoạt động. Hệ thống mới cho phép làm điều
đó. Hệ thống đưa ra các chỉ dẫn cho các tế
bào phôi thai trong thí nghiệm của nhóm
nghiên cứu để chúng hình thành ba lớp cơ bản
của phôi. Các nhà khoa học không chỉ có khả
năng lập trình các tế bào để biến đổi ngay lập
tức thành các dạng và màu sắc cụ thể, mà còn
lập trình để chúng phát triển chậm lại theo
thời gian giống như một phôi thai.
Theo vista.gov.vn, 08/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 17/54
Biến được tế bào miễn dịch thành tế bào thần kinh
Có nguồn gốc từ các tế bào miễn dịch, nhưng các tế bào được chuyển đổi vẫn thực hiện những
chức năng cơ bản của tế bào thần kinh Ảnh : Shutterstock
Các nhà khoa học Mỹ đã phát triển
phương pháp thu các tế bào thần kinh từ các
tế bào miễn dịch một cách đơn giản và hiệu
quả hơn so với cách từ các tế bào da.
Theo Deccan Chronicle, có thể thu
được tế bào thần kinh hoàn chỉnh từ tế bào
miễn dịch ở người (tế bào T) mà chỉ mất
khoảng 3 tuần. Các chuyên gia của Đại học
Stanford (Mỹ) đã tìm cách thu được những tế
bào thần kinh đó mà chỉ phải thêm 4 protein
vào.
Theo các nhà nghiên cứu, cũng có một
phương pháp khác để thu thập tế bào thần
kinh. Các tế bào da cũng có thể được chuyển
đổi trực tiếp thành các tế bào thần kinh. Tuy
nhiên, để làm được việc này, các tế bào thu
được bằng sinh thiết phải được nuôi cấy trong
phòng thí nghiệm trong một khoảng thời gian
nhất định cho đến khi số lượng của chúng
tăng lên. Trong thời gian này, đột biến di
truyền có thể xảy ra. Còn phương pháp mới
thì dễ dàng hơn và hiệu quả hơn.
Như đã biết, các tế bào miễn dịch tích
cực lưu thông trong máu. Trong một mililit
máu tươi hoặc đông lạnh, 50.000 tế bào thần
kinh được hình thành. Phương pháp này mở
ra cho các nhà khoa học khả năng nghiên cứu
các rối loạn như tâm thần phân liệt và chứng
tự kỷ. Tuy nhiên, các tế bào thần kinh có
nguồn gốc từ các tế bào miễn dịch không phải
hoàn toàn là lý tưởng. Ví dụ, chúng không thể
hình thành khớp thần kinh (liên kết) với nhau.
Mặc dù vậy, chúng vẫn thực hiện các chức
năng cơ bản của tế bào thần kinh. Các nhà
khoa học hy vọng sẽ cải thiện kỹ thuật này.
Trước đó, các nhà khoa học Mỹ đã cấy
được các tế bào não người vào não những con
chuột thí nghiệm. Sau nhiều thất bại, tỷ lệ
sống sót của các tế bào não người đã tăng lên
tới 80%. Đó là các tế bào thần kinh của não
người được nuôi cấy trong ống nghiệp rồi
mới ghép vào đầu chuột. Sau 233 ngày, các
búi tế bào thần kinh có cơ cấu tương đương
với não trẻ sơ sinh. Các chuyên gia không
nhận thấy sự bất thường trong hành vi của
những con chuột thí nghiệm và hy vọng sẽ
ứng dụng thành tựu này trong y học tái sinh
khi dùng công nghệ mới để thay thế những
vùng não người bị tổn thương.
Theo motthegioi.vn, 08/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Phát hiện kiểu xét nghiệm máu mới giúp dự đoán nguy cơ trẻ bị sinh non
Với hàng nghìn tỷ đầu lọc thuốc lá bị
vứt đi mỗi năm trên khắp thế giới gây ô
nhiễm cho môi trường, một nhóm nhà khoa
học Australia đã phát minh ra phương pháp
mới biến những thứ bỏ đi này thành một vật
liệu để xây dựng đường sá.
Sinh non là một trong những mối nguy
hiểm lớn nhất mà các bà mẹ và em bé của họ
có thể gặp phải. Các biến chứng do sinh non
là một trong những nguyên nhân hàng đầu
gây tử vong ở trẻ sơ sinh tại Mỹ và chúng là
một trong những nguyên nhân gây tử vong
hàng đầu ở trẻ dưới 5 tuổi trên toàn cầu.
Theo trang National Geographic, hiện
nay, một nhóm các nhà khoa học quốc tế vừa
ra mắt một loại xét nghiệm máu mới có hiệu
quả gần bằng như siêu âm, xác định một phụ
nữ sẽ mang thai trong bao lâu nữa và điều
quan trọng là, liệu cô ấy có thể xảy ra tình
trạng chuyển dạ sớm và sinh con sớm hay
không.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 18/54
Trong khi xét nghiệm này vẫn trong
giai đoạn phát triển ban đầu, nhóm nghiên
cứu nói rằng nó rẻ hơn và dễ vận chuyển hơn
thiết bị siêu âm. Nếu tiến hành rộng rãi, xét
nghiệm có thể giúp những phụ nữ mang thai
sống trong khu vực thu nhập thấp hoặc vùng
sâu vùng xa, chỉ có vài cơ sở y tế, dễ dàng
tiếp cận loại chăm sóc tiền sản có giá trị này.
Siêu âm có mức độ dự đoán tuổi thai em bé chính xác là 48%
Louis Muglia, giám đốc Trung tâm
phòng ngừa sinh non tại Bệnh viện nhi
Cincinnati cho biết: "Đây là một nghiên cứu
đáng khích lệ, thực sự đảm bảo nên được tiếp
tục đầu tư và đánh giá trong một nhóm nhiều
phụ nữ hơn".
Tại sao sinh non lại nguy hiểm đến
vậy?
Sinh non là ca sinh nở xảy ra sớm hơn
ba tuần so với thời gian thai kỳ chín tháng của
người mẹ. Nhiều ca sinh non khó dự đoán, và
trẻ sinh sớm có thể bị rối loạn về thể chất và
thần kinh.
Tình trạng này ảnh hưởng đến khoảng
9% phụ nữ Mỹ. Di truyền là một yếu tố lớn
trong việc xác định nguy cơ sinh non, song
sức khỏe của người mẹ và các điều kiện môi
trường khác cũng có ảnh hưởng lớn.
Ví dụ, các bà mẹ quá nhẹ cân hay hút
thuốc có nguy cơ sinh non cao hơn. Các bà
mẹ người Mỹ gốc Phi cũng có nhiều khả năng
sinh non hơn, và các nguyên nhân có thể bao
gồm tình trạng sức khỏe như thiếu vitamin
mãn tính.
Xét nghiệm máu mới diễn ra như
thế nào?
Được mô tả trên tạp chí Science, các
thử nghiệm sơ bộ về xét nghiệm máu mới có
thể dự đoán tuổi thai của em bé với độ chính
xác 45%. Độ chính xác này cũng tương tự
như siêu âm, cụ thể siêu âm có mức độ dự
đoán tuổi thai em bé chính xác là 48%. Ngoài
ra, các nhà nghiên cứu đã có thể dự đoán phụ
nữ nào sẽ sinh con sớm với độ chính xác từ
75 đến 80%.
Xét nghiệm này hoạt động bằng tìm
hiểu về cell-free RNA trong máu của người
mẹ. Những mẩu nhỏ cell-free RNA này là
"phân tử sứ giả", mang theo các chỉ dẫn di
truyền để cơ thể biết cách tạo ra protein. Trong
các thử nghiệm, các nhà khoa học đã kiểm tra
mức độ RNA không có tế bào liên kết với các
gen khác nhau, để thử và tìm ra những gen có
thể dự đoán được một ngày đến hạn.
Để làm điều này, đầu tiên nhóm
nghiên cứu điều chỉnh cách xác định giai
đoạn mang thai. 21 phụ nữ Đan Mạch đã
cung cấp mẫu máu theo hàng tuần cho đến
khi họ sinh con đầy đủ. Điều này đã giúp các
nhà khoa học thiết lập một mô hình cho thấy
gen nào có thể được sử dụng để xác định tuổi
thai. Mô hình đã được xác minh bằng cách sử
dụng các mẫu máu của thêm 10 phụ nữ khác.
Nhóm nghiên cứu sau đó đã lấy mẫu
máu từ 38 phụ nữ Mỹ đã sinh non trong thai
kỳ trước đó. Các nhà nghiên cứu lấy mẫu máu
trong cả ba tháng thứ hai và thứ ba của thai
kỳ hiện tại của những phụ nữ này. Trong
nhóm này, 13 người phụ nữ một lần nữa đã
sinh con sớm, và 25 người sinh con sau khi
đủ thai kỳ. Bằng cách so sánh các nhóm phụ
nữ, các nhà nghiên cứu đã xác định RNA
không chứa tế bào từ bảy loại gen dường như
có thể dự đoán có thai sớm.
Xét nghiệm máu này có ý nghĩa ra
sao?
Các tác giả nghiên cứu lưu ý rằng xét
nghiệm máu này vẫn còn trong giai đoạn đầu.
Ban đầu, thử nghiệm của họ chỉ xem xét một
số phụ nữ giới hạn và thử nghiệm sẽ không
thực sự được xác minh cho đến khi họ có thể
tăng số lượng mẫu.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nói
rằng, đây là xét nghiệm máu đầy hứa hẹn.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 19/54
Các phương pháp dự đoán sinh non trước đây
không đáng tin cậy hơn, vì nhiều người chỉ
dựa vào việc liệu một người mẹ đã từng sinh
con sớm hay không, hoặc xem xét các yếu tố
trong thai kỳ chỉ có thể nhận biết được vào
sau này.
Hơn nữa, việc tiếp tục xác định các
yếu tố di truyền của việc sinh non có thể giúp
các nhà khoa học phát triển phương pháp điều
trị để không chỉ dự đoán mà còn có thể chống
lại tình trạng này.
Theo vnreview.vn,10/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Hạt nano mới vượt qua hàng rào máu não để làm giảm kích thước khối u nguyên bào thần kinh đệm
U nguyên bào thần kinh đệm đa dạng
trong não là một trong những loại ung thư khó
điều trị nhất. Có ít thuốc được sử dụng để điều
trị căn bệnh này và tiên lượng thời gian kéo dài
sự sống của bệnh nhân là chưa đến 15 tháng.
Nhóm nghiên cứu tại Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT) đã tạo ra loại hạt nano
mới phân phối thuốc, cung cấp một phương
thức hiệu quả để điều trị u nguyên bào thần
kinh đệm. Các hạt nano chứa hai loại thuốc
khác nhau, được thiết kế để dễ dàng vượt qua
hàng rào máu não và liên kết trực tiếp với các tế
bào khối u. Một loại thuốc có tác dụng gây tổn
thương ADN của các tế bào khối u, trong khi
loại thuốc còn lại cản trở những hệ thống mà
các tế bào thường sử dụng để khắc phục tổn
thương này. Trong một nghiên cứu trên chuột,
các nhà khoa học đã chứng minh được rằng các
hạt nano có thể thu nhỏ kích thước khối u và
ngăn chặn tình trạng tái phát của khối u.
Nhằm vào bộ não
Các hạt nano được sử dụng trong
nghiên cứu dựa vào các hạt nano trước đây
được thiết kế bởi Paula Hammond và Stephen
Morton, cựu nghiên cứu sinh của MIT Morton
và cũng là tác giả của bài báo mới này. Đó là
các hạt mỡ (liposome) hình cầu chứa 2 loại
thuốc, một loại nằm trong lõi và loại còn lại
trong lớp vỏ mỡ bên ngoài. Để sử dụng các hạt
nano điều trị u não, các nhà nghiên cứu đã tìm
cách đưa chúng qua hàng rào máu não, tách
não khỏi dòng máu lưu thông và ngăn các
phân tử lớn xâm nhập vào não.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra
rằng nếu phủ lên liposome một protein được
gọi là transferrin, các hạt có thể đi qua hàng
rào máu não dễ dàng hơn. Hơn nữa,
transferrin cũng liên kết với các protein trên
bề mặt của các tế bào khối u, cho phép các
hạt tích tụ trực tiếp tại vị trí khối u trong khi
tránh các tế bào não khỏe mạnh.
Phương pháp mục tiêu này cho phép
phân phối liều lượng lớn thuốc hóa trị có thể
gây tác dụng phụ không mong muốn nếu
được tiêm khắp cơ thể. Temozolomide,
thường là loại thuốc hóa trị đầu tiên được
dùng cho bệnh nhân tăng nhãn áp, có thể gây
bầm tím, buồn nôn và làm cho thể trạng yếu
ngoài các tác dụng phụ khác.
Dựa vào nghiên cứu trước về phản ứng
gây tổn thương ADN của khối u, các nhà
nghiên cứu đã đưa temozolomide vào lõi bên
trong của liposome và lớp vỏ bên ngoài là
chất ức chế bromodomain. Chất ức chế
bromodomain được cho là ảnh hưởng đến khả
năng sửa chữa tổn thương ADN của tế bào.
Nhờ sử dụng kết hợp hai loại thuốc này, các
nhà nghiên cứu đã phá vỡ các cơ chế sửa
chữa ADN của các tế bào khối u, sau đó, tấn
công ADN của các tế bào trong khi hệ thống
phòng thủ của chúng bị dỡ bỏ (down).
Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm các
hạt nano trên chuột có khối u nguyên bào
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 20/54
thần kinh đệm. Kết quả là sau khi các hạt
nano đi đến vị trí khối u, lớp ngoài của hạt
nano phân hủy, giải phóng chất ức chế
bromodomain JQ-1. Khoảng 24 giờ sau,
temozolomide được giải phóng từ lõi của hạt.
Các thí nghiệm cho thấy các hạt nano
phân phối thuốc được phủ transferrin có tác
dụng thu nhỏ các khối u hiệu quả hơn nhiều
các hạt nano hoặc temozolomide không được
phủ và JQ-1 được tiêm vào máu. Chuột được
điều trị bằng các hạt nano phủ transferrin
sống sót trong thời gian dài gấp hai lần so với
chuột nhận được các liệu pháp khác.
Liệu pháp mới
Trong các nghiên cứu trên chuột, các
nhà khoa học đã phát hiện ra rằng chuột được
điều trị bằng các hạt nano nhắm đích có tế
bào máu và các mô khác ít bị tổn thương bởi
temozolomide hơn. Ngoài ra, các hạt nano
được phủ polymer polyethylene glycol
(PEG), giúp bảo vệ các hạt khỏi bị phát hiện
và phân hủy bởi hệ miễn dịch. PEG và tất cả
các thành phần khác của liposome đã được
Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa
Kỳ (FDA) chấp thuận sử dụng ở người.
