BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây...

488

Transcript of BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây...

Page 1: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 2: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 3: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG - 2016

Page 4: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

CHỈ ĐẠO NỘI DUNG

BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY ĐÀ NẴNG

CHỈ ĐẠO THỰC HIỆNBAN TUYÊN GIÁO THÀNH ỦY ĐÀ NẴNG

BAN BIÊN SOẠNVÕ CÔNG TRÍ

NGUYỄN THANH QUANGBÙI VĂN TIẾNG

PHẠM QUÝBÙI XUÂN

NGUYỄN VĂN NGHĨATHANH QUẾ

PHẠM HỮU BỐNLƯU ANH RÔ

Page 5: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

5

LỜI GIỚI THIỆU

Ngày 29 tháng 3 năm 1975, thành phố Đà Nẵng được giải phóng - đây là mốc son chói lọi, một bước ngoặt vô cùng to lớn trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân thành phố.

Một tháng sau, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975 kết thúc thắng lợi bằng sự kiện quân dân ta giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, kết thúc 21 năm trường kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của dân tộc ta.

Kể từ ngày quê hương được giải phóng đến nay, trải qua chặng đường 40 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng đã gặt hái được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, dần xác lập vai trò là một thành phố động lực của miền Trung - Tây Nguyên.

Trước đây, thực hiện sự chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, Thành ủy Đà Nẵng đã biên soạn và xuất bản hai công trình: “Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1925-1954) - tập 1” và “Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1954-1975) - tập 2”; Huyện ủy Hòa Vang đã biên soạn và xuất bản hai công trình “Lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Hòa Vang (1928-1954) - tập 1” và “Lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Hòa Vang (1954-1975) - tập 2”. Từ sau ngày thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương đến nay, thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 28 tháng 8 năm 2002 của Ban Bí thư “Về tăng cường và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” và Chỉ thị số 08-CT/TU, ngày 31 tháng 3 năm 2003 của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng “Về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ và giáo dục truyền thống cách mạng”; thể theo nguyện vọng của đông đảo

Page 6: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

6

cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố, Thành ủy Đà Nẵng đã chỉ đạo Ban Tuyên giáo Thành ủy tiến hành sưu tầm, biên soạn công trình: “Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1975-2015)”. Tập sách bước đầu ghi lại những thành tựu, hoạt động của Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng suốt 40 năm qua, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác của Đảng bộ trong tình hình mới. Từ đó, góp phần giáo dục tinh thần yêu quê hương, đất nước, tự hào về thành phố quê hương; động viên tinh thần cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế hệ trẻ hiện nay và mai sau.

Trong quá trình nghiên cứu, biên soạn, Ban Biên soạn đã có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm, tham khảo các nguồn tư liệu khác nhau như: Các Văn kiện Đại hội, nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XI đến XXI, các văn kiện Đại hội của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hòa Vang; các báo cáo hàng quý, năm; đặc biệt là đã tranh thủ được ý kiến đóng góp, trao đổi của các đồng chí nguyên lãnh đạo, của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, của Thành ủy Đà Nẵng qua các thời kỳ; đã tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo để xin ý kiến đóng góp, sửa chữa, bổ sung những nội dung còn khiếm khuyết của bản thảo... Tuy nhiên, do trình độ của Ban Biên soạn còn hạn chế, các nguồn tư liệu hiện còn không được đầy đủ, nên công trình không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung và cung cấp thêm thông tin, tư liệu từ các đồng chí và bạn đọc xa gần.

Ban Thường vụ Thành ủy xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, của Thành ủy Đà Nẵng qua các thời kỳ; các ban, ngành, đoàn thể, các nhà khoa học, chuyên gia của Trung ương và địa phương; Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình nghiên cứu, biên soạn và xuất bản tập sách này.

Nhập dịp Kỷ niệm 20 năm Ngày thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương (01/01/1997 - 01/01/2017), Ban Thường vụ Thành ủy trân trọng giới thiệu tập sách: “Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1975-2015)” đến với các đồng chí, đồng bào và bạn đọc xa gần.

BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY ĐÀ NẴNG

Page 7: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

7

SỰ THAY ĐỔI ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 - 2015)

Thành phố Đà Nẵng là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, là nơi từng diễn ra những sự kiện lịch sử trọng đại

trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta nói chung và xứ Quảng nói riêng.

Những thay đổi về địa giới hành chính của thành phố Đà Nẵng qua các thời kỳ lịch sử, kể từ năm 1975 về trước, đã được trình bày đầy đủ ở các công trình lịch sử đã xuất bản trước đây như: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1975), Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1925-1954), tập 1 và Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1954-1975), tập 2… Để bạn đọc tiện theo dõi tập sách này, nhất là quá trình tách, nhập của Đà Nẵng trong 40 năm qua, chúng tôi xin lược thuật đôi nét chính yếu về thay đổi địa giới hành chính của thành phố Đà Nẵng từ năm 1975 đến năm 2015.

Từ tháng 11 năm 1967, Khu ủy V ra quyết định hợp nhất tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà. Đà Nẵng được phân thành 3 quận là Quận I, Quận II và Quận III; huyện Hòa Vang tách thành 3 khu là Khu I, Khu II và Khu III(1).

(1) Lúc này, Quận I, Quận II và Quận III trực thuộc Đặc khu Quảng Đà, đơn vị hành chính thành phố Đà Nẵng không tồn tại. Huyện Hoà Vang chia thành 3 khu trực thuộc Đặc khu Quảng Đà: Khu I gồm các xã thuộc vùng Tây - Tây Bắc của Hòa Vang; Khu II gồm các xã thuộc vùng Trung của Hòa Vang và Khu III thuộc các xã vùng Đông của Hoà Vang.

DẪN NHẬP

Page 8: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

8

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Sau giải phóng, chấp hành Nghị quyết số 245-NQ/TW, ngày 20 tháng 9 năm 1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ khu, hợp nhất tỉnh; ngày 4 tháng 10 năm 1975, Ủy ban nhân dân Cách mạng Lâm thời khu Trung Trung bộ ra Quyết định số 119/QĐ về việc hợp nhất tỉnh Quảng Nam và Đặc khu Quảng Đà thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Lúc này, các Quận I, Quận II và Quận III trở thành đơn vị hành chính thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

Sau đó, theo chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 30 tháng 8 năm 1977, Chính phủ ra Nghị quyết số 228/TTg, về việc sáp nhập Quận I, Quận II và Quận III thành lập thành phố Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 02 năm 1978, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng ra quyết định sáp nhập các Quận I, II, III thành thành phố Đà Nẵng, với 28 phường trực thuộc.

Đối với quần đảo Hoàng Sa (tức huyện Hoàng Sa trực thuộc thành phố Đà Nẵng hiện nay), trước năm 1975, vào ngày 13 tháng 7 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 174/NV, ấn định quần đảo Hoàng Sa là một đơn vị hành chính cấp xã, lấy danh hiệu là xã Định Hải trực thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Ngày 21 tháng 10 năm 1969, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26, về việc sáp nhập xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam vào xã Hòa Long cùng quận. Ngày 19 tháng 01 năm 1974, quân đội Trung Quốc dùng vũ lực tấn công quân đồn trú của Việt Nam Cộng hòa tại quần đảo Hoàng Sa và chiếm toàn bộ quần đảo này. Ngày 20 tháng 01 năm 1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam) đã ra Bản Tuyên bố phản đối hành động này của Trung Quốc. Ngày 29 tháng 3 năm 1975, khi quân dân ta tiến công giải phóng Đà Nẵng, quần đảo Hoàng Sa - một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam vẫn còn bị Trung Quốc chiếm giữ. Ngày 09 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định,

Page 9: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

9

về việc tổ chức quần đảo Hoàng Sa thành huyện đảo Hoàng Sa, thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Năm 1997, khi thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương, quần đảo Hoàng Sa là một huyện thuộc thành phố Đà Nẵng cho đến ngày nay.

Đối với Hoà Vang, sau khi hợp nhất tỉnh năm 1975, Ủy ban nhân dân Cách mạng tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã ban hành Quyết định số 120/QĐ-UB, về việc hợp nhất 3 khu (Khu I, Khu II và Khu III) thành huyện Hoà Vang và điều chỉnh, đổi tên một số xã(1). Ngày 29 tháng 3 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số 79/QĐ, về việc tách một số thôn của xã Hòa Sơn để thành lập xã Hòa Ninh, tách một số thôn của xã Hòa Liên để thành lập xã Hòa Bắc. Ngày 11 tháng 01 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục ban hành Quyết định số 05/QĐ/HĐBT, chia xã Hòa Phong thành hai xã mới là: Hòa Phú và Hòa Phong.

Ngày 07 tháng 10 năm 1996, Bộ Chính trị có Thông báo số 06/TB-TW, về việc nhất trí chia tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính là: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam. Ngày 12 tháng 10 năm 1996, Tỉnh ủy và Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tiến hành họp (bất thường) để thảo luận và biểu quyết phương án chia tách. Hội nghị thống nhất chọn phương án Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương sẽ được hình thành từ 3 đơn vị hành chính

(1) Theo đó, 16 xã thuộc huyện Hòa Vang được lần lượt hợp nhất như sau: Xã Hòa An (hợp nhất xã Hòa Hải và Hòa Long trước kia), Hòa Trung (hợp nhất xã Hòa Châu với thôn Tây An - xã Hòa Thái), Hòa Tiến (hợp nhất xã Hòa Thái và thôn Dương Sơn xã Hòa Châu), Hòa Khương (hợp nhất xã Hòa Lương và thôn Hương Lam - Hòa Khương, thôn Phước Nhơn, Phước Vinh xã Hòa Bình), Hòa Phong (hợp nhất xã Hòa Hưng và Hòa Thượng), Hòa Nhơn (hợp nhất xã Hòa Thịnh và Hòa Phú), Hòa Sơn (hợp nhất xã Hòa Thanh, Hòa Lộc và Hòa Ninh), Hòa Liên (hợp nhất xã Hòa Vinh và Hòa Lạc), Hòa Quý (hợp nhất xã Hòa Phụng và Hòa Lân), Hòa Xuân (tức xã Hòa Đa cũ), Hòa Nam (tức xã Hòa Phước cũ), Hòa Bắc (tức xã Hòa Thọ cũ), Hòa Thắng (tức xã Hòa Hiệp cũ), Hòa Thành (tức xã Hòa Khánh cũ), Hòa Ngọc (tức xã Hòa Minh cũ) và xã Hòa Tân (tức xã Hòa Phát cũ).

Page 10: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

10

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

cấp huyện của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng gồm: thành phố Đà Nẵng (cũ), huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa.

Ngày 06 tháng 11 năm 1996, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về “Việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh”, trong đó có quyết định thành lập thành phố Đà Nẵng, trở thành một đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1997. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 23 tháng 01 năm 1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 7/1997/NĐ-CP, “Về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng”. Theo đó, thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương gồm có 7 đơn vị hành chính: Các quận Hải Châu, Liên Chiểu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn; huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa; với 47 phường, xã.

Sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, với vị thế của một đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, để tạo điều kiện hơn nữa cho Đà Nẵng phát triển đi lên, ngày 02 tháng 3 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2005/NĐ-CP, “về việc thành lập phường thuộc các quận Hải Châu, Liên Chiểu và Ngũ Hành Sơn thuộc thành phố Đà Nẵng”. Theo đó, chia phường Hoà Cường thuộc quận Hải Châu thành phường Hoà Cường Nam và Hoà Cường Bắc; chia phường Hoà Thuận thuộc quận Hải Châu thành phường Hoà Thuận Đông và Hoà Thuận Tây; chia phường Hoà Hiệp thuộc quận Liên Chiểu thành phường Hoà Hiệp Nam và Hoà Hiệp Bắc; chia phường Hoà Khánh thuộc quận Liên Chiểu thành phường Hoà Khánh Nam và Hoà Khánh Bắc; chia phường Bắc Mỹ An thuộc quận Ngũ Hành Sơn thành phường Mỹ An và phường Khuê Mỹ.

Tiếp đó, ngày 05 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 102/2005/NĐ-CP, “về việc điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập phường, xã thuộc quận Thanh Khê và huyện Hoà Vang; thành lập quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”. Theo đó, thành lập phường Hoà Khê thuộc quận Thanh Khê trên cơ sở tách ra một phần của phường An Khê; chia phường Thanh Lộc

Page 11: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

11

Đán thuộc quận Thanh Khê thành hai phường Thanh Khê Đông và phường Thanh Khê Tây; thành lập xã Hoà An thuộc huyện Hoà Vang trên cơ sở một phần của xã Hoà Phát; chia xã Hoà Thọ thành hai xã Hoà Thọ Đông và Hoà Thọ Tây. Đồng thời, thành lập quận Cẩm Lệ trên cơ sở các xã Hoà Thọ Đông, Hoà Thọ Tây, Hoà Phát, Hoà An, Hoà Xuân thuộc huyện Hoà Vang và phường Khê Trung thuộc quận Hải Châu(1). Tính đến năm 2015, thành phố Đà Nẵng gồm có 8 quận, huyện; với 56 phường, xã(2).

Như vậy, quá trình biến đổi địa giới hành chính của thành phố Đà Nẵng từ năm 1975 đến năm 2015 trải qua hai thời kỳ chính. Thời kỳ thứ nhất - thành phố Đà Nẵng (cũ) trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1975-1996), trong đó có hai giai đoạn: Giai đoạn 3 quận (Quận I, Quận II, Quận III - từng là đơn vị hành chính cấp quận thuộc thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ trước năm 1975) trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (từ tháng 10 năm 1975 đến tháng 2 năm 1978); giai đoạn thành phố Đà Nẵng (được sáp nhập từ 3 quận I, II, II), với 28 phường trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (từ tháng 2 năm 1978 đến tháng hết tháng 12 năm 1996). Thời kỳ thứ hai - thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương (1997-2015), được hình thành từ ba đơn vị

(1) Hoà Thọ Đông, Hoà Thọ Tây, Hoà An, Hoà Phát, Hoà Xuân nâng lên thành các phường khi trực thuộc quận Cẩm Lệ.(2) Quận Hải Châu (13 phường): Bình Hiên, Nam Dương, Hoà Thuận Đông, Hoà Thuận Tây, Thuận Phước, Hoà Cường Nam, Hoà Cường Bắc, Thạch Thang, Bình Thuận, Hải Châu 1, Hải Châu 2, Phước Ninh, Thanh Bình; Quận Thanh Khê (10 phường): Tân Chính, Thanh Khê Đông, Thanh Khê Tây, Vĩnh Trung, Thạc Gián, Chính Gián, Tam Thuận, An Khê, Hoà Khê, Xuân Hà; Quận Sơn Trà (7 phường): An Hải Tây, An Hải Bắc, An Hải Đông, Nại Hiên Đông, Mân Thái, Phước Mỹ, Thọ Quang; Quận Ngũ Hành Sơn (4 phường): Hoà Hải, Hoà Quý, Mỹ An, Khuê Mỹ. Quận Liên Chiểu (5 phường): Hoà Minh, Hoà Khánh Nam, Hoà Khánh Bắc, Hoà Hiệp Nam, Hoà Hiệp Bắc; Quận Cẩm Lệ (6 phường): Hoà Phát, Hoà An, Hoà Thọ Đông, Hoà Thọ Tây, Khuê Trung, Hoà Xuân; Huyện Hoà Vang (11 xã): Hoà Phong, Hoà Khương, Hoà Phú, Hoà Liên, Hoà Phước, Hoà Bắc, Hoà Sơn, Hoà Ninh, Hoà Nhơn, Hoà Châu, Hoà Tiến; Huyện đảo Hoàng Sa.

Page 12: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

12

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

hành chính cấp huyện là thành phố Đà Nẵng (cũ), huyện Hoà Vang và huyện đảo Hoàng Sa.

Có thể thấy, thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương là một đơn vị hành chính có các đặc điểm: Vừa có khu vực đô thị được thành lập từ thời Pháp thuộc với hơn 100 năm tuổi; vừa có vùng nông thôn, miền núi, biển đảo, từng là hành lang, căn cứ trong chiến tranh bao vây khu vực đô thị, là một vành đai để phát triển khu vực đô thị Đà Nẵng ra các hướng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc kể từ sau năm 1975; vừa có huyện đảo Hoàng Sa - một đơn vị hành chính cấp huyện “duy nhất” trong cả nước còn bị Trung Quốc chiếm giữ toàn bộ một cách trái phép.

Đặc điểm lịch sử và địa lý hành chính trên, cũng là một yếu tố quan trọng trong việc phân chia các phần, chương, mục cho tập sách này thành hai phần, tương ứng với hai thời kỳ khác nhau: (1975-1996) và (1997-2015). Đặc điểm trên cũng quyết định, trong phần I của tập sách (thời kỳ 1975 - 1996) lấy thành phố Đà Nẵng cũ - một đô thị cấp II, là thủ phủ của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ làm không gian nghiên cứu chính; phần huyện Hòa Vang chỉ trình bày những phong trào, sự kiện chính yếu.

Page 13: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

Phần Một

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG THỜI KỲ TRỰC THUỘC TỈNH QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG

(1975 - 1996)

Page 14: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 15: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

15

Chương Một

NHANH CHÓNG ỔN ĐỊNH TÌNH HÌNH,GIỮ VỮNG AN NINH - CHÍNH TRỊ; KHẮC PHỤC

HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU GIẢI PHÓNG

(3/1975 - 12/1978)

I. GIỮ VỮNG AN NINH - CHÍNH TRỊ, THỰC HIỆN NHỮNG NHIỆM VỤ CẤP THIẾT NGAY SAU NGÀY GIẢI PHÓNG (29/3 - 30/4/1975)

Ngày 29 tháng 3 năm 1975, Đà Nẵng - thành phố lớn thứ hai ở miền Nam được giải phóng(1), đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Quảng Đà nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng.

Ngay trong buổi chiều cùng ngày, đồng chí Võ Chí Công - Bí thư Khu ủy Khu V, đồng chí Hồ Nghinh - Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy Khu V, đồng chí Trần Thận - Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà cùng với bộ phận tiền phương của Khu V và Đặc khu ủy Quảng Đà đã vào thành phố Đà Nẵng, làm việc tại ngôi nhà

(1) Như phần Dẫn Nhập đã đề cập, đến ngày 29 tháng 3 năm 1975, quần đảo Hoàng Sa - một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam vẫn bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép.

Page 16: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

16

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

số 245 đường Phan Châu Trinh, một cơ sở cách mạng trong nội thành để chỉ đạo phong trào.

Lúc 7 giờ, ngày 30 tháng 3 năm 1975, Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà chính thức làm việc tại Tòa Thị chính Đà Nẵng. Trên cơ sở đường lối của Đảng và nhiệm vụ cách mạng đang đặt ra, ngay trong ngày làm việc đầu tiên sau giải phóng, Ban Thường vụ Đặc khu ủy họp kiểm điểm tình hình, đánh giá thắng lợi và quyết định những công việc cấp bách để quản lý thành phố. Đặc khu ủy Quảng Đà đề ra nhiệm vụ của Đà Nẵng:

- Trước mắt là tiếp tục truy tróc, triệt hạ toàn bộ cơ sở, tổ chức địch, nhanh chóng ổn định an ninh trật tự, xóa bỏ mọi di tích, tư tưởng phản động, tàn dư xã hội cũ để lại.

- Liên tục phát huy thắng lợi, phát động tư tưởng quần chúng xây dựng chính quyền và lực lượng cách mạng.

Ngày 30 tháng 3 năm 1975, Ban Thường vụ Khu ủy V ra Quyết định chỉ định: Đồng chí Hồ Nghinh - Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy, làm Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà; đồng chí Trần Thận, làm Phó Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà. Cũng trong buổi sáng ngày 30 tháng 3 năm 1975, đồng chí Hồ Nghinh, thay mặt Ban Thường vụ Khu ủy Khu V làm việc với Ban lãnh đạo Ban khởi nghĩa Quảng Đà và công bố Quyết định thành lập Ủy ban Quân quản thành phố Đà Nẵng gồm 7 đồng chí, do đồng chí Hồ Nghinh - Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy Khu V, Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà làm Chủ tịch. Các đồng chí: Nguyễn Chánh - Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu V; đồng chí Trần Thận và đồng chí Phạm Đức Nam - Phó Bí thư Đặc Khu ủy Quảng Đà làm Phó Chủ tịch. Các đồng chí: Phan Hoan - Tư lệnh Mặt trận 4, Trần Hưng Thừa - Thường vụ Đặc Khu ủy, Bí thư Quận I, Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát làm Ủy viên.

Tiếp đó, ngày 01 tháng 4 năm 1975, Ủy ban Quân quản Quận I được thành lập do đồng chí Lê Công Thạnh - Đặc khu ủy viên, Phó Chính ủy Mặt trận 4 làm Chủ tịch; đồng chí Lê Văn Huấn, Nguyễn Ngọc Phỉ làm Phó Chủ tịch; đồng chí Hoàng Tư Nghĩa,

Page 17: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

17

Lê Thanh Vân và Trần Đích làm Ủy viên. Ngày 02 tháng 4 năm 1975, Ủy ban Quân quản quận II được thành lập do đồng chí Lê Trung Hoãn (Lê Quân) - Đặc khu ủy viên, Phó ban An ninh làm Chủ tịch; đồng chí Hồ Kỳ Mưu làm Phó Chủ tịch. Cùng ngày, Ủy ban Quân quản quận III được thành lập do đồng chí Hà Bân - Trung tá, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 97 làm Chủ tịch; đồng chí Lê Trọng Dư làm Phó Chủ tịch; các đồng chí Huỳnh Phước Thành, Võ Chí Thành, Bùi Hoanh làm Ủy viên. Lúc này, Ủy ban Quân quản Khu I, Khu II, Khu III - Hòa Vang cũng nhanh chóng được thành lập.

Tại phiên họp đầu tiên, Ủy ban Quân quản thành phố ra lệnh:

- Giải tán bộ máy ngụy quân, ngụy quyền và các đảng phái phản động các cấp.

- Thành lập Ủy ban Quân quản các quận, huyện và xã, phường.

- Ra lệnh giới nghiêm trong toàn thành phố từ 18 giờ tối đến 6 giờ sáng.

- Nhanh chóng thu nộp vũ khí, trang bị của địch (hoàn thành trong ngày 30 và 31 tháng 3 năm 1975).

- Tất cả sỹ quan, binh lính ngụy, nhân viên ngụy quyền, đảng phái phản động đều phải ra đăng ký trình diện từ ngày 31 tháng 3 năm 1975.

- Tuyên truyền chiến thắng Đà Nẵng và các chiến trường khác; tuyên truyền chính sách của cách mạng và nhiệm vụ của người dân.

- Tổ chức tổng vệ sinh đường phố và khu dân cư.- Giải tỏa số dân các nơi dồn vào thành phố về nơi ở cũ. Khôi

phục sản xuất và ổn định sinh hoạt của nhân dân.- Tổ chức các lực lượng vũ trang phá gỡ bom mìn chung

quanh các căn cứ Mỹ và nông thôn, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại, sản xuất.

Page 18: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

18

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

- Hỗ trợ sức người, sức của để tiến công giải phóng Sài Gòn.Ngày 02 tháng 4 năm 1975, đồng chí Võ Chí Công - Bí thư

Khu ủy Khu V đi kiểm tra tình hình các hoạt động của Ủy ban Quân quản tại Đà Nẵng. Đồng chí đã chỉ đạo chính quyền quân quản Đà Nẵng thực hiện những nhiệm vụ cấp bách: Tổ chức phòng thủ vững chắc, không được lơi lỏng nhiệm vụ trấn áp bọn phản cách mạng, thực hiện lệnh giới nghiêm từ 18 giờ tối đến 6 giờ sáng; nhanh chóng tổ chức mạng lưới nhân dân tự quản, thi hành tốt 10 chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng để mọi thành phần trong xã hội đều được yên tâm xây dựng cuộc sống mới; tăng cường cảnh giác cách mạng, đề phòng tư tưởng thỏa mãn, chủ quan; tăng cường hơn nữa khối đoàn kết quân dân để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.

Tiếp đó, ngày 07 tháng 4 năm 1975, Đặc khu ủy Quảng Đà quyết định tổ chức cuộc mít tinh lớn tại sân vận động Chi Lăng để chào mừng sự kiện trọng đại này. Về dự lễ mít tinh có đồng chí Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam, lãnh đạo Khu ủy Khu V, Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời miền Trung Trung Bộ, Quân khu V, các quân binh chủng chiến thắng trên chiến trường Quảng Đà, lãnh đạo Đảng và chính quyền Mặt trận Quảng Đà cùng với hơn 10 vạn đồng bào thuộc các quận, huyện của tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng. Sau lễ mít tinh là cuộc diễu hành, biểu dương lực lượng trên các đường phố, tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, mừng thắng lợi. Đây là cuộc mít tinh lớn đầu tiên, là sự kiện chính trị quan trọng sau ngày giải phóng tại thành phố Đà Nẵng. Cuộc mít tinh đã nêu cao tinh thần chiến thắng giải phóng Đà Nẵng và giải phóng miền Nam, qua đó biểu dương khí thế, tinh thần cách mạng, yêu chuộng hòa bình, tự do, độc lập của nhân dân trong tỉnh.

Thực hiện những biện pháp cấp bách đã đề ra, các cấp chính quyền được sự hỗ trợ của nhân dân đã nhanh chóng ổn định tình hình, giữ vững an ninh - chính trị. Lúc này, tình hình vùng nội ô

Page 19: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

19

Đà Nẵng còn diễn biến rất phức tạp: Theo số liệu báo cáo lúc bấy giờ cho biết, Đà Nẵng có trên 40 vạn dân của các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và các huyện phía nam cùng với gần 15 vạn ngụy quân, ngụy quyền(1). Chỉ tính tại Quận I, đã có trên 2 vạn binh lính và sỹ quan ngụy, nhân viên ngụy quyền, tuy chúng đã tan rã nhưng ta chưa nắm được; khoảng 35 vạn người trong diện di tản vào thành phố trong tháng 3 năm 1975 đang sống chen chúc nhiều nơi trong thành phố, nhiều người đang bị đói khát(2). Ở Hòa Vang, có trên 11.150 lính ngụy các loại, 561 phòng vệ dân sự, 897 cảnh sát, ngụy quyền, tề điệp ác ôn; 399 đảng viên Quốc dân đảng, 308 đảng viên Đại Việt, 4.306 đảng viên Dân Chủ, 20 đảng viên Công Nông.

Một bộ phận trong số đó có đầu óc phục thù giai cấp, âm mưu tập hợp lực lượng để chống phá chính quyền cách mạng, chúng phao tin “Việt Cộng về sẽ có cuộc báo thù tắm máu tại Đà Nẵng” nhằm tạo sự hoang mang, dao động trong nhân dân. Thêm vào đó, lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng, bọn ác ôn trong đám tàn binh địch cùng với số lưu manh đập phá, cướp bóc tài sản trong các công sở, kho tàng, các chợ và hiệu buôn. Một số người phá các kho chứa hàng nhu yếu phẩm của địch ở An Đồn (phường An Hải Bắc), kho hậu cần quân tiếp vụ (ngày nay là khu 387, phường Mỹ An) để vác gạo, đồ hộp, thuốc lá, vải, vở học... gây náo loạn thành phố.

Tuy nhiên, với niềm vui của ngày quê hương được giải phóng, nhờ những hoạt động tích cực của Ủy ban Quân quản các cấp, sự hỗ trợ nhiệt thành của các tầng lớp nhân dân, thành phố Đà Nẵng dần đi vào nền nếp. Ngày 29 và 30 tháng 3 năm 1975, lực lượng

(1) Theo số liệu điều tra vào tháng 9 năm 1975, Đà Nẵng có: 18.000 ngụy quân, 3.550 ngụy quyền, 3.276 đảng viên Đảng Dân chủ, 1.522 đảng viên Quốc Dân Đảng, 952 đảng viên Đại Việt và các đảng phái khác; trên 2.000 những phần tử trộm cắp, lừa đảo, xì ke, ma túy và các tệ nạn xã hội khác.

(2) Đảng bộ quận Hải Châu: Lịch sử đấu tranh cách mạng và xây dựng, phát triển quận Hải Châu (1930-2005), Nxb. Đà Nẵng, 2008, tr. 233.

Page 20: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

20

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

công nhân Nhà máy Đèn, Nhà máy Nước của Đà Nẵng vẫn duy trì nguồn điện và nước, phục vụ sinh hoạt của nhân dân.

Thực hiện chủ trương truy quét địch, trấn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn trật tự trị an, Ủy ban Quân quản thành phố Đà Nẵng và các cấp tiến hành thực hiện chủ trương: “Tách súng ra khỏi lính, tách lính ra khỏi sỹ quan”, “Tập trung sỹ quan (tướng tá ngụy), tập trung súng, giãn dân, chuẩn bị đánh Mỹ”. Ủy ban Quân quản thành phố dùng đài phát thanh ra lệnh và kêu gọi các sỹ quan, binh sĩ, ngụy quyền và các đảng phái ra trình diện, tại các địa điểm của Ủy ban Quân quản các quận - huyện, khu phố, phường - xã trong ngày 30 và 31 tháng 3 năm 1975; đồng thời tiến hành thu dọn quân trang, quân dụng của địch.

Việc thu dọn vũ khí, quân trang quân dụng của địch bỏ lại phải được ưu tiên hàng đầu, bởi nó vừa đảm bảo thủ tiêu sức kháng cự, chống đối của các nhóm tàn quân địch, vừa cung cấp thêm vũ khí phục vụ cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng thời để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ khác của Ủy ban Quân quản các cấp. Bởi vậy, chỉ trong 3 ngày đầu sau giải phóng, Đà Nẵng và Hòa Vang đã cơ bản hoàn thành việc tịch thu vũ khí và triệt hạ các nhóm chống đối lớn có xe tăng, xe bọc thép cuối cùng như nhóm tàn quân ở khu vực chân núi Sơn Trà vào ngày 02 tháng 4 năm 1975.

Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chính sách đối với tù hàng binh, ngụy quân, ngụy quyền và công tác đấu tranh chống phản cách mạng, thiết lập trật tự ở vùng giải phóng và sự chỉ đạo của Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà, Ủy ban Quân quản thông báo trên đài phát thanh yêu cầu ngụy quân, ngụy quyền, các đảng phái ra trình diện, phổ biến chính sách 10 điểm của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ủy ban Quân quản ra thông báo phát trên đài phát thanh, trên xe lưu động chính sách khoan hồng của Đảng và chính quyền cách mạng, yêu cầu ngụy quân, ngụy quyền, tình báo, cảnh sát, đảng phái ra trình diện và khai báo.

Page 21: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

21

Tại các điểm đăng ký ở các khu phố, phường, xã, quận huyện, ngụy quân, ngụy quyền kéo đến trình diện chính quyền cách mạng. Những đối tượng ra trình diện được cán bộ đối đãi tử tế theo chính sách khoan hồng của Đảng. Ủy ban Quân quản các cấp đã chỉ đạo các ban, ngành tập trung tận dụng mọi khả năng, bằng nhiều biện pháp, đặc biệt là biết dựa vào dân, nên công tác phân loại đăng ký các đối tượng được tiến hành nhanh chóng và thu được kết quả tốt.

Theo đó, tại Quảng Đà, trong đợt khai báo đầu tiên được tổ chức từ ngày 31 tháng 3 đến ngày 05 tháng 4 năm 1975, đã có 100.804 đối tượng ra trình diện. Cụ thể như sau: Ngụy quân: 73.715, trong đó có 5 đại tá, 41 trung tá, 174 thiếu tá, 712 đại úy, 572 trung úy, 613 chuẩn úy, 12.614 hạ sỹ quan, 58.984 lính. Ngụy quyền: 6.952, trong đó cấp trung ương có 1, Quân khu có 10, tỉnh có 191, quận - huyện có 543, xã - phường có 2.083, ấp - khóm có 4.002. Cảnh sát: 1.530, trong đó có 27 đại úy, 13 trung úy, 39 thiếu úy, 8 chuẩn úy, 197 hạ sỹ quan, 1.251 cảnh sát viên, trong đó có 187 cảnh sát đặc biệt (sỹ quan 102, cảnh sát viên 85). Các đảng phái phản động: 18.607, trong đó cấp Trung ương có 2, tỉnh có 1, quận - huyện có 22, phường - xã có 304 và 18.278 đảng viên.

Qua sơ kết rút kinh nghiệm đợt trình diện, khai báo lần thứ nhất cho thấy có một số sỹ quan ngụy, bọn cầm đầu ngụy quyền, số đồng bọn đầu sỏ ác ôn, đảng phái phản động, bọn cảnh sát đặc biệt, gián điệp chưa ra trình diện. Ta đã đề xuất với Ủy ban Quân quản ra lệnh gia hạn và tổ chức đăng ký đợt hai (từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 5 năm 1975). Kết quả đợt này có 26.777 đối tượng ra trình diện, được phân loại như sau: Ngụy quân: 24.350, trong đó có 2 đại tá, 11 trung tá, 41 thiếu tá, 170 đại úy, 83 trung úy, 178 thiếu úy, 56 chuẩn úy, 2.052 hạ sỹ quan và 21.157 lính. Ngụy quyền: 535, trong đó cấp tỉnh có 19, quận - huyện có 23, xã - phường có 127, ấp - khóm có 311 và 52 liên gia. Các đảng phái phản động: 1.713, trong đó cấp tỉnh có 1, quận - huyện có 11, xã - phường có 51 và 1.630 đảng viên. Cảnh sát: 176 (12 cảnh

Page 22: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

22

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

sát đặc biệt), có 7 thiếu úy, 2 chuẩn úy, 8 hạ sỹ quan, 56 cảnh sát viên. Các loại gián điệp: 3 cộng tác viên(1).

Một bộ phận khá đông ra trình diện còn có chân trong đảng phái phản động như Quốc Dân đảng, Đại Việt, Dân Chủ, Công Nông... Với chính sách khoan hồng và nhân đạo của Đảng và Nhà nước, trên thực tế của Đặc khu Quảng Đà nói chung, Đà Nẵng nói riêng đã không diễn ra sự trả thù theo kiểu “dùng máu để rửa hận” như luận điệu chiến tranh tâm lý của Mỹ - ngụy tuyên truyền trước khi ta giải phóng Đà Nẵng.

Trên cơ sở kê khai, cán bộ chính quyền cách mạng tiến hành phân loại và chuyển cho Quân khu quản lý cải tạo đối với những cán bộ trung cao cấp của ngụy quyền còn sót lại; đối với nhân viên ngụy quyền, cảnh sát và đảng phái giao an ninh quản lý cải tạo; riêng hạ sỹ quan, nhân viên ngụy quyền cấp quận, xã giao cho các quận, huyện quản lý giáo dục cải tạo. Đối với sỹ quan ngụy, phần đông những người ra trình diện được tổ chức học tập đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong vòng 15 ngày. Tuy là số ít nhưng cũng có đến 4.000 sỹ quan ngụy trong diện cải tạo dài hạn do các cấp Đặc khu Quảng Đà và Trung ương quản lý(2). Đối với binh lính, nhân viên ngụy quyền ở cơ sở không có nợ

(1) Công an thành phố Đà Nẵng: Công an nhân dân thành phố Đà Nẵng - Lịch sử biên niên (1975 - 1996), Lưu hành nội bộ, Đà Nẵng, 2003, tr. 15-16. (2) Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số đối tượng trước đó chạy vào Sài Gòn và các nơi, nay trở về và ra trình diện. Đối với số trình diện đợt này, ta có phân biệt đối xử khác hơn là sau khi đến khai báo, chỉ bắt giữ những đối tượng cầm đầu các tổ chức đảng phái phản động, ngụy quân, ngụy quyền từ cấp quận trở lên, ngụy quân từ cấp đại úy trở lên, sỹ quan cảnh sát đặc biệt và những phần tử ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân. Kết quả đợt này có 4.646 đối tượng, phân loại như sau: Ngụy quân: 3.803, trong đó có 3 trung tá, 5 thiếu tá, 7 đại úy, 33 trung úy, 3.755 lính; Ngụy quyền: 564, trong đó cấp quận có 239, xã - phường có 325. Các đảng phái phản động: 62, trong đó cấp quận có 5 và 57 đảng viên. Cảnh sát: 217, trong đó có 4 trung úy, 12 thiếu úy, 17 hạ sỹ quan, 124 cảnh sát viên. Tổng số cả 3 đợt trình diện là: 132.321 đối tượng. Đại bộ phận ngụy quân, ngụy quyền, nhất là ngụy quyền phường, xã, ấp đã ra trình diện, còn bọn cảnh sát đặc biệt, bọn CIA, biệt đội sưu tầm, bọn

Page 23: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

23

máu giao cho chính quyền xã, phường tổ chức học tập cải tạo tại chỗ. Một bộ phận những nhân viên chế độ cũ được tuyển dụng lại và tiếp tục làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp, được tham gia đóng góp xây dựng quê hương sau giải phóng, trong đó được sử dụng nhiều nhất là công chức và nhân viên kỹ thuật.

Theo đề xuất của Ban Binh vận, Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà quyết định thành lập Ban Giám đốc Trung tâm cải tạo giáo dục với 2 điểm tập trung là Trung tâm huấn luyện ở Hòa Cầm và quận lỵ Điện Bàn (cũ). Ban Giám đốc Trung tâm cải tạo gồm có các đồng chí: Nguyễn Quang Thái - Trưởng ban Binh địch vận Quảng Đà trực tiếp làm Giám đốc, đồng chí Lê Đình Thông - Phó Giám đốc trực tiếp phụ trách khu quận ly Điện Bàn, đồng chí Nguyễn Tấn Hiệp - Bí thư Đảng ủy ngành, Phó Giám đốc phụ trách văn phòng hành chính, đồng chí Nguyễn Thanh Năm (tức Năm Dừa) - Phó Giám đốc phụ trách công tác bảo vệ và hậu cần. Thường vụ Đặc khu ủy phân công đồng chí Hồng Quang - Ủy viên Thường vụ Đặc khu ủy trực tiếp cùng với Ban Giám đốc để kịp thời giải quyết các công việc ăn ở hằng ngày. Đồng thời, mời đồng chí Phan Văn Trình - Ủy viên Khu ủy V, Trưởng ban Binh vận Khu V, tham gia chỉ đạo về nội dung tuyên truyền giáo dục cùng với 2 đồng chí cán bộ Cục Địch vận của Bộ Quốc phòng tham gia hỗ trợ công tác này(1).

Sau khi phân loại và tổ chức học tập đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, với chính sách khoan hồng, lấy chính nghĩa để thuyết phục, lấy nhân nghĩa để cảm hóa, lấy khoan hồng đối xử, họ nhận ra tội lỗi và hiểu rõ đường lối chính sách khoan hồng của cách mạng. Những người học tập, cải tạo tốt đều được khôi

gián điệp ngụy, số mật báo viên của các tổ chức gián điệp ra trình diện còn ít. Trong số chưa ra khai báo, trình diện có số đã chạy vào Sài Gòn, hoặc đổi vùng, đổi tên lẩn trốn, có số đã chết khi ta tấn công hoặc bị đắm tàu khi chạy ra biển để vào Sài Gòn.(1) Ban Liên lạc ngành Binh vận Quảng Đà: Cuộc chiến trong lòng địch, Sở Thông tin - Truyền thông thành phố Đà Nẵng, 2009, tr. 98-99.

Page 24: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

24

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

phục quyền công dân, trở về sum họp gia đình, tự do làm ăn sinh sống. Nhờ chính sách khoan hồng, nhân đạo, hòa hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước, anh em binh lính, những người từng tham gia trong chế độ cũ đều phấn khởi và yên tâm làm ăn sinh sống, số được tập trung cải tạo cũng yên tâm khi biết gia đình và vợ con của mình được chính quyền cách mạng đối xử tử tế, được cứu đói, cứu trợ và tạo công ăn việc làm... Chính sách khoan hồng thể hiện truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao đời nay.

Cùng với đó, các đơn vị Quân khu V, Tỉnh đội được bố trí tăng cường bảo vệ canh giữ cơ quan Quân khu V, tỉnh, thành phố, quận, huyện. Các địa bàn xung yếu thành phố như sân bay, hải cảng, bến tàu xe, các tuyến ven biển Xương Bình, Thiệu Bình (Quận I)(1), Nam Thọ(2), Mỹ Khê, An Thượng (Quận III), Hòa Hải (Hòa Vang) được tăng cường lực lượng bảo vệ, thường xuyên tuần tra canh gác nhằm giữ vững an ninh, trật tự, tiếp tục truy quét bọn phản động còn lẩn trốn, chưa ra trình diện.

Thực hiện chủ trương “lấy tan rã làm tiêu diệt” trong việc tấn công giải phóng Đà Nẵng để tránh diễn ra cuộc “tắm máu” như địch đã tuyên bố; đồng thời nhằm “bảo vệ nguyên vẹn thành phố, bảo vệ tài sản, tính mạng của dân, có kế hoạch tiếp tế, cứu trợ không để dân đói”(3) nên ta tiếp quản Đà Nẵng hầu như nguyên vẹn. Vì lẽ đó, khi Đà Nẵng được giải phóng, người dân tại đây đã phát biểu: “Cách mạng giỏi quá, đánh Đà Nẵng, lấy Đà Nẵng mà không rụng một lá tre, không bể một bóng đèn!”.

(1) Xương Bình, Thiệu Bình là hai phường thuộc Quận I (Đà Nẵng) trước năm 1975 theo cách gọi của chính quyền Sài Gòn, tương ứng với phường Thuận Phước, Thanh Bình (quận Hải Châu ngày nay).(2) Nam Thọ là một phường thuộc Quận III (Đà Nẵng) trước 1975 theo cách gọi của chính quyền Sài Gòn, tương ứng với phường Thọ Quang (quận Sơn Trà ngày nay).(3) Trần Thận: “Từ Hiệp định Paris đến giải phóng Đà Nẵng (27/01/1973-29/3/1975)”, Trên quê hương trung dũng, Nxb. Thanh niên, 2000, tr. 78.

Page 25: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

25

Ngay sau khi tiếp quản Đà Nẵng, một nhiệm vụ quan trọng khác của Ủy ban Quân quản các cấp là tiếp quản, bảo vệ các kho tàng, công sở của chính quyền cũ để lại. Đây là một nhiệm vụ cấp thiết để ổn định đời sống nhân dân, tránh kẻ xấu lợi dụng, gây thất thoát tài sản và thực hiện tốt công tác cứu đói. Chỉ trong thời gian ngắn, các cơ quan của chính quyền cách mạng đã tiếp quản Đài Phát thanh, các công sở, kho tàng, sân bay, doanh trại, bến cảng, nhà máy điện, nhà máy nước, ngân hàng, bệnh viện, trường học. Trên thực tế, trong thời điểm địch bỏ chạy hỗn loạn, ta tiến vào giải phóng thành phố, lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng, cũng đã xảy ra một số hiện tượng cướp phá một số nơi. Ở quận II, có kho lương thực lớn của địch để lại, gọi là kho An Toàn (nay thuộc công viên 29-3), khi ta vào giải phóng thành phố, một số người xông vào cướp phá nhưng lực lượng vũ trang tại chỗ kịp thời ngăn chặn, bảo vệ tốt, 3 ngày sau bàn giao cho Ủy ban Quân quản. Số lượng gạo trong kho An Toàn còn rất nhiều, Đặc khu ủy Quảng Đà dùng số gạo đó cứu trợ những người đói và thiếu ăn.

Đi đôi với tiếp quản, lực lượng ta tiến hành vận động giao nộp vũ khí, tiến hành kiểm kê quản lý cơ sở vật chất, kỹ thuật thu được của địch như súng đạn, xe tăng, xe máy... Tính từ ngày 29 tháng 3 đến ngày 20 tháng 8 năm 1975, tại thành phố Đà Nẵng ta đã thu gom được 50.383 khẩu súng các loại, 12.000 tấn đạn các loại(1). Ta cũng tiến hành tịch thu, trưng mua một số mặt hàng cấm theo quy định của Nhà nước, kiểm kê tài sản giao cho các cơ quan quản lý, nhờ đó tránh được sự thất thoát tài sản, hàng hóa.

Hơn nữa để bảo vệ tài sản công, Ủy ban Quân quản huy động các chiến sĩ công an, an ninh ngày đêm lăn lộn trong nhân dân, điều tra khám phá các vụ trộm cắp tài sản công(2) và tài sản

(1) Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Đà Nẵng: Biên niên sự kiện Lực lượng vũ trang thành phố Đà Nẵng (1975 -2005), Nxb. Đà Nẵng, 2006, tr. 22. (2) Lợi dụng lúc ta đang tiến công giải phóng Đà Nẵng, các thành phần bất hảo đã đập phá két bạc, tại ngân hàng số 1 (đường Yên Bái), Ủy ban Quân quản Đà Nẵng đã phát hiện và canh giữ kho bạc này kịp thời.

Page 26: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

26

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

công dân, thu hồi trả lại dân nhiều tiền bạc, tài sản, phương tiện giao thông, bắt các đối tượng cướp giật có vũ trang, mở những đợt truy quét các tệ nạn xã hội như xì ke, ma túy, tội phạm. Chính quyền cách mạng mở những phiên tòa công khai để xét xử những tên gây nhiều tội ác với nhân dân, kịp thời răn đe bọn tội phạm, giữ yên cuộc sống nhân dân. Đồng thời, cũng đã đưa đi cải tạo những tên trộm cướp, nghiện xì ke, ma túy, mại dâm; ngăn chặn và phá nhiều vụ tổ chức vượt biên trái phép, những cố gắng trên của chính quyền cách mạng các cấp đã góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở Đà Nẵng trong những ngày đầu mới giải phóng.

Ủy ban Quân quản thành phố Đà Nẵng tuyên bố xóa bỏ chính quyền ngụy các cấp, giải tán các tổ chức đảng phái phản động, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng các phường, khóm; ban hành lệnh giới nghiêm từ 18 giờ đến 6 giờ sáng. Quân dân Đà Nẵng đã thực hiện tốt nhiệm vụ truy quét địch, bọn ác ôn phản cách mạng phá hoại cuộc sống nhân dân, giữ gìn trật tự trị an trong những này đầu giải phóng bằng nhiều biện pháp, đặc biệt là dựa vào dân để nắm từng địa bàn, từng đối tượng nên đã thu được nhiều kết quả. Nhờ đó, các đơn vị đã ngăn chặn được phản ứng gây rối lớn, bọn phản động bị phân hóa và cô lập trước quần chúng.

Để đảm bảo cuộc sống cho người dân, lực lượng an ninh và vũ trang phối hợp tuần tra, kiểm soát truy lùng bọn ác ôn trốn không ra trình diện, trấn áp bọn lưu manh gây rối trật tự, bảo vệ tính mạng, tài sản nhân dân và Nhà nước. Lực lượng vũ trang được tăng cường thêm lực lượng, phân công đóng giữ các địa điểm trọng yếu trong thành phố.

Các đơn vị bộ đội được phân tán từng tổ về ở trong từng nhà dân. Các chiến sĩ thực hiện “3 cùng” cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân để nắm tình hình, kịp thời phát hiện dập tắt các âm mưu bạo loạn và gây rối của các thế lực thù địch, bảo vệ cuộc sống nhân dân. Các lực lượng đã nhanh chóng tiến công những

Page 27: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

27

đám tàn binh địch còn trụ lại chưa chịu ra đầu hàng; trấn áp và triệt phá kịp thời những âm mưu của một số phần tử đội lốt tôn giáo hòng tranh giành thành quả của cách mạng ở một số địa bàn trong những ngày đầu giải phóng Đà Nẵng. Tổ chức truy quét tàn binh địch, thu gom súng, đạn dược tàng trữ, cất giấu trong các nhà thờ, chùa và trong nhà dân.

Ngày 03 tháng 4 năm 1975, chính quyền thành phố phối hợp với các tổ chức đoàn thể nhân dân ra quân lập lại trị an trên đường phố. Mọi sinh hoạt bình thường được nhanh chóng khôi phục. Trường học đón học sinh trở lại, nhà thương tiếp tục nhận bệnh nhân; các chợ, hàng quán mở cửa buôn bán; nhà hát, rạp chiếu phim hoạt động trở lại, cảng Đà Nẵng đón tàu vào ra. Cũng trong ngày này, Ủy ban Quân quản thành phố Đà Nẵng phát động nhân dân trở lại sản xuất, mở cửa hàng buôn bán.

Trước tình hình thiếu đói nghiêm trọng trong dân những ngày đầu quê hương được giải phóng, đồng chí Hồ Nghinh đã ra lệnh xuất gạo thu được của địch trong các kho để cứu tế, cứu đói cho dân với tinh thần không được phân biệt tầng lớp, giai cấp hay đối tượng nào. Dù họ là cán bộ, đảng viên, cơ sở quần chúng cách mạng hay gia đình và bản thân các binh lính, sỹ quan của chế độ cũ, hễ đói kém thì đều được cứu. Sau đợt này, chính quyền cách mạng đã “xuất hơn 400 tấn gạo cứu tế, 240 tấn gạo cứu đói, bán chịu 1.500 tấn cho dân”(1). Chính chủ trương linh hoạt, kịp thời, giàu lòng nhân ái, bao dung đó đã góp phần nhanh chóng ổn định tình hình Đà Nẵng, khẳng định tinh thần bao dung, khoan hồng, đoàn kết của Đảng, được nhân dân rất đồng tình ủng hộ.

Những ngày đầu giải phóng, hàng vạn người che lều, trại ở tạm dọc hai bên các trục đường, trong bến tàu, xe trên địa bàn thành phố, không nơi nương tựa, cuộc sống vô cùng khó

(1) Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng: Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng qua các thời kỳ (1930-2005), Nxb. Đà Nẵng, 2005, tr.124.

Page 28: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

28

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

khăn, thiếu thốn, Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà cũng đã chủ trương và tổ chức chỉ đạo đưa hàng chục vạn dân từ các nơi đổ về sinh sống ở nội ô Đà Nẵng, dân tản cư chủ yếu là các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và các huyện trong tỉnh về lại quê cũ. Thực hiện sự chỉ đạo của Thường vụ, lãnh đạo các Quận I, II và III của Đà Nẵng tiến hành điều tra cụ thể, đề xuất cấp trên huy động xe, xuất xăng dầu, hỗ trợ tiền... để đưa bà con về quê cũ. Theo thống kê thì đến tháng 4 năm 1975, ta đã vận động hồi cư hơn 600.000 người(1).

Sau khi thực hiện chính sách giãn dân, vận động nhân dân về quê hương làm ăn, đến đầu năm 1976 dân số Đà Nẵng có 331.185 người(2). Như vậy, trong một thời gian rất ngắn, Đà Nẵng đã đưa hàng vạn người trở về nguyên quán, một việc làm đạt 2 ý nghĩa lớn: Vừa giảm bớt áp lực dân số lên thành phố, vừa tăng lực lượng lao động, khôi phục sản xuất nông nghiệp vốn đã bị kiệt quệ do chiến tranh tại các tỉnh bạn và các huyện phía nam của tỉnh, đây là một thắng lợi lớn của chính quyền cách mạng lúc bấy giờ.

Cùng với việc triển khai những nhiệm vụ cấp bách trên, thực hiện chủ trương của Trung ương, Đặc khu ủy Quảng Đà tập trung vào nhiệm vụ điều động lực lượng, huy động lương thực, thực phẩm phục vụ cho chiến dịch Hồ Chí Minh, theo tinh thần “Sài Gòn chưa giải phóng, Đà Nẵng chưa yên”.

Từ những chiến lợi phẩm thu được của địch, Đà Nẵng và Hòa Vang có thêm nguồn phương tiện chiến tranh trong việc chi viện cho chiến dịch Hồ Chí Minh. “Giải phóng Đà Nẵng, ta thu được 109 khẩu pháo, 138 xe tăng và xe bọc thép, 115 máy bay, 47 tàu thủy. Ủy ban Quân quản các cấp đã thu gom tất cả những chiến lợi phẩm nói trên để chuyển vào giải phóng Sài Gòn. Từng đoàn xe lũ lượt nối đuôi nhau chạy hối hả trên quốc lộ 1A để vào

(1) Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng (2005): sđd, tr. 124.(2) Cục Thống kê Đà Nẵng: Số liệu 10 năm sau ngày thành phố Đà Nẵng giải phóng (1975-1980). Tài liệu lưu tại Chi cục Thống kê thành phố Đà Nẵng.

Page 29: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

29

Nam”(1). Khi tiến công giải phóng Đà Nẵng, ta thu được hàng chục máy bay của địch tại sân bay Đà Nẵng song việc sử dụng được số máy bay (đặc biệt là máy bay A37) trên để phục vụ cho tiến công giải phóng Sài Gòn là một yêu cầu bức thiết lúc bấy giờ của Khu ủy Khu V. Đồng chí Nguyễn Quang Thái - Trưởng ban Binh địch vận Quảng Đà sau này nhớ lại: “Ngày 04 tháng 4 năm 1975, tôi nhận được lệnh cấp trên, xét chọn ra 3 sỹ quan lái máy bay A37 của ngụy để giao về trên. Chính 3 người này về sau đã hướng dẫn các đồng chí bộ đội lái máy bay của ta sử dụng máy bay A37 của Mỹ ném bom vào các mục tiêu quân sự quanh Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử”(2). Bên cạnh đó, Đặc khu ủy Quảng Đà còn kêu gọi thanh niên lên đường nhập ngũ, “tiến về Sài Gòn”, hàng ngàn người con quê hương xứ Quảng ra đi tham gia giải phóng Sài Gòn trong những ngày ấy.

Trong khí thế hừng hực cách mạng của những ngày tháng 3 lịch sử ấy, hàng chục ngàn người dân thành phố Đà Nẵng, tay cầm cờ, hoa đứng dọc hai bên đường quốc lộ 1A, từ Ngã ba Huế vào đến Hòa Cầm để vẫy chào các binh đoàn bộ đội tiến về Nam. Bà con còn quyên góp gạo, tổ chức nấu cơm phục vụ cho bộ đội trên đường “Nam tiến” dừng chân nghỉ tại Đà Nẵng.

Đặc khu ủy Quảng Đà đã huy động 200 xe của các đơn vị, tư nhân chở bộ đội, lương thực thực phẩm tiến vào Nam, lần lượt hết đoàn này đến đoàn khác. Đặc biệt, hàng chục hãng xe tư nhân, nhất là hãng Phi Long - Tiến Lực đã tự nguyện điều động hàng ngàn lượt xe đưa bộ đội vào Nam chiến đấu, có lúc các xe khách này được lệnh chuyển 18.200 quân giải phóng vào giải phóng Sài Gòn. Lúc này, ngoài 800 xe đã có, ta còn vận động 13 chiếc xe loại 52 chỗ ngồi ở các tỉnh khác vào thành phố lấy xăng dầu, tham gia chuyển quân. Bà con thành phố còn cung cấp hàng ngàn tấn xăng dầu, phục vụ các đoàn xe này.

(1) Ban Liên lạc Binh địch vận Quảng Đà: Cuộc chiến trong lòng địch, Nxb. Đà Nẵng, 2012, tr. 24.(2) Ban Liên lạc Binh địch vận Quảng Đà: sđd, 2012, tr. 147.

Page 30: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

30

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Sự đóng góp sức người, sức của của nhân dân Quảng Đà nói chung, Đà Nẵng nói riêng đã góp phần thiết thực tạo nên chiến thắng tại Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975(1). Đúng như đồng chí Lê Duẩn từng nhận định: “Tấn công và nổi dậy giải phóng thành phố Đà Nẵng là tiến hành sớm hơn ngoài kế hoạch, có ý nghĩa quyết định sự sụp đổ quân ngụy ở cả miền Nam”. Đến lượt mình, Đà Nẵng lại có tác động một cách mạnh mẽ trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Như vậy, chỉ trong vòng một tháng, từ sau khi thành phố Đà Nẵng được giải phóng đến khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đặc khu ủy Quảng Đà và nhân dân toàn Khu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Ủy ban Quân quản Đà Nẵng, Hòa Vang đã nhanh chóng tổ chức thu hồi vũ khí, kêu gọi quân địch trình diện, phân loại, cải tạo; nhanh chóng triển khai nhiệm vụ tiếp thu, quản lý tài sản địch bỏ chạy, tiếp thu tài sản, kho tàng của địch và những phần tử bỏ chạy vào Sài Gòn và ra nước ngoài; ra lệnh giới nghiêm, bắt ác ôn và trấn áp những phần tử phản cách mạng; tiếp tục động viên sức người, sức của phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; tuyên truyền về thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; tổng vệ sinh các đường phố, các trại tị nạn, khu dân cư; đưa dân bị dồn trong thành phố, thị trấn về lại quê cũ làm ăn, trợ cấp những gia đình khó khăn, khôi phục lại sản xuất; bước đầu tiến hành phá gỡ bom mìn chung quanh các căn cứ Mỹ và một số vùng ở nông thôn, tạo điều kiện cho

(1) Sau khi Sài Gòn được giải phóng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tổ chức mở Hội mừng đại thắng trong cả nước trong 3 ngày (từ 15 đến ngày 17 tháng 5 năm 1975). Tại Đà Nẵng, ngày 15 tháng 5 năm 1975, hàng chục ngàn người dân thành phố hân hoan tham gia tổ chức lễ mừng miền Nam được giải phóng.

Page 31: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

31

nhân dân đi lại, sản xuất(1); nhanh chóng thiết lập hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể từ quận, huyện cho đến cơ sở. Đó là thời gian có tính quyết định, đặt nền móng cho công cuộc xây dựng, phát triển quê hương sau này của Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng.

Từ ngày quê hương được giải phóng, được sống trong độc lập, tự do, không còn chiến tranh, thoát khỏi cảnh “cá chậu chim lồng”, nhân dân Quảng Đà nói chung, Đà Nẵng nói riêng như được tiếp thêm sức mạnh. Chính tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm “Trung dũng đi đầu diệt Mỹ” trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, cùng với khí thế cách mạng “muôn lòng nở hoa”, đã biến thành một nguồn cổ vũ tinh thần mạnh mẽ, để cán bộ và nhân dân Đà Nẵng tham gia trực tiếp vào việc giữ vững an ninh chính trị, khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới, là tiền đề để Đặc khu ủy Quảng Đà tiến hành hàng loạt những nhiệm vụ cần kíp sau:

Cùng với việc ổn định an ninh - chính trị, Đặc khu ủy Quảng Đà còn tập trung xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp. Tuy nhiên, hệ thống tổ chức bộ máy đảng, chính quyền, đoàn thể mới được hình thành, đội ngũ cán bộ còn thiếu rất nhiều. Tại các quận thuộc thành phố Đà Nẵng lãnh đạo chủ chốt của Quận ủy như sau: Quận I do đồng chí Trần Hưng Thừa làm Bí thư, Quận II do đồng chí Nguyễn Thanh Hùng làm Bí thư, Quận III do đồng chí Đặng Phước Trung làm Bí thư, một tháng sau, đồng chí Đặng Phước Trung ra Bắc chữa bệnh, đồng chí Lê Trọng Dư được đề cử thay làm Bí thư Quận III. Tại Đảng bộ Hòa Vang, đồng chí Nguyễn Tám làm Bí thư Huyện ủy. Về lực lượng cán bộ tham gia vào bộ máy chính quyền tại thành phố Đà Nẵng và Hòa Vang, tính đến ngày 20 tháng 5 năm 1975, thì: Quận I có 181 cán bộ, Quận II có 64 cán bộ, Quận III có 150 cán bộ, huyện

(1) Riêng khu vực từ Sân bay Đà Nẵng đến Đò Xu, chỉ trong một tháng, Quận I đã gỡ được hơn 3.000 bom mìn các loại.

Page 32: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

32

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Hòa Vang có 175 cán bộ. Theo thống kê, tính đến tháng 10 năm 1975, toàn thành phố Đà Nẵng có 150.000 người là công nhân, viên chức, người lao động(1). Chính lực lượng đông đảo đó đã tham gia tích cực vào các công sở, nghiệp đoàn, đơn vị sản xuất... góp phần ổn định tình hình, thúc đẩy phục hồi sản xuất và giữ vững an ninh - chính trị tại Đà Nẵng.

Về công tác xây dựng Đảng, trong chiến tranh, tổ chức Đảng cơ sở được hình thành theo đơn vị chiến đấu và công tác. Nhiều xã, thôn chưa có hoặc có ít đảng viên, tổ chức Đảng có nơi chưa được hình thành. Một số xã, phường chi bộ Đảng hoạt động dưới hình thức đội công tác. Trước ngày giải phóng Đà Nẵng, Quảng Đà có 167 đơn vị cơ sở Đảng ở xã; ở thành phố Đà Nẵng chỉ có 2 chi bộ phường, toàn tỉnh còn đến 27 xã, 81 phường chưa có chi bộ và đảng viên. Sau ngày giải phóng, do yêu cầu tiếp quản và xây dựng chính quyền cơ sở, truy quét địch, ổn định trật tự trị an, ổn định đời sống quần chúng... Đảng bộ Quảng Đà đã điều động hàng nghìn đảng viên từ các vùng nông thôn, các cơ quan tỉnh, huyện để bổ sung về xã, phường thành lập tổ chức cơ sở Đảng ở những nơi trước đây chưa có chi bộ và đảng viên(2). Tổ chức Đảng ở các công ty, xí nghiệp, nông lâm trường, trường học, bệnh viện... được nhanh chóng hình thành, nhiều nơi có số lượng đảng viên đông, trong 145 đảng bộ cơ sở thì có 16 đơn vị có số đảng viên từ 100 đến 500 đồng chí.

Tính đến cuối năm 1974, Quảng Đà có 11.127 đảng viên. Đến tháng 6 năm 1975, cả Đảng bộ tỉnh có 22.340 đảng viên, so với tổng số nhân dân trong tỉnh, tỷ lệ đảng viên chiếm 1,5%. Ở

(1) Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: “Dự thảo báo cáo công tác vận động công nhân, lao động từ ngày 29 tháng 3 đến tháng 10 năm 1975”. Tài liệu lưu tại Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng.(2) Tính từ khi giải phóng Đà Nẵng đến ngày 30 tháng 6 năm 1975, cùng với việc sắp xếp lại xã, thôn, hợp nhất huyện, tỉnh, phát triển bộ máy các cấp các ngành, cán bộ, đảng viên được bổ sung về cho Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng là trên 10.000 đồng chí. Toàn tỉnh có 178 xã, 31 phường, 1.025 thôn, 134 khối phố. Tổ chức cơ sở Đảng có 35 đơn vị gồm 145 đảng bộ và 390 chi bộ cơ sở.

Page 33: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

33

cơ sở xã, phường có 7.718 đồng chí, trong đó số đảng viên hưu trí, phục viên có 3.066 đồng chí, ở các cơ quan hành chính và các ngành doanh nghiệp, sự nghiệp có 11.449 đồng chí; các lực lượng vũ trang 1.729 đồng chí; các cơ quan Trung ương trực thuộc sinh hoạt ở địa phương có 1.334 đồng chí(1).

Qua từng bước kiện toàn các ban, ngành, đoàn thể hệ thống chính trị tại Đà Nẵng nói riêng và Quảng Đà nói chung đã đảm bảo tốt nhiệm vụ ổn định về mặt tổ chức từ trên xuống dưới, đảm bảo sự hoạt động thông suốt. Nhiều ngành được bổ sung cán bộ gần đủ biên chế, nhiều nơi bộ máy lãnh đạo được kiện toàn. Hoạt động của các ban, ngành đã có nhiều chuyển biến mới, tỏ ra có nhiều cố gắng lớn, nhất là trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế đạt những kết quả đầu tiên, mặc dù có số ban, ngành bộ máy lãnh đạo chưa được ổn định, nhưng nhờ phát huy tính tập thể nên hoạt động cũng được tốt(2).

Về kinh tế, Đà Nẵng là thành phố tiêu thụ và làm dịch vụ phục vụ bộ máy quân sự đồ sộ của Mỹ - ngụy trong thời gian dài nên ít được chú trọng việc phát triển sản xuất, với trên 6.000 hộ kinh doanh về thương nghiệp, trong đó có số vốn 5 triệu(3) trở lên có hơn 1.000 hộ. Ngành công nghiệp bé nhỏ, lệ thuộc nước ngoài, máy móc thiết bị cũ kỹ, hư hỏng, thiếu phụ tùng thay thế, thu hút ít lao động, chủ yếu ngành công nghiệp phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và hàng công nghệ phẩm yếu kém, ngành công nghiệp cơ khí trang bị kém và phân tán nhỏ ở các tư nhân. Ngành nông

(1) Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo một số nét tình hình về công tác xây dựng Đảng từ sau ngày giải phóng đến nay (01/4/1975-30/6/1977)”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng. (2) Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng: tlđd.(3) Đầu năm 1975, do khủng hoảng kinh tế, lạm phát và Mỹ cắt giảm viện trợ, nên tỉ giá chính thức 1 USD = 700 đồng Sài Gòn cũ (năm 1966: 1 USD = 80 đồng). Hộ kinh doanh có số vốn 5 triệu đồng tương đương với 7.143 USD; tính theo tỉ giá USD năm 2010 là 19.842 USD, khoảng 400 triệu Việt Nam đồng hiện nay.

Page 34: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

34

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

nghiệp phát triển kém, đất sản xuất bị thu hẹp, bị chiếm dụng làm khu phi quân sự, sân bay, khu chung cư cho người tị nạn. Đất nông nghiệp tại các vùng ven đô bị hoang hóa, nhiều bom mìn, ruộng đồng bị bom đạn Mỹ cày xới, hệ thống thủy lợi gần như bị địch phá hoại hoàn toàn; nhiều làng quê xơ xác, cây cối tiêu điều. Nhìn chung, kinh tế Đà Nẵng trước ngày giải phóng mất cân đối, sản xuất nhỏ, hầu hết là hàng tiêu dùng, phần lớn lương thực phải đưa từ Sài Gòn ra hoặc phải nhập khẩu.

Tại Hòa Vang, vùng phụ cận quan trọng của Đà Nẵng, thì hậu quả của chiến tranh càng nặng nề hơn: Hơn một nửa xóm làng bị hủy diệt, điêu tàn, đổ nát; người nông dân thiếu tư liệu sản xuất, đất đai bỏ hoang, đầy rẫy bom mìn… Phần lớn nông dân thiếu ruộng cày, 2/3 đất nông nghiệp bị hoang hóa. Các công trình phục vụ sản xuất hầu như không có gì. Tổng sản lượng lương thực toàn huyện chỉ có 2 vạn tấn. Gần một vạn lao động không có việc làm. Các ngành nghề truyền thống bị mai một, cả huyện chỉ có 9-10 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp làm ra giá trị tổng sản lượng 2,7 triệu đồng. Về ngư nghiệp, phương tiện đánh bắt lạc hậu, thuyền nhỏ, phần lớn dưới 12 mã lực, thiếu nhiên liệu, không có phụ tùng thay thế.

Khắc phục tình hình trên, ngay sau giải phóng, dưới sự chỉ đạo của Đặc khu ủy Quảng Đà, người dân và các cấp chính quyền Đà Nẵng đã từng bước hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất. Nhiều cơ sở, nhà máy, xí nghiệp mở cửa hoạt động trở lại như: Nhà máy Dệt Hòa Thọ, Công ty Điện, Công ty Cấp thoát nước, Xí nghiệp Nhôm, Công ty Phân bón Quảng Đà, các cơ sở ướp đông, chế biến cá mắm… thu hút hàng vạn công nhân trên địa bàn thành phố trở lại sản xuất. Các gara sửa chữa ô tô, máy thủy, cơ sở sản xuất hàng mộc, hàng nhôm nhựa, dân dụng, cơ sở ép dầu, cơ sở sản xuất bánh kẹo, cơ sở sản xuất nước đá… của tư nhân cũng được chính quyền tạo điều kiện và động viên phục hồi đi vào sản xuất. Về tiểu thủ công nghiệp, các ngành đan lát, mây tre, dệt thảm len, đồ gốm,

Page 35: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

35

mành trúc được chính quyền các cấp khuyến khích nâng đỡ phát triển. Ở Hòa Vang, chủ trương khôi phục các ngành nghề truyền thống như sản xuất nước mắm Nam Ô, chiếu Cẩm Nê, đá mỹ nghệ Non Nước.

Về văn hóa - xã hội, do sống dưới thời Mỹ - ngụy trong một thời gian dài, người dân Đà Nẵng bị cột chặt vào guồng máy phục vụ chiến tranh, làm lính đánh thuê, làm sở Mỹ (phục vụ tạp dịch trong các căn cứ của Mỹ), phục vụ trong các tổ chức của địch, sống dựa vào nguồn hàng viện trợ của nước ngoài, cùng với đó là ruộng đồng hoang hóa vì chiến tranh nên xa rời sản xuất. Sau khi Mỹ cút, ngụy nhào, đã để lại Đà Nẵng một đội quân thất nghiệp đông hàng vạn người, kể cả gái mại dâm, trẻ con lai, người tàn tật, cô đơn không nơi nương tựa(1). Thêm vào đó, với chính sách thực dân kiểu mới, Mỹ - ngụy tạo ra cuộc sống “phồn vinh giả tạo”, với hàng hóa viện trợ tràn ngập thị trường nên Đà Nẵng từng trở thành một tụ điểm ăn chơi nổi tiếng đứng thứ hai sau Sài Gòn: Thành phố có hàng trăm tiệm nhảy, hộp đêm, phòng trà; phim ảnh, sách báo khiêu dâm lan tràn trên các sạp báo vỉa hè. Một bộ phận nhân dân, đặc biệt thanh niên bị ảnh hưởng lối sống lai căng đồi trụy du nhập từ Mỹ và các nước phương Tây, sống gấp, hưởng thụ, làm lu mờ tinh thần tự tôn dân tộc; nạn ma túy, cờ bạc, mại dâm, trộm cắp phát triển…

Thời gian đầu ngay sau ngày giải phóng, tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội của Đà Nẵng còn diễn biến rất phức tạp: Trước khi bỏ chạy khỏi Đà Nẵng, địch đốt phá tiêu hủy tài liệu ở Tòa lãnh sự Mỹ tại Đà Nẵng nhằm thực hiện chiến lược “kế hoạch thời hậu chiến”. Một số tàn binh địch vẫn tụ tập lại, cố thủ một số nơi và lẩn trốn trên bán đảo Sơn Trà, ở khu vực Cây Sợp, An Đồn (nay thuộc phường An Hải Bắc), dọc ven biển Quận III hòng tìm phương tiện di chuyển ra Hạm đội 7 của Mỹ

(1) Theo thống kê, Đà Nẵng lúc này có nửa triệu dân song số người thất nghiệp lên đến 7,4 vạn người.

Page 36: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

36

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

còn ở ngoài biển Đông, để chạy vào Sài Gòn hoặc di tản sang Mỹ; một số ngụy quân, ngụy quyền tìm cách trốn tránh không ra trình diện chính quyền cách mạng, tiếp tục móc nối với bọn phản động đội lốt tôn giáo và trong các đảng phái phản động tổ chức các vụ nổ lựu đạn, bắn súng, gây tiếng nổ làm mất an ninh trật tự trong các khu phố.

Đặc biệt, từ đầu tháng 11 năm 1975, khi chính quyền cách mạng tiến hành cải tạo tư sản mại bản, thu đổi tiền, thực hành chính sách ruộng đất; qua sự kiện thống nhất đất nước, thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phản ứng giai cấp trong bọn phản động càng rõ hơn, các hoạt động phá hoại diễn ra nhiều và trên diện rộng. Chúng tập trung phao tin đồn nhảm, xuyên tạc chế độ, lợi dụng những sai sót của cán bộ cơ sở để khoét sâu, gây nghi ngờ trong quần chúng. Từng nơi, từng lúc, bọn Quốc dân đảng, Đại Việt hoạt động gây rối, gây tiếng nổ, rải truyền đơn, viết khẩu hiệu phản động. Bọn phản động núp dưới danh nghĩa tôn giáo tìm cách ngăn cản tín đồ thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Có thể nói, tinh thần yêu nước, trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân; cùng với khí thế của những ngày đầu được giải phóng, thoát khỏi những đau khổ triền miên của chiến tranh là những điều kiện tiên quyết để Đảng bộ và nhân dân Quảng Đà nói chung, Đà Nẵng nói riêng thực hiện thành công nhiệm vụ ổn định an ninh sau chiến tranh, giữ vững chính quyền; khôi phục kinh tế và thực hiện hàng loạt các chính sách dân sinh, hỗ trợ tích cực cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

II. XÂY DỰNG, CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CÁCH MẠNG VỮNG MẠNH, PHỤC HỒI SẢN XUẤT VÀ ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (5/1975 - 1977)

Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của cả nước, là thành phố lớn thứ hai của miền Nam, có cơ sở hạ tầng tương đối đồng bộ, sân bay, hải cảng, đường giao thông thuận lợi. Đà Nẵng có điều

Page 37: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

37

kiện thiên nhiên ưu đãi, có đồng bằng, miền núi, biển, sông với nhiều tiềm năng về phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch. Hệ thống thương mại, dịch vụ phát triển tương đối, lực lượng lao động dồi dào. Đây là một vị trí chiến lược quan trọng về địa lý, chính trị và kinh tế của cả nước. Vì vậy, ngay từ những năm đầu được giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền các cấp của Đà Nẵng đã hăng hái bắt tay vào công cuộc xây dựng, củng cố bộ máy, phục hồi sản xuất… đem lại những thành tựu đáng khích lệ.

Do vị trí chiến lược và tầm quan trọng của Đà Nẵng đối với phong trào cách mạng miền Nam và cả nước cũng như sự quan tâm sâu sắc của Trung ương nên ngay sau khi Đà Nẵng được giải phóng, nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương Đảng đã về thăm và làm việc tại Đà Nẵng như: Đồng chí Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Hữu Thọ...

Trong hai ngày 07 và ngày 08 tháng 5 năm 1975, đồng chí Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp về thăm Đặc khu Quảng Đà và Đà Nẵng. Đây là địa phương đầu tiên ở miền Nam sau ngày giải phóng được đón hai đồng chí. Tại buổi làm việc với lãnh đạo Khu ủy V và Đặc khu ủy Quảng Đà, các đồng chí đã nhiệt liệt biểu dương những chiến công vĩ đại của nhân dân Quảng Đà cũng như của quân dân cả miền Nam giành được trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tiếp sau chuyến thăm của các đồng chí Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, trong hai tháng 6 và 7 năm 1975, các đồng chí: Tôn Đức Thắng, Trường Chinh và Phạm Văn Đồng, Tố Hữu tiếp tục về thăm và làm việc tại Đặc khu Quảng Đà và Đà Nẵng. Các đồng chí đã nghe lãnh đạo Quảng Đà báo cáo về diễn biến của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và những nhiệm vụ cấp bách mà địa phương đang thực hiện trong thời gian trước mắt. Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã căn dặn cán bộ và nhân dân địa phương luôn ghi nhớ và thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn

Page 38: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

38

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân; đồng thời nhắc nhở trong giai đoạn cách mạng hiện nay phải thành lập và củng cố chính quyền cách mạng các cấp, động viên các tầng lớp nhân dân ra sức khôi phục kinh tế, đẩy mạnh sản xuất và không ngừng chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân”(1). Mặc dầu tình hình an ninh trật tự lúc này rất phức tạp nhưng lực lượng an ninh Quảng Đà đã nỗ lực ngày đêm bám địa bàn, bảo vệ thành công các chuyến thăm và làm việc của Bộ Chính trị.

Về vấn đề tiền tệ, thực hiện chủ trương của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, trong hai ngày 22 và 23 tháng 9 năm 1975, Đặc khu ủy Quảng Đà và Tỉnh ủy Quảng Nam đã chỉ đạo triển khai việc đổi tiền của chính quyền Sài Gòn sang tiền Ngân hàng Việt Nam. Đến cuối ngày 23 tháng 9, việc đổi tiền được hoàn tất cơ bản trên địa bàn cả hai tỉnh; đảm bảo nhanh gọn, an toàn. Riêng Quảng Đà tổ chức 1.200 bàn đổi tiền(2). Việc thu, đổi tiền được sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân. Do được sự chỉ đạo sâu sát của Đặc khu ủy Quảng Đà, nên đợt thu đổi tiền ở Đà Nẵng đã đảm bảo bí mật, trật tự và đạt kết quả tốt; tạo được sự yên tâm, phấn khởi trong đại đa số quần chúng nhân dân. Đây là một thắng lợi bước đầu trong việc quản lý nền tài chính cách mạng.

Ngày 29 tháng 9 năm 1975, Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã ra Nghị quyết “Về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới”. Trên cơ sở phân tích những đặc điểm của nước ta sau ngày giải phóng miền Nam, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết khẳng định: “Với thắng lợi rực rỡ mùa Xuân năm 1975, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ một nước bị chủ nghĩa thực dân mới chia cắt và thống trị sang cả nước độc lập và thống nhất, từ hai nhiệm vụ chiến lược

(1) Báo Quảng Nam - Đà Nẵng, số ra ngày 20 tháng 7 năm 1975.(2) Tỉnh ủy Quảng Nam: Biên niên sự kiện Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (1975-2005), Tam Kỳ, 2007, tr. 22.

Page 39: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

39

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, sang một nhiệm vụ chiến lược là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước”(1).

Chấp hành Nghị quyết số 245-NQ/TW, ngày 20 tháng 9 năm 1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ khu, hợp nhất tỉnh, ngày 04 tháng 10 năm 1975, Ủy ban Nhân dân Cách mạng Lâm thời khu Trung Trung bộ ra Quyết định số 119/QĐ về việc hợp nhất tỉnh Quảng Nam và Đặc khu Quảng Đà thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, tháng 10 năm 1975, Đặc khu Quảng Đà và tỉnh Quảng Nam nhập lại thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Đơn vị hành chính cấp quận, gồm: quận I, quận II và quận III được trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Bộ máy tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng bắt đầu làm việc từ ngày 12 tháng 10 năm 1975, tỉnh lỵ đặt tại thành phố Đà Nẵng.

Về bộ máy tổ chức Đảng: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng sau khi hợp nhất theo tinh thần Quyết nghị số 01/QN, ngày 19 tháng 10 năm 1975 của Ban Thường vụ Khu ủy Khu V gồm 36 đồng chí. Bí thư: Hồ Nghinh (nguyên Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà); Phó Bí thư: Trần Thận (nguyên Phó Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà), Hoàng Minh Thắng (nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam); Ủy viên Ban Thường vụ: Đỗ Diện (Đỗ Thế Chấp), Phạm Triêm (Phạm Đức Nam), Trần Hiện (Trần Văn Đán), Võ Văn Đoàn, Nguyễn Ban (Nguyễn Đức Bốn), Hoàng Văn Lai, Nguyễn Hào (Nguyễn Thành), Trần Hưng Thừa (tức Bắc), Trần Văn Tân, Nguyễn Hồng Thắng, Phan Ngọc Ánh (tức Quyết), Trần Công Lãm (Ngô Hiên), Phạm Xuân Thâm (tức Sáu Do); Tỉnh ủy viên: Lê Quang Bửu (tức Hà Đông), Phạm Dinh (tức Việt Dũng), Lê Đào, Trần Duy Hưng, Ngô Xuân Hạ, Nguyễn Tấn Hà, Vũ Ngọc Hải (Để), Võ Thanh Hùng, Nguyễn Thành Long, Phan Văn Nghệ, Nguyễn Thị Nhạn, Ngô Phú, Nguyễn Đình San (tức Ca Sơn), Trương Tánh (Trương Thanh Hà), Lê

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2004, tr. 397-419.

Page 40: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

40

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Phước Toàn, Đặng Ngọc Tạ (Đỗ Hữu Sanh), Phan Thanh Thủ, Hường Thắng (tức Lợi), Trần Anh Vũ, Nguyễn Hà Vy (Nguyễn Thành Nhơn).

Dưới sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, trong hai ngày 13 và 14 tháng 10 năm 1975, Ủy ban nhân dân Cách mạng Lâm thời tỉnh họp phiên đầu tiên. Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Hồ Nghinh đến dự. Phiên họp thảo luận về chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân tỉnh(1).

Ngày 25 tháng 4 năm 1976, nhân dân toàn thành phố nô nức đi bầu Quốc hội (khóa VI), Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất. Tại kỳ họp đầu tiên từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 02 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đã quyết định đặt tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc. Quốc hội cũng quyết định tổ chức chính quyền thành 4 cấp, trong đó cấp phường (xã) là đơn vị hành chánh thấp nhất. Ở mỗi cấp đều có Hội đồng nhân dân do dân bầu ra. Hội đồng nhân dân sẽ bầu ra Ủy ban nhân dân cùng cấp để quản lý, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội... tại địa phương. Cũng tại kỳ họp này, Quốc hội đã thống nhất quy định nhiều vấn đề quan trọng như: Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc ca; Hà Nội là thủ đô; thành phố Sài Gòn - Gia Định được mang tên thành phố Hồ Chí Minh.

Sau cuộc vận động bầu Quốc hội và tổ chức Nhà nước thống nhất, Đảng ta lãnh đạo Đại hội từ cơ sở tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV vào tháng 12 năm 1976. Theo đó, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng chỉ đạo các Đảng bộ cơ sở tiến hành tổ chức Đại hội. Thực hiện chủ trương đó, từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1976, các quận, huyện khắp tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã tiến hành tổ chức Đại hội Đảng bộ, củng cố cơ cấu bộ máy để tăng cường công tác lãnh đạo khi thống nhất tỉnh và vạch ra những nhiệm vụ mới cho phù hợp với tình hình.

(1) Báo Quảng Nam - Đà Nẵng, số ra ngày 20 tháng 10 năm 1975.

Page 41: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

41

Từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1976, Đảng bộ quận I, quận II, quận III đã tổ chức xong Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở. Tháng 10 năm 1976, quận I tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ I tại Câu lạc bộ Thanh niên Đặc khu Quảng Đà. Đây là một Đại hội mang dấu ấn lịch sử sau 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, quận I Đà Nẵng cùng cả nước bước vào thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Để chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ trong thời kỳ mới, Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ quận gồm 19 người(1) do đồng chí Trần Hưng Thừa làm Bí thư; đồng chí Trương Chí Thanh - Phó Bí thư phụ trách công tác chính quyền - Chủ tịch Ủy ban nhân dân; đồng chí Lê Văn Huấn - Phó Bí thư phụ trách công tác Dân vận, Mặt trận.

Ngày 20 tháng 10 năm 1976, quận II tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ I, tham dự Đại hội có 130 đại biểu đại diện cho 344 đảng viên trong toàn quận. Các tổ chức cơ sở đã cử 19 đoàn đại biểu về dự Đại hội. Đại hội đã tiến hành các nội dung: Đánh giá thành tích kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng bộ và nhân dân quận, biểu dương công trạng của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ trong nhiệm kỳ mới (nhiệm kỳ 2 năm rưỡi - theo Điều lệ cũ). Đại hội đã bầu cử Ban Chấp hành Đảng bộ quận gồm 18 đồng chí. Ban Chấp hành phân công đồng chí Trần Văn Tân giữ chức Bí thư, đồng chí Nguyễn Như Cân giữ chức Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận. Sau Đại hội, cấp trên điều động đồng chí Đặng Văn Pháo về giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận và được bổ sung vào Quận ủy.

Ngày 28 tháng 10 năm 1976, Đảng bộ quận III tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ I, Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 14 người, do

(1) Trong đó có hai đồng chí Ủy viên dự khuyết.

Page 42: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

42

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

đồng chí Lê Phước Toàn làm Bí thư Quận ủy, đồng chí Lê Đình Thông làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận. Tháng 4 năm 1977, đồng chí Lê Phước Toàn được điều đi nhận công tác khác, đồng chí Nguyễn Quang Thái về giữ chức Quyền Bí thư Quận ủy.

Ngày 22 tháng 10 năm 1976, Đảng bộ huyện Hòa Vang tổ chức Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VI - Đại hội đầu tiên của Đảng bộ Hoà Vang sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đánh giá tình hình qua, Đại hội ghi nhận: “Hơn một năm qua, từ ngày giải phóng đến nay, dưới ánh sáng Nghị quyết 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng, Đảng bộ và nhân dân huyện ta phát huy thuận lợi và khí thế cách mạng tiến công, từng bước khắc phục nhiều khó khăn, tập trung sức lực thực hiện các nhiệm vụ cấp bách của Đảng bộ đề ra trong từng thời gian và đã thu được nhiều thắng lợi bước đầu có ý nghĩa rất quan trọng. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân lịch sử năm 1975, giải phóng đến đâu, ta nhanh chóng tiếp quản đến đó các cơ sở quân sự, chính trị, văn hóa - xã hội, tiếp tục truy quét bọn phản động, thiết lập chính quyền cách mạng, đồng thời dồn sức chỉ đạo thực hiện công tác khôi phục và phát triển sản xuất, động viên quần chúng vừa thâm canh, vừa mở rộng diện tích phục hóa khai hoang đi đôi với nhiệm vụ tích cực động viên nhân dân bị địch xúc tát tập trung trở về quê hương, phân bổ sắp xếp lại lực lượng lao động đều khắp các địa bàn toàn huyện, tạo thành thế trận sản xuất và xây dựng lại xã, thôn”(1). Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ (khoá VI) gồm 31 đồng chí, bầu Ban Thường vụ 11 đồng chí. Đồng chí Trần Văn Đán được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Tám và Nguyễn Văn Chi làm Phó Bí thư.

(1) Đảng bộ huyện Hòa Vang: Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Hòa Vang (1975-2005), Nxb. Đà Nẵng, 2005, tr. 9-10.

Page 43: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

43

Sau Đại hội, các quận, huyện đã vận dụng chủ trương của Đảng bộ vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, đề ra các chủ trương, biện pháp khắc phục khó khăn, tiến hành cải tạo và xây dựng quê hương. Các Đảng bộ chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên, nâng cao quan điểm, lập trường giai cấp, lý tưởng Đảng; học các Nghị quyết Trung ương, Tỉnh, đặc biệt là về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng đề ra. Tổ chức và nâng cao chất lượng, chú trọng tăng cường đảng viên trẻ vào các vị trí chủ chốt. Công tác phát triển đảng viên được các cấp ủy chú trọng. Các cấp ủy tiến hành công tác kiểm tra thường xuyên về nhiệm vụ xây dựng củng cố cơ cấu tổ chức Đảng, chính quyền và các hội đoàn thể; các nhiệm vụ ổn định kinh tế, củng cố sản xuất.

Về kinh tế, thực hiện Nghị quyết số 24 Ban Chấp hành Trung ương (khóa III) tháng 8 năm 1975 về công tác cải tạo ở miền Nam, Chỉ thị của Thường vụ Khu ủy Khu V về cải tạo xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế xác lập quan hệ sản xuất mới, xóa bỏ chế độ bóc lột tư sản mại bản và các hình thức bóc lột khác; tháng 9 năm 1975, Thường vụ Đặc khu uỷ Quảng Đà quyết định tiến hành thực hiện cải tạo tư bản, tư doanh kết hợp với việc xử lý những nhà tư sản chạy trốn sau ngày giải phóng Đà Nẵng.

Ở Đà Nẵng, trong đợt 1, chính quyền tiến hành kiểm kê 6 nhà tư sản mại bản, sau bổ sung thêm 2 nhà tư sản; đợt kiểm kê thứ 2 có 8 nhà tư sản. Trong 16 nhà tư sản trên, chỉ có 7 nhà tư sản đã chạy vào Sài Gòn. Đợt 1, chính quyền thu 2.062.336.120 đồng (tiền Sài Gòn cũ). Trong đó, tiền và vàng trị giá 370.241.624 đồng, riêng về vàng với số lượng là 694 lạng 8 chỉ 7 phân. Đợt 2, tiền và vàng 75.768.000 đồng, riêng số vàng là 410 lạng 9 chỉ 3 phân. Qua 2 đợt hoạt động, ta kiểm kê 16 nhà tư sản mại bản, tổng cộng 2 đợt chính quyền đã thu theo giá mua khi kiểm kê 2.649 triệu đồng. Công tác cải tạo tư bản, tư doanh lúc bấy giờ đã góp phần trong việc ổn định thị trường, chống đầu cơ tích trữ, lũng đoạn giá cả. Giá cả tại Đà Nẵng, Hòa Vang đã giảm

Page 44: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

44

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

xuống rõ rệt, như bột ngọt, vải nội, xà phòng, phụ tùng xe máy, xe đạp.

Do thấu triệt mối quan hệ giữa các nhà tư sản dân tộc từng đồng hành với cách mạng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây tại địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng, nên khác với một số địa phương khác lúc bấy giờ, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng đã thực hiện chủ trương cải tạo tư bản, tư doanh một cách thận trọng, linh hoạt và hiệu quả; tạo được sự đồng thuận trong xã hội và được dư luận đồng tình. Vì lẽ đó, Đà Nẵng đã có thêm 21 cá nhân và 2 tập thể viết đơn xin hiến tài sản của mình cho Nhà nước.

Tỉnh ủy chỉ đạo ngành công nghiệp khắc phục những khó khăn về nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng để đưa các nhà máy ta vừa tiếp quản của địch đi vào hoạt động như: Dệt Hòa Thọ, Nhà máy điện, Nhà máy nước, Xí nghiệp sản xuất đồ nhôm, Xí nghiệp phân bón Quảng Đà, các cơ sở ướp đông, chế biến cá mắm... Tỉnh ủy cũng có chính sách hợp lý để khuyến khích, nâng đỡ các ngành nghề thủ công, đầu tư phục hồi nghề đan lát, mây tre, dệt thảm len, đồ gốm, mành trúc, dâu tằm tơ lụa... Đáng chú ý là việc Thường vụ Tỉnh ủy chủ trương thành lập các công ty công tư hợp doanh trên tinh thần Nhà nước kết hợp cùng các hộ tư nhân trên một số lĩnh vực sản xuất và giao thông vận tải, song vẫn chấp hành nghiêm túc mọi chỉ thị của Trung ương Đảng. Điển hình cho phương thức trên là sự ra đời Công ty hợp doanh xe khách Đà Nẵng và Công ty hợp doanh vận tải hàng hóa. Tư nhân có phương tiện, Nhà nước chịu bến bãi, xăng dầu, bán vé... để cuối cùng “Nhà nước và nhân dân cùng làm, cùng có lợi”. Chủ trương trên đã được đa số những người có xe vận tải hành khách và vận tải hàng hóa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, thị xã Tam Kỳ, Hội An tự nguyện đăng ký vào các công ty. Chỉ tính trong năm 1975, với phương thức trên, ngành giao thông đã vận chuyển được trên 25 vạn tấn hàng hóa và trên 8,7 triệu lượt hành khách. Đây là một sự sáng tạo, linh hoạt của Đảng bộ Quảng

Page 45: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

45

Nam - Đà Nẵng ngay sau khi vừa bắt tay vào khôi phục, xây dựng quê hương.

Về nông nghiệp, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng chỉ đạo phục hồi sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng nói riêng và toàn tỉnh chung bằng các biện pháp cụ thể như: Tiến hành rà phá bom mìn, giải phóng đất canh tác cho bà con nông dân; phát động phong trào “khai hoang phục hóa”, “tấn công đồng cỏ”... Chính nhờ phong trào trên mà diện tích đất canh tác được tăng lên đáng kể. Nếu năm 1975, cả tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng chỉ có 57.000 ha đất nông nghiệp thì đến năm 1977 con số này đã tăng lên 122.711 ha. Tại Hòa Vang, ngoài việc chỉ đạo thực hiện khai khẩn đất hoang, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, Đảng bộ huyện còn vận động bà con sống trong các khu dồn, khu tập trung trước đây, dỡ nhà cửa đưa gia đình trở về làng cũ dựng lại nhà, sửa sang vườn tược bắt tay xây dựng cuộc sống mới.