JQ-1, chất ức chế bromodomain được
sử dụng trong nghiên cứu này, có thể không
phù hợp để sử dụng cho người do chu kỳ bán
phân rã của nó quá ngắn, nhưng các chất ức
chế bromodomain khác hiện đang được thử
nghiệm lâm sàng.
Các nhà nghiên cứu dự đoán loại hình
phân phối hạt nano này cũng có thể được
dùng cho các loại thuốc ung thư khác, bao
gồm nhiều loại chưa bao giờ được thử chống
lại u nguyên bào thần kinh đệm do chúng
không thể vượt qua hàng rào máu-não.
Theo vista.gov.vn, 11/06/2016
Trở về đầu trang
**************
Vi khuẩn gắn trên chip giúp chẩn đoán bệnh
Các nhà nghiên cứu tại Viện công
nghệ Massachusetts (MIT) đã chế tạo loại
cảm biến có thể ăn được và chứa các vi khuẩn
biến đổi gen. Cảm biến này có khả năng chẩn
đoán hiện tượng chảy máu trong dạ dày hoặc
các bệnh khác trong đường tiêu hóa.
Phương pháp mới sử dụng vi khuẩn
gắn trên chip kết hợp các cảm biến được sản
xuất từ các tế bào sống với các thiết bị điện tử
công suất cực thấp để biến đổi phản ứng của
vi khuẩn thành tín hiệu không dây có thể đọc
bằng điện thoại thông minh.
Trong nghiên cứu này, các nhà khoa
học đã chế tạo được cảm biến có khả năng
phản ứng với heme, một thành phần của máu.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu đã tạo ra
cảm biến có khả năng phản ứng với một phân
tử là dấu hiệu của tình trạng viêm nhiễm.
Bộ cảm biến có hình trụ dài khoảng
1,5 inch, tiêu thụ khoảng 13 microwatt điện.
Các nhà nghiên cứu đã gắn pin 2,7 V
cho cảm biến theo ước tính có khả năng cung
cấp điện cho thiết bị trong khoảng 1,5 tháng
sử dụng liên tục.
Thiết bị cũng có thể được cấp năng
lượng từ pin hóa học được duy trì bởi chất
lỏng có tính acid trong dạ dày, bằng cách sử
dụng công nghệ mà trước đây do chính nhóm
nghiên cứu đã chế tạo.
Họ đã thử nghiệm cảm biến mới ở heo
và chứng minh nó có thể xác định chính xác
sự xuất hiện của máu trong dạ dày.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 21/54
Các nhà khoa học dự báo loại cảm biến
này có thể được sử dụng một lần hoặc được
thiết kế để lưu lại trong đường tiêu hóa vài
ngày hoặc vài tuần và truyền tín hiệu liên tục.
Theo khoahocphothong.com.vn,
12/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Cảm biến siêu nhỏ mang lại hy vọng về khả năng phát triển thiết bị đeo chẩn đoán y tế
Các nhà khoa học từ ANU đã thiết kế
thành công loại cảm biến quang học có kích
thước siêu nhỏ, mang lại hy vọng về khả năng
phát triển thiết bị đeo cho phép bác sĩ chẩn
đoán sức khỏe của người bệnh trong thời gian
thực.
Phó giáo sư, tiến sĩ Tricoli Antonio
Tricoli, trưởng Phòng thí nghiệm nghiên cứu
Công nghệ nano tại Trường Nghiên cứu Kỹ
thuật, ANU cho biết: “Độ dày của cảm biến
chỉ bằng 1/50 so với sợi tóc người. Với kích
thước siêu nhỏ, trong tương lai gần, cảm biến
mới hứa hẹn sẽ hỗ trợ các bác sĩ phát hiện
bệnh tiểu đường sớm hơn nhiều so với những
phương pháp hiện đang được áp dụng, cũng
như điều trị hiệu quả những căn bệnh mãn
tính. Bên cạnh đó, loại cảm biến siêu nhỏ này
có thể được tích hợp vào đồng hồ để cung cấp
cửa sổ theo dõi sức khỏe của người dụng”.
Ông nhấn mạnh: "Chúng tôi tin rằng
trong tương lai, thiết kế thế hệ tiếp theo của
thiết bị đeo sẽ giúp người dùng có cuộc sống
khỏe mạnh hơn".
Công nghệ mới có khả năng đo lượng
khí rất nhỏ đi qua da và hơi thở được gọi là
chất chuyển hóa, cho phép bác sĩ theo dõi sức
khỏe của người sử dụng thiết bị trong thời
gian thực. Người dùng chỉ cần sử dụng một
xung ánh sáng để theo dõi các dấu ấn sinh
học của bệnh. Đặc biệt, thiết bị không cần sử
dụng pin, dây hoặc thiết bị phòng thí nghiệm
có kích thước lớn và đắt tiền.
Tiến sĩ Tricoli khẳng định: “Thiết bị
đeo chẩn đoán y khoa sử dụng cảm biến
quang học của chúng tôi một ngày nào đó có
thể loại bỏ dần nhu cầu xét nghiệm máu cũng
như sử dụng các thủ thuật xâm lấn khác".
TS. Zelio Fusco, làm việc trong phòng
thí nghiệm của Tiến sĩ Tricoli, cho biết cảm
biến mới có lợi thế so với các loại khác đang
được phát triển cho các thiết bị đeo y tế bởi vì
chúng có khả năng phát hiện các chất chuyển
hóa ở nồng độ nhỏ hơn nhiều và có thể hoạt
động trong điều kiện nhiệt độ phòng.
“Ưu điểm của phát minh mới của
chúng tôi là tính siêu linh hoạt và khả năng
tích hợp vào nhiều công nghệ sử dụng cho
các ứng dụng khác nhau, từ chẩn đoán y tế,
nông nghiệp và khám phá không gian", ông
Fusco nói. "Bên cạnh đó, thiết bị cảm biến
còn có thể được phát triển để phát hiện bệnh
ở các loài thực vật hay để đánh giá, xác định
mức độ chín của quả".
Tiến sĩ Mohsen Rahmani, đồng tác giả
nghiên cứu, cho biết cảm biến kết hợp các cấu
trúc nano vàng siêu nhỏ với các chất bán dẫn
để tạo ra các đặc tính độc đáo, cho phép phát
hiện các phân tử khí ở nồng độ rất thấp.
"Nhờ cấu tạo siêu nhỏ và siêu nhẹ,
cảm biến có thể được gắn vào các vệ tinh siêu
nhỏ hoặc tàu vũ trụ nhỏ, hỗ trợ tìm kiếm sự
sống trên các hành tinh xa xôi, bằng cách xác
định dấu vết phân tử hữu cơ của nếu có sinh
vật sống trên các hành tinh đó”, Tiến sĩ
Rahmani, nghiên cứu viên phát triển nghề
nghiệp của Hiệp hội nghiên cứu Úc (ARC) tại
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 22/54
Trung tâm Vật lý phi tuyến, Trường Nghiên
cứu Vật lý và Kỹ thuật ANU, cho biết.
Nghiên cứu được công bố trong tạp chí
Vật liệu tiên tiến
Theo vista.gov.vn, 01/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Chất hút ẩm mới thấm hút nước và mồ hôi
Các nhà khoa học Ôxtrâylia đã tạo ra
một loại vật liệu mới từ cacbon, có thể cách
mạng hóa khả năng kiểm soát độ ẩm trong
các ứng dụng đa dạng như các thiết bị điện tử,
bao bì và điều hòa nhiệt độ và thậm chí có thể
được sử dụng để làm sạch giày dép.
Chất hút ẩm mới được tạo ra từ
graphene oxit, hoạt động tốt hơn nhiều so với
các chất hút ẩm hiện có và hút nước mạnh
gấp hai lần so với chất hút ẩm tiêu chuẩn của
ngành công nghiệp là gel silica.
Vật liệu này do nhóm nghiên cứu đứng
đầu là Tiến sĩ Rakesh Joshi tại trường Khoa
Khoa học và Kỹ thuật vật liệu thuộc Đại học
New South Wales, chế tạo. Kết quả nghiên
cứu đã được công bố trên tạp chí Chemical
Science.
TS. Joshi cho biết: “Đây là vật liệu
mới ổn định cho thấy khả năng hấp thụ mạnh
hơn so với các chất hút ẩm thông thường.
Một ứng dụng mới mà chúng tôi đang nghiên
cứu là kết hợp chất hút ẩm vào đế trong của
giày để kiểm soát mùi và độ ẩm".
Chất siêu hút ẩm dựa vào graphene,
một dạng cacbon rất mỏng và được tạo thành
từ các lớp graphene oxit. Các nhà nghiên cứu
đã chứng minh tỷ lệ hấp thụ và khử hấp thụ
đặc biệt của vật liệu là do áp lực mao dẫn lớn
trong các lớp mỏng và các nếp gấp giống như
rãnh trên bề mặt của chúng - các quá trình
này trước đây chưa được hiểu rõ.
Các nhà nghiên cứu cho rằng khả năng
tinh chỉnh không gian giữa các lớp graphene
oxit như mong đợi, sẽ cho phép cho ra đời các
chất hút ẩm tùy chỉnh để kiểm soát độ ẩm
trong nhiều ứng dụng. Chất hút ẩm mới cũng
có thể xả hơi ẩm ở nhiệt độ thấp tiết kiệm
năng lượng, cho phép nó dễ dàng được sử
dụng nhiều lần. Ngược lại, cần làm nóng để
tái tạo chất hút ẩm thông thường được coi là
cực kỳ tốn kém.
Giáo sư Veena Sahajwalla, đồng tác
giả nghiên cứu cho rằng: “Sự kết hợp giữa
khả năng hấp thụ cao và tốc độ hấp thụ
nhanh có thể làm tăng đáng kể hiệu quả của
bất kỳ hệ thống hút ẩm nào. Tương tự, nhiệt
độ tương đối thấp vào thời điểm xả hơi ẩm có
thể đạt được, mang lại những lợi ích to lớn
thông qua giảm đáng kể cường độ năng
lượng cần cho việc tái tạo".
Theo vista.gov.vn, 20/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 23/54
Thiết kế hệ thống nhỏ - 'miniecosystems' để kiểm tra chức năng thuốc
Một nhóm các nhà khoa học đến từ
Viện Nghiên cứu Scripps ở bang California,
Hoa Kỳ đã phát triển thành công “hệ thống
mini” có kích thước bằng giọt mực nhỏ xíu,
được xem như một liệu pháp tiềm năng cho
phép nhanh chóng đánh giá chức năng hoạt
động của một phân tử, góp phần giải quyết vấn
đề lớn còn tồn tại trong quá trình phát triển
ngành công nghiệp hóa học và dược phẩm.
Theo báo cáo được đăng tải trên tạp
chí Proceedings của Viện Hàn lâm Khoa học
Quốc gia, phương pháp mới kiểm tra cùng lúc
cách thức liên kết của loại thuốc thử nghiệm
với mục tiêu tế bào cũng như thay đổi chức
năng tế bào, từ đó, giúp tiết kiệm thời gian và
các khoản chi phí quan trọng. Nhóm nghiên
cứu đã sử dụng kỹ thuật này để đánh giá tiềm
năng điều trị của các kháng thể, các phân tử
protein hệ thống miễn dịch hình chữ Y vốn là
chủ đề trọng tâm của nhiều nghiên cứu phát
triển thuốc.
Giáo sư, Tiến sĩ Tianqing Zheng - tác
giả đầu tiên của nghiên cứu mới cho biết: "Kỹ
thuật mới giúp tiết kiệm đáng kể thời gian của
quá trình phát minh và sản xuất thuốc mới
bằng cách giảm bớt các bước cần thiết để
đánh giá các loại thuốc thử nghiệm".
Nghiên cứu mới được xây dựng dựa
trên nghiên cứu 30 năm do tác giả nghiên cứu
cao cấp gồm Richard Lerner, giáo sư hóa học
của hệ thống miễn dịch ở Viện nghiên cứu
Scripps Lita Annenberg Hazen, đã tận dụng
lợi thế của kỹ thuật hiển thị phage kháng thể
được sử dụng để nhận dạng và kiểm tra khả
năng liên kết với mục tiêu sinh học của kháng
thể. Công nghệ hiển thị phage kháng thể đã
thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp
dược phẩm, từ sản xuất thuốc ung thư đến
liệu pháp điều trị bom tấn Humira.
Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp
này cũng đặt ra cho các nhà khoa học một thử
thách, đó là: trong một nhóm lớn các kháng
thể có ái lực gắn kết với mục tiêu bệnh, chỉ có
một vài kháng thể có chức năng sinh học phù
hợp. Quá trình thử nghiệm chức năng của các
kháng thể tiêu tốn khá nhiều thời gian cũng
như chi phí cho quá trình nghiên cứu khám
phá thuốc.
Phương pháp hệ sinh thái nhỏ
(miniecosystem) mới xem xét cùng lúc mối
liên kết và chức năng tế bào. Hệ thống
miniecosystem được thiết kế có hình dáng
như các giọt có kích thước rất nhỏ, có thể tích
bằng 1 picoliter (một phần ngàn tỷ (pico) của
một lít (liter)). Trong những diện tích nhỏ hẹp
này, các nhà nghiên cứu đã tập hợp một tế
bào động vật có vú và vi khuẩn E. coli. Vi
khuẩn tạo có nhiệm vụ ra các thực khuẩn thể
đóng vai trò là vật mang cho các ứng viên
thuốc kháng thể. Những kháng thể trên bề
mặt phage có thể tương tác với tế bào động
vật có vú trong cùng một hệ sinh thái nhỏ.
"Nhờ kết hợp nuôi cấy các tế bào động
vật có vú và vi khuẩn trong các hệ sinh thái
nhỏ , các nhà nghiên cứu có thể thực hiện
chọn lọc trực tiếp các kháng thể chức năng
thông qua sử dụng phương pháp phage
display", Zheng cho biết.
Tế bào động vật có vú nuôi cấy trong
giọt hệ sinh thái nhỏ được thiết kế và sử dụng
để biểu hiện protein huỳnh quang khi được
nhắm trúng mục tiêu bởi một kháng thể. Điều
này có nghĩa là chỉ với một thao tác, các nhà
nghiên cứu có thể kiểm tra ái lực và chức
năng của kháng thể, từ đó, tiết kiệm thời gian
cũng như chi phí của quá trình nghiên cứu
khám phá thuốc.