Để tạo điều kiện cho người dân tăng gia sản xuất ổn định đời sống sau chiến tranh, Đảng bộ Đà Nẵng, Hòa Vang chỉ đạo các xã, phường phát động phong trào khai hoang vỡ hóa, rà phá bom mìn, tháo gỡ dây thép gai giao đất cho nhân dân cày cấy. Các đơn vị bộ đội, công binh của Tỉnh đội, Quận đội, du kích xã cùng một số anh em binh lính của chế độ cũ mở các đợt rà, phá bom mìn tại những khu vực phi quân sự, ven các chân núi, những địa bàn chiến lược... để giải phóng đất canh tác cho nhân dân. Tuy nhiên, phong trào rà phá bom mìn cũng gây tổn thất lớn cho đồng bào và chiến sĩ tham gia, có 540 người hy sinh, 3.160 người bị thương tật(1).

Cán bộ đã cùng nông dân tăng gia sản xuất trên đồng ruộng để cổ vũ tinh thần nông dân đẩy mạnh sản xuất trồng lúa và hoa màu nhằm giải quyết vấn đề thiếu lương thực ở một số vùng khó

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: Quảng Nam - Đà Nẵng mười năm khôi phục, cải tạo và xây dựng, Nxb. Đà Nẵng, 1985, tr. 8.

Page 46: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

46

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

khăn. Nông dân triển khai thực hiện các phong trào “khai hoang phục hóa”, “tấn công đồng cỏ”, “làm thủy lợi”, “thâm canh tăng năng suất”… Các phong trào này đã thu hút gần 100.000 lượt người tham gia. Các anh chị em đã khắc phục mọi khó khăn trong việc ăn, ở; có nhiều sáng kiến trong việc tháo gỡ bom mìn, xây dựng tuyến đường.

Thực hiện chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực nông nghiệp xác lập quan hệ sản xuất mới, xóa bỏ chế độ bóc lột phong kiến và các hình thức bóc lột khác ở nông thôn, từ tháng 9 năm 1975, chính quyền cách mạng đã tiến hành tịch thu, trưng thu và vận động địa chủ hiến ruộng, để chia lại cho nông dân cày cấy. Chế độ chiếm hữu ở nông thôn cơ bản đã được xóa bỏ, mức chênh lệch ruộng đất trong nông dân không còn đáng kể. Cùng với niềm vui nước nhà hòa bình thống nhất, người nông dân được chia ruộng đất để canh tác, đây là niềm mơ ước ngàn đời của người dân nghèo. Đợt chia lại ruộng đất đã tạo không khí phấn khởi trong nông dân và nông thôn. Đó cũng là kết quả có ý nghĩa to lớn và tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho phong trào hợp tác hóa nông nghiệp sau này.

Tại Hòa Vang, huyện tiến hành quy hoạch các vùng, cải tạo các cánh đồng hoang hóa tại các xã Hòa Hải, Hòa Tiến, Hòa Hiệp; cải tạo vùng đất chua mặn của các xã Hòa Xuân, Hòa Quý, Hòa Hiệp; phát động nhân dân trồng các loại cây ngắn ngày, cây rau màu nhằm cải thiện đời sống trước mắt của người dân, tổng diện tích gieo trồng là 11.354 ha. Nhờ vậy, mùa tháng Tám năm 1975, năng suất Hòa Vang đạt 4-5 tạ/ha. Bà con nông dân vùng ven của Đà Nẵng, được vận động mở rộng diện tích đất canh tác ở các khu vực bị địch chiếm làm khu quân sự trước đây, khai hoang vỡ hóa, tận dụng đất trong vườn, đất trống để trồng rau, hoa màu cải thiện đời sống. Tính đến cuối năm 1975, quận I gieo trồng được 362 ha, quận II là 68 ha, quận III là 300 ha. Sản lượng lương thực quy thóc quận I đạt 388 tấn, quận II đạt 16 tấn, quận III đạt 584 tấn, Hòa Vang đạt 16.618 tấn.

Page 47: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

47

Về hoạt động đánh bắt thủy sản, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã hỗ trợ xăng dầu cho ngư dân ra biển đánh bắt hải sản. Trong niềm vui phấn khởi đất nước hòa bình thống nhất, ngư dân không còn cảnh trốn quân dịch như trước, ngư trường không bị phong tỏa nên bà con ngư dân hăng hái sửa ghe, thuyền, máy móc để ra khơi đánh bắt cá. Ngư dân Quận I, Quận II, Quận III sửa sang lại hàng trăm tàu cá, ngư lưới cụ để ra khơi. Ở Hòa Vang, các xã ven biển phương tiện đánh bắt còn lạc hậu, thuyền nhỏ, ngư cụ thô sơ nhưng ngư dân vẫn bám biển, bám ghe đi khơi, đi lộng để giải quyết khó khăn cuộc sống gia đình đang đặt ra. Riêng Quận III - một quận có truyền thống đánh bắt cá lâu đời, có cả thảy 1.327 chiếc tàu thuyền, trong đó có 267 chiếc có công suất từ 30 đến 45 mã lực. Sản lượng đánh bắt năm 1976 là 20.000 tấn, năm 1977 là 25.000 tấn, chiếm 70% sản lượng hải sản đánh bắt toàn thành phố(1).

Thời gian này, khắp Đà Nẵng nói riêng, cả tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung, hàng chục vạn người thất nghiệp được tạo công ăn việc làm, hàng ngàn nạn nhân của lối sống đồi trụy được cải tạo phục hồi nhân phẩm, tạo công ăn việc làm, ổn định cuộc sống. Hàng ngàn công nhân lao động hăng say làm việc trên tuyến quốc lộ, vá sửa lại những đoạn đường, những cây cầu bị Mỹ - ngụy giật phá trên đường bỏ chạy. Tuyến đường sắt nhanh chóng phục hồi, sau khi tuyến đường sắt đoạn Đà Nẵng - Huế thông tàu, gần 8.000 công nhân lao động hăng say trên tuyến đường sắt thống nhất. Thanh niên nam nữ hăng hái xung phong đi xây dựng quê hương, lao động làm đường giao thông, đắp đập làm thủy lợi, tham gia lao động tại Nông trường Quyết Thắng, Nông trường Đức Phú. Các chủ trương trên đã góp phần rất lớn vào việc tạo công ăn việc làm cho người dân sau chiến tranh, nhanh chóng lập lại trật tự, trị an tại Đà Nẵng.

(1) Năm 1976, phường An Hải Tây đã hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu 10.000 tấn hải sản trên giao. Trong Hội nghị Tổng kết của Bộ Thủy sản, phường An Hải Tây đã được tặng cờ luân lưu.

Page 48: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

48

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Trong công tác y tế, ngay từ sau ngày giải phóng, các bệnh viện như: Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng, Tổng y viện Duy Tân, bệnh viện tuyến quận, huyện vẫn tiếp tục hoạt động bình thường. Đội ngũ bác sĩ là những bác sĩ, y tá được lưu dụng và bổ sung thêm nhiều bác sĩ, y tá từ trên căn cứ về, từ các tỉnh phía Bắc tăng cường. Hệ thống y tế được mở rộng, hoạt động xuống tận các xã, phường. Chính quyền trích ngân quỹ hỗ trợ tiền ăn, điều trị thuốc cho những binh sĩ ngụy, những bệnh nhân còn lưu trú tại các tuyến bệnh viện. Điều đó thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và chính quyền cách mạng. Đồng thời, thành phố thành lập thêm nhiều trạm điều dưỡng phục hồi sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ tham gia kháng chiến. Hàng chục đội y tế lưu động khám chữa bệnh, phát thuốc cho nhân dân ở các xã miền núi Hòa Vang, tổ chức phun thuốc dập tắt các ổ dịch, sốt xuất huyết, phong trào vệ sinh phòng bệnh được phát động ở thành phố và nông thôn để bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Trên lĩnh vực giáo dục, ngày 17 tháng 6 năm 1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 221-CT/TW về công tác giáo dục ở miền Nam sau giải phóng, thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư, ngành giáo dục Đà Nẵng, huyện Hòa Vang đã tổ chức khai giảng năm học 1975-1976. Mặc dầu công việc sau giải phóng hết sức bộn bề, nhưng các trường đã tổ chức chu đáo lễ khai giảng cho học sinh các cấp. Ngày 19 tháng 10 năm 1975, các trường phổ thông khai giảng năm học mới. Học sinh nô nức đến trường trong tâm trạng phấn khởi trước cảnh quê hương được hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập tự do, làm cho không khí cuộc đời mới thêm rộn ràng. Ta tiến hành tiếp thu các cơ sở trường học tư nhân trên các địa bàn Đà Nẵng, Hòa Vang để chuyển thành trường công lập; đồng thời, xây dựng mới hàng ngàn phòng học tạm thời bằng tranh tre, nứa lá để đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Đội ngũ quản lý và giáo viên cũ phần lớn được giữ lại dạy học; các giáo viên được tổ chức học tập, bồi dưỡng đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, quan điểm chính trị, nghiệp vụ

Page 49: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

49

chuyên môn theo yêu cầu giáo dục mới. Phong trào xóa mù chữ và học bổ túc văn hoá cũng được phát động, thu hút hàng vạn người dân tham gia, kể cả cán bộ, công chức(1).

Công tác vận động thanh niên tham gia xây dựng quê hương sau ngày giải phóng là một phong trào lớn, tạo ra một không khí vui tươi, phấn khởi chưa từng có, tại Đà Nẵng nói riêng và cả tỉnh nói chung. Ngay sau khi Đà Nẵng được giải phóng, Đặc khu ủy Quảng Đà đã chủ trương thành lập Ủy ban Thanh niên bảo vệ Đà Nẵng do nhà giáo Vĩnh Linh làm Chủ tịch. Ủy Ban đã tập hợp thanh niên thành phố Đà Nẵng, huyện Hòa Vang tham gia giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ tài sản nhân dân, tổng vệ sinh đường phố. Các đoàn thể Thanh niên, Phụ nữ, Lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân hăng hái quét dọn trên các tuyến đường, rác trong các khu chợ, bệnh viện trường học, thu gom quân trang, quân dụng của binh lính địch vứt đầy đường, tháo gỡ dây thép gai, tẩy xóa cờ, khẩu hiệu địch vẽ trên các tường nhà, cổng ngõ nhà dân; thực hiện chiến dịch bài trừ văn hóa nô dịch, đồi trụy, phản động; thu lượm các loại băng nhạc vàng, từng cuốn sách có nội dung xấu để nộp cho cơ quan văn hóa tiêu hủy. Có thể nói, mọi hoạt động trong thành phố không thể yên ổn ngay được; trong lúc đó, đồng bào ở các vùng nông thôn trong tình trạng gặp nhiều khó khăn hơn, nhất là những đồng bào mới trở về làng cũ. Mọi yêu cầu về cuộc sống đề ra phải giải quyết đòi hỏi các đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân cùng chung sức.

Ngoài ra, ngành văn hóa - thông tin đã tổ chức nhiều buổi biểu diễn văn nghệ, chiếu phim, mở phòng triển lãm tại Trung tâm Văn hóa thành phố, Nhà Văn hóa Công nhân Lao động, Nhà Văn hóa ở các quận và huyện Hòa Vang, đã thu hút nhân dân đến xem các chương trình văn nghệ giải phóng. Nhân ngày lễ sinh nhật Bác (ngày 19 tháng 5 năm 1975), 30 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh ngày 02 tháng 9 (1945-1975), chính quyền

(1) Xã Hòa Xuân (huyện Hòa Vang) trở thành lá cờ đầu của phong trào xóa nạn mù chữ của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ.

Page 50: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

50

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

các cấp đã tổ chức nhiều hoạt động thi đấu thể dục thể thao như bóng đá, bóng bàn, đua ghe, bơi lội, thu hút hàng trăm vận động viên tham gia. Hệ thống truyền thanh, sách báo cách mạng được phát hành rộng rãi tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, cổ động phong trào xây dựng nếp sống mới, góp phần từng bước đẩy lùi các tệ nạn chế độ cũ để lại như xì ke, ma túy, lên đồng, mê tín.

Qua hoạt động, các tổ chức đoàn thể giải phóng Mặt trận, Nông hội, Phụ nữ, Thanh thiếu niên từng bước được củng cố. Ban Chấp hành các hội đoàn thể đều được bổ sung cán bộ, nơi nào chưa có thì thành lập mới. Tổ chức Mặt trận được thành lập đến cơ sở và thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia hoạt động, tạo khí thế mới trong đời sống tinh thần nhân dân.

Công tác xây dựng lực lượng vũ trang và an ninh được Đảng bộ và các cấp chính quyền chú trọng xây dựng, nâng cao sức chiến đấu, bảo vệ chính quyền, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội. Các quận, huyện đội tiếp tục được củng cố, hoàn thiện. Các phòng ban được tăng cường quân số. Những thanh niên có lý lịch tốt, sức khỏe đảm bảo được các quận, huyện đội chọn lọc tổ chức đào tạo huấn luyện về chuyên môn, học tập chính trị nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu tình hình cách mạng đang đặt ra.

Tại Đà Nẵng, ta tiến hành xây dựng lực lượng tự vệ khu phố, phường đảm bảo chất lượng, phù hợp với phương hướng nhiệm vụ đường lối giai cấp và tiêu chuẩn chính trị theo yêu cầu mới, thành phần là những thanh niên nam, nữ con em quần chúng lao động, bản thân mới lớn chưa tham gia vào các tổ chức ngụy quân, ngụy quyền và các đảng phái phản động. Đến ngày 30 tháng 5 năm 1975, ở Quận I, đã soát xét chọn 338 trên tổng số 819 người, đạt tỷ lệ 41%. Quận II, chọn được 221 tự vệ đạt tiêu chuẩn trên tổng số 633 người, đạt tỷ lệ 34%. Quận III chọn được 492 trên tổng số 705 đạt tỷ lệ 69%(1).

(1) Quận I: Phường có tự vệ đông nhất là Nại Hiên Tây 15 tự vệ, khu phố tự

Page 51: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

51

Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng và nhằm tổng kết 2 năm lãnh đạo, thực hiện phong trào cách mạng tại địa phương, từ ngày 25 tháng 4 đến ngày 02 tháng 5 năm 1977, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tiến hành tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XI (vòng 2). Tham dự Đại hội có 472 đại biểu, trong số 503 đại biểu chính thức và 28 đại biểu dự thính, đại diện cho 34 Đảng bộ trực thuộc Đảng bộ tỉnh(1). Đại hội tổng kết 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; biểu dương đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, đảng viên toàn tỉnh đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc; ghi nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì nền độc lập và tự do của Tổ quốc, vì sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng, của nhân dân ta.

Đánh giá tình hình sau ngày giải phóng, Đại hội nhận định: Đảng bộ đã đoàn kết nhất trí, phát huy tư tưởng tấn công và chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu vào mặt trận sản xuất, xây dựng và đã đạt được những thành tích bước đầu trên các mặt khôi phục và phát triển sản xuất, phát triển văn hóa, ổn định đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng và củng cố lực lượng về mọi mặt. Khối đoàn kết trong nhân dân được tăng thêm. Công tác xây dựng Đảng có tiến bộ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích trên, Đại hội cũng chỉ ra những hạn chế là so với yêu cầu và khả năng, tiềm lực của địa phương thì có những mặt đạt được còn thấp, phong trào trong tỉnh còn nhiều mặt yếu kém và khó khăn, nhất là những khó khăn về kinh tế và đời sống.

Trên cơ sở những đặc điểm trên, căn cứ vào Nghị quyết Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ IV, Đại hội xác định phương

vệ đông nhất là Hòa Cường 29 tự vệ. Quận II: Phường có số tự vệ đông nhất là Trung Hoà A 9 tự vệ, khu phố tự vệ nhiều nhất là Hà Tam Xuân 15 tự vệ. Quận III: Phường có tự vệ đông nhất là Thọ Lộc 18 tự vệ, khu phố Nam Thọ đông nhất 31 tự vệ.(1) Có 61 đại biểu dự Đại hội (vòng 1) vắng mặt trong Đại hội (vòng 2), đưa 31 đại biểu dự khuyết lên thay, thiếu 30 đại biểu so với số lượng đại biểu được triệu tập. Đại hội đã bác bỏ tư cách tham dự Đại hội của 1 đại biểu.

Page 52: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

52

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

hướng nhiệm vụ của Đảng bộ đến năm 1980 là: “Ra sức tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng bộ, kiện toàn chính quyền các cấp, tiếp tục phát động phong trào cách mạng quần chúng, chủ yếu là phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội; cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra một chuyển biến mới trong việc tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng; xây dựng một bước chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới; đẩy mạnh khôi phục, phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa, xây dựng một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; phấn đấu cải thiện một bước đời sống của nhân dân; ra sức bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ”(1).

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XI) gồm 38 ủy viên, trong đó có 35 chính thức và 3 dự khuyết. Ngày 3 tháng 5, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XI) đã bầu ra Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Hồ Nghinh được bầu làm Bí thư; các đồng chí Võ Văn Đồng, Hoàng Minh Thắng - Phó Bí thư.

Sau khi ổn định, củng cố về hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Đảng bộ các Quận I, II, III (Đà Nẵng) và huyện Hòa Vang đã tăng cường lãnh đạo, ổn định tình hình kinh tế, phục hồi sản xuất, cải tạo tư bản tư doanh.

Về công nghiệp, đối với Đà Nẵng, Đảng bộ chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, củng cố nghề cá, phát triển vành đai thực phẩm, giải quyết việc làm cho nhiều lao động, chăm lo ổn định đời sống nhân dân; tiến hành xây dựng các cơ sở kinh tế quốc doanh, công ty hợp doanh, có mạng lưới hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác hóa nông nghiệp, hợp tác xã nghề cá, hợp tác xã mua bán làm nòng cốt

(1) Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XI (vòng 2)”, tr. 5. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 53: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

53

của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế của Đà Nẵng.

Theo thống kê, sau khi thực hiện phục hồi sản xuất sau chiến tranh, tính cuối năm 1976, toàn thành phố Đà Nẵng có 1.219 cơ sở công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp với 11.815 lao động. Trong đó, cơ sở cơ khí có 514 cơ sở với 2.917 lao động; 173 cơ sở dệt da, may nhuộm với 1.970 lao động; 241 cơ sở lượng thực thực phẩm với 1.713 lao động; 181 cơ sở gỗ tre, mây, giấy với 3.970 lao động; 12 cơ sở hóa chất, cao su, nhựa với 89 lao động; 1 cơ sở năng lượng với 27 lao động(1). Giá trị tổng sản lượng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 43 triệu đồng, nếu tính các xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh của tỉnh và Trung ương trên địa bàn thành phố năm 1976 đạt 56 triệu đồng(2). Năm 1977, giá trị tổng sản lượng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thành phố đạt 60 triệu đồng. Bên cạnh việc tiến hành tịch thu, trưng thu tài sản của tư sản mại bản, thành phố đã thành lập các công ty vật tư chuyên dùng khác, đủ sức đáp ứng yêu cầu phục vụ các ngành sản xuất song song các xí nghiệp công quản, xí nghiệp quốc doanh, công ty hợp doanh.

Tỉnh ủy đã có nhiều chủ trương đúng và kịp thời trong việc khắc phục những khó khăn về nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng để các Nhà máy Dệt Hòa Thọ, Nhà máy Điện Đà Nẵng, Nhà máy Nước Đà Nẵng, Xí nghiệp sản xuất đồ nhôm, Xí nghiệp phân bón Quảng Đà, các cơ sở ướp đông, chế biến cá mắm... tiếp tục giữ vững sản xuất. Nhiều nhà máy, xí nghiệp nhanh chóng được

(1) Năm 1977, tăng lên 1.718 cơ sở với 13.856 lao động gồm: 714 cơ sở cơ khí với 2.170 người; 210 cơ sở dệt da, may, nhuộm với 2.480 lao động; 347 cơ sở lương thực, thực phẩm với 2.760 lao động; 252 cơ sở gỗ tre, mây giấy với 4.214 lao động; 19 cơ sở hóa chất, cao su, nhựa với 180 lao động; 2 cơ sở năng lượng với 60 lao động.

(2) Trong lần đổi tiền ngày 22 tháng 9 năm 1975, đối với các tỉnh từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào Nam, 500 đồng Sài Gòn cũ = 1 đồng tiền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam = 0,66 USD, 56 triệu đồng tương đương với 37 triệu USD lúc bấy giờ.

Page 54: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

54

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

phục hồi đi vào hoạt động như: Xưởng Dệt Hòa Thọ, Xí nghiệp thảm len, Xưởng nước ngọt, Xí nghiệp Dệt khăn 29-3. Các ngành nghề thủ công truyền thống từng bước khôi phục, ta đã có chính sách khuyến khích, nâng đỡ các ngành nghề thủ công để nhân dân đầu tư phục hồi nghề đan lát, mây tre, mành trúc dệt thảm len, đồ gốm, dệt chiếu, làm mắm, làm cá và khai thác các nguồn lâm thổ sản như quế, tiêu, mật ong(1).

Về nông nghiệp, để tập dượt cho nông dân cung cách làm ăn tập thể, chuẩn bị cho việc mở rộng phong trào hợp tác hóa nông nghiệp các năm sau, Đảng bộ đã phát động phong trào xây dựng tổ sản xuất nông nghiệp, nhiều tổ đã thực hiện khoán việc ở 3 khâu làm đất, cấy, làm cỏ; đảm bảo quy trình kỹ thuật vụ đông xuân 1977-1978. Phong trào đã tạo nét mới trong lao động của nông dân ở trên đồng ruộng, tinh thần hợp tác, cùng lao động tập thể, tạo sức mạnh mới trong nông dân. Các nơi đã vận động nhân dân hình thành và nâng cao chất lượng của tổ sản xuất có định mức khoán việc và hoạt động tốt.

Ngày 21 và 22 tháng 9 năm 1977, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (khóa II), Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã thông qua Nghị quyết về vấn đề phát triển và cải tạo nông nghiệp. Nghị quyết đã nhấn mạnh: Hoàn thành cơ bản việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, đưa nông nghiệp đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa về mọi mặt, xóa bỏ bóc lột và mầm mống sinh ra bóc lột, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn. Trước mắt là đưa nông nghiệp đi vào sản xuất theo quy hoạch và kế hoạch nhà nước, tăng được năng suất lao động, tăng nhanh sản lượng và nông sản hàng hóa, tăng phần đóng góp cho nhà nước, đáp ứng được yêu cầu lương thực, thực phẩm về nguyên liệu cho công nghiệp và

(1) Đến năm 1977, cả 3 quận của Đà Nẵng đạt được 10.300 mét khối mặt mây, 36.120 mét khối mành trúc.

Page 55: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

55

hàng xuất khẩu, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà.

Trên cơ sở nâng cao chất lượng hoạt động của tổ sản xuất, thực hiện chủ trương của tỉnh, huyện Hòa Vang thành lập Hợp tác xã Hòa Tiến là 1 trong 3 hợp tác xã thí điểm đầu tiên của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, bắt đầu hoạt động từ vụ Đông Xuân 1977-1978. Tuyệt đại bộ phận nông dân tự nguyện tham gia vào hợp tác xã, đạt 99,2% số hộ. Xã viên bước đầu thực hiện quyền làm chủ tập thể bầu ra các cơ quan quản trị hợp tác xã. Qua một năm hoạt động, Hợp tác xã giành được thắng lợi tương đối toàn diện về năng suất công trình, giá trị ngày công, phát triển các ngành nghề, tăng thu nhập cho đời sống xã viên và làm tốt nghĩa vụ nhà nước. Từ kết quả đó, để chuẩn bị cho việc mở rộng, thành lập hợp tác xã diện rộng, thành phố Đà Nẵng và huyện Hòa Vang đã tuyển chọn một số cán bộ, xã viên đưa đi đào tạo về hợp tác hóa nông nghiệp.

Tỉnh ủy đã chỉ đạo việc phục hồi sản xuất trên địa bàn toàn tỉnh, đặc biệt coi trọng việc mở rộng diện tích đất canh tác, sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, thời gian này, các phong trào “khai hoang phục hóa”, “tấn công đồng cỏ”... diễn ra rất sôi nổi trên địa bàn toàn tỉnh. Nhờ vậy, diện tích đất nông nghiệp các vùng ven của Đà Nẵng như Khuê Trung, Hòa Cường, An Khê, Bắc Mỹ An... tăng lên đáng kể. Tại Hòa Vang chỉ sau 1 năm, nhân dân đã khai hoang vỡ hóa hơn 1.400 ha đất, canh tác sản xuất trên 5.500 ha ruộng, làm 2 vụ lúa năm 1975, 1976 thu thắng lợi lớn. Lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã cấy gối vụ gần 500 ha lúa Xuân Hè đạt hiệu quả. Nhân dân nhiều xã đã đóng đạt và vượt chỉ tiêu mức thuế đảm phụ cho nhà nước. Đi đôi với sản xuất, phong trào lao động làm thủy lợi, đào mương, đắp đập cũng sôi nổi, hàng vạn thanh niên học sinh, nông dân đi làm thủy lợi, lên khai hoang khu kinh tế mới phía tây tại Trung Man, vỡ hơn 60 ha trồng sắn, bắp.

Page 56: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

56

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ngoài ra, Đà Nẵng còn cử 500 thanh niên tự nguyện (đợt 1) về Gò Nổi, vùng cát Điện Bàn tham gia chiến dịch khai hoang vỡ hóa, làm thủy lợi. Phong trào có ý nghĩa thắt chặt tình đoàn kết nhân dân thành thị với nông thôn, giải quyết việc làm cho một số lớn lao động của thành phố. Các đoàn thể Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân đề ra các phong trào thi đua tăng gia sản xuất, phát cỏ hoang, cuốn dây thép gai, phá lô cốt địch, nhân dân ra sức phục hồi ruộng đất. Phong trào gỡ bom mìn được đẩy mạnh, lực lượng công binh huấn luyện cho du kích, tự vệ cách tháo gỡ bom mìn, giải phóng nhanh đất cho nông dân canh tác.

Để tạo điều kiện cho việc phát triển nông nghiệp, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng xác định “Thủy lợi là biện pháp hàng đầu”. Từ chủ trương trên, Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo các địa phương triển khai mạnh vào mặt trận thủy lợi. Chỉ trong vòng 3 năm 1976-1979, toàn tỉnh đã thiết lập được 31 trạm bơm, 27 công trình thủy nông (đập dâng, hồ chứa, đập ngăn mặn). Đặc biệt, ngày 29 tháng 3 năm 1977, đúng dịp Kỷ niệm 2 năm Ngày giải phóng tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và thành phố Đà Nẵng, Tỉnh ủy phát động lễ khởi công xây dựng hồ chứa nước Phú Ninh với công suất tưới 23.000 ha. Đây là công trình đại thủy nông mang tính đột phá của Quảng Nam - Đà Nẵng, gây tiếng vang lớn trong cả nước lúc bấy giờ. Chính công trình thủy lợi Phú Ninh đã góp phần quyết định trong việc chuyển một số rất lớn diện tích đất lúa của các huyện phía nam từ 1 đến 2 vụ lên 3 vụ ăn chắc với năng suất rất cao. Công trình thủy lợi Phú Ninh là một cuộc vận động sức người, sức của lớn chưa từng có của toàn Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh sau ngày quê hương giải phóng. Công trình có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc khẳng định tinh thần thừa thắng xông lên, quyết tâm xây dựng đời sống mới của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng; khẳng định tinh thần dám nghĩ dám làm của tập thể Ban Thường vụ Tỉnh ủy và hàng loạt các cơ quan tham mưu như Ty Thủy lợi, Ty Nông nghiệp,

Page 57: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

57

Ủy ban Kế hoạch, Ty Tài chính, trong đó tham mưu chủ công là Ty Thủy lợi và Văn phòng cấp ủy.

Về ngư nghiệp, thành phố có chủ trương động viên, giúp đỡ ngư dân đẩy mạnh đánh bắt hải sản, cung cấp nhiên liệu cho tàu đánh cá. Trên địa bàn quận II, quận III, nghề cá phát triển mạnh và sản lượng đánh bắt hằng năm đều tăng. Trước nhu cầu phát triển, để có tổ chức chuyên trách chuyên cung cấp các vật tư, ngư lưới cụ, các loại phụ tùng thay thế và máy chuyên dùng cho nghề cá, đồng thời bao tiêu sản phẩm của ngư dân, tránh tình trạng bị động và tư thương chèn giá, ngày 24 tháng 01 năm 1977, Quận ủy quận III thành lập “Công ty Hải sản quận III”, Công ty có 69 biên chế, đây là mô hình chưa từng có ở cấp quận, là bước đột phá ngành kinh tế biển lúc bấy giờ. Tháng 10 năm 1977, quận III thành lập Ban Vận động tổ chức lại nghề cá, nhằm lập kế hoạch củng cố và phát triển nghề cá địa phương. Phong trào hợp tác hóa nghề cá phát triển rầm rộ. Nghề mành đưa kỹ thuật mành điện tiếp vào sản xuất thay thế cho đèn măng-xông; đưa kỹ thuật lưới vây rút chì thay thế cho nghề mành; giã kéo miệng rộng thay thế cho giã kéo cũ năng suất đánh bắt tăng lên, thu nhập ngư dân cao, đời sống được từng bước cải thiện. Nghề chế biến nước mắm phát triển, nhân dân chung vốn lập tổ hợp chế biến hải sản, thu hút thêm nhân lực(1).

Về thương nghiệp, thành phố chỉ đạo ngành thương nghiệp vận động nhân dân phát triển cửa hàng, các chợ để ổn định giá cả. Thương nghiệp thành phố quan hệ tốt với Công ty Nội thương Khu V, Công ty Bách hóa tổng hợp tỉnh để tiếp nhận hàng của Bộ Nội thương. Tại Đà Nẵng, Tỉnh ủy còn chủ trương thành lập Công ty Nông Lâm Sản, công ty thực phẩm các quận, tổ chức hợp tác xã mua bán tại các phường, xã để phục vụ nhu cầu thiết yếu nhân dân. Mạng lưới hợp tác xã tổ chức tại các phường là nét

(1) Năm 1976, thành phố Đà Nẵng có 1.533 chiếc tàu thuyền đánh cá. Năm 1977, có 1.470 chiếc với 7.304 người làm nghề đánh bắt hải sản, khai thác 20.630 tấn hải sản các loại, 368 tấn hải sản khô và 2.415 tấn mắm các loại.

Page 58: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

58

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

mới trong dịch vụ thương nghiệp phục vụ các nhu yếu phẩm cần thiết trong đời sống của người dân thời bấy giờ.

Giá trị hàng hóa ngành thương nghiệp đã thu mua của Đà Nẵng “năm 1976 là 985.000 đồng, năm 1977 là 3.539.000 đồng; tổng mức bán lẻ hàng hóa, năm 1976 là 24.110.000 đồng, trong đó phần thương nghiệp không tổ chức chiếm 20.080.000 đồng, năm 1977 là 39.687.000 đồng, phần không tổ chức chiếm 26.705.000 đồng”(1). Tuy nhiên, những năm đầu sau giải phóng, việc tổ chức ổn định đời sống, xây dựng và phát triển kinh tế phải đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn rất nghiêm trọng; những đòi hỏi chính đáng, cấp thiết của nhân dân là có việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình nhưng người không có việc làm, không có nghề chiếm một bộ phận không nhỏ, khó giải quyết ngay được, trước hết là việc học hành, chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Với hai lĩnh vực này, đối với Đà Nẵng, Tỉnh có nhiều biện pháp cấp bách, vừa giữ nguyên trạng các cơ sở giáo dục, y tế; vừa tổ chức phát triển mạng lưới ở từng quận, huyện xuống xã, phường và khu dân cư. Chính quyền các cấp tiến hành vận động các cháu trong độ tuổi vào tiểu học, đi học ngày càng đông, các trường dạy đến 3 ca trong ngày. Các lớp bổ túc văn hóa được tổ chức đều khắp, trong đó phần lớn là cán bộ, công nhân viên đến học.

Để tiếp tục thực hiện đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước đối với nền kinh tế, ngày 21 và 22 tháng 9 năm 1977, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (khóa I) đã họp bất thường, sau khi nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa II), Hội đồng đã thông qua Nghị quyết về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công, thương nghiệp tư bản tư doanh, Nghị quyết nhấn mạnh: Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư doanh là cần thiết, là yêu cầu bức bách hiện nay. Vì có cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư doanh, mới giải phóng được sức sản

(1) Đảng bộ quận Hải Châu: Lịch sử đấu tranh cách mạng quận Hải Châu (1975-2005), Nxb. Đà Nẵng, 2005, tr. 51.

Page 59: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

59

xuất, mới xóa bỏ được chế độ bóc lột, tạo điều kiện để thúc đẩy các mặt sản xuất và phát triển kinh tế theo hướng đi lên xã hội chủ nghĩa. Về vấn đề phát triển và cải tạo nông nghiệp, Nghị quyết nêu: Hoàn thành cơ bản việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, đưa nông nghiệp đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa về mọi mặt, xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn. Đối với huyện Hòa Vang, được sự giúp đỡ của huyện Quảng Xương (Thanh Hóa), huyện Hòa Vang xây dựng thí điểm Hợp tác xã nông nghiệp Hòa Tiến. Từ đó, huyện mở diện rộng trên 10 xã trong số 16 xã của huyện. Tháng 6 năm 1979, huyện đã có 17 hợp tác xã nông nghiệp chiếm 68,9% số hộ nông dân, 57% lao động nông nghiệp, 64,5% diện tích lúa toàn huyện. Đến đầu năm 1979, toàn huyện Hòa Vang đã lập 17 hợp tác xã nông nghiệp trên tổng số 31 đơn vị, ở Đà Nẵng thành lập 2/3 hợp tác xã nông nghiệp. Các hợp tác xã đã phát huy sức mạnh của quan hệ sản xuất mới, phát huy sức mạnh của lao động tập thể, có tổ chức, đã triển khai tốt các khâu làm đất, làm phân, gieo cấy đúng kỹ thuật, kịp thời vụ. Nhiều hợp tác xã đã đi vào tổ chức phân công lại sản xuất, phân công lại lao động, mở rộng các ngành nghề nhằm tăng thu nhập cho xã viên, tạo điều kiện để đẩy mạnh tốc độ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho hợp tác xã. Nhiều hợp tác xã tạo được khí thế lao động sôi nổi, thể hiện ưu điểm vượt trội về nhiều mặt so với sản xuất cá thể. Thực hiện chủ trương xây dựng hợp tác xã nông nghiệp đi liền với thủy lợi hóa, ở Hợp tác xã Hòa Tiến 1 và Hợp tác xã Hòa Tiến 2 đã xây dựng trạm bơm An Trạch(1). Sau 2 năm phong trào hợp tác hóa, Hợp tác xã nông nghiệp Hòa Tiến 1, Hòa Châu 1 nhận cờ thi đua của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, các Hợp tác xã Hòa Quý 1, Hòa Khương, Hòa Phước được tặng bằng khen.

(1) Ngày 3 tháng 3 năm 1979, 114 chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp Đà Nẵng, Hòa Vang và các huyện đi thăm, học tập kinh nghiệm tại hợp tác xã Định Công (Thanh Hóa), Vũ Thắng (Thái Bình).

Page 60: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

60

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Thực hiện chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công, thương nghiệp tư bản tư doanh, đến ngày 10 tháng 7 năm 1978, Đảng bộ Đà Nẵng đã tiến hành thống kê có 315 hộ tư sản thương nghiệp, trong đó Quận I có 227 hộ, Quận II 85 hộ, Quận III 3 hộ; đồng thời, có 17.458 hộ tiểu thương, trong đó có 5.700 hộ có cửa hàng, cửa hiệu. Đến ngày 10 tháng 7 năm 1978, thành phố đã tiến hành cải tạo tổng cộng 330 hộ (tính cả từ sau năm 1975)(1). Kết quả thu được 536,5 lạng vàng và 15 mặt hàng Nhà nước quy định; tổng số tiền mua hàng và tịch thu trị giá 419.897 đồng(2); trưng dụng 100 nhà cửa. Qua cải tạo, ta đã chuyển nhiều hộ tư sản các loại sang hoạt động sản xuất kinh doanh, nhiều hộ tiểu thương đã chuyển sang lao động sản xuất.

Công tác cải tạo công thương nghiệp, ta đã chuyển từ công quản sang quốc doanh các xí nghiệp: Nhà máy Nước ngọt, Nhà máy Dưỡng khí, Xí nghiệp Nhựa, Xí nghiệp Phân bón hữu cơ, Xí nghiệp Nhôm Dakimco; đồng thời tiến hành trưng thu, mua lại một số ô tô vận tải hàng hóa, rạp chiếu bóng, cơ sở sản xuất bánh mì, cửa hàng ăn uống, xưởng gỗ Đống Đa… Tiến hành công tư hợp doanh một số xí nghiệp, ô tô vận tải, xí nghiệp cơ khí sửa chữa, xí nghiệp in, rạp chiếu bóng, xí nghiệp chế biến, khách sạn. Ngoài ra, từng ngành ta có biện pháp cải tạo bằng hình thức tập thể hóa như ngành quản lý vận tải đường bộ, đường thủy, hợp tác xã cơ khí. Riêng ngành hải sản làm thí điểm 4 hợp tác xã ở Thọ Quang. Tuy nhiên, việc vận dụng chính sách, công tác cải tạo lúc bấy giờ vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập: Các thương gia còn đắn đo trước quyền lợi của mình bị ảnh hưởng, không muốn chuyển sang sản xuất nông nghiệp, vì ngại lao động vất vả, sợ đi xa thành phố; chủ trương vận động họ chuyển sang đầu tư cho công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thì họ lo ngại nên bỏ vốn cầm chừng; một số tư sản dân tộc, từng đóng góp nhiều cho

(1) Trong đó, có 15 hộ tư sản mại bản, 15 hộ tư thương, 300 hộ tư sản thương nghiệp.(2) Chưa tính một số tài sản khác như ngư lưới cụ...

Page 61: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

61

cách mạng tỏ thái độ bất mãn khi ta vận động họ thực hiện chủ trương cải tạo tư bản tư doanh.

Nhìn chung, trong 2 năm 1976-1977, mặc dù tình hình gặp nhiều khó khăn phức tạp, nhưng với sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng, Hòa Vang đã nhanh chóng phục hồi, phát triển các ngành nghề kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện, tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững.

III. THÀNH LẬP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG; ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP, TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP, THƯƠNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ

Để tạo điều kiện cho Đà Nẵng phát triển, theo chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ ra Nghị quyết số 228/TTg, ngày 30 tháng 8 năm 1977 về việc sáp nhập Quận I, Quận II và Quận III thành lập thành phố Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Trên cơ sở Nghị quyết trên, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tiến hành cuộc họp ngày 21 tháng 01 năm 1978 về việc xét chuẩn y đề nghị nhân sự vào Ban Chấp hành Đảng bộ của Ban Tổ chức Tỉnh ủy và tiểu ban nhân sự nghiên cứu thành lập thành phố Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 02 năm 1978, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng ra quyết định sáp nhập các quận I, II, III thành thành phố Đà Nẵng và chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng gồm 30 đồng chí.

Ngày 26 tháng 3 năm 1978, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng triệu tập phiên họp đầu tiên để thành lập Đảng bộ Đà Nẵng và bàn một số nội dung công tác năm 1978. Đồng chí Hồ Nghinh - Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy, Võ Văn Đồng - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Nguyễn Thành Long - Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đến dự. Tại phiên họp này, đồng chí Trần Bắc (Trần Hưng Thừa), Phó Bí thư Thành ủy công bố quyết định của Hội đồng Chính phủ về

Page 62: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

62

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

việc thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và các quyết định của Quảng Nam - Đà Nẵng về việc thành lập Thành ủy và Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng.

Theo đó, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng gồm có 31 đồng chí. Đồng chí Trần Văn Đán - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng; đồng chí Trần Bắc, Tỉnh ủy viên làm Phó Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố; Ban Thường vụ gồm 9 đồng chí(1). Tháng 9 năm 1978, đồng chí Trần Văn Đán được cấp trên điều động, đồng chí Võ Văn Đồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy kiêm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng. Sau đó, đồng chí Nguyễn Thành Long, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được phân công làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Để thành lập bộ máy thành phố Đà Nẵng, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng tăng cường cán bộ tỉnh về, đồng thời rút một số cán bộ từ các quận huyện lên. Bộ máy tổ chức Đà Nẵng nhanh chóng thành lập. Thành ủy thành lập các ban xây dựng Đảng; các tổ chức Mặt trận, các ban ngành đoàn thể; Ủy ban nhân dân thành lập các phòng kế hoạch, tài chính, lương thực, giao thông vận tải, thủy sản, liên hiệp xã, văn hóa, y tế, giáo dục, thành đội, công an, công đoàn.

Thành phố Đà Nẵng được thành lập lúc này, có diện tích khoảng 85 km2 với 33 vạn dân, 28 phường và 117 khối phố. Đơn vị hành chính thành phố Đà Nẵng thành lập có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo điều kiện cho thành phố Đà Nẵng phát triển về lâu dài. Về công tác xây dựng Đảng, đáng chú ý là: Từ tháng 11 năm 1977 đến tháng 02 năm 1978, thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TU

(1) Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết số 03/NQ-TV, ngày 10 tháng 02 năm 1978 về việc thành lập Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng. Đến cuối năm 1979, Đảng bộ Đà Nẵng có 120 tổ chức cơ sở đảng, trong đó 28 Đảng bộ các phường, 22 xí nghiệp, 70 tổ chức cơ sở đảng cơ quan, với tổng số 2.500 đảng viên.

Page 63: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

63

và Chỉ thị số 57-CT/TU của Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, các cấp ủy Đảng của thành phố Đà Nẵng đã tiến hành đợt sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình trong đảng. Đợt sinh hoạt đạt được kết quả, góp phần thiết thực trong việc đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực của đảng viên và tổ chức Đảng. Qua phân loại đảng viên cuối năm, kết quả trong tổng số đảng viên của 28 phường trực thuộc thành phố là 1.743 đảng viên, trong đó có 1.417 đảng viên tích cực, chiếm 81,2%; 217 đảng viên trung bình, chiếm 12.5%; 109 đảng viên yếu, kém chiếm 0,63%.

Sau khi thành lập thành phố Đà Nẵng trực thuộc tỉnh, căn cứ qui định phân công, phân cấp quản lý của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Ủy ban nhân dân thành phố đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành liên quan thực hiện các mặt công tác đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, xây dựng Đảng. Đặc biệt, trong giai đoạn này, nhiệm vụ phát triển kinh tế luôn được thực hiện song song với công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, vận động nhân dân vào các hợp tác xã cả ngành công thương nghiệp, nông nghiệp và ngư nghiệp.

Về công tác cải tạo ngành công thương nghiệp được tiếp tục thực hiện mạnh mẽ, nhất là trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Căn cứ vào các Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, đặc biệt là Chỉ thị số 44 của Bộ chính trị (tháng 4 năm 1978) về công tác cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam và Nghị quyết số 06/NQ-TV, ngày 15 tháng 8 năm 1977 của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về công tác cải tạo và xây dựng. Trong đó nhấn mạnh: “Đến năm 1980, phải hoàn thành về căn bản cải tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, trước hết là xóa bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa”(1).

Để tạo điều kiện cho Đà Nẵng phát triển, Tỉnh ủy chủ trương phát triển thành phố theo hướng thúc đẩy công nghiệp, tiểu thủ

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết số 06/NQ-TV, ngày 15 tháng 8 năm 1977, về cải tạo công thương nghiệp tư doanh”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 64: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

64

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Thực hiện chủ trương trên, thành phố Đà Nẵng tiến hành kiểm kê, định giá, củng cố lại nhà xưởng do các tư sản bỏ lại, những tài sản do các tư nhân hiến cho Nhà nước trong việc cải tạo tư sản… để đưa vào vận hành sản xuất. Đến cuối năm 1979, đã xây dựng thành 7 xí nghiệp quốc doanh gồm: Xí nghiệp Nhôm Sơn Trà, Nước ngọt Đà Nẵng, Dưỡng khí Đà Nẵng, Phân bón hữu cơ, Rượu cồn Đà Nẵng, Nhựa Đà Nẵng, Nhà máy Điện cơ, Xí nghiệp gỗ Đống Đa. Trưng thu và mua lại đưa vào quốc doanh: Rạp chiếu bóng (rạp Kim), các cơ sở nhà in, 3 cơ sở sản xuất bánh mì, 79 xe chuyên dùng và 6 tàu đánh cá, 2 tiệm ăn. Công tư hợp doanh gồm: Xí nghiệp Dệt 29-3, Xí nghiệp Dệt hồ Đà Nẵng, Xí nghiệp Nhuộm in hoa, Xí nghiệp Xe đạp, Xí nghiệp 2-9… Đây là những chủ trương được Đà Nẵng thực thi khá tốt theo yêu cầu của Đảng lúc bấy giờ là “xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; mở rộng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân”. Việc phục hồi, đưa vào sản xuất các xí nghiệp, cơ sở sản xuất tại Đà Nẵng lúc bấy giờ đã nâng cao một bước vai trò làm chủ xí nghiệp của hàng vạn công nhân và lao động trước đây làm thuê cho chủ; bước đầu tổ chức lại sản xuất, phân phối lưu thông theo phương hướng chủ động của kế hoạch nhà nước, phục vụ yêu cầu kinh tế của địa phương(1). Trong đó, Xí nghiệp dệt 29-3 phát triển từ Tổ hợp tác may mặc 29-3, tiến lên xây dựng Xí nghiệp Công tư hợp doanh 29-3. Sau này, tiến lên Công ty Dệt may 29-3. Đây là xí nghiệp tiêu biểu nhất của thành phố, được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước thường xuyên đến thăm, động viên và xem xét nghiên cứu để nhân rộng mô hình này.

Thành phố cũng chủ trương phát triển mạnh ngành tiểu thủ công nghiệp, đã tổ chức lại thành 33 hợp tác xã, 11 tổ hợp tác và

(1) Tại Đà Nẵng, phần lớn các thương gia lớn đều tập trung ở phường Hải Châu 1 (130 người), Hải Châu 2 (120), Phước Ninh (khoảng 50 người), tổng cộng trên 340 người (theo tiêu chuẩn trên quy định người có số hàng hóa trị giá trên 50.000 đồng theo thời giá lúc bấy giờ).

Page 65: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

65

một xí nghiệp hợp tác trong tổng số 249 tổ hợp tác trước đây. Ngành giao thông vận tải đã xây dựng xong các hợp tác xã vận tải cơ giới nhẹ và thô sơ; ngành chế biến lương thực xây dựng thí điểm 3 hợp tác xã xay xát; nghề cá xây dựng 4 hợp tác xã ở Thọ Quang, 1 ở An Hải Tây. Trong nông nghiệp, đã xây dựng 3 hợp tác xã sản xuất rau chuyên canh Khuê Trung, Hòa Cường, Bắc Mỹ An. Thành phố đang tiến hành cải tạo ngành nhà đất và ngành xây dựng.

Trong giai đoạn này, thành phố tiếp tục cải tạo các tập đoàn lớn như kim hoàn, vật tư ngũ cốc, xa xỉ phẩm và Ngân hàng Trung Việt. Hình thành 5 khách sạn công tư hợp doanh: Thanh Thanh, Yến Minh, Đông Kinh, Thủ Đô, Thắng Lợi, Nhà hàng Kim Đình, Thế Giới; đồng thời, thành lập các công ty nông sản, thực phẩm, bách hóa vải sợi, kim khí điện máy, ăn uống khách sạn, chất đốt và vật liệu xây dựng. Nhiều công ty, chi nhánh của Trung ương cũng được thành lập trên địa bàn thành phố gồm 7 công ty chi nhánh của Bộ Nội thương; 8 công ty chi nhánh Bộ Ngoại thương; 3 công ty, xí nghiệp của Bộ Xây dựng; 1 công ty, 3 xí nghiệp của Tổng cục hoá chất; 4 công ty và 3 xí nghiệp tổng kho của Bộ Vật tư; 3 công ty và chi nhánh của Bộ Điện và của ngành cung ứng năng lượng; 1 công ty và 3 xí nghiệp của Bộ Hải sản. Hàng chục công ty, xí nghiệp vận tải chủ lực của Trung ương, bảo đảm phục vụ đồng bộ yêu cầu phát triển toàn diện của thành phố và khu vực. Thành phố đã xây dựng hàng loạt các cửa hàng, điểm bán hàng mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán, các trạm thu mua, gia công chế biến nông lâm thủy hải sản, công nghệ phẩm. Nhà nước nắm độc quyền các mặt hàng kim loại đen, kim loại màu, xăng dầu, xi măng, hóa chất, gỗ, độc quyền các mặt hàng gạo, đường, bột ngọt, xà phòng, thuốc tây. Nhiều xí nghiệp quốc doanh của Trung ương, tỉnh, thành phố được thành lập; công ty hợp doanh, hợp tác xã, tổ hợp tác ra đời.

Trên địa bàn thành phố, các Bộ Trung ương trực tiếp quản lý gồm 5 nhà máy công nghiệp với 49,7 triệu đồng giá trị sản

Page 66: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

66

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

lượng, 44 đơn vị kinh doanh, 9 xí nghiệp xây lắp với số vốn 36 triệu đồng, tổng cộng trên 25.000 cán bộ, công nhân viên. Các xí nghiệp do tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng quản lý gồm 34 xí nghiệp, với 57,8 triệu đồng giá trị sản lượng và phần lớn các đơn vị xây dựng, kinh doanh hoạt động trên địa bàn thành phố. Bộ phận kinh tế do thành phố quản lý gồm 2.057 cơ sở với 21.676 lao động, tổng số tài sản cố định với vốn lưu động trên 10,5 triệu đồng. Năm 1979, kế hoạch giá trị tổng sản lượng 88 triệu đồng, trong đó giá trị sản lượng hải sản là 30,3 triệu đồng(1).

Với ngành giao thông vận tải, thành phố có chủ trương chỉ đạo cải tạo Bến xe Đà Nẵng, Bến đò sông Hàn, thành lập các hợp tác xã vận tải nhẹ xe Lam, xe Dasu, quản lý hợp tác xã xe xích lô và xe ba gác. Ngành đã vận chuyển trên 25 vạn tấn hàng hóa trong năm với trên 8,7 triệu lượt hành khách. Ngành hải sản của thành phố cũng được tiến hành cải tạo, đã xây dựng 1 xí nghiệp quốc doanh đánh cá Hải Vân 18 tàu với 1.700 mã lực, thành lập xí nghiệp nước đá (phục vụ nghề cá), xí nghiệp công tư hợp doanh bột cá, xí nghiệp đóng và sửa chữa tàu thuyền, xây dựng 8 hợp tác xã, 1 tổ hợp, trong đó 360 lao động đánh cá. Riêng Hòa Vang cũng thành lập 1 hợp tác xã nghề cá, với 280 lao động, trong đó 40 lao động trực tiếp đánh bắt cá.

Trong hai năm 1978-1979, qua quá trình lãnh đạo xây dựng, đặc biệt là sau khi thành lập đơn vị hành chính thành phố Đà Nẵng, Đảng bộ và nhân dân đã có nhiều cố gắng để xây dựng và phát triển thành phố. Đảng bộ đã phát huy hai lợi thế tiềm năng thế mạnh là công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thủy sản để phát triển sản xuất, dần cải tạo Đà Nẵng, từ một thành phố tiêu thụ từng bước trở thành thành phố lao động sản xuất.

Tuy nhiên, trong thời gian đầu điều hành thành phố trực thuộc tỉnh, sự chỉ đạo của Thành ủy còn phân tán; năng lực sản

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo xin ý kiến Tỉnh ủy năm 1979”, Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 67: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

67

xuất còn lãng phí, hiệu lực của chính quyền về các mặt quản lý kinh tế, xã hội chưa mạnh. Những vấn đề thành phố đang bức xúc đặt ra là: Đà Nẵng cần tổ chức lại sản xuất nền kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế công, ngư nghiệp có sự chỉ huy và quản lý thống nhất; cần xây dựng Đà Nẵng đúng tầm là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh, là địa bàn quan trọng về quốc phòng - an ninh; Đà Nẵng cần làm tốt 3 cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa kỹ thuật là then chốt. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội. Để giải quyết các vấn đề trên, Thành ủy Đà Nẵng đã kiến nghị, đề xuất Tỉnh ủy một số vấn đề về phân cấp quản lý kinh tế, phải đi đôi với phân công trách nhiệm và quyền hạn vật chất trong công tác chỉ đạo cụ thể. Đặc biệt, quan tâm đến những điều kiện vật chất, kỹ thuật và lực lượng cán bộ cần thiết để thành phố thực thi tốt các nhiệm vụ được giao. Nhờ vậy, qua 2 năm 1978-1979 thực hiện công tác cải tạo, phục hồi sản xuất, Đà Nẵng đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội.

Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thành phố chú trọng phát triển ngành công nghiệp và có nhiều chủ trương khuyến khích đẩy mạnh ngành cơ khí phát triển. Cơ sở sản xuất được tăng thêm và mở rộng, thu hút 9.600 lao động, đưa tổng số người lao động tiểu thủ công nghiệp của Đà Nẵng lên 22.050 người. Thành phố vừa chỉ đạo phát triển sản xuất tập trung vừa mở rộng sản xuất thủ công ở gia đình các mặt hàng phục vụ xuất khẩu như mây, mành trúc, thêu ren, đan lát, dệt vải... Ngành tiểu thủ công nghiệp có giá trị tổng sản lượng hằng năm đạt 60,8 triệu đồng, tăng 33% so với năm 1976. Năm 1979, thành phố đạt 88 triệu đồng, tăng 19,6% so với năm 1978. Tại Hòa Vang, ngành tiểu thủ công nghiệp được củng cố và phát triển mạnh, không chỉ khôi phục lại những ngành nghề cũ mà còn mở rộng

Page 68: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

68

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

phát triển nhiều ngành nghề mới. Từ 20 cơ sở sản xuất năm 1976 chỉ đạt 1,6 triệu đồng đã tăng lên 90 cơ sở năm 1978 với giá trị tổng sản lượng 20 triệu đồng. Huyện được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tặng cờ là: “Huyện có ngành công nông nghiệp phát triển nhanh”.

Về thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, Đà Nẵng có nhiều chủ trương về việc khai thác thu mua hàng tự doanh, phân phối hàng hóa cho các hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tiêu thụ; mở rộng mạng lưới phân phối lương thực và chế biến hoa màu. Năm 1978, doanh số bán ra của hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tiêu thụ đạt 14 triệu đồng; việc thu chi, quản lý tài chánh, quản lý giá cả có nhiều cố gắng. Năm 1978, nhân dân thành phố đã tiết kiệm 19 tấn gạo, đóng góp để nuôi tự vệ; vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm có chuyển biến, số dư đến tháng 5 năm 1979 đạt 8,9 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước số dư tăng 22%.

Xuất phát từ nhu cầu tiêu thụ của thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã chú trọng đẩy mạnh sản xuất lương thực, từng bước hình thành vùng rau chuyên canh ven thành phố. Diện tích rau xanh từ 122 ha năm 1976 phát triển lên 348 ha năm 1978. Trong đó, diện tích vùng rau chuyên canh 1978 đạt 97 ha, vượt 36% so với kế hoạch. Vụ hè 1979 đã tăng lên 121,8 ha, do đó sản lượng rau mỗi năm đều tăng. Phong trào thâm canh, áp dụng giống mới và các biện pháp khoa học kỹ thuật có nhiều tiến bộ. Năng suất lúa từ 1,7 tấn/ha năm 1976 tăng lên 2,5 tấn/ha năm 1978, riêng vụ Đông Xuân 1978-1979 đạt 3,2 tấn/ha; sản lượng lương thực năm 1976 chỉ có 20.000 tấn đã tăng lên 50.000 tấn năm 1978; từ 170 kg lương thực bình quân nhân khẩu năm 1976 tăng lên 360 kg năm 1978.

Thời gian này, việc giải quyết nước tưới để phát triển nông nghiệp là mục tiêu hàng đầu. Trong việc xây dựng đại công trình thủy lợi Phú Ninh, ngay trong năm 1977, toàn đơn vị Đà Nẵng (tức Tổng B Đà Nẵng) đã đào đắp hơn 180.000 m3 đất đá. Trong 10 tháng đầu năm 1978, mặc dù mưa bão, nhưng Tổng B Đà Nẵng

Page 69: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

69

đã đào đắp 35.500m3 đất đá, gấp hai lần rưỡi so với năm 1977. Đại công trình thủy lợi Phú Ninh được xây dựng trong 9 năm gồm: 50 km kênh chính, 427 km từ kênh cấp 1 trở xuống, tăng 83 km so với thiết kế ban đầu, 200 công trình trên kênh chính, 1.200 công trình trên kênh cấp 1 trở xuống(1).

Bên cạnh việc thâm canh tăng năng suất, mở rộng diện tích về lúa, thành phố Đà Nẵng chú trọng đẩy mạnh sản xuất hoa màu. Ngày 28 tháng 12 năm 1978, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng có Chỉ thị số 59-CT/TU về phát động phong trào toàn Đảng, toàn dân thực hiện khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng” nhằm đẩy mạnh sản xuất và chế biến màu vụ Đông Xuân 1978-1979. Nghị quyết Tỉnh ủy đề ra trong năm 1979 là toàn tỉnh phải đưa tỷ trọng màu lên 40% trong sản lượng cả năm. Để thực hiện chỉ tiêu này, Tỉnh đã phát động chiến dịch trồng màu đều khắp mọi nơi trong tỉnh từ ngày 21 tháng 01 đến 15 tháng 3 năm 1979. Thường trực Ủy ban nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã làm việc trực tiếp với Ủy ban nhân dân các phường ở Đà Nẵng để bàn việc huy động lao động khai hoang trồng và chế biến sắn. Là một huyện nông nghiệp, huyện Hòa Vang đã tổ chức học tập Nghị quyết của Tỉnh ủy và đề ra kế hoạch, chỉ tiêu cao hơn trước, bình quân mỗi hộ nông dân từ 1.500 gốc sắn tăng lên 2.500 gốc, toàn huyện tỷ lệ màu chiếm trong tổng sản lượng lương thực từ 30% lên 40%. Đầu năm 1979, Hòa Vang là huyện tiêu biểu của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng có vùng sắn tập trung trên diện tích 1.000ha được quy hoạch và có thâm canh.

Ngành chăn nuôi của huyện Hòa Vang phát triển mạnh, đặc biệt đàn heo tăng nhanh, phục vụ tốt cho giải quyết thực phẩm, tăng thu nhập và thúc đẩy việc thâm canh tăng năng suất cây

(1) Tổng số khối lượng vật tư, tiền vốn, nhân công được sử dụng cho công trình gồm: 15.700.000 m3 đào đắp đất đá, 139.000 m3 đá xây, 120.500 m3 đá lát, 65.300 m3 bê tông các loại, 282 triệu đồng tiền vốn theo mặt bằng giá năm 1982, 18.500.000 ngày công đã được huy động (chưa kể gần 1 triệu ngày công tham gia gián tiếp phục vụ công trường), 33.500 tấn xi măng, 5.300 tấn thép, 9.000 tấn xăng dầu, 12.000 m3 gỗ tròn.

Page 70: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

70

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

trồng. Công tác thủy lợi cũng có nhiều nỗ lực lớn, 5 trạm bơm điện đã bước đầu phát huy tác dụng, các đập dâng, hồ chứa nước, đập ngăn mặn được xây dựng, do đó thúc đẩy cho sản xuất nông nghiệp phát triển. Đặc biệt, huyện đã tiến hành thi công hồ chứa nước Hòa Trung, đây là một công trình lớn nhất của huyện. Các đoàn thể, các tổ chức, nông dân huy động hội viên tham gia lao động xã hội chủ nghĩa, đóng góp ngày công xây dựng công trình. Huyện thường xuyên cử lực lượng lao động tham gia phục vụ cho hồ chứa nước Phú Ninh của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

Về thủy sản, toàn thành phố Đà Nẵng có 8 phường có nghề truyền thống đánh bắt cá tập trung. Năm 1978, ngư dân Đà Nẵng khai thác đánh bắt được 21.100 tấn, xấp xỉ bằng sản lượng năm 1977, 6 tháng đầu năm 1979 ước thực hiện trên 13.000 tấn, so với cùng kỳ năm 1978 tăng 1.500 tấn. Trong hơn hai năm, Đà Nẵng đã điều phối 35.300 lao động cung cấp cho nhu cầu phát triển kinh tế. Tạo việc làm tại chỗ cho 20.000 người và vận động đi xây dựng các vùng kinh tế mới có 8.311 lao động với 20.190 nhân khẩu.

Về thực hiện chính sách kinh tế mới, năm 1976, Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng chủ trương xây dựng vùng kinh tế mới ở Bầu Bàng (thuộc xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang) - tức khu vực: Sông Nam sông Bắc, trên cầu Sụp, dưới đèo Mũi Trâu ra đến huyện Nam Đông của tỉnh Thừa Thiên Huế (đường 14C do Pháp xây dựng trước năm 1945). Riêng Hòa Vang thì đưa dân lên vùng kinh tế mới ở xã Tư của huyện Đông Giang, ở các thôn Vàu, Éo để khai hoang vỡ hóa. Tuy nhiên, những vùng kinh tế mới nói trên trong những năm đầu sau giải phóng không mấy thành công. Do vậy, Đà Nẵng đưa dân đi kinh tế mới tại Khuê Ngọc Điền; Hòa Vang đưa dân vào Ea Súp. Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng của Đà Nẵng, Hòa Vang và được sự giúp đỡ của nhân dân và chính quyền nơi đến, bà con tham gia kinh tế mới các vùng này đã nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống.

Nhìn chung, Đảng bộ đã xây dựng thành phố Đà Nẵng từ trung tâm thương nghiệp, dịch vụ phục vụ chiến tranh của đế

Page 71: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

71

quốc Mỹ thành một thành phố công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển; chuyển từ thành phố chủ yếu phục vụ guồng máy chiến tranh của Mỹ - ngụy thành thành phố lao động sản xuất; từ thành phố sống bằng tiền và hàng viện trợ của nước ngoài sang sống bằng sức lao động chính đáng và sản xuất ngày càng nhiều hàng hóa, sản phẩm tiêu dùng phục vụ xã hội. Biến đội quân thất nghiệp sau ngày 29 tháng 3 năm 1975 là 86.000 người, nay phần lớn đã có công ăn việc làm.

Về văn hóa - xã hội, trong công tác giáo dục, mạng lưới trường phổ thông các cấp được mở rộng, trong đó đáng chú ý là xã nào cũng có trường cấp I và cấp II. Học sinh cấp I, II năm học 1978-1979 có 80.120 học sinh, tăng hơn 11% so với năm học 1977-1978. Tính chung cả học sinh cấp III thì học sinh chiếm 40% dân số thành phố. Phong trào học bổ túc văn hóa được duy trì và phát triển(1). Đến tháng 5 năm 1979, có 5 phường Hải Châu I, Hải Châu II, Hòa Thuận, Tân Chính, Chính Gián phổ cập chương trình mẫu giáo cho 11.455 cháu đi học, chiếm 44% so với số cháu trong độ tuổi. Nhà giữ trẻ năm 1977 có 25 cơ sở, năm 1978 tăng lên 65 cơ sở, đến năm 1979 có 82 cơ sở, thu nhận 1.775 cháu. Phần lớn nhà trẻ được đưa lên hệ công lập.

Phong trào vận động sinh đẻ có kế hoạch đạt kết quả tốt. Cuối tháng 01 năm 1979, có 25/28 phường đạt chỉ tiêu thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Tỷ lệ dân số tăng tự nhiên năm 1977 khoảng 2,7%, năm 1978 giảm xuống còn 2,4%. Phong trào văn nghệ quần chúng khởi sắc, nhiều hội diễn được tổ chức. Hệ thống truyền thanh đã góp phần tuyên truyền, cổ động những công tác lớn, công tác trọng tâm của Đảng và thành phố. Thành phố đã giải quyết chính sách cho 900 người về hưu, mất sức, 1.749 thương binh và 1.030 liệt sĩ. Đặc biệt, năm 1978 đồng bào Hòa Vang góp công để xây dựng tượng đài liệt sĩ Hòa Cầm, một công trình

(1) Năm 1977, huyện Hòa Vang đạt thành tích dẫn đầu toàn tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng về xóa nạn mù chữ, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III.

Page 72: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

72

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

lớn lúc bấy giờ, mang ý nghĩa “uống nước nhớ nguồn” sâu sắc. Hằng năm, vào những ngày lễ lớn như Tết nguyên đán, ngày giải phóng Đà Nẵng (ngày 29 tháng 3), ngày sinh nhật Bác Hồ (ngày 19 tháng 5), ngày Thương binh liệt sĩ (ngày 27 tháng 7), ngày Quốc khánh (ngày 02 tháng 9), lãnh đạo tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và huyện Hòa Vang đều đặt vòng hoa ở Tượng đài này.

Về đời sống, trên cơ sở của sự phát triển về kinh tế, văn hóa, giáo dục và bảo vệ sức khỏe, đời sống vật chất, tinh thần nhân dân lao động thành phố được tăng cường. Tuy có mặt còn khó khăn, nhưng đại bộ phận quần chúng đã sống bằng lao động sản xuất thật sự, có thu nhập chính đáng, khắc phục được nhiều hiện tượng tiêu cực do chế độ cũ để lại. Các lĩnh vực trên ở Hòa Vang cũng giành được nhiều thành tựu.

Về công tác trấn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự: Trong giai đoạn này, một số tên theo chế độ cũ ở Đà Nẵng, Hòa Vang câu kết với thế lực thù địch ra sức hoạt động chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên địa bàn thành phố. Bọn chúng tổ chức thành những băng nhóm hoạt động hết sức tinh vi, xây dựng chi bộ ngay trong lòng thành phố Đà Nẵng, huyện Hòa Vang. Năm 1977, tổ chức “Việt Nam dân tộc cách mạng đảng” do Nguyễn Văn Bảy, Nguyễn An Dân, Ông Văn Chính, Nguyễn Hữu Lan, Huỳnh Bé... cầm đầu, kết hợp với các tổ chức phản động khác xây dựng căn cứ ở miền núi Nam Yên; khu Đồng Xanh - Đồng Nghệ, Ô Rây - Tống Cói; khu Phú Túc (huyện Hòa Vang) và lên kế hoạch đẩy mạnh hoạt động, chọn ngày 25 tháng 12 năm 1977 tiến hành “tổng khởi nghĩa cướp chính quyền”; tuy nhiên, hoạt động của chúng không qua mắt được người dân và lực lượng an ninh. Theo đó, lực lượng công an tỉnh mở chuyên án tiêu diệt tổ chức phản động này và bắt gọn cả số bất hợp pháp ở mật khu cùng với số hoạt động hợp pháp ở trong dân. Trong chiến dịch này, đồng chí Hoàng Văn Lai - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ty Công an trực tiếp chỉ đạo, không may hy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đặc biệt,

Page 73: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

73

qua thực tế vụ án này, Thường vụ Tỉnh ủy và Thành ủy Đà Nẵng đã thực hiện ngay chủ trương tăng cường cán bộ đã từng tham gia kháng chiến chống Mỹ về công tác tại tất cả 28 phường thuộc thành phố(1). Đây là chủ trương lớn nhằm củng cố chính quyền cách mạng ở cơ sở lúc bấy giờ, đồng thời làm tiền đề thực hiện việc trẻ hóa đội ngũ cán bộ phường - xã trong giai đoạn tiếp theo.

Trong khi đó, tàu Trung Quốc xâm nhập vùng biển nước ta tại Đà Nẵng để trinh sát, bắt cóc tàu đánh cá của ta, bắt ngư dân để khai thác nắm tình hình. Nhiều trường hợp bọn tình báo nước ngoài lợi dụng các đoàn lâm thời(2), thư tín, tiền hàng để thu thập tin tức, móc nối gây cơ sở, tác động chiến tranh tâm lí. Bọn phản động nội địa tìm cách mua chuộc lực lượng vũ trang cơ sở để tổ chức vượt biển (đi thoát 3 vụ), nấp sau lưng các tổ chức phản động và hứa sẽ ủng hộ tinh thần. Một số nguỵ quân, nguỵ quyền, đảng phái phản động cũ ngấm ngầm nhen nhóm tổ chức chống đối ta, có ý đồ nhờ Trung Quốc tấn công để nổi dậy. Số vụ vượt biển tăng (194/159 vụ) trong đó 2 vụ giết người cướp tàu tẩu thoát, một số vụ mua chuộc các trạm kiểm sát bến bãi, thành phần công nhân viên chức, bộ đội tại ngũ, tự vệ phường tham gia vượt biển tăng hơn trước. Các hoạt động chiến tranh tâm lí nhằm vào xuyên tạc tình hình, tô đậm khó khăn, nói xấu chế độ, nói xấu việc vận động nhân dân vào hợp tác xã của ta, chống nghĩa vụ quân sự, đả kích hàng ngũ cán bộ lãnh đạo cao cấp(3)… Tuy nhiên, được sự hỗ trợ của nhân dân, lực lượng công an đã khám phá và bắt xử nhiều vụ án quan trọng. Công tác chống

(1) Các đồng chí được tăng cường sau khi tham gia lớp bồi dưỡng 1 tháng về chính trị và tình hình thực tế ở cơ sở, đã được đưa về phường, thay thế và củng cố một số chức vụ về quân sự, đoàn thể để nắm tình hình. Mỗi phường có ít nhất 4 đồng chí.(2) Lúc bấy giờ, các tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Ân xá quốc tế (AL) tổ chức nhiều đoàn lâm thời, thường trú vào Việt Nam để nắm tình hình về dân chủ, nhân quyền.(3) Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo tình hình công tác năm 1979, ngày 31 tháng 12 năm 1979”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 74: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

74

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

vượt biên, vượt biển tại Đà Nẵng thời gian này vô cùng gay go và phức tạp, song được sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân, ta đã bắt giữ, phá hỏng nhiều vụ móc nối, tổ chức vượt biên lén lút.

Trong hai năm 1978-1979, từ ngày hợp nhất 3 quận, thành lập các cơ quan lãnh đạo và quản lý thống nhất, dưới sự chỉ đạo của Ban Chấp hành lâm thời, bộ máy chính quyền được chỉ định, Thành ủy và Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng vừa tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; vừa tiến hành chuẩn bị Đại hội Đảng bộ Đà Nẵng lần thứ I. Theo chủ trương của Tỉnh ủy, trong quá trình tổ chức Đại hội, các tổ chức cơ sở Đảng của các công ty, xí nghiệp, các đơn vị sự nghiệp của Trung ương và tỉnh trên địa bàn thành phố được bàn giao về sinh hoạt tại Đảng bộ thành phố. Trên cơ sở đó, ngày 07 tháng 7 năm 1979, Đại hội lần thứ I Đảng bộ thành phố Đà Nẵng được tổ chức. Tham dự Đại hội có 305 đại biểu, thay mặt 120 tổ chức cơ sở đảng, trong đó 28 Đảng bộ các phường, 22 xí nghiệp, 70 tổ chức cơ sở Đảng cơ quan, với tổng số 2.500 đảng viên.

Trên cơ sở đường lối Đại hội lần thứ IV của Đảng, các chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, tình hình ở địa phương và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, Thành ủy Đà Nẵng xác định mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố theo cơ cấu “công nghiệp, tiểu và thủ công nghiệp - thủy sản - thương nghiệp và dịch vụ”. Với cơ cấu kinh tế đó, phương hướng nhiệm vụ của thành phố tập trung vào các yêu cầu: “Phát huy khí thế cách mạng tiến công và những thắng lợi đã giành được, phát động một cao trào thi đua lao động sản xuất và tiết kiệm sâu rộng mạnh mẽ, liên tục trong nhân dân; phát huy tinh thần tự lực, tự cường, đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp, phát triển nghề cá, thực hiện vành đai rau và đẩy mạnh chăn nuôi; kết hợp xây dựng các khu kinh tế mới, phát triển mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, phát triển mạnh mẽ sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, ổn định và từng bước cải thiện đời sống cho nhân dân; tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ

Page 75: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

75

nghĩa trên mọi lĩnh vực, ra sức củng cố chính quyền nhân dân, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tăng cường công tác an ninh chính trị và trật tự xã hội, quản lý tốt thành phố. Tích cực xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt, bảo đảm lãnh đạo toàn diện mọi nhiệm vụ trong giai đoạn mới”(1).

Trong suốt nhiệm kỳ Đại hội lần thứ I, Thành ủy đã chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội theo nguyên tắc: Nhà nước định mức cung ứng vật tư, nguyên liệu tính theo đầu sản phẩm và thu mua thành phẩm theo đúng giá của cơ quan vật giá quy định; khắc phục tình trạng ép giá và động viên nghĩa vụ nộp sản phẩm quá mức đối với cơ sở sản xuất. Công tác quản lý thị trường được tăng cường, tích cực chống trốn thuế, chống buôn gian bán lận; xóa bỏ tình trạng “ngăn sông, cấm chợ” trong quá trình tổ chức lưu thông - phân phối. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 31 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Thành Long tiếp tục được bầu giữ chức Bí thư Thành ủy; đồng chí Trần Hưng Thừa làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố.

Ngày 10 tháng 6 năm 1979, Huyện ủy Hòa Vang tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VII, nhiệm kỳ 1977-1979. Trong việc đánh giá thành tựu, Đại hội nhấn mạnh: Chặng đường mà Đảng bộ và nhân dân huyện Hòa Vang đã đi trong hơn 2 năm qua gặp phải biết bao khó khăn, thử thách phải vượt qua. Những thành tích tiến bộ chúng ta đã đạt được trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội đã đưa tới những biến đổi khá sâu sắc trong đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị của nhân dân trong huyện. Lần đầu tiên trong lịch sử huyện nhà đã bước đầu hình thành nên giai cấp nông dân tập thể, đã thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, xóa bỏ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất trong công thương nghiệp, đưa nền kinh tế, văn hóa phát triển một bước. Cũng lần đầu tiên huyện đưa được

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: “Báo cáo Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng tại Đại hội đại biểu lần thứ I”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 76: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

76

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

sản xuất lương thực vượt bậc không chỉ đảm bảo đời sống cho mình mà còn làm nghĩa vụ đối với nhà nước. Thắng lợi ấy bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của Trung ương, của Tỉnh ủy về cải tạo xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, đã tạo ra một sức mạnh mới, điều kiện mới để cho nhân dân huyện ta xây dựng một nền kinh tế, văn hóa vượt bậc hơn nữa. Đồng thời, Đại hội chỉ rõ: Tồn tại lớn nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo trước hết là của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện chưa toàn diện, chúng ta chưa khai thác thật tốt khả năng tiềm tàng thế mạnh về kinh tế để đẩy mạnh sản xuất phát triển cải thiện đời sống nhân dân. Đảng bộ quyết tâm vượt qua những thiếu sót ấy để xây dựng huyện nhà có một cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp phát triển vững chắc.

Trên cơ sở quan điểm của Trung ương, tình hình thực tế của Hòa Vang, Đại hội đề ra nhiệm vụ chung trong 2 năm 1979-1980 là: Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phát huy truyền thống cách mạng tiến công, tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết sản xuất, đồng thời sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, khắc phục mọi khó khăn trước mắt trong sản xuất và đời sống; từ đất đai lao động, tài nguyên tại chỗ mà đi lên với tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Ra sức phát huy những thành tích hai năm qua, tập trung mọi lực lượng dấy lên cao trào sản xuất nông nghiệp, phấn đấu tự túc lương thực, thực phẩm, làm tốt nghĩa vụ lương thực đối với nhà nước. Ra sức chi viện sức người, sức của nhiều nhất cho tiền tuyến, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, cải thiện một bước đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 34 đồng chí, Ban Thường vụ có 10 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn Chi làm Bí thư, đồng chí Hoàng Bưu - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Nguyễn Phúc - Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện(1). Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ Đà Nẵng và Hòa

(1) Năm 1981, đồng chí Nguyễn Văn Chi được điều động về công tác tại Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Quang Thái làm Bí thư Huyện ủy.

Page 77: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

77

Vang đề ra, phong trào cách mạng ở Đà Nẵng và Hòa Vang tiếp tục có những bước chuyển biến tích cực, góp phần vào thắng lợi chung của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và cả nước trong những năm tiếp theo.

* **

Từ năm 1975-1979 là giai đoạn chuyển tiếp từ chiến tranh sang hòa bình. Giai đoạn có nhiều khó khăn, thách thức, đặt ra nhiều vấn đề mới yêu cầu Đảng bộ phải giải quyết. Xuất phát từ đặc điểm thành phố Đà Nẵng và huyện Hòa Vang là căn cứ liên hợp quân sự của Mỹ - ngụy, nên sau ngày giải phóng, các địa phương này gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế, xây dựng cuộc sống mới. Thành phố Đà Nẵng chủ yếu là nơi tiêu thụ hàng hóa Mỹ, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn sơ sài. Trong tình hình trên, các thế lực phản động câu kết nhau tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, chiến tranh hai đầu biên giới xảy ra gây cho ta nhiều khó khăn trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng quê hương trong tình hình mới.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng, huyện Hòa Vang đã phát huy truyền thống cách mạng trong kháng chiến, nhanh chóng ổn định tình hình các mặt, trấn áp kịp thời bọn phản động, giữ vững an ninh trật tự ngay từ những ngày đầu giải phóng. Đặc khu ủy Quảng Đà đã thực hiện đầy đủ các chính sách của Đảng, Nhà nước trong tiếp quản thành phố, giải quyết tốt chính sách hòa hợp dân tộc, chính sách khoan hồng của Đảng đối với ngụy quân, ngụy quyền và các đảng phái, tạo điều kiện cho các đối tượng biết ăn năn, hối cải trở về sum họp với gia đình.

Nổi lên trong thời gian này là công tác cải tạo xã hội được tiến hành một cách căn bản, toàn diện và có tính sáng tạo. Đối với các đối tượng từng tham gia chính quyền cũ, được các cấp

Page 78: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

78

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

uỷ Đảng phân loại theo mức độ hoạt động, cộng tác với chính quyền cũ trước đây, để cải tạo, cảm hoá, tranh thủ họ; qua đó, nhiều đối tượng là các viên chức cũ được mời tham gia vào bộ máy chính quyền mới, vừa tận dụng được khả năng chuyên môn, nghiệp vụ của họ, vừa thực hiện tốt chủ trương khoan hồng và tinh thần hòa hợp dân tộc của Đảng. Công tác cải tạo về kinh tế - xã hội, nhất là trong giáo dục đã hướng theo triết lý xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; việc thực hiện nhiệm vụ “đi kinh tế mới” đã tạo thành một phong trào rầm rộ, phân bố một cách hiệu quả nguồn nhân lực sau chiến tranh và thay đổi cách thức sản xuất trước đó; công tác cải tạo công thương nghiệp cùng với việc đổi tiền đã thay đổi căn bản quan niệm về giá trị kinh tế, tạo điều kiện để việc công hữu hoá sau đó được thực hiện một cách nhanh chóng. Nhiều công trình trọng điểm được đầu tư xây dựng, nhất là các công trình thủy lợi để phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiêu biểu như khởi công xây dựng công trình đại thủy lợi Phú Ninh. Trong công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác cán bộ, đã thể hiện rõ một tư duy “lo xa, nghĩ trước”. Đảng bộ chủ trương sử dụng nhiều nguồn cán bộ khác nhau một cách linh hoạt (lực lượng cán bộ từ miền Bắc và từ chiến khu về, cán bộ bám trụ tại địa phương và sử dụng lại những người từng làm việc cho chế độ cũ), nhờ vậy đã tránh được tình trạng thiếu hụt cán bộ một cách trầm trọng sau chiến tranh, nhất là cán bộ trên lĩnh vực quản lý kinh tế.

Nhờ các chủ trương trên, Đà Nẵng từ thành phố tiêu thụ, từng bước trở thành thành phố sản xuất; từ rất ít các xí nghiệp nhà máy, đã hình thành 3 bộ phận chỉ đạo và quản lý kinh tế: Bộ phận kinh tế do Trung ương trực tiếp quản lý, bộ phận do tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng trực tiếp quản lý và bộ phận do thành phố quản lý. Đà Nẵng hình thành 2 thế mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và hải sản nằm trong 4 thế mạnh công, nông, thương, lâm nghiệp của Tỉnh. Các cơ sở trên đã thu hút một lượng lớn lao động của thành phố, tạo công ăn việc làm và thu

Page 79: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

79

nhập cho đại bộ phận nhân dân. Xây dựng đời sống mới, nhất là về giáo dục, y tế, văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ. Hệ thống chính trị được xây dựng và kiện toàn từng bước từ thành phố, huyện đến xã, phường, thôn xóm vững mạnh. Sự ổn định về tình hình an ninh chính trị và nhanh chóng phục hồi sản xuất tại Đà Nẵng, Hòa Vang sau ngày giải phóng, góp phần quan trọng trong công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh tại địa bàn tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ.

Page 80: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 81: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

81

Chương Hai

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘITRONG TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC CÓ

CHIẾN TRANH, VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI CỦAĐẢNG ĐỂ TÌM HƯỚNG ĐI THÍCH HỢP

(01/1979 - 12/1985)

I. GIỮ VỮNG AN NINH CHÍNH TRỊ, TÍCH CỰC HƯỞNG ỨNG PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC TẠI BIÊN GIỚI PHÍA BẮC VÀ TÂY NAM

Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, nhân dân ta tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, nhưng các thế lực thù địch bên ngoài(1) vẫn câu kết nhau chống phá cách mạng Việt Nam.

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, tháng 5 năm 1977, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng vận động tuyển chọn, gọi nhập ngũ 4.500 thanh niên,

(1) Ngày 30 tháng 4 năm 1977, PônPốt đánh vào 13/14 xã vùng biên giới tỉnh An Giang và xã Phù Mỹ (tỉnh Kiên Giang). Được sự hậu thuẫn của Trung Quốc, ngày 22 tháng 12 năm 1978, quân Pôn Pốt huy động 19 sư đoàn bộ binh và nhiều đơn vị xe tăng, pháo binh tiến đánh các tỉnh biên giới Tây Nam của nước ta; đồng thời thực hiện chế độ diệt chủng vô cùng man rợ chưa từng có tại Campuchia.

Page 82: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

82

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

sau khi huấn luyện thì lập tức hành quân lên Tây Nguyên để chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc và tham gia nhiệm vụ quốc tế tại chiến trường Campuchia(1). Quân khu V đã thành lập thêm 4 đơn vị vũ trang, làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại chiến trường Campuchia. “Bộ chỉ huy thống nhất T2” của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được thành lập ngày 10 tháng 8 năm 1978, cũng cấp tốc lên đường làm nhiệm vụ quốc tế này. Tỉnh đã huy động hàng nghìn chuyến xe chở hàng hóa, tân binh để bổ sung vào mặt trận Tây Nam và nước bạn Campuchia. Về hậu cần, để chi viện cho chiến trường, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã vận động nhân dân quyên góp công cụ sản xuất, phương tiện sinh hoạt để cứu trợ cho nhân dân Campuchia. Tỉnh còn chỉ đạo các Ty, ban, ngành chuyển hàng nghìn tấn lương thực, xăng dầu, thuốc men, giống, nông cụ, hàng vạn mét vải để giúp nhân dân Campuchia (chủ yếu hai tỉnh Sictungtreng và Battambang)… Có thể nói, trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, nhân dân Quảng Nam và Đà Nẵng đã không tiếc máu xương, nhân tài, vật lực cho nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia; góp phần giải phóng và cứu nhân dân nước bạn thoát khỏi thảm họa diệt chủng của tập đoàn phản động Pôn Pốt.

Ngày 07 tháng 01 năm 1979, các cánh quân của Quân đoàn 3 và 4 của Quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh tan quân Pôn Pốt - IêngXaRy tại thủ đô Phnôm Pênh. Sau đó, nước Cộng hòa nhân dân Campuchia được thành lập. Ngay sau khi Campuchia được giải phóng, theo Chỉ thị của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng phát động một đợt tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về thắng lợi lịch sử của cách mạng Campuchia, đồng thời tố cáo tội ác diệt chủng vô cùng man rợ của Pôn Pốt - IêngXaRy và thế lực phản động quốc tế. Tỉnh cũng đã động viên nhân dân tiếp tục quyên góp, ủng hộ để chống nạn đói, giải quyết các nhu cầu cấp bách sau chiến

(1) Năm 1978, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức 3 đợt tuyển quân, gần 10.500 thanh niên lên đường nhập ngũ.

Page 83: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

83

tranh cho nhân dân Campuchia: “Đã quyên góp được trên 150 tấn dụng cụ gia đình các loại (quần áo, vải vóc, chén bát, xoong nồi, cuốc xẻng, sách vở, bút, mực, phấn, thước kẻ…), giúp 40 tấn gạo cứu đói, 260 tấn lúa giống)”(1).

Ngày 18 tháng 02 năm 1979, Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác giữa hai nước Việt Nam - Campuchia được ký kết. Trên cơ sở Hiệp ước này, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tiếp tục tăng cường giúp đỡ, hợp tác trên nhiều lĩnh vực, từ việc xây dựng lực lượng vũ trang, đánh tan các nhóm tàn quân Pôn Pốt - IêngXaRy(2), xây dựng lực lượng cách mạng đến việc hỗ trợ các hoạt động kinh tế, văn hóa, củng cố bộ máy các cấp chính quyền tại hai tỉnh là Sictungtreng và Battambang. Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũng đã thành lập Ban Hợp tác kinh tế, văn hóa với Lào và Campuchia để đảm nhiệm nhiệm vụ hợp tác, hữu nghị với các tỉnh bạn(3).

Cùng thời gian này, sau thất bại của con cờ Khmer Đỏ, Trung Quốc tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học” bằng việc huy động quân lính ào ạt tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc của nước ta. Với chiến thuật “tiền pháo hậu xung”, lấy “biển người” để đồng loạt tấn công các vị trí xung yếu ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh. Bộ đội và dân

(1) Ban Kinh tế - Văn hóa đối ngoại Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo số 228/BC/KC, ngày 25 tháng 12 năm 1984 về Tổng kết công tác giúp tỉnh Battambang (Campuchia) từ năm 1979-1984, dự kiến kế hoạch hợp tác viện trợ 1985 và hướng hợp tác trong những năm tới”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.(2) Ngoài các tổ chức ở sát biên giới Thái Lan - Campuchia, còn có nhiều tổ chức chính trị phản động, tổng cộng có 28 tổ chức (nhóm) đều có chung mục tiêu là chống cách mạng Campuchia, nằm trong tổ chức mang tên Mặt trận tự do dân tộc Khơme-Ăngco, Phong trào Đại bàng đen và Đảng mang tên Xihanuc. Tuy nhiên, bọn này luôn mâu thuẫn cắn xé nhau. Các nhóm này âm mưu gây rối, phá các ngày lễ lớn, gây bạo loạn lật đổ, tăng cường xâm nhập về người, lương thực, vũ khí; cài ém người của chúng vào chính quyền và các tổ chức lực lượng cách mạng các cấp… (3) Đầu năm 1980, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng quyết định kết nghĩa với tỉnh Battambang.

Page 84: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

84

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

quân các nơi tuy bị áp đảo về quân số, nhưng vẫn ngoan cường chiến đấu với tinh thần “Sát Thát”, không chịu khuất phục quân xâm lược và đã chặn đứng, đẩy lùi quân giặc, làm phá sản kế hoạch “đánh nhanh, thọc sâu, tiêu diệt lớn” của chúng, tiêu hao số lượng lớn sinh lực địch.

Trước hành động xâm chiếm của các thế lực thù địch, Trung ương Đảng có nhiều chủ trương lãnh đạo quân đội và nhân dân nâng cao sức chiến đấu, sẵn sàng bảo vệ biên giới. Đất nước ta đang đứng trước nhiệm vụ hết sức trọng đại, vừa phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phải sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết đánh bại mọi cuộc tấn công của kẻ thù. Để đáp ứng yêu cầu trên, Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng kịp thời đề ra nhiệm vụ: Phải đảm bảo đủ sức mạnh về quân sự và an ninh, luôn sẵn sàng chiến đấu và tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân.

Thời gian này, ở Đà Nẵng nói riêng và nước ta nói chung, các thế lực phản động đã ráo riết:

- Tăng cường hoạt động tình báo gián điệp.- Nhen nhóm xây dựng các tổ chức phản động ở nội địa

nhằm phá hoại lật đổ.- Đưa người ra nước ngoài huấn luyện, đào tạo rồi tung trở

về hoạt động.- Tiến hành chiến tranh tâm lý đánh sâu vào cán bộ ta.- Tích cực phá hoại công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa

xã hội của nhân dân ta.Trên địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng chúng không từ bỏ một

hình thức nào, để làm cho ta thêm khó khăn, từ những hoạt động phân tán thành từng tổ từng nhóm nhỏ lẩn trốn trong dân hoặc tổ chức thành các toán trộm cắp có vũ trang để gây rối tình hình an ninh xã hội; bọn tình báo mật, bọn tề ngụy ác ôn, những tên cầm đầu các Đảng phái phản động, tôn giáo không chịu trình diện được CIA và mật vụ Trung Quốc tìm cách móc nối, tạo điều kiện để chui vào chính quyền, đoàn thể cách mạng, các ngành

Page 85: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

85

và lực lượng dân quân tự vệ nhằm phá hoại lâu dài công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Ngoài những hoạt động nêu trên, bọn phản động còn đẩy mạnh hoạt động chiến tranh tâm lý, bôi nhọ làm giảm tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đánh vào lòng dân gây tâm lý không tin vào chế độ, vào chính quyền, xuyên tạc chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, kích động thù hằn dân tộc, kích động giữa các thành phần các giới trong xã hội làm chia rẽ sự mất đoàn kết trong quần chúng trong nhân dân, giữa bộ đội với công an, giữa các lực lượng vũ trang với quần chúng.

Đối với hoạt động của người Hoa, chúng ra sức lôi kéo, kích động, gây cho ta rất nhiều khó khăn. Ở Quảng Nam - Đà Nẵng có khoảng 7.800 người với 1.203 hộ, trong đó có 96 hộ tư sản, từ sau khi ta tiến hành cải tạo tư sản bọn chúng ngấm ngầm xúi giục họ tổ chức viết đơn xin ra nước ngoài. Nhất là từ sau sự kiện nạn kiều, chúng tung tin Việt Nam đuổi người Hoa về nước hòng khoét sâu hận thù dân tộc, phao tin đồn nhảm, hù doạ chiến tranh lớn sắp xảy ra… Mật vụ Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động theo thuyết “nội công ngoại kích”, chúng chống đối lại các chủ trương, chính sách của ta bằng nhiều hình thức rất tinh vi và xảo quyệt. Đặc biệt, tình trạng tổ chức vượt biên, vượt biển ngày càng quyết liệt(1). Thêm vào đó, bọn biệt kích, thám báo của Mỹ, Trung Quốc ra sức tăng cường các hoạt động khiêu khích, đẩy mạnh các hoạt động hải quân, không quân trên biển và trên không của Đà Nẵng, để thăm dò trinh sát theo dõi các hoạt động của ta trên đất liền; bắt cóc tàu thuyền của ta, xâm phạm trái phép vùng biển của nước ta(2).