Để thử nghiệm hệ thống mới, nhóm
nghiên cứu đã nhanh chóng tạo ra hàng triệu
hệ thống nhỏ với các tế bào động vật có vú và
vi khuẩn sản sinh ra các kháng thể có gắn kết
thực thể khuẩn. Họ cũng đã tiến hành thử
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 24/54
nghiệm khả năng chống lại mục tiêu sinh học
thực sự - đó là thụ thể TrkB trên các tế bào
não - của những kháng thể này.
Các nhà khoa học cho biết hệ thống
hoạt động hiệu quả. Hơn nữa, họ cũng rất
ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng các kháng
thể khi gắn với thể thực khuẩn thực hiện tốt
hơn công việc nhắm mục tiêu thụ thể TrkB so
với khi chúng hoạt động đơn độc như trong
các nghiên cứu trước đây.
Bên cạnh đó, Zheng cho biết kế hoạch
tiếp theo của nhóm là áp dụng phương pháp
này để chọn lọc các kháng thể chức năng có
khả năng chống lại nhiều mục tiêu quan trọng
hơn.
Theo vista.gov.vn, 28/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Đột phá trong chiết xuất nước sạch từ không khí sa mạc
Các nhà nghiên cứu từ Đại học
California, Berkley đã thành công trong việc
chiết xuất nước tinh khiết, có thể uống được
từ không khí ở độ ẩm rất thấp và với chi phí
thấp bằng cách sử dụng máy thu nước thế hệ
mới. Khám phá này có thể cứu hàng triệu
người sống ở các khu vực khan hiếm nước
trên thế giới.
Omar Yaghi, chủ tịch James và Neeltje
Tretter về hóa học tại UC Berkeley và là nhà
phát minh công nghệ này cho biết: "Nó hoạt
động ở nhiệt độ môi trường xung quanh với
ánh sáng mặt trời xung quanh, và không cần
thêm năng lượng đầu vào, bạn có thể thu thập
nước trong sa mạc. “Hành trình từ phòng thí
nghiệm đến sa mạc này đã cho phép chúng tôi
thực sự biến việc thu thập nước từ một hiện
tượng thú vị thành khoa học”.
Vào tháng 10 năm 2017, các nhà khoa
học đã tạo ra một mẫu máy thu nước đầu tiên.
Họ đã đặt vào trong sân sau của một ngôi nhà
liền kề khi thiết bị này hút nước ra khỏi
không khí chỉ sử dụng năng lượng ánh sáng
mặt trời.
Phát hiện ban đầu đó đã khiến họ tạo
ra một máy chiết xuất nước lớn hơn, đưa
chúng đến gần hơn với mục tiêu lâu dài cung
cấp nước sạch và uống được cho những người
sống trong các khu vực khan hiếm nước.
Cuộc thử nghiệm đầu tiên được tiến
hành ở Scottsdale, nơi độ ẩm tương đối giảm
xuống thấp còn 8 % mỗi ngày. Mặc dù có độ
ẩm thấp, máy thu nước đã chứng minh khả
năng tách nước từ những nơi hiếm hoi nhất,
sau khi các nhà khoa học bổ sung thêm chất
hấp thụ nước của máy - một vật liệu xốp cao
bao gồm khung kim loại - hữu cơ hay gọi là
MOF.
Ông Yaghi và nhóm của ông được
thành lập để báo cáo kết quả về cuộc thử
nghiệm đầu tiên của máy thu nước này trong
ấn bản ngày 8 tháng 6 trên tạp chí khoa học
Science Advances.
Các nhà nghiên cứu ước tính rằng
MOF-801 hiện tại của máy thu nước, được
chế tạo từ zirconi kim loại đắt tiền, có thể
trích xuất khoảng 200 ml nước / kg MOF.
Ông Yaghi cũng tạo ra một MOF mới
được làm bằng nhôm, được gọi là MOF-303,
rẻ hơn gần 150 lần và thu được gấp đôi nước
so với MOF-801. Điều này sẽ cho phép các
nhà khoa học tạo ra một máy thu nước thế hệ
mới có khả năng sản xuất hơn 3 cốc nước mỗi
ngày từ 1kg MOF.
Theo ông Yaghi: "Đã có rất nhiều bên
quan tâm đến vấn đề thương mại hóa sáng
kiến này, và một số công ty khởi nghiệp đã
tham gia vào việc phát triển một thiết bị thu
nước thương mại. Và "MOF nhôm đang làm
cho việc sản xuất nước trở nên thiết thực, bởi
vì chi phí thấp."
Ông chia sẻ thêm: "Sự phát triển quan
trọng ở đây là nó hoạt động ở độ ẩm thấp, và
đó cũng là đặc điểm ở các khu vực khô cằn
trên thế giới. Trong những điều kiện này, máy
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 25/54
thu nước có thể thu gom nước ngay cả ở các
điểm sương dưới 0."
Ông Yaghi đang chuẩn bị thử nghiệm
tiếp theo của mình. Nó được thiết lập để kiểm
tra MOF - nhôm (MOF-303) trong Thung lũng
chết vào cuối mùa hè, nơi nhiệt độ ban ngày
lên đến 43oC, với mức độ ẩm thấp dưới 25%.
Theo dantri.com.vn, 13/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp sản xuất nhiên liệu sinh học tiên tiến rất hiệu quả
Sinh khối được chuyển đổi trong một
lớp cát nóng 800°C được hóa lỏng bằng hơi
nước bên trong bộ khí hóa gián tiếp, sinh ra
khí có hàm lượng calo cao và sản phẩm phụ
là nhựa đường. Vì nhựa đường là hỗn hợp
phức tạp gồm các thành phần có giá trị và
ngoài mong muốn có xu hướng gây khó khăn
cho việc làm mát khí, nên được xem là trở
ngại cho quá trình khí hóa và việc loại bỏ khá
tốn kém. Vì thế, các nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Công nghệ Chalmers, Thụy
Điển đã phối hợp với các đối tác của ngành
công nghiệp để đưa ra giải pháp biến đổi
nhựa đường thành sản phẩm giá trị.
Việc thực hiện chuyển đổi nhiên liệu
hóa thạch thành năng lượng tái tạo là vấn đề
phức tạp đối với nhiều ngành công nghiệp.
Với các ngành công nghiệp nặng như nhà
máy lọc dầu hoặc ngành công nghiệp giấy và
bột giấy, nên thực hiện ngay quá trình chuyển
đổi, do các chu trình đầu tư diễn ra trong thời
gian quá dài. Bên cạnh đó, vấn đề quan trọng
là phải thu được lợi ích từ hoạt động đầu tư
do buộc phải thay thế nồi hơi hoặc các thiết bị
hiện đại khá tốn kém. Nhờ nỗ lực chiến lược
về lâu dài, các nhà nghiên cứu tại trường Đại
học Công nghệ Chalmers hiện đang mở ra
hướng thay đổi triệt để, có thể được áp dụng
cho các cơ sở mới, cũng như các nhà máy
hiện có trên toàn cầu.
Giải pháp này liên quan đến quá trình
khí hóa sinh khối trên phạm vi rộng. Bản thân
công nghệ này không phải là mới. Những gì
đang diễn ra ở nhiệt độ cao, đó là sinh khối
được chuyển đổi thành khí. Sau đó, khí được
tinh chế thành các sản phẩm cuối cùng hiện
đang được sản xuất từ dầu mỏ và khí thiên
nhiên. Nhóm nghiên cứu đã chứng minh được
rằng sản phẩm phụ cuối cùng là khí sinh học
có thể thay thế khí thiên nhiên trong các
mạng lưới khí hiện có.
Trước đây, sự phát triển của công nghệ
khí hóa đã bị cản trở bởi nhiều sự cố do nhựa
đường được giải phóng từ sinh khối. Giờ đây,
nhóm nghiên cứu có thể cải thiện chất lượng
của khí sinh học thông qua các quy trình hóa
học, và nhựa đường có thể đường quản lý
theo cách hoàn toàn mới. Bước cải tiến đó kết
hợp với việc phát triển song song các vật liệu
trao đổi nhiệt, cung cấp khả năng hoàn toàn
mới để chuyển đổi nồi hơi thành bộ khí hóa
sinh khối.
Martin Seemann, phó giáo sư năng
lượng và là đồng tác giả nghiên cứu cho biết:
“Yếu tố khiến cho công nghệ trở nên hấp dẫn,
là khả năng biến đổi nồi hơi hiện có để bổ
sung nhiệt và điện sản sinh nhờ các nhiên liệu
không phải hóa thạch và hóa chất".
Nhiều nhà máy có thể chuyển sang áp
dụng quá trình khí hóa như nhà máy giấy và
bột giấy, nhà máy lọc dầu và nhà máy hóa dầu.
Theo vista.gov.vn, 01/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 26/54
Hệ thống lốp xe reTyre với các mô hình vỏ lốp khác nhau có thể dễ dàng thay thế
Những người đi xe đạp lâu năm
thường xuyên phải kiểm tra và thay săm lốp
khi xe đến kỳ bảo dưỡng. Trên thực tế, có
nhiều lốp phù hợp với các dạng địa hình và
các loại xe đạp khác nhau. Tuy nhiên, việc
tháo lắp săm lốp chưa bao giờ là một việc dễ
dàng. Mới đây, các nhà nghiên cứu đến từ Na
Uy đã phát triển hệ thống lốp xe reTyre đặc
biệt với bộ phận vỏ lốp được thiết kế có khóa
kéo ở bên cạnh nên có thể dễ dàng thay thế.
Ngay chính giữa hệ thống là một bộ
lốp thường có cấu tạo bề mặt trơn và trọng
lượng đạt 568 gram, được gắn trên vành xe
như các lốp xe thông thường. Trong khi đó,
bộ lốp thay thế không có dạng ống như lốp
đang được sử dụng và được gắn trên xe đạp.
Những chiếc lốp thay thế có thể được sử dụng
cho mục đích đi lại hàng ngày hoặc du lịch.
Ngoài ra, hệ thống còn có một loạt các “vỏ”
lốp bằng cao su được thiết kế có khóa kéo ở
phía trên đầu lốp xe. Mỗi vỏ lốp có một tính
năng khác nhau và có thể được lắp vào hoặc
tháo ra chỉ trong vài giây mà không bị lệch,
trượt ra ngoài so với lốp thường bên dưới,
khóa kéo được khóa lại tại vị trí sau khi lớp
vỏ được lắp xong.
Hiện, việc thiết kế bộ lốp xe vẫn còn ở
giai đoạn đầu. Người sử dụng có tương đối
nhiều lựa chọn cho các mô hình lốp khác
nhau, bao gồm mô hình lốp on-road (knobby,
all-terrain) phù hợp với mọi loại địa hình, mô
hình lốp cacbua-studded chuyên biệt sử dụng
trong điều kiện thời tiết lạnh và ẩm ướt của
mùa đông, lốp được gắn đèn LED và thiết bị
điện tử được kết nối với thiết bị điện thoại
thông minh của người lái. Đặc biệt, có cả mô
hình lốp được làm từ các loại vật liệu đặc biệt
như sợi dừa và cao su có thể tái chế 100%.
Các lốp xe và vỏ lốp hiện được thiết kế
để phù hợp với vành bánh xe có đường kính
ngoài lốp là 700 mm và đường kính vành
trong lốp là 29-inch. Trong tương lai, nhóm
nghiên cứu cho biết sẽ thiết kế vỏ lốp phù hợp
với vành 26-inch. Giá bán lẻ sẽ dao động từ
36 đô la Mỹ cho phiên bản tiêu chuẩn của lốp
thường đến 70 đô la phí bảo hiểm, lốp xe
dành cho mọi địa hình có giá 55 đô la và lốp
xe mùa đông là 70 đô la.
Theo các nhà sản xuất, hệ thống lốp xe
reTyre sẽ có mặt tại các cửa hàng châu Âu
vào tháng 7 và sẽ được tung ra thị trường
châu Âu và Bắc Mỹ trong năm tới.
Theo vista.gov.vn, 06/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới phát triển được kim cương uốn cong
Kim cương là loại vật liệu tự nhiên
rắn nhất trên Trái Đất. Nó cũng là vật liệu
nổi tiếng có độ cứng cao, độ dẫn nhiệt đặc
biệt, khả năng kháng hóa chất và độ trong
suốt quang học cao. Mặc dù với những đặc
tính đáng chú ý này làm cho kim cương rất
được ưa chuộng cho các ứng dụng khoa học
và công nghệ, tuy nhiên tiến trình này bị
chậm lại do tính giòn của nó.
Một nghiên cứu gần đây đã xác định
được rằng kim cương có thể uốn cong và kéo
dãn được khi chế tạo nó thành hình các mũi
kim siêu nhỏ.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 27/54
Bước đột phá này của nhóm nghiên
cứu của Giáo sư Feng Ding, Trung tâm Vật
liệu Carbon đa chiều (CMCM), thuộc Viện
Khoa học cơ bản (IBS) tại UNIST, phối hợp
cùng với một nhóm các nhà nghiên cứu quốc
tế của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT),
Đại học Hồng Kông và Đại học Công nghệ
Nanyang. Các kết quả của nghiên cứu đã
được báo cáo trên tạp chí Science gần đây.
Nhóm nghiên cứu đã chứng minh được
rằng các mũi kim kim cương có kích cỡ nano
của họ có thể uốn cong và kéo dãn dài ra tới
9% mà không bị phá vỡ, và đặc biệt nó có thể
trở lại hình dạng ban đầu của chúng. Phát
hiện của họ hoàn toàn thay đổi những khám
phá trước đó về độ giòn của kim cương. Kết
quả nghiên cứu này cũng có thể mở ra những
ứng dụng tiềm năng chưa từng có cho việc
điều chỉnh các đặc tính quang học, quang học,
từ tính, phononic và xúc tác của nó thông qua
kỹ thuật biến dạng đàn hồi.
Kim cương có độ co giãn cực cao của
là do các khiếm khuyết bên trong cấu trúc
tinh thể của chính nó. Theo các nhà nghiên
cứu, kim cương kích thước lớn thì giới hạn
kéo căng dưới 1%.
Trong nghiên cứu này, nhóm của Giáo
sư Ming sau khi nghiên cứu tính toán tính
chất hóa học và phân tích cấu trúc tinh thể
của kim cương và đã kết luận rằng các mũi
kim kim cương kích cỡ nano này có độ co
giãn siêu tốt là do có một số lượng nhỏ các
khiếm khuyết (độ hụt) bên trong cấu trúc và
bề mặt nhẵn tương đối.
Theo giáo sư Ding cho biết:“Kim
cương, tự nhiên hoặc nhân tạo, đều có các
khiếm khuyết bên trong cấu trúc tinh thể của
chúng. Khi những khuyến khuyết nó ở sát bên
ngoài bề mặt, chúng có thể nứt và cuối cùng
bị vỡ”.
Thông qua các mô phỏng chi tiết, Giáo
sư Ding đã xác định chính xác các mũi kim
kim cương có thể chịu đựng được ứng lực và
mức kéo căng trong phạm vi giới hạn là bao
nhiêu.
Ông đã xác định được ứng suất cục bộ
tối đa tương ứng gần với giới hạn lý thuyết đã
biết của viên kim cương hoàn hảo không bị
lỗi cấu trúc. Ông lưu ý rằng kim cương không
bị lỗi cấu trúc có thể kéo dãn tới 12% mà
không bị phá vỡ.
“Cây kim kim cương có thể kéo dãn
dài và uốn cong tới 9% mà không bị vỡ”, ông
cho biết.
Như vậy, nhóm nghiên cứu Đại học
Thành phố Hồng Kông đã thành công trong
việc chế tạo các mũi kim kim cương nano
bằng cách kỹ thuật khắc dùng plasma và dùng
kính hiển vi điện tử để thí nghiệm với chúng.
Từ kết quả thu được, nhóm nghiên cứu có thể
chứng minh được độ đàn hồi co giãn, có thể
tự phục hồi lại nguyên trạng thái ban đầu của
các mũi kim kim cương tinh thể đơn và đa
giác có kích cơ na nô (~300 nano met) này.
Nhóm nghiên cứu hy vọng rằng những
phát hiện của họ có thể giúp tăng hiệu suất
trong các ứng dụng, bao gồm tạo ảnh sinh học
và cảm biến sinh học, bộ cộng hưởng cơ học
nano, phân phối thuốc, lưu trữ dữ liệu và các
thiết bị cơ điện, cũng như các cấu trúc nano
siêu mạnh. Bên cạnh đó, Giáo sư Ding lưu ý
rằng biến dạng đàn hồi lớn trong kim cương
kích thước nano sẽ phù hợp để sử dụng trong
các màn hình thế hệ mới mềm dẻo và có thể
gập lại được.
Theo vista.gov.vn, 07/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 28/54
Thuốc nổ mới có thể khiến TNT độc hại trở nên lỗi thời
Các nhà nghiên cứu tại Phòng thí
nghiệm quốc gia Los Alamos (LANL) và
Phòng thí nghiệm Nghiên cứu quân sự Hoa
Kỳ ở Aberdeen, Maryland đã tạo ra loại thuốc
nổ mới có sức công phá như trinitrotoluene
(TNT), nhưng lại an toàn và thân thiện hơn
với môi trường.
TNT được phát minh bởi nhà hóa học
người Đức Julius Wilbrand vào năm 1863.
Ban đầu, TNT là thuốc nhuộm vải, nhưng đến
năm 1891, Carl Häussermann đã phát hiện ra
những đặc tính gây nổ của nó. Hiện nay, TNT
là thuốc nổ phổ biến nhất và được sử dụng
phổ biến cho cả các ứng dụng quân sự và dân
sự. Lý do là vì TNT không chỉ là thuốc nổ
mạnh mà cũng có thể được làm tan chảy và
đổ vào khuôn.
Nhưng TNT rất an toàn để xử lý. Trên
thực tế, Đạo luật Thuốc nổ năm 1875 của
Anh thậm chí không xếp TNT vào danh mục
thuốc nổ khi đề cập đến khía cạnh lưu trữ và
xử lý. Nguyên nhân là do TNT rất khó nổ,
nên cần có kíp nổ và tiền thuốc nổ được coi là
lợi thế để tăng cường độ của thuốc bằng một
sóng xung kích đủ mạnh. Tuy nhiên, TNT
cũng rất độc với thời gian phơi nhiễm kéo dài
ảnh hưởng đến máu, gan và lá lách. Đây cũng
là một chất có thể gây ung thư cho người và
là một chất gây ô nhiễm đất và nước rất nguy
hiểm. Vì thế, việc tìm kiếm chất thay thế an
toàn và hiệu quả hơn tan chảy giống TNT có
nhiều điểm thú vị.
Thuốc nổ mới là một hợp chất chứa
nitơ được gọi là bis-oxadiazole hoặc về mặt
kỹ thuật là bis (1,2,4-oxadiazole) bis
(methylene) dinitrate. Phân tử gồm 24 nguyên
tử này chứa đầy nitơ và khi phát nổ mạnh hơn
1,5 lần so với TNT. Thuốc nổ mới có điểm
nóng chảy tương đương và không nhạy như
TNT. Tuy nhiên, nó thân thiện với môi
trường và ít độc hại hơn.
Vấn đề khó khăn là tìm cách tạo ra bis-
oxadiazole đủ số lượng với hiệu suất như
mong đợi. Những nỗ lực đầu tiên để tổng hợp
bis-oxadiazole chỉ đạt hiệu suất 4%, nhưng
nhóm nghiên cứu hiện đã cố gắng tăng hiệu
suất lên 44%. Các nhà khoa học hiện đang
nghiên cứu mở rộng quy mô sản xuất thuốc
nổ trước khi đưa nó qua một loạt thử nghiệm
gây nổ và độc chất.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Organic Process Research &
Development.
Theo vista.gov.vn, 20/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018
29/54
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0019111 Hệ thống mạng
Tác giả: Liang Haixiang (US), Liu
Yixian (CN).
Quốc gia: Trung Quốc
Sáng chế đề cập đến phương pháp
thực hiện việc căn chỉnh kí tự đường lên
trong thành phần mạng, phương pháp này
bao gồm bước thu tín hiệu đồng bộ đường lên
thông qua đường dây thuê bao số khởi tạo
(DSL - Digital subscriber line) trong pha tìm
kiếm kênh từ thiết bị thuộc nhà riêng thuê
bao (CPE - Customer premise equipment),
xác định giá trị căn chỉnh kí tự đường lên
được hiệu chỉnh dựa vào tín hiệu đồng bộ
đường lên, và bước truyền giá trị căn chỉnh kí
tự đường lên được hiệu chỉnh tới CPE, trong
đó giá trị căn chỉnh kí tự đường lên xác định
việc căn chỉnh kí tự đường lên cho một hoặc
nhiều việc truyền đường lên, và trong đó giá
trị căn chỉnh kí tự đường lên được hiệu chỉnh
được xác định trước khi nhận các tín hiệu dữ
liệu đường lên trong các vị trí kí tự dữ liệu
trong pha tìm kiếm kênh.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019176 Phương pháp và hệ thống truyền tin nhắn thoại và vật lưu trữ máy tính bất biến
Tác giả: Zhang Bin (CN), Guan
Zhenan (CN), Liang Xing (CN),..
Quốc gia: Trung Quốc
Sáng chế đề cập đến công nghệ truyền
thông máy tính. Phương pháp và hệ thống để
truyền các tin nhắn thoại được bộc lộ.
Phương pháp gồm các bước: dữ liệu thoại
được thu thập bởi máy trạm truyền thông nội
bộ thứ nhất được tiếp nhận; việc liệu kích
thước của dữ liệu thoại được thu thập đã đạt
đến ngưỡng định trước hay chưa được dò
theo chu kỳ; và khi kích thước của dữ liệu
thoại được thu thập đã đạt ngưỡng định
trước, hoặc khi dữ liệu thoại được thu thập
không đạt kích thước định trước nhưng có
chứa ký tự kết thúc tin nhắn thoại, thì dữ liệu
thoại được thu thập được tải lên máy chủ
chuyển tiếp qua mạng định trước, thực hiện
sự không đồng bộ giữa việc thu thập dữ liệu
thoại và việc tải lên. Do vậy, vấn đề kéo dài
thời gian truyền dữ liệu truyền thông nội bộ
gắn với các tiến trình hiện tại được giải quyết
nhờ phương pháp truyền dữ liệu truyền thông
hiệu quả này. Theo phương pháp này, việc
thu thập và tải lên dữ liệu thoại có thể được
thực hiện không đồng bộ, do vậy độ trễ
truyền thông nội bộ có thể được giảm bớt và
trải nghiệm của người dùng máy trạm truyền
thông nội bộ có thể được cải thiện.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019279 Phương pháp mã hóa ảnh và thiết bị xử lý thông tin
Tác giả: Kondo Kenji (JP). Quốc gia: Trung Quốc
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 30/54
Sáng chế đề xuất phương pháp mã hóa
ảnh bao gồm các bước: thiết đặt, nếu khối liền
kề với phía trái của khối hiện tại và khối liền
kề bên trên khối hiện tại là khả dụng, thông
số lượng tử hóa dự báo được lấy từ giá trị
trung bình của thông số lượng tử hóa của khối
liền kề với phía trái và thông số lượng tử hóa
của khối liền kề bên trên; thiết đặt, nếu khối
liền kề với phía trái và khối liền kề bên trên
không sẵn có, thông số lượng tử hóa dự báo
được lấy từ thông số lượng tử hóa của bộ xử
lý không liền kề với khối hiện tại; tạo ra
thông tin chênh lệch biểu thị sự chênh lệch
giữa thông số lượng tử hóa dự báo đã được
thiết đặt và thông số lượng tử hóa của khối
hiện tại; và tạo ra thông tin dòng bao gồm
thông tin chênh lệch. Ngoài ra, sáng chế còn
đề cập đến thiết bị xử lý thông tin.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019114 Phương pháp và thiết bị bảo vệ theo thời gian thực
Tác giả: Wang Yu (CN), Meng
Qiyuan (CN).
Quốc gia: Trung Quốc
Sáng chế đề xuất phương pháp và thiết
bị để bảo vệ theo thời gian thực, vốn thuộc về
lĩnh vực bảo mật thông tin. Phương pháp này
bao gồm các bước: thu thập quy tắc lọc lớp
ứng dụng từ máy chủ và cập nhật quy tắc lọc
lớp ứng dụng này theo thời gian thực; xác
định xem sự kiện bảo vệ theo thời gian thực
có khớp với quy tắc lọc lớp ứng dụng này
không; nếu sự kiện bảo vệ theo thời gian thực
khớp với quy tắc lọc lớp ứng dụng này, thì
thực hiện thao tác cho phép hoặc ngăn cấm
đối với sự kiện bảo vệ theo thời gian thực
này theo quy tắc lọc lớp ứng dụng nêu trên.
Thiết bị này bao gồm: môđun thu thập,
môđun xác định và môđun thực thi. Phương
pháp và thiết bị theo sáng chế có thể cải thiện
trải nghiệm của người dùng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019219 Thiết bị chiếu sáng bằng LED dạng đèn
Tác giả: Kim Hyun Min (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến thiết bị chiếu sáng
bằng LED dạng đèn. Thiết bị này có thể làm
tản nhanh nhiệt được phát ra bởi phần tử LED
mà nhiệt này ảnh hưởng đến hiệu suất quang
học và tuổi thọ của thiết bị chiếu sáng bằng
LED, nhiệt được tản thông qua khung đỡ dạng
đèn với kết cấu thông hơi-nhiệt tạo điều kiện
lưu thông không khí. Ngoài ra, thiết bị chiếu
sáng bằng LED dạng đèn ngăn cản ánh sáng
chói từ nguồn chiếu sáng bằng LED bằng cách
sử dụng chi tiết mặt phản xạ, thấu kính phân
kỳ và vỏ khuếch tán và khuếch tán ánh sáng từ
nguồn sáng rộng mà không suy giảm quang
học. Sáng chế đề xuất các thiết bị chiếu sáng
bằng LED dạng thẳng hoặc dạng bảng có thể
nhanh chóng tản nhiệt từ phần tử LED mà
nhiệt này ảnh hưởng đến hiệu suất quang học
và tuổi thọ của thiết bị chiếu sáng bằng LED,
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 31/54
nhiệt được tản thông qua khung đỡ dạng thẳng
và dạng bảng với kết cấu tản nhiệt.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019298 Phương pháp tạo ra dấu hiệu chống giả dùng cho giấy tờ có giá và phương pháp và thiết bị nhận dạng giấy tờ có giá
Tác giả: Liang Tiancai (CN), Yu
Yuanchao (CN), Wang Weifeng (CN), Wang
Xiaoliang (CN).
Quốc gia: Trung Quốc
Sáng chế đề cập tới phương pháp tạo
ra dấu hiệu chống giả dùng cho giấy tờ có giá
và phương pháp và thiết bị nhận dạng.
Phương pháp tạo ra dấu hiệu chống giả dùng
cho giấy tờ có giá sử dụng sự dư thừa thông
tin dấu hiệu chống giả để ẩn thông tin chính
xác về dấu hiệu chống giả. Theo phương
pháp này, dấu hiệu chống giả của giấy tờ có
giá có thay đổi nhỏ về khả năng nhận biết của
con người, nhưng thiết bị nhận dạng giấy tờ
có giá trong thiết bị tự phục vụ tài chính có
thể trích một cách hữu hiệu thông tin chính
xác ẩn về dấu hiệu chống giả từ các tín hiệu
thu được nhờ bộ cảm biến và thực hiện việc
phát hiện định lượng và nhận dạng, nhờ đó
nhận dạng một cách hữu hiệu giấy tờ có giá
là giả hay thật.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019241 Máy hút bụi
Tác giả: Itou Kenzi (JP), Tsuzaki
Yasunori (JP), Hoshide Shinichi (JP),
Matsumura Katsumi (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến máy hút bụi bao
gồm bộ phận cực cố định (24) có các cực chân
cắm (27) được bố trí theo cách lộ ra ngoài ở
phần trên của ống nối (34) của ống mềm (21),
và các cực tiếp xúc được bố trí ở bên trong
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 32/54
thân chính của máy hút bụi, tương ứng với các
cực chân cắm (27) của bộ phận cực cố định
(24). Một số cực tiếp xúc được bố trí theo
chiều nằm ngang khi nhìn từ chiều lồng vào
của ống nối (34). Các cực tiếp xúc còn lại
được bố trí theo cách nghiêng so với vị trí nằm
ngang. Điều này ngăn ngừa sự nới lỏng ở phần
nối của ống mềm (21) và thân chính mà có thể
xảy ra điển hình do việc xoắn ống mềm (21)
và thân chính. Theo đó, có thể đạt được máy
hút bụi có độ tin cậy cao.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019206 Phương pháp và thiết bị tạo hình vỏ lon
Tác giả: Stodd R. Peter (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến phương pháp và
thiết bị tạo hình vỏ lon tròn hình cốc. Vỏ lon
được sản xuất bằng cụm gia công được lắp
trên máy dập, và cụm gia công này bao gồm
vòng giữ trên đỡ khuôn tạo phôi và chuốt có
ống lót áp lực ngoài và ống lót áp lực trong
bao quanh chày dập giữa khuôn, tất cả chúng
đều có pit tông. Khoang không khí được nối
bởi các đường dẫn không khí đàn hồi tới ống
lót áp lực trong pit tông, và ống lót áp lực
ngoài nhận không khí này khi khoang không
khí hoặc không khí áp lực thấp. Chày dập giữa
khuôn có đệm kích hoạt việc chuốt cốc, và ống
lót áp lực trong và chày dập giữa khuôn có các
bề mặt bao quanh ăn khớp với các bề mặt đối
diện trên vòng lõi khuôn để tạo ra và vòng kẹp
thành kẹp của vỏ trong hành trình đi xuống
của máy dập. Chày dập dạng tấm có các bề
mặt theo chu vi tạo ra thành dạng tấm và
miệng loe của vỏ trong khi diễn ra hành trình
đi lên của máy dập.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019127 Vòi bơm dầu
Tác giả: Hsin-Hsiang Lin (TW).