(1) Theo thống kê, từ năm 1975 đến 1980, cả tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng có trên 975 vụ, ta bắt được 645 vụ/7.177 người, thoát 330 vụ/4.655 người, mất 335 tàu thuyền.(2) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo tổng kết công tác Quốc phòng - an ninh từ sau ngày giải phóng đến nay phương hướng nhiệm vụ và những công tác lớn trong những năm 1983-1985”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 86: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

86

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Trước tình hình trên, Bộ Chính trị tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cường các biện pháp chống bạo loạn, coi đó là một công tác trọng tâm. Theo đó, Ty Công an Quảng Nam - Đà Nẵng đã tham mưu Tỉnh ủy Chỉ thị số 39/CT-TU về “Tăng cường công tác bảo đảm an ninh chính trị và trật tự xã hội trong tình hình mới”. Đến cuối năm 1978, Đà Nẵng đã triển khai một số kế hoạch và đã thu được một số kết quả ban đầu: “Lực lượng an ninh các cấp đã điều tra, nắm tình hình âm mưu hoạt động của bọn tình báo nước ngoài, tình báo Trung Quốc, bọn phản động. Các phòng nghiệp vụ, các địa phương, lên danh sách các đối tượng ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động, bọn gián điệp, tình báo, cảnh sát đặc biệt, an ninh quân đội, những tên có nợ máu... Đã rà soát lại số người Hoa cư trú ở Đà Nẵng và nắm chắc một số đối tượng người Hoa là ngụy quân, ngụy quyền và các đảng phái phản động. Công an tỉnh đã thành lập Tiểu đoàn cảnh sát cơ động, Đại đội cơ động của thành phố và các trung đội, tiểu đội. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời các nhen nhóm phản động không để chúng gây bạo loạn, bắt giữ và ngăn chặn được nhiều vụ vượt biển trốn ra nước ngoài”(1).

Ngày 01 tháng 9 năm 1978, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 640/QĐ-QP về việc thành lập cụm phòng thủ tại Đà Nẵng. Thành lập Lữ đoàn 173 gồm 8 tiểu đoàn bộ binh và các hỏa lực pháo binh do đồng chí Thái Văn Tịnh làm Lữ đoàn trưởng(2). Cụm phòng thủ của đảo Cù Lao Chàm, ven biển Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà, đèo Hải Vân. Động viên tuyển quân, tổ chức bộ phận tiền phương T2 với hai tiểu đoàn bộ binh do đồng chí Trần Quang Hải chỉ huy sang Đông Bắc Campuchia chiến đấu. Thành lập Bộ phận chuyên gia 5503 sang tỉnh Sictungtreng giúp bạn. Tỉnh ủy cử đồng chí Ngô Xuân Hạ, Ủy viên Ban Thường

(1) Công an thành phố Đà Nẵng: tlđd, 2003, tr. 104-105.(2) Sau đó, đồng chí Nguyễn Văn Trí làm Lữ đoàn trưởng, đồng chí Hồ Đắc Liễn làm Chính ủy, dưới sự chỉ huy của Tỉnh đội Quảng Nam - Đà Nẵng.

Page 87: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

87

vụ Tỉnh ủy làm Trưởng đoàn chuyên gia qua giúp một số tỉnh Đông Bắc Campuchia. Cử đồng chí Đỗ Thế Chấp, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, giúp tỉnh Battambang; sau đó đồng chí Lê Đào, Ủy viên Ban Thường vụ sang thay. Đến tháng 3 năm 1979, theo quyết định của Bộ Tư lệnh Quân khu V, tổ chức bộ phận cơ quan và 2 tiểu đoàn sang Campuchia để bổ sung vào Sư đoàn 315 Quân khu V. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, trước tình hình chiến sự biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc, Đà Nẵng đã góp phần rất quan trọng sức người sức của để chiến đấu giúp bạn và bảo vệ Tổ quốc. Phát động toàn dân đào đắp chiến hào, trồng tre, rào dây thép gai, tăng cường luyện tập, canh gác.

Thành ủy Đà Nẵng còn khẩn trương chỉ đạo tiến hành nhiều đợt phát động quần chúng kết hợp với công an, bộ đội, dân quân du kích địa phương truy lùng, phục kích, ngăn chặn làm thất bại những thủ đoạn phá hoại của kẻ địch. Phát hiện và bắt giữ hàng chục vụ vượt biên, đưa người trốn ra nước ngoài bất hợp pháp. Phong trào quần chúng tham gia truy quét tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự có chuyển biến tích cực, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn thành phố. Đồng thời, Đảng bộ ra sức xây dựng lực lượng bộ đội chủ lực tập trung thành phố, trước mắt xây dựng một đại đội cơ động mạnh, làm cơ sở phát triển tiểu đoàn và nhiều tiểu đoàn khác khi có chiến sự xảy ra. Ra sức xây dựng lực lượng tự vệ, mỗi phường có một đại đội tự vệ cơ động, đại đội tự vệ tại chỗ và nhiều đại đội tự vệ rộng rãi. Mỗi cơ quan, đơn vị, xí nghiệp đã có tiểu đoàn tự vệ phải tổ chức nhiều tiểu đoàn khác.

Thành ủy Đà Nẵng thực hiện đầy đủ các chủ trương của Đảng và Bộ Quốc phòng, đề ra nhiều chủ trương củng cố xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường bố phòng giữ vững an ninh trật tự, chăm lo phát triển lực lượng vũ trang, tổ chức huấn luyện nâng cao trình độ chiến thuật, chiến đấu cho bộ đội và dân quân du kích, chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Lực lượng

Page 88: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

88

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tự vệ 28 phường của Đà Nẵng đã hoàn thành chương trình huấn luyện quân sự năm 1978, thành lập 25 tiểu đội xung kích và làm lễ ra mắt nhân dân.

Đặc biệt, ngay sau khi Trung Quốc tiến hành xâm lược nước ta, ngày 20 tháng 3 năm 1979, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng đã ban hành Nghị quyết số 04/NQ-TV “Về tình hình và nhiệm vụ toàn tỉnh trong cuộc kháng chiến chống bọn Trung Quốc xâm lược”. Nghị quyết nhấn mạnh: “Làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân quán triệt tinh thần mỗi bản làng, mỗi hợp tác xã, xí nghiệp, mỗi quận huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh thành phố là một chiến trường, cả nước là một chiến trường lớn, hậu phương và tiền tuyến gắn bó làm một, với khẩu hiệu: “cả nước đánh giặc, toàn dân là lính”. Với tinh thần đó, phải chuẩn bị ráo riết chống chiến tranh xâm lược sẵn sàng, mạnh mẽ, cần gấp rút chuẩn bị các tuyến phòng thủ ven biển, hải đảo, biên giới, đồng bằng, trung du và cả thành phố. Thành phố khẩn trương phát triển và xây dựng 3 thứ quân, yêu cầu bảo đảm 3 thứ quân luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, càng đánh càng mạnh. Về lực lượng dân quân tự vệ, Đảng ủy chủ trương phải xây dựng đến tháng 6 năm 1979 đạt cho được 5-6% so với dân số, đến cuối năm 10-12% so với dân số, đảm bảo chất lượng và số lượng, trong khu vực cán bộ công nhân viên Nhà nước bảo đảm 25-30% lực lượng vũ trang, có kế hoạch xây dựng lực lượng chủ lực của tỉnh, huyện. Hình thành các khung và đơn vị dự nhiệm thành lập một trung đoàn đi tham chiến ở tuyến biên giới, theo quy định của Bộ Quốc phòng, có kế hoạch huấn luyện và tác chiến cho ba thứ quân, hình thành các cụm chiến đấu sát hợp với từng vùng, từng địa phương, thực hiện vũ trang và huấn luyện quân sự cho toàn dân nghĩa vụ quân sự và nghĩa vụ lao động, tổ chức thực hiện lệnh tổng động viên của Nhà nước, 18-45 tuổi đối với nam, 18-35 tuổi đối với nữ, ngoài độ tuổi quy định trên lấy tự nguyện, tổ chức lại thành đội ngũ, có kế hoạch huấn luyện quân sự để phục vụ chiến đấu và chiến đấu, vận động

Page 89: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

89

toàn dân làm công sự quốc phòng, ngoài 8 giờ lao động dành 2 giờ luyện tập quân sự”(1).

Thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 và 5 của Ban Chấp hành Trung ương, Lệnh Tổng động viên của Quốc hội và Chỉ thị của Tỉnh ủy; ngày 17 tháng 02 năm 1979, Thành ủy Đà Nẵng đề ra phương hướng, nhiệm vụ đẩy mạnh xây dựng và phát triển sản xuất, tích cực phòng thủ thành phố, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Hưởng ứng lời kêu gọi ngày 04 tháng 3 năm 1979 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Lệnh Tổng động viên ngày 05 tháng 3 năm 1979 của Chủ tịch nước, nhân dân toàn thành phố dấy lên làn sóng căm thù và bừng bừng khí thế sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc. Sáng ngày 05 tháng 3 năm 1979, hàng vạn cán bộ, giáo viên, học sinh Đà Nẵng tổ chức mít tinh, biểu thị ý chí quyết tâm của tuổi trẻ quyết thắng quân Trung Quốc xâm lược.

Hàng vạn thanh niên thành phố Đà Nẵng nói riêng, cả tỉnh nói chung đã hăng hái đăng ký khám sức khỏe, sẵn sàng đi bộ đội bảo vệ biên giới. Thực hiện quân sự hóa thanh niên, toàn thành phố lập hàng trăm đội thanh niên xung kích bảo vệ cơ quan, kho tàng, xí nghiệp, nhà máy. Từ ngày 05 tháng 3 đến 24 tháng 3 năm 1979, thành phố Đà Nẵng có 10 phường thành lập xong đại đội dân quân tự vệ. Nhà máy Dệt Hòa Thọ, Công ty Kim khí phế liệu, Xí nghiệp công tư hợp doanh Ô tô hàng hóa, Trường Trung học Thể dục thể thao Trung ương 3 thành lập tiểu đoàn và đại đội tự vệ chiến đấu. Đến ngày 17 tháng 3, thành phố có 39 cơ quan, đơn vị và 11 phường thành lập xong đơn vị chiến đấu. Ban Chỉ huy Quân sự thành phố và phường đội tập trung chỉ đạo công tác tuyển quân. Nhờ đó, số lượng và chất lượng thanh niên nhập ngũ đều đạt chỉ tiêu.

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết số 04/NQ-TV, ngày 20 tháng 3 năm 1979 về tình hình và nhiệm vụ toàn tỉnh trong cuộc kháng chiến chống bọn Trung Quốc xâm lược”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 90: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

90

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Huyện ủy Hòa Vang tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng trận tuyến quốc phòng toàn dân, lập các trạm canh gác ở những địa bàn trọng điểm, tăng cường công tác củng cố lực lượng dân quân, tổ chức tuần tra canh gác, đề cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến trường. Thanh niên Hòa Vang hăng hái theo tiếng gọi của Tổ quốc đăng ký đi bộ đội, tham gia chiến đấu ở hai đầu biên giới Tổ quốc. Công tác chi viện sức người, sức của phục vụ chiến trường đạt nhiều thành tích, hoàn thành các chỉ tiêu trên giao, góp phần động viên tinh thần chiến đấu của bộ đội ngoài tiền tuyến. Nhân dân các phường ven biển đã đóng góp nhiều ngày công dựng chướng ngại vật dọc ven biển ngăn chặn quân địch đổ bộ bằng đường biển.

Ngoài lực lượng vũ trang và bán vũ trang đang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đà Nẵng còn thêm lực lượng quân sự địa phương, trong đó có 8 phường ven biển với trên 6.100 lao động làm cá, có nhiều phương tiện tàu thuyền đánh cá trên biển, thuận tiện cho việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Nhân dân Hòa Vang đóng góp 21.000 ngày công, 46.000 gốc tre, 86.000 mét dây thép gai rào bảo vệ hành lang ven biển. Trong những năm tháng sục sôi khí thế chống ngoại xâm ấy, hàng ngàn thanh niên Đà Nẵng, Hòa Vang đã tham gia đánh địch trên các tuyến biên giới Tây Nam và phía Bắc, nhiều chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế ở chiến trường Campuchia. Rất nhiều trong số họ đã anh dũng hy sinh cho độc lập dân tộc, cho tình hữu nghị quốc tế cao cả tại các nước anh em.

Ngày 07 tháng 01 năm 1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng. Trước thắng lợi của nước bạn, tháng 4 năm 1979, nhân dân Đà Nẵng đã ủng hộ cho nhân dân tỉnh Sictungtreng (Campuchia) một số hàng hóa và tiền mặt, số hàng trên do máy bay của Quân khu V chở sang. Kết quả trên đã góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng bộ thành phố Đà Nẵng và huyện Hòa Vang đề ra.

Page 91: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

91

II. KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN TRONG TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC CÓ CHIẾN TRANH, RA SỨC PHÁT HUY THẾ MẠNH CỦA THÀNH PHỐ, TỪNG BƯỚC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (1979-1982)

Từ năm 1979 đến năm 1982, trong tình hình đất nước có chiến tranh, đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt: “Sản xuất phát triển chậm, trong khi dân số tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm tiêu dùng xã hội. Lương thực, vải mặc và các mặt hàng thiết yếu đều thiếu. Tình hình cung ứng năng lượng, vật tư, tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng. Chênh lệch giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn. Thị trường và vật giá không ổn định, số người lao động chưa được sử dụng còn đông. Đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn, nhất là đời sống công nhân, viên chức và nông dân những vùng bị thiên tai, địch họa. Các thế lực thù địch trên thế giới lại câu kết tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với ta”(1). Bên cạnh những khó khăn gay gắt về kinh tế - xã hội, sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch bên ngoài, cùng với tình hình nội an có nhiều bất ổn, càng làm gia tăng thêm những khó khăn trên mọi mặt đời sống nhân dân, là những thách thức lớn mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phải phấn đấu vượt qua.

Tại tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, trong khi chưa hàn gắn được vết thương chiến tranh, lại phải góp phần đương đầu với cuộc chiến tranh mới do bọn phản động bành trướng Trung Quốc gây ra trên cả hai đầu của Tổ quốc, buộc Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng phải chia sẻ lực lượng để cùng một lúc bảo đảm hai nhiệm vụ: Vừa sản xuất vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu; vừa lo khôi phục phát triển kinh tế địa phương, vừa góp phần làm nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tập 1, Nxb. Sự thật, 1982, tr. 35.

Page 92: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

92

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Campuchia. Cũng chính vì thế mà nguồn vật tư Nhà nước cung ứng cho tỉnh ngày càng giảm sút(1).

Tại Đà Nẵng, trong lúc tình hình sản xuất vừa mới được phục hồi sau chiến tranh, kinh tế chưa thật ổn định, nông nghiệp què quặt; công nghiệp manh mún, vụn vặt, hiệu quả chưa cao. Kế hoạch giao cho các ngành, các cơ sở chậm và thường phải điều chỉnh nhiều lần. Vật tư, sắt thép, xăng dầu chỉ được cung cấp từ 30 đến 50% so với nhu cầu. Tại Hòa Vang, nơi kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp thì chưa được cải tạo bao nhiêu, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, hậu quả của chiến tranh để lại còn nặng nề, ảnh hưởng thực dân phong kiến chưa được khắc phục triệt để. Tình hình đó đưa đến một hệ quả tất yếu là: Đời sống của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân cả ở thành thị và nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về lương thực, thực phẩm và những nhu yếu phẩm khác.

Trong bối cảnh đó, tháng 12 năm 1979, Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng tiến hành Đại hội lần thứ XII. Tham dự Đại hội có 495 đại biểu đại diện cho 25.719 đảng viên của Đảng bộ. Đại hội vinh dự được đón đồng chí Đoàn Khuê, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thiếu tướng, Tư lệnh Quân khu V đến dự và phát biểu chỉ đạo.

Đại hội đã nghe Báo cáo tình hình và nhiệm vụ, Báo cáo về kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội 2 năm 1980 - 1981, Báo cáo về công tác xây dựng Đảng, Báo cáo về công tác Dân vận và Mặt trận của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.

Nhận định tình hình trong thời trước đó, Đại hội khẳng định: “Thành tích nổi bật của tỉnh trong hai năm qua là vừa cải tạo, vừa xây dựng để phát triển sản xuất, nâng cao văn hóa, giải quyết đời sống. Đặc biệt là tăng nhanh sản lượng lương

(1) Điển hình như: Một số vật tư chủ yếu được Nhà nước cung ứng trong năm 1980 so với năm 1976 như sau: Diesel bằng 26%, xăng bằng 29,3%, ciment bằng 33,5%, săm lốp ô tô máy kéo bằng 42,5%, đạm Sulfat bằng 50,5%, sắt thép bằng 66,4%, than mỏ bằng 70%...

Page 93: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

93

thực, trang trải phần lớn nhu cầu tại chỗ, khôi phục các ngành nghề truyền thống, phát triển công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp, làm thêm nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu; sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa và thông tin, thể dục thể thao đều phát triển; đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Công tác quân sự địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, sẵn sàng chiến đấu và trực tiếp góp phần phục vụ chiến đấu... có những bước tiến quan trọng. Công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có nhiều thành tích. Sức chiến đấu, năng lực và trình độ lãnh đạo của các cấp ủy Đảng được nâng lên một bước; chính quyền từ tỉnh đến cơ sở có tiến bộ về năng lực tổ chức thực hiện, quản lý kinh tế và quản lý xã hội; công tác đoàn thể có phát triển; đội ngũ cán bộ lớn mạnh và đa số trưởng thành thêm một bước”(1).

Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ trong hai năm 1980 - 1981 là: Từng bước xây dựng tỉnh ta thành một tỉnh có cơ cấu công, nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, giàu về kinh tế, vững mạnh về chính trị và quốc phòng”(2). Đặc biệt, để phát huy vai trò và vị trí của Đà Nẵng, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh phải “xây dựng Đà Nẵng thành phố cảng vững mạnh về mọi mặt, thực sự xứng đáng là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của cả tỉnh”.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XII) gồm 44 đồng chí, trong đó có 43 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Ngày 18 và 19 tháng 12 năm 1979, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị lần thứ nhất và đã bầu ra Ban Thường vụ gồm 13 đồng chí. Đồng chí Hồ Nghinh làm Bí thư, đồng chí Võ Văn Đồng - Phó

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XII”. Tài liệu lưu hành nội bộ, tr.3. (2) Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: tlđd, tr.9.

Page 94: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

94

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Bí thư, đồng chí Hoàng Minh Thắng - Phó Bí thư. Hội nghị bầu ra Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy gồm 9 ủy viên, đồng chí Phạm Việt Dũng làm Trưởng ban. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh cũng dành thời gian để bàn một số công tác lớn trước mắt, nhất là sản xuất vụ Đông Xuân, thu mua lương thực và thực phẩm, thực hiện một số biện pháp cấp thiết để ổn định đời sống cán bộ, công nhân và chăm lo công tác xây dựng Đảng.

Sau Đại hội, trong không khí phấn khởi chung, Đảng bộ Đà Nẵng bắt tay vào việc phát triển kinh tế và đạt được những thành tựu quan trọng.

Về phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Đối với thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở xác định tầm quan trọng đặc biệt của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Đảng bộ tập trung chỉ đạo thành lập các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và mạng lưới các hợp tác xã, xí nghiệp hợp tác, tổ hợp. Nhờ vậy, chỉ sau thời gian ngắn, Đà Nẵng là nơi tập trung nhiều cơ sở sản xuất thuộc các ngành cơ khí, hóa chất, cao su, nhựa, dệt da, may nhuộm, thủy tinh, chế biến lương thực, thực phẩm, làm hàng thủ công, mỹ nghệ xuất khẩu. Mạng lưới tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển khá nhanh với hàng trăm cơ sở thêu, sản xuất hàng mây tre và một số mặt hàng khác.

Cùng với sự phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đội ngũ công nhân lao động cũng không ngừng tăng mạnh. Tính đến cuối năm 1982, toàn thành phố có trên 25.000 công nhân lao động, sản xuất trên 200 mặt hàng. Nhờ vậy, tổng giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của thành phố không ngừng tăng theo từng năm. Nếu năm 1976, giá trị tổng sản lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chỉ 41 triệu đồng thì năm 1981 tăng lên 84,078 triệu đồng(1) và năm 1982 tăng lên 111 triệu

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Thông báo kiểm điểm của Thành ủy về sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị năm 1981”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 95: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

95

đồng(1). Bình quân, giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Đà Nẵng chiếm tỉ trọng trên 40% tổng giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp toàn tỉnh. Đáng chú ý là trong tất cả các năm, tổng giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đều đạt và vượt kế hoạch. Cụ thể, năm 1981 đạt 112,1% kế hoạch, còn năm 1982 đạt 123,3% kế hoạch. Nhiều phường như Xuân Hà, Hải Châu I, đạt giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cao. Tuy nhiên, mặt yếu của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thành phố là chất lượng sản phẩm chưa tương xứng với giá thành, định mức tiêu hao vật tư, định mức lao động, công tác quản lý của ngành, của chính quyền thành phố vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết.

Tại Hòa Vang, tuy gặp nhiều khó khăn về nguyên vật liệu, xăng dầu nhưng nhờ sự nỗ lực của các cấp, các cơ quan hữu quan nên ngành tiểu thủ công nghiệp huyện đã giành thắng lợi bước đầu trong việc cải tạo, tổ chức lại và phát triển sản xuất. Điểm đặc biệt của ngành tiểu thủ công nghiệp Hòa Vang trong thời gian này là huyện đã mạnh dạn khai thác vốn trong nhân dân để tăng thêm năng lực sản xuất. Nhờ vậy, cơ sở sản xuất ngành tiểu thủ công nghiệp huyện không ngừng tăng. Nếu năm 1976, toàn huyện chỉ có 363 cơ sở sản xuất, sử dụng 770 lao động thì đến năm 1980 đã tăng lên 999 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, sử dụng 6.013 lao động(2). Trên cơ sở đó, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp phát triển đúng hướng. Cơ sở vật chất kỹ thuật không ngừng được tăng cường. Trên 50% tư liệu sản xuất chủ yếu đã được tập thể hóa. Giá trị tổng sản lượng khu vực kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng 78,5% giá trị tổng sản lượng toàn ngành. Nếu năm 1978, giá trị tổng sản lượng tiểu thủ công nghiệp toàn huyện là 12,3 triệu đồng thì đến năm 1981 tăng lên 28 triệu đồng. Bước sang năm 1982, giá trị tổng sản lượng tăng lên đến 33,5

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số liệu về phát triển kinh tế - xã hội năm 1982”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.(2) Báo Quảng Nam - Đà Nẵng, số ra ngày 18 tháng 3 năm 1986.

Page 96: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

96

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

triệu đồng, tăng 20% so với năm 1981, nhiều mặt hàng mới có giá trị kinh tế ra đời. Nhờ việc tích cực huy động vốn và lao động kỹ thuật trong nhân dân, mở rộng quan hệ hợp tác hai chiều và nhiều chiều đã tháo gỡ một số khó khăn trong sản xuất.

Về thương nghiệp, công tác xuất nhập khẩu, phân phối lưu thông ở Đà Nẵng cũng có nhiều chuyển biến đáng kể. Thông qua cải tạo xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ thành phố từng bước tổ chức lại nền kinh tế, hình thành mạng lưới phân phối lưu thông, xây dựng thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mua bán. Năm 1981, kim ngạch xuất khẩu của thành phố đạt 18,4 triệu đồng. Năm 1982, tăng lên 54 triệu đồng. Trong đó, tỷ lệ hàng thủ công mỹ nghệ 19%, hải sản 81%. Ngoài kế hoạch tỉnh giao, Đà Nẵng còn xuất khẩu thêm một số hải sản, nhập một số tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng cấp thiết phục vụ nhu cầu cho nhân dân. Thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán ở huyện Hòa Vang có một số chuyển biến tích cực. Công tác quản lý thị trường, sắp xếp lại các chợ được tiến hành thường xuyên và có kết quả. Đáng chú ý, năm 1981 là năm đầu tiên huyện Hòa Vang thực hiện kinh tế đối ngoại nên bước đầu vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, kim ngạch xuất khẩu không cao, chỉ ở mức 8.000 rúp-đôla. Đến năm 1982, lĩnh vực xuất khẩu huyện có nhiều tiến bộ vượt bậc với tổng kim ngạch xuất khẩu tăng lên 150.000 rúp-đôla(1). Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông sản và các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp. Quảng Nam - Đà Nẵng là một trong những địa phương đi đầu trong việc thực hiện chủ trương “phá rào” nhằm tiến hành thử nghiệm đổi mới chính sách trong lĩnh vực phân phối lưu thông, góp phần giúp Trung ương định hình quyết tâm chuyển sang kinh tế thị trường và đổi mới toàn diện tại Đại hội VI của Đảng sau này. Đây cũng là một lý do, để Trung ương điều đồng chí Hồ Nghinh ra làm Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương năm 1982 và đồng chí Hoàng Minh Thắng được điều ra làm Bộ

(1) Bài: “Ngành xuất khẩu huyện Hòa Vang: Kết quả và triển vọng”, Báo Quảng Nam - Đà Nẵng, số ra ngày 08 tháng 3 năm 1986.

Page 97: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

97

trưởng Nội thương năm 1986. Tuy nhiên, mặt yếu của ngành thương mại Đà Nẵng lúc này là: Công tác phân phối lưu thông vẫn còn hiện tượng chạy theo doanh số, sinh ra nhiều tiêu cực, mạng lưới tổ chức mỏng. Mạng lưới thương nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã mua bán chưa thực hiện khẩu hiệu “Mua tận gốc, bán tận ngọn”, phương thức thu mua chưa ổn định. Công tác huy động lương thực và các mặt hàng khác chậm đổi mới. Từ đó, dẫn đến hậu quả là nhiều sản phẩm thu mua chưa đạt chỉ tiêu, kế hoạch đề ra.

Ngành tài chính, ngân hàng phục vụ tốt sản xuất, kinh doanh, xây dựng cơ bản cũng như chăm lo đời sống cho nhân dân toàn thành phố. Đặc biệt, ngành tài chính Đà Nẵng có nhiều cố gắng phối hợp với các cơ quan liên quan làm tốt công tác kê khai và cấp đăng ký kinh doanh công thương nghiệp, tích cực thu ngân sách. Năm 1981, thu 45,572 triệu đồng, vượt kế hoạch 4,52%. Năm 1982, công tác thu tài chính đạt kết quả khả quan với tổng thu là 97,468 triệu đồng, vượt 5,44% so với kế hoạch. Bên cạnh công tác thu, ngành tài chính cũng có nhiều tiến bộ trong công tác chi, góp phần hoàn thành vượt mức kế hoạch thu chi hằng năm.

Trên lĩnh vực nông nghiệp, Đà Nẵng có hơn 800ha(1) diện tích gieo trồng cây lương thực nhưng hầu hết là đất cát, chua mặn, manh mún, không có các công trình thủy lợi và những điều kiện cần thiết để ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật. Trước tình hình ấy, Thành ủy đã chỉ đạo các phường tích cực chuyển hướng cây trồng thích nghi với thực trạng đất hiện có như lúa, cây công nghiệp và các loại rau, màu; bên cạnh đó, khuyến khích nông dân các phường tích cực khai hoang, vỡ hóa, tăng diện tích trồng trọt. Đồng thời, các hợp tác xã cũng tổ chức giao khoán sản phẩm cuối cùng cho người lao động. Nhờ vậy, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố có nhiều mặt phát

(1) Chi cục Thống kê Quảng Nam - Đà Nẵng: tlđd, 1981, tr.108.

Page 98: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

98

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

triển, bước đầu mang lại hiệu quả đáng kể. Bình quân hằng năm, nông dân Đà Nẵng sản xuất từ 5.000 đến 6.000 tấn rau xanh. Về lương thực quy thóc, năm thấp nhất khoảng 1.300 tấn và cao nhất trên 2.500 tấn. Tiêu biểu như năm 1981, sản lượng lương thực quy thóc đạt 1.390 tấn, vượt 6,9% kế hoạch thì năm 1982, sản lượng lương thực quy thóc đạt mức cao nhất với 2.557 tấn, vượt kế hoạch 36,5%. Tại Hòa Vang, Đảng bộ và nhân dân toàn huyện chú trọng việc đẩy mạnh xây dựng các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tính đến cuối năm 1982, Hòa Vang đã hình thành hệ thống 5 trạm bơm và nhiều hồ đập chứa nước lớn nhỏ đủ khả năng tưới 16.000 ha. Hệ thống trạm, trại, sân phơi, nhà kho hình thành tương đối hoàn chỉnh. Giá trị tài sản cố định bình quân 1 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp khoảng 40 vạn đồng.

Đặc biệt, kể từ năm 1979, huyện chuyển hướng sang thâm canh, tăng vụ, bố trí lại cây trồng, bước đầu đi vào khai thác tiềm năng đất đai lao động theo chiều sâu, gắn chặt với phong trào hợp tác hóa, thủy lợi hóa và từng bước cơ giới hóa. Vụ Đông Xuân 1981-1982, toàn bộ các hợp tác xã đã khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động. Đã có 87,2% hộ xã viên nhận khoán với 84,1% ruộng đất được giao khoán. Trong đó, có 70% hộ đạt và vượt khoán, 100% hợp tác xã đạt và vượt khoán. Năng suất lúa bình quân mỗi ha toàn huyện từ 25,33 tạ năm 1978 tăng lên 32,2 tạ năm 1981, một số cánh đồng đạt năng suất khá cao. Đi đôi với việc tập trung cây lúa, Đảng bộ Hòa Vang cũng rất chú trọng phát triển cây màu. Diện tích trồng màu bình quân hằng năm đạt 10.000 ha, đưa tổng sản lượng lương thực toàn huyện từ 49.500 tấn năm 1978 lên 72.600 tấn năm 1981, tăng 32%.

Về chăn nuôi, ở Đà Nẵng, ngoài 2 cơ sở nuôi gà tại An Khê và nuôi heo tại Đông Giang, ngành chăn nuôi thành phố chủ yếu dựa vào chăn nuôi gia đình. Do gặp khó khăn về nguồn thức ăn chăn nuôi nên hằng năm, số lượng đàn heo bình quân chỉ đạt từ 23.000 đến 27.000 con, cung cấp từ 1.000 đến 1.500 tấn thịt. Tuy

Page 99: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

99

nhiên, trong hai năm 1981-1982, đàn heo tăng nhanh. Nếu năm 1981, đàn heo đạt 29.000 con thì năm 1982, tăng lên 32.000 con. Đáng chú ý là việc giải quyết con giống và chế độ nuôi dưỡng tiến bộ hơn trước. Về giống, do giống heo địa phương thoái hóa, trọng lượng thấp nên từng bước được bà con thay dần bằng giống heo Móng Cái, Đại Bạch. Đây là giống heo với nhiều ưu điểm như trọng lượng xuất chuồng bình quân 40kg mỗi con, thời gian nuôi dưỡng được rút ngắn, hiệu quả kinh tế cao, đàn heo tăng lên. Tại Hòa Vang, nếu năm 1981 tổng đàn heo của huyện là 66.240 con thì bước sang năm 1982 tăng lên 770.670 con. Cùng với chăn nuôi heo, Hòa Vang luôn chú trọng phát triển chăn nuôi trâu, bò và một số loại gia cầm khác. Tính đến cuối tháng 12 năm 1982, toàn huyện có 2.700 con trâu, 7.500 con bò(1).

Ngành lâm nghiệp Đà Nẵng trong thời kỳ này có nhiều cố gắng trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân trồng cây. Nhờ vậy, trong 3 năm 1979 - 1982, Đà Nẵng trồng được 1 vạn cây. Đồng thời, nhằm đáp ứng nhu cầu về gỗ cho các ngành sản xuất cũng như phục vụ tiêu dùng cho nhân dân, thành phố cũng khai thác được 3.000 mét khối gỗ tròn, trên 15 triệu sợi mây. Tuy nhiên, công tác quản lý và khai thác rừng quy hoạch chưa được tiến hành chặt chẽ. Khâu khai thác, vận chuyển và phân phối gỗ xảy ra một số hiện tượng tiêu cực. Đối với Hòa Vang, mỗi năm huyện trồng được từ 2 đến 5 triệu cây các loại. Đặc biệt, năm 1982, cán bộ và nhân dân huyện trồng được 5,2 triệu cây, tăng hơn 2 lần so với năm 1981 là 2,5 triệu cây. Trên cơ sở đó, Hòa Vang đã hoàn thành 2.085 ha rừng tập trung. Công tác bảo vệ rừng có tiến bộ, nạn cháy rừng hạn chế một bước. Về khai thác, từ năm 1979 đến năm 1981 Hòa Vang khai thác được 7.035 mét khối gỗ các loại, góp phần đáp ứng nhu cầu gỗ cho các cơ quan cũng như nhân dân trên địa bàn huyện.

(1) Huyện ủy Hòa Vang: “Báo cáo tổng kết tình hình công tác năm 1982 và phương hướng nhiệm vụ năm 1983”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 100: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

100

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Đối với ngành thủy sản, Thành ủy Đà Nẵng rất quan tâm, coi trọng việc phát triển ngành này. Đây là nơi tập trung 1.340 tàu thuyền với công suất gần 20.000 mã lực, thu hút 5.867 lao động các ngành nghề trên biển(1). Tuy nhiên, do gặp nhiều khó khăn, nhất là về cung cấp vật tư, xăng dầu, ngư lưới cụ cũng như ảnh hưởng của thời tiết nên trong quá trình bám biển đánh bắt, ngành hải sản Đà Nẵng không phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của mình. Trước tình hình ấy, Thành ủy đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm tháo gỡ những vướng mắc về tổ chức và quản lý, tận dụng các nguồn vật tư kỹ thuật, nhiên liệu, ngư lưới cụ, cải tiến và chuyển hướng kỹ thuật đánh bắt để duy trì khả năng sản xuất của nghề cá qua các năm.

Đáng chú ý, trong thời kỳ này, ngành thủy sản đã có những cố gắng vượt bậc trong việc tổ chức đánh bắt cũng như cải tiến phương tiện. Về tổ chức đánh bắt, bà con đã biết kết hợp giữa nghề lưới vây rút chì với lưới cản, lưới chuồn và nghề giã, te ruốc với mành điện. Đồng thời, phương tiện đánh bắt cũng được cải tiến như trong nghề mành bà con dùng điện thay vì sử dụng đèn măng - xông, trong nghề giã tôm dùng cước thay cho ni - lông. Nhờ vậy, trong những năm 1979 đến năm 1982, tuy gặp khó khăn gay gắt về nguyên vật liệu nhưng sản lượng đánh bắt hằng năm không ngừng tăng. Cụ thể, trong năm 1981, ngành chỉ được cung ứng 41,3% nhiên liệu và 45% vật tư so với năm 1980 và chỉ bằng 1/5 yêu cầu kế hoạch nhưng tổng sản lượng đánh bắt đạt 14.560 tấn, vượt 27% so với kế hoạch. Trong đó, thu mua 3.000 tấn, vượt 39% kế hoạch. Đặc biệt, năm 1982, toàn thành phố đánh bắt được 19.400 tấn, vượt kế hoạch 12%, trong đó thu mua 3.820 tấn, vượt 24% kế hoạch. Nổi bật là phường Nại Hiên Đông, nếu năm 1978 bà con ngư dân toàn phường đánh bắt được 2.300 tấn thì bước sang những năm 1979-1982, hằng năm sản lượng đánh bắt bình quân trên 3.000 tấn. Đồng

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số liệu về phát triển kinh tế - xã hội năm 1982 của Thành ủy Đà Nẵng”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 101: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

101

thời, Đà Nẵng cũng chú ý phát triển nghề nuôi trồng thủy sản, nếu năm 1980, diện tích nuôi trồng thủy sản toàn thành phố là 31 ha thì năm 1981 tăng lên 35 ha. Số cá giống cũng tăng từ 400.000 con năm 1980 lên 1,2 triệu con năm 1981. Trên cơ sở đó, sản lượng cá nước ngọt, nước lợ hằng năm bình quân từ 30 đến 40 tấn. Ngành thủy sản Hòa Vang gặp nhiều khó khăn do cơ chế quản lý chưa phù hợp, chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có và tình trạng thiếu nhiên liệu kéo dài chưa được tháo gỡ. Nhưng ngành ngư nghiệp đã có những cố gắng vượt bậc trong việc tổ chức khai thác, đánh bắt nên về cơ bản sản lượng đánh bắt hải sản hằng năm Hòa Vang đều đạt kế hoạch, trong đó năm 1982, sản lượng đánh bắt hải sản cao nhất với 780 tấn. Đặc biệt, Hòa Vang là địa bàn có phong trào nuôi cá nước ngọt trong các hợp tác xã khá phát triển. Trong những năm 1979 đến năm 1982, nhân dân toàn huyện đã đưa tổng diện tích ao, hồ nuôi cá nước ngọt tăng lên gần 300 ha, đã thả nuôi 16 triệu con cá giống, tổ chức khai thác gần 100 tấn cá nước ngọt. Rõ ràng, đây là kết quả đáng khích lệ, nhất là trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Mặt yếu của ngành thủy sản Đà Nẵng nói riêng, cả tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung lúc bấy giờ là: Quản lý còn buông lỏng, phương thức đánh bắt cá chậm đổi mới, công tác thu mua còn yếu, chưa có biện pháp tích cực tận dụng ao, hồ phát triển nghề nuôi trồng thủy sản.

Vấn đề lao động, việc làm là công tác vô cùng quan trọng nhưng cũng hết sức khó khăn. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, công tác lao động việc làm ở Đà Nẵng có nhiều cố gắng trong quá trình phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo công ăn việc làm cho người dân trong độ tuổi lao động. Riêng các ngành tiểu thủ công nghiệp đã thu hút 6.500 lao động. Thành phố cũng điều phối lao động cho các ngành kinh tế của Trung ương và của tỉnh cũng như đưa đi đào tạo và học nghề ở nước ngoài với tổng số lao động là 18.300 người. Ngoài ra, còn có 1.000 lao động tình nguyện đi xây dựng các vùng kinh tế mới.

Page 102: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

102

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Từ năm 1978 đến năm 1982, toàn thành phố có 10.500 lượt thanh niên xung phong và 30.500 lượt dân công nghĩa vụ tham gia công trường đại thủy nông Phú Ninh, góp phần hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, năm 1981, thành phố đã điều phối được 6.697 trên tổng số 8.100 lao động. Trong đó, tuyển sinh 2.087 người, tuyển dụng 708 người. Về huy động thanh niên xung kích cho công trình đại thủy nông Phú Ninh, toàn thành phố huy động được 2.200 thanh niên. Nhờ vậy, năm 1981 là năm công tác điều phối lao động tăng cao, lên đến 59,4% so với năm 1980. Tuy thành phố đã có nhiều cố gắng giải quyết tình trạng căng thẳng về việc làm cho người lao động nhưng áp lực về việc làm vẫn còn rất lớn. Số người đến tuổi lao động nhưng chưa có việc làm chiếm tỉ lệ khá cao. Năm 1980, toàn thành phố có 128.875 người trong độ tuổi lao động nhưng số lao động có việc làm là 80.896 người, chưa có việc làm là 44.880 người. Số còn lại là những người mất khả năng lao động, tức 3.099 người(1). Như vậy, số người chưa có việc làm tính theo tổng số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ trên 30%. Ở Hòa Vang, từ năm 1982, huyện bước đầu sắp xếp lại lực lượng lao động trong khối hành chính sự nghiệp, tiến hành tinh giản bộ máy gián tiếp trong các ngành kinh tế khác theo tinh thần Nghị quyết 16 của Hội đồng Bộ trưởng, thành lập một số đơn vị sản xuất kinh doanh mới, giải quyết một số lao động chưa có việc làm. Huyện cũng vận động đưa 1.117 hộ nhân khẩu đi kinh tế mới. Trong đó, có 800 nhân khẩu đi vùng kinh tế mới ngoài tỉnh, nâng tổng số người đi kinh tế mới ngoài tỉnh trong thời gian này lên đến 2.969 người. Nhờ vậy, vùng phía tây Hòa Vang tăng thêm 3 khu vực kinh tế mới với gần 3.000 dân. Ngoài ra, một số ngành nghề phát triển, thu hút thêm lao động như tiểu thủ công nghiệp thu hút thêm 3.000 lao động, các ngành lâm - ngư nghiệp thu hút thêm 1.500 lao động.

Trên lĩnh vực xây dựng, nhà đất, công trình công cộng, giao thông vận tải tuy gặp nhiều khó khăn về vốn đầu tư nhưng Đà

(1) Chi cục Thống kê Quảng Nam - Đà Nẵng: tlđd, 1981, tr.45.

Page 103: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

103

Nẵng cũng có nhiều nỗ lực đáng kể. Từ năm 1979 đến cuối năm 1982, thành phố thực hiện gần 2 triệu đồng đầu tư xây dựng 700 mét cống thoát nước đường Thanh Sơn, Chợ Cồn. Đặc biệt, thành phố đã tiến hành vận động nhân dân các phường khai thông mương bàu Thạc Gián, Tam Thuận, cống Mê Linh, xây dựng tuyến mương cống thoát nước ngã tư Núi Thành, Đầm Rong cùng mương cống các phường Bình Hiên, Nam Dương, Bình Thuận. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân, nhiều tuyến đường như các đường Hùng Vương, Phan Châu Trinh, cầu Nguyễn Văn Trỗi được gắn thêm 50 bộ đèn thủy ngân cao áp.

Trong thời gian này, đi đôi với phát triển kinh tế, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng và huyện Hòa Vang đã tiếp tục tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông - lâm - ngư nghiệp. Tại Đà Nẵng, Đảng bộ thành phố tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa các ngành kinh tế quốc dân và đã thu được những thắng lợi bước đầu có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển trong tương lai. Trên cơ sở đó, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa hình thành, từng bước được củng cố và tăng cường, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Đáng chú ý là trong quá trình tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ đã khéo léo kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính, cải tạo đi liền với phát triển và tổ chức lại sản xuất, tổ chức lại phân phối lưu thông, đưa nền kinh tế có nhiều thành phần, từ sản xuất nhỏ phát triển theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng bộ Đà Nẵng cũng tiếp tục cải tạo đối với tiểu thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ.

Qua cải tạo và xây dựng, tính đến cuối năm 1982, Đà Nẵng có 44 xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh của Trung ương và của tỉnh, 52 hợp tác xã, 1 xí nghiệp hợp tác, 328 tổ hợp và trên 3.500 cơ sở sản xuất, chế biến được tổ chức theo nhiều hình thức thích hợp, kể cả hình thức tổ hợp tác sản xuất, tổ đoàn kết đánh bắt. Về thương nghiệp ngoài quốc doanh, công ty thương

Page 104: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

104

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

nghiệp bán lẻ do tỉnh phân cấp, thành phố có 28 hợp tác xã mua bán phường, 1 trạm kinh doanh tổng hợp và 1 xí nghiệp vật tư. Bà con nông dân các phường nông nghiệp đã đi vào con đường làm ăn tập thể theo sự lãnh đạo của Đảng.

Song song với những thành tựu về kinh tế, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, công tác văn hóa - xã hội ở Đà Nẵng đều có những chuyển biến đáng kể. Đảng bộ thành phố tiếp tục triển khai cuộc vận động thanh toán sản phẩm văn hóa cũ thông qua hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân không tàng trữ, lưu hành các văn hóa phẩm, sách báo, phim ảnh đồi trụy, phản động. Đồng thời, Đảng bộ còn đẩy mạnh xây dựng phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng, phát động phong trào xây dựng nếp sống văn minh, xây dựng con người mới, gia đình văn hóa mới. Về giáo dục, thành phố vận động nhân dân đóng góp 2,5 triệu đồng xây dựng, sửa chữa trường lớp. Hệ thống giáo dục từ nhà trẻ, mẫu giáo đến phổ thông đều được chú trọng đầu tư phát triển; các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn đi vào hoạt động ổn định và có bước phát triển mạnh như Đại học Bách khoa, Cao đẳng sư phạm... Đặc biệt, ngành giáo dục cũng từng bước thực hiện Nghị quyết về cải cách giáo dục của Bộ Chính trị một cách có hiệu quả.

Trên lĩnh vực y tế, ngành y tế Đà Nẵng luôn quan tâm việc khám chữa bệnh và phòng chống các loại dịch bệnh, vận động nhân dân nghiêm chỉnh thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, giảm mức tăng dân số tự nhiên từ 2,5% xuống còn 1,49%. Trong công tác bảo vệ bà mẹ, trẻ em đã hình thành hệ thống từ thành phố đến các phường, cơ quan, xí nghiệp với trên 134 cơ sở. Công tác thương binh liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng có nhiều tiến bộ, góp phần tích cực chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho những đối tượng chính sách, động viên họ tích cực tham gia cuộc vận động xây dựng “Người công dân kiểu mẫu” và “Gia đình cách mạng gương mẫu”. Tính đến cuối năm 1982, bình quân cứ 1.000 dân có 3,8 cán bộ y tế, trên 1 vạn dân có 14 giường

Page 105: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

105

bệnh. Nạn sốt rét đã được khắc phục. Tỷ lệ tử vong do dịch bệnh 3 năm qua giảm xuống 70%. Đặc biệt, năm 1981 không có người chết vì dịch bệnh. Phong trào vệ sinh phòng bệnh phát triển đều khắp.

Tình hình quốc phòng, an ninh thời gian này diễn biến khá phức tạp, là thời điểm chúng ta lo đối phó với cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và biên giới phía Tây Nam. Lợi dụng cơ hội, các thế lực thù địch trong và ngoài nước ra sức chống phá, tăng cường hoạt động chiến tranh tâm lý, xuyên tạc chủ trương, nói xấu chế độ, tung tin thất thiệt. Ngay sau khi chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, có gần 4.000 người dân của thành phố Đà Nẵng tham gia mít tinh, biểu tình tại sân vận động Chi Lăng, giương khẩu hiệu, băng rôn diễu qua các đường phố, biểu tình phản đối quyết liệt hành động xâm lược của Trung Quốc.

Trước tình hình nêu trên, Thành ủy Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh ủy về quốc phòng - an ninh, chăm lo xây dựng lực lượng, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, tăng cường đề cao cảnh giác đối với các hoạt động tình báo, gián điệp của địch, ngăn chặn vượt biển, vượt biên, chống địch xâm nhập, tích cực chống chiến tranh tâm lý của địch, trừng trị kịp thời các vụ nhen nhóm phản động, chống phá cách mạng.

Trước tình hình Trung Quốc liên tiếp gia tăng quấy rối an ninh nước ta tại biên giới phía Bắc và Tây Nam, đồng thời ra sức sử dụng tàu cá xâm nhập sâu vào lãnh hải Việt Nam tại vùng biển Đà Nẵng hòng từng bước “hợp thức hóa Hoàng Sa là của Trung Quốc”, sau khi dùng vũ lực cướp đoạt của Việt Nam vào tháng 01 năm 1974; căn cứ vào Công ước Quốc tế về Luật Biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc, để tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, ngày 09 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra Nghị định về việc thành lập huyện

Page 106: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

106

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng(1). Theo đó, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ và thành phố Đà Nẵng hiện nay là địa phương được Tổ quốc, dân tộc giao phó một nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng và quan trọng, đó là trực tiếp cai quản một phần lãnh thổ của thiêng liêng của Tổ quốc - huyện Hoàng Sa(2).

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác quốc phòng, an ninh của các cấp ủy Đảng tại Đà Nẵng là đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phát động quần chúng nhân dân nâng cao ý thức cảnh giác, sẵn sàng đập tan kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tích cực xây dựng mạng lưới bảo vệ trị an. Tháng 5 năm 1979, chi bộ Cơ quan Quân sự thành phố Đà Nẵng tổ chức sơ kết Nghị quyết số 228 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 159-TTg của Phủ Thủ tướng trực tiếp là Nghị quyết số 04 của Tỉnh ủy và Chỉ thị số 320 của Quân ủy Trung ương và của Quân khu V về cuộc vận động “tăng cường kỷ luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Các cấp đã triển khai sinh hoạt quán triệt trong 13 đảng ủy và 91 chi bộ với 3.702/3.837 đồng chí, trong đó đảng viên đã học tập có 1.006 đồng chí và tự kiểm điểm là 975 đồng chí.

Ngay sau khi Trung Quốc thực hiện hai cuộc chiến tranh biên giới, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã tăng cường xây dựng lực lượng; tổ chức thành lập các công trình chống xâm nhập

(1) Ủy ban nhân dân huyện Hoàng Sa: Kỷ yếu Hoàng Sa, Nxb. Thông tin - Truyền thông, 2012, tr.40.(2) Từ năm 1975 đến 1982, với tư cách kế thừa quyền sở hữu các quần đảo từ chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã tiếp tục duy trì việc bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa và ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng liên quan trực tiếp đến hai quần đảo này. Lúc này, Thường trực Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng không bổ nhiệm các chức danh chính thức như Chủ tịch, Chánh Văn phòng mà chỉ phân công một đồng chí trong Ban Tổ chức chính quyền phụ trách. Các đồng chí lần lượt phụ trách huyện Hoàng Sa từ năm 1982 đến 2015 là: Lê Thanh Vân, Trần Phước Hường, Trần Thọ, Đặng Công Ngữ, Võ Công Chánh.

Page 107: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

107

đường biển. Ngay từ đầu năm 1979, thực hiện Chỉ thị của Bộ Quốc phòng và Bộ Tư lệnh Quân khu V, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng chỉ đạo Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh nhanh chóng thành lập Tiểu đoàn 4 (Phiên hiệu Tiểu đoàn Trung Dũng) với quân số 450 người để tăng cường cho các đơn vị chủ lực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới và làm nghĩa vụ quốc tế. Ngoài lực lượng vũ trang, bán vũ trang đang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, thành phố Đà Nẵng huy động thêm lực lượng quân sự địa phương. Trong 10 phường ven biển của thành phố, khu vực quận III (cũ) có các phường Thọ Quang, Phước Mỹ, Nại Hiên Đông, Bắc Mỹ An, Mân Thái đều có nhiều phương tiện tàu thuyền đánh cá, thuận tiện cho việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế để bảo vệ vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. Nhân dân các phường trên đã góp công thực hiện việc phòng thủ ven biển rất tốt. Thành phố Đà Nẵng thực hiện tốt phong trào quần chúng ở các tuyến biên phòng, bờ biển; đã xây dựng phòng tuyến chiến đấu, đặc biệt đã đấu tranh thắng lợi với bọn vượt biên, vượt biển, nhiều đồng bào ta từ công nhân, thủy thủ đến lái tàu, lái xe, từ cụ già đến các anh chị em trong các lực lượng vũ trang đã tận tụy ngày đêm dũng cảm mưu trí, đánh trả quyết liệt bọn cướp tàu thuyền vượt biển, bảo vệ cuộc sống yên lành của nhân dân.

Tại Hòa Vang, việc xây dựng huyện thành pháo đài quân sự và phòng thủ sẵn sàng chiến đấu được đẩy lên rất mạnh. Trong 10 tháng đầu năm 1979, “toàn huyện đã huy động 12.115 công phục vụ xây dựng các công trình chiến đấu, 28.372 gốc tre và 833 cây tre, 8.511 bao cát, 54.477 mét dây thép gai, 459 trụ sắt, 72 thùng phuy, 153 thùng cô nét, 22.450 chông tre. Toàn huyện đã xây dựng tuyến chướng ngại bằng cây và gai lưỡi long (xương rồng) dài 15.725 mét, rộng 8 - 10 mét, một số đoạn chính, lớp rào thứ hai được rào bằng dây thép gai và thép gai bùng nhùng. Huyện đã xây dựng được 106 hầm kèo, 242 hầm chiến đấu cá nhân, 42 ụ chiến đấu bằng thùng cô-nét, 12 công sự bắn máy bay,

Page 108: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

108

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

1.000 mét giao thông hào”(1). Nhờ đó, Hòa Vang đã hình thành mô hình pháo đài quân sự huyện. Lực lượng dân quân tự vệ đạt 7,8% dân số. Lực lượng dự bị động viên phát triển và hoạt động khá. Luật Nghĩa vụ quân sự được thực hiện nghiêm chỉnh, giao quân vượt chỉ tiêu. Việc tăng cường xây dựng hệ thống phòng thủ khu vực ven biển Đà Nẵng và huyện Hòa Vang đã góp phần rất lớn vào nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Trên cơ sở đó, cuối năm 1979, Ban Chỉ huy quân sự thành phố Đà Nẵng đã thành lập 8 cụm chiến đấu (4 cụm ven biển, 4 cụm nội thành); huyện Hòa Vang thành lập 7 cụm chiến đấu (3 cụm ven biển, 2 cụm ven núi, 1 cụm đồng bằng, 1 cụm ven thành phố). Cả thành phố Đà Nẵng, Hòa Vang trở thành một hệ thống phòng thủ liên hoàn và vững chắc.

Công tác chống vượt biên, vượt biển trong thời gian này diễn ra khá mạnh mẽ tại Đà Nẵng. Trước đó, từ năm 1977 đến năm 1978, tình trạng vượt biên, vượt biển diễn ra lẻ tẻ; nhưng từ năm 1979 trở đi thì ngày càng đặc biệt nghiêm trọng. Hầu như các phường ven biển của Đà Nẵng cũng có nhiều bãi biển có độ sâu cho tàu thuyền lớn có thể ra vào, lại thêm nhiều bến bãi nên thuận lợi cho bọn móc nối, vượt biên, đưa người trái phép ra nước ngoài hoạt động. Trước tình hình đó, các phường, xã ven biển của Đà Nẵng tổ chức các lực lượng dân quân tự vệ trên biển, biên chế thành đại đội, phần lớn là nam giới được trang bị vũ khí như AK, AR15, trung liên..., để vừa đánh bắt hải sản, vừa tham gia tuần tra, truy bắt bọn vượt biên và biệt kích xâm nhập, bảo vệ vững chắc bờ biển và ngư trường của Tổ quốc. Từ năm 1977 đến năm 1978, Đà Nẵng đã bắt giữ 209 vụ, với 23.000 tên vượt biển, thu hồi 460 súng các loại. Riêng phường Nại Hiên Đông đã ngăn chặn và bắt nhiều vụ tổ chức vượt biên trốn ra nước ngoài(2).

(1) Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Đà Nẵng: Biên niên sự kiện lực lượng vũ trang nhân dân thành phố Đà Nẵng (1975-2005), Nxb. Đà Nẵng, 2006, tr.62-63.(2) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo kiểm điểm tình hình và công tác bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 1980”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 109: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

109

Về an ninh chính trị, do Đà Nẵng là một trong những thành phố lớn, tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng, là một trong những cơ quan đầu não của ngụy quyền Sài Gòn trước đây, lợi dụng tình hình khó khăn của ta, bọn phản động tập trung về đây hoạt động, đánh phá rất mạnh. Từ năm 1979 đến năm 1983, ta đã phát hiện nhiều tổ chức phản động với các biệt danh như: “Bảo quốc”, “Việt Nam Cộng hòa”, Hắc long đoàn”, “Biệt đoàn Quảng Đà”, “Việt Nam dân tộc cách mạng Đảng”(1)… Hơn nữa, Đà Nẵng là một trong những nơi tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp nên Đảng bộ chỉ đạo các cấp ủy Đảng thường xuyên đẩy mạnh khả năng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng chính quy, ra sức phát triển lực lượng tự vệ ở các nhà máy, xí nghiệp, cơ quan và trên các địa bàn trọng điểm. Tiêu biểu như năm 1981, thành phố đã hoàn thành việc huấn luyện 3.800 anh em thuộc lực lượng tự vệ cơ động ở các phường, 6.583 tự vệ chiến đấu tại chỗ.

Nhờ vậy, từ năm 1979 đến năm 1982, tình hình an ninh chính trị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng diễn biến rất phức tạp song dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, được sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân, lực lượng công an, vũ trang Đà Nẵng đã thực hiện nhiều biện pháp giữa trấn áp và tuyên truyền, xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận lòng dân, các tuyến phòng thủ vững chắc, liên hoàn nên tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát động liên tục trong nhân dân. Mạng lưới công an nhân dân tổ chức tương đối đều khắp, hạn chế và xóa bỏ dần những tệ nạn của xã hội cũ để lại.

Tuy có nhiều cố gắng nhưng công tác quốc phòng - an ninh giai đoạn này vẫn còn một số thiếu sót, khuyết điểm như nhận thức của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân về những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chưa đầy đủ dẫn đến hiện tượng thiếu cảnh

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo tình hình an ninh - trật tự thành phố Đà Nẵng năm 1983”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 110: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

110

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

giác, sơ hở trên nhiều mặt. Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc có phát triển rộng nhưng chưa sâu, chưa mạnh đều. Ý thức sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang chưa cao. Quá trình xây dựng lực lượng tự vệ có khuyết điểm lớn nhất là để một số cán bộ chỉ huy sa sút phẩm chất, gây ảnh hưởng đến phong trào chung.

Từ sau Đại hội Đảng bộ, công tác xây dựng chính quyền, các đoàn thể bước đầu đáp ứng được yêu cầu thực tế và đã thu được một số kết quả như tổ chức tốt các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hai cấp; phát huy được vai trò làm chủ tập thể của nhân dân lao động; vai trò của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được nâng cao. Ở Đà Nẵng, thông qua bầu cử, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp tăng thêm số đại biểu cán bộ trẻ có trình độ, năng lực. Nhiều đại biểu là nữ, đã nhiều năm hoạt động cơ sở. Nhờ vậy, phương thức hoạt động nâng lên một bước. Ở các phường, việc giải thể khối phố, tập trung xây dựng tổ dân phố tạo điều kiện chính quyền gần và sát dân hơn. Tính đến cuối năm 1982, toàn thành phố có 1.400 tổ dân phố với 4.200 cán bộ được sắp xếp lại, qua đánh giá đã có 30% tổ hoạt động tốt.

Ở Hòa Vang, hệ thống chính quyền từ huyện đến cơ sở được củng cố một bước. Đội ngũ cán bộ dần dần được trẻ hóa. Trình độ quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý quốc phòng an ninh có tiến bộ, góp phần nâng cao vai trò và hiệu lực của Nhà nước ở địa phương. Mối quan hệ giữa Đảng, đoàn thể, chính quyền ngày càng được cải tiến. Đặc biệt, thông qua tổ chức chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể, nhân dân đã phát huy tốt vai trò làm chủ tập thể trong quá trình xây dựng cũng như tham gia giám sát hoạt động của Nhà nước, tham gia quản lý kinh tế - xã hội. Đồng thời, các cấp ủy Đảng cũng từng bước tạo điều kiện tốt hơn để quần chúng thực hiện quyền làm chủ tập thể nói lên tiếng nói của mình đối với Đảng, góp phần thiết thực xây dựng Đảng. Từ đó, Đảng bộ thấy được những khuyết điểm và kịp thời có hướng khắc phục.

Page 111: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

111

Công tác Dân vận, Mặt trận và các đoàn thể ở Đà Nẵng, Hòa Vang có nhiều chuyển biến. Nội dung hoạt động tập trung vào những nhiệm vụ lớn của cách mạng như vận động nhân dân xây dựng quê hương mới, khôi phục kinh tế, ổn định đời sống, cải tạo xây dựng nền kinh tế quốc dân, thực hiện nghĩa vụ lao động. Nhiều phong trào hành động cách mạng liên tục được phát động và đem lại hiệu quả thiết thực. Qua đó, đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu, nhiều công trình, sản phẩm, sáng kiến, cải tiến có giá trị. Các đoàn thể tiến hành khảo sát lại đội ngũ, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng cũng như những băn khoăn lo lắng của quần chúng nhân dân để tìm biện pháp khắc phục. Mặt trận vận động bà con các tôn giáo sống “Tốt đời, đẹp đạo”, chú trọng phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng đời sống văn hóa mới ở các khu dân cư, các thôn xóm.

Sau Đại hội lần thứ nhất, cơ cấu tổ chức của Đảng bộ Đà Nẵng có nhiều thay đổi. Về tổ chức cơ sở Đảng, tháng 7 năm 1979, Đảng bộ Đà Nẵng có 117 đơn vị với 2.499 đảng viên. Trong đó, số tổ chức cơ sở Đảng do Thành ủy trực tiếp chỉ đạo toàn diện có 28 đơn vị phường với 835 đảng viên và 40 đơn vị cơ quan với 704 đảng viên; số tổ chức cơ sở Đảng của cơ quan tỉnh và Trung ương trực thuộc có 49 đơn vị với 959 đảng viên. Đến tháng 7 năm 1981, cơ cấu của Đảng bộ thành phố lớn hơn do các đơn vị của Đảng bộ cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh nhập về thành Đảng bộ. Vì vậy, số tổ chức cơ sở Đảng tăng lên 223 cơ sở với 8.367 đảng viên. Trong khi đó, số đảng viên và chi bộ do Thành ủy trực tiếp chỉ đạo toàn diện vẫn giữ nguyên. Sự phát triển về số lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên đặt ra cho Đảng bộ trách nhiệm nặng nề trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng.

Cũng từ năm 1979, tình hình kinh tế khó khăn, lợi dụng cơ hội, địch tăng cường chống phá ta trên nhiều mặt, tập trung là phá hoại Đảng ta về tư tưởng và tổ chức. Riêng Đảng bộ Đà Nẵng, đã xuất hiện khoảng 30% tổ chức cơ sở Đảng không đảm bảo nguyên tắc sinh hoạt, dân chủ nội bộ kém, quản lý đảng viên

Page 112: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

112

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

lỏng lẻo. Từ thực tiễn đặc điểm tình hình, Thành ủy xác định mấy vấn đề then chốt để các cấp ủy Đảng quán triệt trong quá trình khi tiến hành công tác xây dựng Đảng như tiến hành phát thẻ Đảng gắn chặt với việc củng cố, kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng; củng cố tổ chức cơ sở Đảng trước hết phải củng cố, kiện toàn Đảng ủy và chi ủy cơ sở; phải coi trọng công tác phát động quần chúng tham gia xây dựng Đảng; xây dựng Đảng phải gắn liền với xây dựng chính quyền, các đoàn thể quần chúng, xây dựng tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ và chính quyền quản lý; xây dựng Đảng, trước hết phải xác định rõ nhiệm vụ chính trị cho từng Đảng bộ, chi bộ, gắn xây dựng Đảng với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị đề ra. Nhờ quán triệt tốt những vấn đề then chốt ấy, công tác xây dựng Đảng ở Đà Nẵng có bước phát triển mới, tạo sự đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng, mang lại hiệu quả rõ rệt.

Về kỷ luật Đảng, Thành ủy đã tiến hành kiểm tra xem xét 721 đảng viên có biểu hiện vi phạm Điều lệ Đảng, vi phạm phẩm chất đảng viên và các hiện tượng tiêu cực khác. Qua kiểm tra, đã xử lý kỷ luật 359 trường hợp bằng các hình thức từ khiển trách, cảnh cáo đến khai trừ, đưa ra khỏi Đảng. Về kết nạp Đảng, Đảng bộ đã tổ chức bồi dưỡng đối tượng Đảng cho số thanh niên trẻ và đã kết nạp Đảng được 700 đồng chí. Các tổ chức cơ sở Đảng được củng cố, kiện toàn và đạt hiệu quả rõ rệt. Qua phân loại, đã có 25 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, 53 tổ chức cơ sở Đảng xếp loại khá. Toàn Đảng bộ chỉ còn 39 tổ chức cơ sở Đảng xếp loại yếu, không có tổ chức cơ sở Đảng xếp loại kém. Về công tác phát thẻ Đảng, Đảng bộ đã phát thẻ Đảng cho 8.529 đảng viên. Số đảng viên chưa phát thẻ và còn xem xét là 87.

Ở Hòa Vang, Đảng bộ huyện cũng hết sức quan tâm công tác xây dựng Đảng, phấn đấu xây dựng Đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh. Năm 1981, toàn Đảng bộ có 67 cơ sở. Qua xếp loại đã có 17 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, chiếm tỷ lệ 25,4%. Số cơ sở Đảng loại khá là 45 cơ sở,

Page 113: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

113

chiếm tỷ lệ 67,2%. Công tác phát triển đảng luôn được Huyện ủy chú trọng. Tiêu biểu trong thời gian từ ngày 02 tháng 9 năm 1981 đến 03 tháng 02 năm 1982, toàn huyện kết nạp được 147 đảng viên mới. Trong đó, 85% là đảng viên trẻ, có năng lực và trình độ. Một phần ba lực lượng đảng viên mới trở thành cán bộ chủ chốt ở các xã, các cơ quan, nông lâm trường. Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm 1982, các tổ chức cơ sở Đảng huyện Hòa Vang đã kết nạp thêm 106 đảng viên mới. Tuy công tác phát triển Đảng có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đạt chỉ tiêu đề ra. Cũng trong thời gian này, thực hiện Thông tri 124 của Ban Bí thư, Huyện ủy đã tập trung phát thẻ dứt điểm cho toàn bộ tổ chức cơ sở Đảng. Tính đến 6 tháng đầu năm 1982, Đảng bộ huyện đã phát thẻ cho 1.873 trên tổng số 1.889 đồng chí, chiếm tỷ lệ 91,15%. Số đảng viên còn lại cần tiếp tục xem xét là 16 đồng chí.

Tuy đạt được một số thành tựu đáng kể, nhưng công tác xây dựng Đảng ở Đà Nẵng và Hòa Vang còn bộc lộ một số mặt yếu kém và hạn chế cần khắc phục. Tại Đà Nẵng, trong công tác xây dựng Đảng vẫn chưa vận dụng các đường lối, quan điểm của Đảng vào hoàn cảnh thực tế của địa phương để có những sách lược thích hợp; đội ngũ đảng viên được tập hợp từ nhiều nguồn nhưng chưa được nghiên cứu, sử dụng để tạo ra sức mạnh trong lãnh đạo, quản lý; tư tưởng, tâm lý, tác phong sản xuất nhỏ còn khá phổ biến; một bộ phận đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, bi quan, dao động trước diễn biến tình hình; bộ máy tổ chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp chưa được tích cực khắc phục; việc xây dựng, bồi dưỡng, sắp xếp đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa đi vào chiều sâu, quá trình thực hiện chính sách cán bộ còn lúng túng, bị động, công tác phát triển Đảng chưa theo kịp với yêu cầu; các ban xây dựng Đảng còn yếu, phương thức và phong cách làm việc chưa cải tiến nên chưa giúp cho cấp ủy trong việc lãnh đạo, quản lý tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp đội ngũ cán bộ, phát triển Đảng.

Page 114: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

114

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ở Hòa Vang, những yếu kém của công tác xây dựng Đảng có nhiều nguyên nhân như Đảng bộ chưa tiến hành công tác tư tưởng thường xuyên; việc quản lý đảng viên còn lỏng lẻo, chưa gắn chặt công tác xây dựng Đảng với các phong trào cách mạng của quần chúng và cuộc vận động chống tiêu cực; công tác phát triển Đảng viên mới chậm, vẫn còn một số đội sản xuất, trường học, cơ sở chưa có đảng viên; công tác cán bộ chưa chuyển biến mạnh mẽ theo tinh thần Nghị quyết số 32 của Bộ Chính trị, việc bố trí cán bộ còn chắp vá; lề lối làm việc của các cấp ủy Đảng chậm đổi mới, tác phong lãnh đạo có lúc thiếu sâu sát, phát huy dân chủ chưa triệt để, vai trò tập trung thể hiện chưa cao.

Nhìn chung, trong giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, Đà Nẵng đã đạt nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng. Trong đó, thành tựu nổi bật nhất về kinh tế trong giai đoạn này là đã hình thành nền kinh tế 5 thành phần. Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng và từng bước được củng cố trong các lĩnh vực như công nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề khác. Trong đó, kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng ngày càng tăng. Nhiều chỉ tiêu kinh tế đều đạt và vượt mức kế hoạch. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển đáng kể. Công tác xuất nhập khẩu, phân phối lưu thông cũng có nhiều tiến bộ. Bên cạnh kinh tế, Đà Nẵng còn giữ được sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần quan trọng cùng cả nước thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống xâm lược tại biên giới phía Bắc và Tây Nam. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng bộ Đà Nẵng cũng còn một số khuyết điểm như: Một số cán bộ, đảng viên chưa nhận thức thật rõ những khó khăn trong chặng đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước có chiến tranh; chưa cảnh giác cao đối với những âm mưu, thủ đoạn và hoạt động phá hoại nhiều mặt của địch, nhất là trên mặt trận kinh tế và tư tưởng văn hóa; công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành

Page 115: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

115

chưa tích cực và chặt chẽ; đời sống cán bộ công nhân viên chức và nhân dân chưa được cải thiện nhiều; việc kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, nghiêm ngặt, đôi lúc, đôi nơi còn lơi lỏng, tạo điều kiện để một số đồng chí thoái hóa, biến chất, gây ảnh hưởng không tốt trong nhân dân… Những tồn tại trên xuất phát từ nền kinh tế chủ yếu sản xuất nhỏ lại bị chiến tranh tàn phá và hậu quả nặng nề của chủ nghĩa thực dân kiểu mới để lại trên nhiều mặt mà chúng ta chưa có đủ thời gian và điều kiện để khắc phục. Thêm vào đó, ta chủ trương phát triển kinh tế, xã hội trong tình trạng đất nước có chiến tranh, các thế lực thù địch bên ngoài ra sức bao vây, cấm vận… Đó là những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, đã tác động trực tiếp vào tình hình kinh tế - xã hội Đà Nẵng, trong những năm tháng đầu khó khăn, gian khổ lúc bấy giờ.

III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, GÓP PHẦN THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU ĐẠI HỘI V CỦA ĐẢNG ĐỀ RA (1983-1985)

Từ ngày 25 đến ngày 29 tháng 01 năm 1983, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ II được tổ chức. Đại hội đã triệu tập đại biểu của 215 tổ chức cơ sở Đảng thuộc Đảng bộ thành phố, trong đó có 28 Đảng bộ phường, 42 Chi bộ của các cơ quan và đơn vị hành chính, sự nghiệp của thành phố; còn phần lớn là các tổ chức cơ sở Đảng thuộc các đơn vị sản xuất và kinh doanh của tỉnh và Trung ương đóng trên địa bàn thành phố được giao về Thành ủy tổ chức quản lý sinh hoạt.

Đại hội đã nghiêm túc đánh giá những thành tựu thời gian qua cũng như những khuyết điểm cần khắc phục trong thời gian đến. Trên cơ sở đó, Đại hội xác định phương hướng nhiệm vụ chung của Đảng bộ trong 3 năm 1983-1985 là: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, ra sức động viên giáo dục toàn Đảng và toàn dân quán triệt sâu sắc hơn nữa vị trí, đặc điểm của thành phố,

Page 116: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

116

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

chủ động khai thác mọi tiềm năng hiện có, đưa nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ, chú trọng phát triển kinh tế đô thị, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, khai thác hải sản và xuất khẩu. Tiếp tục tổ chức lại sản xuất và phân công lại lao động xã hội, từng bước củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, chú trọng phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, và các yêu cầu phúc lợi công cộng; giữ vững trật tự trị an, xây dựng lực lượng công an và quân sự địa phương vững mạnh; củng cố chính quyền cách mạng, phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, góp phần cùng cả nước hoàn thành thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội V của Đảng đề ra”(1).

Cũng tại Đại hội này, lần đầu tiên, Thành ủy Đà Nẵng đã đề xuất Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cắt 6 xã vòng quanh thành phố từ xã Hòa Hiệp đến xã Hòa Hải của huyện Hòa Vang để nhập về thành phố Đà Nẵng, nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng mặt bằng tổ chức phát triển sản xuất và có thêm nguồn lương thực, thực phẩm, tạo nguồn cân đối tại chỗ cho thành phố. Tuy nhiên, đề xuất này lúc bấy giờ chưa được cấp trên chấp nhận.

Để thực hiện thành công những nhiệm vụ và mục tiêu nói trên, Đại hội đã đề ra những biện pháp cụ thể là tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa, gắn cải tạo với tổ chức lại sản xuất, phân công lại lao động xã hội nhằm khai thác và phát huy tốt nhất năng lực sản xuất hiện có, đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngư nghiệp, nông lâm nghiệp, phát triển xuất khẩu; cải tiến mạng lưới phân phối lưu thông; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh hoạt động khoa học kỹ thuật; ra sức phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục; tăng cường quản lý xã hội; đẩy mạnh công tác Dân vận và Mặt trận, kiện

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: “Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng tại Đại hội đại biểu thành Đảng bộ lần thứ II”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 117: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

117

toàn các đoàn thể quần chúng. Đặc biệt phải chăm lo hơn nữa công tác xây dựng Đảng, phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng trên mọi lĩnh vực.

Đặc biệt, ngay giữa thời gian Đại hội, vào đêm ngày 27 tháng 01 năm 1983, đồng chí Võ Văn Kiệt - Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước đến làm việc với Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng và Thành ủy Đà Nẵng, đồng chí đã nêu ra các yêu cầu: Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cần phân cấp một phần công nghiệp và tất cả các dịch vụ văn hóa - xã hội trên địa bàn thành phố cho Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng quản lý; thành phố Đà Nẵng cần hợp tác với các huyện, chú trọng xây dựng cơ bản, sửa chữa nhà cửa, không để kết cấu cơ sở hạ tầng xuống cấp, cần tổ chức một bộ phận sản xuất vật liệu xây dựng và làm các mặt hàng sành, sứ, thủy tinh dân dụng, nắm thị trường và mở rộng dịch vụ, tổ chức trồng cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày phục vụ sản xuất.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ II gồm 41 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Thành Long được phân công làm Bí thư, hai đồng chí Trần Hưng Thừa và Phan Văn Nghệ được bầu làm Phó Bí thư. Đồng chí Trần Hưng Thừa từ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố sang làm công tác thường trực cơ quan Đảng bộ, đồng chí Phan Văn Nghệ làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố. Về công tác Dân vận và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sau Đại hội, đồng chí Lê Văn Huấn - Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban Mặt trận sang làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy, đồng chí Trần Hưng Thừa kiêm chức vụ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Đà Nẵng. Năm 1984, đồng chí Nguyễn Văn Chi được điều động về giữ chức vụ Phó Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, phụ trách theo dõi các phường.

Đại hội này có ý nghĩa lớn đối với việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy vai trò động lực của thành phố, lập thành tích chuẩn bị tổ chức Lễ kỷ niệm 10 năm sau ngày Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam được giải phóng. Đồng

Page 118: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

118

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thời, nhiệm kỳ Đại hội 1983-1985 rơi vào thời điểm có nhiều thử thách gay gắt trước tình hình kinh tế - xã hội kém phát triển; các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã và đang tìm lối thoát ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, xem lại đường lối của mình. Tuy nhiên, Đảng bộ thành phố cũng như cả nước đã kiên định lập trường với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vững vàng vượt qua mọi thử thách, tìm được giải pháp đúng cho công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội trên chặng đường kế tiếp.

Đối với Hòa Vang, trước đó, vào tháng 11 năm 1982, Đảng bộ Hòa Vang tiến hành Đại hội lần thứ VIII. Đại hội đã xác định mục tiêu: “Tập trung cao độ lực lượng của huyện vào mặt trận sản xuất nông nghiệp, trọng tâm là vấn đề lương thực” và “Giữ vững và phấn đấu cải thiện một bước đời sống vật chất văn hóa, trước hết là cung cấp đủ lương thực, đáp ứng khá hơn thực phẩm, hàng tiêu dùng và thuốc chữa bệnh, cố gắng giải quyết một bước vải mặc, cải thiện dần việc ăn, chữa bệnh, học hành, ở, đi lại của nhân dân”(1). Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hòa Vang (khóa VIII) gồm 39 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phúc được tín nhiệm bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Đình Tùng, Phó Bí thư Thường trực; đồng chí Trần Tiếp - Phó Bí thư phụ trách kinh tế; đồng chí Nguyễn Tiến Qua - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Đến giữa nhiệm kỳ, đồng chí Nguyễn Đình Tùng sang làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện, đồng chí Nguyễn Bá Thanh lên thay. Đến cuối nhiệm kỳ, đồng chí Nguyễn Bá Thanh được cử đi học, đồng chí Nguyễn Văn Đán lên thay.

Sau Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng ít lâu thì Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XIII được tiến hành vào ngày 03 và ngày 04 tháng 02 năm 1983. Trong đó, Đại hội đã

(1) Đảng bộ huyện Hòa Vang: “Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Hòa Vang”, 2005, tlđd, tr. 145.

Page 119: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

119

nhấn mạnh đến vị trí, vai trò đầu tàu của thành phố Đà Nẵng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của cả tỉnh. Đại hội chỉ rõ: “Xây dựng phát triển kinh tế ở Đà Nẵng trước hết là sự nỗ lực chủ quan của Đà Nẵng, đồng thời là trách nhiệm của các địa phương, các cấp, các ngành xung quanh tỉnh, cần phát triển mạnh sự liên kết hợp tác hỗ trợ của các huyện trong tỉnh với Đà Nẵng dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo thống nhất của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh”(1).

Sau Đại hội Đảng các cấp, các cấp ủy địa phương bắt tay vào việc thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ đề ra, trong điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội cũng như điều kiện tự nhiên vô cùng khó khăn, phức tạp.

Năm 1983, diễn biến tình hình thời tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, hạn hán khắc nghiệt kéo dài suốt 9 tháng liền, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp. Kế đến là những trận lụt đầu năm và cuối năm làm thất thu một số diện tích lúa, hoa màu của nhân dân tại Đà Nẵng nói riêng và cả tỉnh nói chung. Trên lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nguồn vật tư do cấp trên cân đối chỉ bảo đảm từ một phần ba đến một nửa so với yêu cầu. Nguồn điện thường thiếu hụt, lại phải tập trung chống hạn. Nguyên liệu, phế liệu tại địa phương không nhiều… Tình hình đó tác động không nhỏ đến quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội tại Đà Nẵng nói chung.

Về việc phát triển kinh tế, Đà Nẵng chủ yếu vẫn là phát triển kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Trong điều kiện khó khăn chung về cung ứng nguyên vật liệu, mặt hàng không ổn định, giá gia công chưa hợp lý nhưng Đảng bộ Đà Nẵng chỉ đạo thực hiện và đạt một số thành tích đáng phấn khởi. Giá trị

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XIII”, tr.41. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 120: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

120

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tổng sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hằng năm đều tăng. Nếu năm 1983, giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Đà Nẵng chỉ ở mức 129,55 triệu đồng, vượt kế hoạch 8,64%(1) thì bước sang năm 1984 là 949,673 triệu đồng, vượt mức kế hoạch 26,62%(2) và năm 1985 đạt 1,212.562 tỷ đồng, vượt 0,84% kế hoạch đề ra. Trong đó, giá trị tổng sản lượng tiểu thủ công nghiệp tương ứng trong hai năm từ 1984 đến 1985 là 832,670 triệu đồng và 875,550 triệu đồng(3). Như vậy, trong cơ cấu công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thì tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh hơn. Giá trị tổng sản lượng tiểu thủ công nghiệp bình quân chiếm tỷ lệ khoảng trên 70%. Trong đó, có nhiều phường tiểu thủ công nghiệp phát triển rất nhanh, đạt tổng giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp khá cao, bình quân từ 50 đến 60 triệu đồng mỗi năm như các phường An Hải Tây, Tân Chính, Thọ Quang. Ngành tiểu thủ công nghiệp cũng là ngành sử dụng lao động nhiều nhất. Tính đến 1985, toàn thành phố có 36.000 lao động hoạt động trên lĩnh vực này. Trong đó, có khoảng 78,5% lao động do thành phố quản lý, tức trên 28.500 lao động(4). Rõ ràng, tiểu thủ công nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng trong sản xuất, đời sống của người dân thành phố Đà Nẵng.

(1) Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng: “Tình hình thực hiện kế hoạch năm 1983 và phương hướng nhiệm vụ năm 1984”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.(2) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo và chỉ đạo của Thành ủy về các mặt công tác của thành phố trong năm 1984 và chương trình công tác năm 1985”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.(3) Chi cục Thống kê Quảng Nam - Đà Nẵng: Tài liệu thống kê tại địa phương, Bản đánh máy. Tài liệu lưu tại Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Đà Nẵng. Ký hiệu ĐNG/827. (4) Hồ Duy Diệm: “Một vài đề nghị về tổ chức sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở thành phố Đà Nẵng”, Báo Quảng Nam - Đà Nẵng, số ra ngày 23 tháng 9 năm 1986.

Page 121: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

121

Tại Hòa Vang, ngành tiểu thủ công nghiệp cũng không ngừng được phát triển. Nếu năm 1980, tiểu thủ công nghiệp huyện chỉ có 999 cơ sở lớn nhỏ, sử dụng 6.013 lao động với tổng vốn là 7,955 triệu đồng, sản xuất hơn 200 mặt hàng, thì đến năm 1985 ngành tiểu thủ công nghiệp Hòa Vang thu hút 12.000 lao động, sản xuất trên 500 mặt hàng(1). Trong đó, có nhiều mặt hàng tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh như vật liệu xây dựng, cơ khí, gỗ, mây, giấy và một số sản phẩm khác. Nếu năm 1982, tổng giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp là 264,53 triệu đồng thì năm 1983 tăng lên 280,530 triệu đồng và năm 1985 tăng lên 303,640 triệu đồng(2). Như vậy, so với năm 1980, khi tổng giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp toàn huyện Hòa Vang là 156,790 triệu đồng thì năm 1985 tăng gần gấp đôi. Đặc biệt, năm 1985, ngành tiểu thủ công nghiệp Hòa Vang có bước phát triển đáng kể khi được đầu tư 8,5 triệu đồng(3) vốn xây dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị mới.

Về thương nghiệp, nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác xuất khẩu nên các cấp ủy Đảng ở Đà Nẵng rất chú trọng đẩy mạnh công tác thu gom những mặt hàng phục vụ công tác xuất khẩu. Thành phố có nhiều biện pháp thích hợp để đẩy mạnh việc mua và chế biến hàng xuất khẩu, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất những mặt hàng đã có, tích cực nghiên cứu sản xuất những mặt hàng mới, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Trên cơ sở đó, năm 1985, thành phố thực hiện giá trị xuất khẩu 10,434 triệu rúp-đôla. Trong đó, giá trị hàng thủ công mỹ nghệ 5 triệu rúp-đôla, giá trị xuất khẩu hải sản 984.000 rúp-đôla. Còn lại là giá trị hàng thu mua nông, lâm, dược phế liệu. Tại Hòa Vang, nếu năm 1983, tổng kim ngạch xuất khẩu là 434.000 rúp-đôla thì năm 1984 là 746.000 rúp-đôla và đến năm 1985 tăng lên

(1) Báo Quảng Nam - Đà Nẵng, số ra ngày 18 tháng 3 năm 1986.(2) Chi cục Thống kê Quảng Nam - Đà Nẵng, 1981, tlđd.(3) Báo Quảng Nam - Đà Nẵng, số ra ngày 18 tháng 3 năm 1986.

Page 122: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

122

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

1,885 triệu rúp-đôla. Trong 1,885 triệu rúp-đôla thì giá trị kim ngạch xuất khẩu nông sản, rau quả chiếm tỷ lệ cao với 938.090 rúp-đôla(1).

Các ngành giao thông vận tải, xây dựng cơ bản tiếp tục phát triển. Ngành giao thông vận tải thường xuyên duy trì công tác duy tu, bảo dưỡng các tuyến đường trong thành phố, nâng cấp đường Trần Cao Vân, xây dựng đường giao thông nhiều địa phương như Hòa Cường, Khuê Trung, Thanh Lộc Đán, Nại Hiên Đông. Đồng thời, ngành cũng hoàn thành tốt kế hoạch vận chuyển hành khách và hàng hóa đi khắp tỉnh và các địa phương bạn, với hàng trăm ngàn tấn hàng hóa, hàng triệu lượt hành khách mỗi năm. Tiêu biểu như năm 1984, ngành giao thông vận tải Đà Nẵng đã vận chuyển 382.000 tấn hàng hóa và 16,125 triệu lượt hành khách, doanh thu đạt 7,331 triệu đồng, vượt kế hoạch được giao 26,3%. Ngành xây dựng có nhiều nỗ lực vượt bậc, hoàn thành nhiều công trình có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của thành phố. Trong những năm từ 1983 đến 1985, thành phố đã đầu tư 21,6 triệu đồng xây dựng, sửa chữa các công trình kinh tế, văn hóa và phúc lợi công cộng. Trong đó, đáng chú ý nhất là công trình Trung tâm Thương nghiệp Đà Nẵng (tức chợ Cồn) và tượng đài Mẹ Dũng sĩ Thanh Khê. Bên cạnh đó, ngành xây dựng cũng hoàn thành 360 phòng học, sửa chữa 118 phòng học khác, tráng và lát 100.000m2 vỉa hè, 6.000 mét cống rãnh.

Về công tác cải tạo công thương nghiệp, Đảng bộ Đà Nẵng tập trung cải tạo thương mại, ăn uống, dịch vụ và các ngành sản xuất kinh doanh khác. Qua cải tạo năm 1984, ngành thương nghiệp và dịch vụ quốc doanh đã mở thêm được nhiều điểm bán và phục vụ trong thành phố. Trong đó, ngành dịch vụ mở thêm 5 quầy hàng. Công ty rau quả thành phố mở thêm 13 quầy hàng. Hiệu thuốc Đà Nẵng mở thêm 1 quầy bán thuốc ngoài giờ. Cũng trong thời gian này, mạng lưới hợp tác xã mua bán ở các phường

(1) Bài “Ngành xuất khẩu huyện Hòa Vang - Thành tựu và triển vọng”, Báo Quảng Nam - Đà Nẵng, số ra ngày 08 tháng 3 năm 1986.

Page 123: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

123

phát triển mạnh. Toàn thành phố có 392 điểm bán lẻ những mặt hàng thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng ăn uống của các hợp tác xã. Bình quân mỗi phường có 14 điểm bán lẻ. Đến cuối năm 1985, toàn thành phố đã có 86% các hộ kinh doanh thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ có số vốn lớn với 109 cửa hàng hợp tác kinh doanh, tổng số vốn của tư nhân trên 3 triệu đồng. Đối với hộ tiểu thương, đã có trên 500 hộ tham gia vào 51 tổ mua chung bán chung. Thành phố cũng tổ chức kiểm tra, xử lý 7.000 vụ với tổng giá trị hàng hóa 1,7 triệu đồng, thu nộp vào ngân sách 567.000 đồng. Song song với công tác cải tạo thương nghiệp quốc doanh thì mạng lưới các hợp tác xã mua bán cũng phát triển mạnh. Đến cuối năm 1985, Đà Nẵng tăng thêm 4 cửa hàng và 129 quầy hàng, nâng tổng số điểm bán toàn thành phố lên 916 điểm.

Cùng với cải tạo thương nghiệp, lãnh đạo thành phố đề ra nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư doanh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách phải hoàn thành trong 2 năm 1984-1985. Đối với ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Đà Nẵng, mục tiêu cải tạo là cơ bản hoàn thành việc sắp xếp lại sản xuất, tổ chức lại một số ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, thực hiện quản lý theo ngành, chú trọng nâng cao hiệu quả và chất lượng sản xuất. Trong năm 1984 và những tháng đầu năm 1985, ngành sản xuất, sửa chữa xe đạp đã được tổ chức thành lập 4 hợp tác xã và 7 tổ hợp tác gia công phụ tùng. Ngành dệt có 5 hợp tác xã và 10 tổ hợp tác. Ngành nhựa tổ chức thành 2 hợp tác xã và 16 tổ hợp tác. Đến cuối năm 1985, toàn thành phố có 81 hợp tác xã, 356 tổ hợp tác, số hộ sản xuất cá thể giảm xuống còn 3.321 hộ. Trên cơ sở trưng thu, trưng mua tài sản của một số hợp tác xã, ở Đà Nẵng đã thành lập 2 xí nghiệp quốc doanh(1). Tổng số lao động làm việc trong các hợp tác xã, tổ hợp tác trên 17.000 lao động. Trong cơ cấu các hợp tác xã, có 18 hợp tác xã bậc cao, 45 hợp tác xã bậc vừa. Ngành giao thông vận tải đã sắp xếp 37

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo tình hình và những nhận định sơ bộ về các mặt hoạt động trong năm 1985 của thành phố Đà Nẵng”, tlđd.

Page 124: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

124

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

cơ sở tập thể nhỏ, lẻ thành 12 hợp tác xã và 1 tổ hợp tác. Trong đó, có 2 hợp tác xã vận tải nhẹ vận chuyển hành khách và hàng hóa, 4 hợp tác xã vận tải cơ giới và thô sơ thủy, 6 hợp tác xã sửa chữa ô tô.

Trên lĩnh vực lao động và việc làm, lĩnh vực bức xúc nhất đối với Đà Nẵng lúc bấy giờ cũng có những chuyển biến tích cực. Từ năm 1983 đến năm 1985, toàn thành phố đã tuyển dụng, tuyển sinh tổng cộng 18.652 người. Ngoài ra, thành phố còn tổ chức đào tạo hàng ngàn lao động khác như trong năm 1983 giải quyết việc làm tại chỗ cho 3.160 người, năm 1984 là 3.936 người và năm 1985 là 4.876 người. Trong đó, phần lớn những người này làm việc trong các cơ sở thủ công, mỹ nghệ xuất khẩu, cũng như những cơ sở sản xuất kinh doanh tập thể. Tuy nhiên, do áp lực việc làm quá lớn, kinh tế xã hội còn khó khăn nên công tác này còn nhiều hạn chế, hầu như không năm nào đạt kế hoạch đề ra. Năm 1985 là năm đạt thấp nhất 49,8% theo kế hoạch đối với số người tuyển dụng và 45,78% theo kế hoạch đối với số người tuyển sinh(1). Tại Hòa Vang, trong những năm 1983 -1985, huyện đã đưa đi xây dựng vùng kinh tế mới trong và ngoài tỉnh 263 hộ với 1.603 người. Bưu điện đã mở thêm mạng lưới thông tin đến các địa phương, 50% số xã đã có điện thoại, từ đó việc phục vụ cho lãnh đạo, chỉ đạo được kịp thời hơn.

Về công tác xây dựng cơ bản, Đà Nẵng cũng đạt một số kết quả đáng khích lệ: Việc quản lý nhà cho thuê, thu hồi nhà chiếm dụng trái phép, giải quyết việc mua bán nhà, sửa chữa nhà ở, cơ quan làm việc có tiến bộ. Năm 1984, ngành nhà đất và công trình công cộng đã tiến hành sửa chữa nhà cửa 2,050 triệu đồng, lát gạch vỉa hè và nạo vét cống rãnh 11 triệu đồng, lắp được 101 bộ đèn thủy ngân cao áp, đưa tổng số đèn thủy ngân cao áp toàn thành phố lên 600 bộ. Năm 1985, thành phố tiếp tục lắp 83 bộ đèn

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo tình hình và những nhận định sơ bộ về các mặt hoạt động trong năm 1985 của thành phố Đà Nẵng”, tlđd.