Quốc gia: Đài Loan
Vòi bơm dầu bao gồm ống hút dầu, ống
cấp dầu, và ống kéo dài. ống hút dầu và ống
cấp dầu được lắp với ống kéo dài. ống kéo dài
bao gồm ống thứ nhất và ống thứ hai. ống thứ
nhất được nối thông với ống hút dầu. ống thứ
hai được nối thông với ống cấp dầu. ống thứ
nhất nằm trong ống thứ hai.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 33/54
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019181 Khớp nối để nối chi tiết hình ống và chi tiết hình ống có ren trong
Tác giả: Ames Jochen Peter (DE),
Cardoso Alexandre Vieira (BR), Da Silva
Julio Cesar (BR).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến khớp nối để nối
các chi tiết hình ống dùng cho giếng dầu, bao
gồm thân hình ống, với mỗi đầu trong số hai
đầu của thân được bố trí phần ren trong (14)
để nối vào chi tiết hình ống, thân hình ống
này còn bao gồm phần trung tâm tách rời hai
đầu mà mỗi đầu được bố trí phần ren (14) và
có độ dày thành lớn hơn độ dày thành của các
đầu của thân hình ống. Chính xác hơn, khớp
nối này bao gồm đoạn mở rộng (18) kéo dài
từ một trong số các đầu của thân hình ống,
sau phần ren trong (14), đoạn mở rộng này có
cùng đường kính ngoài bằng đường kính
ngoài của thân hình ống và đường kính trong
lớn hơn hoặc bằng đường kính của phần ren
trong. Ngoài ra, đoạn mở rộng (18) còn bao
gồm khoang (12), được bố trí lỗ trên bề mặt
ngoài của khớp nối, bên trong đó có bố trí thẻ
nhận dạng đáp ứng điện tử. Ngoài ra, sáng
chế còn đề cập đến chi tiết hình ống có ren
trong của mối nối hình ống có ren.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019137 Hệ thống làm mát chất rắn, phương pháp làm mát chất rắn bằng hệ thống này và hệ thống làm mát tro và chất rắn từ môi trường khí hóa
than đá
Tác giả: Vimalchand Pannalal (US),
Liu Guohai (US), Peng WanWang (CN).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hệ thống làm mát
để làm mát chất rắn, hệ thống này bao gồm:
bộ phận làm mát (300) có đầu vào (260) ở
đáy để tiếp nhận chất rắn ở nhiệt độ trung
bình lớn hơn 1500°F (815,5°C), bộ phận làm
mát (300) này còn có đầu ra (370) ở phần trên
để tháo ít nhất một phần chất rắn tại nhiệt độ
trung bình nhỏ hơn 600°F (315°C); hệ thống
truyền nhiệt (400) nằm trong bộ phận làm mát
(300); và cơ cấu tầng sôi chứa chất làm mát
được hồi lưu, cơ cấu này nằm trong bộ phận
làm mát (300). Ngoài ra, sáng chế còn đề cập
đến phương pháp làm mát chất rắn nhờ hệ
thống nêu trên và hệ thống làm mát tro và
chất rắn từ môi trường khí hóa than đá ở nhiệt
độ cao và áp suất cao.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018
34/54
1-0019106 Bộ phận mòn dùng cho thiết bị nạo vét, cụm mòn có bộ phận mòn này và phương pháp lắp bộ phận mòn vào thiết bị nạo vét
Tác giả: Ollinger Charles G., IV (US),
Snyder Chris D. (US), Kreitzberg John S.
(US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập bộ phận mòn dùng
cho thiết bị nạo vét bao gồm đế gắn cố định
với thiết bị nạo vét, bộ phận mòn lắp trên đế,
và khoá để giữ tháo được bộ phận mòn với
đế. Bộ phận mòn bao gồm khe hở bên để
giảm lực cản tác động vào thiết bị. Mỗi bộ
phận mòn và đế bao gồm phần đầu trước
dạng bán cầu và phần sau gần như hình
thang. Đế bao gồm mũi và cữ chặn nhô ra từ
mũi để cùng hoạt động với khoá không có lỗ
cần để chứa khoá vào trong mũi. Khoá là
khoá dài được định vị về cơ bản theo hướng
dọc trục và khoá sẽ giữ bộ phận mòn với đế
khi chịu các lực nén.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019183 Hệ thống khoá và phương tiện giao thông kiểu ngồi chân để hai bên
Tác giả: Daiki Takehana (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất hệ thống khoá đem lại
sự hoạt động nhẹ nhàng của cơ cấu khoá với
chìa khoá đa năng và phương tiện giao thông
kiểu ngồi chân để hai bên. Hệ thống khoá (30)
bao gồm cơ cấu khoá (40) và chìa khoá đa
năng (100). Cơ cấu khoá (40) bao gồm các vỏ
(42 và 53), khoá trụ (50) và cơ cấu cửa chặn
(6). Chìa khoá đa năng (100) bao gồm chìa
khoá trụ (102) và chìa khoá từ (110). Chìa
khoá trụ (102) có thể được gài vào trong hốc
khoá thứ hai (74) của rôto (70). ở trạng thái mà
trong đó chìa khoá trụ (102) đã được gài vào
trong hốc khoá thứ hai (74) của rôto (70), chìa
khoá từ (110) có thể chuyển đổi vị trí của nam
châm thứ nhất (M1) của khoá cửa chặn (80) từ
vị trí hạn chế (Q1) tới vị trí cho phép (Q2). ở
trạng thái mà trong đó chìa khoá trụ (102) đã
được gài vào trong hốc khoá thứ hai (74) của
rôto (70), cửa chặn thứ nhất (60) được di
chuyển từ vị trí đóng (S1) mà tại đó hốc khoá
thứ nhất (52) được chặn sang vị trí mở (S2) mà
tại đó hốc khoá thứ nhất (52) ở ra, bằng cách
xoay rôto (70) từ trạng thái thứ nhất (P1) sang
trạng thái thứ hai (P2).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
363/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018
35/54
1-0019118 Cụm công suất và phương tiện giao thông bao gồm cụm công suất này
Tác giả: Yuuji Araki (JP), Hidetoshi
Ishigami (JP), Daiki Ito (JP), Kazuteru
Iwamoto.
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến phương tiện giao
thông và cụm công suất gồm: động cơ; và
thiết bị điều khiển điều khiển quá trình đốt
cháy của động cơ, trong đó đường kính lỗ xi
lanh của động cơ là từ 45mm tới 60mm và
thiết bị điều khiển gồm bộ cảm biến kích nổ
phát hiện rung động của động cơ. Thiết bị
điều khiển tách từ tín hiệu phát hiện của bộ
cảm biến kích nổ, các thành phần trong dải
tần sơ cấp là dải tần thấp nhất trong số các dải
tần trong đó các đỉnh rung động kích nổ được
phân bố theo đường kính lỗ xi lanh bằng từ
45mm tới 60mm, với mức khuếch đại lớn hơn
so với mức khuếch đại của các thành phần
trong dải tần thứ cấp là dải tần thấp nhất thứ
hai. Thiết bị điều khiển xác định rằng sự kích
nổ xảy ra dựa trên tín hiệu phát hiện trong đó
các thành phần trong dải tần sơ cấp được tách
với mức khuếch đại lớn hơn so với mức
khuếch đại của các thành phần trong dải tần
thứ cấp và điều khiển quá trình đốt cháy của
động cơ dựa trên kết quả xác định về sự xuất
hiện kích nổ.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019122 Động cơ và phương tiện giao thông
Tác giả: Hideaki Hashimoto (JP),
Chihiro Hara (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập tới động cơ được
trang bị cơ cấu giảm áp và tới phương tiện
giao thông. Trong đó, đường thẳng đi qua tâm
quay của trục cam và tâm quay của đối trọng
được giả thiết là đường trục thẳng đứng khi
được nhìn từ phương dọc trục của trục cam.
Đường thẳng vuông góc với đường trục thẳng
đứng và đi qua tâm quay của trục cam được
giả thiết là đường trục nằm ngang. Hướng từ
tâm quay của trục cam về phía tâm quay của
đối trọng trong số các hướng song song với
đường trục thẳng đứng được giả thiết là
hướng thẳng đứng thứ nhất. Một hướng trong
số các hướng song song với đường trục nằm
ngang được giả thiết là hướng nằm ngang thứ
nhất. Trọng tâm của đối trọng được bố trí ở
vùng thứ nhất khi được nhìn từ phương dọc
trục của trục cam. Vùng thứ nhất được nằm
theo hướng thẳng đứng thứ nhất từ đường
trục nằm ngang và theo hướng nằm ngang thứ
nhất từ đường trục thẳng đứng. Đối trọng
gồm phần thứ nhất được bố trí ở vùng thứ
nhất khi được nhìn từ phương dọc trục của
trục cam. ở trạng thái đóng, phần thứ nhất
gồm phần nhô thứ nhất nhô ra phía ngoài của
mặt biên ngoài của bạc lót khi được nhìn từ
phương dọc trục của trục cam.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018
36/54
1-0019110 Khuôn dập vuốt và phương pháp sản xuất vật liệu được tạo hình
Tác giả: Naofumi Nakamura (JP),
Yudai Yamamoto (JP), Jun Kurobe (JP)
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến khuôn dập vuốt
bao gồm đầu dập (20), và khuôn dập (21) tạo
ra lỗ ép (210) tương ứng với đầu dập (20).
Khi độ lệch Rsk của tấm kim loại được xử lý
bề mặt nhỏ hơn -0,6 và không nhỏ hơn -1,3,
thì bán kính cong phần vai của khuôn dập
(20) và khe hở giữa giới hạn cuối mặt cong
(211a) của phần vai (211) và đầu dập (20)
được xác định là Y được biểu diễn bởi {(tre - c
re)/t re } x 100, và X được biểu diễn bởi r/t re,
thỏa mãn 0 < Y 18,7X - 6,1, X thỏa mãn X
0,6 và r thỏa mãn r 0,5h. Ngoài ra, sáng
chế cũng đề cập đến phương pháp sản xuất
vật liệu được tạo hình bằng cách sử dụng
khuôn dập vuốt này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019125 Dầu máy làm lạnh và chế phẩm vận hành dạng lỏng dùng cho máy làm lạnh
Tác giả: Takigawa Katsuya (JP), Saito
Masanori (JP), Okido Takeshi (JP),
Takahashi Kuniko (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến dầu máy làm lạnh
chứa este của rượu đa chức với axit béo, trong
đó tỷ lệ mol của axit béo có 4 đến 6 nguyên
tử cacbon và axit béo mạch nhánh có 7 đến 9
nguyên tử cacbon trong axit béo nằm trong
khoảng từ 15:85 đến 90:10, axit béo có 4 đến
6 nguyên tử cacbon là 2-metylpropanoic, và
tỷ lệ của tổng axit béo có 4 đến 6 nguyên tử
cacbon và axit béo mạch nhánh có 7 đến 9
nguyên tử cacbon trong tổng lượng các axit
béo cấu thành este là ít nhất 20%mol. Chế
phẩm vận hành dạng lỏng cho máy làm lạnh
theo sáng chế chứa dầu máy làm lạnh, chất
làm lạnh diflometan và/hoặc chất làm lạnh
hydrocacbon không no được flo hóa.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0019267 Ngòi bút làm bằng nhựa tổng hợp
Tác giả: Yoshitane Akira (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập tới ngòi bút làm bằng
nhựa tổng hợp cho phép nhận diện dễ dàng
hướng của ngòi bút và màu mực, ngòi bút này
có thể được chế tạo với chi phí thấp, và có độ
bền cao cũng như tạo ra cảm giác viết tốt và có
thiết kế đẹp. Chu vi của chi tiết lõi (3) có phần
được làm biến dạng với đường dẫn mực (2)
trong đó được bọc bằng chi tiết vỏ bọc (4) để
tạo thành thân chính ngòi bút làm bằng nhựa
tổng hợp và có dạng thanh (1). Phần chi tiết vỏ
bọc (4) ở đầu trước của thân chính ngòi bút (1)
được cắt dọc theo đường dẫn mực (2) về phía
phần sau tới độ dày sao cho màu của mực
trong đường dẫn mực (2) có thể được nhận
biết để tạo ra phần nhận biết mực (7).