Page 125: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

125

thủy ngân cao áp ở một số vị trí cần thiết. Đặc biệt, Đội Kiểm tra quy tắc thành phố đã buộc một số người tháo gỡ 300 lều quán lấn chiếm vỉa hè, xử lý 150 nhà xây cất trái phép. Ở Hòa Vang, phong trào xây dựng nhà ở phát triển mạnh. Trong thời gian này, tổng số tiền nhân dân đầu tư xây dựng nhà ở là 109,02 triệu đồng. Nhờ vậy, đến cuối năm 1985, khoảng 50% nhà ở của nhân dân trong huyện đã được ngói hóa.

Đặc biệt, để tiến tới Kỷ niệm 10 năm Ngày thành phố Đà Nẵng được giải phóng (29/3/1975 - 29/3/1985), Đà Nẵng đã đăng ký thi đua tổ chức xây dựng một số công trình để chào mừng như: Phá bỏ toàn bộ cấu trúc chợ Cồn cũ, xây dựng mới thành “Trung tâm thương nghiệp Đà Nẵng”, xây dựng tượng đài “Mẹ dũng sĩ Thanh Khê” trên đường Điện Biên Phủ, xây dựng Vườn hoa Diên Hồng, chỉnh trang Công viên 29-3, củng cố hệ thống vườn hoa và cây xanh trong thành phố...

Ngày 29 tháng 3 năm 1985, tại Đà Nẵng, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức Lễ mít tinh Kỷ niệm 10 năm giải phóng tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (29/3/1975 - 29/3/1985) và đón nhận Huân chương Sao Vàng. Dự Lễ mít tinh có đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo tỉnh, sở, ban, ngành, đoàn thể; đại diện lãnh đạo các tỉnh bạn, các đơn vị lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn tỉnh; các nhà ngoại giao, đại sứ quán các nước Liên Xô, Tiệp Khắc, Lào, Campuchia; Tổng lãnh sự Liên bang Xô Viết tại Đà Nẵng… đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.

Diễn văn mít tinh đã ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường, anh dũng của Đảng bộ, quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giải phóng quê hương, thống nhất đất nước, nêu bật những kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh sau 10 năm giải phóng; nêu cao quyết tâm xây dựng tỉnh nhà ngày một phát triển ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Page 126: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

126

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Phát biểu tại Lễ mít tinh, đồng chí Lê Duẩn nêu rõ: Cùng với cả nước, Quảng Nam - Đà Nẵng đã thực hiện sáng tạo Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương Đảng, vận dụng linh hoạt vào điều kiện cụ thể của địa phương. Một số mặt phát triển mạnh, nhất là sản xuất lương thực. Đời sống của nhân dân được cải thiện và ổn định, giữ vững. Đó là thắng lợi của Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng. Trong điều kiện hiện nay, muốn có hòa bình phải làm cách mạng, phải đi vào xã hội chủ nghĩa. Phải có hòa bình, hòa bình là cách mạng. Hòa bình độc lập và chủ nghĩa xã hội là một. Phải bằng mọi cách ngăn chặn chiến tranh để xây dựng hòa bình và chủ nghĩa xã hội thành công. Mỗi tỉnh, mỗi thành phố phải làm ra lúa, khoai, vải, thép. Tranh thủ thời gian mà làm. Phải vận dụng thật linh hoạt hơn nữa đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Trung ương. Không được chủ quan thỏa mãn. Quảng Nam - Đà Nẵng có điều kiện phát triển về nhiều mặt. Tôi mong Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh phát huy hơn nữa những thắng lợi đã đạt được trong 10 năm qua, nỗ lực phấn đấu, đưa tỉnh phát triển mạnh mẽ hơn nữa, làm cho đời sống của nhân dân mau chóng thay đổi, ổn định, từng bước công nghiệp hóa nước nhà mà địa phương phải có trách nhiệm đóng góp lớn(1).

Nhân dịp này, đồng chí Chu Huy Mân, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước gắn Huân chương Sao vàng lên cờ truyền thống của tỉnh. Đây là phần thưởng cao quý của Hội đồng Nhà nước tặng nhân dân, cán bộ chiến sĩ trong tỉnh đã có công lao và thành tích to lớn trong 40 năm đấu tranh cách mạng, chiến đấu chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thời gian này, Đảng ta đề ra một số chủ trương quan trọng. Tại Hội nghị Trung ương lần 6 diễn ra vào tháng 7 năm 1984 và Hội nghị Trung ương lần 7 được tổ chức vào tháng 12 năm 1984, Đảng ta nhận xét rằng: Chính sách giá - lương - tiền lúc bấy giờ

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam: Biên niên sự kiện, sđd, tr. 264-265.

Page 127: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

127

không phù hợp với thực tế, khiến giá cả biến động mạnh làm đồng tiền liên tục mất giá. Hậu quả không những làm cho đời sống cán bộ công nhân viên và nhân dân gặp khó khăn mà còn gây tác động xấu đến sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở phân tích, đánh giá, Hội nghị quyết định đường lối về cải tiến quản lý kinh tế, về phân phối lưu thông và về giá lương tiền. Tiếp đó, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8, diễn ra vào tháng 6 năm 1985, căn cứ kinh nghiệm từ thực tiễn ở Long An, Trung ương quyết định xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Ngày 14 tháng 9 năm 1985, Trung ương tiến hành cuộc tổng điều chỉnh giá lương tiền lần thứ 2, xóa bỏ hoàn toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho người ăn lương. Đây là sự kiện đánh dấu bước ngoặt xóa bỏ quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta. Thực hiện chủ trương trên, tháng 4 năm 1985, Đà Nẵng nói riêng và cả tỉnh nói chung, đã tiến hành bù giá qua lương, đưa lương vào giá thành sản phẩm. Đồng thời, những biện pháp quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa trong công tác tiền tệ, tín dụng và ngân hàng cũng bước đầu được áp dụng. Điều đó đã khích lệ nhân dân gửi tiền tiết kiệm nhiều hơn. Chỉ trong vòng 4 tháng, số dư tiền gửi tiết kiệm của Đà Nẵng tăng bằng cả năm 1984. Tại Hòa Vang, tổng số tiền gửi tăng cao nhất, lên đến 17 triệu đồng.

Từ khi Đảng và Nhà nước thực hiện giá lương tiền, mặt trận phân phối lưu thông đã nóng bỏng lại càng biến động gay gắt hơn, thị trường diễn biến hết sức phức tạp. Trước tình hình đó, các cấp ủy Đảng ở Đà Nẵng ra sức nỗ lực lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, phấn đấu hoàn thành tốt những nhiệm vụ đề ra.

Ngành thương nghiệp thành phố phát triển từ 3 công ty tăng lên 10 công ty kinh doanh ngành dịch vụ ăn uống, phục vụ, xây dựng. Đồng thời, thành phố cũng thành lập công ty kinh

Page 128: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

128

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

doanh tổng hợp và công ty thủy sản. Cùng với thương nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã mua bán của 28 phường cũng tiếp tục củng cố và mở rộng. Đầu năm 1983, có 131 điểm phục vụ, cuối năm 1985 tăng lên 916 điểm bán hàng của thương nghiệp quốc doanh cũng như của các hợp tác xã mua bán phường. Tổng doanh số mua vào và bán ra năm 1984 lần lượt là 1,439 tỷ đồng và 1,496 tỷ đồng, vượt kế hoạch 43,8% và 31,8%. Tuy nhiên, đến năm 1985, doanh số mua vào bán ra của mạng lưới thương nghiệp quốc doanh lẫn hợp tác xã không đạt kế hoạch. Cụ thể, doanh số mua vào bán ra lần lượt là 266 triệu đồng và 387,696 triệu đồng(1), chỉ đạt 95,53% và 96,08% so với kế hoạch. Tại Hòa Vang, về thương nghiệp, năm 1985, doanh số mua vào và bán ra của thương nghiệp quốc doanh đều tăng. Doanh số mua vào tăng gấp 4,5 lần, bán ra tăng gấp 5,2 lần so với năm 1982. Cùng với thương nghiệp quốc doanh, hệ thống các hợp tác xã mua bán cũng được tổ chức đều khắp. Phong trào học tập và noi theo Hợp tác xã mua bán Duy Hòa diễn ra sôi nổi. Nhiều hợp tác xã đã biết vươn ra làm ăn theo phong cách mới, đưa doanh số mua vào và bán ra tăng lên rõ rệt. Công tác thu mua, nắm nguồn hàng có nhiều tiến bộ, năm 1985 mua được 582 tấn thịt heo hơi, tăng 1,7 lần so với năm 1982. Toàn huyện có 65% giá trị hàng tiểu thủ công nghiệp được đưa vào lưu thông có tổ chức.

Về việc huy động nghĩa vụ lương thực có nhiều tiến bộ. Năm 1985, thành phố Đà Nẵng huy động được 301 tấn lương thực quy thóc. Như vậy, so với sản lượng lương thực huy động năm 1980 là 54 tấn thì năm 1985 tăng gần gấp 6 lần(2). Tại Hòa Vang, mức huy động lương thực giao nộp cho Nhà nước hằng năm được tăng lên nhanh chóng. Nếu năm 1982, Hòa Vang huy động được

(1) Tiền mới (VNĐ) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngày 14 tháng 9 năm 1985, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về việc phát hành tiền ngân hàng mới, thu đổi tiền ngân hàng cũ. Theo đó, cứ 10 đồng tiền ngân hàng cũ đổi được 1 đồng tiền ngân hàng mới. (2) Chi cục Thống kê Quảng Nam - Đà Nẵng: tlđd.

Page 129: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

129

8.912 tấn thì năm 1985 tăng lên 18.387 tấn, bằng 24% tổng sản lượng lương thực toàn huyện.

Bắt đầu từ năm 1985, nhất là từ khi Đảng và Nhà nước thực hiện chủ trương giá - lương - tiền, thu tiền cũ đổi tiền mới, giá cả tăng đột biến, đồng bạc nhanh chóng mất giá. So với năm 1984, chỉ số giá bình quân cho các loại hàng hóa năm 1985 tăng 54,64%. Trong đó, hàng lương thực tăng 57,6%, thực phẩm tăng 41,13%, hàng công nghiệp tiêu dùng tăng 52,83%, vật liệu xây dựng và chất đốt tăng 67,03%. Nói chung, tất cả hàng hóa đều tăng. Giá cả tăng mạnh khiến đời sống cán bộ công nhân viên và nhân dân lao động ở Đà Nẵng, Hòa Vang cũng như cả nước vốn đã khó khăn càng khó khăn hơn. Đó thực sự là thách thức không nhỏ đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Công tác thu chi tài chính tăng đáng kể. Năm 1983, tổng thu ngân sách là 363,037 triệu đồng, vượt kế hoạch 23,78%, tăng 54,8% so với năm 1982. Năm 1984, thu ngân sách 415,767 triệu đồng, vượt 9,7% kế hoạch và tăng 37,2% so với năm 1983. Năm 1985, thu ngân sách 85,363 triệu đồng tiền ngân hàng mới, vượt 5,72% so với kế hoạch. Cùng với thu ngân sách, chi ngân sách thành phố hai năm đầu đều vượt kế hoạch. Năm 1983, chi 106,140 triệu đồng, vượt kế hoạch 11,7%. Năm 1984, chi 130,481 triệu đồng, vượt kế hoạch 13%. Riêng năm 1985, tuy bội chi 1,224 triệu đồng tiền ngân hàng mới, nhưng với tổng số tiền chi là 40,222 triệu đồng, chỉ bằng 91% theo kế hoạch(1). Ở Hòa Vang, hoạt động của ngành tài chính có nhiều tiến bộ, thu tài chính hằng năm đều tăng. Tổng thu ngân sách trong 3 năm, từ năm 1983 đến năm 1985 là 37,6 triệu đồng.

Trên lĩnh vực nông lâm nghiệp, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của tình hình trong thời gian này, Đảng ta có nhiều quyết định quan trọng. Ngày 18 tháng 01 năm 1981, Ban Bí thư Trung

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo tình hình và những nhận định sơ bộ về các mặt hoạt động trong năm 1985 của thành phố Đà Nẵng”, tlđd.

Page 130: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

130

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

ương ra Chỉ thị số 100-CT/TW về việc “Cải tiến công tác khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”. Chỉ thị nêu rõ mục đích của khoán sản phẩm cũng như các mặt khác trong công tác quản lý nông nghiệp nhằm bảo đảm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, làm cho mọi người hăng hái lao động, tăng năng suất, góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Tiếp đến, ngày 14 tháng 12 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết về hoàn chỉnh công tác khoán trong nông nghiệp. Cuối năm 1983, Bộ Chính trị ra Chỉ thị đẩy mạnh việc giao đất giao rừng và tổ chức theo hướng nông lâm kết hợp. Ngày 18 tháng 01 năm 1984, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về việc khuyến khích và phát triển kinh tế gia đình. Thực hiện những Nghị quyết, Chỉ thị nói trên, ngành nông lâm nghiệp ở Đà Nẵng, Hòa Vang có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực, nhất là sau khi chủ trương khoán sản phẩm đến với nông dân.

Tại Đà Nẵng, những chính sách mới của Đảng và Nhà nước nhanh chóng phát huy hiệu quả. Người nông dân tích cực hơn trong quá trình trồng và chăm sóc cây lúa và các loại cây rau màu. Nhờ vậy, năng suất lúa tăng từ 25 tạ lên 35 tạ mỗi ha. Năng suất rau cũng tăng từ 120 tạ lên 171 tạ mỗi ha. Trong 3 năm, từ 1983 đến 1985, sản lượng lương thực quy thóc lần lượt là 2.123 tấn, 2.350 tấn và 2.501 tấn. Nếu so với năm 1980, khi sản lượng lương thực quy thóc toàn thành phố chỉ đạt 1.825 tấn thì nay mỗi năm tăng hơn 500 tấn. Sản lượng rau thấp nhất là năm 1983, chỉ đạt 4.300 tấn. Năm 1984, sản lượng đạt cao nhất với 7.100 tấn. Đến năm 1985, sản lượng rau đạt 5.610 tấn. Nhìn chung, sản lượng lương thực quy thóc, rau màu tăng hơn những năm trước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt sự diễn biến bất thường của thời tiết, sâu bọ phá hoại mùa màng nên một số vụ bị thất thu, ảnh hưởng đến thành tích chung. Ở Hòa Vang, để phục vụ sản xuất nông nghiệp, các trạm bơm điện được xây dựng trước đây cùng với những công trình mới được xây dựng trong 3 năm qua đã phát huy tác dụng tốt, phục vụ nước tưới cho 12.500 ha diện tích đất

Page 131: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

131

gieo trồng. Trong các hợp tác xã nông nghiệp hệ thống sân phơi, nhà kho được tiếp tục xây dựng, nhiều nơi đến đội sản xuất.

Công tác cải tạo đồng ruộng đã được chú ý đầu tư thích đáng. Trong 3 năm từ 1983 đến 1985, huyện Hòa Vang đã cải tạo được 750 ha đất, tăng gấp 1,5 lần so với 7 năm trước đó. Về giống, những giống lúa mới đã được sử dụng rộng rãi. Đặc biệt, huyện thường xuyên thay đổi giống lúa nhằm chọn các loại giống có năng suất cao, ít sâu bệnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Năng suất lúa bình quân toàn huyện tăng từ 8,25 tấn năm 1982 lên 10,3 tấn mỗi ha năm 1985. Trên cơ sở đó, tổng sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 71.341 tấn 1982 tăng lên 72.409 tấn năm 1983 và 76.463 tấn năm 1985(1). Bình quân lương thực đầu người từ 400 kg năm 1982 tăng lên 468 kg năm 1986. Có thể nói, đây là thời điểm nông nghiệp Hòa Vang có bước phát triển mạnh mẽ. Trong 3 năm liền, từ năm 1983 đến năm 1985, Hòa Vang là đơn vị được Bộ Nông nghiệp tặng cờ thâm canh giỏi toàn quốc. Riêng trong hai năm 1984 và 1985, Hòa Vang được vinh dự gia nhập câu lạc bộ 10 tấn của cả nước.

Ngành chăn nuôi trong giai đoạn này cũng có nhiều chuyển biến quan trọng. Tại Đà Nẵng, đàn heo luôn duy trì ở mức trên 27.000 con. Cụ thể, năm 1984 thành phố có 27.930 con, năm 1985 là 27.575 con. Lượng thịt cung cấp bình quân hằng năm khoảng trên 2.000 tấn thịt heo hơi. Ngoài heo, người dân Đà Nẵng còn thường xuyên duy trì các loại gia súc, gia cầm khác như bò, gà, vịt. Ở Hòa Vang, ngành chăn nuôi tương đối phát triển. Đáng chú ý là huyện đã Móng Cái hóa đàn heo và đã đạt mức mỗi ha gieo trồng có gần 3,5 con heo, trọng lượng xuất chuồng bình quân 56 kg mỗi con. Về số lượng, toàn huyện có 73.546 con heo, 12.396 con bò, 2.686 con trâu. Công tác thú y phòng trừ dịch bệnh cho đàn gia súc gia cầm có nhiều tiến bộ, hạn chế được một số dịch bệnh nguy hiểm.

(1) Chi cục Thống kê Quảng Nam - Đà Nẵng: tlđd.

Page 132: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

132

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Về lâm nghiệp, Đảng bộ Đà Nẵng luôn chú trọng công tác vận động nhân dân trồng cây ăn quả, cây công nghiệp và các loại cây khác. Phong trào trồng cây trở thành phong trào sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể xã hội. Nhờ vậy, trong những năm từ 1983 đến 1985, nhân dân toàn thành phố đã trồng trên 2,6 triệu cây(1). Cùng với việc hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch trồng cây hằng năm, Đà Nẵng cũng chú ý khai thác gỗ phục vụ nhu cầu của các cơ quan và nhân dân. Năm 1984, thành phố khai thác được 1.800 mét khối gỗ tròn. Năm 1985, sản lượng khai thác ít hơn, chỉ được 1.320 mét khối gỗ tròn. Tại Hòa Vang, chấp hành chủ trương của Đảng và Nhà nước, huyện đã hoàn thành cơ bản công tác giao đất, giao rừng cho các hợp tác xã nông nghiệp; đồng thời đẩy mạnh công tác trồng cây gây rừng. Toàn huyện đã trồng được 16.272.000 cây, bình quân mỗi năm trên 5 triệu cây. Trong đó, có 3.400 ha rừng tập trung. Tỷ lệ cây sống đạt khoảng 60%. Về khai thác, huyện khai thác được 7.534 mét khối gỗ tròn và hàng nghìn tấn lâm sản.

Về ngư nghiệp, mặc dù khó khăn về xăng dầu, vật tư, ngư lưới cụ nhưng nghề cá ở Đà Nẵng từng bước được tổ chức lại, tập trung cho việc khai thác tôm xuất khẩu, đồng thời ứng dụng các kỹ thuật đánh bắt nên từ năm 1983 đến 1985, bình quần mỗi năm, thành phố đã đánh bắt trên 20.000 tấn(2). Như vậy, trong 3 năm, thành phố đánh bắt tổng cộng 63.900 tấn, thu mua được 26.671 tấn. Trong đó, sản lượng xuất khẩu 1.614 tấn, chế biến được 13.465 tấn. So với chỉ tiêu kế hoạch, đánh bắt vượt 29,9%, thu mua để xuất khẩu vượt 7,6%, chế biến đạt 89,8%. Tuy hằng năm, ngành thủy sản đều đạt và vượt kế hoạch nhưng nhìn chung, bên cạnh những khó khăn về vật tư, nguyên liệu thì việc

(1) Năm có số lượng cây trồng nhiều nhất là năm 1983 với 1,03 triệu cây (có 37.000 cây đào lộn hột). Năm 1984, trồng được 700.000 cây các loại (có 14.500 cây đào lộn hột, 5.000 cây dừa). Năm 1985, trồng được 800.000 cây phi lao và bạch đàn, 10.000 cây công nghiệp các loại.(2) Năm 1983 là 22.000 tấn, năm 1984 là 20.400 tấn và năm 1985 là 21.500 tấn.

Page 133: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

133

đầu tư khoa học kỹ thuật còn yếu, chưa đủ sức khai thác hết tiềm năng thế mạnh của một thành phố ven biển giàu tôm, cá và các loại hải sản có giá trị khác. Tại Hòa Vang, huyện thành lập Công ty Thủy sản Hòa Vang. Cùng với sự ra đời của Công ty là sự ra đời của một đội tàu khai thác hải sản gồm 15 chiếc với tổng công suất 376 mã lực. Như vậy, đến năm 1985, Hòa Vang đã có tổng cộng 31 tàu thuyền đánh bắt hải sản. Nhờ đó, sản lượng đánh bắt tăng cao, nhất là hải sản xuất khẩu. Năm 1985, đánh bắt được 953 tấn, tăng 33,28% so với năm 1982. Trong đó, sản lượng phục vụ công tác xuất khẩu 76 tấn. Nuôi tôm nước lợ bước đầu phát triển. Ngành chế biến hải sản, trong đó có nghề thủ công chế biến nước mắm truyền thống ở Nam Ô được khôi phục. Các hợp tác xã nghề cá Hòa Hải, tổ hợp tác đánh bắt Hòa Hiệp được củng cố một bước.

Về thủy sản, Đà Nẵng đã tiến hành kiện toàn và củng cố Công ty Thu mua Quốc doanh và 2 cơ sở Công ty Liên doanh khai thác thu mua chế biến hàng xuất khẩu và Xí nghiệp Liên doanh chế biến nội địa, củng cố các hợp tác xã chế biến và tổ hợp tác khai thác hải sản, các cơ sở tập thể dịch vụ sửa chữa đóng mới tàu thuyền. Tại những phường có nghề cá tập trung lớn như Xuân Hà, Nại Hiên Đông, An Hải Tây, Thuận Phước hình thành những cơ sở hậu cần nghề cá với mục đích cung ứng một phần vật tư thiết yếu như xăng dầu, ngư lưới cụ. Nhờ những biện pháp tích cực ấy, đến năm 1985, toàn ngành đã có 48 tổ hợp tác nghề cá với 77 tàu thuyền với tổng công suất 1.680 mã lực, chiếm tỷ lệ 7,6% số tàu thuyền. Số lao động đã vào tổ hợp tác là 540 người, chiếm tỷ lệ 9%. Sản lượng khai thác trong năm 1984 đạt 1.695 tấn, chiếm tỷ lệ 8,3% tổng sản lượng khai thác toàn thành phố(1).

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, Đà Nẵng thực hiện tốt cuộc vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các phong trào

(1) Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng: “Báo cáo công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp - thủy sản năm 1984”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 134: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

134

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

xây dựng nếp sống mới, con người mới, xây dựng “Gia đình 5 tốt” và cụm “Gia đình văn hóa mới”, động viên nhân dân “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”, chống mê tín dị đoan. Tại Đà Nẵng, hưởng ứng phong trào, từ 26 cụm “Gia đình văn hóa mới” năm 1983, đến năm 1984 đã phát triển thêm 30 cụm và bước sang năm 1985 thêm 45 cụm, nâng tổng số cụm “Gia đình văn hóa mới” trên địa bàn các tổ dân phố tại các phường lên 101 cụm. Trong đó, có nhiều cụm hoạt động tốt, rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm chỉ đạo cụ thể như ở An Hải Đông, Phước Ninh. Cũng trong quá trình phát động phong trào xây dựng nếp sống mới, con người mới, tính đến năm 1985, nhân dân thành phố đã tháo gỡ 13.387 am miếu thờ. Đến năm 1985, thành phố cũng xây dựng thêm 5 trạm đài truyền thanh cơ sở, nâng tổng số trạm đài truyền thanh cơ sở lên 50 trạm, với hệ thống 9.500 loa con, 220 loa lớn, phục vụ tốt yêu cầu thông tin, tuyên truyền, giáo dục cho bà con 28 phường. Phong trào thể dục - thể thao, văn hóa - văn nghệ tiếp tục được duy trì và phát triển, sôi nổi nhất là ở các cơ quan, xí nghiệp, lực lượng vũ trang. Trên cơ sở đó, trong các ngày lễ lớn như ngày 30 tháng 4, ngày 01 tháng 5, ngày 02 tháng 9... các cơ quan, đơn vị, các xã, phường thường xuyên tổ chức thi đấu giao hữu bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn đem lại không khí luyện tập thể dục thể thao hào hứng trong nhân dân.

Công tác giáo dục đạt một số chuyển biến đáng kể. Ở Đà Nẵng, thành phố đã đầu tư xây dựng thêm trường lớp, mua sắm trang thiết bị cần thiết cho ngành giáo dục. Về trường lớp, năm học 1983-1984, thành phố đầu tư xây dựng thêm 3 trường phổ thông cơ sở, đưa tổng số trường phổ thông cơ sở toàn thành phố lên 45 trường. Năm học 1984-1985, thành phố tiếp tục xây thêm 8 trường, đưa tổng số trường phổ thông cơ sở lên 53 trường(1). Nhờ vậy, mỗi năm, hệ thống các trường ở thành phố đủ sức đón hàng

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo tình hình và những nhận định sơ bộ về các mặt hoạt động trong năm 1985 của thành phố Đà Nẵng”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 135: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

135

chục ngàn học sinh vào các lớp học phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, nhà trẻ, mẫu giáo. Nếu năm học 1983-1984, Đà Nẵng nhận gần 87.200 học sinh mẫu giáo, phổ thông cơ sở thì đến năm học 1985-1986, số học sinh mẫu giáo, phổ thông cơ sở được nhận cũng xấp xỉ con số trên với 76.013 học sinh. Cơ sở nhà trẻ và trẻ em đến nhà trẻ cũng tăng lên. Nếu năm 1984, toàn thành phố có 146 nhà trẻ, thu nhận 4.270 cháu thì đến năm 1985 tăng lên 152 nhà trẻ với tổng số cháu thu nhận là 4.817 cháu. Cùng với việc phát triển hệ thống trường lớp, thu nhận học sinh, ngành giáo dục Đà Nẵng cũng có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện cải cách giáo dục nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. Các trường còn tổ chức các cụm sinh hoạt chuyên môn, xây dựng mô hình “Xưởng - Trường - Phường”, phát động phong trào thi đua “Hai giỏi” sôi nổi, thiết thực, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Tại Hòa Vang, ngành giáo dục huyện cũng có nhiều cố gắng. Toàn huyện bình quân 2,8 người dân có 1 người đi học. Công tác nhà trẻ, mẫu giáo phát triển khá.

Ngành y tế ở Đà Nẵng thường xuyên tăng cường phát động các phong trào phòng chống các loại dịch bệnh nguy hiểm, nhất là bệnh sốt xuất huyết ở trẻ em, phong trào vệ sinh ăn uống, vệ sinh phòng bệnh, bảo vệ môi trường trong các cộng đồng dân cư. Cơ sở vật chất khám chữa bệnh cho nhân dân từng bước được các cấp chính quyền quan tâm đầu tư, mua sắm. Công tác vận động sinh đẻ có kế hoạch đạt được một số kết quả. Tại Đà Nẵng, số người đặt vòng tránh thai năm 1984 là 3.735 phụ nữ, vượt kế hoạch phấn đấu là 3.500 phụ nữ. Năm 1985, số người áp dụng các biện pháp tránh thai toàn thành phố là 11.227 người, vượt 24% so với kế hoạch. Trên cơ sở đó, Đà Nẵng là đơn vị đã có 17/28 phường hoàn thành dứt điểm sinh đẻ có kế hoạch. Trong đó, phường Bình Hiên là ngọn cờ đầu. Tỷ lệ sinh tăng dân số ở thành phố năm 1983 khống chế ở mức 1,48% và năm 1985 còn 1,4%. Riêng ở phường Bình Hiên, đến năm 1985, chỉ còn 1,14%.

Page 136: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

136

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ngành thương binh - xã hội có nhiều nỗ lực trong quá trình thực hiện chính sách đối với những gia đình thương binh liệt sĩ, có công với cách mạng và những đối tượng khác. Ở Đà Nẵng, tính đến năm 1985, ngành thương binh - xã hội thành phố đã quản lý 11.187 đối tượng hưởng chế độ chính sách gồm 2.294 thương binh, 2.428 gia đình liệt sĩ, 208 gia đình có công với cách mạng và 6.257 cán bộ hưu trí, mất sức. Bên cạnh việc thực hiện đúng chế độ, chính sách, ngành thương binh - xã hội thành phố còn tổ chức phát động phong trào “người công dân kiểu mẫu, gia đình cách mạng gương mẫu” hay triển khai cuộc vận động “Chăm sóc và sử dụng cán bộ hưu trí, mất sức” sâu rộng ở nhiều địa phương cũng như trong lực lượng cán bộ hưu trí, mất sức ở các phường.

Công tác quốc phòng - an ninh được các cấp ủy Đảng hết sức quan tâm, nhất là trong tình hình địch tăng cường chống phá ta về nhiều mặt. Tại Đà Nẵng, Đảng bộ liên tục phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, tăng cường chống vượt biển, chống xâm nhập, ngăn chặn có hiệu quả những hành vi chống phá cách mạng. Đáng chú ý là trong thời gian này, số vụ vượt biển trốn ra nước ngoài mỗi năm một giảm. Nếu năm 1983 xảy ra 41 vụ thì đến năm 1984 giảm xuống còn 16 vụ và bước sang năm 1985 chỉ còn 15 vụ. Trong đó, nhiều vụ ta kịp thời phát hiện và tổ chức ngăn chặn một cách hiệu quả. Đặc biệt, năm 1985, trong tổng số 15 vụ vượt biển, ta phát hiện và ngăn chặn kịp thời 11 vụ. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc thường xuyên được duy trì, phát triển. Hệ thống 1.294 tổ an ninh nhân dân trong toàn thành phố không ngừng được củng cố. Ngoài ra, nhằm thực hiện chủ trương của cấp trên, trong hai năm 1984 và 1985, Đà Nẵng tiến hành kiểm tra, thu hồi vũ khí, vật liệu nổ tàng trữ trái phép. Kết quả, trong năm 1984, năm cao điểm, thành phố đã thu hồi 254 khẩu súng các loại, 6.750 viên đạn, 45 quả lựu đạn, 70 kíp nổ. Ban Tư pháp, Tòa án và các ngành nội chính phối hợp với các đoàn thể, chính quyền tổ chức học tập Bộ Luật hình sự trong cán bộ công nhân viên và nhân dân.

Page 137: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

137

Nhờ được giáo dục, tổ chức và hướng dẫn cán bộ và nhân dân tham gia tốt phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc và chống tiêu cực. Quần chúng đã phát hiện giúp cho các cơ quan chuyên môn khám phá hàng trăm vụ tham ô, trộm cắp; thu hồi lại hàng chục tấn lương thực, vật tư nguyên liệu quý hiếm và hàng chục triệu đồng; đấu tranh ngăn chặn hàng trăm vụ trốn thuế công thương nghiệp, đầu cơ, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Điển hình như Nông trường Quyết Thắng, Xí nghiệp gỗ Câu Lâu, Nhà máy Cao su Đà Nẵng, Tổng kho An Đồn, Cảng Đà Nẵng đã xây dựng được nền nếp bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, động viên quần chúng trực tiếp đấu tranh bắt quả tang 126 vụ với 225 tên tội phạm thu hồi lại nhiều tài sản quý cho Nhà nước. Phong trào quần chúng ở tuyến biển đã có nhiều tiến bộ. Nhân dân đã kịp thời phát hiện các tàu thuyền Trung Quốc xâm nhập; tham gia bắt hàng trăm vụ vượt biển, giáo dục ngăn chặn hàng chục vụ chuẩn bị trốn, thu giữ hàng trăm súng và tàu thuyền các loại.

Đặc biệt, Xí nghiệp Quốc doanh khai thác hải sản Đà Nẵng đã bắt được 20 vụ với 169 người vượt biển trái phép. Nhiều cán bộ công nhân viên và nhân dân đã nêu lên những tấm gương dũng cảm, mưu trí đánh trả quyết liệt bọn cướp tàu vượt biển như bác Nguyễn Hạnh ở Bắc Mỹ An, đã trên 60 tuổi đã cảnh giác, mưu trí bắt gọn 20 người vượt biển, công nhân Xí nghiệp Xe khách Đà Nẵng đã bí mật phối hợp với cơ quan Công an bắt gọn 1 tổ chức vượt biển 50 tên và thu hồi toàn bộ phương tiện của chúng(1). Nhờ đó đã góp phần đấu tranh có hiệu quả ngăn chặn âm mưu địch lôi kéo người trốn ra nước ngoài. Tại Hòa Vang, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát động liên tục, sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân. Điển hình là trong năm 1985, trên địa bàn huyện không để xảy ra một vụ

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo Tổng kết xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch vững mạnh và đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 138: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

138

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

vượt biển nào trốn thoát. Đó là thắng lợi nổi bật, là thành quả tất yếu của Đảng bộ và nhân dân Hòa Vang trong công tác này.

Công tác tuyên truyền, giáo dục Luật Nghĩa vụ quân sự luôn được các cấp, các ngành quan tâm. Hằng năm, số thanh niên được gọi nhập ngũ của Đà Nẵng đều vượt kế hoạch. Lực lượng dân quân tự vệ không ngừng phát triển. Năm 1984, toàn thành phố phát triển thêm 3.318 tự vệ, nâng tổng lực lượng tự vệ lên 23.839 người, đạt 7,04% dân số. Trong lực lượng tự vệ mới phát triển, có 114 đảng viên, 269 đoàn viên. Năm 1985, lực lượng tự vệ phát triển thêm 1.713 tự vệ, nâng tổng lực lượng tự vệ lên 25.552 người, chiếm tỷ lệ 7,4% dân số. Đặc biệt, thành phố đã thành lập 2 tiểu đoàn quân dự bị động viên với quân số 720 đồng chí và 1 tiểu đoàn tự vệ với 400 người. Tại Hòa Vang, nếu năm 1984, lực lượng dân quân tự vệ chỉ chiếm 11,3% dân số thì đến năm 1985 đã chiếm tỷ lệ 15,4% dân số(1). Trong năm 1985, đã có 16 đơn vị tự vệ gồm tự vệ của 10 xã và 6 cơ quan, xí nghiệp của Hòa Vang được công nhận những đơn vị có lực lượng tự vệ đạt loại khá, giỏi.

Ở Đà Nẵng, công tác xây dựng chính quyền các cấp thông qua việc thực hiện Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân mới có nhiều tiến bộ. Hiệu lực quản lý Nhà nước ở địa phương được nâng lên. Đặc biệt, qua cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân 2 cấp, chính quyền thành phố và các phường được củng cố một bước. Năm 1984, thành phố mở 4 lớp có 216 đại biểu Hội đồng nhân dân 2 cấp tham dự khóa bồi dưỡng về chức năng, nhiệm vụ và lề lối làm việc của các đại biểu Hội đồng nhân dân. Các tổ dân phố thường xuyên được kiện toàn về tổ chức, tạo tiền đề đẩy mạnh hoạt động, giúp chính quyền cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc phân cấp quản lý kinh tế cho phường bước đầu phát huy tác dụng, góp phần tích cực cho sản xuất phát triển. Mặt trận và các đoàn thể như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân tập thể

(1) Bài “Hòa Vang xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng dân quân tự vệ”, Báo Quảng Nam - Đà Nẵng, số ra ngày 14 tháng 12 năm 1985.

Page 139: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

139

không ngừng được củng cố, tăng cường hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau. Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng và huyện Hòa Vang đã phát huy vai trò của mình qua cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân 2 cấp, tích cực vận động nhân dân hưởng ứng phong trào xây dựng cụm gia đình văn hóa mới, thôn văn hóa. Công đoàn phát động công nhân viên chức hăng hái lao động sản xuất, thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu suất học tập, công tác. Đoàn Thanh niên nổi bật với phong trào “Cuộc hành quân theo bước chân những người anh hùng” và phong trào “3 xung kích làm chủ tập thể”. Hội Phụ nữ sôi nổi hưởng ứng phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Hội Nông dân tập thể tập trung xây dựng tổ, đội tiên tiến và tham gia nhiều phong trào khác.

Cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ Đà Nẵng cũng ra sức đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng. Tại Đà Nẵng, Thành ủy thường xuyên tổ chức quán triệt những Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cho cán bộ, đảng viên, nâng cao tinh thần, trách nhiệm của từng đảng viên. Nhờ vậy, hầu hết đảng viên đều có ý thức phấn đấu tốt, quan hệ chặt chẽ với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm(1). Bên cạnh đó, Đảng bộ luôn chú trọng việc kiện toàn, củng cố tổ chức cơ sở Đảng, nhất là cơ sở Đảng ở các phường, các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Năng lực và trình độ quản lý, lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng được nâng lên một bước, đáp ứng khá tốt yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Về phong trào phấn đấu xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, qua phân loại, nếu năm 1984 ở Đà Nẵng số Đảng bộ, chi bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh chiếm tỷ lệ 11,7% thì đến năm 1985 tăng lên 25,7%, tức tăng thêm 14%. Loại khá năm 1985 cũng đạt tỷ lệ 70%, tăng gần gấp đôi so với năm trước. Đồng thời, số cơ sở Đảng yếu

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy về các mặt công tác của thành phố trong năm 1985 và chương trình công tác năm 1986”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 140: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

140

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

kém giảm xuống còn 4,3%. Về tư cách đảng viên, qua phân loại ở 12 tổ chức cơ sở Đảng, đã có 99,8% đảng viên đủ tư cách(1). Tại Hòa Vang, số cán bộ, đảng viên đủ tư cách và phát huy tính tiền phong gương mẫu mỗi năm đều tăng. Nếu năm 1983, số đảng viên đủ tư cách chiếm tỷ lệ 41,84% thì năm 1985 tăng lên 58%. Số chi bộ, Đảng bộ vững mạnh năm 1983 chiếm tỷ lệ 18% thì năm 1985 tăng lên 44,44%. Rõ ràng, đây là bước tiến đáng kể, thể hiện nỗ lực vượt bậc của các cấp ủy Đảng trong quá trình xây dựng Đảng ở thành phố Đà Nẵng cũng như huyện Hòa Vang.

Trong những năm từ 1983 đến 1985, công tác phát triển Đảng ở Đà Nẵng có nhiều chuyển biến đáng kể. Tại Đà Nẵng, toàn Đảng bộ phát triển tổng cộng 628 đảng viên mới. Trong đó, năm 1985 là năm phát triển nhiều đảng viên nhất với 265 đồng chí, chiếm tỷ lệ 42,2%. Năm phát triển ít nhất là năm 1984 với 180 đảng viên. Năm 1985 cũng là năm trong tổng số 28 phường toàn thành phố đã có 27 phường kết nạp được đảng viên mới là người địa phương. Ở Hòa Vang, cũng trong khoảng thời gian này, Đảng bộ đã kết nạp được 375 đảng viên. Song song với công tác phát triển đảng viên, các cấp ủy Đảng thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra Đảng. Qua kiểm tra các mặt, Đảng bộ Đà Nẵng đã xử lý kỷ luật 234 đảng viên. Trong đó, số đảng viên bị khiển trách 16 đồng chí, cảnh cáo 88 đồng chí, cách chức 7 đồng chí, lưu Đảng 50 đồng chí, khai trừ 37 đồng chí và xóa tên 16 đồng chí. Tại Hòa Vang, cũng qua công tác kiểm tra, Đảng bộ đã xử lý 126 trường hợp với nhiều hình thức khác nhau. Trong đó, khai trừ 9 đồng chí, xóa tên và đưa ra khỏi Đảng 21 đồng chí khác. Sai phạm nổi lên nhiều nhất là tham ô, móc ngoặc, làm ăn phi pháp, rượu chè bê tha, vô ý thức tổ chức kỷ luật.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng của Đảng bộ Đà Nẵng cũng đạt một số kết quả đáng kể. Năm 1984, Thành ủy Đà Nẵng đã tổ

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy về các mặt công tác của thành phố trong năm 1985 và chương trình công tác năm 1986”, tlđd.

Page 141: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

141

chức bồi dưỡng lý luận chính trị cơ bản cho 151 đảng viên, mở lớp chuyên đề về Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V cho 947 đảng viên. Năm 1985, đã có hàng ngàn đảng viên dự các lớp bồi dưỡng đảng viên và đối tượng cảm tình Đảng. Ngoài ra, hằng năm Thành ủy thường xuyên gửi hàng chục đồng chí đi đào tạo như năm 1984 có 24 đồng chí được gửi đi đào tạo cán bộ quản lý kinh tế, năm 1985 có 20 đồng chí đi học ở trường Đảng tỉnh. Ở các cơ quan, đơn vị trực thuộc thành phố, số cán bộ được đào tạo từ chương trình sơ cấp trở lên có 325 đồng chí. Trong đó, có 121 đồng chí được đào tạo ở các trường Đảng tỉnh và Trung ương. Toàn thành phố có 20% cấp ủy viên ở các phường là người trưởng thành từ phong trào. Trong những năm từ 1983 đến 1985, đã có 124 đồng chí có năng lực được đề bạt giữ những chức vụ quan trọng như trưởng, phó các ban ngành, công ty, xí nghiệp trong thành phố. Tại Hòa Vang, tính đến cuối năm 1985, toàn huyện đã có 50 đồng chí đạt trình độ đại học và cao đẳng, 221 đồng chí tốt nghiệp trung cấp các loại(1).

Công tác bảo vệ nội bộ Đảng được tiến hành thường xuyên trong các cấp ủy Đảng. Thành ủy Đà Nẵng cũng như Huyện ủy Hòa Vang chỉ đạo chặt chẽ nội dung công tác bảo vệ Đảng gắn liền với công tác củng cố chi bộ, Đảng bộ cơ sở, kiện toàn tổ chức bộ máy. Để nâng cao chất lượng đảng viên, các cấp ủy Đảng tổ chức cho đảng viên nghiên cứu nắm vững 5 nhiệm vụ của người đảng viên và 15 điểm quy định của Ban Bí thư Trung ương, kết hợp với việc kiểm điểm sâu sắc những ưu khuyết điểm, rút ra nguyên nhân, tìm những biện pháp hữu hiệu khắc phục. Trên cơ sở đó, mỗi đảng viên từng bước nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kịp thời đối phó với những âm mưu thủ đoạn của địch. Nhờ vậy, Thành ủy Đà Nẵng cũng như Huyện ủy Hòa Vang đã tạo ra những chuyển biến quan trọng trong nhận thức về công tác bảo vệ Đảng cho từng đảng viên và các tổ chức cơ sở Đảng. Những kết quả đạt được trong công tác bảo vệ Đảng

(1) Chưa kể các đồng chí hoạt động trong ngành giáo dục.

Page 142: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

142

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

là yếu tố cần thiết, tạo điều kiện cho các cấp ủy Đảng thực hiện thành công nhiệm vụ lãnh đạo các cấp, các ngành, các đoàn thể hoàn thành và hoàn thành tốt những nhiệm vụ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa.

* **

Từ năm 1979 đến năm 1985, là giai đoạn tình hình chính trị đất nước ta có nhiều diễn biến phức tạp, cả nước cùng lúc phải đối mặt với hai cuộc chiến tranh tại chiến trường Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc. Trong khi các thế lực thù địch vẫn không ngừng tăng cường chống phá, quấy rối trị an của nước ta. Đà Nẵng cũng không nằm ngoài bối cảnh khó khăn chung ấy. Tuy nhiên, với tinh thần cách mạng tiến công, các cấp ủy Đảng đã tích cực vận dụng đường lối của Đảng vào hoàn cảnh địa phương, ra sức phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, góp phần quan trọng trong việc ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đồng thời đóng góp thiết thực trong việc ủng hộ nhân tài, vật lực cùng cả nước thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống xâm lược tại hai đầu của đất nước.

Trong khoảng thời gian ấy, Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng, Hòa Vang ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng quê hương trong tình hình đất nước có chiến tranh và làm nghĩa vụ quốc tế với tinh thần anh dũng, bất chấp khó khăn, gian khổ để phục hồi sản xuất, phát triển kinh tế với tinh thần dám nghĩ, dám làm. Nhiều đồng chí lãnh đạo đã để lại dấu ấn trong việc lãnh đạo, chỉ đạo trên các mặt công tác như cải tạo công thương nghiệp, xây dựng đại công trình thủy lợi Phú Ninh, vận động nhân dân vào con đường làm ăn hợp tác xã, viện trợ, giúp đỡ các tỉnh bạn của Lào và Campuchia, được nhân dân trong tỉnh và nước đánh giá cao như các đồng chí: Hồ Nghinh, Phạm Đức Nam, Đỗ Thế Chấp, Ngô Xuân Hạ.... Trong tình hình đất

Page 143: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

143

nước vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, các thế lực thù địch, phản động bên ngoài liên tiếp mở các cuộc chiến tranh xâm lược tại biên giới Tây Nam và phía Bắc, bên trong thì chúng ra sức sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm để quấy rối trật tự, trị an, thực hiện bạo loạn lật đổ, làm cho tình hình an ninh chính trị nước ta nói chung, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nói riêng vô cùng khó khăn, phức tạp. Phát huy tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã phá tan hàng chục tổ chức chính trị phản động, xóa sổ tổ chức “Việt Nam dân tộc cách mạng đảng” do Nguyễn Văn Bảy cầm đầu, bắt hàng trăm tên phản động. Trên mặt trận chống vượt biên, vượt biển cũng vô cùng gian nan, phức tạp, dù một số cán bộ, chiến sĩ công an, quân đội có bị kẻ thù mua chuộc, dụ dỗ song Đảng bộ đã chỉ đạo tốt phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, vận động thực hiện tốt toàn dân tham gia, đã ngăn chặn, bắt giữ hàng trăm vụ vượt biên, vượt biển lúc bấy giờ.

Có thể nói, trong điều kiện vừa xây dựng, vừa bảo vệ quê hương trong tình hình đất nước có chiến tranh, song Đà Nẵng đã góp phần quan trọng trong công cuộc giữ vững trị an của cả tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, làm tốt nhiệm vụ quốc tế đối với các nước bạn Campuchia và Lào, tạo được sự tin tưởng của đa số quần chúng nhân dân. Đó chính là tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng thực hiện thành công đường lối Đổi Mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo sau này.

Page 144: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 145: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

145

Chương Ba

BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆNĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG

(1986 - 1990)

I. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ ĐÀ NẴNG LẦN THỨ III (9-1986)Sau 10 năm thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến

tranh, phát triển kinh tế, xây dựng cuộc sống mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng đã giành được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội; đời sống nhân dân từng bước được ổn định và cải thiện. Tuy nhiên, cũng như tình hình khó khăn chung của cả nước sau chiến tranh lúc bấy giờ là: Xây dựng và phát triển trong sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch bên ngoài và sự chống phá của lực lượng phản động bên trong nên sự phát triển mọi mặt của Đà Nẵng vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Ngoài sự yếu kém do chưa có kinh nghiệm trong điều hành đất nước sau chiến tranh, còn có những nguyên nhân cơ bản trong điều hành nền kinh tế vĩ mô của đất nước, do “sai lầm nghiêm trọng kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”(1).

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, 1986, tr.26.

Page 146: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

146

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Thời gian này, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp: Liên Xô và Đông Âu tiến hành cải tổ trong sự công kích, đánh phá nhiều mặt của chủ nghĩa đế quốc. Trong nước, tính đến giữa năm 1986, thực hiện chủ trương đổi mới từng phần trong nông nghiệp, công nghiệp đã đem lại những kết quả nhất định trên một số lĩnh vực, tạo được sự tin tưởng, phấn khởi trong đại đa số quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, do mắc sai lầm trong việc điều hành nền kinh tế vĩ mô, nên cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nước ta ngày càng trầm trọng, việc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền năm 1985 không đạt được kết quả như mong muốn, làm tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước bị chậm lại, lạm phát tăng lên rất cao.

Trong bối cảnh đó, từ ngày 05 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được triệu tập. Đại hội nêu ra khẩu hiệu: “Nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” và vạch ra phương hướng phát triển đất nước trong tình hình mới theo chủ trương “Đổi Mới” của Đảng. Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, là Đại hội đổi mới, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài hơn 10 năm qua và đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp để phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 10 năm 1986, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XIV. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ mới gồm 45 ủy viên chính thức và 7 ủy viên dự khuyết. Tại Hội nghị lần thứ nhất họp ngày 04 và ngày 05 tháng 11 năm 1986, Tỉnh ủy khóa XIV đã bầu Ban Thường vụ gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Chi được bầu làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Thành và đồng chí Trần Đình Đạm làm Phó Bí thư. Đại hội lần thứ XIV Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống chính trị của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân toàn tỉnh do đã tiếp thu những định hướng đổi mới của Đảng.

Page 147: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

147

Tại Đà Nẵng, trước đó, từ ngày 24 đến ngày 26 tháng 9 năm 1986, Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ III được tiến hành. Đánh giá những thành tựu mà Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã đạt được trong nhiệm kỳ qua, Đại hội ghi nhận: Đảng bộ và nhân dân thành phố tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có mở rộng, phát triển thêm nhiều mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu, nghề cá được củng cố và phát triển, ngành xuất khẩu được mở rộng. Mạng lưới phân phối lưu thông được tổ chức đều khắp. Cơ sở hạ tầng được đẩy mạnh, một số công trình trọng điểm được xây dựng để phục vụ cho việc phát triển kinh tế, văn hóa thành phố. Các cơ quan chức năng đã điều phối, sắp xếp công việc làm ăn cho người lao động đạt một số kết quả.

Trước diễn biến không thuận lợi về kinh tế và đời sống nói chung của cả nước, Đà Nẵng vẫn tiếp tục duy trì được sự ổn định chính trị, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng lên. Tuy nhiên, với nhiệm vụ phải xây dựng Đà Nẵng thành một thành phố công nghiệp, thành phố cảng; có vị trí là trung tâm kinh tế, văn hóa và chính trị (như Nghị quyết Đại hội XII, XIII của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng xác định) thì Đảng bộ chưa thực hiện được. Cụ thể ở các lĩnh vực như sau: Tuy có tập trung lãnh đạo kinh tế nhưng không thoát khỏi tình trạng lúng túng, bị động. Ngành tiểu thủ công nghiệp, công suất, thiết bị và lao động nhiều lúc chưa sử dụng hết. Nghề cá còn thiếu điều kiện đảm bảo để phát triển. Nông nghiệp thiếu chính sách phát triển vùng rau chuyên canh và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Thương nghiệp có phát triển, song việc nắm hàng chưa tốt, đấu tranh quản lý thị trường còn kém. Công tác cải tạo mới đạt kết quả bước đầu về xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, lực lượng sản xuất mới chậm phát triển. Các hoạt động thực hiện nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa phát triển chưa đều, tổ chức phối hợp còn thiếu chặt chẽ, kết quả đạt còn hạn chế. Tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp, phong trào hoạt động cách mạng của

Page 148: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

148

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

quần chúng phát triển chưa đều, năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ, nhiều cấp ủy chưa ngang tầm với nhiệm vụ.

Xuất phát từ tình hình trên, Đại hội đề ra nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu như sau: Làm cho cán bộ, nhân dân quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng và của tỉnh; vận dụng tổ chức thực hiện các nhiệm vụ một cách năng động, sáng tạo, bố trí lại sản xuất, đẩy mạnh việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa; thực hiện nhiệm vụ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; phát triển sự nghiệp văn hóa - xã hội, xây dựng quốc phòng vững mạnh; nâng cao năng lực sức chiến đấu của tổ chức Đảng.

Về nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong những năm 1986 đến năm 1990, Đảng bộ Đà Nẵng vạch ra những nhiệm vụ trọng điểm như sau: Tiếp tục giữ vững ổn định cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội mà quan trọng nhất là ổn định và phát triển sản xuất, ổn định thị trường, cải thiện một bước đời sống của nhân dân lao động; cùng với tỉnh và Trung ương khắc phục những sai lầm, khuyết điểm của những năm qua, tạo điều kiện đẩy mạnh các nhiệm vụ kinh tế, xã hội trong những năm đến. Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng quan hệ sản xuất mới. Tiếp tục củng cố các hợp tác xã và tổ hợp tác trong tiểu thủ công nghiệp, ngư nghiệp, nông nghiệp gắn với việc tổ chức lại sản xuất nhằm mục tiêu phát triển sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân.

Về công tác xây dựng Đảng, do tính chất phức tạp của những nhiệm vụ kinh tế, xã hội trong tình hình mới, cuộc đấu tranh giữa “hai con đường” xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đang diễn ra gay gắt, vì vậy Đảng bộ chủ trương tập trung chỉ đạo quyết liệt cuộc đấu tranh chống các kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, nâng cao vai trò của Đảng, chú trọng công tác xây dựng Đảng về mặt tư tưởng, tổ chức và tăng cường công tác kiểm tra.

Đại hội III của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng thống nhất cao với quan điểm của Đảng: Cần xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung

Page 149: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

149

quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý theo phương thức hoạch toán kinh doanh; tổ chức phát triển nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành nhiệm kỳ III của Đảng bộ thành phố gồm 51 đồng chí(1), trong đó có 10 Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Võ Đắc Hợi làm Bí thư, đồng chí Hoàng Tú - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, đồng chí Hồ Việt - Phó Bí thư Thường trực cơ quan Đảng, đồng chí Hoàng Tư Nghĩa - Ủy viên Ban Thường vụ được phân công làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố(2). Đại hội lần thứ III của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng có ý nghĩa quan trọng trong tinh thần: “Nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” của Đảng. Đại hội đã đánh giá thực trạng tình hình thành phố và bước đầu cụ thể hóa đường lối Đổi Mới Đại hội VI của Đảng, đề ra những giải pháp trên một số lĩnh vực, để Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo một cách hiệu quả hơn sự nghiệp cách mạng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Cùng thời gian này, Đại hội lần thứ IX Đảng bộ huyện Hòa Vang được tổ chức vào ngày 05 tháng 9 năm 1986. Đánh giá tình hình nhiệm kỳ qua, Đại hội nhận xét: Trong điều kiện khó khăn về thời tiết, thiên tai; sự mất cân đối nguyên - nhiên - vật liệu, tiền vốn, phải đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch bên ngoài và bọn phản động bên trong song Đảng bộ Hòa Vang đã lãnh đạo, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX đạt số kết quả đáng khích lệ. Sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, năng suất lúa 8,25 tấn/ha năm 1982 lên 10,3 tấn/ha năm 1985, là địa phương 3 năm liên tục được Bộ Nông nghiệp tặng cờ “Thâm canh giỏi” toàn quốc và 2 năm 1984-1985 đã trở

(1) Ngay sau Đại hội, Đảng bộ đã chỉ định đồng chí Nguyễn Văn Điệu vào Ban Chấp hành và Ban Thường vụ, giữ chức Thành đội trưởng, nâng tổng số Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ III là 52 đồng chí.(2) Trước Đại hội, đồng chí Nguyễn Văn Chi, Phó Bí thư Thành ủy Đà Nẵng được điều động lên làm Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng.

Page 150: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

150

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thành thành viên của “Câu lạc bộ 10 tấn” của cả nước. Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp được giữ vững.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 49 đồng chí, Ban Thường vụ có 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phúc làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Văn Đán làm Phó Bí thư Thường trực; đồng chí Nguyễn Tiến Qua làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân.

II. NHỮNG CHUYỂN BIẾN BAN ĐẦU TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG

Tháng 7 năm 1986, Thành ủy Đà Nẵng tổ chức truyền đạt nội dung dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chuẩn bị trình Đại hội lần thứ VI, hướng dẫn tổ chức việc tham gia ý kiến vào nội dung Đại hội Đảng các cấp. Ngoài việc tổng kết những ý kiến tham gia về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và các giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc đã và đang cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ Đà Nẵng còn thống nhất đề nghị với Tỉnh và Trung ương việc quy hoạch thành phố Đà Nẵng, tiến hành phân công, phân cấp một cách hợp lý; xác định rõ trách nhiệm quản lý, phù hợp với tính chất, đặc điểm của một thành phố trung tâm kinh tế của miền Trung; khắc phục có hiệu quả tình trạng tổ chức trùng lắp, quản lý chồng chéo, trách nhiệm không được quy định rõ ràng, đưa đến hệ quả “dễ làm, khó bỏ”, đổ lỗi cho nhau; thiếu trách nhiệm đối với cuộc sống của nhân dân.

Sau Đại hội, Đảng bộ Đà Nẵng tập trung hướng dẫn, quán triệt thực hiện các quan điểm đổi mới của Đảng, trong đó có những nội dung: Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác; đổi mới công tác tổ chức và cán bộ. Về cơ chế tổ chức quản lý, Đảng chủ trương “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Lúc bấy giờ, quan niệm,

Page 151: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

151

nhận thức của một bộ phận không ít cán bộ, đảng viên còn e ngại việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vì sợ khó giữ vững quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; hội nhập kinh tế với các nước tư bản sẽ khó giữ vững quốc phòng và an ninh; ngược lại, cũng có một bộ phận khá đông muốn xóa bỏ ngay và tất cả cơ chế kế hoạch hóa bao cấp. Trong nhân dân, một số người có khả năng tổ chức sản xuất, kinh doanh nhưng còn ngần ngại, sợ “cải tạo”, chưa dám mở ra làm ăn, góp phần phát triển kinh tế. Trong lúc đó, những hoạt động như buôn bán nhỏ, mở cửa hàng ăn uống, giải khát, làm dịch vụ nghe nhìn phát triển mạnh làm cho công tác quản lý gặp rất nhiều khó khăn.

Tình hình nói trên được Đảng bộ Đà Nẵng giải quyết, khắc phục trong khoảng hai, ba năm liền của thời kỳ đầu thực hiện đường lối của Đảng. Về quản lý kinh tế - xã hội, thành phố khuyến khích phát triển sản xuất, miễn hoặc giảm thuế từ một đến ba năm trong thời gian đầu, tùy chủng loại sản phẩm. Đảng viên cũng được thuê mướn nhân công, ban đầu được quy định không thuê quá 10 người trong một cơ sở, không được bóc lột vì lợi ích của người lao động.

Về lưu thông hàng hóa, Nhà nước cho phép tự do kinh doanh các loại hàng không thuộc diện quốc cấm, nhưng tất cả đều phải đăng ký kinh doanh, chống buôn gian bán lậu. Những lĩnh vực khác như giáo dục phổ thông, nhân dân được phép mở trường dân lập hoặc tư thục mẫu giáo và trung học phổ thông; tư nhân được mở phòng khám và chữa bệnh. Trong sinh hoạt văn hóa - văn nghệ, ngoài những tác phẩm và loại hình nghệ thuật phục vụ sự nghiệp đấu tranh cách mạng, kháng chiến cứu nước còn được chấp nhận việc sử dụng các loại tác phẩm, các loại hình nghệ thuật không bị nô dịch, không đi ngược lại bản sắc và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Nhằm giải quyết những khó khăn trước mắt lúc bấy giờ, năm 1987, toàn Đảng và các cấp chính quyền tập trung xây dựng và thực hiện “3 chương trình kinh tế lớn” gồm lương

Page 152: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

152

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu theo sự chỉ đạo của Trung ương. Cùng với chủ trương đó, tháng 4 năm 1987, Trung ương Đảng và Chính phủ chỉ đạo “giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối - lưu thông”, kiên quyết xóa bỏ tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”, mở đường cho việc lưu thông hàng hóa, tạo điều kiện phát triển sản xuất, thực hiện “3 chương trình kinh tế lớn”. Đặc biệt, ngày 15 tháng 7 năm 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 16 về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã làm cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Đà Nẵng khởi sắc.

Từ đường lối Đổi Mới của Đảng nói trên, đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Đà Nẵng nói riêng và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ nói chung.

Về phân phối lưu thông, ngày 01 tháng 3 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Chỉ thị xóa bỏ các trạm kiểm soát trên các trục giao thông. Ngày 01 tháng 4 năm 1987, Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương đề ra “Những vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông” với 4 mục tiêu (gọi là 4 giảm)(1). Tháng 3 năm 1986, Thành ủy tổ chức quán triệt Nghị quyết 31 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 31 của Tỉnh ủy và xây dựng chương trình hành động với nội dung tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phát triển sản xuất, lưu thông - phân phối, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cải tạo và quản lý thị trường. Cùng với những nhiệm vụ đó, thực hiện Nghị quyết 31 của Tỉnh ủy, Thành ủy nêu mục tiêu phấn đấu chuyển 50% tiểu thương sang sản xuất, chiếm lĩnh 90% thị trường, góp phần thực hiện việc ổn định giá - lương - tiền. Nhưng được một thời gian, những mục tiêu ấy đã không thực hiện được do cơ chế vận hành đương thời có nhiều điểm không thích ứng với quy luật vận động và phát triển kinh tế - xã hội, nặng việc tổ chức quản lý tập trung bao cấp nhưng thiếu tiền, thiếu hàng; mâu thuẫn

(1) Giảm bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn.

Page 153: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

153

giữa cung và cầu trong sản xuất và tiêu dùng ngày càng gay gắt, không ổn định được tình hình(1).

Về kinh tế, ngày 08 tháng 12 năm 1987, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương đề ra chủ trương đẩy mạnh 3 chương trình kinh tế, đặc biệt chú trọng chương trình lương thực, thực phẩm. Cùng với biện pháp kiểm tra, kiểm soát, gắn công tác quản lý thị trường với việc tổ chức mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Đến cuối tháng 02 năm 1986, toàn thành phố Đà Nẵng đã tổ chức được 102 cửa hàng của tư thương hoạt động dưới hình thức mua chung, bán chung hoặc mua chung bán riêng gồm 710 hộ A và B với 1.237 lao động. Phân công 253 nhân viên mậu dịch quốc doanh vào các cửa hàng này, vốn của tư nhân có 2.620 triệu đồng, của Nhà nước có 529.054 đồng. Những hộ buôn bán nhỏ (hộ C) được vận động vào các tổ mua chung, xây dựng được 463 tổ với 5.477 hộ. Một thực tế cho thấy, các hoạt động kinh doanh của các cơ sở tư nhân lúc đó, tuy lấy danh nghĩa mua chung, bán chung để làm “chân trong” và dùng “chân trong” để làm chỗ đứng cho hoạt động bằng “chân ngoài” là chủ yếu.

Đến năm 1988, thành phố Đà Nẵng phát triển được 548 cơ sở sản xuất với 3.980 người lao động tham gia, nâng tổng số cơ sở sản xuất lên 4.071 đơn vị. Trong lúc đó, có 76 cơ sở tập thể làm ăn không hiệu quả phải chuyển sang hình thức khác; các tổ hợp tác sản xuất nghề cá chuyển sang hình thức tổ đoàn kết sản xuất, có 3.000 cơ sở sản xuất tập thể còn được miễn và giảm thuế. Về thương nghiệp, từ 12.500 hộ cá thể phát triển lên 15.788 hộ. Tổng doanh thu sản xuất và kinh doanh tăng 12 lần nhưng nộp ngân sách chỉ tăng được 3,2 lần. Sản xuất rượu, bia bằng phương pháp thủ công, có kết hợp với tiểu công nghiệp có xu hướng phát triển

(1) Mức trượt giá lúc đó lên đến 360%. Ví dụ: Một bó mây sợi giá 80 đồng, cộng tiền vận chuyển lên 120 đồng. Người lao động làm 4 ngày được 2,5m2 mặt mây thì tiền công thu nhập chỉ được 18 đồng; trong phân phối, bình quân 1 lốp xe đạp/3 người, 1 ruột xe đạp/5 người/năm.

Page 154: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

154

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tràn lan(1). Cùng với sản phẩm bia, rượu, cửa hàng ăn mọc lên nhanh chóng ở khắp nơi trong thành phố.

Nhờ chính sách Đổi Mới, nhất là chủ trương giao khoán trên lĩnh vực nông nghiệp đã làm cho sản lượng hàng hóa của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lúc này được sản xuất ra tăng cao, hàng xuất khẩu qua cảng Đà Nẵng tăng vọt (kim ngạch xuất khẩu năm 1988 đạt 35 triệu đô la). Ngành xuất khẩu trở thành một mũi nhọn trong việc thúc đẩy kinh tế của địa phương phát triển. Tuy nhiên, một thực tế nảy sinh là: Ngoài việc xuất khẩu hàng hóa sang Campuchia và Liên Xô, lại gặp khó khăn vướng mắc khi xuất khẩu sang các nước khác, nhất là các nước tư bản, trong khi nhu cầu về hàng hóa và giá mua của các nước này luôn cao hơn. Nắm bắt được vấn đề đó, Tỉnh ủy có nhiều chủ trương để tạo điều kiện cho ngành xuất khẩu qua Cảng Đà Nẵng phát triển. Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết về công tác xuất nhập khẩu và đối ngoại, đồng thời kiến nghị lên Trung ương xin cho tỉnh một cơ chế xuất khẩu mới. Vấn đề này cũng phù hợp với các tỉnh, thành có các cảng lớn khác: Một số địa phương cho “sản xuất bung ra”, hàng hóa phong phú, thị trường sôi động, đáp ứng dần nhu cầu tiêu dùng; các thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quảng Ninh kiến nghị Trung ương cho xuất khẩu trực tiếp, mua sắm tàu viễn dương buôn bán với nước ngoài, làm thử xuất nhập khẩu địa phương.

Thời gian này, Cảng Đà Nẵng thực hiện phong trào Giải phóng tàu nhanh nhằm giải phóng các tàu hàng nước ngoài, nhất là tàu Liên Xô ra, vào tiếp hàng tại cảng rất hiệu quả. Hai khu bốc xếp Sông Hàn và Tiên Sa (năm 1986 được chuyển thành 2 xí nghiệp thành phẩm) kể từ ngày 01 tháng 7 năm 1990 đã được hợp nhất thành Xí nghiệp xếp dỡ Cảng Đà Nẵng. Trong 2 năm 1985 và 1986, Cảng Đà Nẵng đã tiến hành thực hiện một số công trình lớn như đại tu tàu Trường Giang, tàu Hà Thân, tự đóng được sà lan 250 tấn, xây dựng nhà làm việc của cảng (4 tầng) tại đường Bạch Đằng,

(1) Chỉ riêng năm 1988, thành phố có đến 201 cơ sở sản xuất bia, rượu.

Page 155: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

155

sửa chữa lớn 500 mét kè Tiên Sa, nạo vét luồng lạch, mua sắm thiết bị chuyên dùng như cẩu 25 tấn, xe nâng valmet. Năm 1987, Cảng Đà Nẵng đã đóng thành công và đưa vào sử dụng sà lan 250 tấn. Đến năm 2010, sà lan 250 tấn vẫn thường xuyên hoạt động trên sông Hàn, Vũng Thùng như một niềm tự hào về ý thức tự lực tự cường của cảng. Năm 1987, có 43 lượt tàu Liên Xô vào cảng trong diện thưởng phạt: 29 tàu thưởng, 10 tàu phạt, 2 tàu hòa, 2 tàu tranh chấp. Lấy thưởng bù phạt ta còn được 146.555,58 rúp. Năm 1989, năm đầu tiên Cảng Đà Nẵng thực hiện “từng bước tự trang trải theo chủ trương của ngành đường biển”, phong trào giải phóng tàu nhanh càng phát triển mạnh. Trong năm có 46 lượt tàu Liên Xô vào cảng trong diện thưởng phạt, có 33 tàu được thưởng gồm 165.648,06 rúp, 13 tàu bị phạt 93.210,25 rúp lấy thưởng bù phạt còn lại chúng ta được khoản tiền thưởng là 72.437,81 rúp(1). Ngoài tàu Liên Xô, các tàu mang quốc tịch khác vào cảng cũng được giải phóng nhanh và đạt được số thưởng ngoại tệ khá hơn các năm trước nhất là các tàu xếp sắt phế liệu và gỗ bạch đàn. Vì lẽ đó, Cảng Đà Nẵng ngày càng nhộn nhịp hơn, lượng hàng hóa qua cảng ngày một lớn, góp phần tạo cho Đà Nẵng một vóc dáng mới.

Đến tháng 4 năm 1989, bằng nguồn vốn 330 triệu đồng của thành phố đầu tư cho 3 chương trình kinh tế lớn, cùng với 500 triệu đồng vốn của các đơn vị tập thể, cá thể năm 1988, Đà Nẵng hình thành một loạt cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh, tập thể và công nghiệp tư nhân. Thành phố có 10 xí nghiệp quốc doanh, 548 cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh. Trong đó, xây dựng mới: Xí nghiệp giày da xuất khẩu, xí nghiệp dệt, xí nghiệp giấy, mở rộng xí nghiệp nhôm. Ngành thủy sản, được thành phố chú trọng

(1) Cụ thể như sau: Tàu Prineprosk đến ngày 04 tháng 3 năm 1989, chở 3.060 tấn bách hoá, sắt thép thời gian bốc xếp vượt so định mức 5 ngày 9 giờ, thưởng 7.383 rúp. Tàu Temkin đến ngày 13 tháng 4 năm 1989, chở 6.131 tấn, bách hoá, sắt thời gian bốc xếp vượt so định mức 7 ngày 23 giờ, thưởng 13.608 rúp. Tàu Nekrasov đến ngày 22 tháng 6 năm 1989, chở 8.594 tấn bách hoá, sắt thời gian bốc xếp vượt so định mức 12 ngày thưởng 16.320 rúp. Kết quả lấy thưởng bù phạt còn được thưởng: Năm 1988: 122.000 rúp, năm 1989: 194.500 rúp.

Page 156: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

156

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

phát triển, đã đầu tư với số vốn lớn là 780.000 USD, phục hồi tăng thêm trên 1.300 mã lực công suất đánh bắt, đóng mới 82 tàu thuyền. Sản lượng đánh bắt mỗi năm đạt 19.000 tấn. Sự hình thành mạng lưới sản xuất ngoài quốc doanh với 3 xí nghiệp tư nhân, hơn 600 cơ sở tập thể và gia đình, là dấu hiệu mới cho thấy nhân dân thành phố rất hưởng ứng chủ trương mở ra của Nghị quyết 16. Nhiều công ty, đơn vị đã dám bỏ ra 60 lượng vàng, nhiều hộ tư nhân bỏ vốn từ 20-30 lượng vàng để mở rộng đầu tư vào sản xuất. So với năm 1986, cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp quốc doanh của Đà Nẵng tăng 14,2%. Tốc độ phát triển công nghiệp so với năm 1986 là 19,2%.

Chủ trương của Đảng về nắm hàng, nắm tiền thông qua việc tổ chức quản lý trong khâu phân phối - lưu thông, vận động “cải cách giá - lương - tiền” được triển khai thực hiện với quyết tâm cao của toàn Đảng bộ thành phố. Tuy nhiên, cũng như ở khắp nơi trên cả nước lúc đó, hiệu quả đem lại không được như mong muốn, không kiểm soát được giá, không ngăn chặn được tình trạng bội chi ngân sách, tình hình sản xuất và đời sống của nhân dân vẫn còn tiếp tục khó khăn.

Tại Hòa Vang, thực hiện Nghị quyết 146 của Hội đồng Bộ trưởng về phát triển kinh tế gia đình, Nghị quyết 03 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về củng cố quan hệ sản xuất, hoàn thiện cơ chế khoán trong nông nghiệp, huyện đã giải quyết được nhiều vấn đề trong cuộc sống, tạo được niềm tin và sự ủng hộ trong đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đối với Hòa Vang - một huyện thuần nông, Nghị quyết số 03 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 06 của Tỉnh ủy về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển(1). Cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp Hòa Vang từng bước được tăng cường, cơ cấu đầu tư theo hướng phục vụ cho

(1) Nếu năm 1986, Hòa Vang đầu tư 19 triệu đồng cho sản xuất kinh tế thì đến năm 1988 tăng lên 350 triệu.

Page 157: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

157

3 chương trình kinh tế lớn. Mức đầu tư ngân sách cho 3 chương trình ngày càng tăng, năm 1986 là 19 triệu (33%) đến năm 1988 là 350 triệu (50%). Để tăng cường cho sản xuất nông nghiệp, ngoài các trạm bơm điện được xây dựng trước đó, huyện đã xây dựng nhiều công trình thủy lợi mới và đã phát huy hiệu quả(1). Trong các hợp tác xã nông nghiệp, hệ thống sân phơi, nhà kho, được tiếp tục xây dựng, nhiều nơi đến đội sản xuất. Công tác cải tạo đồng ruộng cũng được chú ý đầu tư; các giống lúa mới cũng được đưa vào gieo trồng, tạo kết quả tốt. Đi đôi với tập trung cây lúa, cây màu, các loại cây công nghiệp, cây thực phẩm cũng được chú ý.

Về chăn nuôi cũng có những chuyển biến mới, đã Móng Cái hóa đàn heo, bình quân 1 ha gieo trồng thì có gần 3,5 con, trọng lượng xuất chuồng bình quân 56 kg/con, đàn heo có 73.546 con; đàn bò có 12.396 con; đàn trâu có 2.686 con, nếu so với chỉ tiêu pháp lệnh thì đàn gia súc Hòa Vang đã đạt và vượt kế hoạch hằng năm. Huyện cũng đã mạnh dạn đầu tư ngân sách để phát triển xí nghiệp may mặc xuất khẩu, chuyển hình thức sản xuất của 13 hợp tác xã làm ăn thua lỗ sang tổ hợp tác xã cá thể có hiệu quả hơn, có chủ trương khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân phát triển, đã xuất hiện những mô hình làm ăn giỏi, có hộ kinh tế tư nhân tài sản cố định trên 10 triệu đồng, thu nhập bình quân mỗi người trong hộ trên 50.000 đồng/tháng. Những chuyển biến nói trên tuy chưa nhiều, chưa mạnh song đó cũng là những cố gắng lớn có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình đi lên của Đảng bộ Hòa Vang trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, Đà Nẵng đã đầu tư cho sự nghiệp văn hóa - xã hội trong 2 năm đầu thực hiện đổi mới, chiếm đến 40,18% tổng chi ngân sách thành phố, đặc biệt là đầu tư công tác y tế, giáo dục. Công tác quản lý các hoạt động văn hóa, văn nghệ và thông tin đại chúng đã từng bước chuyển theo

(1) Đáp ứng như cầu nước tưới cho 12.500 ha đất gieo trồng.

Page 158: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

158

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

quan điểm đổi mới của Đảng. Công tác chăm lo đời sống đối tượng chính sách có nhiều tiến bộ. Tại Hòa Vang, ngoài những lĩnh vực chung, huyện đã tập trung tăng cường chất lượng giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được phát triển đều khắp ở 10 xã, hạ tỷ lệ phát triển dân số từ 1,42% xuống còn 1,4%.

Về công tác quốc phòng - an ninh, quán triệt Nghị quyết số 02 và Nghị quyết số 07 của Bộ Chính trị, Thành ủy Đà Nẵng đã có những Nghị quyết về công tác quân sự địa phương, lãnh đạo diễn tập “QĐ88”, đề ra chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng lực lượng dự bị động viên, lực lượng tự vệ, tăng cường công tác bảo vệ biển. Tại Hòa Vang, Huyện ủy cũng ban hành Nghị quyết chuyên đề về công tác quân sự địa phương, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan nội chính, nhờ đó tình hình chính trị, an ninh được giữ vững.

Năm 1988, khi Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm trái phép một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, các chiến sĩ Hải quân Quân đội nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ vùng lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Trong trận chiến này, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng có 10 người con đã hy sinh(1) trong tổng số 64 anh hùng liệt sĩ ngã xuống trong trận chiến Gạc Ma ngày 14 tháng 3 năm 1988.

(1) Danh sách 10 đồng chí hy sinh gồm: Nguyễn Bá Cường: Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam); Lê Thế: Tổ 29, An Trung Tây, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là thành phố Đà Nẵng); Trần Mạnh Viết: Tổ 36, Bình Hiên, Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là thành phố Đà Nẵng); Nguyễn Hữu Lộc: Tổ 22, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là thành phố Đà Nẵng); Nguyễn Phú Đoàn: Tổ 47, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là thành phố Đà Nẵng); Phạm Văn Sỹ: Tổ 7, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là thành phố Đà Nẵng); Trần Tài: Tổ 12, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là thành phố Đà Nẵng); Trương Quốc Hùng: Tổ 5, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là thành phố Đà Nẵng); Lê Văn Xanh: Tổ 38, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là thành phố Đà Nẵng); Phạm Văn Lợi: Tổ 53, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là thành phố Đà Nẵng). Đồng chí Dương Văn Dũng, trú tổ 53, Hòa Cường, Đà Nẵng bị Trung Quốc bắt làm tù binh, được trao trả về Việt Nam cuối năm 1991, hiện sống tại thành phố Đà Nẵng.

Page 159: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

159

Công tác xây dựng Đảng, chính quyền các đoàn thể: Thời kỳ đầu trong quá trình vận động đổi mới, việc sinh hoạt chính trị, tư tưởng trong tổ chức Đảng và các đoàn thể nhân dân trên địa bàn thành phố đều được tiến hành liên tục với không khí sôi động, các nguồn thông tin từ nhiều chiều được cung cấp, tập hợp và phản ánh kịp thời. Thời gian này, cũng là lúc các nước xã hội chủ nghĩa khác thực hiện công cuộc “cải tổ”, “cải cách” với sự tự thân vận động của mỗi nước; từ dấu hiệu của sự rạn nứt đã đến lúc không còn giữ được khối thống nhất của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, trong Đảng bộ Đà Nẵng nói riêng, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung đã có một số ít đảng viên biểu lộ sự dao động về quan điểm đường lối, tư tưởng đa nguyên, đa đảng đã xuất hiện một vài nơi; một số đảng viên xin ra Đảng, bỏ sinh hoạt Đảng.

Trước tình hình đó, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, Thành ủy Đà Nẵng và Huyện ủy Hòa Vang đặc biệt chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị tuyên truyền về tình hình, nhiệm vụ mới, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập 12 chuyên đề Nghị quyết Đại hội V của Đảng, quán triệt các Nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; gắn liền với giáo dục đường lối chủ trương của Đảng với công tác phát huy truyền thống cách mạng địa phương, để tiếp tục động viên các phong trào cách mạng của quần chúng.

Trong công tác xây dựng Đảng, Thành ủy Đà Nẵng, Huyện ủy Hòa Vang rất coi trọng việc giữ gìn nền nếp sinh hoạt, không ngừng nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện thường xuyên công tác tự phê bình và phê bình; ngăn ngừa, phát hiện, xử lý những trường hợp tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên vi phạm; việc đấu tranh xây dựng nội bộ được thực hiện thường xuyên, luôn luôn chăm lo xây dựng khối đoàn kết nhất trí trong cấp ủy. Mặc dù có những hạn chế nhất

Page 160: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

160

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

định về kinh nghiệm, về năng lực lãnh đạo nhưng các cấp ủy Đà Nẵng, Hòa Vang đã biết phát huy tinh thần tiến công cách mạng, không ngừng học tập để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, vừa làm vừa học, vừa rút kinh nghiệm trong thực tiễn để bổ sung kiến thức và năng lực lãnh đạo. Có thể nói rằng, trong thời gian này, sau khi có quy chế làm việc của Ban Bí thư thì phong cách lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đã dần đi vào nền nếp.

Ngày 25 tháng 5 năm 1987, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh viết bài “Những việc cần làm ngay” đăng trên báo Nhân Dân, đã phê phán những biểu hiện tiêu cực trong xã hội, mở ra hướng nâng cao hơn nữa tinh thần phê bình từ cơ sở đến Trung ương. Do đây là thời kỳ đầu của công cuộc vận động và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cả hệ thống chính trị cần phải vượt qua những thử thách không nhỏ giữa các quan niệm cũ và mới nên trong những tháng năm ấy, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã trực tiếp chỉ đạo “Những việc cần làm ngay”, nhằm kịp thời phát huy nhân tố mới, uốn nắn và sửa sai những hiện tượng tiêu cực do lệch lạc về nhận thức hoặc những việc làm sai do thiếu tinh thần trách nhiệm, lợi dụng cơ chế đổi mới để làm ăn phi pháp, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Hưởng ứng “Những việc cần làm ngay” của đồng chí Nguyễn Văn Linh, tháng 8 năm 1987, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng ra Thông báo số 68/TB-TV đề ra những chủ trương, biện pháp thực hiện Chỉ thị số 10 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, coi đây là nội dung quan trọng đối với cuộc vận động làm trong sạch nội bộ Đảng. Thành ủy đã triển khai thực hiện Nghị quyết số 04 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 01, Chỉ thị số 27 của Ban Bí thư về cuộc vận động “Làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội”, đồng thời tập trung giải quyết các vụ việc phức tạp, các đơn vị yếu kém kéo dài. Trong nhiệm kỳ này,

Page 161: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

161

Đảng bộ thành phố Đà Nẵng có 184 tổ chức cơ sở Đảng, trong đó có 96 đơn vị của thành phố, 41 đơn vị của tỉnh, 47 đơn vị của Trung ương; đã phát triển được 508 đảng viên song phải kỷ luật 228 đảng viên. Tại Hòa Vang, tính đến năm 1985, Đảng bộ có 3.170 đảng viên. Thực hiện cuộc vận động làm trong sạch Đảng, chất lượng đảng viên trong Đảng bộ, đến năm 1987, số đảng viên phát huy tốt cả phẩm chất năng lực chiếm 37%, năng lực hạn chế 47%. Nếu năm 1985 toàn huyện Hòa Vang có 66 tổ chức cơ sở Đảng, trong đó có 38 đơn vị khá, 7 đơn vị yếu thì đến năm 1987, huyện có 15 tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, 51 tổ chức cơ sở Đảng đạt loại khá.

Đầu năm 1988, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng đã trình phương án bộ máy Đảng, chính quyền và đoàn thể của thành phố Đà Nẵng. Cụ thể: “Về Đảng: Văn phòng Thành ủy; Ban Tổ chức Thành ủy; Ủy ban Kiểm tra Thành ủy; Ban Tuyên giáo Thành ủy. Chính quyền: Văn phòng Ủy ban nhân dân (có cả Tư pháp, Thi đua, Khoa học kỹ thuật và Cải tạo); Ban Kế hoạch (gồm cả Phân vùng kinh tế, Thống kê); Trọng tài kinh tế; Ban Tài chính, thuế và giá; Ban Lao động và Thương binh xã hội; Ban Tổ chức chính quyền; Ủy ban Thanh tra; Phòng Công nghiệp và Tiểu thủ công nghiệp; Phòng Thủy sản và nông lâm; Phòng Xây dựng (cả nhà đất và công trình đô thị); Phòng Giao thông Vận tải; Phòng Thương nghiệp (cả quản lý thị trường); Phòng Giáo dục (cả bà mẹ và trẻ em); Phòng Văn hóa và Thông tin (quản lý cả Đài Truyền thanh); Phòng Y tế và Thể dục thể thao; Ngân hàng; Công an; Ban Chỉ huy Thành đội. Thành phố trực thuộc tỉnh nói chung chưa được hướng dẫn, nhưng thành phố Đà Nẵng hiện nay là trung tâm kinh tế (công nghiệp) văn hóa xã hội của tỉnh. Có 35 vạn dân, Ủy ban nhân dân hiện nay quản lý có trên 100 đầu mối trong đó có 32 phòng, ban và trạm trại, 28 phường. Phương án trên còn 18 phòng, ban, giảm 14 phòng ban. Các đoàn thể: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc; Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp nông dân tập thể; Hội

Page 162: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

162

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Liên hiệp Phụ nữ; Công đoàn thành phố”(1). Như vậy, thành phố đã chú ý đến việc sắp xếp lại bộ máy của cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể theo hướng chuyên nghiệp và tinh gọn hơn nhằm đáp ứng nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ đổi mới. Đây là chủ trương sáng tạo của Quảng Nam và Đà Nẵng lúc bấy giờ.

Đi đôi phương án sắp xếp lại tổ chức các cơ quan quản lý Nhà nước tỉnh cũng đang triển khai khảo sát đánh giá tình hình có phương án sắp xếp lại hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh sự nghiệp trên địa bàn tỉnh gắn với việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 03 của Ban Chấp hành Trung ương. Để tạo điều kiện triển khai tốt chủ trương này tỉnh đã xin kiến nghị Trung ương: Sớm giải thể hoặc chuyển giao các trường Trung học chuyên nghiệp và trường dạy nghề (14 trường) cho địa phương, cùng với loại trường này của địa phương tiến hành sắp xếp lại theo quy hoạch kế hoạch tuyển sinh đào tạo của địa phương. Cần sắp xếp lại hệ thống cơ quan sản xuất kinh doanh của các Bộ đứng trên địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng. Có 102 cơ quan, trong đó riêng Bộ Giao thông vận tại có 27 cơ quan (chưa kể các cơ quan quản lý sự nghiệp và quản lý khác).

Qua 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Đảng bộ Đà Nẵng đã đạt được một số thành tích bước đầu về ổn định tình hình kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Mặc dầu những thành tựu đạt được còn nhiều hạn chế, nhưng trong bối cảnh tình hình kinh tế còn đang mất cân đối nghiêm trọng trên nhiều mặt thì những việc đã làm được là kết quả bước đầu hết sức quan trọng, mở đường cho Đà Nẵng tiếp tục thực hiện thành công đường lối Đổi Mới của Đảng sau này.

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo số 17-BC/TU, ngày 16 tháng 01 năm 1988 về phương án sắp xếp lại bộ máy các cơ quan thuộc khối Đảng, chính quyền, đoàn thể”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 163: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

163

III. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LẦN THỨ IV VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN TÁC ĐỘNG ĐẾN TÌNH HÌNH THỰC HIỆN “CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN” TẠI ĐÀ NẴNG (1989-1990)

Thời gian này, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng chuẩn bị mọi mặt để tổ chức Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ. Để chào mừng Đại hội, từ năm 1988 đến đầu năm 1989, Thành ủy Đà Nẵng phát động các hoạt động chào mừng Đại hội, theo đề xuất của Ủy ban nhân dân thành phố, Ban Thường vụ Thành ủy thống nhất chủ trương xây dựng lại một phần chợ Hàn, mở rộng đường Phan Thanh, xây dựng mới các khu dân cư Thạc Gián - Vĩnh Trung - Nam Dương, cho thành lập Ngân hàng cổ phần Công thương và Quỹ tín dụng ở thành phố(1).

Đặc biệt, một sự kiện có dấu ấn quan trọng trước và trong kỳ Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ IV, là ngày 18 tháng 02 năm 1989, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến thăm và làm việc với Ban Thường vụ, Thường trực Ủy ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Đà Nẵng, cùng với 30 người đại diện số công - thương gia cũ. Tại cuộc gặp mặt này, đồng chí Tổng Bí thư đã nói rõ tình hình và quan điểm đường lối Đổi Mới của Đảng ta, đồng thời chỉ đạo việc tổ chức phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng, một thành phố đứng vị trí thứ hai ở miền Nam, có vai trò trọng yếu đối với việc phát triển kinh tế - xã hội ở miền Trung và Tây Nguyên. Đồng chí Tổng Bí thư mong muốn Đảng bộ và nhân dân thành phố thực hiện được vai trò trung tâm kinh tế của miền Trung. Riêng với các vị là công - thương gia cũ thể hiện tâm trạng băn khoăn, hoài nghi công cuộc Đổi Mới, chưa mạnh dạn đầu tư sản xuất “theo kiểu tư sản”, làm giàu cho mình và cho xã hội, đồng chí Tổng Bí

(1) Trong thời gian này, đồng chí Võ Đắc Hợi - Bí thư Thành ủy Đà Nẵng được điều động lên nhận công tác tại Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Hồng Thắng được Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, phân công giữ chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Page 164: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

164

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thư đã nói: “Các vị cứ làm tư sản đi, bao giờ các vị hết muốn làm thì thôi!”.

Sau một thời gian chuẩn bị, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, sáng ngày 08 tháng 5 năm 1989, Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng khai mạc. Tham dự Đại hội có 396 đại biểu chính thức, trong đó có 44 đồng chí tham gia cách mạng trước tháng 8 năm 1945, đại diện gần 10.000 đảng viên của Đảng bộ tham dự. Đại hội đã đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhiệm kỳ qua và nêu rõ: Trước thực trạng tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn gay gắt, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã bước đầu triển khai công cuộc đổi mới trên nhiều mặt đời sống, xã hội nhất là về kinh tế, Đảng bộ vừa làm vừa rút kinh nghiệm đã thu được những kết quả nhất định. Bằng khả năng của mình, thành phố duy trì và phát triển sản xuất, bắt đầu hình thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, từng bước cải tiến cơ chế quản lý tạo ra động lực mới trong sản xuất kinh doanh. Quyền làm chủ của người dân được phát huy, trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới.

Kể từ năm 1988 trở đi, những nhân tố mới xuất hiện rõ dần tại địa bàn Đà Nẵng. Công tác phòng thủ, giữ gìn trật tự an ninh, chính trị đạt kết quả tích cực. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng; công tác tổ chức, cán bộ có tiến bộ. Tuy nhiên, do tình hình khó khăn về tài chính và vật giá, kinh tế Đà Nẵng có phát triển nhưng còn chậm, hiệu quả thấp, so các chỉ tiêu Đại hội III đề ra. Việc phân phối lưu thông vẫn còn rối ren, ngân sách Nhà nước thiếu hụt. Kinh tế đối ngoại chậm phát triển. Cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp còn nặng. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển chưa đúng hướng. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế còn nhiều mặt vẫn trong tình trạng xuống cấp. Khoa học kỹ thuật chưa trở thành động lực thúc đẩy sản xuất. Sự lãnh đạo của Đảng bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức chưa ngang tầm với nhiệm vụ mới, chưa đáp ứng sự đòi hỏi của công cuộc đổi mới và yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.

Page 165: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

165

Đại hội đã đề ra phương hướng phát triển cho thành phố Đà Nẵng trong 2 năm 1989-1990 là: Toàn Đảng bộ tiếp tục đưa công cuộc Đổi Mới đi vào chiều sâu nhằm đạt mục tiêu chung là “ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội” và tạo tiền đề để đi lên; xác định cơ cấu kinh tế của thành phố là: Công nghiệp, thủy sản, dịch vụ và du lịch, kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu là mũi nhọn. Khai thác mọi nguồn lực đầu tư, thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất, tổ chức tốt khâu phân phối lưu thông, thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng. Về công tác xây dựng Đảng, cần phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo theo tinh thần Đại hội VI của Đảng, Nghị quyết Trung ương V, Nghị quyết Trung ương VI và Nghị quyết số 04 của Bộ Chính trị. Nâng cao năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng bộ, đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng của Đảng và đổi mới công tác tổ chức cán bộ của Đảng.

Đại hội thống nhất việc xác định cơ cấu kinh tế của thành phố là công nghiệp, thủy sản, dịch vụ, du lịch, kinh tế đối ngoại - xuất nhập khẩu là mũi nhọn. Những nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu trong nhiệm kỳ Đại hội được đề ra là: Tích cực vận động phát triển các thành phần kinh tế, chuyển mạnh công tác quản lý từ cơ chế kế hoạch hóa sang cơ chế hoạch toán kinh doanh, thực hiện tăng thu giảm chi và thu để chi, phát huy vai trò động lực của khoa học - kỹ thuật, đẩy mạnh việc phát triển kinh tế đối ngoại, tăng cường xây dựng và quản lý đô thị, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Đại hội cũng đã thống nhất kiến nghị với Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng cần có một cơ chế hợp lý cho thành phố Đà Nẵng. Tuy là một thành phố song Đà Nẵng chưa thể hiện hết vai trò một đô thị động lực của cả tỉnh. Cho đến lúc đó, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng đã có Nghị quyết phân cấp một số mặt cho Đà Nẵng nhưng thành phố cũng không hơn gì

Page 166: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

166

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

cơ chế của một đơn vị hành chính cấp huyện. Mặc dù lãnh đạo thành phố có nhiệt tình, năng động, sáng tạo, tâm huyết, nhưng không thể bứt phá được khi thành phố còn nằm trong cơ chế cũ, như đồng chí Nguyễn Thành Long, Bí thư Thành ủy lúc đó đã nói: “Nếu theo cơ chế cũ như thế này, thành phố ta chẳng khác gì những võ sĩ múa gậy dưới gầm giường!”. Do đó, Đại hội kiến nghị với Trung ương và Tỉnh ủy, cho thành phố Đà Nẵng được trực thuộc Trung ương, nếu chưa đủ điều kiện thì cho Đà Nẵng được trở thành Đặc khu kinh tế Đà Nẵng. Có thể nói, đây là một ý tưởng đặt nền móng cho việc Trung ương công nhận Đà Nẵng trở thành một thành phố trực thuộc Trung ương sau này.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố (khóa IV) gồm 45 đồng chí. Ban Chấp hành đã phân công đồng chí Nguyễn Hồng Thắng làm Bí thư, hai đồng chí Phó Bí thư là Hoàng Tú và Hồ Việt (Đồng chí Hoàng Tú còn đương chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố, đồng chí Hồ Việt còn tiếp tục nhiệm vụ Thường trực cơ quan Thành ủy Đà Nẵng).

Cũng trong thời gian này, Đại hội lần thứ X Đảng bộ Hòa Vang cũng được tiến hành. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hòa Vang lần thứ X diễn ra từ ngày 31 tháng 10 đến ngày 03 tháng 11 năm 1988 tại hội trường Huyện ủy Hòa Vang. Dự Đại hội có 252 đại biểu, thay mặt cho hơn 3.550 đảng viên của toàn Huyện. Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ IX, đề ra phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của huyện trong hai năm 1989-1990. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ Hòa Vang có 49 đồng chí, Ban Thường vụ có 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Đán được bầu làm Bí thư, đồng chí Lê Kim Ngân - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Nguyễn Tiến Qua - Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân.

Ngay sau Đại hội IV của Đảng bộ thành phố, đêm 24 rạng ngày 25 tháng 5 năm 1989, một cơn bão lớn đổ bộ vào Đà Nẵng gây thiệt hại nặng về người và của. Tổng thiệt hại chung do bão

Page 167: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

167

gây ra cho tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ước trên 300 tỷ đồng. Các vùng bị thiệt hại nhiều nhất là Đà Nẵng, Hội An, đặc biệt là Tân Hiệp (Cù Lao Chàm), vùng đông Duy Xuyên, Điện Bàn, Thăng Bình, Tam Kỳ và Núi Thành. Ngành bị thiệt hại nặng nhất là thuỷ sản, phải mất nhiều năm mới có thể khôi phục được(1). Toàn thành phố Đà Nẵng có 65 người chết, 1.652 ngôi nhà bị sụp, bị chìm và hư hỏng nặng 232 chiếc tàu đánh cá. Riêng 12 phường thuộc khu vực I có trên 100 ngôi nhà sập hẳn, trên 300 ngôi nhà bị tốc mái; trong đó có phường Thuận Phước là thiệt hại nặng hơn cả. Khắc phục hậu quả do cơn bão đó gây ra, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và cơ quan Chính phủ đã trợ giúp kinh phí với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, nhân dân đã giúp nhau vượt qua những khó khăn trong hoàn cảnh ấy.

Tiếp đó, tháng 9 năm 1990, cơn bão số 6 cũng đổ bộ vào Đà Nẵng gây nhiều thiệt hại, 632 ngôi nhà bị sập, 1.603 ngôi nhà khác bị hư hỏng nặng, 4 chiếc tàu và 158 chiếc thuyền bị chìm. Sau cơn bão, số nhân khẩu bị đói từ 5.700 tăng lên trên 10.000 người. Đến Tết Nguyên đán, 28 phường có 3.773 hộ với 11.992 nhân khẩu trong diện đói và thiếu ăn, đã được cứu trợ. Cơn bão số 2 (năm 1989) và số 6 (năm 1990) đã tác động không nhỏ đến việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế của Đảng bộ Hòa Vang và Đà Nẵng đề ra trong thời gian này, nhất là ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp của nhân dân hai địa phương.

Thiệt hại nghiêm trọng nhất là sự tổn thất về người, đặc biệt đối với nghề biển, những lao động chính, giàu kinh nghiệm trong gia đình mất đi là sự tổn thất không thể nào bù đắp được. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của nghề biển bị tổn thất nặng, làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của hàng vạn ngư dân. Thiệt hại về nông nghiệp, lâm nghiệp, đặc biệt là kinh tế vườn không chỉ là tổn thất nặng nề trước mắt mà còn để lại hậu quả lâu dài về môi trường sinh thái mà phải có ngót chục năm kinh tế vườn

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo tình hình tháng 5 năm 1989”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 168: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

168

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

mới tạo ra được sản phẩm hàng hóa... Những cơ sơ vật chất, kỹ thuật, những công trình phúc lợi công cộng của chủ nghĩa xã hội sau 14 năm xây dựng bị tàn phá nặng nề không dễ gì trong một vài năm có thể khôi phục được.

Ngoài khó khăn do thiên tai, bão lụt gây ra, việc thu chi ngân sách và thiếu tiền mặt đã gây khó khăn không ít cho việc phát triển kinh tế tại Đà Nẵng, Hòa Vang và cả tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ. Theo kế hoạch dự trù từ đầu năm 1989, thành phố phải thu được 11 tỷ đồng, chi 9 tỷ đồng - tăng 2,860 tỷ đồng so với năm 1988, trong đó chi tiền lương tăng gấp 3 lần để xóa bỏ hoàn toàn việc bao cấp qua chế độ sử dụng tem phiếu. Nguồn thu chủ yếu là thuế công, thương nghiệp; với tổng số thu, năm 1988 thành phố được điều tiết 40%, năm 1989 chỉ còn điều tiết được 30%. Trong 6 tháng đầu năm 1989 đã thu 5 tỷ đồng, được điều tiết 2,3 tỷ đồng (trên tỷ lệ của tỉnh giao) để có đủ chi tiền lương cho cán bộ, công nhân viên. Do tiền mặt còn khan hiếm, nên người kinh doanh vẫn đang sợ nạn trượt giá, vì vậy xảy ra tình trạng người mua hàng do Nhà nước quản lý cũng bị bắt chẹt, mua một máy thủy 20 sức ngựa nếu có tiền mặt chỉ phải trả 9,3 triệu đồng, chuyển khoản để thanh toán phải trả lên 12 triệu đồng. Nhiều đơn vị sản xuất thuộc quốc doanh và tập thể đã không hoạt động được, ngành sản xuất cơ khí chỉ còn làm gia công hàng phụ tùng xe đạp, ngành dệt có đến 50% công nhân phải nghỉ việc, 9 đơn vị sản xuất thảm len với 3.000 công nhân chỉ còn một hợp tác xã với khoảng 100 công nhân, nhận gia công hàng cho cơ sở Vĩnh Lợi ở Huế. Trước những khó khăn đó, cả hệ thống chính trị ở thành phố luôn trăn trở tìm cách tháo gỡ để đẩy mạnh kinh tế thành phố phát triển.

Thực hiện Nghị quyết lần thứ IV Đảng bộ thành phố, với chủ trương phát triển theo cơ cấu kinh tế: “Công nghiệp, thủy sản, dịch vụ - du lịch; kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu là mũi nhọn”. Ngành sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của Đà Nẵng phát triển tích cực với nhịp độ năm sau cao hơn

Page 169: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

169

năm trước. Tổng giá trị sản lượng toàn ngành liên tiếp gia tăng. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã chủ động vươn ra mở rộng thị trường, tìm hiểu nhu cầu, tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ, đưa ra nhiều mặt hàng mới có sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh sự phát triển ổn định của các lĩnh vực sản xuất công nghiệp chế biến thực phẩm, hóa chất, vật liệu xây dựng, cơ khí sửa chữa, một số đơn vị thông qua liên doanh, liên kết với các ngành Trung ương như cán thép, may mặc cũng có hướng phát triển rõ.

Sản xuất công nghiệp phát triển mạnh ở một số ngành nên cơ cấu công nghiệp của Đà Nẵng cũng có những thay đổi nhất định. Tỷ trọng các ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, hóa chất tăng lên đáng kể. Các loại hình sản xuất ngoài quốc doanh phát triển ổn định hơn do thích nghi với cơ chế mới và có điều kiện chuyển đổi mặt hàng khi có biến động của thị trường. Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của Đà Nẵng thời kỳ này có tăng nhưng còn chậm và chưa vững chắc. Ngoài nguyên nhân thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, cần phải thấy những yếu kém trong chỉ đạo, điều hành, chưa xác định được hướng phát triển chiến lược để tập trung đầu tư, chưa có nhiều sản phẩm chủ lực làm nhân tố thúc đẩy nền kinh tế. Phần lớn các xí nghiệp hoạt động ở thế cầm chừng, chưa vươn lên kịp với tình hình sản xuất và thị trường. Các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh manh mún, nhỏ lẻ, mặt hàng không ổn định, trong khi đó công tác quản lý Nhà nước vừa thiếu thống nhất vừa phân tán nên việc chỉ đạo, điều hành, kiểm kê, kiểm soát của các ngành không sát với thực tế, gây khó khăn và chưa tạo được môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư phát triển sản xuất.

Xác định phát triển sản xuất hàng xuất khẩu là mũi nhọn nên Đà Nẵng và Hòa Vang đều chủ trương động viên mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu. Cả hai địa phương đều cố gắng đầu tư phát triển cơ sở may gia công hàng xuất khẩu để vừa giải quyết việc làm vừa thu ngoại tệ. Các mặt hàng thủ

Page 170: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

170

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

công mỹ nghệ như thảm len, may mặc, mành trúc, chổi đót tuy còn bấp bênh nhưng vẫn xuất khẩu được. Đặc biệt, tại Hòa Vang nguồn xuất khẩu từ tiềm năng của huyện là khai thác và chế biến gỗ đã góp phần tăng sản lượng xuất khẩu để thu ngoại tệ. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Hòa Vang tăng từ 751.000 Rúp-USD năm 1988 lên 2 triệu Rúp-USD năm 1990.

Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu lớn chủ yếu là hàng xuất từ sắt phế liệu, nguồn hàng của địa phương có nhưng khai thác ít và không vững chắc, nhất là hàng nông sản thực phẩm và thủ công mỹ nghệ. Do chính sách giá chưa kích thích sản xuất, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, chính sách thu mua thất thường, kỹ thuật sản xuất của ta yếu nên sản xuất hàng xuất khẩu ở một số mặt hàng bị dừng lại và giảm sút. Mặt khác, quan điểm chỉ đạo chưa chú trọng đúng mức đến việc đầu tư khai thác tiềm năng để sản xuất hàng xuất khẩu trong huyện, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Việc nhập khẩu nhìn chung chưa hiệu quả và đúng hướng. Tại Hòa Vang, Công ty xuất khẩu của huyện năm 1989 được phép xuất nhập khẩu trực tiếp, hoạt động kinh doanh khá. Sang năm 1990, Công ty đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc quản lý kinh tế, tạo dư luận không tốt, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng bộ(1).

Đảng bộ Đà Nẵng tập trung chỉ đạo cơ sở chuyển đổi cơ chế quản lý xí nghiệp quốc doanh thực hiện quyền tự chủ tài chính, chuyển sang hoạch toán kinh doanh. Có 10/14 đơn vị sắp xếp lại sản xuất. Cùng với sự ra đời của chính sách kinh tế nhiều thành phần, sản xuất thủ công nghiệp phát triển mạnh về hình thức sở hữu theo hướng kinh tế gia đình, tư nhân. Có 4.602 cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh tăng 1.049 cơ sở so với trước khi có Nghị quyết số 16 của Bộ Chính trị (khóa VI). Tại Hòa Vang, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển mới,

(1) Công ty đã để cho Công ty xuất khẩu huyện Châu Thành (Tây Ninh) vay sai nguyên tắc trên 1 tỷ đồng nhưng không thanh toán được, gây nhiều khó khăn cho huyện.

Page 171: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

171

huyện đã đầu tư thêm trên 4,5 tỷ đồng xây dựng cơ sở và mua tư liệu sản xuất. Các công ty tư nhân, tổ hợp tác và hộ sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, thu hút 8.799 lao động, tăng 2.190 người so với năm 1988. Tổng giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân hằng năm 5,2%.

Ngành thủy sản, được xác định là ngành mũi nhọn của Hòa Vang và Đà Nẵng trong thời kỳ này. Thành phố đầu tư thêm hơn 3 tỷ đồng, trong đó vốn của Nhà nước hơn 1 tỷ đồng cho việc đầu tư trang thiết bị, ngư, lưới cụ cho ngành đánh bắt thủy hải sản. Huyện Hòa Vang cũng đầu tư thêm nhiều máy móc và ngư lưới cụ cho ngư dân miền biển. Năng lực đánh bắt của huyện tăng thêm 150 mã lực, nghề nuôi trồng thủy sản tiến bộ, sản lượng đánh bắt đạt 700 tấn/năm. Tuy nhiên, ngành đánh bắt tại Đà Nẵng, Hòa Vang trong thời gian này đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi những trận bão số 2 và số 6. Ngư dân nhiều phường của Đà Nẵng bị thiệt hại lớn, chỉ tính riêng phường Thọ Quang đã có 29 ngư dân bị thiệt mạng, 258/300 chiếc thuyền bị chìm và hư hỏng, 7 tấn ngư lưới cụ bị mất và nhiều hoa màu, nhà cửa bị hư hại. Thiên tai đã làm cho sản lượng đánh bắt thủy hải sản của Hòa Vang và Đà Nẵng giảm sút đáng kể.

Xuất phát từ yêu cầu nội dung công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ và đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng xác định: Đối tượng số một của công nghiệp là phục vụ nông nghiệp (gồm cả kinh tế biển và kinh tế rừng), phải từng bước tiến hành cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa đối với nền nông nghiệp đạt trình độ thâm canh cao, đồng đều, toàn diện. Chuẩn bị những điều kiện cho những năm tiếp theo, tiến hành quy hoạch cụ thể vùng cây công nghiệp, để đáp ứng yêu cầu nguyên liệu tại chỗ; đẩy mạnh xuất khẩu để nhập nguyên liệu, thiết bị, phụ tùng, phân bón, hóa dược phục vụ nhu cầu của nền kinh tế và đời sống nhân dân; ra sức đẩy mạnh phát triển hàng tiêu dùng, phấn đấu đến đầu những năm 1990 thỏa mãn

Page 172: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

172

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

những yêu cầu hợp lý về ăn, ở, đi lại, học tập và đủ thuốc chữa bệnh thông thường cho nhân dân và chiến sĩ trong tỉnh; quá trình cải tạo, xây dựng và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phải nắm vững những nguyên tắc kết hợp kinh tế của địa phương với kinh tế của Trung ương, hình thành một cơ cấu công nghiệp quốc dân thống nhất theo ngành và lãnh thổ, kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng cơ cấu công - nông nghiệp của tỉnh và thành phố Đà Nẵng, xây dựng cơ cấu nông - công nghiệp hoặc nông - lâm nghiệp trên địa bàn các huyện.

Thực hiện chủ trương trên, theo tinh thần Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 06 của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, nông nghiệp thành phố Đà Nẵng đã có sự phát triển tích cực, giải quyết tốt hơn lợi ích của người lao động. Sản lượng lương thực và rau xanh tăng, góp phần giải quyết đời sống cho hơn 10.000 nhân khẩu nông nghiệp.

Tại Hòa Vang, mặc dù thiên tai liên tiếp xảy ra, nhưng nông nghiệp vẫn giữ được sự ổn định. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi bước đầu có chuyển đổi, góp phần tạo ra sản phẩm hàng hóa. Tổng giá trị sản lượng tăng bình quân hằng năm 2,48%. Chuyển sang cơ chế mới có khoảng 30% hợp tác xã nông nghiệp phát huy được vai trò quản lý và điều hành sản xuất. Kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp Hòa Vang trong 3 năm qua là bước đầu đổi mới về hình thức tổ chức, quản lý, phát huy tính năng động của từng hộ nông dân.

Trên mặt trận nông nghiệp, Hòa Vang có những bước chuyển biến rõ nét nhất, kể từ khi có Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị. Huyện đã có những bước đi hợp lý trên lĩnh vực nông nghiệp, nhằm giải phóng sức sản xuất, khai thác được tiềm năng trong nhân dân. Việc củng cố hợp tác xã làm khá tốt, tinh giảm gọn nhẹ một bước bộ máy và biên chế, từng bước bố trí hợp lý cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp. Coi trọng việc ứng dụng và đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện tốt chế độ canh tác hợp lý nên sản xuất nông nghiệp của huyện ổn định và phát triển, năng suất giữ được, nhiều vùng nâng lên, thu nhập của xã viên tăng

Page 173: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

173

so với trước khoán. Sản lượng lương thực năm 1990 đạt 67.250 tấn, góp phần tự trang trải lương thực trên địa bàn huyện, có tích lũy và hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước. Các loại cây công nghiệp, cây thực phẩm đạt khá.

Chăn nuôi trâu, bò có phát triển, riêng chăn nuôi heo, do giá thức ăn gia súc cao, giá bán sản phẩm chăn nuôi và thị trường tiêu thụ không ổn định, phòng trừ dịch bệnh chưa tốt, hiệu quả chăn nuôi nhiều lúc bị thua lỗ nên đàn heo tập thể và gia đình giảm sút. Huyện lúng túng trong việc tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Với biện pháp coi việc xây dựng vốn rừng là nhiệm vụ trung tâm, huyện đã tiếp tục giao đất, giao rừng cho các đơn vị kinh tế quốc doanh, tập thể và hộ tư nhân. Phần lớn rừng và đất đã được giao để khai thác, trồng, chăm sóc và bảo vệ, nhiều nơi bước đầu đã trở thành rừng khép tán. Khai thác và chế biến gỗ đạt kế hoạch và tăng hơn trước, phục vụ cho nhu cầu của nhân dân và xuất khẩu. Tuy nhiên, thế mạnh về rừng vẫn chưa được sử dụng tốt. Quản lý rừng không chặt chẽ, khai thác chưa đúng quy trình. Trồng rừng nhiều nhưng tỷ lệ cây sống thấp. Hiệu quả trồng rừng chưa cao, đất trống đồi trọc còn nhiều.

Tuy vậy, trên lĩnh vực nông nghiệp, Hòa Vang vẫn chưa đảm bảo được sản lượng lương thực như chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra, do thời tiết khắc nghiệt, hạn hán kéo dài, có vụ bị rét đậm; hai cơn bão lớn tàn phá nghiêm trọng gây ảnh hưởng nhiều đến sản xuất. Mặt khác, sau khi thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị, một số nơi nhận thức chưa đúng, khoán trắng cho hộ xã viên, chế độ đầu tư thâm canh không đồng đều, có nơi giảm sút, nhất là những hợp tác xã và hộ khó khăn, nên năng suất lúa có chững lại, cây màu chưa được coi trọng. Do trình độ tay nghề kém, thiếu vốn để trang bị tàu thuyền, ngư lưới cụ nên việc khai thác tiềm năng nghề cá vẫn là vấn đề khó. Sự chỉ đạo của huyện đối với ngư nghiệp còn hạn chế.

Về củng cố hợp tác xã, hạn chế nổi lên là một số nơi bộc lộ rõ sự lúng túng trong quản lý, điều hành các hợp tác xã. Những

Page 174: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

174

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

đơn vị khó khăn và yếu kém có phần do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, mặt khác do năng lực tổ chức điều hành sản xuất của Ban quản lý hợp tác xã yếu, có nơi đã xảy ra những vi phạm trong quản lý kinh tế, sự lãnh đạo của cấp ủy và chính quyền địa phương còn nhiều hạn chế và thiếu sót.

Về thương nghiệp, tại Đà Nẵng, trong quá trình chuyển đổi theo cơ chế quản lý mới với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thị trường phong phú, thuận lợi cho việc mua bán, kích thích nền kinh tế phát triển, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách thành phố. Ngoài Trung tâm thương nghiệp, Đà Nẵng xây dựng lại chợ Hàn và một số chợ các phường. Thương nghiệp quốc doanh có nhiều cố gắng chuyển hoạt động kinh doanh để có khả năng cạnh tranh thị trường. Thành phố còn lại 7 hợp tác xã mua bán ở các phường.

Hoạt động kinh tế đối ngoại, thành phố đã có cố gắng tìm kiếm thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hoạt động du lịch, dịch vụ được cải tiến một bước về phương thức hoạt động. Thời gian này, sự kiện vỡ nợ của Trung tâm tín dụng đầu tư Thành Công đã gây dư luận không tốt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Trung tâm tín dụng Thành Công Đà Nẵng, thuộc Ban Tài chính quản trị Thành ủy Đà Nẵng, qua quá trình hoạt động đã bị vỡ nợ vào tháng 4 năm 1990. Ngày 02 và 03 tháng 01 năm 1991, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng đã họp để kiểm điểm đúng - sai và đề ra một số giải pháp để khắc phục(1). Đây là sự kiện gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và chính trị - xã hội của thành phố lúc bấy giờ.

Về xây dựng kết cấu hạ tầng: Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng có những chuyển biến tích cực, việc chỉ đạo quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành được quan tâm hơn; công tác quản lý đất

(1) Tổ chức “Tín dụng Thành Công” với mục đích hoạt động kinh tế, tạo nguồn kinh phí cho các hoạt động của Thành ủy. Tuy nhiên, do chưa dự đoán tốt được tình hình thực tế nên đã bị bể vỡ có tính dây chuyền lúc bấy giờ, diễn ra trước hết ở thành phố Hồ Chí Minh.

Page 175: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

175

xây dựng, lập lại trật tự kỷ cương trong xây dựng cơ bản đạt kết quả bước đầu. Nhiệm vụ phát triển giao thông vận tải có những chuyển biến mới. Công tác quản lý Nhà nước của ngành dần đi vào nền nếp; quy hoạch giao thông nội thị, kiệt hẻm được chú ý, chủ trương lấy đất nuôi đường đạt kết quả. Nhiều công trình dân sinh được xây dựng có ý nghĩa kinh tế - chính trị rõ rệt, được nhân dân hoan nghênh. Đầu tư cho giao thông, phát triển lưới điện, phủ sóng phát thanh, truyền hình được đẩy mạnh.

Trong 3 năm 1989-1991, thành phố đã đầu tư cho lĩnh vực xây dựng cơ bản là 13,090 tỷ đồng, trong đó ngân sách thành phố cấp 7,9 tỷ đồng; xây dựng nhiều công trình phục vụ dân sinh, giao thông, chợ. Hệ thống ánh sáng thành phố được tăng cường, nước sinh hoạt mới đáp ứng 30% nhu cầu. Đặc biệt, tháng 6 năm 1990, Tỉnh ủy ban hành Đề án “về phương hướng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội Quảng Nam - Đà Nẵng đến năm 2000”. Dự thảo đã đánh giá tình hình thực tế của Quảng Nam - Đà Nẵng và thành phố Đà Nẵng và thẳng thắn nhìn nhận rằng: Thực trạng kinh tế, xã hội hiện nay là lực lượng sản xuất chưa phát triển, công nghệ và thiết bị lạc hậu, năng suất lao động quá thấp, chất lượng sản phẩm kém, không cạnh tranh nổi với thị trường trong nước và quốc tế, hiệu quả kinh tế thấp, lao động chưa đủ việc làm, hằng năm có dành dụm để tích luỹ chút ít nhưng đời sống còn ở mức kham khổ. Kinh tế quốc doanh và tập thể có phát triển song chưa thành lực lượng quyết định năng suất chất lượng và hiệu quả kinh tế.

Từ những nhận định trên, Đề án đã đưa ra nhiều biện pháp chiến lược quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của Quảng Nam - Đà Nẵng trong 10 năm tới, nhất là chiến lược phát triển Đà Nẵng trở thành một thành phố trung tâm của cả miền Trung và Tây Nguyên như: Nâng cấp Sân bay Đà Nẵng, Cảng Đà Nẵng, Cảng Tiên Sa, làm cầu mới qua sông Hàn, phát triển ngành Bưu chính viễn thông, xây dựng các khu kinh tế tập trung, sản xuất các mặt hàng mũi nhọn, chỉnh trang đô thị, mở rộng các dịch vụ.

Page 176: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

176

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chính đề án trên đã đặt nền móng cho việc tạo cơ sở hạ tầng ban đầu cho một thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương sau này.

Tại Hòa Vang, thực hiện ba Chương trình kinh tế gắn liền với những chuyển biến tích cực trong việc bố trí cơ cấu đầu tư. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, từ năm 1988 đến năm 1990, huyện đã đầu tư gần 4 tỷ đồng, trong đó có 20% ngân sách Nhà nước để cải tạo đồng ruộng, xây dựng một số công trình thủy lợi như: Đập ngăn mặn Hòa Xuân, Hòa Hiệp, đập chứa nước Hóc Cửa - Hòa Phú. Một số công trình lớn như cầu Lâm Viên, Phòng khám đa khoa Hòa Khánh đã được xây dựng và đưa vào sử dụng. Mục tiêu hạ thế điện ở những vùng có điều kiện đã thực hiện được. Cả huyện có 13/19 xã có điện phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Đặc biệt, hồ chứa nước Đồng Nghệ mà Đại hội X của Đảng bộ huyện đã ra Nghị quyết triển khai thực hiện, tuy thời gian thi công có chậm nhưng quá trình khảo sát, thiết kế, đề xuất cấp trên phê duyệt và xin đầu tư kinh phí đã thể hiện sự cố gắng rất lớn của huyện và sự giúp đỡ có hiệu quả của Tỉnh và Trung ương.

Tuy vậy, trong xây dựng cơ bản, việc lập lại trật tự kỷ cương, quản lý đất đai của cả Đà Nẵng và Hòa Vang thời gian này chưa được chỉ đạo một cách kiên quyết, kịp thời. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản vừa phân tán, kém hiệu quả, vừa thiếu trọng điểm, trọng tâm theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chất lượng các công trình xây dựng cơ bản còn nhiều vấn đề cần tiếp tục chỉ đạo chặt chẽ hơn.

Về thực hiện chính sách xã hội: Sau gần 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhìn chung đời sống của nhân dân Đà Nẵng, Hòa Vang được cải tiện đáng kể, vấn đề lương thực, thực phẩm được giải quyết về căn bản. Nhà ở của nhân dân đàng hoàng hơn, phương tiện đi lại và nghe nhìn tăng lên khá nhiều so với trước. Lĩnh vực giáo dục được duy trì, có một số mặt ổn định và phát triển. Chất lượng giáo dục được đánh giá thực chất và bước đầu có những tiến bộ hơn trước. Công tác chăm sóc sức

Page 177: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

177

khỏe và vệ sinh môi trường có những chuyển biến mới. Mạng lưới y tế đều khắp ở các xã, phường; nhiều phòng khám đa khoa khu vực được xây dựng và hoạt động có chất lượng, thực hiện khá công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Chương trình y tế quốc gia bước đầu triển khai có kết quả. Đã cố gắng hạ tỷ lệ sinh so với dân số từ 2,43% năm 1988 xuống còn 2,27% năm 1990. Chính sách cho người có công và thương binh xã hội thực hiện đúng và tương đối kịp thời, đã có những sáng tạo trong công tác chính sách làm giảm bớt chi phí của Nhà nước. Giải quyết một phần khó khăn cho các thành viên hưởng chính sách (quỹ mai táng, quỹ bảo hiểm). Thành phố quan tâm giải quyết công ăn việc làm cho dân, đưa người đi lao động ở Lào, các tỉnh bạn và khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển để thu hút lao động. Đà Nẵng đã hoàn chỉnh hầu hết hồ sơ và giải quyết chế độ cho những người có công với cách mạng, bị bắt, bị tù đày trong 2 cuộc kháng chiến. Các hoạt động văn hóa văn nghệ phát triển một bước đáng kể(1), đã cố gắng duy trì mạng lưới thông tin đại chúng ở các phường, xã, đời sống văn hóa cơ sở nhiều nơi có bước đổi thay lớn, nhất là vùng đã có điện thắp sáng.

Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách xã hội ở Đà Nẵng và Hòa Vang chưa được chăm lo đúng với tầm quan trọng của nó và còn nhiều thiếu sót. Khó khăn nhất là những người mà nguồn thu nhập chính dựa vào tiền lương và trợ cấp xã hội. Nhà ở của nhân dân ở một số nơi nhất là các xã miền núi, vùng cát, vùng căn cứ cách mạng trước đây của Hòa Vang còn tạm bợ, đơn sơ. Một bộ phận khoảng 25-30% nhân dân còn sống nghèo khó. Trẻ em suy dinh dưỡng còn nhiều. Số người chưa có việc làm từ nhiều nguồn tăng lên nhanh nhưng chưa tìm được biện pháp

(1) Ở Hòa Vang, đội văn nghệ quần chúng của các Hợp tác xã nông nghiệp hoạt động rất tốt, tiêu biểu nhất là Đội văn nghệ của Hợp tác xã nông nghiệp 1 Hòa Châu. Đội văn nghệ này đã diễn cho đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn và các đồng chí trong Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng xem, sau đó được ra Hà Nội biểu diễn.

Page 178: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

178

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

giải quyết. Tình trạng học sinh bỏ học cuối cấp 2, 3 ngày càng nhiều. Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu, công tác bổ túc văn hóa và nhà trẻ còn yếu, trường lớp ở nhiều nơi không được bảo quản tốt; đời sống của giáo viên rất khó khăn, số sinh viên tốt nghiệp Trường Sư phạm Đà Nẵng không đủ bù số giáo viên xin nghỉ việc(1). Chất lượng điều trị của các bệnh viện, bệnh xá chưa được nâng cao, thái độ phục vụ bệnh nhân chưa tốt, tình trạng sốt rét ở vùng dân tộc Hòa Phú, Hòa Bắc của Hòa Vang chậm được ngăn chặn. Hoạt động văn hóa nghệ thuật đã xuất hiện những xu hướng đáng ngại. Các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, đồng bóng, bói toán tái diễn ở một số nơi. Việc lưu hành, sử dụng các loại văn hóa phẩm đồi trụy chậm được phát hiện, xử lý chưa triệt để.

Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh: Năm 1990, tình hình quốc tế diễn biến rất phức tạp, nổi bật nhất là cuộc khủng hoảng ở Liên Xô đã lên đến đỉnh điểm. Một thời gian ngắn sau đó, sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của nước ta. Các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ siết chặt bao vây cấm vận, bọn phản động trong nước lăm le ngóc đầu dậy. Sự sụp đổ của Liên Xô làm mất thị trường truyền thống trao đổi vật tư, nguyên liệu, hàng hóa, gây tác động xấu cho việc xuất nhập khẩu vốn rất nhộn nhịp của tỉnh qua Cảng Đà Nẵng. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế - xã hội đang gặp nhiều khó khăn đã tác động tiêu cực đến tình hình an ninh chính trị, nhất là trật tự, an toàn xã hội. Lợi dụng tình hình trên, bọn phản động tại Quảng Nam - Đà Nẵng có dấu hiệu câu kết với các thế lực bên ngoài gia tăng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.

Tình hình vượt biển thời gian này lại nổi lên nghiêm trọng, nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp là do kẻ địch từ bên ngoài

(1) Tính đến tháng 4 năm 1990, toàn thành phố có đến 1.435 học sinh phổ thông bỏ học, 33 giáo viên trong biên chế và 263 giáo viên trong diện hợp đồng đã bỏ dạy.

Page 179: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

179

kết hợp với lực lượng chống đối trong nước và các đối tượng xấu tuyên truyền, kích động, lôi kéo người trốn đi nước ngoài. Trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nhiều người, nhất là thanh niên khó vượt qua được sức cám dỗ. Các chủ phương tiện tàu thuyền đang thiếu nợ vay ngân hàng hoặc tín dụng, làm ăn thua lỗ không có khả năng trả nợ, cũng gặp dịp nên chủ động tìm cách trốn đi nước ngoài để chạy nợ. Công tác theo dõi nắm tình hình quản lý đối tượng thông qua công tác vận động quần chúng có hạn chế nhất định. Trong công tác điều tra xử lý tội phạm vượt biển còn chậm, thiếu kiên quyết, chưa nghiêm, còn để bọn cầm đầu, bọn chuyên móc nối tổ chức ở ngoài xã hội lại câu kết với số bộ đội, công an, biên phòng thoái hóa biến chất bị sa thải nên thủ đoạn tổ chức và cách đối phó khi bị bắt còn tinh vi hơn làm cho các lực lượng trực tiếp đấu tranh thường bị động hoặc mất cảnh giác.

Thời gian này, trước sự sụp đổ của Liên Xô, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, hoài nghi về mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Một số ít đảng viên bỏ Đảng, bỏ sinh hoạt Đảng, phát ngôn bừa bãi, làm cho tình hình trong nội bộ Đảng gặp không ít khó khăn. Đáng chú ý là, tại Đà Nẵng, một số đảng viên trong Đảng bộ làm đơn xin ra khỏi Đảng, ở các phường Hải Châu I, Hòa Cường, Khuê Trung, có nhiều đảng ủy viên xin nghỉ công tác. Thêm vào đó, nhiều vụ việc tiêu cực kéo dài tác động xấu đến tình hình chính trị trên địa bàn thành phố như: phường Nam Dương có 3 vụ tồn đọng về quản lý kinh tế mà cơ quan thường trú của Báo Nhân Dân tại Đà Nẵng đã đưa tin song thiếu cơ sở pháp lý để giải quyết; có dư luận không tốt xung quanh việc tổ chức di dời hàng nghìn ngôi mộ ở gần chùa Tứ Bang để xây dựng lại chợ Mới ở phường Hòa Thuận...

Trước trước tình hình đó, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng ban hành chỉ thị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự xã hội trong tình hình mới. Chỉ thị nêu rõ: Tăng cường

Page 180: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

180

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

trận địa tư tưởng, đảm bảo cho được sự đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động trong Đảng, đấu tranh kiên quyết và kịp thời làm thất bại chiến tranh tâm lý của địch và những khuynh hướng tư tưởng trái với quan điểm của Đảng; tăng cường công tác đấu tranh chống gián điệp, chống phản động và các loại tội phạm khác, bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước là điều kiện quyết định trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; tập trung đổi mới và tăng cường sự chỉ đạo xây dựng các ngành nội chính vững mạnh; phải quán triệt tinh thần kiên quyết nhưng thận trọng, khẩn trương nhưng bình tĩnh, làm có trọng điểm và giải quyết dứt điểm, không để lọt kẻ địch và bọn phản cách mạng, nhưng không xử lý oan người tốt, nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trấn áp kết hợp với giáo dục cải tạo; bảo vệ an ninh quốc gia phải kết hợp chặt chẽ với phát triển sản xuất, giải quyết tốt vấn đề cấp bách về kinh tế - xã hội, việc làm và đời sống, chống tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước và ngoài xã hội; đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia không phải là hạn chế dân chủ, trái lại nhằm tiếp tục phát huy dân chủ và bảo vệ dân chủ thực sự của nhân dân lao động, chống dân chủ cực đoan, dân chủ tư sản, vô chính phủ, không phải là đóng cửa mà trái lại nhằm tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, bảo vệ chính sách mở cửa được tốt hơn. Cần bác bỏ những luận điệu xuyên tạc và đả kích chủ trương tăng cường bảo vệ an ninh quốc gia của Đảng và Nhà nước; cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, lấy dân làm gốc, kết hợp tính tích cực cách mạng của quần chúng với công tác nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản, của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Page 181: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

181

Thực hiện chủ trương trên, quý II năm 1990, tất cả tổ chức cơ sở Đảng trong Đảng bộ thành phố đều mở đợt sinh hoạt chính trị theo các yêu cầu của Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng về các nhiệm vụ củng cố lập trường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống tư tưởng đa nguyên - đa đảng, thực hiện Nghị quyết số 08 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng; thi hành Quyết định số 240 của Hội đồng Bộ trưởng về chống tham nhũng, Chỉ thị số 52 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về chống các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy lãnh đạo và quản lý.

Thành ủy Đà Nẵng đã tổ chức nhiều đợt chỉnh đốn Đảng, kịp thời giúp đỡ những đồng chí có những mặt hạn chế về năng lực, đồng thời đã xử lý nghiêm túc những đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng. Tính từ Đại hội III của Đảng bộ Đà Nẵng đến năm 1990, Thành ủy đã có 254 đảng viên bị thi hành kỷ luật với các hình thức: khiển trách: 45, cảnh cáo: 84, cách chức: 11, khai trừ: 21, xóa tên và đưa ra khỏi Đảng: 93 người. Trong số đó: có 4 Bí thư và Phó bí thư Đảng ủy cơ sở, 30 Đảng ủy viên, 10 Chủ tịch, Phó Chủ tịch, 10 Giám đốc, Phó Giám đốc, 17 Bí thư chi bộ, 14 Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm hợp tác xã. Nội dung sai phạm do tham ô, ăn cắp có 47 trường hợp, vi phạm pháp luật: 20, hối lộ: 12, thiếu tinh thần trách nhiệm: 40, kém ý thức kỷ luật gây mất đoàn kết nội bộ: 22, vi phạm dân chủ, đặc quyền đặc lợi: 25, bỏ công tác và sinh hoạt Đảng: 88. Tại Hòa Vang, theo đánh giá của Đảng bộ lúc bấy giờ thì: Toàn huyện có 24 tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, tăng 8 đơn vị và còn 2 đơn vị yếu kém (giảm 3 so với năm 1991), trong 3 năm huyện kết nạp 124 đảng viên. Hòa Vang có 3.368/3.368 đảng viên được phân loại; trong đó, đảng viên loại 1 có: 1.570 chiếm 46,6%, loại 2: 1.672 chiếm 49,6%, loại 3: 84 chiếm 2,5%, loại 4: 30 chiếm 0,9%; đảng viên xin ra Đảng có 12 người chiếm 0,3%(1).

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hòa Vang: sđd, 2005, tr.216.

Page 182: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

182

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Về xây dựng lực lượng, toàn thành phố có 764/1.438 tổ dân phố có phong trào khá, trong đó có 2 phường thuộc khu vực I là Khuê Trung và Hải Châu II có phong trào xây dựng tổ dân phố tích cực hoạt động. Vào thời điểm này, Ủy ban nhân dân thành phố có ra Chỉ thị số 135 về việc giải tỏa vỉa hè, làm thông thoáng lòng đường, các phường đều kiên quyết thực hiện việc giải tỏa các lều quán xây dựng trái phép, giữ được trật tự giao thông trên các đường phố và những nơi sinh hoạt công cộng. Tháng 4 năm 1990, Thành ủy chỉ đạo tổng kết 3 năm phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Diễn biến tình hình trước những biến động phức tạp của trong nước và thế giới đã làm cho tội phạm tăng lên tại Đà Nẵng, có đến 13.684 đối tượng vi phạm. Thành phố đã giải quyết tại chỗ bằng hình thức hòa giải, kiểm điểm trước tổ dân phố 19.500 đối tượng và vụ việc. Nhân dân cung cấp được 15.000 nguồn tin về an ninh chính trị cho lực lượng công an và quân đội, tăng 4 lần so với 3 năm trước đó.

Về công tác quốc phòng, Huyện ủy Hòa Vang đã có những chủ trương và biện pháp kiên quyết để giữ vững sự ổn định về chính trị của địa phương. Huyện ủy đã có nhiều chỉ thị, cụ thể hóa Nghị quyết số 10 của Tỉnh ủy, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và giữ gìn trật tự an toàn xã hội đã phát động và giữ được ở một số nơi. Chiến dịch K37 của Ủy ban nhân dân tỉnh và Chỉ thị số 135 của Hội đồng Bộ trưởng đã triển khai trên diện rộng với những biện pháp kiên quyết có tác dụng tích cực tấn công, phòng chống các loại tội phạm. Công tác chống vượt biên có nhiều cố gắng, công tác bảo vệ nội bộ, phòng chống chiến tranh tâm lý của địch bước đầu thực hiện có kết quả. Lực lượng Công an được tăng cường, hầu hết các địa phương đã có công an huyện trực tiếp làm trưởng hoặc phó công an xã. Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn huyện được ổn định, trật tự an toàn xã hội tuy còn phức tạp nhưng ít có những biến động lớn.

Lực lượng dân quân tự vệ có bước phát triển, đến năm 1990, đạt 4,8% dân số, 3 năm liền đều hoàn thành công tác

Page 183: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

183

tuyển quân. Công tác huấn luyện đã cố gắng thực hiện trong điều kiện kinh tế có những khó khăn lớn. Khả năng phòng thủ sẵn sàng chiến đấu giữ được, xây dựng một số công trình quốc phòng với tổng chi phí hàng chục triệu đồng. Bộ máy cơ quan quân sự huyện và ở nhiều xã được củng cố, chất lượng có nâng lên. Tình hình quốc phòng trên địa bàn huyện đảm bảo. Công tác giáo dục nền quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân được tiến hành tích cực và có sự phối hợp khá chặt chẽ với các đơn vị quân đội đóng trên địa bàn huyện. Công tác xây dựng phương án và tổ chức diễn tập theo phương án phòng thủ đã tiến hành ở 19/19 xã, đạt kết quả khá trong tổ chức Hội thao quốc phòng toàn huyện và một số xã được củng cố. Công tác tuyển quân trong 3 năm đều đạt chỉ tiêu, quân nhân đào ngũ ngày càng giảm, số đào ngũ về địa phương được giáo dục, động viên trở lại đơn vị, tích cực xử lý những quân nhân về địa phương có những hành vi sai trái, việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội và giải quyết những tồn đọng sau chiến tranh được chú ý. Coi trọng công tác xây dựng Đảng, Đoàn trong lực lượng dân quân, xây dựng 17/19 Chi bộ lực lượng vũ trang, hoạt động của Chi bộ bước đầu có tác dụng tích cực, nhất là trong công tác tham mưu cho cấp ủy và chính quyền về công tác quốc phòng.

Công tác xây dựng Đảng, Thành ủy Đà Nẵng và Huyện ủy Hòa Vang tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng Đảng trên các mặt. Trên lĩnh vực tư tưởng, hai Đảng bộ thường xuyên tổ chức tốt việc quán triệt Nghị quyết, hệ thống các quan điểm của Đảng cho cán bộ, đảng viên, nhằm tăng cường sự đoàn kết thống nhất tư tưởng trong nội bộ và nhân dân. Trong sinh hoạt, đảng viên thẳng thắn phát biểu ý kiến, thảo luận; Thành ủy, Huyện ủy và đại bộ phận cơ sở Đảng thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình, phê bình. Trong 3 năm 1987-1990, Đảng bộ Đà Nẵng kết nạp 336 đảng viên. Trong đợt sinh hoạt chỉ thị 52, Đảng bộ Đà Nẵng phân loại 10.278/10.598 đảng viên; đảng viên đủ tư cách chiếm 95,36%,

Page 184: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

184

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

không đủ tư cách 1,13%, số phải xử lý 3,49%. Đảng viên bị xóa tên 115 người, trong đó tự bỏ sinh hoạt là 32 người.

Tại Đảng bộ Hòa Vang, qua phân loại đảng viên theo tinh thần Chỉ thị 52 (từ năm 1988-1991): Số đảng viên loại I: 20%, loại II: 64,8%, loại III: 3,3%, loại IV: 2,5%, loại V: 9,4%. So với phân loại trước đó, tỉ lệ đảng viên tiên phong gương mẫu có giảm nhưng được đánh giá thực chất hơn. Công tác kiểm tra đảng viên thường xuyên được tổ chức một cách nghiêm túc. Thông qua sinh hoạt chi bộ, quản lý đảng viên đã đẩy mạnh, công tác tự phê bình, phê bình, giữ gìn đội ngũ đảng viên. Huyện ủy và cơ sở đã tiến hành kiểm tra 3.514 đảng viên ở 68/68 tổ chức cơ sở Đảng trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, kết quả có 2.509 đảng viên chấp hành tốt, 230 đảng viên phải xử lý các hình thức kỷ luật. Trong các đợt chỉnh đốn Đảng, Huyện ủy đã kịp thời giúp đỡ những đồng chí có những mặt hạn chế về năng lực, đồng thời đã xử lý nghiêm túc những đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng.

Một thực tế dễ thấy trong công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn này là: Sự yếu kém trong công tác xây dựng Đảng có nguyên nhân khách quan là nền kinh tế còn đang khó khăn gay gắt, đời sống của người ăn lương còn căng thẳng; sự tác động tư tưởng nảy sinh từ tình hình xấu ở các nước Xã hội chủ nghĩa, Đông Âu và Liên Xô, song chủ quan là do trình độ và năng lực của các cấp ủy Đảng nói chung còn thấp chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp Đổi Mới. Việc hiểu chủ trương đổi mới chưa được thấu đáo, nên ở nhiều cấp ủy đảng việc chỉ đạo làm theo hướng đổi mới chưa nhiều. Mặt khác, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa thật sự tốt. Một số cấp ủy Đảng chưa coi trọng đúng mức công tác xây dựng Đảng, ít chăm lo đầy đủ công tác giáo dục rèn luyện đảng viên nên có một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, học tập để vươn lên, nói không đi đôi với làm.

* **

Page 185: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

185

Từ năm 1986 đến năm 1991 là quãng thời gian có ý nghĩa hết sức đặc biệt trong lịch sử phát triển của Đà Nẵng, đây cũng là thời kỳ đầu đất nước ta thực hiện đường lối Đổi Mới của Đảng. Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng giành được thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là các vấn đề có tính bức xúc trong xã hội lúc bấy giờ như: phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định trật tự xã hội.

Trong những năm tháng ấy, xuất phát từ thế mạnh của mình, Đà Nẵng đã có nhiều bước đi đúng đắn và thích hợp theo tinh thần tự lực, tự cường và khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của thành phố; đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của cấp trên để đưa nền kinh tế Đà Nẵng từng bước thoát ra khủng hoảng về kinh tế và xã hội. Trong lãnh đạo, Đảng bộ thành phố đã biết dựa vào thế mạnh của địa phương để xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp cho từng giai đoạn phát triển, kết hợp được giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội và quốc phòng - an ninh, đó là những điều kiện cần thiết, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của cả tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ.

Có thể nói, thực hiện công cuộc Đổi Mới do Đảng lãnh đạo, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã lãnh đạo thành công việc chuyển đổi mô hình kinh tế, từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường. Thực hiện chủ trương trên, việc “đổi mới” được thực hiện linh hoạt, bài bản “từ dưới lên”, tức là ở các hợp tác xã, doanh nghiệp, xí nghiệp, nhất là “đổi mới tư duy” trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền. Từ sự lãnh đạo đó, công tác khoán sản phẩm đến người lao động được thực thi, tình trạng “ngăn sông, cấm chợ” được bãi bỏ, chủ trương giao đất cho các hộ xã viên tăng gia sản xuất… đã làm kinh tế Đà Nẵng phát triển nhanh chóng, đời sống người dân dần được nâng lên, bà con ngày càng phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, thời gian này sự kiện các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ đã tác động đến công tác xuất, nhập khẩu của thành phố Đà

Page 186: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

186

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Nẵng, đồng thời tác động đến tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân song đa số nhân dân đồng lòng khắc phục khó khăn, vẫn tin tưởng và đi theo con đường lãnh đạo của Đảng. Nhìn chung, đây giai đoạn nước ta nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, đã làm bùng nổ các nhu cầu về đời sống, từ đó làm nảy sinh yêu cầu tháo gỡ các rào cản về quản lý kinh tế, dẫn đến những thay đổi trong quan niệm từ sự vận hành của nền kinh tế, làm “tan băng” các quan niệm xơ cứng, đặt nền móng và tạo tiền đề để cuộc sống nhân dân phát triển mạnh mẽ hơn sau này.

Đối với Đà Nẵng, đây cũng là giai đoạn xuất hiện các điều kiện cần và đủ để lãnh đạo tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đặt vấn đề, kiến nghị Trung ương cho Đà Nẵng một cơ chế riêng nhằm tạo điều kiện để Đà Nẵng bứt phá đi lên theo kịp với tình hình phát triển chung của cả nước.

Page 187: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

187

Chương Bốn

TỪNG BƯỚC KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - XÃ HỘI; XÁC ĐỊNH

XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG TRỞ THÀNH “VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN”

THEO MỤC TIÊU CHUNG CỦA ĐẢNG (1991 - 1996)

I. TĂNG CƯỜNG ỔN ĐỊNH AN NINH - CHÍNH TRỊ, KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN

Năm 1991 là năm cả nước cũng như thành phố Đà Nẵng trải qua nhiều khó khăn, thử thách: Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết tan rã, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, gây nên sự đảo lộn lớn trong trật tự thế giới, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nước ta đang đứng trước thử thách lớn của thời đại.

Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, đã tác động mạnh đến nước ta, làm mất chỗ dựa chủ yếu trong quan hệ hợp tác toàn diện với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, gây chấn

Page 188: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

188

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

động đến tư tưởng tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho thị trường cung ứng vật tư sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của địa phương bị cắt giảm đột ngột. Trong khi đó, các thế lực phản động trong và ngoài nước tăng cường “diễn biến hoà bình”, chuẩn bị kế hoạch bạo loạn lật đổ, nuôi ý đồ xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng đề ra trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh các hoạt động phá hoại tư tưởng, văn hóa, làm lung lay niềm tin của nhân dân, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thêm vào đó, đế quốc Mỹ vẫn duy trì chính sách cấm vận, ngăn cản các nước, các tổ chức quốc tế thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Một thực tế khắp nước ta lúc bấy giờ là: Kẻ thù đang “tấn công từ nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác - Lênin và đảng cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn thâm độc của các thế lực phản động quốc tế hòng xóa sạch chủ nghĩa xã hội hiện thực vào cuối thế kỷ này, sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản và cách mạng trên thế giới đã hằng ngày tác động không nhỏ đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta”(1).

Như vậy, đất nước đang trong tình thế hiểm nghèo, thành quả 52 năm cách mạng đang bị đe dọa. Nền kinh tế đất nước tiếp tục mất cân đối, lạm phát còn ở mức cao (67%), đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, trật tự kỷ cương xã hội có những diễn biến phức tạp, đã ảnh hưởng trực tiếp đến mọi lĩnh vực ở địa phương. Tuy nhiên, chúng ta đã có nhiều thời cơ và thuận lợi. Sự nghiệp Đổi Mới của Đảng ta khởi xướng từ năm 1986 đã đạt được những thành tựu bước đầu. Cơ chế kinh tế mới đã tạo điều kiện khai thác ngày càng tốt hơn những tiềm năng và lợi thế trong nước. Tinh thần đoàn kết nhất trí trong Đảng ngày càng được củng cố, niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới của Đảng ngày càng được tăng cường.

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, sđd, tr.6.

Page 189: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

189

Trong bối cảnh đó, từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 6 năm 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII được tổ chức. Đại hội đã tổng kết đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đề ra chủ trương nhiệm vụ nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những khó khăn để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên. Đại hội đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (gọi tắt là Cương lĩnh 1991) và “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000”. Đại hội đã đề ra chiến lược Tổng quát kế hoạch 5 năm 1991-1995 là: Vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.

Nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XIV, đề ra phương hướng trong nhiệm kỳ tới, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV được triệu tập từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 10 năm 1991. Về dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Võ Chí Công, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.

Đại hội đã nhận định rằng: Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, tuy gặp nhiều khó khăn phức tạp hơn trước nhưng chúng ta đã đạt được những thắng lợi bước đầu có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp Đổi Mới. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước bước đầu hình thành, đã khơi dậy tiềm năng và huy động có hiệu quả hơn lực lượng sản xuất trong xã hội. Tình hình sản xuất trên một số mặt vẫn giữ được. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng ở một số lĩnh vực điện, giao thông, thủy lợi được nâng lên. Hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào thực chất hơn, lưu thông tương đối thông suốt, thị trường hàng hóa đa dạng. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội về cơ bản được ổn định. Đời sống một bộ phận nhân dân trên một số

Page 190: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

190

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

mặt: ăn, mặc, ở, đi lại nhìn chung được cải thiện. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy. Năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể được nâng lên một bước. Những thắng lợi đó khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng và tiềm lực to lớn bắt nguồn từ sức mạnh của Đảng bộ, nhân dân toàn tỉnh nói chung và Đà Nẵng nói riêng.

Tuy vậy, chúng ta còn những yếu kém, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, có những chỉ tiêu không đạt. Nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Bố trí cơ cấu đầu tư chưa tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn. Nhiều đơn vị kinh tế quốc doanh tập thể chưa thích nghi với cơ chế mới. Tỷ lệ dân số tăng cao. Các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là tham nhũng chưa được ngăn chặn có hiệu quả làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước. Pháp luật kỷ cương bị vi phạm nghiêm trọng, trật tự xã hội còn nhiều điều đáng lo ngại. Công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là công tác cán bộ chậm đổi mới, bộ máy còn cồng kềnh, kém hiệu lực.

Nguyên nhân do tác động bất lợi của tình hình quốc tế, tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trong nước. Nhưng chủ yếu là do khuyết điểm trong lãnh đạo của Đảng bộ, điều hành của các cấp các ngành chưa theo kịp tình hình mới. Nhận thức của cán bộ, đảng viên về Đổi Mới chưa đầy đủ, công tác kiểm tra, rút kinh nghiệm chưa được chú ý. Đại hội đề ra phương hướng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Đặc biệt, Đại hội đã chính thức đưa ra bàn bạc, thảo luận đề nghị Trung ương cho tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương(1), nếu chưa tách thì cho quy chế riêng để xây dựng Đà Nẵng thành một “Đặc khu kinh tế của

(1) Đối với thành phố Đà Nẵng, việc xin chia tách tỉnh đã được thảo luận và đề nghị lên Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng trong Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng được tổ chức ngày 08 tháng 5 năm 1989. Việc chia tách tỉnh hay không chia đã được các đồng chí trong Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng thảo luận, bàn bạc rất kỹ, về cả lý và tình để đi đến thống nhất đề xuất lên Trung ương.

Page 191: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

191

duyên hải miền Trung” hoặc “Khu kinh tế mở”, tạo điều kiện cho Đà Nẵng phát triển mạnh mẽ, đồng thời để Trung ương quan tâm nhiều hơn đến Quảng Nam. Đây là tiền đề, cơ sở quan trọng để tiến hành chia tách tỉnh sau này.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XV) gồm 49 đồng chí. Trên cơ sở kết quả bầu cử, ngày 20 tháng 10 năm 1991, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XV) tổ chức Hội nghị lần thứ nhất để bầu Ban Thường vụ gồm 10 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Chi được bầu làm Bí thư, các đồng chí Lê Quốc Khánh và Trần Đình Đạm - Phó Bí thư. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy gồm 9 đồng chí, đồng chí Nguyễn Minh Hùng được bầu làm Chủ nhiệm.

Từ ngày 03 đến ngày 06 tháng 4 năm 1991, sau Đại hội của Đảng bộ 28 phường và 141 tổ chức cơ sở Đảng thuộc Đảng bộ thành phố, Đại hội (vòng 1) lần thứ V của Thành Đảng bộ Đà Nẵng cũng được tổ chức. Số lượng đại biểu chính thức tham dự đại hội có 311 đồng chí, trong đó có 126 đại biểu thuộc Đảng bộ các phường. Những phường có số lượng đại biểu đông nhất là Hòa Thuận, Hải Châu 1, Thanh Bình vì các phường này đã có số lượng trên 500 đảng viên.

Đại hội (vòng 1) tuy chưa bầu Ban Chấp hành nhiệm kỳ mới song nhiệm vụ về công tác tổ chức, cán bộ đã được Đại hội đặc biệt quan tâm. Từ thực tế diễn ra trong Đại hội này, chuẩn bị cho Đại hội (vòng 2) của Đảng bộ thành phố, Tỉnh ủy chủ trương điều động cán bộ, đưa đồng chí Nguyễn Minh Hùng về làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, chuẩn bị bầu cử Ban Chấp hành nhiệm kỳ V của Đảng bộ thành phố.

Trong quá trình chuẩn bị Đại hội (vòng 2), Ban Thường vụ Thành ủy và Thường trực Ủy ban nhân dân thành phố đã tổ chức lấy ý kiến của các ngành thuộc Trung ương và Viện Quy hoạch của Trung ương với yêu cầu làm cho thành phố Đà Nẵng phải thực sự trở thành trung tâm kinh tế - khoa học, kỹ thuật ở miền Trung mà Đảng và Chính phủ đã từng giao.

Page 192: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

192

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Từ ngày 07 đến ngày 09 tháng 01 năm 1992, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng tổ chức Đại hội lần thứ V (vòng 2). Đại hội đánh giá tình hình thành phố trong nhiệm kỳ qua, đồng thời nhận định rằng: 3 năm qua, kể từ Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IV, tình hình kinh tế - xã hội vẫn chưa thoát ra khỏi khủng hoảng.

Ở Đà Nẵng, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, giá cả luôn biến động, thị trường hàng gia công bị thu hẹp. Hàng vạn lao động bị mất việc làm, hàng nghìn gia đình chính sách, hưu trí, cán bộ công nhân viên nhà nước lâm vào hoàn cảnh đời sống khó khăn. Bên cạnh đó, bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh, kém hiệu lực, còn mang nặng phong cách của cơ chế quan liêu bao cấp, tổ chức cán bộ chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới. Việc phân cấp và xác định cơ chế quản lý của thành phố còn bất hợp lý, kéo dài nhiều năm nhưng chưa được sửa đổi, gây trở ngại không ít trong việc tổ chức phát triển và quản lý. Khó khăn nhất là nguồn ngân sách còn quá ít không đủ sức đáp ứng yêu cầu vừa bức thiết vừa lâu dài của thành phố.

Về chủ quan, Thành ủy chưa lường hết những khó khăn và diễn biến mới từ cơ chế của kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với sự tác động và sức ép gay gắt của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường. Chúng ta chưa có những điều kiện cần thiết và tương ứng để quản lý toàn diện, phù hợp với vị trí, tiềm năng của thành phố Đà Nẵng. Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng bộ và nhân dân thành phố đã kiên định lập trường, tiến hành công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, triển khai công cuộc đổi mới trên nhiều mặt trong đời sống xã hội, nhất là về kinh tế và ổn định chính trị.

Trong thời gian qua, thực hiện phát triển kinh tế theo cơ cấu: “Công nghiệp thủy sản, dịch vụ, du lịch, kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu là mũi nhọn”, Đà Nẵng hình thành nên nền kinh tế

Page 193: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

193

nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước, khơi dậy và huy động có hiệu quả về tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, từng bước thực hiện cơ chế quản lý phù hợp, tạo động lực mới trong sản xuất kinh doanh, đời sống của nhân dân không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, với vị thế của một thành phố trực thuộc tỉnh, Đà Nẵng cũng gặp nhiều khó khăn vướng mắc như: Kinh tế phát triển còn chậm, hiệu quả thấp, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển chưa mạnh, không ít người còn dè dặt lo ngại trước tình hình mới. Phân phối lưu thông vẫn còn yếu kém. Ngân sách nhà nước thường xuyên mất cân đối, chậm được khắc phục. Kinh tế đối ngoại hoạt động chưa có hiệu quả. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế nhiều mặt vẫn trong tình trạng xuống cấp. Việc giải quyết việc làm cho người lao động vẫn còn gặp khó khăn. Khoa học, kỹ thuật chưa trở thành động lực phát triển sản xuất. Quản lý đô thị còn nhiều mặt non yếu, nhiều mặt bất hợp lý, chồng chéo giữa nhiều cấp chủ quản, dẫn đến tình trạng cơ sở hạ tầng xuống cấp.

Trên cơ sở phân tích tình hình thuận lợi, khó khăn của thành phố, căn cứ mục tiêu Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh, Đại hội đề ra nhiệm vụ mục tiêu và biện pháp cụ thể để phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của Đà Nẵng từ 1991 đến năm 1995 là:

Về kinh tế: Phấn đấu đến năm 1995, tổng sản phẩm xã hội tăng 33% so với năm 1990 (tốc độ tăng trưởng bình quân 5,9%), thu nhập quốc dân tăng bình quân 5,7%. Đối với công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thực hiện theo hướng phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời phục vụ nông, lâm, ngư nghiệp. Chú trọng phát triển công nghiệp dịch vụ, gia công hàng xuất khẩu, phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm để thị trường trong nước chấp nhận. Mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, liên kết kinh tế Trung ương và địa phương, đưa tốc độ tăng trưởng bình quân về tổng giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công

Page 194: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

194

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

nghiệp hằng năm từ 5-6%; tập trung vào các ngành có thị trường, nguyên liệu và điều kiện phát triển. Bố trí và sắp xếp lại công nghiệp quốc doanh của thành phố. Tập trung đầu tư cho các đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Thực hiện tốt chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, đầu tư vốn mở các cơ sở sản xuất, tạo điều kiện cho kinh tế gia đình phát triển nhất là tiểu thủ công nghiệp, tập trung phát triển nông - lâm - thủy sản, công nghiệp gia công, lắp ráp hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng và hàng thủ công mỹ nghệ.

Về thủy sản, xây dựng thành ngành kinh tế mũi nhọn, ngành sản xuất hàng hóa có hiệu quả trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Phát huy thế mạnh của kinh tế biển, tiềm năng của các vùng nước lợ, nước mặn, tiềm lực về lao động, kỹ thuật nghề cá nhân dân, xây dựng đồng bộ và hợp lý các ngành nghề nối liền nhau ở các khâu khai thác, nuôi trồng, bảo quản, chế biến, dịch vụ, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm. Đưa năng lực đánh bắt đến năm 1995 đạt 20.000 tấn cá, tăng chất lượng chế biến hàng xuất khẩu, mở rộng nhà máy chế biến đông lạnh, xây dựng chợ cá và cảng cá Thuận Phước.

Quản lý và sử dụng tốt rừng Sơn Trà vào mục đích du lịch và nghỉ mát để đem lại hiệu quả kinh tế. Có kế hoạch để phát triển trồng cây phân tán trong nhân dân, nhất là trồng cây ven biển và cây bóng mát đô thị. Mở rộng thương mại và dịch vụ phù hợp với đặc điểm vị trí của thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu hàng hóa, phát triển dịch vụ, sử dụng tiền tệ và vốn, sức lao động, khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, sắp xếp, củng cố thương nghiệp quốc doanh theo hướng đẩy mạnh bán buôn, trên cơ sở nắm bắt các nhu cầu của thị trường, tập trung kinh doanh một số mặt hàng chủ yếu, góp phần tích cực vào việc ổn định và điều tiết giá cả thị trường.

Về kinh tế đối ngoại, ưu tiên nguồn vốn cho việc chuẩn bị đầu tư và tạo điều kiện thu hút đầu tư vào thành phố. Trước mắt tập trung vốn đầu tư cho các ngành có hiệu quả và có khả năng

Page 195: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

195

phát triển lâu dài. Khuyến khích các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu, tìm kiếm thị trường nước ngoài, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân của xuất khẩu 20%/năm. Đến năm 1995, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn là 68 triệu USD, trong đó thành phố quản lý xuất khẩu 10 triệu USD, nhập khẩu đạt 8 triệu USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 160 USD/năm.

Về quản lý đô thị, Thành ủy đẩy mạnh việc khắc phục từng bước tình trạng xuống cấp của hệ thống kết cấu hạ tầng. Từng bước nâng cấp giao thông đô thị, thông thoáng những giao lộ, mở rộng và làm mới những tuyến đường ở các phường xa trung tâm thành phố, hoàn thành hệ thống cống liên phường vào năm 1995, chỉnh trang nhà tạm bợ ở các tuyến đường lớn, giải quyết tuyến nhà chồ trên sông. Xây dựng, sửa chữa các trường học, bệnh viện, các công viên và cây xanh trong thành phố.

Để thực hiện được các mục tiêu trên, thành phố cần được Trung ương và tỉnh đầu tư vốn thích đáng, cùng với nguồn ngân sách thành phố kết hợp và tích cực vận động nhân dân thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Tránh tình trạng quản lý chồng chéo, trên cơ sở phân giao nhiệm vụ quyền hạn của tỉnh đối với thành phố trong việc quản lý đô thị, thành phố sớm hình thành quy chế quản lý.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 26 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Minh Hùng làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Hữu Mười - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Hồ Việt - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố. Tháng 5 năm 1994, đồng chí Phan Như Lâm về làm Bí thư thay đồng chí Nguyễn Minh Hùng. Tháng 01 năm 1995, đồng chí Nguyễn Bá Thanh về làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố thay đồng chí Hồ Việt.

Đại hội lần thứ V của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã thể hiện ý chí, niềm tin của đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng bộ. Đảng bộ kiên định và quyết tâm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh

Page 196: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

196

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

đã lựa chọn, quyết tâm thực hiện và đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đề ra.

Cũng trong thời gian này, Đại hội lần thứ XI của Đảng bộ huyện Hòa Vang được tiến hành từ ngày 02 đến ngày 04 tháng 12 năm 1991. Đại hội đánh giá những thành tựu kinh tế, chính trị, xã hội đã đạt được trong nhiệm kỳ trước, đồng thời đề ra mục tiêu phong trào cho 5 năm đến và đã xác định cơ cấu kinh tế của Hòa Vang trong thời gian đến là: Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, dịch vụ du lịch và thương mại.

Đại hội đã bầu 35 đồng chí vào Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ do đồng chí Nguyễn Văn Đán làm Bí thư, đồng chí Lê Kim Ngân làm Phó Bí thư. Đến tháng 5 năm 1994, bầu thêm 8 đồng chí vào Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, nâng tổng số Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ lên 43 đồng chí. Tháng 01 năm 1995, đồng chí Trần Thọ được bầu làm Phó Bí thư Thường trực.

II. TỪNG BƯỚC KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, ĐẨY LÙI KHỦNG HOẢNG, TẠO ĐÀ CHO SỰ PHÁT TRIỂN

Bước vào năm 1991, tình hình kinh tế, đời sống của nhân dân Đà Nẵng nói riêng và cả tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung gặp rất nhiều khó khăn: Do bão lụt, gây nên hậu quả mất mùa của những tháng cuối năm 1990, giá cả lại tăng đột biến nên đời sống của những người sống bằng đồng lương, nghề biển và nông khá vất vả, nhất là ở những ngày giáp Tết Nguyên Đán(1). Tình trạng sản xuất đình trệ, hàng tồn kho lớn, nguồn vốn thiếu hụt làm cho ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Đà Nẵng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Một số cơ sở kinh tế Trung ương và địa phương vỡ nợ, bế tắc hướng hoạt động. Nhiều đơn vị vay tiền hoặc lấy vốn kinh doanh đem gửi tiết kiệm

(1) Lúc này, toàn tỉnh có trên 200.000 người thiếu đói, Ủy ban nhân dân tỉnh đã xuất hàng trăm tấn lương thực và các nguồn thực phẩm khác để cứu đói.

Page 197: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

197

tín dụng vỡ nợ không thu hồi được. Việc quản lý, sử dụng ngoại tệ của đơn vị có ngoại tệ xảy ra nhiều sai phạm, lãng phí không hiệu quả do phần lớn các đơn vị này bán ngoại tệ ra thị trường tự do hoặc chuyển nhượng cho các đơn vị khác để lấy chênh lệch. Thậm chí có đơn vị sử dụng tiền này để kinh doanh vàng trái phép thu lãi như Trung tâm Thương mại xuất nhập khẩu Seaprodex Đà Nẵng… gây hậu quả nghiêm trọng, tác động tiêu cực không nhỏ đến dư luận trong nhân dân.

Về công nghiệp và tiểu thủ công, sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp Đà Nẵng nói riêng, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung đứng trước những thử thách rất gay gắt: Thiếu vốn sản xuất, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, nợ ngân hàng ngày càng tăng và lao động không có việc làm trở nên báo động… Cụ thể: Trong hai năm 1990 và 1991, vốn lưu động được cân đối cho sản xuất rất hạn hẹp, chỉ đáp ứng khoảng 20-30% nhu cầu, tiền mặt lại càng khó; riêng các xí nghiệp thuộc Sở Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chỉ được 1,6 tỷ đồng, bằng 15,3% vốn lưu động định mức. Để duy trì sản xuất và có tiền trả lương cho công nhân, nhiều xí nghiệp đã phải vay ngân hàng trên mức, vay tín dụng, vay của cán bộ công nhân viên và chiếm dụng vốn của các đơn vị khác. Lãi ngân hàng quá cao, đã trở thành gánh nặng thật sự cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, là nỗi lo của các nhà quản lý. Điển hình như: Xí nghiệp quốc doanh của Sở Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp đã phải trả lãi ngân hàng 504,6 triệu đồng (Xí nghiệp Dệt Hòa Khánh 214 triệu đồng…) sản phẩm làm ra bị ứ đọng không bán được, hàng tồn kho lên tới hàng chục tỷ đồng; riêng Dệt Hòa Khánh còn tồn kho 500.000 mét vải, Nhà máy xe đạp Đà Nẵng tồn kho 2.500 xe hoàn chỉnh, Nhà máy Thủy tinh Đà Nẵng tồn đọng 4.040 phích nước, 13.338 ruột phích, 300.000 vỏ chai nước ngọt… Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khó khăn, ách tắc làm cho lao động thiếu việc làm tăng lên, thu nhập bình

Page 198: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

198

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

quân của công nhân nhiều nơi bị giảm sút. Phần lớn các xí nghiệp hoạt động cầm chừng, chưa vươn lên kịp với tình hình sản xuất và thị trường mới. Việc các xí nghiệp nộp thuế cũng rất khó khăn: Các doanh nghiệp thuộc Sở Công nghiệp quản lý thì chỉ có Nhà máy Bia - nước ngọt nộp 45,5 tỷ đồng (trong đó 40 tỷ đồng thuế tiêu thụ đặc biệt), Nhà máy Dưỡng khí nộp 2 tỷ đồng trên tổng số 47,8 tỷ nộp ngân sách của toàn ngành năm 1993… Nhìn chung, ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Đà Nẵng lúc này, nhất là các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh thì manh mún, nhỏ lẻ, mặt hàng không ổn định, trong khi đó công tác quản lý Nhà nước vừa thiếu thống nhất, vừa phân tán nên việc chỉ đạo, điều hành, kiểm kê, kiểm soát của các ngành không sát, vừa gây khó khăn vừa chưa tạo được môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư phát triển sản xuất.

Trước tình hình khó khăn đó, Tỉnh ủy đã tập trung chỉ đạo các công ty, xí nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng khắc phục khó khăn, tìm kiếm thị trường mới, giải phóng hàng tồn kho, chuyển đổi mô hình, mặt hàng sản xuất kinh doanh… Theo đó, Đà Nẵng kiên trì thực hiện chủ trương sắp xếp lại các đơn vị kinh tế theo Nghị quyết số 388 của Hội đồng Bộ trưởng, giải thể hoặc chuyển hình thức sở hữu đối với những đơn vị làm ăn thua lỗ kéo dài. Khắc phục được một bước tư tưởng trông chờ, ỷ lại trong một số doanh nghiệp, chủ động mở rộng liên doanh, liên kết với các ngành Trung ương (như xí nghiệp xi-măng, thép cán…), gắn được kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương, góp phần đưa sản xuất công nghiệp Đà Nẵng dần đi vào ổn định. Năm 1993, các đơn vị sản xuất của Đà Nẵng được tổ chức lại, từ 25 còn 16 đơn vị. Nhiều đơn vị vay vốn đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị và công nghệ, chủ động mở rộng thị trường nên làm ăn có hiệu quả như: Công ty nhựa, Công ty thủy sản và thương mại Thuận Phước, Xí nghiệp may mặc xuất khẩu. Nhờ vậy, đến năm 1994, toàn tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng “có nhịp độ tăng trưởng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 17,7% so với năm 1993, trong

Page 199: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

199

đó công nghiệp địa phương tăng 18,9 %”(1). Nhiều loại hình kinh tế hợp tác, các công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân sản xuất phát triển khá, với quy mô đầu tư lớn hơn các năm trước.

Các tổ chức kinh tế cá thể, tư nhân tiếp tục được thành lập (có 224 công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ phần) đã mạnh dạn đầu tư thay đổi thiết bị và chuyển hướng kinh doanh từ thương mại dịch vụ sang sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất tiểu thủ công nghiệp phát triển với mức độ cao hơn trước. Tổng giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của Đà Nẵng tăng “bình quân mỗi năm là 11,9%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội V của Đảng bộ thành phố đề ra từ 5 - 6%”(2). Ở Hòa Vang, từ năm 1992 đến năm 1996, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cũng có những bước phát triển đáng kể: Công ty tư nhân, tổ hợp tác sản xuất và hộ sản xuất tăng nhanh, thu hút 8.799 lao động. Tổng giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 5,2% hằng năm. Tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm 18,4% trong tổng sản phẩm của huyện”(3). Một số mặt hàng chủ yếu có xu hướng phát triển tốt như vật liệu xây dựng, giấy, bao bì, chế biến nông, hải sản. Các làng nghề truyền thống như dệt chiếu, đan lát, đá mỹ nghệ đang phục hồi và phát triển.

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo số 63/BC-TU, ngày 03 tháng 01 năm 1995 về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1994, phương hướng nhiệm vụ năm 1995”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.(2) Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: “Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ VI”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng. Năm 1992 tăng 7,74%; năm 1993 tăng 11,89%, năm 1994: 17,9%, năm 1995: 14,54%. Năm 1996, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17,07% so với 1995, trong đó công nghiệp địa phương tăng 12,44%, công nghiệp Trung ương tăng 29,93%, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,79%.(3) Đảng bộ huyện Hòa Vang: “Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hòa Vang (khóa XI) tại Đại hội lần XII”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 200: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

200

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ngành thủy hải sản của Đà Nẵng gặp nhiều khó khăn, tổn thất sau cơn bão số 2 (năm 1989), vụ cá Nam liền sau đó cũng bị mất mùa; giá dầu cao, giá cá thấp, ngư dân đi đánh bắt bị thua lỗ, tình trạng ngư dân bị các đối tượng xấu cướp tàu để vượt biên vẫn còn tiếp diễn… làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nghề cá của thành phố. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, nghề cá Đà Nẵng nhanh chóng được phục hồi và phát triển: Nhân dân tiếp tục phát triển mạnh trong cả khai thác, nuôi trồng và chế biến là nhờ Tỉnh có chủ trương giải quyết được thị trường tiêu thụ. Nhiều dự án liên doanh với nước ngoài trong khai thác, nuôi trồng, tiêu thụ sản phẩm biển được triển khai và đã phát huy tác dụng bước đầu. Kim ngạch xuất khẩu hải sản đạt 9,7 triệu USD. Phong trào chăn nuôi trong nhân dân tiếp tục được mở rộng. Nhiều doanh nghiệp thủy hải sản khi sắp xếp lại đã làm ăn có hiệu quả. Ngành nuôi trồng thủy sản Đà Nẵng, đều phát triển thành ngành sản xuất hàng hóa, bà con các phường ven biển (nay thuộc là quận Sơn Trà và quận Ngũ Hành Sơn), đẩy mạnh sản xuất, nuôi trồng thủy hải sản. Huyện Hòa Vang dùng 600 ha để nuôi thủy sản, nhất là nuôi cá nước ngọt và một số con đặc sản khác.

Số lượng tàu thuyền đóng mới tăng nhanh, từ năm 1991 đến năm 1995, số tàu thuyền gắn máy đóng mới của Đà Nẵng tăng lên 541 chiếc, đưa tổng số tàu thuyền có động cơ lên 1.524 chiếc với tổng công suất 36.363 mã lực. Sản lượng hải sản khai thác hằng năm tăng từ 13.000 tấn năm 1992 lên 19.888 tấn năm 1996(1). Xuất khẩu thủy sản ngày càng phát triển. Năm 1994, xuất khẩu đạt 4,760 triệu USD bằng 58% giá trị kim ngạch xuất khẩu của thành phố. Năm 1995 đạt 7 triệu USD bằng 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Ở Hòa Vang, nghề cá cũng phát triển, sản lượng đánh bắt đạt trên 700 tấn/năm.

Về thương mại, từ năm 1991, khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu - những nước là khách hàng chiến lược

(1) Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng: “Báo cáo về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1997”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 201: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

201

và tiềm năng của cảng Đà Nẵng, lâm vào cảnh suy thoái dẫn đến sụp đổ, lượng hàng nhập và xuất qua cảng Đà Nẵng giảm sút. Từ năm 1992 đến năm 1996, hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu của Đà Nẵng được sắp xếp lại doanh nghiệp, cơ cấu sản xuất, mặt hàng trong hoạt động xuất khẩu. Sau khi sắp xếp lại, phần lớn các doanh nghiệp trong ngành làm ăn có hiệu quả, hoàn thành các chỉ tiêu nộp ngân sách và có lãi 1 tỷ đồng. Đồng thời, Đà Nẵng đã có những chuyển biến tích cực theo hướng phát triển thành mũi nhọn; tìm kiếm thị trường, thu hút vốn đầu tư liên doanh, liên kết. Nhờ vậy, kim ngạch xuất khẩu của thành phố tăng bình quân hằng năm trong giai đoạn này là 25,7%, năm 1995 đạt 10,2 triệu USD, trong đó xuất khẩu hải sản chiếm tỷ trọng cao hơn cả, năm 1994 bằng 58%, năm 1995 bằng 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Hàng hóa phong phú, giá cả ổn định, góp phần bình ổn giá trên thị trường trong tỉnh.

Các hoạt động kinh tế đối ngoại, thương mại, du lịch, dịch vụ có chuyển biến mới, tác động tích cực đến nền kinh tế chung của tỉnh, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo việc làm mới và cải thiện đời sống người lao động. Sự lãnh đạo của Đảng trong các hoạt động đối ngoại được chú ý hơn, nhất là các vấn đề có liên quan đến lợi ích của nhân dân lao động. Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng đã cử nhiều đoàn cán bộ, từ các đồng chí lãnh đạo Đảng, chính quyền tỉnh đến giám đốc các doanh nghiệp tại Đà Nẵng ra nước ngoài tham quan nghiên cứu, mở rộng các mối quan hệ, mời gọi đối tác, tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ và viện trợ nước ngoài; đồng thời cũng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, người nước ngoài đến tham quan, du lịch, tìm cơ hội đầu tư với số lượng tăng gấp 3 lần năm 1992(1). Năm 1993, với định hướng xây dựng và phát triển mô hình kinh tế khu công nghiệp, thành phố đã cấp phép đầu tư khu công nghiệp

(1) Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo Kiểm điểm công tác năm 1993 và phương hướng nhiệm vụ năm 1994”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 202: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

202

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

đầu tiên ở Đà Nẵng(1) với tên gọi ban đầu là Khu chế xuất An Đồn. Chủ sản xuất kinh doanh khu công nghiệp là Công ty trách nhiệm hữu hạn Massda Land, là công ty do Tập đoàn Max Corp (Malaysia) liên doanh với Đà Nẵng.

Trong thời gian này, Quảng Nam - Đà Nẵng đã thu hút hàng chục dự án đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đầu tư hàng chục triệu USD, trong đó dự án liên doanh xây dựng cơ sở hạ tầng khu chế xuất Đà Nẵng có vốn đầu tư ban đầu 24 triệu USD. Ngoài ra, các dự án tài trợ, tín dụng ưu đãi từ các tổ chức tài chính quốc tế cũng được quan tâm khai thác. Đến năm 1992, Đà Nẵng bắt đầu có những nhà đầu tư nước ngoài đến từ các nước tư bản đến làm ăn như: Đài Loan đầu tư Xí nghiệp làm giày Quốc Bảo, Nhật Bản đầu tư nhà hàng ăn uống Kim Đình.

Trên mặt trận nông nghiệp, Đà Nẵng cũng có những bước phát triển đáng kể, thành phố chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng rau thực phẩm - hoa quả - chăn nuôi. Đồng thời, thành lập trung tâm khuyến nông, khuyến ngư, hướng dẫn nông, ngư dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tìm kiếm thị trường và cung cấp các dịch vụ. Sản lượng các loại rau màu, thực phẩm hằng năm tăng bình quân 2,81%(2). Năm 1996, tổng sản lượng lương thực quy thóc là 72.018 tấn(3). Tốc độ tăng bình quân đàn lợn trong 5 năm 1990-1994 là 10,38%(4). Việc nuôi bò sữa cũng được phát triển ở phường Thanh Lộc Đán và một số phường khác. Tại Hòa Vang, chăn nuôi được đẩy mạnh, từng bước phát

(1) Khu công nghiệp An Đồn là khu công nghiệp ra đời sớm nhất ở miền Trung, sớm thứ hai của cả nước sau Khu công nghiệp Tân Tạo (thành phố Hồ Chí Minh).(2) Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: “Văn kiện Đại hội đại biểu thành phố Đà Nẵng lần thứ VI (1996-2000)”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.(3) Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng: “Báo cáo về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 1997”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.(4) Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng: “Báo cáo của về kinh tế - xã hội 5 năm 1990 - 1994 và định hướng phát triển kinh tế - xã hội (1995-2000)”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 203: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

203

triển các chương trình “nạc hóa đàn lợn”, “sin hóa đàn bò”, phát triển dê bách thảo, vịt siêu trứng, gà công nghiệp, đưa tỷ trọng chăn nuôi chiếm 30% giá trị sản lượng nông nghiệp. Ngành lâm nghiệp Đà Nẵng thực hiện chuyển hướng dần theo lâm nghiệp xã hội hóa, gắn việc quản lý bảo vệ rừng, trồng rừng với việc thực hiện Dự án 327 phát triển kinh tế - xã hội miền núi, mở rộng giao đất khoán rừng đến hộ; bình quân mỗi năm trồng 800 ha rừng tập trung và 1 triệu cây phân tán… Về hệ thống thủy lợi, huyện Hòa Vang đã xây dựng hồ Đồng Xanh - Đồng Nghệ để giải quyết tưới cho Hòa Phong, Hòa Khương. Sau đó, xây dựng trạm bơm Tứ Câu (Hòa Quý), trạm bơm An Trạch (Hòa Tiến), trạm bơm Bích Bắc tưới cho Hòa Châu, Hòa Xuân, đánh dấu mốc trong việc hoàn thành thủy lợi hóa của huyện Hòa Vang.

Thu ngân sách trên địa bàn Đà Nẵng từ năm 1991 đến năm 1995 đều tăng, bình quân mỗi năm tăng 37,53%, từ 18,2 tỷ đồng năm 1991 lên 93,66 tỷ đồng năm 1995. Năm 1996, tổng thu ngân sách trên địa bàn thành phố lên tới 1.147,147 tỷ đồng, trong đó thu nội địa 660,530 tỷ đồng, thuế hải quan 486,617 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương 289,735 tỷ đồng. Các ngành kinh tế tổng hợp như ngân hàng, kho bạc đã làm tốt chức năng phục vụ sản xuất kinh doanh, cố gắng đáp ứng nhu cầu vốn vay của các thành phần kinh tế. Tỷ trọng cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế hộ ngày càng cao, góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn.

Về tài chính - tiền tệ - giá cả: Tình trạng ngân sách của Đà Nẵng trong thời gian này vẫn trong tình trạng căng thẳng, nhất là trong những tháng đầu năm, các khoản chi phục vụ Tết âm lịch và hàng loạt nhu cầu chi đặc biệt phải đáp ứng kịp thời, trong khi nguồn thu bố trí rải đều hàng tháng... làm cho công tác điều hành ngân sách gặp nhiều khó khăn. Ngành ngân hàng đã có nhiều cố gắng trong việc điều hòa lưu thông tiền tệ theo cơ chế thị trường, đảm bảo kịp thời yêu cầu tiền mặt, kể cả việc hỗ

Page 204: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

204

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

trợ tiền mặt cho kho bạc chi trả kịp thời các yêu cầu khối thương binh xã hội, quốc phòng - an ninh.

Riêng hoạt động tín dụng đã gặp khó khăn rất lớn trong một số vấn đề nổi cộm như: Trong năm 1990, ảnh hưởng tình hình vỡ nợ tín dụng của cả nước, Quảng Nam - Đà Nẵng cũng xảy ra cơn sốt vỡ nợ ở các Trung tâm tín dụng và Hợp tác xã tín dụng, trọng điểm là thành phố Đà Nẵng và trở thành “Điểm nóng”. Đáng chú ý là Trung tâm tín dụng Đà Nẵng, Trung tâm tín dụng đầu tư Thành Công Đà Nẵng (thuộc Ban Tài chính Quản trị Thành ủy Đà Nẵng) trong quan hệ kinh doanh đã chuyển số lượng lớn tiền mặt hơn 10 tỷ đồng của cán bộ và nhân dân gửi tiết kiệm, đưa vào thành phố Hồ Chí Minh để cho Hợp tác xã Chợ Lớn mới và một số đơn vị kinh doanh khác vay, đến khi vỡ nợ không rút được tiền về trả lại cho cán bộ và nhân dân.

Trước tình hình này, Đà Nẵng có hàng trăm người là cán bộ hưu trí, cán bộ công nhân viên chức, bộ đội, công an và nhân dân lao động bức xúc kéo đến trụ sở làm việc của Ban Quản trị hai Trung tâm trên để đòi lại tiền nhiều lần. Khi không được giải quyết, họ đã đập phá, lấy tài sản, kéo đến Thành ủy Đà Nẵng và Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng yêu cầu giải quyết. Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức họp nhiều lần để bàn chủ trương giải quyết, cuối cùng phải quyết định tạm cho Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng vay 2,9 tỷ đồng trong ngân sách đặc biệt Trung ương cho tỉnh vay, để thành phố giải quyết trả lại một phần cho cán bộ và nhân dân. Đồng thời, các ngành nội chính tiến hành khởi tố, bắt giam Ban Giám đốc cùng số nhân viên có liên quan về tội tham ô và cố ý làm trái. Việc vỡ nợ của tổ chức Tín dụng Thành Công đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng bộ thành phố đối với nhân dân. Về ý chí, chủ trương là tốt, bởi nó xuất phát từ sự mong muốn nhằm cải thiện cuộc sống của nhân dân, nhưng nó bất chấp quy luật, thiếu kinh nghiệm thực tiễn về quản lý kinh tế trong bối cảnh bước đầu thực hiện đường lối Đổi Mới. Việc này để lại một bài học về mối

Page 205: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

205

quan hệ giữa ý chí và quy luật khách quan, giữa chủ trương và thực tiễn cuộc sống, phải lường trước được mọi tình huống cụ thể, sát sườn khi đề ra một chủ trương cụ thể trong công tác lãnh đạo của Đảng bộ. Ngoài sự việc của Tín dụng Thành Công còn nhiều vụ việc liên quan đến tình trạng nợ cổ đông của các xí nghiệp hợp doanh cũng gây nên những khó khăn, bức xúc trong dư luận lúc bấy giờ. Do làm ăn thua lỗ nên nhiều Xí nghiệp công tư hợp doanh Đà Nẵng phải giải thể. Trong quá trình giải thể, do giải quyết vốn cổ đông chưa thỏa đáng nên đã dẫn đến tình trạng các cổ đông tập hợp kéo đến trụ sở cơ quan, xí nghiệp đòi giải quyết. Đã xảy ra 2 vụ lớn (1 vụ ở Xí nghiệp Đông lạnh 32 Đà Nẵng, 1 vụ ở Xí nghiệp công tư hợp doanh ô tô hàng hóa). Trước tình hình trên, Tỉnh ủy chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp cùng lực lượng Công an tỉnh, bắt giữ một số người gây rối để xử lý và khởi tố điều tra số cán bộ của xí nghiệp có dấu hiệu tham ô, tình hình mới dần đi vào ổn định(1).

Vấn đề đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của Đà Nẵng trong thời gian này cũng được Tỉnh ủy chú trọng, đầu tư mạnh mẽ hơn. Hằng năm, tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho Đà Nẵng từ các nguồn đầu tư ngân sách đều tăng (nguồn vốn Trung ương trực tiếp đầu tư cho Đà Nẵng tăng đáng kể từ 3,1 tỷ đồng năm 1991 lên 22,7 tỷ đồng năm 1995), tốc độ tăng bình quân trong 5 năm 1990-1994 là 218%/năm(2). Nguồn vốn thành phố quản lý và làm chủ đầu tư trong 5 năm là 110 tỷ đồng, tăng bình quân hằng năm 55,48%. Riêng năm 1995, thành phố cũng đã chi 18,5 tỷ đồng cho xây dựng cơ bản, đồng thời tập trung cải tạo hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng cho dân cư và công cộng, duy tu bảo

(1) Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo xử lý các điểm nóng chính trị từ năm 1990 đến 1992, ngày 10 tháng 6 năm 1992”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.(2) Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng: “Báo cáo về kinh tế - xã hội 5 năm 1990-1994 và định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1995-2000”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 206: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

206

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

dưỡng một số tuyến đường như Hoàng Diệu, Phan Thanh, Lê Độ, Quang Trung, nâng cấp hệ thống thông tin liên lạc, cải tạo xây dựng trường học, bệnh viện.

Đặc biệt, cuối năm 1995, Thành ủy Đà Nẵng tiến hành thông tuyến đường Đông - Tây (tức Nguyễn Văn Linh ngày nay), tuyến đường trọng điểm của thành phố lúc bấy giờ. Để thực hiện công trình này, Đà Nẵng đã phải hoàn thành di dời, giải tỏa 585 hộ thuộc phường Nam Dương và xem đây là điểm đột phá cho việc chỉnh trang đô thị; lập lại kỷ cương trong việc quản lý nhà đất, tăng cường chỉ đạo thực hiện xóa đói giảm nghèo, đẩy mạnh chống tham nhũng của thành phố. Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng cũng đã phê duyệt Đề án quản lý và phát triển đô thị Đà Nẵng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2000 và triển khai thực hiện mang lại kết quả bước đầu. Công tác quy hoạch đô thị đã được chú trọng, các nguồn vốn đầu tư từ viện trợ, từ ngân sách Trung ương, ngân sách tỉnh và vốn đóng góp của nhân dân đã được ưu tiên tập trung giải quyết cho các công trình cải tạo và nâng cấp kết cấu hạ tầng đô thị(1).

Ngày 29 tháng 3 năm 1995, nhân Lễ Kỷ niệm 20 năm Ngày thành phố Đà Nẵng được giải phóng, tại trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đã tổ chức lễ mít tinh kỷ niệm; đồng thời tổ chức lễ mít tinh di động ở nhiều địa phương - từng là nơi bám trụ của cán bộ, đảng viên thuộc Thành ủy Đà Nẵng trong kháng chiến, nhằm tri ân và ôn lại truyền thống. Cũng trong năm này, niềm phấn khởi và tự hào của Đảng bộ và nhân dân thành phố được nhân lên khi ngày 20 tháng 8 năm 1995, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” trong hai cuộc kháng chiến, cứu nước.