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 37/54
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019131 Màng polyeste co nhiệt và bao bì được tạo ra từ màng này
Tác giả: Haruta Masayuki (JP),
Mukoyama Yukinobu (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất màng polyeste co
nhiệt có tốc độ co chậm, tốc độ co tăng từ từ
khi tăng nhiệt độ, ứng suất co lớn, và đặc tính
co hoàn thiện tuyệt vời. Màng polyeste co
nhiệt này khác biệt ở chỗ tỷ lệ (A1/A2) giữa
hệ số hấp thụ (A1) ở 1340cm-1 và hệ số hấp
thụ (A2) ở 1410cm-1 của màng polyeste co
nhiệt đo được bằng phương pháp quang phổ
phân cực ATR-FTIR nằm trong khoảng từ
0,65 đến 0,9 theo chiều co chính của màng và
nằm trong khoảng từ 0,45 đến 0,75 theo
chiều vuông góc với chiều co chính; và tỷ lệ
co nhờ nhiệt do nước nóng khi màng được
ngâm trong nước nóng 90°C trong 10 giây
nằm trong khoảng từ 40% đến 60% theo
chiều co chính của màng và nằm trong
khoảng từ 0% đến 12% theo chiều vuông góc
với chiều co chính.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019166 Chế phẩm phủ, quy trình điều chế chế phẩm phủ và nền kim loại được phủ bằng chế phẩm này
Tác giả: Browne Victoria (GB),
Jackson Paul Anthony (GB), Reid Alistair
Jamesm (GB), …
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến chế phẩm phủ
thích hợp để tạo lớp phủ trên nền kim loại, tốt
hơn là nền thép, mà nền này sẽ được gia công
và phủ tiếp, chế phẩm này chứa (i) bột kẽm
và/hoặc hợp kim kẽm và (ii) sol silic đioxit
biến tính bao gồm các hạt silic đioxit dạng keo
được biến tính với 6 đến 40% khối lượng một
hoặc nhiều hợp chất silan, tính theo tổng khối
lượng khô của hợp chất silan và các hạt silic
đioxit dạng keo, và thu được bằng cách bổ
sung hợp chất silan này vào sol silic đioxit với
tốc độ không lớn hơn 20 phân tử silan cho mỗi
nm2 bề mặt silic đioxit dạng keo trong mỗi
giờ. Chế phẩm phủ này có thời gian bảo quản
trong bình tương đối dài, độ bền gỉ trắng tốt và
đặc tính màng mỏng tốt. Ngoài ra, sáng chế
còn đề cập đến quy trình điều chế chế phẩm
phủ và nền kim loại được phủ bằng chế phẩm
này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 38/54
1-0019196 Hỗn hợp chất xúc tác hydro hóa chọn lọc, phương pháp tạo ra chất xúc tác hydro hóa chọn lọc và phương pháp hydro hóa chọn lọc sử dụng chất
xúc tác này
Tác giả: Cheung Tin-Tack Peter (US),
Hong Zongxuan (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hỗn hợp chất xúc
tác hydro hoá chọn lọc bao gồm chất xúc tác
hydro hóa có chất mang chứa palađi và hợp
chất phospho hữu cơ, chất xúc tác hydro hoá
có chất mang này có khả năng hydro hoá chọn
lọc hydrocacbon chưa no ở mức độ cao thành
hydrocacbon chưa no. Sáng chế cũng đề cập
đến phương pháp tạo ra chất xúc tác hydro hoá
chọn lọc bao gồm bước cho chất mang tiếp
xúc với hợp chất chứa palađi tạo ra hỗn hợp có
chất mang palađi, cho hỗn hợp có chất mang
palađi tiếp xúc với hợp chất phospho hữu cơ
tạo ra tiền chất xúc tác và khử tiền chất xúc tác
để tạo ra chất xúc tác hydro hóa chọn lọc.
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến phương
pháp hydro hoá chọn lọc hydrocacbon chưa no
ở mức độ cao thành hỗn hợp được làm giàu
hydrocacbon chưa no.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019188 Màng phủ trong suốt, đồ dùng được phủ bằng màng này và phương pháp sản xuất màng phủ này
Tác giả: Dubanchet Aurélien (FR), Le
Bris Stéphanie (FR), Perillon Jean-Luc (FR).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến màng phủ trong
suốt (3) chứa ít nhất một lớp (31) ở dạng
màng liên tục bằng vật liệu sol-gel chứa phần
nền được tạo ra từ ít nhất một polyalkoxylat
kim loại và các hạt không đẳng hướng (32)
phân bố trong đó, lớp này chứa ít nhất một
vùng (311) trong đó hơn 80% các hạt không
đẳng hướng này nằm nghiêng một góc α
Trong khoảng từ 20° đến 90° so với mặt
phẳng trung bình của màng phủ này; đồ dùng
(1) có một trong các mặt (21, 22) của nó được
phủ bằng màng phủ (3); và phương pháp sản
xuất màng phủ (3).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019112 Phương pháp oligome hoá và phương pháp điều chế polyalphaolefin
Tác giả: Brooke L. Small (US),
Kenneth D. Hope (US), Albert P. Masino
(US), …
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến phương pháp
oligome hóa và phương pháp điều chế
polyalphaolefin. Trong phương pháp oligome
hóa, hệ chất xúc tác oligome hóa alpha olefin
dựa trên metaloxen, kể cả các hệ chất xúc tác
chứa ít nhất một metaloxen và chất hoạt hóa
là oxit dạng rắn được xử lý hóa học bằng
anion hút electron. Trong phương pháp điều
chế polyalphaolefin, oligome alpha olefin và
PAO được điều chế bằng hệ chất xúc tác có
thể có chỉ số độ nhớt cao kết hợp với điểm rót
thấp, làm cho chúng đặc biệt hữu ích trong
chế phẩm bôi trơn và dùng làm chất làm thay
đổi độ nhớt.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 39/54
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019185 Chế phẩm mực dùng để in lưới trên nền thủy tinh, vật liệu in có lớp chế phẩm mực in này và phương pháp sản xuất vật liệu in này
Tác giả: Ogata Tomomi (JP), Torihata
Takuya (JP), Takada Naoto (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm mực
dùng để in lưới trên nền thủy tinh, bao gồm
chế phẩm mực dùng để in lưới chất lượng
cao/độ nét cao mà cho phép in có độ chính
xác cao cả hai mẫu hình nhỏ như các mẫu
hình điểm nhỏ hoặc các mẫu hình nét mảnh,
đặc biệt là trên nền thủy tinh, và mẫu hình
mảng màu diện tích lớn, đồng thời trong một
bước duy nhất bằng cách in lưới, đây là
phương pháp được sử dụng rộng rãi cho việc
tạo ra các mẫu ảnh trong lĩnh vực đồ họa và
các lĩnh vực phần nào liên quan đến điện và
điện tử. Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến
vật liệu in có lớp chế phẩm mực in này và
phương pháp sản xuất vật liệu in này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019108 Dụng cụ thái
Tác giả: Hajime Yamamoto (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến dụng cụ thái có thể
thái nguyên liệu cần thái với chiều dày đồng
đều và có thể cũng được sử dụng một cách vệ
sinh. Dụng cụ thái (1) bao gồm cơ cấu điều
chỉnh chiều rộng thái lát (100) được tạo ra có
bộ phận điều chỉnh chiều rộng thái lát (60) có
dạng hình trụ có phần bắt vít (62) được tạo ra
trên bề mặt ngoại biên bên ngoài và có khả
năng đỡ bề mặt phía sau (40c) của tấm đỡ di
chuyển được (40), lỗ nhận vít (13) được tạo ra
liền khối với khung (10) và có khả năng được
ăn khớp với phần bắt vít (62), và gân thứ nhất
(45) được tạo ra trên bề mặt phía sau (40c) của
tấm đỡ di chuyển được (40) để đứng trên đó và
có khả năng được gắn vào bộ phận điều chỉnh
chiều rộng thái lát (60).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 40/54
1-0019284 Chế phẩm chăm sóc răng miệng và phương pháp làm trắng răng
Tác giả: Prencipe Michael (US),
Mandadi Prakasarao (US), Garot Olivier
(US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm chăm
sóc răng miệng chứa (i) chất làm trắng peroxit
là phức chất làm trắng chứa
polyvinylpyroliđon liên kết ngang được tạo
phức với hydro peroxit, (ii) natri
đipyrophosphat (Na2H2P2O7) với lượng nằm
trong khoảng từ 0,05% đến 5% khối lượng của
chế phẩm, và (iii) nước với lượng nhỏ hơn 3%
khối lượng của chế phẩm. Ngoài ra, sáng chế
còn đề cập đến phương pháp làm trắng răng
không nhằm mục đích chữa bệnh bằng cách sử
dụng chế phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019256 Phương pháp sản xuất sữa dạng rắn
Tác giả: Toyoda Ikuru (JP), Satake
Yoshinori (JP), Ohtsubo Kazumitsu (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến phương pháp sản
xuất sữa dạng rắn có độ cứng thích hợp để sử
dụng trên thực tế bằng cách sản xuất sữa bột
có khả năng ép bằng khuôn tốt. Theo phương
pháp sản xuất sữa dạng rắn của sáng chế, sữa
bột để sản xuất sữa dạng rắn được tạo ra theo
quy trình (S100), và sau đó sữa dạng rắn được
sản xuất từ sữa bột thu được này. Quy trình
sản xuất (S100) bao gồm bước phân tán khí
(S112) và bước sấy phun (S114). Trong bước
phân tán khí (S112), khí cần thiết được phân
tán vào sữa dạng lỏng là thành phần của sữa
bột. Trong bước sấy phun (S114), sữa dạng
lỏng có khí cần thiết đã phân tán được phun,
và sữa dạng lỏng đã phun được làm khô.
Bằng cách tiến hành các bước này, thu được
sữa bột. Sữa dạng rắn được sản xuất bằng
cách hóa rắn sữa bột.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0019094 Dụng cụ làm món kakiage và phương pháp làm món kakiage
Tác giả: Maruyama Kazuhide (JP),
Iwahashi Yasuhiko (JP), Kameoki Tomofumi
(JP), UEKI Yoshihito (JP), Kanazawa Satoshi
(JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến dụng cụ làm món
kakiage (tôm/món rán thực vật) mà nhờ đó
kakiage dày có thể được tạo ra một cách dễ
dàng và hữu hiệu. Dụng cụ làm món kakiage
được kết cấu có phần chứa kakiage (2), phần
chứa kakiage (2) bao gồm một khuôn dạng
hình trụ (5), trong đó một số các lỗ thông (7)
được tạo ra và được sắp xếp và tấm đáy dạng
đĩa (6) được cố định vào lỗ ở đầu đáy khuôn
(5) và trong đó một số các lỗ thông thứ nhất
(8) có đường kính lớn và một số các lỗ thông
thứ hai (9) có đường kính nhỏ được tạo ra xen
kẽ và được sắp xếp. Đường kính của tấm đáy
(6) là nhỏ hơn so với đường kính trong của
khuôn (5) sao cho khe hở (11) có chiều rộng
được xác định từ trước được tạo ra ở giữa bề
mặt chu vi trong ở đầu đáy của khuôn (5) và
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 41/54
chu vi của tấm đáy (6). Bột nhão kakiage được
cho vào phần chứa kakiage (2) là phần được
định vị trong bình dầu và sau đó được đun
nóng cho đến khi bề mặt của bột nhão kakiage
(12) hầu như giòn và được rán lên. Sau đó,
phần chứa kakiage (2) được tháo xuống bình
dầu. Như vậy, bột nhão kakiage được xả lên
phía trên từ phần chứa kakiage (2) và được nổi
trong bình dầu
.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019201 Bao gói thực phẩm và phương pháp đóng hộp các viên thức ăn đã gói riêng biệt bằng giấy gói trong hộp bao gói
Tác giả: Sato Hiroshi (JP), Shirai
Yasuhisa (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập tới bao gói thực phẩm
và phương pháp đóng hộp các viên thức ăn đã
gói riêng biệt bằng giấy gói trong hộp bao gói,
trong đó các viên thức ăn được ngăn không
phải chịu thay đổi nhiệt độ đột ngột khi các
viên thức ăn được gói riêng biệt bằng giấy gói
được cố định vào hộp bao gói nhờ chất kẹt
dính nóng chảy nhiệt. Trong bao gói thực
phẩm (1), từng giấy gói (3) gói riêng biệt mỗi
viên thức ăn (2) có vạt liên kết (19) nhô ra từ
đầu theo chiều dọc của viên thức ăn. Các viên
thức ăn đã gói riêng biệt (2) được bố trí trên
thành trong (51) của hộp bao gói (4), và các
vạt liên kết (19) dùng cho các viên thức ăn (2)
lần lượt được bố trí theo cách liền kề. Thành
trong (51) có một phần được gập lại để xác
định tấm ép (25). Các vạt liên kết đã bố trí (19)
được cố định giữa thành trong (51) và tấm ép
(25) nhờ chất kết dính nóng chảy nhiệt (44)
trong hộp bao gói (4).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019249 Phương pháp sản xuất thực phẩm và đồ uống được gia tăng vị kokumi
Tác giả: Takeaki Ohsu (JP), Sen
Takeshita (JP), Yuzuru Eto (JP), …
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến phương pháp chọn
lọc chất tạo ra vị kokumi, phương pháp này sử
dụng hoạt tính thụ thể canxi làm chỉ số đánh
giá, tác nhân tạo ra vị kokumi chứa chất tạo ra
vị kokumi thu được bằng phương pháp chọn
lọc làm hoạt chất, phương pháp sản xuất thực
phẩm hoặc đồ uống nh- thực phẩm, gia vị, đồ
uống có vị kokumi, và thực phẩm hoặc đồ
uống có vị kokumi.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 42/54
1-0019189 Phương pháp sản xuất chế phẩm tạo hương vị
Tác giả: Takakura Yukiko (JP),
Hayashi Kazuhiro (JP), Iga Mayuko (JP), …
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến phương pháp sản
xuất chế phẩm tạo hương vị bằng cách sử
dụng phản ứng đun nóng của methionin và
đường, trong đó methional có thể được chứa
trong chế phẩm này với nồng độ cao hơn.
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến thực phẩm
hoặc sản phẩm tương tự chứa chế phẩm được
sản xuất theo phương pháp này. Theo một
phương án, methionin và đường được trộn với
nhau, và hỗn hợp này được đun nóng trong
một thời gian và nhiệt độ cụ thể dưới các điều
kiện hai độ pH khác nhau. Theo một phương
án khác, trong khi trộn và đun nóng
methionin và đường, ít nhất một trong số natri
clorua, kali clorua, canxi clorua và phosphat
được bổ sung vào, và hỗn hợp thu được được
đun nóng dưới các điều kiện thời gian, nhiệt
độ và độ pH cụ thể.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019136 Phương pháp và hệ thống để kiểm tra hoặc điều chỉnh việc hiệu chuẩn của thiết bị đo huyết áp
Tác giả: Yury Grotov (KN)
Quốc gia: Saint Kitts và Nevis
Sáng chế đề cập tới phương pháp và
hệ thống để kiểm tra hoặc điều chỉnh việc
hiệu chuẩn của thiết bị đo huyết áp và thiết bị
đo huyết áp. Thiết bị đo huyết áp được hiệu
chuẩn bằng cách nối một bình chứa được bịt
kín chứa khí ở áp lực đã biết với lỗ thông để
cấp áp lực đã biết tới bộ cảm biến áp lực, và
so sánh tín hiệu áp lực từ bộ cảm biến áp lực
với áp lực đã biết để kiểm tra hoặc điều chỉnh
trạng thái hiệu chuẩn của bộ cảm biến. Một
số bình chứa có thể được sử dụng để hiệu
chuẩn bộ cảm biến trong môt phạm vi áp lực,
từng bình chứa này có áp lực đã biết khác
nhau. Tốt hơn là, từng bình chứa có đệm kín
được phá hỏng khi gắn chặt vào lỗ thông và
không thể tái sử dụng, và có thể có một ký
hiệu nhận dạng như ký hiệu nhận dạng đọc
được bằng điện tử được lưu giữ trong bộ nhớ
liên quan tới giá trị của áp lực đã biết bên
trong bình chứa. Thiết bị đo có thể bao gồm
phương tiện cảm biến nhiệt độ và phương
tiện cảm biến va đập.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019104 Thiết bị tập chi dưới và phương pháp kích thích khớp háng
Tác giả: Tsukasako Kikunori (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến thiết bị tập chi
dưới có khả năng tạo ra sự chuyển động làm
bật đầu gối bằng cách kích thích khớp háng,
hoặc đầu gốc của chi dưới, trong khi cho phép
cẳng chân, hoặc đầu ngọn của chi dưới, thả
lỏng. Thiết bị tập chi dưới (1) bao gồm sàn
nâng (2) trên đó gót chân (41) của chân (4)
được đặt; và động cơ (3) được ghép đôi với
sàn nâng (2). Sàn nâng (2) được tạo kết cấu
sao cho bề mặt nghỉ gót chân (21) của nó dao
động lên và xuống bằng lực dẫn động của
động cơ (3), nhưng không hạ xuống dưới vị trí
độ cao tối thiểu là không lớn hơn 4 cm trên bề
mặt sàn G, là bề mặt trên đó các ngón chân
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 43/54
(42) được đặt. Động cơ (3) bao gồm trục ra
(32) trên đó bánh lệch tâm (34) được bố trí; và
tấm quay được (6) tựa trên bánh lệch tâm (34).
Tấm quay được (6) có đầu của nó được gắn
theo cách quay được do vậy mà có thể quay.
Sàn nâng (2) được bố trí ở một phía của khung
bao quanh sao cho gót chân (41) có thể được
đặt ở vị trí độ cao tối thiểu là không lớn hơn 4
cm trên bề mặt sàn (G) khi chân (4) được đặt
trên bề mặt sàn (G) mà trên đó bố trí khung
bao quanh (50). Sàn nâng (2) được nối vào đầu
khác của tấm quay được (6), do vậy mà dao
động lên và xuống nhờ tấm quay được (6),
quay lên và xuống quanh đầu được gắn theo
cách quay được, đáp ứng với việc quay của
bánh lệch tâm (34).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019113 Thuốc chứa chất chống khối u và chất tăng cường hiệu quả của chất chống khối u này
Tác giả: Ross Ronald (US), Deamicis
Carl (US), Zhu Yuanming (US), …
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến thuốc để sử dụng
trong điều trị khối u, thuốc này chứa (A) chất
chống khối u, và (B) chất tăng cường hiệu
quả của chất chống khối u. Chất tăng cường
hiệu quả của chất chống khối u bao gồm hợp
chất uraxil có công thức (I) dưới đây hoặc
muối dược dụng của nó đóng vai trò làm
thành phần hoạt tính:
trong đó X là nhóm C1-5 alkylen và một trong
các nhóm metylen tạo ra nhóm alkylen tùy ý
được thế bằng nguyên tử oxy; R1 là nguyên tử
hydro hoặc nhóm C1-6 alkyl; R2 là nguyên tử
hydro hoặc nguyên tử halogen; và R3 là nhóm
C1-6 alkyl, nhóm C2-6 alkenyl, nhóm C3-6
xycloalkyl, nhóm (C3-6 xycloalkyl) C1-6 alkyl,
nhóm halogeno-C1-6 alkyl hoặc nhóm dị vòng
no.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019282 Viên nang phân rã trong ruột già
Tác giả: Kamaguchi Ryosei (JP),
Mizutani Masafumi (JP
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất viên nang không
phân rã trong dạ dày và ruột non sau khi
dùng qua đường miệng và các viên nang này
chỉ phân rã trong ruột già. Do đó, sáng chế đề
xuất viên nang chỉ phân rã trong ruột già,
chứa chế phẩm chứa hoạt chất chính, và vỏ
mà bao bọc chế phẩm này, chứa polyme tự
nhiên tan trong nước làm nguyên liệu nền của
vỏ và bột chitosan phân tán trong polyme tự
nhiên tan trong nước. Sáng chế cũng mô tả
phương pháp bào chế viên nang này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 44/54
**************
1-0019179 Vacxin tái tổ hợp chứa vectơ virut bất hoạt
Tác giả: Lozano-Dubernard, Bernardo
(MX), Sarfati-Mizrahi David (MX), Suarez-
Martinez Jesus Alejandro (MX), …
Quốc gia: Mexico
Sáng chế đề cập đến vacxin bao gồm
vectơ virut bất hoạt đã cài vào đó trình tự
nucleotit ngoại sinh mã hóa kháng nguyên
của bệnh quan tâm, cùng với chất dẫn, chất
phụ trợ hoặc tá dược dược dụng, tạo ra sự
ngăn ngừa bệnh quan tâm thông qua việc sử
dụng nồng độ vectơ virut giống với nồng độ
cần cho vacxin virut hoạt động trên cơ sở
vectơ virut này. Các vectơ virut chủ yếu là
paramixovirut và adenovirut.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019116 Muối axit sulfonic của imidazol được thế bằng dị vòng amit, phương pháp điều chế và dược phẩm chứa muối này
Tác giả: Schwab Wilfried (DE),
Schiffer Guido (DE), Voegtli Kurt (CH), …
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến muối axit sulfonic
của hợp chất imidazol được thế bằng dị vòng
amit, và solvat và hydrat của nó, phương pháp
điều chế và dược phẩm chứa muối này để
điều trị và/hoặc phòng ngừa bệnh nhiễm
virut, cụ thể là xytomegalovirut.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019276 Tiền dược chất axit phosphoramiđic của 5-[5-phenyl-4-(pyriđin2 ylmetylamino)quinazolin-2-yl]pyriđin-3-sulfonamit và dược phẩm
chứa hợp chất này
Tác giả: Warrier Jayakumar S. (IN),
Yadav Navnath Dnyanoba (IN) .
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức cấu trúc I:
trong đó R là H hoặc -PO3H hoặc muối dược
dụng của nó. Các hợp chất này là hữu ích làm
các chất ức chế chức năng kênh kali và có tác
dụng điều trị và phòng chứng loạn nhịp tim,
rối loạn liên quan đến IKur, và các rối loạn
khác qua trung gian chức năng kênh ion.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 06/2018 45/54
1-0019126 Chủng Edwardsiella ictaluri E-ict-VL33 và chế phẩm vacxin chứa chủng này
Tác giả: Tsun-Yong Kuo (TW), Hsu
Chung Gabriel Chen (TW).
Quốc gia: Hong Kong
Sáng chế đề cập đến chủng
Edwardsiella ictaluri E-ict-VL33 và các chế
phẩm vacxin chứa chủng Edwardsiella
ictaluri E-ict-VL33 mới này, cụ thể là vacxin
ở dạng ngâm trong dung dịch và vacxin ở
dạng dùng qua đường miệng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019325 Chế phẩm để điều trị bệnh liên quan đến béo phì chứa thể tiếp hợp peptit kích thích insulin
Tác giả: Song Dae Hae (KR), Kim
Min Young (KR), Park Young Jin (KR), …
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến chế phẩm để điều
trị bệnh liên quan đến béo phì chứa thể tiếp
hợp peptit kích thích insulin, đặc biệt là chế
phẩm để điều trị bệnh liên quan đến béo phì
chứa thể tiếp hợp được tạo ra bằng liên kết
cộng hóa trị giữa peptit kích thích insulin và
chất mang thông qua cầu nối không phải
peptit. Đặc biệt, chế phẩm để điều trị bệnh liên
quan đến béo phì theo sáng chế này cải thiện
rõ rệt hiệu quả gây chán ăn và thời gian tác
dụng để làm giảm thể trọng và chất béo trong
cơ thể, nhờ đó có thể được sử dụng để điều trị
các bệnh liên quan đến béo phì.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019102 Hợp chất benzothiazolon, quy trình điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa nó
Tác giả: Cao Jun (CN), Erb Bernhard
(CH), Fairhurst Robin Alec (GB), …
Quốc gia: Anh
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức (I) ở dạng tự do hoặc ở dạng muối dược
dụng:
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 46/54
và quy trình điều chế hợp chất này. Sáng chế
còn đề cập đến dược phẩm và tổ hợp chứa
các chất có hoạt tính dược này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019115 Hợp chất imidazo-oxazin và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Nakamura Masayuki (JP),
Niiyama Kenji (JP), Kamijo Kaori (JP),…
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất hợp chất imidazo-
oxazin có công thức (I) hoặc muối của chúng,
hợp chất này là hữu ích làm thuốc trị khối u
có tác dụng ức chế AKT, trong đó A, B, C, và
D lần lượt là nguyên tử N hoặc C-R1a
, nguyên
tử N hoặc C-R1b
, nguyên tử N hoặc C-R1c
, và
nguyên tử N hoặc C-R1d
; R1a
, R1b
, R1c
, và R1d
là giống nhau hoặc khác nhau, và mỗi nhóm
lần lượt là nguyên tử hydro, nguyên tử
halogen, nhóm xyano, nhóm alkyl tùy ý được
thế, C1-6 alkoxy tùy ý được thế, carbonyl được
thế, hoặc nhóm dị vòng không no tùy ý được
thế; R2 là nhóm aryl tùy ý được thế hoặc
nhóm dị vòng không no tùy ý được thế; R3 và
R4 là giống nhau hoặc khác nhau, và mỗi
nhóm là nguyên tử hydro, nhóm hydroxy,
nhóm C1-6 alkyl tùy ý được thế, hoặc C3-7
xycloalkyl tùy ý được thế.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019132 Hợp chất C17-alkandiyl và alkendiyl của axit oleanolic và dược phẩm chứa chúng
Tác giả: Bender Christopher, F. (US),
Jiang Xin (CN), Anderson Eric (US), Visnick
Melean (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất C17-
alkandiyl và alkendiyl của axit oleanolic, bao
gồm các hợp chất có công thức (I):
trong đó các biến là như được xác định trong
bản mô tả. Sáng chế còn đề cập đến dược
phẩm, kit và vật phẩm chứa các hợp chất này.
Sáng chế cũng đề cập đến phương pháp và
hợp chất trung gian hữu ích để điều chế hợp
chất dùng làm chất điều biến chống oxy hóa
và kháng viêm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019138 Hợp chất triazolon có tác dụng ức chế enzym prostaglandin E synthaza-1 vi thể (mPGES-1), dược phẩm chứa hợp chất này và quy trình
điều chế hợp chất này
Tác giả: Jackson Simon Mark (GB),
Walker Nigel Pelham Clinton (GB), Piper
Derek Evan (US), …
Quốc gia: Thụy Sĩ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 47/54
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức (I) và các muối dược dụng của nó có tác
dụng ức chế mPGES-1. Các hợp chất này là
chất ức chế enzym prostaglandin E synthaza-1
vi thể (mPGES-1) và do đó có thể được dùng
để điều trị tình trạng đau và/hoặc viêm trong
các bệnh hoặc tình trạng bệnh khác nhau, như
bệnh hen, bệnh viêm xương khớp, bệnh viêm
đa khớp dạng thấp, chứng đau cấp tính hoặc
mạn tính và bệnh thoái hóa thần kinh.
Sáng chế còn đề cập đến dược phẩm
chứa hợp chất này và quy trình điều chế hợp
chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019153 Hợp chất pyroloquinolin alkaloit dùng làm chất trị sốt rét và quy trình điều chế hợp chất này
Tác giả: Mhaske Santosh Baburao
(IN), Lande Jyoti Reveji (IN).
Quốc gia: Ấn Độ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có hoạt
tính trị sốt rét và quy trình tổng hợp hợp chất
này. Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến quy
trình tổng hợp các sản phẩm tự nhiên trị sốt
rét đã biết là marinoquinazolinon A-F,
aplidiopsamin A và các chất tương tự trị sốt
rét của chúng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019165 Hợp chất làm chất đối kháng thụ thể 5-HT3 và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Hitchcock Stephen (US),
Monenschein Holger (DE), Reichard Holly
(US),…
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hợp chất có tác
dụng đối kháng thụ thể 5-HT3 có công thức (I):
trong đó các ký hiệu là nh- được xác định
trong bản mô tả, hợp chất này hữu dụng trong
điều trị các bệnh có thể điều trị được bằng
cách ức chế thụ thể 5-HT3 như nôn, đau,
nghiện chất gây nghiện, các rối loạn thoái
hóa thần kinh và tâm thần và các rối loạn dạ
dày - ruột. Sáng chế còn đề cập đến dược
phẩm chứa hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019175 Hợp chất gây chết tế bào theo chương trình và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Bruncko Milan (US), DAI,
Yujia (US), Ding Hong (CN), …
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất ức chế
hoạt tính của protein thuộc họ Bcl-2 chống
lại quá trình chết tế bào theo chương trình và
dược phẩm chứa hợp chất này để điều trị các
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 48/54
bệnh trong đó có sự biểu hiện của protein
thuộc họ Bcl-2 chống lại quá trình chết tế bào
theo chương trình.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019207 Hợp chất 5,6-dihydro-4H-pyrolo[1,2-a][1,4]-benzodiazepin và 6Hpyrolo[1,2-a][1,4]benzodiazepin đuợc thế bằng các dẫn xuất phenyl
có tác dụng kháng nấm và dược phẩm chứa chúng
Tác giả: Meerpoel Lieven (BE), Maes
Louis Jules Roger Marie (BE), De WIt Kelly
(BE).