Về sự nghiệp văn hóa - xã hội, thành phố cũng đã có nhiều biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển

(1) Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng: “Báo cáo tình hình thực hiện các mặt công tác năm 1995 và phương hướng nhiệm vụ năm 1996”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 207: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

207

sản xuất, kinh doanh; tranh thủ các nguồn vay nhà nước, đầu tư nước ngoài, trích ngân sách của thành phố, vận động sự giúp đỡ lẫn nhau trong nhân dân, tạo ra vốn giải quyết việc làm, đồng thời mở các trung tâm, cơ sở dạy nghề cho hàng ngàn người. Trong 5 năm 1992-1996, Đà Nẵng đã giải quyết được 26.500 lao động có việc làm, cho vay quỹ xóa đói giảm nghèo gần 8.600 lượt hộ, giảm được hộ đói nghèo xuống còn 10%.

Công tác đền ơn đáp nghĩa và quan tâm đến các đối tượng chính sách được làm tốt. Có 100% Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ở Đà Nẵng được phụng dưỡng. Tính đến cuối năm 1995, thành phố đã lập được 342 sổ tiết kiệm, với 162,4 triệu đồng tặng cho các mẹ, xây dựng được 102 ngôi nhà tình nghĩa. Các chương trình y tế quốc gia, dân số kế hoạch hóa gia đình được triển khai thực hiện tốt. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được cải thiện; tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên của Đà Nẵng giảm từ 1,92% năm 1991 xuống còn 1,52% năm 1995.

Ngành giáo dục - đào tạo có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng dạy và học, phát triển đa dạng các loại hình giáo dục theo hướng xã hội hóa. Công tác xóa mù chữ và phổ cập cấp I được coi trọng. Việc mở các lớp dạy xóa mù chữ, chống tái mù chữ, các lớp học tình thương, các lớp dành cho trẻ em khuyết tật được chú trọng. Từ năm 1993, ở Đà Nẵng đã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục và chống mù chữ. Nhìn chung, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân Đà Nẵng bước đầu được cải thiện đáng kể. Kết quả điều tra một số phường ở Đà Nẵng lúc bấy giờ cho thấy: Cứ 2 hộ thì có 1 xe gắn máy, 9/10 hộ có ti vi, 9,5/10 hộ có cát-xét, 5 người dân có 1 người đi học, 100% số phường có trạm y tế, 1 vạn dân có 48 giường bệnh, 100 người có 7 máy điện thoại, 90% hộ dân có điện sinh hoạt(1).

(1) Tỷ lệ này ở Hòa Vang là: có 70,5% số hộ có nhà ngói, 100% xã có trạm y tế, 17/19 xã có điện với 79,7% hộ sử dụng điện, 5,8 hộ gia đình có 1 xe máy, 3,7 hộ có ti vi, 67 máy điện thoại trên 1 vạn dân.

Page 208: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

208

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Về quốc phòng - an ninh, thành phố đã kịp thời chỉ đạo các đảng bộ, chi bộ, các ngành chức năng phối hợp chủ động đấu tranh ngăn chặn không để xảy ra điểm nóng. Kịp thời xử lý các tình huống phức tạp, làm thất bại âm mưu phá hoại của địch, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Xử lý và khắc phục các hiện tượng tiêu cực, đấu tranh có hiệu quả các loại tội phạm nghiêm trọng, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, xây dựng các khu vực phòng thủ, xây dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân, thực hiện tốt kế hoạch tuyển quân và huấn luyện, diễn tập quân sự hằng năm, làm tốt công tác hậu phương quân đội. Coi trọng công tác xây dựng Đảng, đoàn trong lực lượng dân quân tự vệ. Trong 5 năm 1992-1996, Đà Nẵng đã xây dựng lực lượng tự vệ có quân số 1,8% lên 2,07% so với số dân, đầu tư cho các công trình phòng thủ 2 tỷ đồng.

Công tác xây dựng Đảng được đặc biệt chú ý. Đảng bộ Đà Nẵng hết sức quan tâm đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, thể hiện được chức năng lãnh đạo chính trị đối với các cơ quan trong hệ thống chính trị. Đã chú trọng công tác tư tưởng, tổ chức, quán triệt các Nghị quyết của Đảng, tiếp tục đổi mới tư duy, phong cách lãnh đạo, khắc phục biểu hiện bảo thủ, trì trệ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Luôn quán triệt tinh thần cảnh giác đối với mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” và hoạt động chống đối, phá hoại của các thế lực thù địch. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 về “Đổi mới và chỉnh đốn Đảng”, Chỉ thị số 14 của Bộ Chính trị, Thành ủy và Huyện ủy tiến hành củng cố và kiện toàn tổ chức Đảng. Qua phân loại hằng năm, số đảng viên đủ tư cách phát huy tác dụng tốt (loại I) ở Đà Nẵng chiếm tỷ lệ ngày càng cao(1), số đơn vị trong sạch vững mạnh cũng tăng(2), trong cả nhiệm kỳ Đảng bộ phát triển được 652 đảng viên.

(1) Năm 1993 là 59,4%, năm 1994 là 70,5%, năm 1995 là 74,7%.(2) Năm 1993 là 86,74%, năm 1994 là 89,69%, năm 1995 là 95,8%

Page 209: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

209

Bộ máy chính quyền ở Đà Nẵng được tinh giản. Tổ chức và hoạt động các cơ quan chính quyền được đổi mới và cải tiến theo hướng quản lý xã hội bằng pháp luật. Các kỳ họp Hội đồng nhân dân thành phố có tiến bộ, đã cụ thể hóa chủ trương của Đảng và nhà nước, quyết định các vấn đề quan trọng, những yêu cầu thiết thực của nhân dân, đồng thời trách nhiệm giám sát của Hội đồng nhân dân trong việc thi hành pháp luật và các nghị quyết do Hội đồng đề ra được tăng cường và có kết quả tốt. Hoạt động quản lý điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp nhìn chung có chuyển biến, thực hiện tốt chức năng của mình trong việc cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và Nhà nước, phân định rõ giữa quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh. Các cơ quan chú ý đến việc tiếp dân, giải quyết đơn khiếu tố, lề lối làm việc giữa cấp ủy, chính quyền và đoàn thể được cải thiện, không chồng chéo lên nhau. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm. Ngoài việc gửi cán bộ đi học ở trường Đảng, trường hành chính, thành phố và huyện còn chủ động mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn, trang bị kiến thức cho cán bộ, công chức các phòng, ban và các phường, xã.

Mặt trận và các đoàn thể ở Đà Nẵng cũng thể hiện được tính độc lập trong tổ chức và hoạt động, từng bước kiện toàn tổ chức và cán bộ, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, làm tốt chức năng vận động quần chúng thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các phong trào quần chúng được duy trì và phát triển đã đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn như phong trào “nông dân sản xuất giỏi” trong nông nghiệp; phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất, chất lượng hiệu quả trong các nhà máy, xí nghiệp; phong trào “thi đua quyết thắng” trong lực lượng vũ trang; phong trào “vì an ninh Tổ quốc” trong lực lượng công an; phong trào thi đua “2 tốt” trong ngành giáo dục; phong trào “cứu trợ nhân đạo” của Hội chữ thập đỏ; phong trào xóa đói giảm nghèo của Ủy ban Mặt

Page 210: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

210

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

trận Tổ quốc... Nét nổi bật là các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện đã được phát huy có kết quả, yếu tố gia đình trong xã hội được quan tâm hơn trước.

Nhìn lại khoảng thời gian 5 năm 1992-1996, thành phố Đà Nẵng đã có những chuyển biến quan trọng: Tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập tính theo đầu người tăng, các ngành kinh tế có tốc độ phát triển khá, xây dựng cơ bản đã được quan tâm nhiều hơn, hoạt động của các ngành lao động, thương binh và xã hội, văn hóa, y tế, giáo dục ngày một nâng cao. Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được ổn định và cải thiện một bước. Thành phố và huyện đã bước ra khỏi khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, thành phố vẫn còn những yếu kém như: Kinh tế tuy có phát triển nhưng tốc độ còn chậm, thiếu vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa theo kịp tốc độ phát triển chung của cả nước. Đời sống nhân dân còn thấp so với nhiều nơi có cùng chung một điều kiện, số lao động thiếu việc làm còn nhiều. Kết cấu hạ tầng đô thị xuống cấp, không theo kịp yêu cầu phát triển của thành phố. Về văn hóa - xã hội còn nhiều mặt yếu kém trong lãnh đạo và quản lý. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể từ thành phố xuống cơ sở tuy có đổi mới và cải tiến nhưng chưa thực sự vững mạnh, chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới hiện nay.

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG TRỞ THÀNH “VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN” THEO MỤC TIÊU CHUNG CỦA ĐẢNG

Từ sau Đại hội lần thứ V của Đảng bộ Đà Nẵng, tình hình Đà Nẵng bắt đầu có những chuyển biến mới. Trung ương và tỉnh quan tâm, đầu tư nhiều hơn cho Đà Nẵng, nhất là việc đặt vấn đề xem xét cho thành phố Đà Nẵng trở thành một đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương hoặc một Đặc khu hành chính - kinh tế.

Page 211: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

211

Vào năm 1991, ở Quảng Nam - Đà Nẵng, đã có ý kiến đề nghị nên chia tách Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Ngày 19 tháng 3 năm 1992, đồng chí Phạm Văn Đồng - Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến làm việc với Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng. Sau khi nghe đồng chí Bí thư Thành ủy báo cáo tình hình, Cố vấn Phạm Văn Đồng cho rằng: Với cơ chế thành phố trực thuộc tỉnh, Đà Nẵng có nhiều vướng mắc trong tổ chức quản lý và phát triển kinh tế song muốn trở thành thành phố trực thuộc Trung ương hay Đặc khu hành chính - kinh tế, Đà Nẵng cần có bước đi thích hợp, nhất là việc xác định đúng vị trí, vai trò của Đà Nẵng đối với khu vực và cả nước, bởi Đà Nẵng từng là thành phố lớn thứ hai của miền Nam. Cuối cùng, đồng chí Phạm Văn Đồng kết luận: Tôi sẽ có ý kiến đề xuất với Trung ương Đảng và Chính phủ, để tạo điều kiện cho thành phố Đà Nẵng phát triển, xứng đáng với vị trí, tiềm năng của mình!.

Tiếp đó, ngày 24 và 25 tháng 4 năm 1992, đồng chí Võ Văn Kiệt, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến thăm và làm việc với tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Kết luận tại buổi làm việc, đồng chí Võ Văn Kiệt đã nhắc đến việc cần phải xem xét để cho Đà Nẵng “có một cơ chế riêng” hoặc trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.

Thời gian này, là thời điểm khởi sắc mạnh mẽ của việc thu hút đầu tư bên ngoài để phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội của cả nước, nhất là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Trong khi đó, Đà Nẵng mới chỉ có người Đài Loan xin được đầu tư xây dựng Xí nghiệp đóng giày Quốc Bảo (ở Quận III cũ) và người Nhật xin được đầu tư mở cửa hàng ăn uống từ cơ sở quốc doanh Kim Đình, cạnh bờ sông Hàn và đổi thành “HaNa Kim Đình”. Mong muốn Đà Nẵng có một cơ chế là thành phố trực thuộc Trung ương hoặc là Đặc khu hành chính - kinh tế là ước muốn của Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng, nhất là đối với thành phố Đà Nẵng.

Page 212: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

212

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Trên cơ sở kiến nghị của địa phương và sự quan tâm của đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 344 về cơ chế đặc biệt đối với thành phố Đà Nẵng - một trong các đơn vị được xếp vào Đô thị loại II của cả nước. Theo quy chế đó, thành phố Đà Nẵng được thực hiện nhiệm vụ của một cấp kế hoạch và ngân sách, cùng với tỉnh bảo vệ kế hoạch đó với Trung ương. Tuy nhiên, quy chế đặc biệt ấy vẫn không thể thoát khỏi các quy định của hệ thống luật pháp, quá trình triển khai thực hiện đã gặp không ít khó khăn, trở ngại từ sự chủ quan của các Bộ, các Sở từ Trung ương xuống địa phương. Với Quy chế 344, Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố đã tổ chức 11 Ban và 4 cơ quan chuyên trách gồm Văn phòng Ủy ban nhân dân, Trọng tài kinh tế thành phố, Thanh tra Nhà nước thành phố và dự kiến có Văn phòng kiến trúc sư trưởng thành phố nhưng không thành lập được.

Từ Quy chế 344, việc phân cấp quản lý cho thành phố được nới rộng thêm trên một số mặt như: Được quản lý về nhà và đất ở trong các khu dân cư; được điều tiết các khoản thu với tỷ lệ khá hơn, được hưởng 50% số thu vượt kế hoạch. Cũng nhờ nguồn thu có tăng, năm 1993, thành phố giành được 2 tỷ đồng cho vốn vay xóa đói, giảm nghèo; năm 1994 nguồn vốn đó tăng lên 4 tỷ đồng từ ngân sách và khoảng 2 tỷ đồng từ vốn vay trong nhân dân, do các đoàn thể ở các phường và thành phố tổ chức vận động. Đồng thời, với cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo, Thành ủy thông qua Hội đồng nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở thành phố cùng với Đảng ủy và các tổ chức trong hệ thống chính trị, đã phát động sâu rộng các phong trào đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, xây dựng tình nghĩa đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ.

Đây là những bước đi đầu tiên về việc tự chủ thực hiện một số nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng, kể từ sau khi có kiến nghị về một cơ chế đặc thù đối với thành phố tại Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IV (tháng 5

Page 213: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

213

năm 1989). Lúc này, cơ chế của một thành phố trực thuộc tỉnh đã trở nên chật chội đối với một cơ thể cường tráng đang vươn mình đi lên như thành phố Đà Nẵng. Nhờ những chủ trương trên, cùng với quá trình thực hiện đường lối Đổi Mới, tình hình kinh tế của Đà Nẵng có bước phát triển nhanh. Vì vậy Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng đã đặt ra một nhiệm vụ chiến lược: Phải tạo một cơ chế để thành phố Đà Nẵng bứt phá đi lên, xứng đáng là vai trò động lực của khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Trước tình hình đó, trong lúc các Đảng bộ cơ sở tiến hành Đại hội các cấp hướng tới Đại hội lần thứ VIII của Đảng theo Chỉ thị số 51 của Ban Bí thư; ngày 03 tháng 8 năm 1995, đồng chí Võ Văn Kiệt - Thủ tướng Chính phủ về làm việc với Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, các đồng chí Thường trực Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng được mời tham dự. Tại buổi làm việc này, một lần nữa, vấn đề chia tách Đà Nẵng thành một đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương lại được đặt ra, Thủ tướng Võ Văn Kiệt nêu ý kiến: Đà Nẵng đã nhiều lần được xác định là trung tâm kinh tế - khoa học - kỹ thuật ở miền Trung; Trung ương Đảng và Chính phủ đã từng giao nhiệm vụ đó, nhưng Đà Nẵng không phát triển mạnh được là do cơ chế tổ chức chưa phù hợp, bây giờ không thể nhập nhằng được nữa, phải tính đến Đà Nẵng là một đơn vị hành chính - kinh tế trực thuộc Trung ương. Đây là ý kiến quan trọng, đặt nền móng cho Đà Nẵng trở thành một thành phố trực thuộc Trung ương sau này.

Vấn đề chia tách tỉnh cũng được các Đại biểu Quốc hội của đơn vị tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nêu lên trong các phiên họp của Quốc hội. Đồng chí Nguyễn Bá Thanh trong kỳ họp Quốc hội ngày 07 tháng 3 năm 1996 về quản lý đô thị đã đề nghị: “Cơ chế hiện nay của Đà Nẵng giống như một huyện ở nông thôn, trong các văn bản ghi là huyện, thành nhưng gọi chung là huyện và giao nhiệm vụ cho chính quyền đô thị hết sức nặng nề nhưng

Page 214: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

214

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

quyền hạn thì quá ít. Một số chương trình mục tiêu ít được đến đô thị, tôi nghĩ vấn đề sốt rét, bướu cổ ở miền núi chứ đâu ở đô thị nhiều nhưng chống mại dâm nằm ngay ở đô thị lớn nhưng kinh phí đã chia 5 xẻ 7 rồi không ra làm sao. Dưới đó, từng tổ dân phố họ mới biết chỗ nào là mại dâm, chính quyền địa phương nơi đó phải chịu trách nhiệm về điều đó thì lại không được cấp, được rót mà cứ phân tán như thế. Cứ để như thế này thì Đà Nẵng đã 20 năm rồi, chúng tôi nói rằng cơ chế này chỉ múa gậy dưới gầm giường thôi. Đã loại 1 là một chứ không thể 1,5 nữa, ngân sách cũng vậy”(1).

Thời gian này, tại Đà Nẵng, sau khi các phường đã tổ chức xong Đại hội Đảng bộ các cấp. Từ ngày 11 đến 13 tháng 3 năm 1996, Thành ủy Đà Nẵng tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ VI. Đại hội có 249 đại biểu thay mặt 6.800 đảng viên đang sinh hoạt ở 94 tổ chức cơ sở Đảng trong thành phố về dự.

Trong Báo cáo chính trị trình trước Đại hội đã nhận định: Thời gian qua, trong sự nghiệp Đổi Mới, dưới sự lãnh đạo của Trung ương, Tỉnh ủy, Đảng bộ Đà Nẵng đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, nhiều chủ trương, chính sách đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Đời sống kinh tế xã hội được nâng lên. Tuy nhiên, trong lãnh đạo điều hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, thành phố không tránh khỏi những ngỡ ngàng, có lúc phải trả giá, nhất là vào những năm đầu nửa nhiệm kỳ, sau hậu quả của tín dụng Thành Công chưa giải quyết được triệt để, thì những phát sinh mới về nhà và đất cũng đã gây những ảnh hưởng không tốt đến uy tín trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và sự phát triển chung của thành phố. Mặt khác, do cơ chế cấp quản lý thành phố chưa phù hợp nên sự đầu tư ngân sách nhà nước cho thành phố còn ít, không đáp ứng nhu cầu phát triển trong tình hình mới.

(1) Văn phòng Quốc hội: “Bản tổng hợp thảo luận tại Hội trường về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1995 và triển khai nhiệm vụ năm 1996”, tr.26.

Page 215: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

215

Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân, thành phố đã đạt được những tiến bộ mới. Thành phố thực hiện bước đầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong việc phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế, vượt qua giai đoạn khủng hoảng của thời kỳ 1986-1990, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn so với những năm trước, nhất là vào những năm cuối nhiệm kỳ, nhiều chỉ tiêu tăng cao hơn so với mức bình quân của tỉnh. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên địa bàn tăng bình quân hằng năm 10,98%, riêng năm 1995 tăng 14,54%. Tổng giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân mỗi năm 11,9%, khai thác thủy sản hằng năm đạt 15.500-17.000 tấn. Nông nghiệp hằng năm tăng 2,81%. Thương mại - dịch vụ - du lịch phát triển tốt. Quản lý đô thị và xây dựng cơ sở hạ tầng đã đi vào ổn định và phát triển. Thực hiện tương đối tốt công tác xã hội như: Xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, công tác kế hoạch hóa gia đình, các chương trình y tế quốc gia, các yêu cầu bức thiết về giáo dục như việc học ca ba, xóa mù, phổ cập tiểu học. Văn hóa, văn nghệ, báo chí, truyền thanh, thể dục - thể thao ngày càng có nhiều hoạt động đa dạng. Quốc phòng - an ninh được đảm bảo, chính trị ổn định, nền dân chủ được mở rộng, sức dân được khơi dậy và huy động có hiệu quả phục vụ việc phát triển kinh tế - xã hội. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Hệ thống chính trị được củng cố, thực hiện chức năng nhiệm vụ có tiến bộ và đạt được hiệu quả, hoạt động của bộ máy dần dần đi vào nền nếp, công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức Đảng có tiến bộ, đạt được một số yêu cầu như Nghị quyết III của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) đề ra.

Để có được những thành tích trên, cần phải xác định và đánh giá đúng vị trí, tính chất, quy mô và tiềm năng của thành phố để có cơ chế quản lý và đầu tư tương xứng. Luôn coi trọng tăng trưởng kinh tế đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội cấp bách. Đã khai thác, huy động và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả

Page 216: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

216

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

nguồn lực (nhân tài, vật lực) trên địa bàn. Mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần được thông tin và giải thích cho nhân dân. Trong Đảng phải chăm lo việc đoàn kết nội bộ, nêu cao nguyên tắc tập trung dân chủ, cá nhân phụ trách. Phải bố trí cán bộ đúng người, đúng việc. Đó là những bài học kinh nghiệm được Đảng bộ rút ra trong nhiệm kỳ qua.

Tuy nhiên, tốc độ phát triển kinh tế còn chậm, chưa vững chắc. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp còn nhỏ bé và đang gặp khó khăn về thị trường, vốn, thiết bị cộng nghệ, chưa đủ sức cạnh tranh với hàng trong nước và hàng ngoại nhập. Ngành hải sản chưa tương xứng là ngành mũi nhọn. Thương mại, du lịch, dịch vụ chưa trở thành nhân tố kích thích sản xuất, chưa có sự phối hợp để khai thác tiềm năng kinh tế, thực hiện liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trên địa bàn. Ngân sách căng thẳng, phải cân đối thu chi trong mức hạn hẹp. Kinh tế đối ngoại kém phát triển, chưa huy động được mọi nguồn lực. Quản lý đô thị còn lúng túng, hạ tầng cơ sở xuống cấp.

Về văn hóa - xã hội, trong lãnh đạo và quản lý còn nhiều mặt yếu kém, tình hình diễn biến phức tạp. Các tệ nạn xã hội ngày càng biến tướng tinh vi. Giải quyết việc làm còn khó, còn 7% số hộ còn đói nghèo. Đối tượng hưởng chính sách vẫn nghèo khó. Cơ sở y tế, giáo dục còn thiếu thốn, quản lý chưa tốt. Tình trạng mất cảnh giác của một số cán bộ đảng viên trước âm mưu “diễn biến hòa bình” còn khá phổ biến. Kết hợp giữa phát triển kinh tế và quốc phòng an ninh có nơi, có lúc chưa nhất quán. Xây dựng quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân thiếu vững chắc. Năng lực và hiệu quả hoạt động của một số cơ quan nội chính còn yếu. Bộ máy chính quyền từ thành phố đến cơ sở chưa thật mạnh. Công tác xây dựng Đảng còn nhiều tồn tại và khuyết điểm.

Trên cơ sở đánh giá tình hình của nhiệm kỳ qua, Đại hội lần VI của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1996-2000 với nhiệm vụ tổng quát: “Xây dựng thành phố Đà Nẵng (bao gồm cả vùng phụ

Page 217: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

217

cận, theo Quyết định số 607/TTG ngày 20 tháng 12 năm 1993 của Thủ tưởng chính phủ) đúng với vị trí trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của tỉnh và khu vực miền Trung. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ sở hạ tầng đồng bộ, quốc phòng - an ninh vững mạnh. Đời sống các tầng lớp dân cư được cải thiện. Bộ máy nhà nước từ thành phố đến cơ sở thực hiện tốt chức năng quản lý, các đoàn thể được củng cố vững mạnh làm chỗ dựa vững chắc thực hiện chính sách đại đoàn kết các dân tộc. Đảng bộ vững mạnh cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị”(1).

Đại hội đã đề ra những mục tiêu chủ yếu và giải pháp thực hiện:

Về kinh tế: Xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng “công nghiệp, thủy sản, thương mại, du lịch - dịch vụ”, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, phấn đấu tốc độ bình quân hằng năm của thời kỳ 1996-2000 về các chỉ tiêu: Tổng giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân hằng năm trên 20%. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 18-20%. Thu nhập bình quân GDP đầu người đến năm 2000 đạt từ 900-1.000 USD trở lên. Tăng giá trị xuất khẩu hằng năm từ 20%-25%, trong đó giá trị thủy sản xuất khẩu chiếm 80%. Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt 25% khai thác thủy sản đạt 20.000 tấn/năm. Huy động vốn để phát triển kinh tế - xã hội cả thời kỳ đạt 8.125 tỷ đồng (tương đương 753 triệu USD), trong đó nguồn vốn trong nước đầu tư trên địa bàn phấn đấu đạt trên 50%.

Để thực hiện các mục tiêu trên, cần phát triển các lĩnh vực kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao gồm các vấn đề sau như: Đầu tư chiều sâu để hiện đại hóa thiết bị kỹ thuật ở các cơ sở sản xuất công nghiệp hiện có với những quy

(1) Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: “Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ VI (1996 - 2000)”, tr. 27-28. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 218: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

218

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

trình công nghiệp tiên tiến. Xây dựng một số chương trình trọng điểm để phát triển theo hướng tập trung vào công nghiệp chế biến, gia công hàng xuất khẩu, hàng thay thế hàng nhập, đầu tư vào các ngành điện tử, tin học và các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Tổ chức sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, tăng cường các sản phẩm đã qua tinh chế. Chú ý đầu tư các ngành may mặc, giày da, chế biến hải sản, phát triển nghề cá nhân dân. Khuyến khích ngư dân bỏ vốn đầu tư và tạo điều kiện cho họ vay vốn để đóng mới, sửa chữa tàu thuyền có công suất lớn, trang bị phương tiện hiện đại. Tổ chức lại thương nghiệp quốc dân, xây dựng mới các trung tâm thương nghiệp, các siêu thị. Đầu tư cho việc phát triển du lịch và dịch vụ để đủ sức cạnh tranh và mở rộng thị trường, mở rộng các điểm vui chơi, giải trí gắn liền với việc hình thành các khu du lịch quốc tế và nội địa. Huy động mọi nguồn lực trong nhân dân để đẩy mạnh việc phát triển kinh tế theo hướng sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Tăng cường mở rộng nguồn thu, chống thất thu thuế, làm tốt công tác quản lý thị trường và các hoạt động về tài chính, thuế vụ. Tranh thủ tối đa vốn của Trung ương, tỉnh và nước ngoài.

Về chính sách xã hội: Tạo bước chuyển biến mới về các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, văn nghệ, báo chí, phát thanh, truyền hình, thể dục, thể thao. Tiếp tục thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo. Đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu, tiêu xài lãng phí và các tệ nạn xã hội, lập lại kỷ cương pháp luật, phấn đấu cho sự tiến bộ công bằng trong đời sống xã hội. Phấn đấu đạt các chỉ tiêu đến năm 2000 phổ cập trung học cơ sở trong độ tuổi, xóa hoàn toàn lớp học ca ba vào năm học 1997-1998 và 100% số phường hoàn thành chỉ tiêu xóa mù vào năm 1996, giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động hằng năm từ 10.000-12.000 người. Đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo để năm 1997 không còn hộ đói, năm 2000 còn dưới 5% số hộ nghèo.

Nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội nêu trên, đồng chí Nguyễn Bá Thanh, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy

Page 219: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

219

ban nhân dân thành phố, thay mặt Ủy ban nhân dân nêu ra những giải pháp bảo đảm thực hiện thắng lợi.

Về huy động và sử dụng vốn đầu tư: Nhu cầu vốn đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội và phát triển đô thị ở Đà Nẵng trong 5 năm tới cần khoảng 8.125 tỷ đồng tương đương 735 triệu USD, bình quân hằng năm cần khoảng 147 triệu USD, trong đó nguồn vốn trong nước 50%, ngoài nước 50%. Phấn đấu hằng năm ngân sách dành 25-30% các khoản thu thuế và lệ phí để đầu tư cho phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng đô thị. Thực hiện chủ trương “xã hội hóa” trong đầu tư phát triển để huy động vốn, nhất là trong giáo dục, y tế, văn hóa. Phấn đấu đạt tỷ lệ 20% vốn nhân dân đóng góp vào lĩnh vực này hằng năm.

Dùng vốn ngân sách, vốn ODA, vốn tín dụng và vốn huy động trong dân sử dụng xây dựng cơ sở hạ tầng: Các nút giao thông, hoàn chỉnh và mở rộng các tuyến đường, phát triển thêm mạng thông tin vô tuyến điện, điện thoại, dịch vụ truyền thông, đầu tư xây dựng hệ thống điện chiếu sáng công cộng, nâng cấp nhà máy nước, hệ thống thoát nước. Mở rộng và đa dạng hóa các loại hình sản xuất kinh doanh, tranh thủ hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết, vay vốn để mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, khuyến khích huy động vốn đầu tư trong dân, mọi thành phần kinh tế, kể cả Việt kiều để phát triển sản xuất, thay đổi công nghệ, chuẩn bị tốt các dự án và môi trường để thu hút đầu tư vào các khu chế xuất, công nghiệp, thương mại, du lịch.

Về đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường: Chú ý thu hút vốn đầu tư vào phát triển và thay đổi công nghệ sản xuất bằng các thiết bị hiện đại, vừa tận dụng các thiết bị thích hợp, phù hợp với nguồn tài chính, đảm bảo được hiệu quả đầu tư để nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Phát triển công nghệ nhiều trình độ, nhiều quy mô khác nhau, tranh thủ một số công nghệ tiên tiến được lựa chọn để đầu tư, chú ý công nghệ ít vốn, thu hồi vốn nhanh và giải quyết được việc làm, đưa nhanh tin học vào công tác quản lý kinh tế - xã hội. Hướng sự phát triển công nghệ vào

Page 220: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

220

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

một số ngành như chế biến nông lâm thủy sản, gia công may mặc, chế biến thực phẩm, sản phẩm cơ khí, cơ điện. Xây dựng trung tâm tư vấn đầu tư, trung tâm chuyển giao công nghệ bậc cao để tìm đối tác, hướng dẫn đầu tư. Nâng cao năng lực tiếp thị xuất phát từ nhu cầu thị trường trong nước, mặt hàng xuất khẩu và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp để mở rộng thị trường. Thông qua thông tin, quảng cáo để tiếp thị. Tăng cường công tác quản lý nhà nước chống buôn lậu, hàng giả, lành mạnh hóa quan hệ thị trường trong cạnh tranh sản xuất kinh doanh. Huy động sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Sắp xếp đổi mới hoạt động các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn, kết hợp tốt giữa kinh tế Trung ương, kinh tế tỉnh và kinh tế thành phố trên cơ sở quy hoạch và phát triển theo quy hoạch được phê duyệt. Củng cố kinh tế tập thể, khuyến khích kinh tế tư nhân và kinh tế hộ gia đình phát triển những ngành nghề luật pháp không cấm. Kết hợp tốt phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng - an ninh.

Đại hội đã nghe ý kiến chỉ đạo của đồng chí Mai Thúc Lân, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về một số vấn đề cấp bách đang đặt ra đối với thành phố Đà Nẵng. Đồng chí đánh giá cao những cố gắng của Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng đã khắc phục khó khăn vươn lên bắt kịp với công cuộc đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Đồng chí cũng chỉ ra những nhược điểm: Kinh tế - xã hội thành phố phát triển còn chậm, chưa tương xứng với vị trí tiềm năng và sự cố gắng của Đảng bộ. Tư tưởng trông chờ ỷ lại sự đầu tư của Nhà nước trong cán bộ và nhân dân, những khuyết điểm trong lãnh đạo làm hạn chế bước phát triển của thành phố. Sự phối hợp giữa thành phố, tỉnh và các đơn vị kinh tế Trung ương đóng trên địa bàn chưa đồng bộ. Môi trường đô thị và nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết. Đà Nẵng có nhiều lợi thế phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, nhất là các lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông - lâm, hải

Page 221: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

221

sản, coi trọng nghề cá, phát triển du lịch song việc phát huy lợi thế này chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng gồm 35 đồng chí, do đồng chí Phan Như Lâm làm Bí thư, đồng chí Ngô Văn Chờ, Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Nguyễn Bá Thanh, Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố.

Trước đó, từ ngày 08 đến ngày 09 tháng 02 năm 1996, Đại hội lần thứ XII của Đảng bộ Hòa Vang được tiến hành. Đại hội có mặt 250 đại biểu đảng viên trên tổng số 250 đại biểu đảng viên được triệu tập. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Hòa Vang gồm 35 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Đán làm Bí thư, đồng chí Trần Thọ và Lê Kim Ngân - Phó Bí thư.

Từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 4 năm 1996, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng tiến hành Đại hội lần thứ XVI. Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị về kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội XV và đề ra phương hướng nhiệm kỳ 1996-2000 như sau: “Trên cơ sở tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới của Đảng, cần động viên toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong tỉnh nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, ra sức khai thác thuận lợi, nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường công tác xây dựng Đảng, thực hiện cải cách hành chính, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội, cùng với cả nước chuyển sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(1). Đồng thời, Đại hội nêu những chỉ tiêu cụ thể và Báo cáo giải trình về tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000 do đồng chí Trương Quang Được - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trình bày.

Về vai trò thành phố Đà Nẵng, trong Báo cáo giải trình của Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ghi rõ: “Trong chiến lược của vùng

(1) Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: “Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVI”, 1996, tr.40.

Page 222: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

222

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

đồng bằng ven biển cũng như chiến lược chung của tỉnh và của miền Trung nổi lên vai trò trung tâm của thành phố Đà Nẵng. Hiện tại không gian đô thị của Đà Nẵng đã trở nên chật hẹp. Với tư cách là một trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch - dịch vụ, văn hóa, chính trị, đòi hỏi phải mở rộng không gian đô thị và khẩn trương hiện đại hóa thành phố Đà Nẵng. Là một đô thị hạt nhân, vùng động lực thúc đẩy cho cả tỉnh và cả khu vực, Đà Nẵng phải được mạnh lên về kinh tế và văn hóa, đủ sức lan tỏa và sức thu hút. Tìm cơ chế phù hợp hơn để không kìm hãm và nâng cấp Đà Nẵng đang là một yêu cầu khách quan bức xúc”(1).

Như vậy, từ ý kiến của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta cũng như các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đều mong muốn Trung ương xem xét, cho Đà Nẵng có được cơ chế là thành phố trực thuộc Trung ương. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ, đồng thời, cho thấy điều kiện để Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương đã trở nên chín muồi. Như đã nói, đầu năm 1996, trong một cuộc làm việc với lãnh đạo tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã phát biểu: “Tôi tán thành việc để thành phố Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương”. Tuy nhiên, Bộ Chính trị chưa có ý kiến về vấn đề này và Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI vào tháng 4 năm 1996 vẫn được tiến hành như kế hoạch.

Mong muốn từ lâu của Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng đã trở thành hiện thực song vấn đề chia tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng không đơn giản như nhiều người nghĩ. Bởi, một số tỉnh khác đã được chia tách thì địa giới hành chính và lực lượng cán bộ ở những nơi này đã được xác định khá rõ như: Hải Hưng là Hải Dương, Hưng Yên; Hà Bắc là Bắc Giang, Bắc Ninh; Nam Hà là Hà Nam, Nam Định... Nay các tỉnh này chia ra thì hầu như không có vướng mắc gì về địa giới, nhân sự. Riêng Quảng Nam

(1) Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: tlđd, 1996, tr.74.

Page 223: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

223

- Đà Nẵng thì điện của Bộ Chính trị đồng ý chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam, còn việc phân định thế nào thì do tỉnh đề xuất. Cái khó là cần phải mở rộng địa giới thành phố thế nào cho hợp lý để có điều kiện phát triển; mặt khác cũng bảo đảm cho Quảng Nam không quá khó khăn là vấn đề không đơn giản, bởi vì đây không phải chỉ là vấn đề quyền lợi đơn thuần mà còn là vấn đề tình cảm, tâm lý của cán bộ và nhân dân trong tỉnh… Đến đây, ước vọng Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương sắp trở thành hiện thực.

* **

Từ năm 1990 đến năm 1996, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, thành phố Đà Nẵng không ngừng được phát triển về mọi mặt, đặt nền móng vững chắc cho việc Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương sau này.

Trong những năm tháng khó khăn gian khổ đó, nhất là thời gian thành phố phát triển trong điều kiện thị trường xuất nhập khẩu sang các nước Đông Âu và Liên Xô không còn nữa; đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, thiếu thốn, trong khi các thế lực bên ngoài không ngừng đánh phá công cuộc xây dựng quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng trong thời kỳ Đổi Mới, do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Tuy nhiên, Đà Nẵng đã đạt được những thành tựu quan trọng: Cơ sở hạ tầng của thành phố được nâng cấp; quan hệ đối ngoại, tìm kiếm thị trường không ngừng tăng lên, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện; Trung ương và các bộ, ngành quan tâm một cách sâu sắc đến sự phát triển của Đà Nẵng, đặt Đà Nẵng trong vị thế là “vùng trọng điểm của miền Trung - Tây Nguyên”… Tất cả những nhân tố đó đã dần xác lập vị trí, vai trò của Đà Nẵng ngày một rõ ràng hơn đối với cả nước và khu vực, điều đó cũng phù hợp với nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ.

Page 224: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 225: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

Phần hai

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG THỜI KỲTRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

(1997 - 2015)

Page 226: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 227: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

227

Chương Năm

NHỮNG NĂM ĐẦU THÀNH PHỐĐÀ NẴNG TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

(1997 - 2000)

I. BƯỚC CHUYỂN MÌNH CỦA MỘT THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

Bốn năm cuối cùng của thế kỷ XX, có ý nghĩa rất quan trọng đối với lịch sử Đà Nẵng nói chung và lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng nói riêng. Đây là giai đoạn có tính chất bản lề giữa hai chặng đường phát triển của thành phố “đầu biển cuối sông” kể từ ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Chặng đường đầu tiên là giai đoạn của một đô thị loại II cùng với huyện đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép và huyện nông thôn Hòa Vang đa phần là rừng núi. Chặng đường thứ hai là giai đoạn của một đô thị loại I - thành phố trực thuộc Trung ương đang vươn lên trở thành “một chấm son trên bản đồ Tổ quốc” - đúng như mong muốn của Bác Hồ khi nghĩ về mảnh đất này.

Những thành tựu đạt được trong hơn 10 năm đổi mới của Đảng, đã tạo nên thế và lực mới để nước ta bước vào một giai đoạn mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vị thế Việt Nam được nâng cao trong khu vực và trên thế giới.

Page 228: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

228

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Trong bối cảnh đó, thành phố Đà Nẵng cũng từng bước chuyển mình đi lên. Vai trò của Đà Nẵng ngày càng được khẳng định đối với sự phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Trước yêu cầu mới của tình hình, Đà Nẵng cần có chính sách, cơ chế đồng bộ riêng để bức phá đi lên. Đồng thời, thể theo nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, ngay từ Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng vào tháng 5 năm 1989, đã kiến nghị với Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng cho phép thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương; nếu chưa đủ điều kiện thì cho Đà Nẵng trở thành Đặc khu kinh tế của duyên hải miền Trung hoặc Khu kinh tế mở.

Tiếp tục tinh thần đã được kiến nghị của Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng, Đại hội lần thứ XV Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (từ ngày 16 đến 19 tháng 10 năm 1991), đã đề nghị Trung ương cho tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương. Nếu chưa tách thì cho một quy chế của Đặc khu kinh tế. Tiếp theo đó, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (khóa XVI) được tổ chức tại thành phố Đà Nẵng (là Đại hội cuối cùng của Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng), diễn ra từ ngày 23 đến 27 tháng 4 năm 1996, đã kiến nghị chia tách Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam.

Ngày 08 tháng 10 năm 1996, đồng chí Mai Thúc Lân - Bí thư Tỉnh ủy, nhận được Công điện số 75/CCHC/TW của Trung ương nêu rõ: Bộ Chính trị đã có Thông báo số 06/TB-TW ngày 07 tháng 10 năm 1996 về việc nhất trí chia tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh ủy phải chỉ đạo hoàn tất thủ tục để kịp trình Quốc hội quyết định trong cuộc họp giữa tháng 10 này.

Với tinh thần rất khẩn trương, ngày 09 tháng 10 năm 1996, Thường trực Tỉnh uỷ đã có cuộc họp liên tịch với Thường trực Hội đồng nhân dân, Thường trực Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt

Page 229: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

229

trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh để bàn việc triển khai Công điện của Trung ương về chia tách tỉnh. Vấn đề được đặt ra cấp thiết nhất là chia tách địa giới hành chính của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng theo phương án nào là thích hợp nhất để trình lên Quốc hội. Lúc này, có 4 phương án chia tách được đặt ra để tạo nên địa giới hành chính phù hợp với một Đà Nẵng trực thuộc Trung ương:

+ Gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại và các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, thị xã Hội An.

+ Gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa.

+ Gồm thành phố Đà Nẵng và thêm một số xã phụ cận của Hòa Vang và Điện Bàn.

+ Gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại và các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên, thị xã Hội An.

Trong thảo luận, có ý kiến đề nghị chia thành Quảng Nam và Quảng Đà như trước khi giải phóng và địa bàn Đặc khu Quảng Đà trước đây sẽ gọi là thành phố Đà Nẵng - bao gồm cả huyện đảo Hoàng Sa. Vì có quá nhiều phương án và ý kiến thảo luận cũng rất khác nhau, nên Thường trực Tỉnh ủy kết luận chỉ chọn phương án 1 và 2, là hai phương án có tính hợp lý và khả thi hơn cả, đồng thời giao Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh phân tích cụ thể hai phương án trên để Hội nghị liên tịch tiếp tục làm việc.

Ngày 11 tháng 10 năm 1996, Hội nghị Tỉnh uỷ đã nghe Uỷ ban nhân dân trình bày 2 phương án được xem là hợp lý nhất. Theo đó, Tỉnh uỷ đã biểu quyết chọn phương án 2 (tức gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa); đồng thời, giao Uỷ ban nhân dân tiếp tục chuẩn bị, hoàn thiện cả hai phương án trên để trình Hội đồng nhân dân.

Ngày 12 tháng 10 năm 1996, Hội đồng nhân dân tỉnh đã họp (bất thường) để thảo luận và biểu quyết phương án chia tách.

Page 230: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

230

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Cuối cùng, Hội đồng nhân dân thống nhất chọn phương án được xem là tối ưu: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương được hình thành từ ba đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng gồm thành phố tỉnh lỵ “Đà Nẵng 3 khu vực”, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa, đồng thời nhất trí lấy thị xã Tam Kỳ làm tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam.

Tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 10 (khóa IX), diễn ra từ ngày 15 tháng 10 đến ngày 12 tháng 11 năm 1996, đã bàn nhiều việc quan trọng của đất nước. Đặc biệt, ngày 06 tháng 11 năm 1996, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết “Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh”. Trong đó xác định: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương có 7 đơn vị hành chính gồm: Các quận Hải Châu, Liên Chiểu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa; có diện tích 942,46 km2, với số dân 663.115 người(1). Thành phố Đà Nẵng chính thức trực thuộc Trung ương vào ngày 01 tháng 01 năm 1997.

Theo đó, để tạo sự thông suốt về tư tưởng, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng đã ra Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thực hiện chủ trương chia tách tỉnh, nhằm tạo tâm lý phấn khởi, làm rõ ý nghĩa mục đích của việc chia tách trong toàn Đảng bộ và nhân dân. Nghị quyết nêu rõ: “Xuất phát từ yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và quản lý nhà nước trong giai đoạn mới, Bộ Chính trị đã có chủ trương và Kỳ họp lần thứ 10 của Quốc hội (khóa IX) đã thông qua Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, được tách thành 2 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương: Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Việc chia tách

(1) Đây là diện tích đất liền, kể cả diện tích của huyện đảo Hoàng Sa là 1283,4 km2. Trong quá trình thảo luận để Quốc hội ban hành Nghị quyết, lúc đầu quận Hải Châu được đề xuất là quận Sông Hàn, quận Liên Chiểu được đề xuất là quận Hải Vân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân có tính chất lịch sử, cuối cùng Nghị quyết thống nhất lấy tên là quận Hải Châu và quận Liên Chiểu.

Page 231: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

231

tỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển năng động của thành phố Đà Nẵng sớm vươn lên thành trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung, đồng thời khai thác được tiềm năng, thế mạnh và phát huy được nội lực của cả địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(1).

Trong công tác tư tưởng, Tỉnh ủy yêu cầu: “Các cấp ủy, chính quyền, các ngành và đoàn thể cần làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền quán triệt làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ yêu cầu khách quan và những lợi ích của việc chia tách tỉnh theo chủ trương của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt, cần làm rõ cơ sở khách quan, quy trình các bước công việc trong chọn lựa phương án phân định địa giới hành chính của thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam để cán bộ, đảng viên và nhân dân thông suốt. Trên cơ sở đó, tạo được sự nhất trí cao trong toàn Đảng bộ về chủ trương của Trung ương, nêu cao tinh thần đoàn kết, phát huy truyền thống của quê hương, thực hiện thắng lợi việc chia tách tỉnh. Đồng thời, nghiêm khắc phê phán những tư tưởng cục bộ địa phương, khắc phục tư tưởng ngại khó, giữ nghiêm kỷ luật chấp hành Nghị quyết trong đảng viên và cán bộ. Đồng thời cần đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy năng lực nội tại để giải quyết khó khăn, mặt khác cần ưu tiên những điều kiện thuận lợi cho tỉnh Quảng Nam.

Trong công tác tổ chức và cán bộ, cần quán triệt tinh thần đổi mới và chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy Đảng, chính quyền và các đoàn thể gọn nhẹ, có hiệu quả và hiệu lực cao. Không nhất thiết tỉnh hiện nay có sở, ban, ngành nào thì thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam cũng phải có đủ các sở, ban, ngành đó. Việc bố trí lại cán bộ phải đảm bảo cơ cấu hợp lý, vừa đáp ứng được yêu cầu trước mắt

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thực hiện chủ trương chia tách tỉnh”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 232: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

232

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

nhưng cũng vừa đảm bảo tính kế thừa, liên tục trong công tác cán bộ. Việc phân công, bố trí cán bộ phải đảm bảo sự cân đối về năng lực, trình độ, tuổi tác, sức khỏe, phải chọn được những hạt nhân nòng cốt. Cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo phải tuyệt đối phục tùng sự phân công và điều động của Đảng”(1).

Trên cơ sở kiến nghị của Đảng bộ và nhân dân thành phố, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội “Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh” ngày 06 tháng 11 năm 1996; để hợp thức hóa về mặt hành chính, Chính phủ ra Nghị định số 7/1997/NĐ-CP, ngày 23 tháng 01 năm 1997 “Về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng”. Nghị định nêu rõ:

+ Thành lập quận Hải Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các phường: Hải Châu I, Hải Châu II, Thạch Thang, Thanh Bình, Thuận Phước, Bình Thuận, Hòa Thuận, Nam Dương, Phước Ninh, Bình Hiên, Hòa Cường, Khuê Trung (thuộc Khu vực I thành phố Đà Nẵng cũ). Quận Hải Châu có 2.373 ha diện tích tự nhiên và 203.264 nhân khẩu, gồm 12 phường. Địa giới hành chính quận Hải Châu: Đông giáp quận Sơn Trà; Tây và Bắc giáp quận Thanh Khê; Nam giáp huyện Hòa Vang.

+ Thành lập quận Thanh Khê trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các phường: An Khê, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà, Tam Thuận, Chính Gián, Thạc Gián, Tân Chính, Vĩnh Trung (thuộc Khu vực II thành phố Đà Nẵng cũ). Quận Thanh Khê có 928 ha diện tích tự nhiên và 146.241 nhân khẩu, gồm 8 phường. Địa giới hành chính quận Thanh Khê: Đông và Nam giáp quận Hải Châu; Tây giáp huyện Hòa Vang; Bắc giáp vịnh Đà Nẵng.

+ Thành lập quận Sơn Trà trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số các phường An Hải Tây, An Hải Bắc, An Hải Đông, Nại Hiên Đông, Mân Thái, Phước Mỹ, Thọ Quang (thuộc

(1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thực hiện chủ trương chia tách tỉnh”, tlđd.

Page 233: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

233

Khu vực III, thành phố Đà Nẵng cũ). Quận Sơn Trà có 5.972 ha diện tích tự nhiên và 96.756 nhân khẩu, gồm 7 phường. Địa giới hành chính quận Sơn Trà: Đông và Bắc giáp biển Đông; Tây giáp quận Hải Châu; Nam giáp quận Ngũ Hành Sơn.

+ Thành lập quận Ngũ Hành Sơn trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của phường Bắc Mỹ An (thuộc Khu vực III, thành phố Đà Nẵng cũ) và hai xã Hòa Quý, Hòa Hải (thuộc huyện Hòa Vang cũ)(1). Quận Ngũ Hành Sơn có 3.672 ha diện tích tự nhiên và 32.533 nhân khẩu gồm 3 phường: Bắc Mỹ An, Hòa Quý và Hòa Hải. Địa giới hành chính quận Ngũ Hành Sơn: Đông giáp biển Đông; Tây giáp huyện Hòa Vang; Nam giáp tỉnh Quảng Nam; Bắc giáp quận Sơn Trà.

+ Thành lập quận Liên Chiểu trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã Hòa Hiệp, Hòa Khánh, Hòa Minh (thuộc huyện Hòa Vang cũ)(2). Quận Liên Chiểu có 7.572 ha diện tích tự nhiên và 52.279 nhân khẩu, gồm 3 phường: Hòa Hiệp, Hòa Khánh và Hòa Minh. Địa giới hành chính quận Liên Chiểu: Đông giáp biển Đông; Tây giáp huyện Hòa Vang; Nam giáp quận huyện Hòa Vang; Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế.

+ Huyện Hòa Vang: Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Hòa Vang có 73.749 ha diện tích tự nhiên và 132.042 nhân khẩu, gồm 14 xã: Hòa Tiến, Hòa Sơn, Hòa Phát, Hòa Thọ, Hòa Châu, Hòa Phước, Hòa Liên, Hòa Xuân, Hòa Nhơn, Hòa Phong, Hòa Khương, Hòa Bắc, Hòa Ninh, Hòa Phú. Địa giới hành chính

(1) Trong đó, thành lập phường Hòa Quý trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Quý gồm 1.351 ha và 8.793 nhân khẩu; thành lập phường Hòa Hải trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Hải gồm 1.412 ha và 9.618 nhân khẩu.(2) Trong đó, thành lập phường Hòa Hiệp trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Hiệp gồm 5.015 ha và 20.565 nhân khẩu; thành lập phường Hòa Khánh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Khánh gồm 1.840 ha và 21.844 nhân khẩu; thành lập phường Hòa Minh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Minh gồm 717 ha và 9.870 nhân khẩu.

Page 234: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

234

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

huyện Hòa Vang: Đông giáp quận Liên Chiểu, Thanh Khê, Hải Châu, Ngũ Hành Sơn; Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam; Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế.

+ Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính thành phố, Đà Nẵng có 5 quận và 2 huyện: quận Hải Châu, quận Thanh Khê, quận Sơn Trà, quận Ngũ Hành Sơn, quận Liên Chiểu, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa.

Như vậy, thành phố Đà Nẵng chính thức trực thuộc Trung ương vào ngày 01 tháng 01 năm 1997 theo Nghị quyết ngày 06 tháng 11 năm 1996 của Quốc hội “Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh”, đồng thời được Thủ tướng Chính phủ ban hành chính thức về quản lý hành chính bằng Nghị định số 7/1997/NĐ-CP, ngày 23 tháng 01 năm 1997 “Về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng”. Lúc mới trực thuộc Trung ương, thành phố Đà Nẵng gồm có 5 quận là: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn và 2 huyện là: Hòa Vang, Hoàng Sa. Việc Đà Nẵng tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương là một tất yếu khách quan trong lịch sử phát triển của đất nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng.

Theo đó, Đảng bộ lâm thời Thành ủy Đà Nẵng được thành lập theo Quyết định (chỉ định) của Bộ Chính trị số 122-QĐNS/TW, ngày 12 tháng 12 năm 1996 (khóa VIII). Lúc này, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời gồm 31 đồng chí. Đồng chí Trương Quang Được - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, được Trung ương chỉ định làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng lâm thời, các đồng chí Phan Như Lâm(1), Nguyễn Bá Thanh(2) làm Phó Bí thư Thành uỷ. Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã nhanh

(1) Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng, Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng (cũ).(2) Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (cũ).

Page 235: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

235

chóng đi vào hoạt động, tích cực chuẩn bị cho Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng vào cuối tháng 10 năm 1997.

Tính đến cuối năm 1996, cả nước chỉ có ba thành phố trực thuộc Trung ương: Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hải Phòng. Đầu năm 1997, Đà Nẵng được tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng để trở thành thành phố thứ tư trực thuộc Trung ương. Trong lịch sử, Đà Nẵng từng trực thuộc Trung Kỳ/ Trung Bộ theo Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và “Đà Nẵng 3 quận” từng là một thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương ở Sài Gòn trong giai đoạn 1954-1975. Tuy nhiên, trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong một đất nước độc lập, thống nhất, trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ mới (thế kỷ XXI) là bước chuyển mình đầy ấn tượng của Đà Nẵng trong tiến trình lịch sử.

Từ khi thành phố kiến nghị được chia tách tỉnh (tháng 5 năm 1989) đến khi chính thức trở thành thành phố trực thuộc Trung ương (ngày 01 tháng 01 năm 1997) cũng là khoảng thời gian Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng nói riêng và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung chuẩn bị cho mình một tâm thế cũng như những phương án chia tách tỉnh, chính vì vậy chỉ trong một thời gian rất ngắn đã nhanh chóng thống nhất được một phương án chia tách tối ưu trình Quốc hội xem xét, thông qua. Đây là một sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển của Đà Nẵng sau này.

Thành phố Đà Nẵng mới, trực thuộc Trung ương có một số đặc thù về lịch sử, địa lý và trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động mà Đảng bộ thành phố đã xác định để có hướng quy hoạch, phát triển trong thời gian tới.

Thứ nhất, tính đến cuối năm 1996, huyện Hòa Vang thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng là huyện được chia tách nhiều nhất để thành lập các quận mới và cho đến nay là huyện duy nhất chưa có thị trấn huyện lỵ. Một lần nữa, lịch sử lại giao phó cho

Page 236: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

236

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Hòa Vang sứ mệnh phải xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, xây dựng quê hương tiến lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối với huyện đảo Hoàng Sa, chuyển từ trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng sang trực thuộc thành phố Đà Nẵng. Thời điểm này (1997) đã là 23 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm trái phép toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, khiến Đà Nẵng trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh “duy nhất” trong cả nước còn nguyên một huyện bị ngoại bang xâm chiếm.

Thứ hai, sau khi thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương, so với các tỉnh, thành khác trong cả nước, thì chính quyền thành phố Đà Nẵng quản lý một quy mô dân số hết sức vừa phải: 663.115 nhân khẩu, với số đầu mối quận huyện, xã phường cũng rất gọn: 5 quận, 2 huyện và 33 phường, 14 xã. Chính đặc thù “hết sức vừa phải” và “rất gọn” này là tiền đề quan trọng để chính quyền Đà Nẵng có thể tập trung đẩy mạnh quy mô và tiến độ đô thị hóa - điều khó khả thi trong bối cảnh một thành phố trực thuộc tỉnh như trước năm 1997. Tuy nhiên, việc thành phố Đà Nẵng ít dân và có diện tích nhỏ hẹp cũng là một khó khăn, thử thách trong việc hướng đến xây dựng một thành phố lớn, là thành phố động lực của khu vực miền Trung như thị trường nhỏ hẹp, tài nguyên đất có hạn, quy mô nền kinh tế nhỏ… Nhưng xét nhiều mặt thì thực trạng dân số Đà Nẵng thập niên vừa qua vẫn phải được xem là ưu thế, là lợi thế so sánh, nhất là trong việc xử lý những vấn nạn của đô thị như giải quyết việc làm, phát triển nghề nghiệp và định hướng sinh kế.

Thứ ba, thời điểm thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương vào đầu năm 1997, rơi vào thời điểm khởi đầu thời kỳ suy giảm của nền kinh tế đất nước kéo dài đến hết thế kỷ XX: “Giai đoạn từ 1991 đến 1996, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng từ năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế châu Á năm 1997-1999, tốc độ tăng trưởng GDP giảm dần, năm 1999 chỉ còn 4,9% so với 9,5% năm 1996. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên nhưng chưa

Page 237: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

237

cao và vững chắc”(1). Bởi vậy, ra riêng trong một cục diện kinh tế suy thoái như vậy, Đà Nẵng khó có thể bứt phá để nhanh chóng cải thiện điểm xuất phát thấp của mình ngay từ những năm đầu chia tách. Tuy nhiên, thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực trực thuộc Trung ương đã mở ra thời kỳ mới, thành phố có nhiều điều kiện hơn trong việc phát huy các tiềm năng, thế mạnh vốn có để phát triển thành vùng động lực thúc đẩy khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Ngày 17 tháng 02 năm 1997, tại Đà Nẵng, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam và Thành ủy lâm thời Đà Nẵng tổ chức Hội nghị liên tịch để giải quyết một số vấn đề liên quan sau khi tách tỉnh. Tại hội nghị, các đồng chí lãnh đạo hai địa phương bàn bạc, thảo luận và đi đến thống nhất cách giải quyết một số vấn đề tồn đọng trong quá trình thực hiện chủ trương tách tỉnh. Hội nghị dưới sự chủ trì của Bí thư Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Quảng Nam là đồng chí Mai Thúc Lân; Bí thư Thành ủy lâm thời thành phố Đà Nẵng là đồng chí Trương Quang Được.

Hầu hết các ý kiến tại Hội nghị đều cho rằng: “Quảng Nam và Đà Nẵng cùng có trách nhiệm và phối hợp chặt chẽ trong việc chuẩn bị tổng kết công tác binh vận; sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, chung cho cả hai địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng; lãnh đạo hai địa phương cùng quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt một số công việc quan trọng như: Biên soạn địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng; xuất bản cuốn Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (có bổ sung, chỉnh lý qua lần xuất bản sơ thảo), phân chia tài chính Đảng, về tổ chức gặp mặt các đồng chí cán bộ được Đảng cử ở lại hoạt động giai đoạn 1954-1959, về quy trình tổ chức lễ tiễn đưa các cơ quan Quảng Nam vào tỉnh lỵ Tam Kỳ, sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước. Đồng chí Mai Thúc Lân nhấn mạnh: Quảng Nam và Đà Nẵng mãi mãi giữ vững truyền

(1) Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.16.

Page 238: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

238

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thống đoàn kết, tình anh em và hỗ trợ tích cực lẫn nhau cùng phát triển”(1).

Sáng ngày 21 tháng 02 năm 1997, tại tiền sảnh Nhà hát Trưng Vương - thành phố Đà Nẵng, Thành ủy Đà Nẵng tổ chức long trọng lễ đưa tiễn các cơ quan tỉnh Quảng Nam vào làm việc tại tỉnh lỵ Tam Kỳ. Đồng thời, Thành ủy Đà Nẵng tiến hành thành lập, sắp xếp lại bộ máy lãnh đạo ở các quận, huyện để thống nhất hoạt động, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.

Với phương châm: “Chia tỉnh nhưng không chia tình”, “Tuy hai mà một, tuy một mà hai”, chia tách là để mỗi đơn vị hành chính có điều kiện phát triển chứ không quên những hành động tốt đẹp khi cùng chung một tỉnh. Trong buổi lễ, lãnh đạo của hai đơn vị tiễn đưa nhau vào Tam Kỳ trong tình cảm lưu luyến, bùi ngùi và luôn cố gắng thực hiện khẩu hiệu: “Đà Nẵng luôn luôn nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn”. Từ đó về sau, do Quảng Nam là tỉnh mới chia tách nên còn gặp nhiều khó khăn, nên hằng năm Đà Nẵng luôn hỗ trợ bằng nhiều hình thức khác nhau, để Quảng Nam giảm bớt một phần khó khăn và có điều kiện phát triển tốt hơn. Mối quan hệ hợp tác giữa Đà Nẵng và Quảng Nam được minh chứng sinh động qua Chương trình hợp tác, hỗ trợ giữa hai địa phương theo Kết luận số 08-KL/TUĐN-TUQN của Thành ủy Đà Nẵng và Tỉnh ủy Quảng Nam, bắt dầu triển khai từ năm 2008, thể hiện tinh thần “chia mà không tách”, hỗ trợ cùng nhau phát triển(2).

Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương đã đem lại một khí thế mới, tinh thần phấn khởi cho toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới. Ngay từ đầu năm 1997, các cấp ủy đảng, chính quyền, các tầng lớp nhân dân

(1) Báo Quảng Nam, số ra ngày 18 tháng 02 năm 1997.(2) Từ năm 2008 đến năm 2020, thành phố Đà Nẵng cam kết hỗ trợ tỉnh Quảng Nam mỗi năm 15 tỷ đồng với phần lớn dành để xây dựng nhà cửa cho đối tượng chính sách, hộ nghèo, đầu tư giáo dục; xúc tiến kết nối các chương trình văn hóa, lễ hội, xây dựng hạ tầng giao thông.

Page 239: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

239

thành phố đã cùng ra sức, khắc phục khó khăn, phát huy truyền thống đoàn kết, tập trung sức triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, đoàn thể.

Ngay sau khi được thành lập và đi vào hoạt động, với quyết tâm sớm ổn định tổ chức bộ máy và cán bộ, đảm bảo mọi hoạt động bình thường trên địa bàn thành phố, Ban Chấp hành lâm thời đã họp bàn phân công các đồng chí trong Ban Thường vụ, các Ủy viên Ban Chấp hành, thông qua quy chế làm việc của Ban Chấp hành. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ban Thường vụ Thành ủy lâm thời đã tiến hành bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo các sở, ban, ngành, hình thành Ban Chấp hành lâm thời của các Hội, đoàn thể thành phố; chỉ đạo Hội đồng nhân dân thành phố họp bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các Ban của Hội đồng nhân dân, Hội thẩm nhân dân và thông qua Kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1997. Thường vụ Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố đã ra quyết định chỉ định thành lập Ban Chấp hành lâm thời các Quận ủy và Ủy ban nhân dân lâm thời; thành lập Ban Cán sự Đảng các sở, ban, ngành, Đảng đoàn Mặt trận và các đoàn thể, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình chỉ đạo các mặt công tác của thành phố.

Đến đầu quý 2 năm 1997, bộ máy tổ chức các cấp, các ngành đã đi vào hoạt động ổn định. Công tác quản lý đảng viên, củng cố tổ chức cơ sở Đảng được tăng cường, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng được giữ vững. Ban Thường vụ Thành ủy đã ra quyết định “thành lập 24 cơ quan Đảng, đoàn thể chính trị - xã hội, hội quần chúng trực thuộc Thành ủy; thành lập 4 Đảng bộ (Quân sự, Công an, Biên phòng, Dân chính Đảng), 20 Ban cán sự, 6 Đảng đoàn cấp thành phố; đề bạt, bổ nhiệm, phân công 8 đồng chí cấp trưởng, 36 đồng chí cấp phó các sở, ban, ngành và tương đương cấp thành phố. Trên cơ sở tổng biên chế do Trung ương phân bổ, Ban Thường vụ đã chỉ đạo phân bổ biên chế cho khối Đảng, đoàn thể, giao kế hoạch tài chính Đảng năm 1997 cho các quận ủy, huyện ủy, đồng thời tổ chức quán triệt các chuyên đề

Page 240: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

240

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng”(1). Trong thời gian 9 tháng đầu năm 1997, Ban Chấp hành lâm thời thành phố đã họp 4 lần, Ban Thường vụ họp 16 lần. Trong các cuộc họp đó, vấn đề quan trọng, được thảo luận nhiều hơn cả là bàn chuyên đề về công tác cán bộ và kiện toàn tổ chức bộ máy từ thành phố đến cơ sở; về công tác chuẩn bị bầu cử và nhân sự đại biểu Quốc hội (khóa X), đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, các chức danh chủ chốt Ủy ban nhân dân thành phố, trước khi tiến hành Đại hội chính thức.

Nhìn chung, khi chia tách thành phố trực thuộc Trung ương, việc triển khai thực hiện chủ trương của Trung ương ở Đảng bộ thành phố đảm bảo yêu cầu đề ra. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố phấn khởi, tin tưởng vào khả năng phát triển của thành phố. Hầu hết cán bộ, nhân viên khối hành chính sự nghiệp đều được phân công nhiệm vụ và yên tâm nhận công tác mới. Tổ chức bộ máy và nhân sự của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội ở các quận mới được hình thành, đi vào hoạt động đạt một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện không tránh khỏi lúng túng. Việc hình thành bộ máy các sở, ban, ngành ở thành phố và 5 quận mới gặp nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện đội ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa không đồng bộ cả về trình độ chuyên môn và cơ cấu; cơ sở vật chất, phương tiện làm việc còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.

Vị thế mới của thành phố đã mang lại niềm phấn khởi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; thành phố Đà Nẵng có thêm sức thu hút trên một số lĩnh vực nhất định, đồng thời cũng có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tranh thủ sự quan tâm trực tiếp của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương và sự phối hợp của các địa phương bạn. Việc khai thác và phát huy

(1) Ban Chấp hành lâm thời Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số 05-BC/TU, ngày 08 tháng 4 năm 1997 về tình hình công tác quý I năm 1997 và kế hoạch công tác quý 2”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 241: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

241

nội lực của thành phố được tăng cường, sự đầu tư của nhân dân cho sản xuất kinh doanh, nâng cấp cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị cũng phát triển mạnh hơn.

Trong bối cảnh đó, từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 10 năm 1997, Đại hội lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng được tổ chức. Đây là “Đại hội mang tính kế thừa 16 nhiệm kỳ đại hội của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, đồng thời là đại hội đặt cột mốc đầu tiên trên chặng đường phát triển mới của thành phố”(1). Tham dự Đại hội có 259 đại biểu thay mặt cho hơn 21.000 đảng viên ở 7 đảng bộ quận, huyện và 12 đảng bộ trực thuộc. Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị về đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XVI và tập trung trí tuệ phân tích thực trạng, triển vọng và những vấn đề mới nảy sinh, đề ra phương hướng phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị cho các năm 1997-2000.

Vấn đề cấp thiết được đặt ra tại Đại hội là làm thế nào để Đà Nẵng phải phát triển nhanh, tăng trưởng mạnh và cất cánh đi lên, xứng tầm là một thành phố trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên, Đảng bộ lâm thời Đà Nẵng đã tập trung sức lực, trí tuệ để giải quyết nhiều vấn đề cấp thiết lúc bấy giờ là: Ổn định cơ cấu, bộ máy; vạch ra các phương hướng thiết thực cho sự phát triển kinh tế; tập trung nguồn lực cho sự quy hoạch, phát triển đô thị.

Báo cáo chính trị của Đại Hội nêu rõ những thành tựu quan trọng trong 5 năm cuối cùng trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Đà Nẵng đã có những sự phát triển khá toàn diện về mọi mặt.

Về kinh tế, giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp quốc doanh Trung ương và công nghiệp ngoài quốc doanh, kim ngạch xuất khẩu đều tăng trên 13,%. Các ngành điện, nước, thực phẩm, dệt may tăng trưởng khá. Mạng lưới điện thoại, bưu chính viễn thông tiếp tục được hiện đại hóa.

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: sđd, 2013, tr. 44.

Page 242: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

242

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Hoạt động thương mại - dịch vụ, du lịch, tài chính, ngân hàng, kinh tế đối ngoại từng bước được củng cố.

Về văn hóa - xã hội, Thành ủy quán triệt và vận dụng Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) vào việc định ra các chủ trương, chính sách của thành phố, đạt nhiều kết quả khả quan. Thành ủy đã có chủ trương thể chế hóa lĩnh vực khoa học, công nghệ thành các chương trình lớn để thực hiện. Các ngành giáo dục - đào tạo, hoạt động văn hóa văn nghệ, báo chí xuất bản có nhiều tiến bộ. Nhiều hoạt động xã hội như giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, bài trừ tệ nạn xã hội có những chuyển biến. Thành phố chăm lo thực hiện chế độ cho các đối tượng chính sách. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm lo sức khỏe nhân dân có hiệu quả và được cải thiện rõ nét.

Về quốc phòng - an ninh, tiếp tục động viên nhân dân tích cực tham gia củng cố thế trận quốc phòng toàn dân. Kết hợp xây dựng, phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh. Thường xuyên tiến hành phối hợp hoạt động giữa các lực lượng vũ trang với các đoàn thể chính trị xã hội, làm tốt công tác vận động quần chúng.

Về công tác xây dựng Đảng, Thành ủy tiếp tục thực hiện đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII); tổ chức học tập các Nghị quyết của Đảng, tạo sự nhất trí cao với chủ trương chia tách tỉnh, động viên cán bộ khắc phục khó khăn, đẩy mạnh các mặt hoạt động. Thành ủy kiện toàn hệ thống chính trị gồm cơ quan đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể từ thành phố đến các quận, huyện. Đảng bộ đã lãnh đạo việc tổ chức đại hội các đoàn thể, chỉ đạo tổng kết thực tiễn phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tổng kết Nghị quyết số 24/NQ-TW của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo, triển khai Chỉ thị số 62/CT-TW của Ban Bí thư (khóa VII). Mặt trận và đoàn thể các cấp có nhiều cố gắng ổn định bộ máy, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp thêm được nhiều quần chúng vào tổ chức.

Page 243: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

243

Báo cáo xác định tư tưởng chỉ đạo phát triển Đà Nẵng là theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; chú trọng phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với củng cố quan hệ sản xuất mới, năng động đi đôi với kỷ cương, tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, đô thị hóa gắn với bảo đảm môi trường sinh thái, môi trường nhân văn. Đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, chọn các ngành sản xuất chế biến hàng xuất khẩu là chính, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng mạnh, bền vững, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập. Huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Tích cực khai thác và phát huy năng lực nội sinh, đi đôi với tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, coi khoa học công nghệ và giáo dục là động lực phát triển. Gắn phát triển kinh tế - xã hội với giữ vững quốc phòng - an ninh, củng cố hệ thống chính trị.

Đại hội đề ra phương hướng chung phát triển thành phố trong 4 năm 1997-2000 là: Khắc phục khó khăn, khai thác mọi tiềm năng và lợi thế, huy động mọi nguồn lực, lấy “phát triển kinh tế làm trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, giải quyết tốt những vấn đề xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh vững mạnh, phát huy sức mạnh tổng hợp và ý chí tự lực, tự cường của khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng thành phố Đà Nẵng phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Đại hội đã nhất trí thông qua các chỉ tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội đến cuối năm 2000 là: “Tốc độ tăng GDP bình quân hằng năm 15-16%, đến cuối năm 2000 đạt mức GDP bình quân đầu người khoảng 700 USD. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân từ 18-20%/năm. Giá trị thương mại, du lịch, dịch vụ tăng 16-17%/năm; trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 27-28%. Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp tăng bình quân

Page 244: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

244

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

hằng năm 5-6%/năm. Thu ngân sách địa phương tăng bình quân trên 12%/năm. Giảm tỷ suất sinh bình quân 0,06%/năm. Giảm hộ nghèo còn 2% vào cuối năm 2000”(1).

Để đạt được những mục tiêu nêu trên, Đại hội đề ra những nhiệm vụ và giải pháp sau:

Thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững, nhằm phát triển kinh tế thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu kinh tế là: công nghiệp - thương mại, du lịch, dịch vụ - nông nghiệp (bao gồm cả lâm - ngư nghiệp), đến cuối năm 2000 đạt tỷ trọng tương ứng 36,6% - 56,7% - 6,7%. Phát triển thương mại - du lịch - dịch vụ, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng bình quân 16-17%/năm. Phát triển mạnh dịch vụ cảng biển, nâng công suất cụm cảng tổng hợp Đà Nẵng, trong đó riêng Cảng Tiên Sa đạt 3 triệu tấn/năm vào cuối năm 2000. Phấn đấu đưa giá trị sản lượng thủy sản - nông - lâm tăng từ 5-6%/năm. Về lâm nghiệp, đẩy mạnh giao đất, giao rừng gắn với định canh, định cư và Chương trình 327. Mở rộng hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại, phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao hiệu quả các hoạt động tài chính - ngân hàng. Củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác đa dạng trong các ngành và lĩnh vực kinh tế theo tinh thần của Chỉ thị số 68/CT-TW.

Phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế - xã hội. Để làm cho giáo dục - đào tạo thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Nỗ lực giải quyết tốt hơn những vấn đề văn hóa - xã hội với tăng cường kinh tế. Tăng cường hiệu lực quản lý các hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản, phát thanh - truyền hình theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phấn đấu không còn hộ đói, giảm hộ nghèo từ 8% xuống còn 2% vào cuối năm 2000, mỗi năm ít nhất có thêm 16.000 lao động có việc làm, nâng cao dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt cho người nghèo. Đảm bảo vững chắc quốc

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: tlđd, tr. 59.

Page 245: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

245

phòng - an ninh. Kết hợp quốc phòng - an ninh với kinh tế trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp, phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và hội quần chúng. Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, lấy xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ (khóa XVII) gồm 45 đồng chí. Ngay sau khi có kết quả bầu Ban Chấp hành chính thức, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố (khóa XVII) họp phiên đầu tiên để bầu Ban Thường vụ Thành ủy; bầu Bí thư, các Phó Bí thư và bầu Ủy Ban Kiểm tra Thành ủy. Với tinh thần dân chủ, đoàn kết, Ban Chấp hành mới đã bầu Ban Thường vụ Thành ủy (khóa XVII) gồm 11 đồng chí, trong đó đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đại biểu Quốc hội khoá X, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố được bầu lại làm Bí thư Thành ủy, đồng chí Phan Như Lâm và đồng chí Nguyễn Bá Thanh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố được bầu lại làm Phó Bí thư Thành ủy; bầu vào Uỷ ban Kiểm tra Thành uỷ gồm 9 đồng chí do đồng chí Phùng Văn Thành - Uỷ viên Ban Thường vụ (khoá XVII) làm Chủ nhiệm. Đến tháng 02 năm 2000, đồng chí Phan Diễn - Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương, được Bộ Chính trị phân công về giữ chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng thay cho đồng chí Trương Quang Được đi nhận công tác ở Trung ương. Lúc này, đồng chí Phan Như Lâm - Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ, đảm nhận chức vụ Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố.

Đại hội đại biểu lần thứ XVII của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã đưa ra những vấn đề cốt lõi, bằng mọi biện pháp tích cực, các bước đi thích hợp, phát huy cao hơn, hiểu quả hơn mọi tiềm năng và lực lượng để thành phố phát triển với tốc độ nhanh và bền chắc, sớm vươn lên xứng đáng với vai trò của một trung tâm về nhiều mặt ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây

Page 246: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

246

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Nguyên. Đại hội có ý nghĩa lịch sử to lớn, là niềm vui, nguồn cổ vũ lớn lao đối với toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân thành phố, mở ra một thời kỳ phát triển mới với vị thế của một thành phố trực thuộc Trung ương.

II. TẠO ĐỘNG LỰC ĐỂ VƯƠN LÊN, TRỞ THÀNH MỘT ĐÔ THỊ HIỆN ĐẠI TRƯỚC THỀM THIÊN NIÊN KỶ MỚI

Trong bốn năm cuối cùng của thế kỷ XX, kể từ khi thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương, toàn thể Đảng bộ và nhân dân thành phố được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, sự hợp tác hỗ trợ của bàn bè gần xa, Thành ủy Đà Nẵng (khóa XVII) đã lãnh đạo thành phố phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, đạt được những thành tựu quan trọng, đáng tự hào trong công cuộc xây dựng thành phố và xây dựng Đảng bộ, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước, xứng đáng với tiềm năng, vị trí của mình, cùng cả nước tiến vào thế kỷ XXI.

Trong hoàn cảnh Đà Nẵng so với các thành phố lớn trong nước, điểm xuất phát kinh tế ở mức thấp, cơ sở vật chất còn hạn chế, sức cạnh tranh hàng hóa còn yếu, đặc biệt sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, tình hình thiên tai diễn ra dồn dập song Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ: “Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) 1997-2000 bình quân hằng năm tăng 10,19% (bằng 1,47 lần so với mức bình quân chung cả nước). Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 18,96%; dịch vụ tăng 6,95%; nông - lâm - thủy sản tăng 3,83%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tương đối tỷ trọng nông nghiệp, phù hợp với xu thế chung của cả nước và các đô thị lớn. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ 35,31% năm 1997 đã tăng lên 40,75% năm 2000; tỷ trọng dịch vụ đạt 51,7%; nông - lâm - thủy sản từ 9,7% giảm xuống 7,6%. Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. Kim ngạch xuất khẩu

Page 247: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

247

tăng bình quân hằng năm 17,79%. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng bình quân hằng năm 7,54%, chiếm 22% so với tổng giá trị sản xuất công nghiệp, 34,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tiếp thu công nghệ mới và giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn”(1).

Ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của thành phố tăng mạnh theo từng năm. Năm 1998, giá trị sản xuất công nghiệp thực hiện 2.261 tỷ đồng, tăng 15,4% so với năm 1997. Trong đó, công nghiệp Trung ương tăng 22,4%; công nghiệp địa phương tăng 4,92%; công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 32,6%. Một số ngành có mức tăng trưởng cao, như sản xuất sợi dệt vải, cao su, hóa chất, vật liệu xây dựng. Khối các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp Trung ương trên địa bàn thành phố nhờ năng lực sản xuất lớn, khai thông thị trường sang các nước EU và Mỹ nên sản phẩm tiêu thụ mạnh, giữ được nhịp độ phát triển ổn định. Năm 1999, lần đầu tiên sau nhiều năm, giá trị sản xuất công nghiệp thực hiện 2.877 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 1998. Năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thực hiện 3.371 tỷ đồng, tăng 16% so với năm 1999. Chủ trương phát triển công nghiệp phần mềm được thành phố tích cực triển khai thực hiện. Một số doanh nghiệp công nghiệp đã năng động hơn trong việc tìm kiếm thị trường, đổi mới công nghệ, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, nên đã vượt qua khó khăn, trì trệ, vươn lên hoạt động có hiệu quả.

Trong giai đoạn này, điểm nhấn quan trọng nhất của thành phố là xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị được đẩy mạnh. Có nhiều công trình cầu, đường, nhà máy, khu công nghiệp, khu du lịch - nghỉ dưỡng được xây dựng, làm cho Đà Nẵng dần hình thành nên vóc dáng một đô thị hiện đại. Nhiều khu công nghiệp được hình thành mở rộng, thu hút nhiều dự án đầu tư. Báo cáo chính

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: sđd, 2013, tr.135.

Page 248: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

248

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

trị do Thành ủy (khóa XVII) trình Đại hội Đại biểu lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố cũng khẳng định: Thành quả nổi bật trong bốn năm qua là việc đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, nhất là hệ thống giao thông, cảng biển, mạng lưới điện, bưu chính viễn thông.

Thành phố đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo ra sự biến đổi to lớn về quy hoạch và phát triển đô thị. Ngoài những con đường xưa cũ như Hùng Vương, Phan Châu Trinh,... thì sau giải phóng, có thể xem đường Điện Biên Phủ là to lớn nhất của Đà Nẵng, nhưng cùng với thời gian nó đã xuống cấp nghiêm trọng. Đầu năm 1997, Đà Nẵng để lại ấn tượng đột phá của một thành phố lớn ở miền Trung bằng việc hoàn thành mở rộng và nâng cấp 3 con đường lớn: Đống Đa, Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Chí Thanh. Nâng cấp mở rộng tuyến đường 14B Đò Xu - Hòa Cầm (đường Cách Mạng Tháng Tám), tuyến đường rộng 33 mét, mặt đường rộng 21 mét.

Nhân Kỷ niệm 22 năm Ngày giải phóng thành phố Đà Nẵng, ngày 29 tháng 3 năm 1997, thành phố đã khởi công xây dựng công trình đường Bạch Đằng Đông, xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư An Trung Đông. Dự án đường Bạch Đằng Đông có quy mô 163 ha thuộc 4 phường: An Hải Tây, An Hải Bắc, Nại Hiên, Thọ Quang. Để thực hiện tuyến đường này, thành phố đã thực hiện việc giải tỏa xóm nhà chồ ven bờ Đông sông Hàn. Đây được xem là một bước đột phá trong quy hoạch đô thị của thành phố, có ý nghĩa quan trọng trong việc rút dần khoảng cách, mức sống giữa hai bờ sông Hàn, trong một thời kỳ dài của lịch sử thành phố. Bởi thực tế, khi chia tách, Đà Nẵng gần như được người ta biết đến từ góc độ một “đô thị” ở bờ Tây sông Hàn. Một nửa của Đà Nẵng, mà lại là nửa quan trọng nhất của một thành phố biển nằm ở bờ Đông sông Hàn vô cùng nhếch nhác, xập xệ. Nhìn toàn cục, nếu gọi là điểm nhấn đô thị lúc bấy giờ thì chỉ có thể kể đến hai tòa nhà gọi là cao nhất Đà Nẵng, có từ thời trước 1975 là Khách sạn Thái Bình Dương và Phương Đông tại khu vực Ngã

Page 249: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

249

năm. Ngoài công trình Đài tưởng niệm của thành phố tại Quảng trường 29 tháng 3, người dân gọi là “Khu Tượng Đài” và Tượng đài Mẹ dũng sĩ Thanh Khê ở cửa ngõ phía bắc thành phố thì không có công trình nào gọi là ấn tượng cả về quy mô cũng như dáng vẻ trong bức tranh chung về không gian đô thị của thành phố trực thuộc Trung ương.

Để đánh thức khu vực phía đông, hướng đến một thành phố cảng biển, ngay sau khi Đại hội lần thứ XVII Đảng bộ thành phố, ngày 30 tháng 10 năm 1997, thành phố đã khởi công xây dựng cầu cảng số 3 - Tiên Sa, phục vụ cho việc xếp dỡ hàng container. Cảng Tiên Sa là một cảng nước sâu, nằm ngoài bán đảo Sơn Trà. Việc xây dựng cảng số 3 - Tiên Sa có ý nghĩa đột phá trong việc phát triển thành phố Đà Nẵng là thành phố cảng biển, đầu mối nhận chuyển hàng của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và hành lang kinh tế Đông - Tây sau này.

Sau đó, hàng loạt các khu dân cư, công trình, tuyến đường được nâng cấp, xây dựng, đặc biệt là ở khu vực trung tâm thành phố kéo về phía tây. Mở đầu là việc xây dựng các khu dân cư mới như Thạc Gián, Vĩnh Trung… Ngày 26 tháng 12 năm 1997, khởi công xây dựng đường Tiểu La; ngày 19 tháng 5 năm 1998, khởi công nâng cấp đường Nguyễn Tri Phương; tháng 6 năm 1998, nâng cấp đường Trần Cao Vân, Lê Duẩn, từ đây, thành phố đã thay đổi rõ rệt về diện mạo đô thị.

Trong công tác quy hoạch đô thị, Đảng bộ thành phố ưu tiên xây dựng các cây cầu để nối liền đôi bờ, tạo sự thuận lợi trong giao thông và nâng cấp cảnh quan thành phố. Ngày 02 tháng 9 năm 1998, thành phố đã khởi công xây dựng cầu qua sông Hàn. Đây là một quyết định đầy quyết đoán và sáng tạo, nằm trong chủ trương của khâu đột phá cơ bản đầu tiên “Mở rộng không gian đô thị” của Đảng bộ thành phố. Cầu sông Hàn là vạch nối liền hai trục đường chính của thành phố là đường Lê Duẩn (bờ Tây) và đường Phạm Văn Đồng (bờ Đông), cùng với công tác giải tỏa khu nhà chồ và đường Bạch Đằng Đông đã làm bộ mặt

Page 250: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

250

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thành phố sáng hẳn lên. Có thể nói, đó là “phát pháo đầu” mở màn cho sự chuyển mình về diện mạo mới của Đà Nẵng sau khi “ra riêng”. Cầu sông Hàn có chiều dài 487,7 mét, rộng 12,9 mét, kết cấu bê tông cốt thép dự ứng lực và 2 nhịp dây văng, có tổng chiều dài 122,7 mét, kết cấu dầm và tháp cầu chính bằng thép, bản mặt cầu bằng bê tông cốt thép.

Cầu sông Hàn để lại dấu ấn đặc biệt của thành phố, là cây cầu “quay - đang quay”, thể hiện sự sáng tạo, đột phá, khẳng định một vị thế của thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là cây cầu do kỹ sư, công nhân Việt Nam tự thiết kế, có quy mô lớn, yêu cầu kỹ thuật phức tạp, ứng dụng công nghệ xây dựng mới, được công nhận là công trình chất lượng tiêu biểu 5 năm 2000-2005 và thi công với một tinh thần thần tốc; đồng thời, cây cầu chính là sản phẩm từ chính sự đóng góp trực tiếp của nhân dân với số tiền gần 7 tỷ đồng. Từ đây, khi nói đến Đà Nẵng, không thể không nhắc đến dòng sông Hàn thơ mộng và Cầu Sông Hàn - Cây cầu quay dây văng đầu tiên ở Việt Nam - niềm tự hào của người dân thành phố. Cầu Sông Hàn là biểu tượng cho sự đi lên của thành phố được xây dựng bằng chính sự đồng thuận và đóng góp của người dân. Cầu Sông Hàn không chỉ tạo thêm thuận lợi cho giao thông vận tải, du lịch, khơi dậy tiềm năng kinh tế của một vùng đất rộng lớn phía đông thành phố, mà còn là một dấu ấn văn hóa của người Đà Nẵng hôm nay gửi lại mai sau và được chọn làm biểu tượng của Đà Nẵng trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ mới.

Sở dĩ nói cầu “quay - đang quay” là vì có không ít cầu quay đã từ lâu không còn quay nữa và khi mà công nghệ làm cầu phát triển vượt bậc như hiện nay cùng với nguồn vốn đầu tư đúng mức, thường người ta cũng không chọn phương án thiết kế cầu quay. Do ở thời điểm ấy chưa thể dời được cảng quân sự nằm ở phía nam đến địa điểm thích hợp hơn, người Đà Nẵng vẫn phải chấp nhận “lạc hậu” để Cầu Sông Hàn trở thành một cây cầu “quay - đang quay”. Tuy nhiên, cái hấp dẫn của Cầu Sông Hàn

Page 251: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

251

lại nằm ngay ở nhược điểm “lạc hậu” này: Rất nhiều du khách thập phương đến Đà Nẵng ráng thức khuya xem Cầu Sông Hàn quay qua quay lại để biết một cây cầu quay quay như thế nào, và nhược điểm “lạc hậu” này, đóng góp vào sự đa dạng của “thành phố những cây cầu”. Cầu Sông Hàn không chỉ nối liền hai không gian địa lý nằm ở đôi bờ con sông chảy giữa lòng thành phố mà còn nối liền hai trình độ văn minh trong một đô thị. Đây là điều mà hai cây cầu bắc qua sông Hàn hồi thập niên 50 và thập niên 60 trước đó chưa thể có. Có thể nói với Cầu Sông Hàn, thành phố Đà Nẵng khá thành công trong việc phố hóa, đô thị hóa phía đông sông Hàn mới ngày nào còn là mấy làng chài nghèo khó, cách trở đò giang.

Bên cạnh đó, trong thời gian này, các tuyến đường Liên Chiểu - Thuận Phước (đường Nguyễn Tất Thành ngày nay) dù chưa hoàn thành nhưng chỉ một đoạn từ góc đường Trần Phú - Đống Đa đến ngã ba đường Ông Ích Khiêm đã tạo diện mạo sang trọng của con đường ven vịnh Đà Nẵng. Đi dọc con đường này, có thể thoải mái ngắm nhìn toàn cảnh vịnh Đà Nẵng, từ khu vực biển Thanh Bình cho đến biển Nam Ô dưới chân đèo Hải Vân. Đoạn đường ven biển từ Non Nước đến Điện Ngọc nhiều chỗ chạy giữa những rừng dương còn nguyên sinh hoang vắng, đi ngang qua Đài cáp quang biển Đà Nẵng, đang tạo thêm một lối vào phố cổ Hội An cũng khá là lý thú. Đây chính là một động lực để phát triển kinh tế du lịch của thành phố.

Trong 4 năm 1997-2000, thành phố có trên 60 công trình trọng điểm hoàn thành, đưa vào sử dụng. Vốn ngân sách thanh toán khối lượng các công trình xây dựng cơ bản ước đạt 317 tỷ đồng. Việc thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” tiếp tục phát huy tác dụng, huy động được sự đóng góp của nhân dân và tổ chức gần 37 tỷ đồng để phát triển giao thông nông thôn, cải tạo lưới điện, xây dựng trạm xá, trường học, cải tạo vỉa hè, cống rãnh các khu dân cư... Riêng năm 2000, “tổng vốn đầu tư phát triển xã hội trên địa bàn đạt 1.860 tỷ đồng, tăng

Page 252: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

252

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

31% so với năm 1999, trong đó vốn trong nước chiếm 61,4%, vốn ngoài nước chiếm 38,6%”(1).

Những kết quả cụ thể nói trên của việc chỉnh trang đô thị đã làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt thành phố, tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế, thu hút các nhà đầu tư, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong thời gian ngắn, những công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng đã chứng tỏ kết quả của việc khai thác và phát huy nội lực của thành phố theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Thành tựu về đô thị hóa luôn đi liền với một thành tựu rất đáng tự hào nữa là đã tạo được sự đồng thuận cao của nhân dân Đà Nẵng. Trong bốn năm nhân dân đã đóng góp tiền mặt, đất đai và các công trình, vật kiến trúc với tổng giá trị trên 100 tỷ đồng cộng với hàng vạn ngày công để xây dựng mới và nâng cấp đường giao thông đô thị, bê tông hóa vỉa hè và kiệt hẻm, xây mới và khơi thông mương thoát nước, trang bị hệ thống điện chiếu sáng, nâng cấp trạm xá, trường học, chợ nông thôn và hệ thống giao thông nông thôn.

Hoạt động thương mại, xuất khẩu trên địa bàn thành phố có chuyển biến. Năm 1998, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 6% so với năm 1997, hàng hóa đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã, chất lượng tốt. Công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu và gian lận thương mại được chỉ đạo triển khai. Thị trường ổn định, chỉ số giá cả và hàng hóa, dịch vụ so với tháng 12 năm 1997 tăng 6,54%. Toàn thành phố có 16.405 hộ có đăng ký kinh doanh, đạt 71,18% tổng số hộ kinh doanh, bằng 83,39% tổng số hộ có đóng thuế. Năm 1999, tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn thực hiện 186,9 triệu USD, tăng 10,5% so với năm 1998. Trong đó, xuất khẩu địa phương thực hiện 57,55 triệu USD, tăng 16,92%; khối doanh nghiệp Trung ương đạt 68,25

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số 66-BC/TU ngày 27 tháng 12 năm 2000 về tổng kết tình hình công tác năm 2000”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 253: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

253

triệu USD, tăng 16,53%; khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước thực hiện 61 triệu USD, bằng 99,56% năm 1998. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm hàng nông lâm sản (33,8 triệu USD), hải sản (45 triệu USD), công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (101,2 triệu USD). Năm 2000, tổng mức luân chuyển hàng hóa và dịch vụ ước đạt 15.000 tỷ đồng, tăng 10,4% so với năm 1999. Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, ước thực hiện 235 triệu USD tăng 26% so với năm 1999, trong đó doanh nghiệp địa phương thực hiện 85,5 triệu USD, tăng 15,3%, doanh nghiệp Trung ương 85 triệu USD, tăng 49,9%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 64,5 triệu USD, tăng 16%.

Ngành du lịch Đà Nẵng có nhiều khởi sắc, nhiều dự án cải tạo nâng cấp các điểm danh thắng được tiến hành: Ngày 28 tháng 3 năm 1997, khu du lịch Bắc Mỹ An đã hoàn thành đưa vào sử dụng với 204 phòng đạt tiểu chuẩn 4 sao. Đây là khu du lịch lớn nhất miền Trung. Tháng 4 năm 1997, Công ty thương mại và dịch vụ du lịch Đà Nẵng khởi công xây dựng tổ hợp khách sạn Tourane tại bãi biển Mỹ Khê... Thế mạnh về dịch vụ, du lịch đã có thêm những điều kiện và triển vọng phát triển mới; doanh thu du lịch tăng hơn, số lượng khách trong nước và nước ngoài đến thành phố ngày càng nhiều, môi trường du lịch được cải thiện, sản phẩm du lịch mới đã được khai thác bước đầu có hiệu quả. Năm 1998, tổng số khách du lịch đến Đà Nẵng tăng 6% tương ứng với tổng doanh thu du lịch dịch vụ toàn ngành tăng 10% so với năm 1997. Năm 1999, công tác xúc tiến du lịch khởi sắc hơn, môi trường du lịch được cải thiện, nhiều sản phẩm du lịch mới được khai thác, như khu du lịch Bà Nà - Suối Mơ, các khu ven biển... với tổng khách du lịch tăng 12,3% so với năm 1998; trong đó khách quốc tế tăng 27,5%, tổng doanh thu toàn ngành tăng 16% so với năm 1998. Năm 2000, doanh thu tăng 36,4%, tổng số khách tăng 29,2%, trong đó khách quốc tế tăng 87,3% so với năm 1999. Ngành dịch vụ, du lịch thực sự dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố.

Page 254: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

254

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Đà Nẵng là một trong những địa phương có đóng góp cho ngân sách Trung ương. Thành phố cũng đã có nhiều đề án thiết thực, có trọng điểm nhằm phát triển kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VIII). Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được duy trì, được xác định là nhân tố chủ yếu để định hướng phát triển kinh tế thành phố. Bên cạnh đó, việc phát huy năng lực và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế trên địa bàn cũng được coi trọng. Ngoài ra, chủ trương sắp xếp lại và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cũng được quan tâm thực hiện, đạt một số kết quả ban đầu. Năm 1999, thành phố giải thể 3 doanh nghiệp, xây dựng phương án cổ phần hóa cho 5/8 doanh nghiệp, sáp nhập một số doanh nghiệp và xử lý khó khăn về tài chính cho 7 doanh nghiệp, đặc biệt, tập trung dành nhiều thời gian bàn biện pháp khắc phục việc thua lỗ của Công ty Thủy tinh miền Trung, Công ty Bia Đà Nẵng... Đến cuối năm 2000, đã có 10 doanh nghiệp trên địa bàn thành phố thực hiện cổ phần hóa.

Trong ngành nông nghiệp, cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong những năm qua bước đầu chuyển đổi theo hướng tăng cây thực phẩm, cây ăn quả và tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi. Năm 1998, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 59.500 tấn. Một số cây trồng, giống mới, con vật nuôi đã được triển khai. Mô hình kinh tế trang trại trong nông lâm nghiệp, xây dựng mô hình kinh tế vườn nhà, vườn đồi, vườn rừng đã có hiệu quả bước đầu, tập trung ở khu vực huyện Hòa Vang. Năm 1999, tổng sản lượng lương thực quy thóc vẫn đạt 59.765 tấn, tăng hơn năm trước 3%. Năm 2000, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 470,4 tỷ đồng, tăng 4,3% so với năm 1999; sản lượng lương thực quy thóc đạt 53.630 tấn, đạt 93% kế hoạch. Như vậy, mặc dù sản lượng lương thực quy thóc giảm nhưng điều đó phản ánh thay đổi cơ cấu loại hình kinh tế trong ngành nông nghiệp và quá trình đô thị hóa của thành phố đang được đẩy mạnh.

Đặc biệt, ngành khai thác thủy sản của thành phố tiếp tục có chuyển biến tốt với công suất khai thác và sản lượng ngày càng

Page 255: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

255

tăng. Năm 1998, sản lượng khai thác thủy sản đạt “22.000 tấn, tăng 11% so với năm 1997; năm 1999, đạt 25.000 tấn, tăng 6,84% so với năm 1998, trong đó tỷ trọng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn xuất khẩu 25-30%; năm 2000, đạt 27.500 tấn, tăng 8% so với năm 1999”(1). Các chương trình đóng mới tàu thuyền, đánh bắt hải sản xa bờ, nuôi trồng thủy sản được triển khai có kết quả. Năm 1999, trên địa bàn thành phố đã đóng mới mới 21 tàu có công suất từ 165-250 mã lực, với tổng vốn đầu tư 36,41 tỷ đồng; năm 2000, ngoài 48 chiếc tàu trong chương trình đánh bắt xa bờ đã đưa vào sản xuất, ngư dân còn cải hoán, nâng cấp hàng chục chiếc tàu từ 22-33 mã lực lên 45-60 mã lực, đưa tổng số tàu thuyền của thành phố lên 2000 chiếc, tổng công suất đạt 60.000 mã lực. Cảng cá Thuận Phước đã được đầu tư xây dựng đưa vào khai thác. Nuôi trồng thủy sản bằng các giống có chất lượng cao, như tôm hùm, cua, cá cam, cá hồng... đã tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, làm phong phú mặt hàng thủy sản xuất khẩu. Sản xuất tôm giống phát triển mạnh, năm 1998, toàn thành phố có 93 cơ sở, tăng 17 cơ sở so với năm 1997, sản lượng sản xuất ước đạt 550 triệu con, ước doanh thu 25 tỷ đồng.

Về lâm nghiệp, năm 1999, thành phố đã triển khai và hoàn thành kế hoạch Chương trình 327 với dự án trồng mới 250 ha rừng tập trung; hoàn thành việc giao 1.624 ha rừng cho các hộ dân chăm sóc; tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy và bảo vệ rừng. Năm 2000, chương trình trồng rừng giai đoạn 2 được triển khai thực hiện với việc trồng mới 300 ha, hoàn thành giao 18.930 ha cho các chủ dự án khoanh nuôi, chăm sóc và quản lý, bảo vệ.

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, trong bốn năm cuối cùng của thế kỷ XX, Đảng bộ thành phố đã chỉ đạo tập trung và chủ động hơn, theo hướng phấn đấu tạo cân đối với tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Những quan điểm lớn của Đảng về văn hóa - xã hội được quán triệt trong lãnh đạo, chỉ đạo các

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Tổng hợp từ các Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ các năm 1998, 1999, 2000”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 256: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

256

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

mặt hoạt động thuộc lĩnh vực này. Quan điểm xây dựng và phát huy nguồn lực con người được thể hiện trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các hoạt động giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, thể dục - thể thao… với những chủ trương và biện pháp cụ thể nhằm thực hiện các chỉ tiêu, chỉ số phát triển nhân lực.

Về giáo dục, Đảng bộ thành phố chú trọng xây dựng và nâng cấp nhiều trường học; đặc biệt là chủ trương “tầng hóa” các trường học vùng lũ lụt, xây dựng khu nội trú cho học sinh dân tộc ít người tại Trường Trung học cơ sở Hòa Bắc và Trường Trung học phổ thông Phạm Phú Thứ; tăng đầu tư mua sắm trang thiết bị giáo dục, tiếp tục ổn định quy mô, duy trì và nâng cao chất lượng dạy và học. Mạng lưới trường học được quy hoạch và đầu tư xây dựng mới theo hướng kiên cố hóa, đồng bộ hóa và xã hội hóa, phù hợp với đặc điểm từng vùng. Phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt” được duy trì, tỷ lệ học sinh đủ điều kiện lên lớp, học sinh khá giỏi và số học sinh đoạt giải trong các kỳ thi cấp quốc gia tăng cao hơn năm trước(1). Thành phố đã được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở và được bình chọn là 1 trong 10 tỉnh, thành dẫn đầu cả nước về công tác giáo dục - đào tạo. Riêng năm 2000, thành phố có thêm 8 trường đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn lên 16 trường. Quan điểm xã hội hóa các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng được chỉ đạo tích cực, góp phần đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của nhân dân thành phố. Bên cạnh hệ thống các cơ sở công lập được thường xuyên tăng cường đầu tư nhân lực, thiết bị hiện đại, các loại hình ngoài công lập cũng phát triển đa dạng. Hệ thống trường bán công, dân lập, tư thục được thiết lập ở các bậc học mầm non, trung học phổ thông và dạy nghề, kể cả đại học dân lập.

(1) Năm học 1999-2000, toàn thành phố có 99,7% học sinh tốt nghiệp tiểu học, 80,6% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, 92,8% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông.

Page 257: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

257

Công tác nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, đời sống và việc thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Thành ủy về công tác bảo vệ môi trường đạt được một số kết quả. Khoa học - công nghệ gắn bó hơn với sản xuất và đời sống, ngày càng được chú trọng trong quá trình hoạch định và tiến hành các đề án phát triển kinh tế - xã hội. Việc xử lý môi trường đô thị được đặt ra tích cực hơn. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, sức khỏe sinh sản, dân số kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ - chăm sóc - giáo dục trẻ em vì sự tiến bộ của phụ nữ… được triển khai có hiệu quả trên diện rộng. Nhiều bệnh dịch được khống chế và đẩy lùi; các bệnh xã hội giảm rõ rệt, riêng bệnh phong được thanh toán trên quy mô thành phố. Theo chuẩn cũ, đến năm 2000, thành phố không còn hộ đói, số hộ nghèo còn 2.417 hộ, bằng l,65% tổng số hộ.

Mạng lưới hành nghề y - dược tư nhân, các bệnh viện tư đang phát triển và được quản lý ngày càng tốt hơn. Thành phố triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Đà Nẵng đã thanh toán được bệnh phong; cấp phép xây dựng 2 bệnh viện tư với quy mô 100 giường bệnh và đưa vào hoạt động.

Các hoạt động văn hóa thấu suốt quan điểm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và địa phương gắn với yêu cầu hiện đại. Môi trường văn hóa thành phố nhìn chung lành mạnh. Tiềm năng văn hóa cơ sở được phát huy. Hoạt động văn học nghệ thuật có những chuyển biến tốt. Báo chí, xuất bản ngày càng cố gắng vươn lên xứng đáng với vai trò là tiếng nói của Đảng và chính quyền, là diễn đàn của nhân dân. Những vấn đề bức xúc về xã hội được chỉ đạo giải quyết trên quan điểm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong từng chính sách.

Việc thực hiện chế độ cho các đối tượng chính sách ngày càng đảm bảo và đi vào nền nếp. Trong năm 2000, thành phố đã đề nghị

Page 258: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

258

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng cho 6 đơn vị, phong tặng và truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam anh hùng cho 109 mẹ; giải quyết chế độ B,C,K(1) cho 869 đối tượng; hỗ trợ cải thiện nhà ở và miễn giảm tiền sử dụng đất cho 1.073 hộ chính sách, cấp thẻ Bảo hiểm Y tế cho 23.473 đối tượng chính sách, đối tượng xã hội; hỗ trợ 1,2 tỷ đồng giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam... Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa có tiến bộ, 93.281 hộ được công nhận danh hiệu gia đình văn hóa. Những đề án về nâng cao đời sống đồng bào các xã miền núi và vùng lũ lụt đã phát huy hiệu quả thiết thực. Vấn đề giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo đã đem lại kết quả tốt, xuất hiện nhiều cách làm sáng tạo. Đến cuối năm 2000, tính theo chuẩn cũ, thành phố đã xóa được hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn 1,65% tổng số hộ.

Phong trào thể dục - thể thao được phát triển với nhiều hình thức phong phú đa dạng đang phát triển rộng rãi. Phong trào thể thao thành tích cao cũng được chú ý. Ngoài ra, thành phố còn có nhiều chính sách chăm lo đời sống của các đối tượng chính sách, đồng bào miền núi và vùng hay bị bão lụt. Công tác xóa đói, giảm nghèo đem lại hiệu quả tốt, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm từ 8,79% năm 1997 xuống còn hơn 2% năm 2000.

Về công tác quốc phòng - an ninh, thành phố thường xuyên chú trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng. Trong bốn năm cuối cùng của thế kỷ 20, quốc phòng - an ninh và công tác nội chính trên địa bàn tiếp tục được củng cố, giữ vững được ổn định chính trị, không để xảy ra điểm nóng, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo. Các cấp ủy Đảng, chính quyền coi trọng lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực cho quốc phòng an ninh; giáo dục nâng cao ý thức quốc phòng gắn với xây dựng khu vực phòng thủ thành phố. Toàn Đảng bộ thành phố

(1) B: Chiến trường miền Nam; C: Chiến trường Lào; K: Chiến trường Campuchia.

Page 259: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

259

đã quán triệt và tổ chức triển khai Chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới. Các lực lượng vũ trang bao gồm quân sự, công an, bộ đội biên phòng thường xuyên rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, khả năng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Thế trận toàn dân gắn với an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân được giữ vững. Công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ, quản lý xây dựng quân dự bị động viên, dân quân tự vệ, công tác hậu cần quân đội, vận động quần chúng… có tiến bộ. Công tác chống “diễn biến hòa bình”, chống bạo loạn lật đổ đạt kết quả.

Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng và đồng bộ, xây dựng được thực lực chính trị ở cơ sở. Công tác giáo dục đề cao ý thức cảnh giác chống tội phạm, công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật được tiến hành có kế hoạch và tương đối thường xuyên. Sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành đồng bộ hơn. Bước đầu đã đạt được một số kết quả trong đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội.

Trong công tác dân vận, công tác vận động quần chúng có nhiều cố gắng nhằm củng cố khối đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ giữa đảng, chính quyền và nhân dân. Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới có chuyển biến rõ hơn; đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, phát huy tính năng động, chủ động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, khơi dậy được nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó nổi bật là việc huy động sự đóng góp to lớn của các tầng lớp nhân dân phục vụ chỉnh trang đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác.

Đặc biệt, qua thử thách trong thiên tai bão lũ, tình làng nghĩa xóm càng thêm gắn bó, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính

Page 260: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

260

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân càng được củng cố và tăng cường. Quy chế dân chủ đã được triển khai thực hiện rộng rãi trong các loại hình cơ sở; dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội được mở rộng, nhân dân tham gia ngày càng nhiều và việc quản lý xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia ý kiến vào các chủ trương, chính sách của Đảng bộ và chính quyền các cấp.

Vai trò của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng được phát huy, các hoạt động đều hướng về cơ sở, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Các tổ chức như Liên đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân thành phố và các hội quần chúng khác ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng thành phố, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội phấn đấu vì mục tiêu chung.

Các phong trào quần chúng đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” gắn với cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa” cùng với các phong trào khác như: đền ơn đáp nghĩa người có công với nước, chăm sóc, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng; phong trào lao động sáng tạo, giúp nhau làm kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo, cứu trợ đồng bào vùng bị thiên tai, tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo, khuyến học, xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội… được duy trì và phát triển rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân.

Cùng với những nguồn viện trợ của các tổ chức quốc tế qua hoạt động đối ngoại nhân dân, những đóng góp của nhân dân thành phố trong các cuộc vận động nói trên cũng đã thu được nhiều kết quả thiết thực. Thông qua phong trào quần chúng, Mặt

Page 261: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

261

trận và các hội, đoàn thể kiện toàn về tổ chức, mở rộng hoạt động, phát triển thêm nhiều hội viên, đoàn viên.

Công tác xây dựng chính quyền đã đạt được những kết quả cụ thể. Ngày sau khi tách tỉnh, chính quyền các cấp đã nhanh chóng được hình thành và từng bước được củng cố; hiệu lực quản lý nhà nước được nâng cao, công tác chỉ đạo, điều hành các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh được chủ động hơn nhằm giải quyết kịp thời, đúng đắn nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền. Vai trò của các cơ quan dân cử được phát huy, việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp tiến hành chặt chẽ và đúng luật định. Công tác cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực quan trọng như nhà, đất, xây dựng cơ bản, cấp phép kinh doanh, đầu tư nước ngoài, công chứng... có tiến bộ. Nhiều quy định của Nhà nước đã được công khai hóa để dân biết, kiểm tra, giám sát. Việc phân cấp cho địa phương và ngành từng bước được thực hiện tốt hơn.

Đảng bộ thành phố đã tập trung tiến hành công tác xây dựng Đảng và thực hiện Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Các cấp ủy Đảng đã chú trọng tăng cường công tác tư tưởng, tổ chức quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng gắn với tổ chức học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng; đấu tranh uốn nắn những nhận thức lệch lạc, phê phán các quan điểm sai trái, những biểu hiện dao động về tư tưởng. Các cấp ủy Đảng và các cơ quan chuyên trách về công tác tư tưởng đã tiến hành nhiều hình thức, phương pháp nhằm cung cấp thông tin, bồi dưỡng và phát huy truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng của Đảng bộ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; củng cố sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng, trong toàn xã hội về mục tiêu, lý tưởng, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta. Công tác tư tưởng đã cố gắng bám sát cơ sở, giải quyết những vấn đề cụ thể đang đặt ra, góp phần quan trọng củng cố lòng tin của cán bộ, đảng viên

Page 262: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

262

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới, động viên cán bộ, đảng viên khắc phục khó khăn, đẩy mạnh các phong trào hoạt động cách mạng, tạo được khí thế sôi nổi của quần chúng trên các lĩnh vực hoạt động, nhất là trong dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn.

Về tổ chức bộ máy, các ban của Đảng, các Đảng ủy trực thuộc được sắp xếp lại, bộ máy chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị được kiện toàn, hoạt động có hiệu quả, sâu sát thực tiễn hơn. Việc bố trí, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ thực hiện đúng quy trình, bảo đảm dân chủ và công khai. Điểm đột phá trong công tác cán bộ là tất cả các chức danh Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân phường, xã ở Đà Nẵng từ năm 1999 trở lại đây đều do cán bộ trong độ tuổi công tác đảm nhiệm. Năm 1999, Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành Thông báo số 03-TB/TU, về việc phân công nhiệm vụ đối với đảng viên nghỉ hưu công tác phường xã. Thông báo nêu rõ: Chỉ nơi nào chưa chuẩn bị kịp cán bộ trẻ thì mới phân công đảng viên hưu trí tham gia Ban Thường vụ Đảng ủy, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân phường, xã. Trên cơ sở đó, đến năm 2000, thành phố đã chấm dứt việc phân công đảng viên hưu trí giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân phường, xã.

Công tác quy hoạch cán bộ được triển khai gắn với việc xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công tác bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại cán bộ được đẩy mạnh với nhiều phương thức đa dạng, tạo thuận lợi cho cán bộ, đảng viên theo học, góp phần nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, nhất là trình độ lý luận chính trị. Trong bốn năm 1997 - 2000, toàn thành phố có 2.400 cán bộ, đảng viên trong đảng bộ các cấp được học các chương trình lý luận chính trị.

Việc quản lý đảng viên từng bước đi vào nền nếp. Hơn 12.000 đảng viên đương chức ở các cơ quan đã được giới thiệu

Page 263: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

263

về sinh hoạt với cấp ủy nơi cư trú, giữ mối liên hệ thường xuyên với địa bàn dân cư. Số đảng viên phát huy tác dụng tốt (loại I) đạt tỷ lệ trên 80% tổng số đảng viên. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các loại hình doanh nghiệp, trường học, bệnh viện và phường, xã có tiến bộ. Qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), bước đầu đã khắc phục được sự sa sút, yếu kém của một số tổ chức cơ sở Đảng, cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, kiện toàn cấp ủy, đề ra nhiều biện pháp nhằm tăng cường giáo dục, quản lý đảng viên; thực hiện tự phê bình, phê bình, củng cố đoàn kết nội bộ. Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng được quán triệt và thực hiện tốt hơn, trách nhiệm của tập thể và cá nhân đảng viên được tăng cường, những trường hợp đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước được đưa ra xem xét, xử lý nghiêm túc. Nhờ đó, nhiều tổ chức Đảng đã phát huy được vai trò lãnh đạo chính trị tại địa phương, đơn vị; hằng năm có hơn 70% tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh. Công tác tuyên truyền, bồi dưỡng phát triển đảng viên mới được tiến hành thường xuyên, cả nhiệm kỳ đã kết nạp được 4.028 đảng viên mới, trong đó tỷ lệ nữ 36,19%, trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm tỷ lệ trên 40%. Các cấp ủy Đảng chú trọng triển khai công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chỉ đạo xác minh, xử lý kịp thời những vấn đề lịch sử chính trị để phục vụ cho công tác cán bộ, công tác phát triển đảng viên mới và công tác nhân sự Đại hội Đảng bộ các cấp.

Trong công tác kiểm tra, các cấp ủy Đảng đã tăng cường công tác kiểm tra, thường xuyên tiến hành kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước và xử lý các sai phạm của tổ chức Đảng; đảng viên các cấp ủy đã nêu cao trách nhiệm lãnh đạo Ủy ban Kiểm tra. Ủy ban Kiểm tra các cấp đã được củng cố, kiện toàn một bước, tổ chức thực hiện có kết quả nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định

Page 264: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

264

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

và nhiệm vụ do cấp ủy cùng cấp giao. Các cấp ủy Đảng coi trọng đổi mới, cải tiến phương thức lãnh đạo và lề lối công tác, xây dựng và thực hiện quy chế làm việc, phát huy vai trò, chức năng nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ chức Đảng.

Nhìn chung công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong 4 năm 1997 - 2000, đảng bộ đã đề ra được nhiều chủ trương đúng đắn, phù hợp. Tình hình tư tưởng chính trị của Đảng bộ cơ bản ổn định; tổ chức bộ máy các cấp, nhất là cấp cơ sở được củng cố, kiện toàn; đội ngũ cán bộ, đảng viên được giáo dục, rèn luyện và nâng cao trình độ về mọi mặt. Nhờ đó, Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt nhiều kết quả, phát huy được nguồn lực to lớn trong dân, tạo khí thể sôi nổi qua các phong trào quần chúng.

Những thành quả đạt được trên các lĩnh vực tuy mới chỉ bước đầu nhưng có ý nghĩa quan trọng, tạo đà cho sự phát triển lâu dài, bền vững của thành phố, những thành quả đó chứng tỏ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về mặt xác lập cho Đà Nẵng vị trí một thành phố trực thuộc Trung ương, đồng thời không tách rời sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ có nhiều hiệu quả của Trung ương và sự phối hợp của các địa phương trong cả nước. Những thành quả đạt được còn là kết quả của sự phấn đấu vươn lên với khí thế tiến công của toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân thành phố quyết tâm xây dựng quê hương, thể hiện sự đồng tình của các tầng lớp nhân dân đối với những chủ trương lớn nhằm phát triển toàn diện thành phố. Bài học lớn rút ra từ những thành quả đã đạt được là: Đảng bộ đã quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, xây dựng được khối đoàn kết, trước hết từ trong cấp ủy, chính quyền các cấp; định ra chủ trương đúng đắn, phù hợp; khơi dậy và phát huy được sức mạnh to lớn của các tầng lớp nhân dân, tạo thành phong trào quần chúng mạnh mẽ, rộng khắp nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đề ra.

Page 265: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

265

III. NHẬN DIỆN NHỮNG TRỞ LỰC ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN

Tạo động lực để vươn lên trở thành một đô thị hiện đại trước thềm thiên niên kỷ mới là rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn là phải nhận diện cho được những trở lực làm ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình phát triển thành phố. Chính vì thế, Báo cáo chính trị do Thành ủy khóa XVII trình Đại hội Đại biểu lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố thừa nhận trong 4 năm cuối cùng của thế kỷ 20, Đà Nẵng vẫn còn bộc lộ một số khuyết điểm, yếu kém trên nhiều lĩnh vực.

Trên lĩnh vực kinh tế, Đảng bộ và chính quyền thành phố vẫn còn thiếu những giải pháp mang tính đột phá nhằm phát huy mạnh mẽ tiềm năng và lợi thế của thành phố. Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa ổn định; nhiều chỉ tiêu chưa đạt mức Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII đề ra. GDP bình quân đầu người năm 2000 mới chỉ đạt 488 USD, còn thấp so với nhiều thành phố lớn trong nước. Công nghiệp chưa hình thành được các ngành mũi nhọn, chưa có những sản phẩm chủ lực, nhiều doanh nghiệp sản phẩm chất lượng thấp, sức cạnh tranh yếu, hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao. Sản xuất công nghiệp địa phương phát triển chưa mạnh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh địa phương chưa có phương hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, thậm chí vẫn còn thua lỗ. Việc đổi mới, sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vẫn còn khó khăn về giải quyết những tồn đọng tài chính, công nợ, đất đai, tư tưởng cán bộ, công nhân chưa thông suốt... Công nghiệp dân doanh phát triển chậm.

Việc thu hút vốn đầu tư ODA bị hạn chế, nhiều dự án dùng nguồn vốn ODA tiến độ giải ngân chậm. Chậm có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp và khu chế xuất, do đó hoạt động của các khu vực này chưa tương xứng với tiềm năng. Việc xây dựng quan hệ sản xuất mới chưa được quan tâm đúng mức. Thực hiện chủ trương đổi mới sắp xếp lại các

Page 266: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

266

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

doanh nghiệp nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu: Triển khai cổ phần hóa so với mục tiêu còn chậm; việc hợp nhất, sáp nhập đạt kết quả thấp; chủ trương giao, bán, khoán, cho thuê chưa được triển khai cụ thể. Một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài vẫn chưa có biện pháp xử lý dứt điểm làm hạn chế vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Việc củng cố và phát triển kinh tế hợp tác xã còn nhiều lúng túng. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa được quan tâm hỗ trợ đúng mức. Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn còn nhiều yếu kém.

Một số ngành dịch vụ mới còn ở mức sơ khai như dịch vụ tài chính, tiền tệ, dịch vụ khoa học công nghệ. Thế mạnh về kinh tế biển chưa được khai thác đúng mức, ngành nghề dịch vụ còn kém phát triển. Xuất khẩu chưa vượt qua được những thách thức gay gắt về cạnh tranh và thị trường, chậm khai thác các thị trường mới và mở rộng các thị trường đã có.

Trong nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn chậm. Việc chỉ đạo đầu tư nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa được quan tâm thích đáng. Sản phẩm chăn nuôi gặp khó khăn ở đầu ra, nên không khuyến khích nhân dân đầu tư phát triển chăn nuôi. Công tác quản lý nhà nước của ngành, nhất là công tác chỉ đạo, điều hành còn lúng túng; công tác quản lý bảo vệ rừng chưa nghiêm, các vụ vi phạm về chặt phá rừng, vận chuyển gỗ trái phép chưa được xử lý theo pháp luật. Hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật chưa được triển khai đều khắp. Mô hình hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp chưa được chuyển đổi để có hiệu quả cao hơn.

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, nhìn chung đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, mức hưởng thụ văn hóa còn hạn chế, nhất là đồng bào ở địa bàn miền núi, ven biển và các gia đình thuộc diện chính sách. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc

Page 267: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

267

như thiếu việc làm, môi trường sống bị ô nhiễm, tệ nạn xã hội... chưa được giải quyết tốt.

Đời sống gia đình thuộc diện chính sách và miền núi, ven biển còn gặp khó khăn. Vấn đề việc làm, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội chưa giải quyết tốt. Tiêu cực trong khám chữa bệnh, dạy thêm học thêm còn gây bức xúc trong nhân dân. Công tác quản lý đô thị còn nhiều bất cập. Tỷ lệ thất nghiệp còn ở mức cao 6,17% lao động không đủ việc làm, chiếm tới 4,35% lực lượng lao động; còn 76,3% người lao động chưa qua đào tạo nghề (chỉ tiêu của Đại hội XVII là đến năm 2000, lực lượng lao động có tay nghề đạt 30% trên tổng số lao động có việc làm). Kết quả phân luồng sau trung học phổ thông theo hướng đào tạo nghề còn rất hạn chế, mỗi năm chỉ chiếm khoảng 14% số học sinh tốt nghiệp.

Công tác quản lý đô thị còn nhiều bất cập thể hiện trong triển khai quy hoạch chi tiết, trong quản lý nhà đất, xây dựng cơ bản, trật tự an toàn giao thông quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và các hoạt động bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng ô nhiễm cục bộ ở một số khu vực khá nghiêm trọng chưa được đầu tư xử lý đúng mức. Ý thức tự giác bảo vệ môi trường công cộng còn hạn chế, chưa trở thành thói quen trong đại bộ phận dân cư nhưng chưa có biện pháp điều chỉnh tích cực.

Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, so với yêu cầu mới đang đặt ra, thế trận quốc phòng toàn dân chưa thật sự vững chắc, khả năng phòng thủ còn hạn chế. Chất lượng toàn diện của các lực lượng vũ trang chưa cao. Công tác giáo dục quốc phòng, giáo dục pháp luật tiến hành chưa sâu rộng, một bộ phận cán bộ và nhân dân còn mơ hồ mất cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn chống phá thâm độc tinh vi của các thế lực thù địch. Việc giáo dục ý thức khẳng định và bảo vệ chủ quyền đối với biển đảo nói chung và huyện đảo Hoàng Sa chưa sâu rộng và chưa thường xuyên. Công tác bảo vệ bí mật nhà nước, bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa có lúc, có nơi còn sơ hở.

Page 268: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

268

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống các hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa tuy đã đạt được một số kết quả cụ thể nhưng nhìn chung chưa được tiến hành mạnh mẽ, kịp thời. Còn lúng túng trong việc tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, vừa đảm bảo cho các cơ quan nội chính hoạt động có hiệu quả, vừa tạo điều kiện thông thoáng cho phát triển kinh tế.

Một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa thường xuyên chăm lo công tác dân vận. Phong trào quần chúng phát triển chưa đều, quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ, tình trạng dân chủ hình thức vẫn còn tồn tại ở nhiều cấp, nhiều nơi, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các hội, đoàn thể ở một số nơi còn lúng túng, hiệu quả chưa cao. Việc tập hợp lực lượng thanh niên và công tác giáo dục thanh thiếu niên ở các địa bàn dân cư còn yếu. Năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước và vai trò chỉ đạo, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở chưa được nâng lên ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới.

Một số cơ quan, đơn vị chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ hoạt động chồng chéo, không phát huy được vai trò tham mưu. Cải cách hành chính có tiến bộ nhưng chưa loại trừ hết những thủ tục gây phiền hà cho dân, gây trở ngại cho sản xuất, kinh doanh. Tệ cửa quyền, nhũng nhiễu của một số cán bộ, công chức chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Trật tự xã hội và kỷ cương pháp luật ở một số nơi chưa nghiêm.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng tuy được tiến hành thường xuyên nhưng vẫn còn những biểu hiện đáng lo ngại. Một số vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về nguyên tắc tập trung dân chủ, về một số chủ trương, chính sách đổi mới chưa được nhận thức đúng để nhất trí cao trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Việc định hướng tư tưởng cho đảng viên, quần chúng làm chưa tốt; tệ phát ngôn vô tổ chức, tung tin thất thiệt chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Chưa có biện pháp thật cụ thể, sâu sát để tăng cường công tác quản lý, giáo dục đảng viên về

Page 269: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

269

phẩm chất, đạo đức, lối sống; một số ít cán bộ, đảng viên sa ngã trước cám dỗ của kinh tế thị trường. Việc thực hiện dân chủ và tăng cường kỷ cương trong Đảng chưa đúng mức. Tinh thần tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng chưa cao, trong một số tổ chức đảng và cấp ủy Đảng vẫn còn tình trạng nể nang, xuê xoa, chưa thật sự tin cậy lẫn nhau, bằng mặt không bằng lòng; một số ít đồng chí không nhất trí với nhau về những vấn đề cụ thể nhưng chưa giải quyết kịp thời và có kết luận thỏa đáng, dẫn đến thiếu thông cảm lẫn nhau, làm ảnh hưởng nhất định đến đoàn kết nội bộ và đến phong trào chung. Phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của một số cấp ủy Đảng chưa được đổi mới; tệ quan liêu, giấy tờ, hội họp còn nhiều; việc kiểm tra, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng vẫn là khâu yếu. Một số tổ chức chưa được xác định rõ chức năng, nhiệm vụ nên hoạt động kém hiệu quả.

Công tác cán bộ chưa được đổi mới một cách cơ bản, còn thiếu mạnh dạn trong việc luân chuyển, thay thế, trẻ hóa cán bộ. Việc tạo nguồn cán bộ chưa được quan tâm đúng mức; công tác quy hoạch cán bộ mới chỉ thực hiện được ở các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Công tác đào tạo, đào tạo lại chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, chuyên môn của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đối với những ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng. Chậm ban hành chính sách thu hút nhân tài, ưu đãi, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức đem hết tài năng cống hiến cho sự nghiệp xây dựng quê hương. Chưa tranh thủ phát huy được tiềm năng to lớn của đội ngũ cán bộ các cơ quan trung ương, các cơ sở nghiên cứu khoa học trên địa bàn. Tư tưởng cục bộ địa phương còn nặng trong một bộ phận cán bộ đảng viên, ảnh hưởng không tốt đến công tác cán bộ, gây trở ngại cho việc luân chuyển, bố trí đúng cán bộ.

Về nguyên nhân dẫn đến những trở lực nêu trên, Báo cáo chính trị do Thành ủy khóa XVII trình Đại hội Đại biểu lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố đã nhận định: Những yếu kém, khuyết

Page 270: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

270

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

điểm thuộc các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, đoàn thể nêu trên có tác động không nhỏ của các nguyên nhân khách quan, trong đó có yếu tố khó lường như khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và tình hình thiên tai, bão lũ. Bên cạnh đó, những tác động mặt trái của cơ chế thị trường ngày càng bộc lộ phức tạp hơn, kẻ thù và các phần tử xấu luôn ra sức tuyên truyền kích động và gây rối, tạo ra những hậu quả nhất định về mặt tư tưởng, tâm trạng xã hội. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan là chính.

Trong những nguyên nhân chủ quan có vấn đề năng lực quản lý điều hành kinh tế - xã hội: Có lúc vẫn chưa quan tâm đúng mức đến đầu tư và chỉ đạo phát triển sản xuất kinh doanh; chậm nghiên cứu tự đổi mới và đề nghị với Trung ương đổi mới, tháo gỡ một số cơ chế chính sách cho phù hợp với tình hình cụ thể của thành phố, từ đó chưa khuyến khích và thu hút mạnh mẽ đầu tư của nhân dân, của các địa phương bạn và từ nước ngoài. Trong một số trường hợp cụ thể, những thủ tục hành chính rườm rà hoặc cách cư xử cứng nhắc đã gây khó khăn cho việc thu hút đối tác đầu tư, thu hút các nguồn lực trong xã hội, nhất là các nguồn lực trong dân. Trong dự báo, tính toán xây dựng kế hoạch, do có phần nóng vội, chưa lường hết các yếu tố bất trắc khách quan đã đề ra một số chỉ tiêu phát triển quá cao, không đủ khả năng thực hiện. Trong những nguyên nhân chủ quan còn có vấn đề cán bộ. Cơ cấu cán bộ nhìn chung chưa đồng bộ ở các cấp, các lĩnh vực. Trình độ lý luận lẫn năng lực thực tiễn của cán bộ, công chức chưa đáp ứng tốt yêu cầu công việc, một bộ phận thiếu nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm, đùn đẩy ngại va chạm, không dám chịu trách nhiệm cá nhân, trong khi đó, việc đánh giá vẫn còn tình trạng bình quân, thiếu sự khuyến khích người giỏi, nhiệt tình say mê công việc. Những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân, nói không đi đôi với làm, vun vén cá nhân của một bộ phận cán bộ công chức, nhất là cán bộ có chức, có quyền chưa được phát hiện kịp thời và xử lý đúng

Page 271: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

271

mức. Cơ chế phối hợp trong hoạt động của bộ máy đảng, chính quyền, đoàn thể chưa chặt chẽ và đồng bộ, gây ảnh hưởng nhất định đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.

Trong giai đoạn này, thành phố chịu nhiều thiệt hại do bão lũ gây ra. Năm 1999, thành phố phải đối mặt với những khó khăn, thách thức gay gắt. Hậu quả lũ, lụt cuối năm 1998 chưa khắc phục xong, tiếp đến những trận lũ lụt liên tiếp xảy ra vào cuối năm 1999 với mức nước cao chưa từng có và lần đầu tiên xuất hiện lũ quét đã gây thiệt hại nặng về người, tài sản của nhà nước và nhân dân, phá hủy nhiều cơ sở vật chất trên địa bàn thành phố. Tình hình kinh tế - xã hội của thành phố có mặt phát triển chưa thật bền vững, đời sống một nhân dân vùng lũ còn khó khăn.

Trong các ngày từ 01 đến 03 tháng 11 năm 1999, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có mưa lớn, và trong đêm ngày 02 tháng 11, rạng sáng ngày 03 tháng 11, mực nước lũ đột ngột dâng cao, gây ngập lụt từ trung tâm thành phố đến các quận, huyện, có nơi sâu 1 đến 3 mét. Riêng các xã Hòa Phú, Hòa Phong, Hòa Khương, Hòa Ninh (huyện Hòa Vang) lần đầu tiên xuất hiện lũ quét. Do lũ lụt năm này đặc biệt lớn và kéo dài; một số xã trung du, miền núi của thành phố Đà Nẵng có lũ quét vào ban đêm, nên mức độ thiệt hại về người và tài sản khá nghiêm trọng. Thành phố Đà Nẵng “có 37 người chết, tập trung ở huyện Hòa Vang và 61 người bị thương nặng. Trong số 37 người chết, các địa phương mới tìm được xác 30 người, còn 7 người chưa tìm được xác. Về tài sản, có 46.333 nhà ngập sâu 1-3 mét, có nơi đến 4 mét; 412 nhà bị nước cuốn trôi; 808 nhà sập hoàn toàn và 3.771 nhà hư hỏng nặng. Tổng thiệt hại về nông - lâm - ngư nghiệp, công trình thủy lợi, điện, bưu điện, giao thông công chính, phương tiện và cơ sở vật chất ngành giáo dục, y tế... là 611,270 tỷ đồng”(1).

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số 42-BC/TU, ngày 08 tháng 11 năm 1999 về tình hình lũ lụt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 272: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

272

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Tiếp đó, đúng một tháng sau, từ ngày 01 đến ngày 06 tháng 12 năm 1999, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã có mưa to đến rất to trên diện rộng. Mưa lũ làm ngập lụt 11 xã của huyện Hòa Vang và 2 phường thuộc quận Ngũ Hành Sơn. Trong nội thành thành phố Đà Nẵng, do mưa lớn, nước ngập cục bộ một số tuyến đường. Đợt mưa lũ này cũng gây những thiệt hại nghiêm trọng: “có 1 người chết do tai nạn giao thông đường sắt trong khi tránh lũ, khoảng 15.000 ngôi nhà bị ngập nước; 1.000 ha lúa Đông Xuân đã sạ trà đầu bị trôi; số giống đã ngâm ủ chuẩn bị sạ cũng bị trôi hoặc hư hỏng nặng. Toàn bộ 300 ha rau bị hư hỏng hoàn toàn; 300 ha đất nông nghiệp bị bồi lấp; 38.000 mét khối kênh mương thủy lợi mới đắp lại bị nước cuốn trôi”(1). Tuyến đường Túy Loan - Dốc Kiền bị hư hỏng; ngầm cầu An Lợi bị nước cuốn trôi; đèo Hải Vân nước đã tràn ra mặt cầu tạm, xói mố cầu phía nam.

* **

Phát huy tác dụng những động lực và khắc phục những trở lực nêu trên là tiền đề để Đà Nẵng bước vào thiên niên kỷ mới - thiên niên kỷ thứ ba. Đặc biệt, Trung ương đã quan tâm đến Đà Nẵng khi quyết định đồng chí Bí thư Thành ủy (khóa XVIII) là một Ủy viên Bộ Chính trị. Một chặng đường mới của Đà Nẵng đang được khởi động với nhiều thời cơ và thách thức.

Sau 4 năm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương (1997-2000) - một thời gian chưa dài song đã tạo được những điều kiện ban đầu cho một thành phố phát triển nhanh và bền vững sau này. Những thành quả đạt được đã chứng tỏ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về việc xác lập cho Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, dần xứng đáng với vai trò thành phố động lực của khu vực miền Trung - Tây

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số 45-BC/TU, ngày 06 tháng 12 năm 1999 về tình hình lũ lụt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 273: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

273

Nguyên. Những thành quả đạt được là kết quả của sự phấn đấu vươn lên với khí thế tiến công của toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân thành phố quyết tâm xây dựng quê hương, thể hiện sự đồng tình của các tầng lớp nhân dân đối với những chủ trương lớn nhằm phát triển toàn diện thành phố.

Trong giai đoạn chuyển tiếp này, qua quá trình thực tiễn trong công tác lãnh đạo, Đảng bộ thành phố rút ra những bài học lớn của một thành phố trực thuộc Trung ương. Đảng bộ đã quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, xây dựng được khối đoàn kết, trước hết từ trong cấp ủy, chính quyền các cấp; định ra chủ trương đúng đắn, phù hợp; khơi dậy và phát huy được sức mạnh to lớn của các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội nhằm đưa phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Trên cơ sở đó, Đảng bộ thành phố chỉ đạo sâu sát để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đã đề ra.

Page 274: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 275: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

275

Chương Sáu

BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN MỤC TIÊU XÂY DỰNG“THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH”

(2001 - 2005)

I. THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG “KHAI THÁC QUỸ ĐẤT, TẠO VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG” NHẰM XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ “GIÀU MẠNH, VĂN MINH”, VỮNG BƯỚC TIẾN VÀO THIÊN NIÊN KỶ MỚI

Năm 2001 là năm khởi đầu thế kỷ mới, năm thế giới có nhiều biến động quan trọng và phức tạp. Kinh tế thế giới tiếp tục trì trệ và càng suy giảm thêm sau sự kiện khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ; tác động của khủng hoảng tài chính trong khu vực Đông Nam Á, Châu Á và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế với sức ép cạnh tranh ngày càng tăng, càng gây khó khăn, áp lực lên các nước đang phát triển.

Tại Việt Nam, cùng với những thành tựu đạt được qua 15 năm thực hiện đường lối Đổi Mới của Đảng, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và đời sống nhân dân ta không ngừng được cải thiện; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng tăng lên và ngày càng được củng cố.

Page 276: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

276

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Sau 4 năm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thử thách do thiên tai gây hậu quả nặng nề ở nhiều nơi, lại bị ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á tác động, bộ máy tổ chức và cán bộ chưa ổn định, nhưng kinh tế thành phố vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá, cơ sở hạ tầng được tăng cường, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện, chính trị ổn định, sự nghiệp giáo dục đào tạo, văn hóa, y tế có mặt phát triển, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tạo được niềm tin trong đa số quần chúng nhân dân. Đó là những điều kiện thuận lợi để Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng tiếp tục xây dựng, phát triển thành phố ngày một văn minh, hiện đại trong thiên niên kỷ mới, theo kịp với đà phát triển đi lên của thời đại.

Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW, ngày 22 tháng 5 năm 2000 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, trong khoảng thời gian nửa cuối của năm 2000, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã tập trung chỉ đạo các tổ chức cơ sở Đảng tổ chức Đại hội và tích cực chuẩn bị cho Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII. Đại hội có nhiệm vụ đánh giá nghiêm túc thực trạng tình hình hoạt động của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 1997-2000, nhận định tình hình thành phố những năm đầu thế kỷ XXI, từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu, giải pháp cho chặng đường 5 năm sắp tới 2001-2005, nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân từng bước xây dựng Đà Nẵng thành một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ của miền Trung và cả nước, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã được tiến hành từ ngày 12 đến 14 tháng 02 năm 2001, tại nhà văn hóa Quân khu V. Tham dự đại hội có 300 đại biểu thay mặt cho 24.000 đảng viên trong toàn

Page 277: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

277

Đảng bộ thành phố(1). Đại hội đã thảo luận và thông qua hai văn kiện quan trọng: Báo cáo chính trị “Phát huy cao độ mọi nguồn lực, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ, tất cả vì mục tiêu xây dựng thành phố Đà Nẵng giàu mạnh, văn minh”; Báo cáo Định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001-2005); Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ XVII; Báo cáo kết quả tự phê bình, phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và Báo cáo giải trình của Ủy ban nhân dân thành phố.

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII và 15 năm thực hiện đường lối Đổi Mới của Đảng, Đại hội nhận định: “Sự phát triển của thành phố trong tương lai không tách rời bối cảnh phát triển chung của miền Trung và cả nước, trong đó cả cơ hội lẫn thách thức đều lớn và đan xen nhau. Bốn nguy cơ mà Hội nghị toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ (khóa VII) nêu ra vẫn tiếp tục tồn tại và diễn biến phức tạp, trong đó đáng chú ý là tình trạng thấp kém của nền kinh tế nước ta trong bối cảnh phát triển vượt bậc của kinh tế thế giới; bên cạnh đó là tệ quan liêu, tham nhũng và sự thoái hóa về phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, đảng viên làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và hiệu lực của chính quyền”(2).

Trong bối cảnh chung của miền Trung và cả nước, Đại hội đã nêu vấn đề cần nhận rõ những đặc điểm, lợi thế riêng có của thành phố để khai thác, phát huy và chủ động vượt qua những khó khăn, bất lợi. Bước vào thiên niên kỷ mới, những hạn chế,

(1) Trong đó có 38 đồng chí nữ, đại biểu trẻ nhất là 32 tuổi, lớn tuổi nhất là 72 tuổi; về trình độ chuyên môn nghiệp vụ có 14 tiến sĩ, 16 thạc sĩ, 187 đại học, 68 trung cấp; đồng chí có tuổi Đảng cao nhất Đại hội là 54 năm. (2) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: sđd, 2013, tr.152. Bốn nguy cơ đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Page 278: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

278

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

bất lợi mà thành phố gặp phải cũng không nhỏ, là những thách thức trong quá trình phát triển. “Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu khắc nghiệt, thời tiết diễn biến bất thường, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống. So với các thành phố lớn trong cả nước, trình độ phát triển kinh tế, nhất là phát triển công nghiệp còn thấp, sức cạnh tranh yếu, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thị trường thành phố và khu vực còn nhỏ hẹp, manh mún, sức mua thấp. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển còn rất hạn chế”(1). Đại hội cũng cho rằng, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố còn chậm, chưa ổn định; chưa có những giải pháp mang tính đột phá nhằm phát huy mạnh mẽ tiềm năng, thế mạnh của thành phố; đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn; phong trào quần chúng phát triển chưa đều, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm.

Trên cơ sở nhận định những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, Đại hội đã đề ra phương hướng chung để phát triển thành phố trong nhiệm kỳ 2001-2005 là: Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quán triệt phương châm “phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, tăng cường khối đoàn kết thống nhất, phát huy cao độ nội lực, kết hợp khai thác mọi nguồn lực bên ngoài, tận dụng mọi thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu về kinh tế, phát triển về văn hóa và khoa học - công nghệ, đảm bảo quốc phòng - an ninh, hệ thống chính trị vững mạnh, dân trí ngày càng được nâng cao; cảnh quan thiên nhiên, môi trường đô thị lành mạnh, sạch đẹp, vươn lên xứng đáng là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ của miền Trung và cả nước.

Đại hội đã thông qua các mục tiêu cụ thể trong 5 năm là: “Tốc độ tăng GDP bình quân hằng năm 13%-14%. GDP bình quân

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: sđd, 2013, tr.155.

Page 279: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

279

đầu người năm 2005 là 1.000 USD. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm 19%-20%. Giá trị dịch vụ tăng bình quân hằng năm 12%-13%. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 5%-6%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm 20%. Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước đạt 19-20% GDP, trong đó động viên thuế và phí vào ngân sách nhà nước bình quân đạt 17-18% GDP. Giảm tỷ suất sinh bình quân hằng năm 0,03%-0,05%. Giảm số hộ nghèo còn 1,35% (theo chuẩn mới)”(1). Để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu nêu trên, Đại hội đã nhất trí với hệ thống 8 giải pháp về kinh tế - xã hội và những nhiệm vụ cơ bản về tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, nâng cao chất lượng hoạt động các ngành nội chính; về phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh hoạt động của các hội, đoàn thể, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch vững mạnh; về việc tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ.

Sau 3 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, với tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng bộ và nhân dân thành phố, Đại hội đã lựa chọn và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2001-2005 gồm 47 đồng chí với số phiếu khá tập trung, trong đó có 7 đồng chí mới tham gia Thành ủy lần đầu. Đại hội cũng đã bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX gồm 13 đại biểu chính thức (không kể 1 đồng chí đại biểu đương nhiên là Ủy viên Trung ương Đảng đang sinh hoạt tại Đảng bộ thành phố) và 2 đại biểu dự khuyết. Tại Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố đã bầu Ban Thường vụ Thành ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Phan Diễn được bầu lại làm Bí thư Thành ủy; các đồng chí Phan Như Lâm, Nguyễn Bá Thanh được bầu lại làm Phó Bí thư; bầu Uỷ ban Kiểm tra Thành uỷ gồm 9 đồng chí do đồng chí Phùng Văn Thành - Uỷ viên Ban Thường vụ (khoá XVIII) được bầu lại làm Chủ nhiệm. Đến tháng 7 năm 2001, đồng chí Nguyễn Đức Hạt, Bí thư Tỉnh ủy Quảng

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: sđd, 2013, tr.156.

Page 280: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

280

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Nam được Bộ Chính trị phân công về làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng thay đồng chí Phan Diễn được điều về lại Trung ương. Tháng 7 năm 2003, đồng chí Nguyễn Bá Thanh được đề cử làm Bí thư Thành ủy thay đồng chí Nguyễn Đức Hạt được điều về Trung ương.

Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XVIII là một sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng, thể hiện ý chí và quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân thành phố đoàn kết một lòng, tạo sự ổn định và nhất trí cao trong cấp ủy và toàn Đảng bộ, tạo sự đồng thuận trong xã hội, phấn đấu xây dựng thành phố Đà Nẵng giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến vào thiên niên kỷ mới. Bên cạnh những thành công cơ bản, kết quả Đại hội chưa thể hiện rõ quyết tâm trẻ hóa và tăng cường bổ sung đại biểu nữ trong Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XVII. Đây là vấn đề mà Ban Chấp hành mới cần quan tâm nhằm thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ trong tình hình mới.

Thực hiện chủ trương xây dựng thành phố Đà Nẵng “giàu mạnh, văn minh”, Đà Nẵng đã xác định được các điều kiện “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của mình trên cơ sở những thuận lợi lớn như: Đảng bộ và nhân dân thành phố đồng lòng, quyết tâm xây dựng quê hương trong thời kỳ mới; xu hướng hiện đại hóa và toàn cầu hóa ngày một gia tăng; sự quan tâm của Trung ương và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng dành cho Đà Nẵng không ngừng tăng lên… Để làm được điều đó, Đà Nẵng vừa chú trọng phát triển sản xuất kinh doanh, vừa tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cấp và chỉnh trang đô thị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tăng phúc lợi công cộng và nâng cao điều kiện sống của nhân dân. Trong đó, nhiệm vụ then chốt và chủ yếu của giai đoạn này là chủ trương “xây tổ cho đại bàng đẻ trứng” - tức đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị mà việc tiến hành giải tỏa đền bù, chỉnh trang đô thị, “sắp xếp lại giang sơn” trở thành một ưu tiên hàng đầu của toàn Đảng bộ.

Page 281: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

281

Cùng với chủ trương đó, nhận thấy vị trí chiến lược của Đà Nẵng đối với khu vực và cả nước, Trung ương Đảng đã xác định Đà Nẵng là một trong những vùng trọng điểm để phát triển đất nước, là vị trí trọng yếu cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh; là đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, cửa ngõ chính ra Biển Đông của các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên và các nước tiểu vùng Mê Kông nên đã quan tâm, tạo điều kiện rất nhiều để Đà Nẵng “cất cánh”. Đúng như đồng chí Lê Khả Phiêu - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã kỳ vọng: “Đà Nẵng vừa có biển, đảo, có sông, có đồng bằng, lại có núi rừng và có huyện Hòa Vang nông nghiệp. Cho nên địa lý ở đây rất hay, đẹp và đa dạng, đứng ở thành phố mà nhìn thấy tàu bè đang đổ san sát, tấp nập. Với thiên nhiên ấy, với truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, anh hùng gan góc ấy, không có lý do gì mà Đà Nẵng không trở thành một thành phố giàu về kinh tế. Dứt khoát phải giàu. Mà giàu rồi phải đẹp, phải mạnh, phải văn hóa, văn minh. Đà Nẵng phải trở thành một thành phố công nghiệp, một trung tâm kinh tế, văn hóa của miền Trung và cả nước”(1).

Vị thế của Đà Nẵng được nhìn nhận rõ rệt hơn trong tương quan các khu vực phát triển của đất nước và trong thế chiến lược của tiểu vùng Mê Kông. Bởi, Đà Nẵng cùng với Quảng Nam là vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, kiên cường trong kháng chiến chống ngoại xâm. Trong sự nghiệp Đổi Mới và xây dựng đất nước, Đà Nẵng tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, năng động, sáng tạo, xây dựng thành phố phát triển khá trên nhiều mặt, trở thành một thành phố cảng biển lớn, là đô thị trung tâm cấp quốc gia, là một trong những trọng điểm phát triển của đất nước, góp phần quan trọng thúc đẩy các tỉnh khác trong khu vực phát triển và trở thành trung tâm kinh tế - xã hội của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Xây dựng và phát triển Đà Nẵng có ý nghĩa rất quan trọng về nhiều mặt đối với miền

(1) Dẫn theo: Đà Nẵng - thành tựu và triển vọng, Nxb. Đà Nẵng, 2000, tr.11.

Page 282: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

282

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Trung - Tây Nguyên và cả nước. Đặc biệt, hai sự kiện quan trọng diễn ra trong năm 2003 đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của thành phố, đó là việc Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận Đà Nẵng là đô thị loại I cấp quốc gia; và tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng vào làm việc với thành phố, ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Từ chủ trương xác định xây dựng một Đà Nẵng “giàu mạnh, văn minh”, trên cơ sở thực hiện đầy đủ và vận dụng linh hoạt các cơ chế, chính sách của Nhà nước, Đà Nẵng đã mạnh dạn ban hành và triển khai thực hiện có hiệu quả một số cơ chế, chính sách phù hợp với đặc điểm, yêu cầu phát triển của Đà Nẵng, khơi dậy nguồn lực của các thành phần kinh tế, tạo đòn bẩy cho phát triển sản xuất. Cụ thể như: Chủ trương tạo vốn từ khai thác quỹ đất để xây dựng cơ sở hạ tầng; ban hành nhiều quy định cụ thể trong quản lý xây dựng cơ bản; một số chủ trương nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp, vận dụng các chính sách ưu đãi đầu tư; thành lập Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp; ban hành các quy định về quản lý doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đạt hiệu quả cao nhất, rõ nét nhất vẫn là chủ trương phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, với hàng loạt các khu dân cư, công trình công cộng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, nhất là từ khi có Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị dành cho Đà Nẵng.

Ngày 15 tháng 7 năm 2003, sau hơn 5 năm Đà Nẵng vận hành theo cơ chế mới, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 145/2003/QĐ-TTg công nhận thành phố Đà Nẵng là đô thị loại I cấp quốc gia. Tiếp đó, ngày 16 tháng 10 năm 2003, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Nghị quyết số 33-NQ/TW). Việc Trung ương công nhận đô thị loại I đối với thành phố Đà Nẵng và ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW là sự khẳng định đúng đắn vai trò, vị trí của thành phố đối với sự phát triển của miền Trung và cả

Page 283: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

283

nước, đồng thời là căn cứ quan trọng để thành phố xây dựng các chương trình, đề án, vận dụng sáng tạo các cơ chế, chính sách, tạo sự đột phá để phát triển Đà Nẵng. Nghị quyết số 33-NQ/TW đã nêu rõ: “Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch vụ; là thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông và tài chính - ngân hàng; một trong những trung tâm văn hóa - thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước. Đà Nẵng phải phấn đấu để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020”(1).

Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Kế hoạch số 19-KH/TU triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết và Chương trình hành động số 16-CTr/TU, trong đó đề ra 12 chương trình trọng tâm trên các ngành, lĩnh vực để thực hiện Nghị quyết. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân thành phố đã xây dựng, ban hành 24 quyết định để triển khai toàn diện các chương trình trọng tâm của Thành ủy; gắn việc nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết với xây dựng chương trình hành động, kế hoạch triển khai thực hiện của từng địa phương, đơn vị. Trên tinh thần đó, việc triển khai Nghị quyết được tiến hành ở cả 3 cấp (thành phố, quận huyện, cơ sở) và tuyên truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Qua tổ chức tuyên truyền, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết, các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã nhận thức được tầm quan trọng của Nghị quyết số 33-NQ/TW, xem

(1) Nghị quyết của Bộ Chính trị: “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 16 tháng 10 năm 2003”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 284: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

284

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

đây là văn kiện có ý nghĩa lịch sử trong quá trình phát triển của thành phố; đồng thời thấy rõ trách nhiệm và cơ hội phấn đấu để đưa thành phố phát triển toàn diện với tốc độ nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực, góp phần vào việc thúc đẩy kinh tế - xã hội khu vực miền Trung và Tây Nguyên.

Để triển khai đồng bộ 12 chương trình trọng tâm, Ban Thường vụ Thành ủy đã phân công các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, cấp ủy viên chủ trì, cùng lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan chỉ đạo từng lĩnh vực. Hằng năm, đánh giá tình hình, báo cáo kết quả thực hiện về Ban Thường vụ Thành ủy để theo dõi, chỉ đạo. Cùng thời gian này, Ban Thường vụ Thành ủy đã chỉ đạo các địa phương, đơn vị tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến 2010”, kết hợp chặt chẽ với các chương trình thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW.

Thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 13 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg phê duyệt phương hướng phát triển kinh tế - xã hội Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, trong đó chỉ đạo xây dựng một số công trình trọng điểm nhằm tạo động lực phát triển cho thành phố Đà Nẵng như đã xác định trong Nghị quyết số 33-NQ/TW. Ngày 28 tháng 9 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1022/2004/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo Tổ chức điều phối phát triển Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

Trung thành với mục tiêu và ý tưởng đề ra, từ năm 2001 đến năm 2005, Đà Nẵng đã huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển; tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, đô thị đồng bộ, đi đôi với nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, quản lý đô thị nhằm phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Tập trung triển khai xây dựng, đẩy nhanh tiến độ và đưa vào sử dụng

Page 285: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

285

các công trình trọng điểm. Nhờ vậy, thành phố không ngừng phát triển nhanh cả bề rộng và chiều cao qua các con đường, công trình hiện đại, làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt đô thị Đà Nẵng. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản không ngừng tăng lên qua từng năm: Năm 2002, tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn thành phố ước đạt 2.400 tỷ đồng; trong đó, vốn do địa phương quản lý 2.000 tỷ đồng; các bộ, ngành Trung ương quản lý hơn 50 công trình với tổng vốn đầu tư khoảng 400 tỷ đồng. Năm 2003, tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn thực hiện đạt 3.610 tỷ đồng, trong đó vốn địa phương quản lý 3.110 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách thành phố là 1.898 tỷ đồng, bằng 112,53% kế hoạch(1). Năm 2004, tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn thực hiện 5.517,6 tỷ đồng, tăng 68,87% so với năm 2003, trong đó vốn đầu tư phát triển từ ngân sách thành phố 3.418 tỷ đồng, tăng 80% so với năm 2003, vượt 28,72% kế hoạch. Năm 2005, tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn thực hiện 8.162 tỷ đồng, vượt 31,7% kế hoạch, tăng 23,6% so với năm 2004, trong đó vốn từ ngân sách thành phố là 3.535,6 tỷ đồng(2).

Điều đó cho thấy, tổng vốn đầu tư phát triển tăng nhanh qua các năm, ước đạt 23.912 tỷ đồng trong 5 năm (2001-2005), tăng bình quân 28,2%/năm. Nhiều công trình trọng điểm về kinh tế - xã hội bao gồm các công trình dân dụng, công nghiệp, cơ sở hạ tầng, những công trình quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp và chất lượng cao đã được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng. Trong đó có các công trình do Trung ương đầu tư như: Quốc lộ 1A được nâng cấp và mở rộng, hầm đường bộ qua đèo Hải Vân, đường 14B, Cầu Tuyên Sơn, nâng cấp Cảng Tiên Sa... Và

(1) Trong đó, các công trình xây dựng bằng phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm thực hiện trên 80 tỷ đồng, nhân dân đóng góp và huy động khác 28 tỷ đồng.(2) Thành ủy Đà Nẵng: “Tổng hợp các Báo cáo tổng kết các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 286: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

286

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

các công trình của thành phố như các tuyến đường Ngô Quyền, đường Nguyễn Tất Thành, Phạm Văn Đồng, Sơn Trà - Điện Ngọc (đường Hoàng Sa - Võ Nguyên Giáp - Trường Sa ngày nay), Điện Biên Phủ, Bạch Đằng... Thành phố cũng tập trung triển khai xây dựng, đẩy nhanh tiến độ và đưa vào sử dụng các công trình trọng điểm như: Trung tâm hành chính thành phố, Cầu Rồng, cầu Nguyễn Văn Trỗi, đường Nguyễn Văn Linh nối dài, Khu Công nghệ thông tin tập trung, Khu Công nghiệp công nghệ cao, mở rộng quốc lộ 1A, Ga hàng không quốc tế, mở rộng Cảng Tiên Sa (giai đoạn 2), xây dựng đề án di dời Ga đường sắt và đường cao tốc Dung Quất - Quảng Ngãi. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch không gian đô thị theo hướng Tây, Tây - Bắc, Nam, Đông - Nam, với quy mô hiện đại có phân khu chức năng, đặc biệt là các khu trung tâm, các trung tâm chuyên ngành(1).

Trong đó, công trình cầu Thuận Phước là công trình đặc biệt sau cầu Sông Hàn. Cầu Thuận Phước được khởi công xây dựng vào ngày 16 tháng 01 năm 2003, với vốn đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng do thành phố Đà Nẵng làm chủ đầu tư từ nguồn ngân sách. Cầu dài 1.856 mét, rộng 18 mét (4 làn xe) và là cầu treo dây võng dài nhất Việt Nam (khoảng cách giữa hai trụ là 405 mét). Cầu Thuận Phước được ví như dải lụa nối đôi bờ sông Hàn. Nhìn từ mọi góc độ, cầu Thuận Phước đều mang một dáng vẻ hiện đại, lộng lẫy và đầy quyến rũ. Cây cầu nằm ở vị trí đặc biệt, nơi con sông Hàn đổ ra biển tại cửa vịnh Đà Nẵng, nối liền hai tuyến đường ven biển Nguyễn Tất Thành và Hoàng Sa - Trường Sa, tạo thành hệ thống tuyến giao thông liên hoàn ven biển từ hầm Hải Vân đến bán đảo Sơn Trà, qua cầu Mân Quang và nối liền với tuyến du lịch Sơn Trà - Hội An. Từ đó, một hệ thống giao thông - du lịch hoàn chỉnh được hoàn thiện, mở ra khả năng khai thác tiềm năng du lịch không chỉ riêng Đà

(1) Trích “Diễn văn khai mạc Đại hội Đại biểu lần thứ XIX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 287: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

287

Nẵng mà cho cả các địa phương lân cận như Hội An và Thừa Thiên - Huế(1).

Thực hiện chủ trương đẩy mạnh việc xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị, trọng tâm là các khu tái định cư để có đất bố trí trên thực tế cho các hộ dân giải tỏa, Ban Thường vụ Thành ủy đã chỉ đạo quyết liệt công tác đền bù giải tỏa, giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư, tổ chức tiếp dân, giải quyết các vụ việc tồn đọng trên lĩnh vực đất đai; rà soát, xác định danh mục các dự án ưu tiên, phân công lãnh đạo thành phố trực tiếp theo dõi, chỉ đạo việc thực hiện từng dự án, thực hiện việc cắt giảm, điều chỉnh vốn đối với các dự án có tiến độ giải tỏa chậm, dở dang và chưa thật cấp bách; đồng thời, đẩy mạnh công tác khai thác quỹ nhà, đất, đôn đốc thu hồi nợ, vay… để có nguồn vốn tập trung đầu tư cho các dự án bức thiết.

Các quận, huyện, ban quản lý dự án, ban giải tỏa đền bù, tái định cư, các công ty quản lý và khai thác đất của thành phố và các đơn vị thi công đã phối hợp tích cực trong việc giải tỏa đền bù, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, bố trí đất tái định cư. Nhờ đó, về cơ bản, thành phố đã hoàn thành việc bố trí đất thực tế cho các hộ dân đã giải tỏa bàn giao mặt bằng trong hầu hết các dự án, công trình trọng điểm. Công tác quy hoạch, quản lý đô thị, quản lý xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và sử dụng đất, thu hồi đất, giao đất có nhiều cố gắng và tiến bộ. Các ngành xây dựng, giao thông công chính, tài nguyên môi trường, điện chiếu sáng, cấp thoát nước tăng cường phối hợp trong quá trình xây dựng cơ bản, chỉnh trang đô thị(2).

(1) Ban đầu, dự định sẽ khánh thành vào ngày 30 tháng 4 năm 2005 để mừng Kỷ niệm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước nhưng tiến độ bị giảm vì những khó khăn từ lớp đất bên dưới lòng cửa sông nên cầu thông xe kỹ thuật ngày 25 tháng 3 năm 2009 và khánh thành ngày 19 tháng 7 năm 2009.(2) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo tổng kết năm 2005”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 288: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

288

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Thời gian này, Ban Thường vụ Thành ủy tập trung chỉ đạo công tác đền bù giải tỏa, giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư, thi công ba ca, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình; đồng thời chấn chỉnh tình trạng thi công dàn trải, chỉ đạo tiến hành giãn và hoãn tiến độ thi công một số công trình; điều chỉnh giảm vốn một số công trình chưa có khả năng thực hiện để chuyển vốn cho một số công trình trọng điểm, mặt khác, chỉ đạo đẩy mạnh các biện pháp tạo nguồn thu cho ngân sách (vay, khai thác quỹ nhà, quỹ đất, thu hồi nợ tiền đất trong dân...) để tập trung nguồn lực cho những công trình bức thiết.

Trong việc thực hiện chủ trương “tạo vốn từ quỹ đất để xây dựng cơ sở hạ tầng”, để thống nhất trong hành động, Thường trực Thành ủy giao cho Ủy ban nhân dân thành phố (đại diện chủ sở hữu) là người duy nhất, trực tiếp tổ chức và thống nhất quản lý việc khai thác quỹ đất để tạo vốn: Từ việc lập các đồ án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất dài hạn và hằng năm; thu hồi đất, bồi thường thiệt hại và bố trí tái định cư cho người đang sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật; việc chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất, thu tiền vào ngân sách và sử dụng đồng vốn tạo ra đầu tư xây dựng cơ bản theo quy định của pháp luật, tránh thất thoát.

Theo đó, Ủy ban nhân dân thành phố đã chỉ đạo các ban quản lý dự án, ban giải tỏa đền bù, tái định cư, các công ty quản lý và khai thác đất của thành phố tập trung chỉ đạo thi công các khu dân cư, đảm bảo trước ngày 31 tháng 12 năm 2004 bố trí dứt điểm đất tái định cư thực tế cho các hộ giải tỏa đã bàn giao mặt bằng cho dự án trước ngày 30 tháng 6 năm 2004. Nhờ đó, nhiều công trình của thành phố hoặc do Trung ương quản lý được đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành đưa vào sử dụng, như Khu neo đậu âu thuyền Thọ Quang, cầu Tuyên Sơn, đường Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Hoàng, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Duy Hiệu, Hồ Xuân Hương, cầu vượt Hòa Cầm, hầm đường bộ Hải Vân... Công tác

Page 289: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

289

quy hoạch, quản lý đô thị, quản lý xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và sử dụng đất, thu hồi đất, giao đất có nhiều tiến bộ. Các ngành xây dựng, giao thông công chính, tài nguyên môi trường, điện chiếu sáng, cấp thoát nước phối hợp tốt trong quá trình xây dựng cơ bản, chỉnh trang đô thị. Tình trạng lấn chiếm, xây dựng, cơi nới nhà trái phép cơ bản được chấn chỉnh(1).

Phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” ngày càng phát huy tác dụng trong xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ dân sinh. Từ năm 2001 đến năm 2005, nhân dân thành phố đã đóng góp tiền mặt, đất đai và các công trình, vật kiến trúc với tổng giá trị hàng trăm tỷ đồng để góp phần cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang khu vực đô thị và hệ thống hạ tầng nông thôn. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền đường lối chính sách để nhân dân thực hiện, nên tính đến cuối năm 2003, thành phố đã thực hiện chỉnh trang đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm đã giải tỏa, di dời trên 52.000 hộ dân cư(2) nhưng không để xảy ra khiếu kiện đông người, vượt cấp, không xảy ra “điểm nóng”. Chính nhờ chủ trương tạo vốn từ quỹ đất để phát triển cơ sở hạ tầng và thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” được triển khai thực hiện có hiệu quả, khơi dậy và phát huy ý chí, nguồn lực tại chỗ để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội thành phố nên trong một thời gian rất ngắn Đà Nẵng đã thực hiện thành công việc đẩy nhanh tốc độ chỉnh trang đô thị, hoàn thành được nhiều công trình hạ tầng quan trọng, tạo ra diện mạo mới của một đô thị phát triển theo hướng văn minh, hiện đại.

Có thể nói, trong những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng đạt được từ năm 2001 đến năm 2005, thì tốc độ đô thị hóa, xây

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo tổng kết năm 2004”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng. (2) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: “Báo cáo kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện kết luận của Ban Bí thư về hai cuộc kiểm tra năm 2002”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 290: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

290

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị được xem là nổi bật nhất. Thành phố đã tạo được dấu ấn trong việc thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và chủ trương “khai thác quỹ đất tạo vốn để phát triển cơ sở hạ tầng”. Hầu hết các con đường nội thành khi mở rộng, nâng cấp, người dân hiến đất, thành phố không phải đền bù. Hàng ngàn căn hộ chung cư được xây dựng mới; hàng trăm kilômét đường giao thông mới được thảm nhựa; hàng chục khu dân cư mới ra đời. Từ Sơn Trà đến Điện Ngọc, dọc con đường ven biển là những khu du lịch cao cấp. Nhiều trường học, bệnh viện được xây mới khang trang. Nhiều cây cầu mới được bắc qua sông Hàn; những xóm nhà chồ ở bờ Đông sông Hàn, những khu nhà ổ chuột ở Bàu Thạc Gián nay không còn nữa. Tất cả đã và đang làm cho thành phố mỗi ngày một đẹp hơn và phục vụ thiết thực đời sống nhân dân. Những thành quả đó đều thấm đẫm mồ hôi, sự chung tay, góp sức đầy sáng tạo, quên mình của người dân với sự trăn trở trên bước đường xây dựng và phát triển của thành phố.

Tuy nhiên, lãnh đạo thành phố cũng thường xuyên nghiêm túc nhìn nhận lại chính mình để làm tốt hơn mục tiêu mà Đảng bộ đặt ra: “Đà Nẵng đã phát triển xứng đáng với vị thế và tiềm năng của mình, xứng đáng với sự tin cậy giao phó của cả nước hay chưa? Đà Nẵng - một thành phố anh hùng trong chiến đấu đã viết tiếp được những trang sử huy hoàng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hay chưa? Tất cả những điều đó phụ thuộc ở bản lĩnh, trí tuệ, sự lao động, sự phấn đấu quyết liệt cùng với sự năng động, sáng tạo và đầy tâm huyết của mỗi chúng ta”(1). Thực tế cho thấy, trong thời gian ngắn ngủi đó, đã có gần 70 nghìn hộ dân trong diện giải tỏa, di dời, dù còn chút ít băn khoăn, trăn trở nhưng đã tự nguyện bàn giao mặt bằng cho các dự án, công trình để có một Đà Nẵng đàng hoàng hơn, văn minh và xanh sạch đẹp hơn.

(1) Trích “Diễn văn Kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng thành phố Đà Nẵng (29/3/1975 - 29/3/2010)”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 291: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

291

Và, “Thành phố đã và đang đổi thay, phát triển nhanh chóng, cả gương mặt và tâm hồn, cả cuộc sống chung và cuộc đời riêng, từng người và từng nhà. Khẳng định và biểu dương những thành tựu to lớn đó là việc làm rất cần thiết vì đó là công lao của cả cộng đồng khối đại đoàn kết toàn dân thành phố, những người giàu lòng yêu nước và cách mạng, luôn yêu mến gắn bó với thành phố quê hương, với đất nước. Những thành tựu to lớn đó đã đi vào lòng người, đang hiện hữu trong thực tiễn cuộc sống của mỗi chúng ta và sẽ là gia tài chung của thành phố mai sau”(1).

II. NHỮNG THÀNH TỰU BƯỚC ĐẦU VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA - XÃ HỘI TRÊN CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG MỘT “ĐÀ NẴNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH” (2001-2005)

Từ mục tiêu, phương hướng Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XVIII đặt ra là: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chủ trương “kéo dài bờ biển, kéo dài dòng sông”; tiếp tục thực hiện khai thác hiệu quả các chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, các cam kết song phương, đa phương nhằm phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện vị thế thành phố và phát triển bền vững; đẩy mạnh thực hiện Đề án “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, đề án về “Phát triển kinh tế tư nhân” và Đề án “Quy hoạch và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Đà Nẵng”. Xây dựng và triển khai các chương trình thành phố môi trường; khai thác, quản lý và bảo vệ tốt các nguồn tài nguyên; phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường; phát triển văn hóa - xã hội tương xứng với phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân và đảm bảo an sinh xã hội. Giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa. Thực

(1) Trích “Diễn văn do đồng chí Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng trình bày tại Đại hội đại biểu lần thứ XIX của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 292: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

292

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

hiện lồng ghép Đề án “Nếp sống văn hóa - văn minh đô thị” với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trong các khu dân cư. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Chương trình thành phố “5 không”(1) và “3 có”(2); tiếp tục quán triệt và thực hiện Chương trình hành động 35 của Thành ủy về “Xây dựng thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”... Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng đã đạt được những thành tựu quan trọng, đặt nền móng cho việc xây dựng một Đà Nẵng “giàu mạnh, văn minh”.

Từ năm 2001 đến năm 2005, mặc dù tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến đổi, tác động không nhỏ đến việc xây dựng và phát triển kinh tế của thành phố Đà Nẵng song Đảng bộ và nhân dân của thành phố đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tương đối toàn diện trong một khí thế mới với sự ổn định về chính trị, đồng thuận xã hội, tình cảm gắn bó tự hào với quê hương và tinh thần năng động sáng tạo sau khi thành phố đã làm quen với vị thế mới của một thành phố trực thuộc Trung ương.

Trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp, Thành ủy đã tập trung chỉ đạo quyết liệt những nhiệm vụ trọng tâm trên lĩnh vực này. Nhờ vậy, tốc độ tăng trưởng tăng đều qua từng năm, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, giảm tỷ

(1) Ngày 05 tháng 12 năm 2000, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã có Quyết định số 129/2000/QĐ-UB ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình thành phố 5 không: Không có hộ đói, không có nguời mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma tuý, không có giết người cướp của. (Trong các văn bản chỉ đạo thực tiễn, 2 mục tiêu cuối đã được diễn đạt lại cho rõ hơn: Không có người nghiện ma túy trong cộng đồng và không có giết người để cướp của). Từ năm 2009, mục tiêu “không có hộ đói” và “không có người mù chữ” được điều chỉnh thành “không có hộ đặc biệt nghèo” và “không có học sinh bỏ học”.(2) Chương trình “3 có” gồm: Có nhà ở; có việc làm; có nếp sống văn hóa, văn minh đô thị.

Page 293: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

293

trọng nông nghiệp trong GDP. Nếu năm 2001, giá trị sản xuất toàn ngành đạt 4.037,78 tỷ đồng, thì đến năm 2005, giá trị toàn ngành thực hiện được 8.542 tỷ đồng, trong đó, công nghiệp Trung ương nhờ có nhiều ưu thế về công nghệ, vốn và thị trường nên tiếp tục tăng trưởng mạnh (tăng 25,8%), với giá trị thực hiện 4.583,6 tỷ đồng. Công nghiệp dân doanh thực hiện 1.438,8 tỷ đồng, tăng 18,2%. Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 1.638,6 tỷ đồng, tăng 26,3%(1). Nhìn chung, từ năm 2001 đến năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp của Đà Nẵng tăng 20,1%/năm; trong đó công nghiệp Trung ương tăng 32,6%, kinh tế ngoài quốc doanh tăng 18,4%, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,8%. Một số sản phẩm đã có sức cạnh tranh trên thị trường như xăm lốp ô tô, hàng may mặc, giày, thủy sản, vật liệu xây dựng, điện tử, cao su, hoá chất và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường phù hợp tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế phục vụ cho xuất khẩu. Tăng trưởng mạnh nhất tập trung ở doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư doanh. Sự chuyển biến này thể hiện rõ kết quả bước đầu của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa thành phố(2).

Đáng chú ý là, công nghiệp Trung ương có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định nhờ được đầu tư lớn và phát huy hiệu quả đầu tư về đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường. Công nghiệp quốc doanh địa phương chú trọng hơn đến chất lượng sản phẩm và thị trường truyền thống nên có chuyển biến tích cực. Công nghiệp ngoài quốc doanh có tốc độ tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay. Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục phát triển, có thêm nhiều doanh nghiệp mới được đưa vào sản xuất. Các Khu công nghiệp tiếp tục thu hút đầu tư, với số vốn lên đến hàng trăm triệu USD. Tuy nhiên,

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số 153-BC/TU ngày 15 tháng 12 năm 2005 của Thành ủy Đà Nẵng về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2005”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.(2) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: sđd, 2013, tr. 272.

Page 294: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

294

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thành phố vẫn còn nhiều khó khăn, quy mô sản xuất nhỏ, sức cạnh tranh của sản phẩm còn yếu, hiệu quả thấp, sản phẩm chất lượng cao chưa nhiều. Cá biệt, một số ngành sản xuất phụ thuộc vào nguyên liệu ngoại nhập, chi phí đầu vào cao, tiêu thụ kém, nên sản xuất cầm chừng và có xu hướng giảm sút như: Cán kéo thép, công nghiệp hóa chất, dệt may...(1).

Hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ sôi động, với nhiều ngành hàng kinh doanh dịch vụ đa dạng; nhiều hình thức kinh doanh văn minh, hiện đại như siêu thị, cửa hàng tự chọn, trung tâm giao dịch ra đời. Mạng lưới kinh doanh được mở rộng; hệ thống chợ được quy hoạch và tổ chức lại; cửa hàng, cửa hiệu phát triển rộng khắp cả ở thành thị và nông thôn, miền núi. Công tác quản lý thị trường, xúc tiến thương mại được tăng cường, góp phần bình ổn giá cả, tăng sức mua trong dân. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ không ngừng tăng lên: Nếu năm 2001 tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ đạt 18.775 tỷ đồng; trong đó, bán lẻ 4.961 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn thực hiện 269,52 triệu USD(2) thì đến năm 2005, tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ đạt 28.445,2 tỷ đồng, trong đó bán lẻ đạt 8.500 tỷ đồng(3). Tuy nhiên, giá cả một số mặt hàng tiêu dùng và vật tư tăng cao, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân thành phố. Nhìn chung, hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ khá sôi động; vật tư, hàng hóa dồi dào. Công tác quản lý thị trường, xúc tiến thương mại, thông tin thị trường, giới thiệu sản phẩm và tư vấn cho người tiêu dùng được đẩy mạnh, góp phần bình ổn thị trường, tăng sức mua trong dân.

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo tổng kết năm 2003”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng. (2) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo tổng kết năm 2001”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng. (3) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo tổng kết năm 2005”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 295: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

295

Việc thực hiện cắt giảm thuế suất các mặt hàng tiêu dùng theo lộ trình hội nhập AFTA không gây tác động lớn đến thị trường và người tiêu dùng thành phố.

Ngành thủy sản, nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển theo hướng chú trọng ứng dụng các tiến bộ khoa học để tăng năng suất. Nhờ huy động tốt năng lực tàu thuyền hiện có (đến năm 2005, Đà Nẵng có trên 2.000 chiếc tàu, thuyền) và tận dụng được diện tích mặt nước để nuôi trồng, nên sản lượng đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản đạt khá, nhiều sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao. Trong sản xuất lương thực, nhiều địa phương đã áp dụng chương trình giống lúa lai và cấp I hóa giống lúa vào các vụ sản xuất. Công tác quản lý, bảo vệ rừng và kiểm soát lâm sản trên địa bàn được triển khai thực hiện; các Ban Quản lý dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã triển khai thực hiện nhiệm vụ lâm sinh theo kế hoạch Dự án 661 năm 2002.

Thành ủy chủ trương sắp xếp, chuyển đổi các thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố một cách hiệu quả hơn nhằm hội nhập sâu hơn trong khu vực và quốc tế. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp để tăng tính tự chủ trong kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Thành phần kinh tế tư nhân có bước phát triển mạnh(1). Từ năm 2002, thành phố đã sáp nhập 18 doanh nghiệp thành 9 doanh nghiệp, giao 2 doanh nghiệp cho người lao động, chuyển 2 doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, đôn đốc 4 doanh nghiệp xây dựng Đề án để cổ phần hóa trong năm 2003, triển khai phá sản 2 doanh nghiệp nhà nước, giải thể 1 doanh nghiệp, hoàn thành nhượng bán toàn bộ thiết bị dây chuyền sản xuất bia của Công ty Bia Đà Nẵng và triển khai quyết định của Ủy ban nhân dân

(1) Căn cứ Kết luận của Thành ủy Đà Nẵng tại Hội nghị lần thứ 5 (ngày 09 tháng 01 năm 2002), Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã ký Quyết định số 19/2002/QĐ-UB, ngày 06 tháng 02 năm 2002 về việc phê duyệt Đề án “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước thuộc thành phố Đà Nẵng quản lý đến 2005”.

Page 296: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

296

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thành phố sáp nhập vào Công ty Thủy sản và thương mại Thuận Phước… Các doanh nghiệp sau khi được tổ chức sắp xếp lại đã có sự chuyển biến tích cực trên nhiều phương diện. Công tác tổ chức được củng cố, tính dân chủ trong quản lý kinh doanh được nâng lên, giải quyết được cơ bản những tồn tại về tài chính và đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, nâng cao được năng lực cạnh tranh, ổn định việc làm và đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất (Công ty Cao su, Dệt may Hòa Thọ, Gạch men Cosevco, Xây lắp Điện III, Thực phẩm miền Trung, Kỹ thuật công nghệ, Dệt Đà Nẵng, Dệt may 29-3, Nhà máy cơ khí ô tô, Tổng công ty Dệt may Việt Nam và Tổng công ty Xây dựng miền Trung...) sẽ tăng thêm năng lực mới cho sản xuất công nghiệp… Qua 5 năm đã thu hút được 50 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư 291,5 triệu USD; nâng tổng số lên 79 dự án với tổng vốn đầu tư 506,4 triệu USD. Hoạt động đối ngoại có nhiều nhân tố mới cả về đối ngoại nhà nước và đối ngoại nhân dân. Ngoài những mối quan hệ truyền thống, đã mở rộng địa bàn, thêm nhiều đối tác, bắt đầu mở cơ quan đại diện của thành phố tại nước ngoài. Công tác tuyên truyền, giới thiệu các thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được quan tâm.

Tuy nhiên, sau khi sắp xếp lại vẫn còn một số doanh nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng thua lỗ kéo dài, khả năng cạnh tranh hạn chế, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ doanh nghiệp chưa cao. Một số doanh nghiệp tình hình tài chính thiếu lành mạnh, nợ khó đòi và vật tư hàng hóa ứ đọng chậm luân chuyển lớn, máy móc thiết bị sản xuất lạc hậu chưa được đổi mới, lao động dôi dư không được giải quyết triệt để nên lỗ lũy kế tiếp tục tăng.

Thành phố cũng đặc biệt chú trọng phát triển kinh tế tư nhân, vốn đầu tư phát triển của kinh tế tư nhân tăng nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng vốn đầu tư trên địa bàn

Page 297: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

297

thành phố(1). Tính đến năm 2005, toàn thành phố có 4.859 doanh nghiệp đăng ký hoạt động với tổng số vốn là 8.443 tỷ đồng, trong đó: 1.375 doanh nghiệp tư nhân, 2.382 công ty trách nhiệm hữu hạn, 377 công ty cổ phần, 725 chi nhánh - văn phòng đại diện của các doanh nghiệp(2). Kinh tế tư nhân phát triển đã góp phần mở ra nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh, hàng hóa ngày càng đa dạng, phong phú, hình thành mạng lưới kinh doanh thương mại rộng khắp, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư và tham gia xuất khẩu ngày càng tăng. Ngoài ra, thành phố đã chọn năm 2004 làm “Năm doanh nghiệp” và chỉ đạo các ngành, các địa phương tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp trên địa bàn, trong đó chú trọng cải thiện môi trường đầu tư, bảo đảm mặt bằng sản xuất kinh doanh và tạo cơ chế tài chính linh hoạt phục vụ nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động của các loại hình doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; lãnh đạo thành phố thường xuyên sâu sát cơ sở, kịp thời giải quyết những khó khăn, tháo gỡ vướng mắc của địa phương, đơn vị, doanh nghiệp, điều chỉnh những quy định bất hợp lý, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống.

Về kinh tế du lịch, sau khi Đà Nẵng trực thuộc Trung ương, tốc độ phát triển du lịch thành phố trong những năm qua luôn đạt bình quân 18 - 20%/năm, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho xã hội, thúc đẩy các ngành kinh tế khác

(1) Năm 1997, tổng vốn đầu tư của kinh tế tư nhân 191,76 tỷ đồng, chiếm 10,2% trong tổng vốn đầu tư phát triển của thành phố đến năm 2001 là 917,35 tỷ đồng và 27,33%. Năm 2001, lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân là 90.076 người, chiếm 27,8% số lao động đang làm việc; trong đó lao động nông nghiệp là 7.695 người, chiếm 2,3%. Thu nhập bình quân của một lao động trong các doanh nghiệp tư nhân từ 300.000 đồng/tháng năm 1997 lên khoảng 700.000 đồng/tháng năm 2001. (2) Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2013): sđd, tr. 274.

Page 298: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

298

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

phát triển, khai thác và bảo tồn các di sản văn hóa, đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của thành phố; bước đầu khẳng định được vị trí của du lịch thành phố đối với khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung. Thành phố có nhiều chủ trương, chính sách để đẩy ngành “công nghiệp không khói” này(1). Tập trung đầu tư phát triển mạnh 6 khu du lịch trọng điểm gồm các khu du lịch biển: Non Nước - Ngũ Hành Sơn - Bắc Mỹ An, Mỹ Khê - Sơn Trà, Xuân Thiều - Nam Ô - Hải Vân; các khu du lịch núi, đồng quê: Bà Nà - Suối Mơ, Đồng Nghệ - Phước Nhơn và khu du lịch trung tâm thành phố; đầu tư xây dựng các tuyến đường du lịch ven biển Liên Chiểu - Thuận Phước, Sơn Trà - Non Nước, đường ra bán đảo Sơn Trà; phối hợp các bộ ngành Trung ương đẩy mạnh việc triển khai dự án nâng cấp, xây dựng mới các nhà ga hàng không, cảng biển, tiếp tục xúc tiến mở các chuyến bay quốc tế và nội địa trực tiếp đến Đà Nẵng. Trong 5 năm 2001-2005, ngành du lịch có nhiều triển vọng phát triển; lượng khách tăng 10,9%/năm; tổng doanh thu tăng 7,9%/năm. Tuyến du lịch kết nối Đà Nẵng với 3 di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn, Hội An và cố đô Huế bước đầu phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngành du lịch Đà Nẵng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; chưa tạo được ấn tượng mạnh mẽ, chưa thật sự trở thành điểm đến có sức thu hút và lưu giữ khách trong và ngoài nước; đóng góp vào hoạt động kinh tế - xã hội của thành phố còn hạn chế.

Qua 5 năm 2001-2005, tổng sản phẩm nội địa (GDP) của thành phố Đà Nẵng bình quân tăng 13%/năm. Thu nhập bình quân đầu người tính theo năm 2005 đạt 15,23 triệu đồng (tương đương 1.015 USD), tăng 2,2 lần so với năm 2001. Đến năm 2005, tỷ trọng các ngành trong GDP là: Công nghiệp chiếm 48,2%, dịch vụ 46,1%, nông nghiệp 5,7%. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thành phố vẫn còn những khiếm khuyết, hạn chế trên các

(1) Thành ủy đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 14 tháng 8 năm 2002 “Về đẩy mạnh phát triển du lịch thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ mới”.

Page 299: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

299

lĩnh vực như: Tốc độ tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững. Quy mô kinh tế thành phố còn nhỏ, chất lượng thấp, chưa tương xứng với vai trò thành phố động lực của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Công nghiệp chưa định hình rõ được ngành, sản phẩm chủ lực, còn ít sản phẩm khẳng định được thương hiệu, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế còn thấp. Việc đổi mới công nghệ còn chậm. Thương mại chưa thực sự đảm nhận được vai trò cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng; dịch vụ vận tải biển đang là khâu yếu. Dịch vụ tài chính tiền tệ chậm phát triển, dịch vụ khoa học và công nghệ chưa được chú ý đúng mức. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thấp cả về số lượng và quy mô dự án. Nguồn thu ngân sách khá cao nhưng cơ cấu chưa thật hợp lý. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn gặp nhiều khó khăn trước đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước, nhất là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm.

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, sau 8 năm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, Đà Nẵng đã “thực hiện tốt chủ trương gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, quan tâm nhân tố con người, chú trọng đầu tư cho giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ...”(1).

Thời gian này, Đà Nẵng dần hình thành hệ thống các trường đại học (thuộc Đại học Đà Nẵng) và một số trường đại học khác, các cơ quan nghiên cứu với một đội ngũ cán bộ khoa học khá, trình độ dân trí cao là điều kiện để trở thành trung tâm đào tạo khoa học - kỹ thuật cho vùng và cả nước. Thành phố đã chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, có tay nghề cao cho các ngành kinh tế của thành phố. Hệ thống trường dạy nghề, cơ sở đào tạo được phát triển, đáp ứng được yêu cầu học tập của

(1) Nghị quyết của Bộ Chính trị: “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 16 tháng 10 năm 2003”, tlđd.

Page 300: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

300

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt ưu tiên cho bộ đội phục viên xuất ngũ và người dân thuộc diện giải tỏa đền bù, mất đất sản xuất nhằm ổn định đời sống và nâng cao thu nhập của người dân. Thành tựu còn được thể hiện ở chỉ số phát triển con người - HDI của Đà Nẵng được xếp vị trí thứ 4 trong cả nước(1).