Quốc gia: Bỉ
Sáng chế đề cập đến hợp chất kháng
nấm 5,6-dihydro-4H-pyrolo-[1,2-
a][1,4]benzodiazepin và 6H-pyrolo[1,2-
a][1,4]benzodiazepin có công thức (I):
trong đó R1, R
2, R
3, R
4, R
5 và R
6 có nghĩa
được xác định trong bản mô tả. Hợp chất
theo sáng chế có hoạt tính chủ yếu là kháng
nấm ngoài da và bệnh lây nhiễm nấm toàn
thân. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến các
quy trình điều chế các hợp chất này, dược
phẩm chứa chúng làm hoạt chất.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019231 Hợp chất pyrazol có tác dụng làm chất đối kháng phân tử tương đồng thụ thể hóa ứng động được biểu hiện trên tế bào TH2 (CRTH2) và dược
phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Anderskewitz Ralf (DE),
Martyres Domnic (GB), Oost Thorsten
(DE),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất pyrazol
có công thức (Ia) hoặc (Ib) và muối dược
dụng của hợp chất này:
trong đó Ra, R
b, R
c, R
d, Y
1, Y
2, Y
3, Y
4, Y
5, Z,
R1, R
2, n và R
3 có một trong số các định
nghĩa như được đưa ra trong bản mô tả để
bào chế thuốc, dược phẩm chứa các hợp chất
này và dược phẩm chứa hợp chất này kết hợp
với một hoặc nhiều thành phần hoạt tính.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 49/54
1-0019242 Hợp chất alkynylbenzen được thế hai lần ở vị trí 3,5 và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Sagara Takeshi (JP), ITO
Satoru (JP), Otsuki Sachie (JP), Sootome
Hiroshi (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất hợp chất có công thức
(I):
(trong đó R1, X1, X2, Y, và Z là như được xác
định trong phần mô tả), hoặc muối của hợp
chất này; và dược phẩm chứa hợp chất này
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019261 Hợp chất quinolon và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Desai Ranjit C. (US), Pandya
Vrajesh (IN), Patel Pankaj, R. (IN).
Quốc gia: Ấn Độ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức chung (I) dưới đây, dạng hỗ biến, chất
đồng phân lập thể, muối dược dụng của hợp
chất này và phương pháp điều chế nó để sử
dụng trong y tế, cũng như các chất trung gian
được sử dụng trong quy trình điều chế hợp
chất này.
Trong đó các biến có mặt trong công thức (I)
có ý nghĩa nh- được nêu trong bản mô tả.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019265 Hợp chất este dihydro phosphat của amino quinazolin làm chất ức
chế kinaza và dược phẩm chứa hợp chất nàyTác giả: Casillas Linda N. (US), Haile
Pamela A. (US), Marquis Robert W. Jr. (US),
Wang Gren (US).
Quốc gia: Anh
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức:
trong đó X như được định nghĩa trong bản
mô tả, và dược phẩm chứa hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 50/54
1-0019272 Hợp chất 4-(metylaminophenoxy) pyridin-3-yl-benzamit và dược phẩm chứa hợp chất này dùng để điều trị bệnh ung thư
Tác giả: Nakagawa Takashi (JP),
Sakamoto Makoto (JP), Yamaguchi Kazuya
(JP),…
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hợp chất có tác
dụng chống khối u, độ ổn định và độ ổn định
chuyển hóa tuyệt vời. Hợp chất theo sáng chế
có công thức chung (1)
trong đó R1 là nguyên tử halogen, nhóm aryl,
nhóm aryloxy hoặc nhóm alkyl thấp tùy ý
được thế bằng một hoặc nhiều nguyên tử
halogen; R2 là nguyên tử hydro, nguyên tử
halogen, nhóm alkyl thấp hoặc nhóm alkoxy
thấp; và m là số nguyên nằm trong khoảng từ
1 đến 3; với điều kiện là khi m là 2 hoặc 3 thì
các nhóm R1 là giống nhau hoặc khác nhau.
Sáng chế cũng đề cập đến dược phẩm chứa
hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019318 Hợp chất heteroaryl và dược phẩm chứa hợp chất này làm chất ức chế kinaza mTOR để điều trị hoặc phòng ngừa bệnh ung thư
Tác giả: Elsner Jan (US), Harris Roy
L. (US), Lee Branden (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề xuất các hợp chất
heteroaryl có công thức cấu tạo sau:
trong đó R1-R
3 là như được xác định trong
bản mô tả, dược phẩm chứa lượng có hiệu
quả của hợp chất heteroaryl này để điều trị
hoặc phòng ngừa bệnh ung thư, tình trạng
viêm, tình trạng bệnh miễn dịch, bệnh thoái
hóa thần kinh, bệnh tiểu đường, bệnh béo
phì, rối loạn thần kinh, rối loạn do lão hóa
hoặc tình trạng bệnh tim mạch ở người bệnh
cần điều trị.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019099 Phương pháp phòng trừ hoặc ngăn ngừa sự phá hoại do mầm bệnh thực vật hoặc vi sinh vật gây hại và vật liệu nhân giống thực vật
Tác giả: Zeun Ronald (DE), Watrin
Clifford George (US), Oostendorp Michael
(DE), Brandl Franz (DE).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến phương pháp
phòng trừ hoặc ngăn ngừa sự phá hoại do mầm
bệnh thực vật hoặc sự phá hoại do sinh vật gây
hại trong vật liệu nhân giống thực vật, thực
vật, các phần của thực vật và/hoặc cơ quan của
thực vật phát triển ở thời điểm sau, bao gồm
việc sử dụng cho thực vật, phần của thực vật,
hoặc các vùng xung quanh chúng, tổ hợp diệt
sinh vật gây hại chứa thiabendazole và
abamectin, theo trình tự mong muốn bất kỳ
hoặc đồng thời.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 51/54
**************
1-0019186 Phương pháp kiểm soát bệnh của cây
Tác giả: Christopher B. Meador (US),
Karen S. Arthur (US).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến phương pháp kiểm
soát các bệnh của cây kết hợp etaboxam với
cây chuyển gen tạo ra việc bảo vệ cây gia tăng
trong việc kiểm soát các bệnh của cây. Theo
sáng chế, việc phun một lượng hữu hiệu
etaboxam lên cây chuyển gen này được phun
lên các phần lá cây; phun lên đất theo kiểu
thấm ướt hoặc kết hợp với đất; hoặc phủ lên
hạt bằng cách phủ bùn lên hạt, bọc màng hạt
và vê viên hạt để thu được hiệu quả kiểm soát
tốt đối với các bệnh của cây. Việc phun
etaboxam lên cây chuyển gen bao hàm cả cây
một lá mầm và cây hai lá mầm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019217 Phương pháp phòng trừ loài chân đốt gây hại và hợp chất dị vòng ngưng tụ
Tác giả: Iwakoshi Mitsuhiko (JP),
Uemura Ippei (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất phương pháp phòng
trừ loài chân đốt gây hại gây hại bao gồm
bước phun lên loài chân đốt gây hại hoặc vùng
mà nó sinh sống một lượng hữu hiệu hợp chất
dị vòng ngưng tụ có công thức (1), trong đó A1
và A2 độc lập là nguyên tử nitơ hoặc tương tự;
R1và R
4 độc lập là nguyên tử halogen hoặc
tương tự; R2 và R
3 độc lập là nguyên tử
halogen hoặc tương tự; R5 và R
6 độc lập là
nhóm hydrocacbon C1-C6 mạch thẳng mà có
thể được thế, hoặc nhóm tương tự (với điều
kiện cả R5 và R
6 không đồng thời là nguyên tử
hydro); và n là 0 hoặc 1.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019145 Chế phẩm chứa emodepside dạng vô định hình
Tác giả: Kanikanti Venkata-Rangarao
(IN), Lange Petra (DE), Hamann Hans-Jurgen
(DE), Kleinebudde Peter (DE) .
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến chế phẩm chứa
emodepside dạng vô định hình trong chất nền
polyvinylpyrolidon và dược phẩm chứa chế
phẩm này. Chế phẩm theo sáng chế là hữu
dụng trong việc diệt nội ký sinh trùng ở động
vật hoặc con người.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019147 Chế phẩm chống nấm và phương pháp làm tăng hoạt tính chống nấm của metconazol
Tác giả: Kurahashi Makoto (JP),
Silverman Franklin Paul (US), Kochan
Jennifer C. (US), …
Quốc gia: Nhật
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 52/54
Sáng chế đề cập đến chế phẩm chống
nấm bao gồm azol chống nấm và axit N-(2-
phenyletyl)suxinamic hoặc muối của axit này
có hiệu quả kiểm soát bệnh của thực vật và
cũng có thể làm tăng cường sự phát triển của
thực vật.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019184 Dẫn xuất oxopyrazin và thuốc diệt cỏ
Tác giả: Ryuji Tamai (JP), Minoru Ito
(JP), Masami Kobayashi (JP), …
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến dẫn xuất
oxopyrazin có hoạt tính diệt cỏ mạnh và ngoài
ra còn thể hiện độ an toàn cao đối với các cây
trồng hữu ích và tương tự, hoặc muối của dẫn
xuất này, và thuốc diệt cỏ chứa dẫn xuất này.
Sáng chế đề cập đến dẫn xuất oxopyrazin có
công thức [I]: Công thức hóa học 39
trong đó X1 là nguyên tử oxy hoặc nguyên tử
lưu huỳnh; X2 là CH hoặc N(O)m; m là số
nguyên 0 hoặc 1; R1 là nguyên tử hyđro, nhóm
C1-C
12 alkyl và t-ơng tự; R
2 là nguyên tử
halogen, nhóm xyano và tương tự; R3 là nhóm
hyđroxyl, nguyên tử halogen và t-ơng tự; A1 là
C(R4 R
5); A
2 là C(R
6R10MM) hoặc C=O; A
3
là C(R8R
9); R
4 đến R
9 là nguyên tử hydro hoặc
nhóm alkyl, hoặc muối của dẫn xuất này, và
thuốc diệt cỏ chứa các hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019161 Chế phẩm trừ cỏ và phương pháp phòng trừ loài thực vật không mong muốn
Tác giả: Kikugawa Hiroshi (JP),
Nagayama Souichiro (JP), Sano Makiko (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm trừ cỏ
và phương pháp sử dụng chế phẩm này nhờ
đó cải thiện được, với mức độ cao hơn trước
đây, hiệu quả của hợp chất có hoạt tính trừ cỏ
để làm giảm lượng chất đưa vào môi trường ở
vị trí mà thuốc diệt cỏ này được phun lên hoặc
vùng lân cận đó và có thể giảm được lượng
thuốc diệt cỏ. Chế phẩm trừ cỏ chứa (1) hợp
chất có công thức (I) hoặc muối của nó:
trong đó T và Z như được xác định trong bản
mô tả, và (2) polyoxyalkylen ete alkyl
phosphat hoặc muối của nó. Ngoài ra, sáng
chế còn đề cập đến phương pháp phòng trừ
các loài thực vật không mong muốn hoặc ức
chế sự phát triển của chúng bằng cách phun
chế phẩm trừ cỏ này lên các loài thực vật
không mong muốn hoặc vào nơi mà chúng
phát triển.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 53/54
1-0019167 Chế phẩm diệt cỏ và phương pháp phòng trừ sự tăng trưởng của thực vật không mong muốn
Tác giả: Kurahashi Makoto (JP),
Silverman Franklin Paul (US), Kochan
Jennifer C. (US), …
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt cỏ
hiệp đồng chứa hỗn hợp gồm a) pyribenzoxim
và b) lượng có hiệu quả hiệp đồng của ít nhất
một hợp chất được chọn từ các hợp chất của
nhóm mesotrion, benzobixyclon, benzofenap,
pyraflufen-etyl, beflubutamit, cafenstrol,
dimetametryn, clomeprop, prometryn,
simetryn, trifloxysulfuron, sulfosulfuron, N-
[(4,6-dimetoxypyrimidin-2yl)aminocarbonyl]-
2-(2-flo-1-metoxy-axetoxynpropyl)pyridin-3-
sulfonamit, S-metolaclor, alaclor, metamifop,
2,2-dimetyl- propionic axit 8-(2,6-dietyl-
4metyl-phenyl)-9-oxo-1,2,4,5-tetrahydro-9H-
pyrazolo[1,2-d][1,4,5]oxadiazepin-7-yleste,
isoxaclortol, clometoxyfen, fomesafen,
halosafen, lactofen, oxyfluorfen, fluazolat,
benzfendizon, xinidon-etyl, flumicloracpentyl,
flumioxazin,azafenidin, pentoxazon,
profluazol, flufenpyr-etyl, pyraclonil,
pyriftalit, bispyribac-natri, pyrithiobac-natri,
pyriminobac-natri, clodinafop, pretilaclor,
quinclorac, pyrazolynat, molinat, thiobencarb
và mefenaxet làm hoạt chất. Các chế phẩm
theo sáng chế cũng có thể chứa chất an toàn.
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến phương
pháp phòng trừ sự tăng trưởng của thực vật
không mong muốn ở các cây trồng hữu ích.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019099 Phương pháp phòng trừ hoặc ngăn ngừa sự phá hoại do mầm bệnh thực vật hoặc vi sinh vật gây hại và vật liệu nhân giống thực vật
Tác giả: Zeun Ronald (DE), Watrin
Clifford George (US), Oostendorp Michael
(DE), Brandl Franz (DE).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến phưuơng pháp
phòng trừ hoặc ngăn ngừa sự phá hoại do
mầm bệnh thực vật hoặc sự phá hoại do sinh
vật gây hại trong vật liệu nhân giống thực
vật, thực vật, các phần của thực vật và/hoặc
cơ quan của thực vật phát triển ở thời điểm
sau, bao gồm việc sử dụng cho thực vật, phần
của thực vật, hoặc các vùng xung quanh
chúng, tổ hợp diệt sinh vật gây hại chứa
thiabendazole và abamectin, theo trình tự
mong muốn bất kỳ hoặc đồng thời.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019134 Cây thuốc lá biến đổi gen, phương pháp tạo ra cây này, hạt của cây này và phương pháp chiết dầu từ hạt của cây này
Tác giả: Fogher Corrado (IT).
Quốc gia: Úc
Sáng chế đề cập đến cây thuốc lá biến
đổi gen, hạt thu được từ cây này, ph-ơng pháp
tạo ra cây này và phương pháp chiết dầu từ
hạt của cây này trong lĩnh vực công nghiệp và
năng lượng, như dầu đốt, dầu diezel sinh học
và dầu bôi trơn, và để cung cấp cho người và
động vật.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 07/2018 54/54
1-0019101 Virut gây hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn typ châu Âu, vacxin và phương pháp sản xuất vacxin chứa virut này
Tác giả: Burgard Kim (DE), Kroll
Jeremy (US), Layton Sarah M. (US), …
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến virut gây hội
chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn
(Porcine Reproductive and Respiratory
Syndrome Virus-PRRSV). Ngoài ra, sáng chế
còn đề cập đến vacxin để bảo vệ lợn kháng lại
sự lây nhiễm PRRSV chứa chủng PRRSV
sống giảm độc lực, ph-ơng pháp sản xuất
PRRSV sống giảm độc lực và phương pháp
sản xuất vacxin này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 363/2018
Trở về đầu trang
**************