Ngành giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển ổn định về quy mô, duy trì và nâng cao chất lượng ở tất cả các cấp học, ngành học. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển ổn định, chất lượng được duy trì, quy mô được mở rộng, các loại hình đào tạo khá phong phú, đáp ứng yêu cầu đa dạng của người học, góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Thành phố có một số chính sách mang tính đột phá trong việc thu hút chất xám, đào tạo nhân tài, nổi bật là việc tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn và thực hiện chính sách ưu đãi dành cho giáo viên và học sinh trường này bằng ngân sách của thành phố. Theo đó, hằng năm những học sinh hội đủ các điều kiện theo quy định thì sẽ được cấp học bổng đi đào tạo tại các trường đại học trọng điểm trong nước từ 25 triệu đến 30 triệu đồng/người/năm học; và từ 5.000-20.000 USD/người/năm học đi đào tạo tại các trường đại học ở nước ngoài. Năm 2004, thành phố xét tuyển đưa đi đào tạo 62 học sinh. Năm 2005, Đà Nẵng đã có trên 30.000 cán bộ có trình độ đại học và trên đại học, đồng thời hoàn thành phổ cập giáo dục bậc tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi, có 47/56 phường xã đạt chuẩn phổ cập bậc trung học. Vào thời gian này, khi thành phố thực hiện chính sách thu hút nhân tài, lực lượng cán bộ trẻ dưới 40 tuổi chiếm đến 40% tổng số cán bộ, công chức đang làm việc tại các cơ quan Đảng, nhà nước(2).

(1) Theo Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng, http://www.danangcity.gov.vn(2) Ngày 12 tháng 5 năm 2004, Uỷ ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 163/QĐ-UB về việc thành lập “Câu lạc bộ cán bộ trẻ thành phố Đà Nẵng” nhằm khuyến khích, động viên sự cống hiến, đóng góp của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ thành phố.

Page 301: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

301

Song hành với việc phát triển kinh tế, Đà Nẵng tập trung vào hai nội dung cơ bản về văn hóa là: “Xây dựng tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, nhân cách và nếp sống văn minh, hiện đại cho các tầng lớp nhân dân đang sinh sống và làm việc tại Đà Nẵng”. Và, “Giữ gìn, phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống của thành phố nhằm nâng cao lòng tự hào về truyền thống quê hương, xây dựng tình cảm gắn bó và tình yêu quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ hôm nay và các thế hệ tiếp theo. Giới thiệu, trao đổi các giá trị văn hóa của thành phố với các địa phương trong nước và thế giới. Gắn với việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa với việc xây dựng các tuyến, điểm du lịch”(1). Việc đẩy mạnh cơ sở hạ tầng làm đòn bẩy cho sự tăng trưởng về mọi mặt, là một chủ trương đúng và hiệu quả đối với Đà Nẵng, xét ở góc độ văn hóa và giáo dục. Nhiều dãy phố mới, các khu dân cư mới được hình thành với những kiến trúc mới như: Thạc Gián, Vĩnh Trung, Bạch Đằng Đông... bảo đảm cho nhiều đối tượng được hưởng phúc lợi công cộng, đã góp phần làm thay đổi ý thức, tinh thần và văn hoá lối sống của người dân. Đúng như sự trải nghiệm của một nhà văn nổi tiếng xứ Quảng từng nhớ lại: “Tôi nhớ đường Đống Đa và đường Nguyễn Tri Phương. Không phải đường phố, còn tệ hơn cả đường làng, ổ voi chứ không phải ổ gà. Rác ngập ra đường, bám chân người đi qua. Thường vẫn vậy, rác trên đường, rác ngay trước cửa nhà, dây cả vào nhà thì cũng dây cả vào tâm trạng con người. Tôi xin lỗi, tôi biết ngày ấy, người ta, người dân Đà Nẵng cũng sẵn sàng thả mình sống nhếch nhác. Trước hết từ việc đổ bừa rác ra đường, rồi cả chính trong nhà mình nữa, chính mình nữa, từ ăn mặc cho đến cư xử nhếch nhác cũng chẳng buồn quan tâm. Cho đến một hôm, chính con đường ấy được cương quyết mở rộng

(1) Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng: “Quyết định số 138/2004/QĐ-UB, ngày 18 tháng 8 năm 2004 về việc thực hiện chương trình phát triển văn hóa, văn học - nghệ thuật và xây dựng nếp sống văn minh đô thị phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và vị thế mới của Đà Nẵng, giai đoạn 2005 - 2010”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Page 302: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

302

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

ra, làm lại, tráng nhựa láng bóng, thật sự hiện đại. Lạ thay, bỗng dưng con người ở hai bên đường thấy chính mình phải thay đổi… theo cho bằng con đường. Một con đường rồi nhiều con đường. Một khu phố rồi cả thành phố…”(1).

Trung thành với mục tiêu phát triển vì con người, Đà Nẵng đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách lớn đều xuất phát từ nhu cầu của đại đa số quần chúng nhân dân, được thể hiện cụ thể qua các chương trình hành động lớn như: “Thành phố 5 không” (không có hộ đói, không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy trong cộng đồng, không có giết người để cướp của). Chương trình này, cùng với chương trình “Thành phố 3 có” (có nhà ở, có việc làm, có nếp sống văn hóa - văn minh đô thị) được đánh giá là những chương trình đột phá, là nét son trong xây dựng và phát triển văn hóa của thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thành phố.

Đối với người mục tiêu “không có người lang thang xin ăn”, thành phố đã chỉ đạo kiên quyết từ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho 2 Trung tâm (Bảo trợ xã hội và Trung tâm điều dưỡng người tâm thần) thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để đủ sức phân loại đưa họ về hòa nhập cộng đồng hoặc quản lý, nuôi dưỡng tập trung đến việc hình thành tổ chuyên trách, lập đường dây nóng, trang bị xe chuyên dùng, thưởng cho người phát hiện để thu gom được người lang thang... đã đem lại kết quả thiết thực. Kết quả, mục tiêu không có người lang thang xin ăn cơ bản được khống chế trên địa bàn. Tập trung 1.582 đối tượng lang thang xin ăn trên địa bàn, trong đó 24,8% có địa chỉ ở thành phố, 72,7% ở tỉnh khác và 1,6% chưa xác định; vận động gia đình bảo lãnh, giải quyết cho về địa phương 1.558 lượt người, chuyển vào trung tâm nuôi dưỡng 45 người; Trung tâm Bảo trợ xã hội đang nuôi dưỡng, chăm sóc 179 người. Bên cạnh các biện

(1) Nguyên Ngọc: “Tâm sự đầu năm với Đà Nẵng”, Báo Đà Nẵng xuân Canh Dần, 2010, tr. 11.

Page 303: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

303

pháp tập trung, quản lý, đưa về địa phương, thành phố đã thực hiện đồng thời công tác chăm sóc, giúp đỡ các đối tượng có nguy cơ phát sinh lang thang xin ăn với 14.570 đối tượng được trợ cấp thường xuyên, 101.964 lượt người được cứu trợ đột xuất, nuôi dạy trẻ mồ côi, bảo trợ trẻ em khó khăn nhằm phòng ngừa, đảm bảo không xảy ra tình trạng lang thang xin ăn. Người nghiện ma túy là vấn đề bức xúc nhất trong lĩnh vực xã hội, nên thành phố đã tập trung mọi nguồn lực, đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, tăng cường cán bộ (kể cả 47 chuyên trách về lĩnh vực ma tuý tại 47 xã, phường) để thực hiện được mục tiêu “không có người nghiện ma túy trong cộng đồng”. Trong 5 năm, Ủy ban nhân dân thành phố đã chỉ đạo các ngành, các cấp phát hiện triệt phá và xử lý hơn 189 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, tổ chức, sử dụng các chất ma tuý. Đối với mục tiêu “không có hộ đói”; đầu năm 2001, toàn thành phố có 9.769 hộ nghèo. Bình quân mỗi năm thành phố giảm 1,62% (tương ứng 2.400 hộ), đưa tỉ lệ hộ nghèo của thành phố từ 6,66% (năm 2001) xuống còn 1,80% (cuối năm 2003), năm 2005 toàn thành phố không còn hộ nghèo theo chuẩn của Trung ương.

Từ năm 2001 đến năm 2005, đối với mục tiêu “không có giết người để cướp của”, thành phố đã không để xảy ra trường hợp nào. Để làm được điều đó, Thành ủy chỉ đạo các ngành, các cấp xử lý nghiêm khắc các trường hợp phạm tội. Đồng thời, tổ chức nhiều đợt tuyên truyền về âm mưu, phương thức, thủ đoạn của bọn tội phạm để nâng cao ý thức cảnh giác, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, nhân dân trong đấu tranh phòng chống. Triển khai chủ trương cho các đối tượng hình sự đã có nhiều tiến bộ vay vốn làm ăn, tạo điều kiện hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống. Tăng cường rà soát, theo dõi các đối tượng hình sự đã có tiền án, tiền sự, quản lý các địa bàn phức tạp, trọng điểm và bố trí lực lượng để phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội. Tiến hành các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, triệt phá hàng trăm ổ, nhóm tội phạm, truy bắt và vận động ra đầu

Page 304: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

304

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thú nhiều đối tượng có lệnh truy nã, không để bọn tội phạm manh động gây án nghiêm trọng. Thực hiện việc đăng ký, quản lý các loại hung khí, vũ khí, vật liệu nổ; vận động thu hồi hung khí các loại, không để tội phạm sử dụng gây án. Với quyết tâm và những biện pháp quyết liệt trên, tội phạm giết người cướp của đã được kiềm chế.

Trên lĩnh vực khoa học - công nghệ, từ ngày 03 tháng 10 năm 2000, Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU “Về một số chủ trương phát triển công nghệ phầm mềm và đầu tư xây dựng phát triển Trung tâm công nghệ phần mềm Đà Nẵng”, coi đây là một ngành kinh tế mũi nhọn, một phương tiện chủ lực để “đi tắt đón đầu”, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các thành phố lớn trong cả nước. Ngày 10 tháng 5 năm 2004, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng có Quyết định số 77/2004/QĐ-UB về việc “Quy định nhiệm vụ, tổ chức và biên chế của cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quận, huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ tại địa phương”. Từ sau khi có Nghị quyết số 33-NQ/TW của Trung ương, Ban Thường vụ Thành ủy có Kết luận số 16-KL/TU, ngày 19 tháng 11 năm 2004 về thực hiện Chương trình “Tập trung phát triển công nghiệp, ưu tiên đầu tư đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, phấn đấu là một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Trên cơ sở đó, lĩnh vực khoa học - công nghệ của thành phố có nhiều tiến bộ: Năm 2004, Đà Nẵng có khoảng 30 đơn vị Trung ương và địa phương hoạt động trong lĩnh vực sản xuất gia công phần mềm. Trung tâm công nghệ phần mềm ra đời và hoạt động bước đầu có hiệu quả. Thành phố phê duyệt Đề án tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 2002-2005 (Đề án 112), với tổng vốn đầu tư 63 tỷ đồng và Đề án tin học hóa hoạt động của các cơ quan Đảng giai đoạn 2002-2005, với tổng số vốn đầu tư hơn 10 tỷ đồng. Hầu hết các cơ quan, doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp thuộc thành phố và quận, huyện đều được trang bị

Page 305: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

305

máy vi tính để phục vụ công việc. Hệ thống mạng cục bộ (LAN) tại Văn phòng Thành ủy, các cơ quan khối Đảng; Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố, một số sở ban ngành đã kết nối với các đơn vị cấp dưới; kết nối internet và sử dụng dịch vụ thư điện tử. Công tác vệ sinh môi trường có nhiều chuyển biến tích cực. Thành ủy lãnh đạo các cơ quan, tổ chức khoa học tập trung nghiên cứu đánh giá tài nguyên, khí hậu, thủy văn, nước mặt, nước ngầm; hiện trạng, biến động môi trường và giải pháp xử lý môi trường, cung cấp các dữ liệu khoa học cho lãnh đạo thành phố trong việc hoạch định các dự án quy hoạch thành phố phát triển kinh tế, bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên, môi trường.

Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, sức khỏe sinh sản, dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ - chăm sóc - giáo dục trẻ em, vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được triển khai có hiệu quả trên diện rộng. Cơ sở vật chất khám chữa bệnh được tiếp tục đầu tư nâng cấp. Chủ trương xã hội hóa các hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân được đẩy mạnh, có nhiều bệnh viện tư đi vào hoạt động như bệnh viện Bình Dân, Hoàn Mỹ... Đến năm 2005, thành phố đã đầu tư xây dựng hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở đạt 50% phường, xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010. Các trang thiết bị y tế chuyên sâu, hiện đại được tăng cường để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý y dược tiếp tục triển khai có hiệu quả. Ủy ban nhân dân thành phố và các ngành, các cấp, ngành Y tế đã phòng ngừa và dập tắt các loại dịch bệnh như: Sốt xuất huyết, SARS, cúm gia cầm... trang bị nhiều máy móc hiện đại để tăng cường hoạt động y tế dự phòng chuyên sâu, tham mưu thực hiện các chương trình mục tiêu y tế quốc gia: Thanh toán bệnh bại liệt ở trẻ em, loại trừ bệnh phong ra khỏi cộng đồng, chương trình phòng chống HIV/AIDS, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân trên địa bàn thành phố và khu vực.

Đối với chương trình giải quyết việc làm cho người lao động:

Page 306: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

306

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thành phố coi đây là nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy đã tập trung chỉ đạo các trường, các trung tâm, các ngành, các cấp, các doanh nghiệp trên địa bàn... phối hợp chặt chẽ từ đào tạo, tuyển dụng đến việc thực hiện chính sách đối với người lao động. Hằng năm đều tổ chức các Hội chợ việc làm, trong 5 năm 2001-2005, có hơn 60.000 lao động có việc làm mới, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp. Quá trình giải quyết việc làm cho người lao động, thành phố cũng đã quan tâm đến nhu cầu dịch chuyển lao động theo cơ cấu của nền kinh tế nhằm thúc đẩy kinh tế thành phố phát triển. Công tác đào tạo nghề được quan tâm, mở rộng, đa dạng hóa các hình thức và trình độ đào tạo. Công tác đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc và giải quyết chế độ cho các gia đình chính sách được thực hiện thường xuyên, chu đáo. Công tác thương binh, liệt sĩ và người có công được quan tâm thường xuyên. Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Chỉ thị tăng cường lãnh đạo công tác thương binh, liệt sỹ, người có công cách mạng và công tác đền ơn đáp nghĩa trong giai đoạn mới. Năm 2005, thành phố đã tổ chức phong tặng và truy tặng 80 Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, trước những diễn biến phức tạp của tình hình chung, nhiệm vụ an ninh chính trị đòi hỏi phải theo sát với tình hình, nhất là khi thành phố tiến hành triển khai nhiều chính sách lớn, liên quan mật thiết đến quyền lợi thiết thân của người dân, song Đà Nẵng vẫn giữ được ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra điểm nóng. Các cấp ủy Đảng, chính quyền coi trọng lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực cho quốc phòng - an ninh. Thành ủy đã ra Nghị quyết về xây dựng khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn, vững chắc và Nghị quyết về lãnh đạo lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên. Các lực lượng quân sự, công an, bộ đội biên phòng thường xuyên rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính

Page 307: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

307

trị, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân, an ninh trên biển được giữ vững. Chương trình phối hợp giữa các lực lượng vũ trang, các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn với các ngành, đoàn thể làm công tác dân vận đạt hiệu quả cao. Công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ, quản lý quân dự bị động viên, dân quân tự vệ, công tác hậu phương quân đội, được các cấp, các ngành thực hiện nghiêm túc, chu đáo.

Thời gian này, tình hình an ninh biển ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, Đảng bộ thành phố đã chú trọng công tác xây dựng một cách đồng bộ để đấu tranh chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, công tác tuần tra trên biển. Năm 2002, Ủy ban nhân dân thành phố xây dựng Dự án về tăng cường quản lý nhà nước đối với huyện Hoàng Sa với các Tiểu dự án cụ thể để trình Chính phủ và các cơ quan chức năng Trung ương xin ý kiến. Năm 2004, Hội đồng nhân dân thành phố thông qua việc đặt tên đường Hoàng Sa, Trường Sa cho hai con đường thuộc quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo Nghị quyết số 39/2004/NQ-HĐND, ngày 01 tháng 3 năm 2004 của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng (khóa VI) để khẳng định chủ quyền.

Bên cạnh đó, từ khi triển khai thi hành Luật Biên giới quốc gia và Nghị định số 161/2003/NĐ-CP về Quy chế khu vực biên giới biển, nhất là sau khi Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá giữa Việt Nam và Trung Quốc có hiệu lực, phía Trung Quốc đã triển khai việc cấp giấy phép cho tàu cá Trung Quốc vào hoạt động, đồng thời duy trì các hoạt động tuần tra, kiểm soát trong vùng đánh cá chung. Để thực hiện ý đồ làm chủ biển Đông, phía Trung Quốc tăng cường các hoạt động quân sự, ngang nhiên xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam để hỗ trợ đánh bắt hải sản, tranh lấn ngư trường (ta đã phát hiện và xua đuổi 1.171 lượt chiếc tàu thuyền Trung Quốc xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam). Nghiêm trọng hơn, Trung Quốc còn

Page 308: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

308

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

sử dụng tàu quân sự, kiểm ngư, tàu cá có công suất lớn, đi thành từng tốp vào sâu lãnh hải Việt Nam để uy hiếp, xua đuổi, bắt giữ tàu thuyền, bươn vướng lưới của ngư dân ta, gây tình hình căng thẳng trên biển.

Trong năm 2004, Trung Quốc đã bắt 2 tàu của ngư dân Đà Nẵng ở hai phường An Hải Bắc và Thanh Lộc Đán, gây tâm lý hoang mang, lo sợ, không yên tâm sản xuất trong ngư dân. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn thường xuyên duy trì 3 tàu (1 tàu thăm dò, 2 tàu phục vụ) để tiến hành các hoạt động thăm dò, khảo sát địa chấn tại khu vực Hoàng Sa, qua đó từng bước khẳng định chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa. Ngày 04 tháng 11 năm 2004, phía Trung Quốc đã đưa 3 tàu và dàn khoan Kan-Tan 3 hoạt động thăm dò trong vùng đặc quyền và thềm lục địa Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng bộ thành phố đã soát xét, bổ sung các kế hoạch quân sự, công an, biên phòng về tác chiến phòng thủ, phòng chống điểm nóng, bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển, đặc biệt là giữ vững an ninh biên giới quốc gia trên biển.

Công tác xây dựng Đảng và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tiếp tục đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Quán triệt quan điểm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Trong 5 năm 2001-2005, toàn Đảng bộ thành phố đã đoàn kết, thống nhất, vừa tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, vừa chú trọng công tác xây dựng Đảng. Thành ủy đã triển khai nhiều chủ trương công tác của Trung ương và của Thành ủy về công tác xây dựng Đảng để thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và Nghị quyết Đại hội XVIII của Đảng bộ thành phố, trong đó đã chỉ đạo tổng kết 3 Nghị quyết Trung ương về công tác tổ chức và cán bộ; chỉ đạo khảo sát và đề ra chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở phường, xã; đồng thời đề ra một

Page 309: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

309

số chủ trương, giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) theo tinh thần Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa IX), đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhũng nhiễu, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo.

Sự kiện tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy vào năm 2003, là một vinh dự lớn, là sự kiện có ý nghĩa trọng đại đối với Đảng bộ và nhân dân thành phố, Ban Thường vụ Thành ủy đã thành lập Ban Chỉ đạo chuẩn bị nội dung làm việc với Bộ Chính trị; thành lập Tổ Biên tập và Tiểu Ban phục vụ Hội nghị Bộ Chính trị. Nhờ làm tốt công tác chuẩn bị, nên Hội nghị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với tập thể Ban Thường vụ Thành ủy đạt kết quả tốt. Bộ Chính trị đánh giá cao những chuyển biến tích cực của thành phố trong nửa nhiệm kỳ qua và ra Nghị quyết số 33-NQ/TW “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, với nhiều cơ chế ưu đãi tạo điều kiện cho Đà Nẵng phát triển nhanh và bền vững, sớm phát huy vai trò trung tâm của miền Trung. Ban Thường vụ Thành ủy đã tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt kiểm điểm, đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ thành phố; đồng thời quán triệt Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị và đề ra Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết. Ban Thường vụ Thành ủy chỉ đạo triển khai nhiều hình thức, biện pháp về công tác tư tưởng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kịp thời những thông tin chính thống về những sự kiện được dư luận quan tâm, góp phần ổn định tư tưởng, định hướng dư luận xã hội, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng của các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó, công tác xây dựng Đảng được tăng cường thêm một bước, đạt được những tựu mới.

Thành ủy xác định, công tác chính trị, tư tưởng được quán triệt là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng bộ. Các cấp ủy Đảng coi trọng lãnh đạo công tác tư tưởng, triển khai công tác tư

Page 310: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

310

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tưởng qua nhiều kênh khác nhau, phù hợp với nhiều đối tượng. Cán bộ chủ chốt các cấp chủ động nắm tình hình, thường xuyên đối thoại với nhân dân, trực tiếp giải quyết những vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn. Đảng bộ chú trọng chăm lo công tác giáo dục tư tưởng chính trị, nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tổng kết thực tiễn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao chất lượng các đợt học tập quán triệt Nghị quyết của Đảng; làm tốt công tác thông tin thời sự chính trị, định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thành ủy triển khai nhiều biện pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục phẩm chất, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; ban hành nhiều chỉ thị về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kiên quyết chống các hành vi quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, thiếu trách nhiệm, cửa quyền, nhũng nhiễu, hách dịch đối với nhân dân trong cán bộ, công chức các cấp, coi đây là giải pháp đột phá, có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng bộ và chính quyền thành phố.

Đặc biệt, ngay sau khi trở thành thành phố trực thuộc Trung ương năm 1997, Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành Chương trình hành động số 01/CTr-TU, ngày 15 tháng 12 năm 1997, nhằm tạo nguồn nhân lực cán bộ để xây dựng và phát triển thành phố trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với mục tiêu “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ thành phố đến cơ sở đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố”(1). Thành phố xác định đây là một chủ trương phải được thực hiện xuyên suốt và trở thành điểm nổi bật trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền với những giải pháp mang tính đột phá. Thường trực Thành ủy có Công

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Chương trình hành động số 01/CTr-TU, ngày 15 tháng 12 năm 1997”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 311: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

311

văn quy định cán bộ hưu trí không tham gia vào cán bộ chủ chốt của phường, xã(1); quy định Bí thư Thành đoàn không quá 40 tuổi, Bí thư Quận đoàn không quá 30 tuổi. Đội ngũ này được luân chuyển về các cấp ủy Đảng công tác, góp phần quan trọng trong việc trẻ hóa, trí thức hóa đội ngũ cán bộ, công chức. Qua đó, thành phố thực hiện đúng vai trò trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội của khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Từ Chương trình hành động của Thành ủy Đà Nẵng, ngày 02 tháng 8 năm 2000, Ủy ban nhân dân thành phố có Quyết định số 86/QĐ-UB quy định thực hiện các chính sách chế độ đãi ngộ để thu hút nhân tài của cả nước về đóng góp cho sự phát triển Đà Nẵng. Cụ thể hóa bằng việc tiếp nhận nguồn nhân lực là các giáo sư, tiến sĩ và sinh viên mới tốt nghiệp loại giỏi trở lên, bố trí công tác tại các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp nhà nước thuộc thành phố quản lý(2). Thành phố hỗ trợ đào tạo bậc đại học tại các cơ sở giáo dục trong nước và ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước dành cho học sinh giỏi, xuất sắc các trường trung học phổ thông trên địa bàn. Việc phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo chính là con đường tìm ra nhân tài và cung ứng nhân tài, từ đó góp phần hình thành một xã hội trí thức - động lực phát triển của kinh tế, xã hội. Tính đến năm 2003, đã có 793 người về Đà Nẵng theo chủ trương “chiêu hiền đãi sĩ”. Trong đó, cán bộ có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ chiếm 0,11%, khoảng 01 người /1000 dân; số cán bộ do thành phố quản lý 149 người chiếm 18,7%, còn lại tập trung ở các trường đại học chiếm 77%; số cán bộ có trình

(1) Trước đó, nhiều cán bộ hưu trí vẫn tham gia giữ các chức danh Bí thư, Phó Bí thư, Thường vụ Đảng ủy xã phường.(2) Chế độ đãi ngộ ban đầu đối với những người có học hàm, học vị, những cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn cao tự nguyện đến làm việc lâu dài tại thành phố, được hỗ trợ một lần với mức tiền tương ứng với bằng cấp đang có (đại học loại giỏi 15 triệu đồng, thạc sĩ 20 triệu đồng, tiến sĩ 60 triệu đồng…). Đồng thời, có sự đãi ngộ về tiền lương và trợ cấp hằng tháng trong 5 năm, tạo môi trường làm việc hợp lý, thân thiện, bố trí chỗ ở; luôn tạo điều kiện bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ.

Page 312: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

312

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

độ khoa học và công nghệ cao ở quận, huyện và doanh nghiệp rất ít. Cán bộ khoa học kỹ thuật chiếm 18%, cán bộ khoa học xã hội và nhân văn chiếm 46%”(1). Năm 2004, thành phố đã triển khai Đề án 47(2) nhằm mục đích góp phần phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học và công nghệ cho các cơ quan, đơn vị đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố. Đến năm 2005, “thành phố có trên 570 người về công tác tại các cơ quan Đảng, Nhà nước của Đà Nẵng, trong đó có 5 tiến sĩ, 27 thạc sĩ, 115 sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, có 56 người được biên chế vào ngạch công chức, 145 người được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước”(3).

Các tổ chức đảng thường xuyên đẩy mạnh tự phê bình, phê bình; đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bước đầu tạo được một số chuyển biến ở các cấp, phát huy vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng trên địa bàn dân cư. Hằng năm, có gần 70% tổng số tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh, trong đó có trên 15% đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Thành ủy đã quy định cụ thể về nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ; nhiều nơi triển khai thực hiện nghiêm túc, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy, quan tâm chỉ đạo công tác phát triển đảng viên, nhất là trong trường học và các khu dân cư. Trong 5 năm 2001-2005, toàn Đảng bộ thành phố đã kết nạp được 7.114 đảng viên, trong đó có 2.869 nữ (chiếm tỷ lệ 40,32%),

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số 133-BC/TU, ngày 05 tháng 9 năm 2005 “Về Thực trạng và giải pháp chính sách đối với đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.(2) Đề án 47: Đề án đào tạo bậc đại học tại các cơ sở giáo dục trong nước và ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước dành cho học sinh các trường Trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.(3) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số 133-BC/TU, ngày 05 tháng 9 năm 2005”: tlđd.

Page 313: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

313

3.834 có trình độ cao đẳng, đại học trở lên (chiếm tỷ lệ 53,66%)(1). Chủ trương cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa” đạt được những kết quả tích cực. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, thu hút nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, phân định chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Việc chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, thiếu trách nhiệm, cửa quyền, nhũng nhiễu, hách dịch đối với nhân dân trong cán bộ, công chức được coi trọng và thực hiện một cách hiệu quả, đã đạt được những kết quả bước đầu.

Hoạt động của Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố được tăng cường, chú trọng tiếp xúc và xử lý những kiến nghị, nguyện vọng của cử tri. Vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng được phát huy, nội dung các kỳ họp và công tác giám sát, tiếp xúc cử tri có chất lượng hơn. Thành phố đã tổ chức tốt các cuộc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009. Sau bầu cử, chính quyền các cấp được củng cố, kiện toàn; hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh từng bước được nâng lên. Quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện và đi dần vào nền nếp. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và lãnh đạo các cơ quan hành chính thường xuyên tổ chức tiếp dân định kỳ, tiếp dân các dự án, chú trọng giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở. Năm 1990, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và thành phố Đà Nẵng được quyết định của Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng và Thành ủy Đà Nẵng cho phép thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam thành phố Đà Nẵng, chỉ trong một thời gian ngắn có gần 80% số cán bộ chiến sĩ đăng ký vào Hội. Ban Liên lạc Hội tù yêu nước thành phố Đà Nẵng được thành lập vào tháng 01 năm 2005, tổ chức Đại hội lần đầu tiên ngày 10 tháng 3 năm 2005.

(1) Tính đến hết tháng 9 năm 2005.

Page 314: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

314

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Trong giai đoạn này, thành phố tập trung thực hiện cải cách hành chính, có ý nghĩa khởi đầu như một sự đặt nền móng cho công tác này ở các giai đoạn tiếp theo. Việc cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa” đạt được những kết quả tích cực. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, thu hút nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, phân định chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Việc chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, thiếu trách nhiệm, cửa quyền, nhũng nhiễu, hách dịch đối với nhân dân trong cán bộ, công chức các cơ quan Nhà nước theo tinh thần Chỉ thị 11-CT/TU và Nghị quyết 09-NQ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy đạt được những kết quả bước đầu. Việc thí điểm chủ trương khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp có thu; phân cấp một số công việc cho sở, ngành, quận, huyện đạt kết quả tốt và được nhân rộng. Đề án tin học hóa hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước đang được triển khai có kết quả.

Thành ủy cũng đã chỉ đạo xây dựng đề án điều chỉnh địa giới hành chính đáp ứng yêu cầu mở rộng không gian đô thị theo quy hoạch phát triển thành phố hiện đại, văn minh. Theo đó, ngày 05 tháng 8 năm 2005, quận Cẩm Lệ được thành lập theo Nghị định của Chính phủ số 102/2005/NĐ-CP, trên cơ sở các xã Hòa Thọ, Hòa Phát, Hòa Xuân của huyện Hòa Vang và phường Khuê Trung thuộc quận Hải Châu(1).

Công tác Mặt trận và các đoàn thể, trong 5 năm 2001-2005, khối đại đoàn kết toàn dân thành phố là động lực quan trọng để phát triển; mỗi thành quả đạt được đều có sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Các cấp ủy Đảng thường xuyên chăm lo công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt chủ trương “an dân” của Thành ủy; tạo điều kiện cho Mặt trận và các đoàn thể tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể với nhân dân

(1) Quận Cẩm Lệ có diện tích 33,76 km2, dân số 92.824 người.

Page 315: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

315

được củng cố. Các phong trào thi đua yêu nước, bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, tổ chức “Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc”, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở phát triển rộng khắp và ngày càng đi vào chiều sâu. Các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, các tôn giáo đẩy mạnh phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo; thực hiện chương trình “5 không”, thực hiện kế hoạch hóa gia đình… Tinh thần tương thân, tương trợ trong cộng đồng được phát huy. Công tác phối hợp giữa các đoàn thể chính trị và các lực lượng vũ trang làm công tác dân vận trên địa bàn đạt kết quả tốt, thông qua đó góp phần xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở. Công tác vận động những bà con là người Quảng Nam, Đà Nẵng đang sinh sống ở nước ngoài về làm ăn, hợp tác được chú trọng và đạt được một số kết quả bước đầu. Trong đó, đội ngũ trí thức, lực lượng công thương gia và đồng bào thành phố ở nước ngoài, cũng có nhiều hình thức đóng góp thiết thực vào sự phát triển của thành phố.

* **

Trong giai đoạn 2001-2005, trên cơ sở vận dụng linh hoạt Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, Thành ủy Đà Nẵng đã đề ra mục tiêu phát triển thành phố Đà Nẵng theo hướng “giàu mạnh, văn minh”, được sự hỗ trợ, cổ vũ mạnh mẽ từ Trung ương Đảng, Bộ Chính trị bằng Nghị quyết số 33-NQ/TW “Về xây dựng và phát triển Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã tạo nhiều thuận lợi cho Đà Nẵng phát triển mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội.

Để thực hiện được các kỳ vọng nêu trên, giai đoạn này, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng thực hiện đồng bộ các cơ chế chính sách nhằm khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh tạo động lực phát triển. Triển khai nhiều biện pháp quản lý, điều hành thu chi ngân sách tích cực, tập trung đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, đặt nền móng cho sự phát triển của Đà Nẵng về mọi mặt. Nhờ vậy, quy mô ngân sách Đà Nẵng không ngừng tăng lên,

Page 316: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

316

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tăng thu đi đôi với điều chỉnh cơ cấu chi hợp lý và thực hành tiết kiệm chống lãng phí, ưu tiên chi ngân sách cho đầu tư phát triển và an ninh xã hội. Bộ mặt của Đà Nẵng không ngừng được đổi thay, cả cuộc sống chung và cuộc đời riêng, từng người, từng nhà cũng có những biến đổi sâu sắc; niềm tin tưởng của nhân dân đối với Đảng bộ thành phố tăng lên, niềm yêu thương một góc phố mới, một cây cầu mới, một chút tự hào về thành phố quê hương dần hiển hiện trong tim của mỗi người dân Đà Nẵng.

Trong giai đoạn này, thành phố đã thực hiện được thắng lợi bước đầu của các khâu đột phá, xây dựng được thương hiệu Đà Nẵng cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Vị thế của Đà Nẵng được nhìn nhận rõ rệt hơn trong tương quan các khu vực phát triển của đất nước và trong thế chiến lược của tiểu vùng Mê Kông. Đặc biệt, sự ổn định về chính trị, không khí đồng thuận xã hội, tình cảm gắn bó tự hào với quê hương và tinh thần năng động sáng tạo là nét nổi bật của tình hình thành phố, tác động tích cực đến việc thực hiện những chủ trương lớn của Đảng bộ, hướng vào mục tiêu chung xây dựng và phát triển thành phố giàu mạnh, văn minh. Trong 5 năm đó, Đà Nẵng phấn đấu, bứt phá với tinh thần chủ động, năng động, sáng tạo. Đảng bộ thành phố đã phát huy vai trò dân chủ thực sự trong cán bộ, đảng viên và nhân dân đi đôi với giữ vững kỷ cương; thực sự đổi mới quan điểm và phong cách lãnh đạo theo hướng phát huy tinh thần dân chủ đối với người dân; phát động và xây dựng trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo và công chức các cấp của thành phố phong cách làm việc “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”, hết lòng vì quyền lợi của nhân dân. Đảng bộ thành phố phát huy tinh thần tiến công, quyết tâm cao, khắc phục khó khăn, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, lựa chọn đúng khâu đột phá và tập trung nguồn lực để thực hiện thắng lợi những khâu đột phá, các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong từng thời điểm, trung thành với mục tiêu phát triển mà Đảng bộ thành phố đã đặt ra, tạo sự yêu mến của bạn bè năm châu đến với Đà Nẵng, cùng sự cổ vũ, tin yêu của nhân dân cả nước dành cho thành phố bên bờ sông Hàn này.

Page 317: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

317

Chương Bảy

PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG THEO HƯỚNG VĂN MINH, HIỆN ĐẠI, BỀN VỮNG, XỨNG ĐÁNG LÀ TRUNG TÂM

KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA MIỀN TRUNG(2005 - 2010)

I. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC QUY HOẠCH ĐÔ THỊ, HOÀN CHỈNH CƠ SỞ HẠ TẦNG; PHÁT HUY NHỮNG LỢI THẾ VỐN CÓ, TỪNG BƯỚC XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG TRỞ THÀNH “VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG”

Những thành tựu của 20 năm Đổi Mới, nhất là của 5 năm nhiệm kỳ Đại hội lần thứ IX của Đảng, đã mở ra những triển vọng, để nước ta phấn đấu đạt mục tiêu cơ bản hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2020. Đồng thời, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, song Việt Nam vẫn có khả năng duy trì được môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển. Trong không khí chung đó, với những thành tựu đạt được trong các năm 2001-2005, thành phố Đà Nẵng tiếp tục được phát triển, ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu với ưu thế ngày càng mạnh.

Quán triệt Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 06 tháng 12 năm 2004 của Bộ Chính trị về việc tiến hành Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, từ ngày 18 đến 21 tháng 12

Page 318: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

318

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

năm 2005, Đại hội đại biểu lần thứ XIX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng được tổ chức tại Trường Chính trị thành phố. Tham dự Đại hội có 300 đại biểu, đại diện hơn 30.000 đảng viên của toàn Đảng bộ. Đại hội vinh dự được đồng chí Nguyễn Tấn Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực đến dự và phát biểu chỉ đạo.

Với tinh thần “Dân chủ - Trí tuệ - Trách nhiệm - Kỷ cương - Đoàn kết”, Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XVIII. Các báo cáo tại Đại hội nêu rõ: Với yêu cầu phát triển của 10 năm đầu thế kỷ XXI và tầm nhìn 2020, Đà Nẵng sẽ phát triển thành một trong những đô thị lớn của cả nước với quy mô dân số khoảng 1,5 triệu người; không gian đô thị ngày càng mở rộng; là đô thị trung tâm của miền Trung, đầu mối giao thông quan trọng và cửa ngõ chính ra biển của các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên và Hành lang kinh tế Đông Tây; là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh của khu vực và cả nước.

Đại hội xác định: Trong cơ cấu kinh tế của Đà Nẵng vào năm 2020, ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng trên 60% GDP; GDP bình quân đầu người phấn đấu đạt mức 5.000 USD/người; Đà Nẵng phấn đấu để trở thành thành phố công nghiệp vào năm 2015 và xác định hướng phát triển trong 5 năm đến là “nhanh và bền vững”. Phương châm hành động của Đảng bộ là: Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị xã hội; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội; coi chất lượng, hiệu quả là tiêu chuẩn hàng đầu trong phát triển thành phố; xây dựng phẩm chất tinh thần của Đảng bộ trong giai đoạn mới: dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân trên cơ sở đường lối chung của Đảng.

Đại hội đề ra mục tiêu cụ thể trong 5 năm 2006-2010: Nhịp độ tăng GDP trung bình 14-15% giai đoạn 2006-2010; GDP bình

Page 319: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

319

quân đầu người đến 2010 đạt 2.000 USD; tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 22-23%; tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ 14-15%; tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp 5-6%; kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 23-24%/năm; thu ngân sách chiếm 22-23% GDP; giảm tỷ suất sinh bình quân hằng năm 0,3%; hằng năm giải quyết việc làm cho khoảng 3,2-3,5 vạn lao động; năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn thành phố còn 0,5%; gọi công dân nhập ngũ đạt 100% và bảo đảm về chất lượng.

Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng bộ xác định nhiệm vụ trong các năm đến là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp”; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đô thị, hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng theo hướng hiện đại đi đôi với nâng cao năng lực quản lý đô thị; nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế; mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại; tập trung chỉ đạo phát triển văn hóa - xã hội tương xứng với sự phát triển kinh tế; đồng thời tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành nội chính, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố gồm 49 đồng chí. Tại Hội nghị lần thứ nhất, Thành ủy bầu Ban Thường vụ Thành ủy gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy khóa XVIII, được tín nhiệm tiếp tục bầu giữ chức vụ Bí thư Thành ủy khóa XIX. Các đồng chí Phan Như Lâm, Hoàng Tuấn Anh được bầu lại làm Phó Bí thư; bầu vào Uỷ ban Kiểm tra Thành uỷ gồm 10 đồng chí do đồng chí Ngô Văn Chờ - Uỷ viên Ban Thường vụ (khoá XIX) làm Chủ nhiệm.

Ngay sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp nhanh chóng triển khai, học tập quán triệt, xây dựng kế hoạch và chương trình hành động thực hiện Nghị quyết. Ngày 20 tháng 4 năm 2006, Thành ủy ban hành Chương trình số 04-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết Đại hội lần

Page 320: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

320

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thứ XIX Đảng bộ thành phố. Sau Đại hội X của Đảng, thành phố nhanh chóng tổ chức học tập 6 chuyên đề Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Đại hội XIX Đảng bộ thành phố; vừa chỉ đạo nghiên cứu bổ sung tinh thần mới của Nghị quyết Đại hội X vào các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện của Thành ủy và ban hành mới Chương trình hành động số 08-CTr/TU ngày 20 tháng 9 năm 2006 về thực hiện các Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Đại hội XIX của Đảng bộ thành phố. Chương trình hành động của Ban Chấp hành Đảng bộ vừa thể hiện đầy đủ, nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vừa vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương.

Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX đã đặt ra yêu cầu phát triển của Đà Nẵng trong 10 năm đầu thế kỷ XXI và Tầm nhìn 2020. Theo đó, Đà Nẵng sẽ phát triển thành một trong những đô thị lớn của cả nước với quy mô dân số khoảng 1,5 triệu người; không gian đô thị ngày càng mở rộng. Đà Nẵng sẽ phát huy vai trò là đô thị trung tâm của miền Trung, đầu mối giao thông quan trọng và cửa ngõ chính ra biển của các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên và Hành lang kinh tế Đông - Tây; cùng với Khu kinh tế mở Chu Lai, Khu kinh tế Dung Quất đóng vai trò động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh của khu vực và cả nước. Vì lẽ đó, Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX đã xác định phải: “Xây dựng Đà Nẵng trở thành một đô thị lớn của cả nước, trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước”(1).

Điều này phù hợp với sự hoạch định chiến lược của Bộ Chính trị dành cho Đà Nẵng bằng Nghị quyết số 33-NQ/TW, cũng như

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1997-2010), Nxb. Đà Nẵng, 2013, tr. 297.

Page 321: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

321

ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Tấn Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, tại Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng vào ngày 19 tháng 12 năm 2005 là: “Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của thành phố Đà Nẵng; xác định quan điểm, phương hướng, nội dung và những công trình, dự án cụ thể có liên quan trên địa bàn, tạo điều kiện cho thành phố Đà Nẵng phát huy cao nhất tiềm năng, nguồn lực và cơ hội phát triển, trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020. Để đạt được mục tiêu đó, yêu cầu đặt ra đối với thành phố cũng là niềm tin và khát vọng của quân dân thành phố trong vòng 10-15 năm tới là, Đà Nẵng phải khai thác triệt để các tiềm năng, lợi thế để phát triển với tốc độ cao hơn, bền vững và hiệu quả hơn, đặc biệt Đà Nẵng phải duy trì và phát triển tốt hơn nữa mối quan hệ gắn kết với sự phát triển của toàn vùng, khu vực và cả nước, Đà Nẵng phải làm tốt vai trò động lực của mình trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung”(1).

Để đặt nền móng cho sự phát triển theo đúng mục tiêu đã đặt ra, Đảng bộ đã ra những mục tiêu đột phá cho sự đi lên của Đà Nẵng như: Về kinh tế, phát triển ngành công nghiệp một cách có chọn lọc, tập trung vào những ngành hàng và sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, có hàm lượng chất xám cao, coi trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế quan trọng của thành phố. Xác định du lịch là “ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố”, tạo nền tảng để phát triển mạnh các ngành dịch vụ sau năm 2010; nghiên cứu từng bước xây dựng Đà Nẵng thành đô thị du lịch ven biển chất lượng cao. Đặc biệt là xác định trong tương lai, Đà Nẵng sẽ lấy kinh tế biển làm chủ đạo cho sự phát triển bền vững của thành phố.

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: sđd, 2013, tr. 336.

Page 322: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

322

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Từ năm 2005 đến năm 2010, căn cứ vào mục tiêu phát triển đã đặt ra, Thành ủy Đà Nẵng đã tập trung chỉ đạo quyết liệt các mục tiêu chiến lược trước mắt như: Đẩy mạnh công tác quy hoạch đô thị, phát triển kinh tế du lịch, kinh tế biển nhằm đáp ứng các yêu cầu vị trí, vai trò của một thành phố động lực miền Trung, đồng thời chủ động hội nhập sâu hơn với thế giới.

Trên lĩnh vực quy hoạch đô thị và xây dựng cơ sở hạ tầng: Thời gian này, thành phố tập trung nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đô thị, hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng theo hướng hiện đại đi đôi với nâng cao năng lực quản lý đô thị. Thường trực Thành ủy tập trung chỉ đạo quyết liệt việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2010, quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 phù hợp với nội dung Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy tiếp tục tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị; trọng tâm là đẩy mạnh thi công các công trình trọng điểm, các khu tái định cư, khu chung cư để có đất thực tế bố trí cho các hộ di dời, giải tỏa; tăng cường tiếp dân các dự án, giải quyết các vướng mắc liên quan đến công tác đền bù, giải phóng mặt bằng; đẩy mạnh công tác khai thác quỹ nhà, đất để có nguồn vốn tập trung cho các công trình. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Đà Nẵng qua từng năm không ngừng tăng lên, cụ thể như: Nếu năm 2006, tổng vốn đầu tư cho công tác xây dựng cơ bản ước đạt 10.101,2 tỷ đồng thì đến năm 2008 ước đạt 13.219 tỷ đồng, năm 2009 ước thực hiện 15.300 tỷ đồng. Đối với các dự án lớn, thành phố chủ động phối hợp với các cơ quan Trung ương đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình như: Mở rộng quốc lộ 1A, đường tránh phía Tây thành phố, xây dựng ga hàng không quốc tế Đà Nẵng, mở rộng Cảng Tiên Sa (giai đoạn 2), hiện đại hóa trung tâm bưu chính viễn thông, xây dựng đường Đà Nẵng - Hội An... Đồng thời, thành phố tập trung hoàn thiện mạng lưới giao thông

Page 323: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

323

nội thành, hệ thống giao thông nông thôn, đường ven biển Sơn Trà - Điện Ngọc, hoàn thành cầu Thuận Phước; phát triển một số khu đô thị mới. Nghiên cứu cải tạo và xây dựng mới một số cầu qua Sông Hàn.

Đặc biệt, năm 2010, thực hiện chủ trương “Năm giải tỏa đền bù, tái định cư và an sinh xã hội”, Ban Thường vụ Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác đền bù giải tỏa, giải phóng mặt bằng, giao đất cho các dự án, nhất là tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án tái định cư để có đất, bố trí cho các hộ giải tỏa di dời thuộc các dự án trọng điểm của thành phố như: Khu đô thị sinh thái Hòa Xuân, đường Nguyễn Văn Linh (nối dài)... Lúc này, thành phố chủ trương phát triển mạnh đô thị hóa về phía nam và phía tây của Đà Nẵng, tạo ra được sự đồng thuận trong nhân dân như: Khu trung tâm đô thị mới Tây Bắc, Khu ký túc xá sinh viên phía tây thành phố, Khu đô thị sinh thái Hòa Xuân, Khu đô thị Hòa Phước... Không chỉ chú trọng phát triển Đà Nẵng theo chiều ngang, thành phố còn chủ trương phát triển Đà Nẵng theo chiều cao, với một số công trình nhà cao tầng, tạo điểm nhấn cho đô thị, tiêu biểu nhất là Tòa nhà Trung tâm hành chính thành phố... Song song với các chủ trương trên, Đà Nẵng đã hoàn thành xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2020; xây dựng Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu đến năm 2015; thực hiện Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường”, trọng tâm là tăng cường các biện pháp xử lý các “điểm nóng” về ô nhiễm môi trường(1).

Để thực hiện tốt công tác quy hoạch đô thị, giải tỏa đền bù trong giai đoạn này, Thành ủy cũng đã chỉ đạo quyết liệt các quận, huyện ủy, các ngành xây dựng, giao thông công chính, tài nguyên môi trường, điện chiếu sáng, cấp thoát nước... phối hợp tốt trong quá trình xây dựng cơ bản, chỉnh trang đô thị.

(1) Âu thuyền Thọ Quang, Trạm xử lý nước thải Hòa Cường, các khu công nghiệp...

Page 324: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

324

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Nhờ đó, tiến độ thi công các công trình trọng điểm được đẩy nhanh, nhiều công trình trọng điểm được hoàn thành nhân Kỷ niệm 10 năm Ngày thành phố trực thuộc Trung ương như: Nhà hát Trưng Vương, đường Trường Sa (đường 30 tháng 4), đường Nguyễn Tri Phương nối dài (đường Nguyễn Hữu Thọ), Trường Trung học Văn hóa - Nghệ thuật. Nhiều công trình dân sinh, hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu tái định cư được hoàn thành và đưa vào sử dụng như: đường Sơn Trà - Điện Ngọc, đường Lê Hữu Trác, Trung tâm Y tế quận Hải Châu, Trung tâm cai nghiện 05-06, Chung cư số 4 Nguyễn Tri Phương, Chung cư Thanh Lộc Đán C, Chung cư Nại Hiên Đông.

Điều dễ nhận thấy là, việc quy hoạch đô thị và chỉnh trang đô thị của thành phố Đà Nẵng trong hơn 10 năm 2000-2010, được thực hiện khá đồng bộ, các tuyến đường mới đều được quy hoạch khai thác quỹ đất hai bên đường, với chủ trương “lấy đất nuôi đường”, tạo không gian đô thị theo phong cách hiện đại hơn. Riêng đối với các tuyến đường nội thị, việc chỉnh trang, mở rộng thì thành phố được thực hiện với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố. Chủ trương này được tuyệt đại đa số nhân dân đồng tình ủng hộ và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội rất đáng kể(1).

Với chủ trương “tạo vốn từ quỹ đất để phát triển cơ sở hạ tầng”, tính từ năm 1997 đến năm 2010, sau 13 năm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, Đà Nẵng như được thay da, đổi thịt từng ngày và tạo nên sự đổi thay rất lớn. Một trong

(1) Đối với các hộ dân hai bên đường bị giải tỏa một phần thì sẽ không nhận tiền bồi thường thiệt hại về đất, tường rào, cổng ngõ mà chỉ nhận phần bồi thường về nhà cửa, do vậy thành phố không áp dụng chính sách tài chính để điều tiết lại phần giá trị đất gia tăng sau khi con đường được đầu tư nâng cấp. Đối với các trường hợp giải tỏa khác, thời gian đến thành phố sẽ nghiên cứu ban hành các chính sách tài chính để điều tiết lại phần giá trị đất gia tăng không do người sử dụng đất tạo ra mà do đô thị hóa, do Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng, do quy hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng đất mang lại để góp phần tạo thêm nguồn thu cho ngân sách và tạo được sự công bằng xã hội.

Page 325: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

325

những thành tựu nổi bật của Đà Nẵng thời gian này, là công tác đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị. Có hơn 80.000 hộ dân của Đà Nẵng đã đóng góp đất đai, nhà cửa, sẵn sàng thực hiện chủ trương di dời, bàn giao mặt bằng để xây dựng công trình công cộng, dân sinh vì sự nghiệp phát triển chung của thành phố. Tính đến năm 2010, Đà Nẵng đã đầu tư xây dựng mới trên 300 công trình lớn nhỏ, trong đó bao gồm các khu đô thị, khu dân cư với sự đồng bộ về cơ sở hạ tầng, giải quyết căn bản về vấn đề nhà ở gắn với phát triển đô thị theo hướng văn minh, hiện đại. Mỗi một khu đô thị mới đều có được dáng vẻ hiện đại, sang trọng như dần xóa đi cái nhếch nhác, lạc hậu của một thời xưa cũ, cái nghèo khó, lam lũ của một thời đã qua, nhất là về hạ tầng cơ sở.

Không chỉ dừng lại việc xóa bỏ những xóm nhà chồ ở phường Nại Hiên Đông, phường An Hải Tây, phường Thuận Phước; xóa những khu nhà ổ chuột ở Xuân Hà, Tam Thuận, Mân Thái mà đến cả những thôn, làng yên ắng, xa vắng ở các xã Hòa Xuân, Hòa Châu, Hòa Ninh, Hòa Phú thuộc huyện Hòa Vang cũng sôi nổi chuyển mình theo nhịp sống đô thị hóa. Đây có thể xem là thời kỳ bùng nổ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị, qua việc thực thi những công trình mới như: Đường Nguyễn Văn Linh, đường Thuận Phước - Liên Chiểu, Sơn Trà - Điện Ngọc, đường Ngô Quyền, đường Đò Xu - Túy Loan (đường Cách mạng Tháng Tám - Quốc lộ 14B), đường Bạch Đằng, cầu Sông Hàn, cầu Cẩm Lệ, cầu Tuyên Sơn, cảng Tiên Sa... và hàng loạt các công trình đang triển khai như cầu Thuận Phước, cầu Đò Xu, Khu hậu phương Cảng.

Trên lĩnh vực kinh tế du lịch, trong giai đoạn này, Đảng bộ Đà Nẵng xác định “du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn” và đã tập trung công sức chỉ đạo, thực hiện và thu về được một số thành quả bước đầu.

Đà Nẵng có lợi thế rất lớn về bờ biển và cảnh quan thiên nhiên đẹp, là trung tâm của nhiều di sản văn hóa thế giới (nằm

Page 326: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

326

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

giữa Huế và Quảng Nam), rất lý tưởng cho phát triển du lịch. Vì lẽ đó, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố đã chủ trương tiếp tục dành sự đầu tư lớn về nhiều mặt cho việc phát triển ngành du lịch, xác định đây là ngành kinh tế mũi nhọn của Đà Nẵng. Thành phố đã dành những vị trí đẹp, có những ưu đãi thỏa đáng cho những dự án du lịch quy mô lớn, có chất lượng đẳng cấp quốc tế của những tập đoàn kinh tế nổi tiếng ở trong và ngoài nước nhằm đầu tư xây dựng, khai thác và phục vụ du lịch. Trong đó, có các khu du lịch nổi tiếng như Khu du lịch Bà Nà, Khu du lịch bán đảo Sơn Trà, hệ thống các resort ven biển.

Trước đó, năm 1997, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng ban hành Quyết định phê duyệt dự án đầu tư tái thiết tuyến đường lên núi Bà Nà, nhằm làm hồi sinh cho điểm du lịch đầy triển vọng, từng được người Pháp mệnh danh là “thành phố trong mây” này. Năm 2009, với việc giao Công ty Cổ phần Dịch vụ Cáp treo Bà Nà đầu tư xây dựng, Bà Nà dần trở thành nơi du lịch khám phá, nghỉ dưỡng và tâm linh của đông đảo du khách với tuyến cáp treo đạt hai kỷ lục thế giới, hàng loạt khách sạn, biệt thự, nhà hàng, quá bar tiện nghi và hiện đại được xây dựng bởi Khu nghỉ dưỡng miền núi Bà Nà Hills... Bà Nà Hills đã đưa ra dự án Quần thể Khu Du lịch sinh thái Bà Nà - Suối Mơ với sân gôn 36 lỗ, khu phố và thị trấn kiến trúc Pháp, Công viên bảo tồn và phát triển các động vật hoang dã và vui chơi giải trí, khu cắm trại, khu trang trại với các đồn điền trồng chè, khu khách sạn 5 sao, các khu biệt thự với kiến trúc hài hòa với thiên nhiên, phục hồi các công trình cổ xưa thời Pháp thuộc. Ngoài ra, khu vực phía tây của thành phố cũng còn nhiều điểm du lịch sinh thái hấp dẫn khác cần được khai thác có hiệu quả như suối nước nóng Phước Nhơn, hồ Đồng Nghệ ở Hòa Khương, khu du lịch Ngầm Đôi, Suối Hoa, du lịch sinh thái làng quê, các làng nghề truyền thống... Thành phố đã tập trung triển khai công tác quy hoạch sử dụng đất và các tuyến điểm du lịch song song với đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch và dân sinh. Nổi bật là hai tuyến đường du lịch ven biển Liên

Page 327: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

327

Chiểu - Thuận Phước và Sơn Trà - Điện Ngọc, tạo bước đột phá để khai thác nguồn tài nguyên du lịch của thành phố mà trọng tâm là du lịch sinh thái biển theo hướng phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Bán đảo Sơn Trà - khu bảo tồn thiên nhiên với nhiều động thực vật quý hiếm với các khu du lịch (Suối Đá) và nhiều bãi biển đẹp như Bãi Bụt, Bãi Rạng, Bãi Bắc, Bãi Nồm dưới chân bán đảo cũng nằm trong hướng phát triển bền vững của thành phố. Việc phát triển các khu du lịch đã mang lại tác động to lớn, không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển du lịch một cách hợp lý mà còn đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Trong thời gian này, thành phố cũng tổ chức nhiều hoạt động lễ hội văn hóa - du lịch định kỳ như: “Lễ hội Quán Thế Âm”, “Gặp gỡ Bà Nà”, lễ hội pháo hoa... để thu hút khách du lịch khá hiệu quả. Trong đó, nổi bật nhất là lễ hội trình diễn ánh sáng - cuộc thi bắn pháo hoa quốc tế lần đầu tiên của Việt Nam được tổ chức tại Đà Nẵng, là cơ hội để quảng bá, nâng cao vị thế của thành phố và tạo đà phát triển cho các hoạt động dịch vụ, du lịch. Cuộc thi Trình diễn pháo hoa quốc tế Đà Nẵng(1) do Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng tổ chức vào dịp 29 và 30 tháng 4 hằng năm, đã tạo được dấu ấn quan trọng đối với du khách trong và ngoài nước. Cuộc thi lần đầu tiên được tổ chức vào năm 2008 với 4 đội tham gia. Sự kiện này được Sách Kỷ lục Việt Nam ghi nhận đạt kỷ lục quốc gia về cuộc thi đấu pháo hoa quốc tế đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, khu khán đài lắp ghép lớn nhất Việt Nam với sức chứa hơn 25.000 chỗ ngồi, được xây dựng vào năm 2011. Nhờ vậy, khả năng đáp ứng yêu cầu, sự hấp dẫn du khách và sức cạnh tranh của ngành du lịch Đà Nẵng dần dần được nâng lên rõ rệt, thương hiệu thành phố văn hóa - du lịch, thành phố sự kiện từng bước được hình thành, mục tiêu xây dựng Đà Nẵng đô thị du lịch ven biển chất lượng cao của cả nước và khu vực dần được rõ nét.

(1) Tên tiếng Anh: Danang International Fireworks Competition, viết tắt: DIFC.

Page 328: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

328

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Đến cuối năm 2010, thành phố có 55 dự án đầu tư về du lịch, với tổng vốn đầu tư 54 nghìn tỷ đồng, trong đó nhiều dự án, cơ sở du lịch lớn đã hoàn thành đưa vào sử dụng(1), góp phần nâng dần sức hấp dẫn du khách, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của thành phố. Trong 5 năm Đà Nẵng đón trên 6 triệu lượt khách du lịch, tăng bình quân 21,8%/năm, trong đó khách quốc tế ước đạt 1,6 triệu người, tăng 10,2%/năm; doanh thu du lịch ước đạt 4.023 tỷ đồng, tăng 25%/năm(2).

Trên lĩnh vực phát triển kinh tế biển, thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị - một Nghị quyết quan trọng, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho thành phố, nhất là chủ trương xây dựng Đà Nẵng trở thành “Thành phố cảng biển, mạnh về biển, làm giàu nhờ kinh tế biển, phát triển toàn diện các ngành nghề biển với cơ cấu hiện đại, có tốc độ phát triển cao trên cơ sở phát triển kinh tế, xã hội đi đôi với bảo vệ và phát triển bền vững, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(3). Năm 2007, Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó tiếp tục khẳng định xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành trung tâm kinh tế biển, động lực phát triển khu vực miền Trung - Tây Nguyên hướng ra biển Đông và các nước

(1) Khu du lịch Bà Nà - Suối Mơ, Cáp treo Bà Nà, Khách sạn Silver Shores Hoàng Đạt (bãi biển Bắc Mỹ An - quận Sơn Trà), Xuân Thiều, bán đảo Sơn Trà, nâng cấp khu danh thắng Ngũ Hành Sơn, bãi tắm du lịch kiểu mẫu Mỹ Khê và T18...(2) Tính đến giữa năm 2010, tổng doanh thu du lịch ước đạt 3.850 tỷ đồng, tăng 20,1%/năm; tổng lượt khách ước đạt 5,8 triệu người, tăng 17,1%/năm, trong đó khách Quốc tế ước đạt 1,6 triệu người, tăng 9%/năm. Trên địa bàn thành phố đã có 55 dự án đầu tư về du lịch, với tổng vốn đầu tư 54 nghìn tỷ đồng. Các cơ sở du lịch lớn được đưa vào sử dụng như: Khu du lịch Bà Nà - Suối Mơ, Silver Shores Hoàng Đạt, Xuân Thiều, Olalani, các khu du lịch ven bán đảo Sơn Trà, nâng cấp khu danh thắng Ngũ Hành Sơn, bãi tắm du lịch kiểu mẫu Mỹ Khê và T18…(3) Nghị quyết của Bộ Chính trị: “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 16 tháng 10 năm 2003”, tlđd.

Page 329: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

329

tiểu vùng Mê Kông. Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 09-NQ/TW và vị trí, tầm quan trọng kinh tế biển, ngày 15 tháng 7 năm 2007, Thành ủy đã ban hành Chương trình hành động số số 13-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết quan trọng này.

Chương trình hành động số 13-CTr/TU của Thành ủy được các ngành, các cấp tập trung triển khai mạnh trong các năm 2007 - 2010 theo hướng khai thác tối đa mọi tiềm năng và lợi thế vùng biển, ven biển, đảo kết hợp với quốc phòng - an ninh để xây dựng và phát triển nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân thành phố nghiên cứu giải pháp phát triển dịch vụ cảng biển, phát triển kinh tế biển, tiến đến xây dựng cảng biển Đà Nẵng là một cảng biển quốc tế hiện đại, văn minh. Theo đó, các ngành khai thác và dịch vụ như: Cảng biển, sân bay và công nghiệp gắn với cảng được ưu tiên phát triển; các khâu đột phá để phát triển kinh tế vùng biển, ven biển, đảo Đà Nẵng được tập trung chỉ đạo với các ngành kinh tế chủ yếu gồm: Dịch vụ vận tải biển, cảng biển, hàng hải và hỗ trợ; du lịch và dịch vụ biển, ven biển: Tham quan, du lịch biển, di tích lịch sử, cảnh quan, vui chơi giải trí; khai thác và chế biến hải sản, nhất là khai thác hải sản xa bờ, chế biến xuất khẩu, dịch vụ hậu cần và bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản; xây dựng các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển: Khu công nghiệp thủy sản Thọ Quang, Khu công nghiệp Liên Chiểu, Hòa Khánh, Đà Nẵng... gắn với hệ thống cảng biển, sân bay quốc tế Đà Nẵng.

Cảng Đà Nẵng có một vị trí thuận lợi của đường hàng hải quốc tế, cách những thương cảng nổi tiếng của vùng biển Thái Bình Dương với những khoảng cách không xa lắm. Từ Đà Nẵng đi Hồng Kông chỉ vượt có 550 hải lý, từ Đà Nẵng đi Đài Loan 850 hải lý, đi Manila chừng 740 hải lý, từ Đà Nẵng đi Singapore chưa tới một ngàn hải lý, chỉ có đi Yô-kô-ha-ma thì dài hơn, mất chừng 2.340 hải lý. Các đầu mối giao thông đường bộ đã nối liền cảng Đà Nẵng với các tỉnh bạn và các nước láng giềng ở phía tây như

Page 330: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

330

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Lào, Thái Lan tạo thành một mạng lưới thông thương đường biển - đường bộ vô cùng thuận lợi. Nhờ Quốc lộ 1 và đường xe lửa xuyên Việt, cảng Đà Nẵng liên lạc máu thịt với Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị và xa hơn nữa là Hà Nội ở phía bắc; Quảng Ngãi, Quy Nhơn và xa hơn nữa là Sài Gòn ở phía nam. Nhờ Quốc lộ 1 nối với Quốc lộ 9 và Quốc lộ 4, đặc biệt là tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây của tiểu vùng sông Mê Kông, cảng Đà Nẵng liên lạc dễ dàng với đất nước Lào, Thái Lan và Myanmar. Ở cách cảng Đà Nẵng không xa về phía Tây Nam là Sân bay quốc tế Đà Nẵng. Có thể nói, cảng Đà Nẵng đứng ở vị trí thuận lợi cả ba phương diện: Đường biển, đường bộ và đường hàng không.

Từ khi có Nghị quyết số 33-NQ/TW, Thành ủy quan tâm, chỉ đạo việc đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng cho cảng Đà Nẵng nhằm phục vụ cho mục tiêu, yêu cầu mới của thành phố trong quá trình hội nhập. Thực hiện chủ trương trên, cảng Đà Nẵng đã đánh giá lại toàn bộ cơ sở hạ tầng của mình, soát xét lại các khâu trong việc chỉ đạo, hoạt động, sản xuất, kinh doanh, cơ chế hoạt động của cảng để đáp ứng cho thời kỳ mới. Theo đó, hệ thống cảng Đà Nẵng gồm các cảng Liên Chiểu, Sông Hàn, Tiên Sa bao gồm các cảng dầu và cảng hàng khô(1) nằm ở giữa các tuyến giao thông đường thủy nối hai miền Nam, Bắc của đất nước. Cảng Đà Nẵng đã phát triển các bến cảng lớn theo hướng phục vụ cho các tàu hàng tổng hợp, tàu container trọng tải trên 45.000 DWT, cho các tàu hàng rời, hàng lỏng đến 50.000 DWT và tàu container thế hệ 2, tàu khách loại lớn đến 75.000 GRT ra vào cảng bốc dỡ an toàn. Ngoài ra, với độ sâu khu nước lớn nằm sát ngay tuyến hàng hải quốc tế đi qua khu vực biển Đông, cảng Đà Nẵng là cửa ngõ quan trọng của vận tải biển, là đầu mối giao lưu hàng hóa xuất nhập khẩu của khu vực và có khả năng phát triển thành cảng trung chuyển quốc tế khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

(1) Hệ thống Cảng Đà Nẵng gồm: Cảng Đà Nẵng, Cảng Sông Thu và Cầu cảng Hải Vân với tổng chiều dài cầu bến đạt 2.043m.

Page 331: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

331

Tuyến hành lang kinh tế Đông Tây dài 1.450 km nối liền 4 nước Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho các nước trên tuyến tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế nhằm thúc đẩy giao lưu thương mại, du lịch, đầu tư và phát triển giữa các nước, giảm chi phí lưu thông hàng hóa, hành khách trong khu vực, thu hút đầu tư từ các nước trong khu vực và trên thế giới(1). Chính vì những thuận lợi đó, Chính phủ các nước trên tuyến đã tạo điều kiện thuận lợi để tuyến hành lang phát huy hết lợi thế của mình. Theo đó, cảng Đà Nẵng không những là một cửa ngõ giao thương hàng hóa các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên, mà còn là điểm cuối và là cửa ngõ chính ra biển Đông cho hàng hóa quá cảnh giữa các nước trên tuyến. Lãnh đạo Đà Nẵng đã xác định việc đầu tư phát triển cảng là nhiệm vụ chiến lược, là tiền đề cho sự phát triển mọi mặt của cảng trong thời kỳ hội nhập sâu rộng với thế giới bên ngoài, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển của thành phố nói riêng và đất nước nói chung.

Thời gian này, hoạt động của cảng Đà Nẵng không ngừng được cải thiện về mọi mặt: Về hoạt động lai dắt, cảng Đà Nẵng luôn tìm cách giảm cước phí lai dắt, tuy có ảnh hưởng đến doanh thu nhưng đã góp phần làm tăng lượng tàu qua Cảng và giữ ổn định thị phần lai dắt từ cảng Vũng Áng đến cảng Quy Nhơn(2). Ngoài ra, với quyết tâm tăng năng suất nhằm năng cao chất lượng bốc xếp và giảm ngày giờ lưu bến của tàu, góp phần giảm chi phí cho khách hàng nên tuy doanh thu khai thác cầu bến của cảng có giảm nhưng cảng vẫn chấp nhận nhằm chia sẻ những khó khăn

(1) Hàng hóa các tỉnh, thành phố trên Tuyến hành lang kinh tế Đông Tây, đặc biệt là khu vực Đông Bắc Thái Lan xuất nhập đến các nước vùng Đông Bắc Á phải qua các cảng ở Băng-cốc, vận chuyển đường bộ hơn 1.000 km, trong khi nếu vận chuyển về Cảng Đà Nẵng chỉ hơn 600 km. Ngoài ra, tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây là tuyến xuyên Á ngắn nhất, thuận lợi nhất nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. (2) Doanh thu dịch vụ lai dắt kinh doanh chính có giảm nhẹ so với năm 2003 chủ yếu do lượng tàu nhỏ tăng, trong khi theo quy định của Cục Hàng hải ban hành cho các tàu hàng có chiều dài hơn 80m mới cần tàu lai dắt hỗ trợ.

Page 332: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

332

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

với chủ hàng và nâng cao uy tín và thương hiệu cảng. Chính nhờ cung cách làm việc chuyên nghiệp, sự nhạy bén và đưa ra nhiều chính sách hợp lý, cho nên dù tại miền Trung đã hình thành và phát triển dày đặc, sự phân chia và cạnh tranh ngày càng gay gắt song cảng Đà Nẵng vẫn giữ vững là đơn vị cảng biển hàng đầu trong khu vực miền Trung.

Về chất lượng dịch vụ: Tàu ra vào cảng được giải quyết suốt ngày và đêm, với thủ tục các cơ quan, ban ngành tại cảng chỉ giải quyết trong 15 phút so với quy định 60 phút của Nghị định số 71/2006/NĐCP của Chính phủ Việt Nam; chủ hàng vào làm thủ tục nhận hàng tại cảng, các đơn vị trong cảng chỉ giải quyết từ 5 đến 10 phút so với trước đây là 30 phút. Theo phiếu thăm dò của khách hàng về chất lượng dịch vụ của cảng hằng năm đều xác nhận: Năm sau tốt hơn năm trước. Với kế hoạch An ninh cảng biển (PFSP) được thực thi, cảng Đà Nẵng luôn đủ điều kiện để đảm bảo an toàn, thuận lợi, nhanh chóng cho tàu, hàng hóa, hành khách lưu lại và vào ra cảng và được cung ứng kịp thời các dịch vụ hàng hải, nhất là các tàu RoRo (tàu chở xe, thiết bị lăn bánh), tàu du lịch (đặc biệt, có những con tàu rất lớn như tàu Super Star Leo có sức chứa 2.000 khách du lịch, dài 268 mét, rộng 32 mét, chiều cao tĩnh không 52 mét), tàu quân sự… chưa để xảy ra sự cố đáng tiếc nào làm ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ của cảng Đà Nẵng. Nhờ vậy, đến cuối nhiệm kỳ XVIII, GDP ngành kinh tế biển đạt 878,8 tỷ đồng, chiếm 14,1% GDP thành phố; giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm từ thủy hải sản, dịch vụ cảng biển, dịch vụ du lịch đạt 103,1 triệu USD, chiếm 29,6% tổng kim ngạch xuất khẩu thành phố. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ kinh tế biển: Cảng biển, khu công nghiệp dịch vụ chế biến thủy sản, cảng cá, âu thuyền trú bão... được tập trung đầu tư theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh tế biển phát triển khá tốt, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế của thành phố, gắn với bảo vệ an ninh và chủ quyền trên biển. Tuy nhiên, kinh tế biển của Đà Nẵng có tăng trưởng mạnh nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có

Page 333: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

333

đối với một cảng biển nằm ở trung điểm của trục giao thông Bắc - Nam, một cửa ngõ của Hành lang kinh tế Đông - Tây và những triển vọng được đặt ra trong Chiến lược kinh tế biển đến năm 2020.

Trên lĩnh vực hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế Đà Nẵng cũng có bước phát triển mới. Tổ chức thành công Tuần lễ Hành lang Kinh tế Đông Tây; triển khai hợp tác song phương với địa phương các nước Lào, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Ấn Độ... Đặc biệt, năm 2008, thành phố đã tiếp, làm việc với 60 đoàn khách quốc tế đến thăm, làm việc, tìm cơ hội đầu tư và quan hệ hợp tác, hữu nghị(1), phối hợp tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN và ASEAN + 3, Hội thảo “Hành lang kinh tế Đông Tây - Cơ hội và thách thức đối với Đà Nẵng, miền Trung”... Năm 2009, Thành phố đã tổ chức ra mắt Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Đà Nẵng; tổ chức thành công Diễn đàn Đầu tư Đà Nẵng 2009 và Hội thảo mở đường bay trực tiếp Đà Nẵng - Nhật Bản... Thu hút đầu tư trong và ngoài nước có chuyển biến khá; đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới cho khoảng 2.350 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký ước đạt 5.300 tỷ đồng(2). Từ năm 2005 đến năm 2010, hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại của Đà Nẵng không ngừng được phát triển, ngày càng mở rộng đến nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới; chủ động thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của thành phố trong khu vực và thế giới. Các hoạt động hữu nghị, giao lưu, đối ngoại nhân dân được đẩy mạnh. “Đến giữa năm 2010, thành phố có 175 dự án FDI, tổng vốn đầu tư 2,69 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện ước đạt 1,36 tỷ USD, chiếm hơn

(1) Đáng chú ý là các đoàn Tổng thống Phần Lan, Tổng thống Singapore, Bí thư Đảng Cộng sản Pháp, Phó Thủ tướng thường trực Lào, Quốc vụ khanh phụ trách thương mại Pháp và Tân Đại sứ Pháp tại Việt Nam.(2) Đến năm 2010, trên địa bàn thành phố có trên 11.800 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký đạt 28,5 ngàn tỷ đồng, tăng 21,6% về số doanh nghiệp và 12,3% về vốn đăng ký so cuối năm 2008.

Page 334: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

334

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

50% tổng vốn đầu tư, góp phần tăng cường nguồn lực tài chính cho các nhu cầu phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Thành phố chủ động, tích cực hợp tác với các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và một số địa phương khác xây dựng mạng lưới giao thông liên vùng, du lịch, giáo dục, y tế để phát triển kinh tế - xã hội thành phố”(1).

Nhìn chung, từ năm 2005 đến năm 2010, với việc đặt ra những mục tiêu trọng điểm như: Đẩy mạnh công tác quy hoạch đô thị, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế du lịch, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập, nhất là phát triển kinh tế biển trong chiến lược liên kết vùng, miền và khu vực đã tạo cho Đà Nẵng có được những thành tựu nổi bật như: Tập trung huy động các nguồn vốn, cùng với sự trợ giúp của Trung ương, dồn sức chỉ đạo đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cấp chỉnh trang đô thị, vừa tạo cho Đà Nẵng có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, vừa làm thay đổi nhanh chóng, cơ bản bộ mặt đô thị. Tính từ năm 1997 đến năm 2010, thành phố đã tiến hành đền bù giải tỏa liên quan đến 80.000 hộ dân, nhưng nhờ làm tốt công tác vận động và chăm lo đời sống thiết thực của nhân dân nên được cán bộ, nhân dân thành phố đồng tình ủng hộ. Kinh tế du lịch phát triển mạnh, đóng góp tích cực vào GDP chung của thành phố, sản phẩm và dịch vụ du lịch không ngừng tăng lên. Kinh tế đối ngoại, liên kết trong nước và hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ kinh tế biển được nâng cấp, trong đó cảng Đà Nẵng từng bước vươn lên trở thành cảng biển lớn trong khu vực.

Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất của các thành tựu mà Đà Nẵng đạt được là: Đảng bộ và quân dân Đà Nẵng đã đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, chủ động suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo, đề ra nhiều chủ trương, biện pháp đúng đắn, khai thác được những lợi thế sẵn có, khơi dậy và phát huy

(1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2013): sđd, 2013, tr.413.

Page 335: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

335

ý chí, nguồn lực tại chỗ để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng thành phố theo hướng văn minh, hiện đại. Qua đó, đã đúc kết thành các bài học kinh nghiệm quý báu về phát huy nội lực, về vận động quần chúng và nhất là bài học về kiên quyết trong chỉ đạo điều hành, tổ chức thực hiện, trở thành địa phương được nhiều nơi khác đến tham quan, học tập.

II. NHỮNG KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA - XÃ HỘI TRONG CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG TRỞ THÀNH MỘT ĐÔ THỊ BỀN VỮNG, LÀ THÀNH PHỐ ĐỘNG LỰC CỦA MIỀN TRUNG (2005-2010)

Như đã trình bày ở phần trên, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố (khóa XIX) xác định phải tiếp tục giữ vững sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với mọi hoạt động của thành phố, xem đây là yếu tố quyết định đối với việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên địa bàn, là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho Đà Nẵng tiếp tục phát triển nhanh, đúng hướng và sớm trở thành thành phố văn minh, hiện đại. Đặc biệt là, “tập trung phát triển mạnh các ngành công nghiệp - xây dựng, dịch vụ, nông nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ các ngành”. Trong đó, đến năm 2010, việc chuyển dịch và hoàn thiện cơ cấu kinh tế “Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp”, trên cơ sở đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp và dịch vụ, chuyển mạnh theo hướng công nghiệp hiện đại, coi trọng chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao là yêu cầu cơ bản nhằm đạt các mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Để đạt được mục tiêu trên, một mặt, khuyến khích duy trì và phát triển một số sản phẩm truyền thống mà thành phố đã có thị phần và thực sự có lợi thế phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế (như dệt - may, giày dép, hải sản chế biến, vật liệu xây dựng, thuốc lá, bia, đồ uống...). Mặt khác, ưu tiên phát triển một số sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp kỹ thuật cao: Sản xuất linh kiện và lắp ráp thiết bị điện tử, sản phẩm phần mềm, cơ khí chính

Page 336: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

336

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

xác, thiết bị công nghệ thông tin, vật liệu mới, tự động hóa, công nghệ sinh học... Đẩy mạnh xúc tiến các dự án sản xuất một số sản phẩm công nghiệp mà thành phố có tiềm năng như: Dược phẩm, hàng tiêu dùng, hàng trang trí nội thất, xăm lốp ô tô... Về nông nghiệp, thành phố chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp ngoại thành theo hướng nông nghiệp đô thị, sinh thái và tham quan du lịch. Tích cực thực hiện chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa và mô hình kinh tế trang trại.

Để thực hiện được mục tiêu trên, Ban Thường vụ Thành ủy đã họp để thảo luận và cho ý kiến thông qua các chương trình hành động nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa X) như: “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”; “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”; các đề án “Về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy và biên chế cơ quan đảng, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội”; “Về đẩy mạnh hoạt động dạy nghề và giải quyết việc làm trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”; “Về các giải pháp thúc đẩy sớm hoàn thành công tác cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước của thành phố” và cho ý kiến vào Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) “Về đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”; đồng thời, chỉ đạo xây dựng nghị quyết chuyên đề về phương hướng củng cố, phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Ban Thường vụ Thành ủy tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt của thành phố để nghiên cứu, quán triệt và triển khai thực hiện các Chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa X). Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIX Đảng bộ thành phố từ năm 2005 đến năm 2010 đã gặp nhiều khó khăn, thách thức cả trên bình diện quốc tế lẫn thiên tai, nhất là hệ quả do hai cơn bão số 1 và số 6 gây ra vào năm 2006.

Page 337: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

337

Cơn bão số 1 (còn gọi là bão Chanchu), cơn bão mạnh quét qua vùng biển Việt Nam vào tháng 5 năm 2006, mặc dù bão không vào bờ nhưng gây thiệt hại lớn cho ngư dân miền Trung về người và tài sản(1). Trong đó, thành phố Đà Nẵng chịu nhiều thiệt hại rất lớn. “Tàu thuyền bị chìm và mất tích: 10 tàu, gồm: phường Thanh Khê Đông 5 tàu và phường Xuân Hà 5 tàu (quận Thanh Khê); trong đó, 6 tàu chìm, 3 tàu mất tích và 1 tàu bị mắc cạn tại Bãi Rạng. Tổng số thuyền viên của 10 tàu là 225 người; trong đó có 28 người được cứu sống. Số người bị chết và mất tích trên 10 chiếc tàu nói trên là 197 người. Trong tổng số 197 người bị chết và mất tích, thành phố Đà Nẵng có 75 người, gồm: quận Thanh Khê 44 người; quận Liên Chiểu 22 người; quận Sơn Trà 2 người; quận Hải Châu 3 người và huyện Hòa Vang 4 người”(2).

Ngay trong và sau bão, Ban Thường vụ Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác đột xuất về cứu hộ, cứu nạn và khắc phục thiệt hại do bão số 1 gây ra. Thành phố đã phối hợp với các cơ quan cứu hộ, cứu nạn của Trung ương, Quân chủng Hải quân, Bộ đội Biên phòng; đồng thời chủ động phối hợp với Trung Quốc, Đài Loan triển khai công tác cứu hộ, cứu nạn với tinh thần “còn nước, còn tát”; tổ chức tốt việc tiếp nhận, chăm sóc sức khỏe cho các nạn nhân được cứu sống; tiếp nhận và xử lý nhận dạng thi thể những nạn nhân chết; tổ chức thăm viếng, động viên các gia đình và thân nhân người bị nạn; kêu gọi, vận động toàn xã hội giúp đỡ các gia đình nạn nhân sớm vượt qua khó khăn, mất mát, ổn định tư tưởng, đời sống và sinh hoạt của nhân dân. Đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và các cơ quan, đơn vị, các tổ chức quốc

(1) Ngày 15 tháng 5 năm 2006, bão Chanchu di chuyển theo hướng tây tây bắc vào vùng biển Việt Nam, nhưng sáng ngày 17-5 thì bão đổi hướng về phía bắc, do công tác dự báo không chính xác nên gây thiệt hại rất lớn cho ngư dân đánh bắt xa bờ khi di chuyển về hướng Bắc để tránh bão.(2) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số 14-BC/TU, ngày 01 tháng 6 năm 2006 về tình hình thiệt hại và biện pháp khắc phục hậu quả của bão số 1”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 338: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

338

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tế đã trực tiếp chuyển tiền ủng hộ gia đình nạn nhân bão số 1 được trên 9 tỷ đồng.

Việc khắc phục thiệt hại cơn bão số 1 đang được tiến hành thì thành phố lại phải hứng chịu tiếp cơn bão số 6 (còn gọi là bão XangSane). Đây là cơn bão cực mạnh đổ bộ trực tiếp vào Đà Nẵng ngày 02 tháng 10 năm 2006. Đối với Đà Nẵng, cơn bão đã gây thiệt hại nặng nề. Với tổng số “24 người chết, 3 người mất tích, trên 300 người bị thương, trong đó có 91 người bị thương nặng, 1.500 ngôi nhà sập hoàn toàn, 7.250 nhà tốc mái, tàu thuyền của nhân dân hư hại 320 chiếc, trên 650 trụ sở các cơ quan, nhà máy, doanh nghiệp bị thiệt hại, với tổng giá trị thiệt hại ước tính 3.272 tỷ đồng”(1). Tác hại do hai trận bão số 1 và số 6 gây ra, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế, xã hội của Đà Nẵng trong thời gian này.

Trong 2 năm 2006-2007, Thành ủy tập trung thảo luận và ban hành triển khai nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp lớn với quyết tâm đẩy mạnh tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt là đẩy mạnh hoạt động thương mại dịch vụ, du lịch, đối ngoại và hợp tác quốc tế, từng bước thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố theo hướng “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp”. Ban Thường vụ Thành ủy ban hành các đề án, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO, về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; đẩy mạnh việc thực hiện 12 chương trình trọng tâm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW(2) và Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX);

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số 54-BC/TU, ngày 09 tháng 10 năm 2006 về tình hình thiệt hại và biện pháp khắc phục hậu quả của bão số 6”, Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng. Cuối năm 2007, một trận lũ lụt lớn nữa xảy ra, cũng gây thiệt hại lớn đối với vùng nông thôn của thành phố Đà Nẵng.(2) Đầu năm 2008, Thường trực Thành ủy đã làm việc với Ban Bí thư Trung

Page 339: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

339

Chương trình hành động số 25-CTr/TU, ngày 29 tháng 4 năm 2008 “Về thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Chương trình hành động số 42-CTr/TU, ngày 30 tháng 3 năm 2009 về thực hiện Nghị quyết số 31-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng”; Chỉ đạo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về “Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” trên địa bàn thành phố.

Trên cơ sở đó điều chỉnh, bổ sung các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 20 tháng 10 năm 2007 về phương hướng củng cố, phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp và tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện các giải pháp sớm hoàn thành công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước của thành phố; kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc của địa phương, đơn vị, doanh nghiệp, điều chỉnh những quy định bất hợp lý, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Có thể nói, lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn này gặp khá nhiều khó khăn, thách thức, song với tinh thần tiến công, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp sáng tạo, trách nhiệm, sát với tình hình thực tiễn của địa phương và thật sự có tác dụng khuyến khích, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ.

ương Đảng về kết quả 4 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và tiếp tục chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung phối hợp, triển khai thực hiện hiệu quả Kết luận số 166-KL/TW, ngày 16 tháng 7 năm 2008 của Ban Bí thư về kết quả kiểm tra thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW trên địa bàn thành phố.

Page 340: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

340

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Vào những tháng cuối năm 2007, cùng với cả nước, thành phố cũng chịu sự tác động nặng từ những biến động của kinh tế thế giới, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ toàn cầu, khiến tình hình kinh tế trong nước và thành phố diễn biến bất ổn, thị trường tài chính - tiền tệ, bất động sản biến động phức tạp, giá cả, lãi suất ngân hàng tăng cao, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất các doanh nghiệp và đời sống nhân dân, làm tốc độ tăng trưởng kinh tế thành phố có dấu hiệu chững lại. Tiếp đó, tình hình lạm phát cả nước tăng cao; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng nhanh, vượt chỉ số tăng trưởng GDP; thị trường tài chính - tiền tệ, bất động sản biến động phức tạp; giá cả nguyên nhiên vật liệu, lãi suất ngân hàng, chi phí đầu vào tăng cao, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đà Nẵng chậm lại, an sinh xã hội thêm nhiều bức xúc, tình trạng tái nghèo có xu hướng tăng.

Trong tình hình đó, để khắc phục tình hình trên, đầu năm 2008, Ban Thường vụ Thành ủy đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân thành phố xây dựng Đề án “Một số giải pháp phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng trong tình hình hiện nay”. Theo đó, cả năm 2008 nhiều giải pháp về kiềm chế giá cả, kiểm soát thị trường, chống đầu cơ nâng giá tùy tiện; chống các hiện tượng lợi dụng một số loại vật tư tăng giá để tăng giá theo, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân được triển khai một cách tích cực; nhóm giải pháp đồng bộ nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội, nhất là các chính sách để hỗ trợ cho các hộ nghèo, các hộ có khả năng tái nghèo trong tình hình giá cả tăng cao được các cấp, các ngành tập trung thực hiện nghiêm túc. Mặc dù phải đối mặt với tình hình khó nêu trên, nhưng với những chủ trương và giải pháp đồng bộ, quyết liệt, năm 2008, thành phố đã hoàn thành việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp”, sớm hơn 2 năm so với Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ thành phố đề ra. Đây là một nỗ lực không ngừng, thể hiện tư duy nhạy

Page 341: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

341

bén, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố trong giai đoạn này.

Trong 2 năm 2009-2010, Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và cán bộ, nhân dân thành phố thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng, chủ động khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. Với việc tích cực triển khai đồng bộ các chính sách và giải pháp, cùng với sự chuyển biến tích cực của kinh tế thế giới, sự phục hồi của các nền kinh tế lớn, kinh tế cả nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng đã từng bước vượt qua khó khăn của khủng hoảng kinh tế và đạt được những kết quả tốt hơn trong năm 2009 và năm 2010, góp phần hoàn thành mục tiêu của cả giai đoạn. Đặc biệt, Thành ủy tập trung lãnh đạo từng ngành kinh tế, kỹ thuật của thành phố đi vào khai thác sâu lợi thế, nâng cao giá trị, hướng đến xuất khẩu và hội nhập, đạt được nhiều kết quả khích lệ trong bối cảnh khó khăn, thách thức trong cả giai đoạn 2005-2010.

Từ những chủ trương và nỗ lực nêu trên, trong 5 năm, từ 2005 đến năm 2010, Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội.

Về ngành dịch vụ: Đảng bộ thành phố đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển mạnh về quy mô, đa dạng về loại hình và theo hướng hiện đại; thương mại có bước phát triển nhanh và khá toàn diện. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ giai đoạn 2006-2010 đạt 104.517 tỷ đồng, tăng bình quân 27,3%/năm. Hạ tầng thương mại từng bước được đầu tư đồng bộ, hiện đại với 24 trung tâm thương mại và siêu thị, 88 chợ (loại I, II, III) phân bổ đều khắp trên địa bàn. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá, tính cả giai đoạn 2006-2010 đạt

Page 342: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

342

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

4,45 tỷ USD, tăng 20,1%/năm(1) (năm 2010 đạt 1.219 triệu USD). Thị trường xuất khẩu hàng hóa năm 2010 có 95 nước và vùng lãnh thổ (năm 2006 là 80 nước và vùng lãnh thổ). Tổng kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2006-2010 ước đạt 3.373,7 triệu USD, tăng bình quân 1,2%/năm, trong đó chủ yếu là hàng tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất (chiếm tỷ trọng trên 90%).

Các dịch vụ tài chính, tín dụng, ngân hàng, vận tải, thông tin - truyền thông phát triển nhanh. Hệ thống ngân hàng được mở rộng với 55 chi nhánh, tổ chức tín dụng và 196 phòng giao dịch, chi nhánh giao dịch. Tổng vốn huy động của các tổ chức tín dụng trong 5 năm 2006-2010 đạt 108.495 tỷ đồng, tăng 28,1%/năm; tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế 142.111 tỷ đồng, tăng 29,1%/năm. Hoạt động vận tải phát triển khá, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, với chất lượng phương tiện và dịch vụ ngày càng cao. Khối lượng luân chuyển hàng hóa ước đạt 11.696 triệu tấn/km, tăng 3%/năm, khối lượng luân chuyển hành khách ước đạt 3.929 triệu người/km, tăng 15,7%/năm, khối lượng hàng hóa qua cảng ước đạt 23,5 triệu tấn, tăng 11,1%/năm. Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông phát triển mạnh. Năm 2010, thành phố có 1 trung tâm công nghệ phần mềm, 55 bưu cục, 14 điểm bưu điện văn hóa xã và hơn 265 đại lý bưu điện, điểm giao dịch, bán kính phục vụ đạt 1,04 km; mật độ điện thoại cố định đạt 27 máy/100 dân; thuê bao điện thoại di động, thuê bao internet ước đạt 14,6 thuê bao/100 dân.

Từ năm 2005 đến năm 2010, là thời kỳ đánh dấu sự tăng trưởng mạnh của khu vực dịch vụ của thành phố Đà Nẵng. Hệ thống dịch vụ phát triển mạnh, không chỉ trên các lĩnh vực truyền thống như vận tải, du lịch, bưu chính - viễn thông mà còn có nhiều loại hình dịch vụ mới phong phú và đa dạng, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Tốc độ tăng trưởng

(1) Trong đó, xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2006-2010 đạt 2.610,3 triệu USD (năm 2010 đạt 679 triệu USD), tăng 14,3%/năm, chiếm 58,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Page 343: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

343

giá trị sản xuất khu vực dịch vụ đạt bình quân 17%/năm, cao hơn gấp 1,5 lần so với giai đoạn trước và cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm của thành phố (11%/năm). Thực tiễn phát triển khu vực dịch vụ của thành phố trong giai đoạn này cũng cho thấy khu vực dịch vụ có tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu GDP theo tinh thần Nghị quyết XIX Đảng bộ thành phố. Chính sự phát triển của khu vực dịch vụ đã đóng góp ngày càng nhiều hơn vào sự phát triển chung, thúc đẩy sự phát triển bền vững của các ngành thuộc khu vực công nghiệp, tạo tiền đề cần thiết cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, chủ trương ưu tiên phát triển những phân ngành dịch vụ chất lượng cao của thành phố trong thời kỳ này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Các dịch vụ cao cấp, có giá trị gia tăng lớn vẫn chưa phát triển mạnh; các sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chất lượng phục vụ chưa cao, nhất là chất lượng một số chương trình, lễ hội, tuyến du lịch nên chưa kéo dài thời gian lưu trú và làm tăng chi tiêu của khách du lịch; vận tải hàng hóa, vận tải biển chưa chủ động trong khai thác nguồn hàng, thị trường; lợi thế về kinh tế biển chưa được phát huy tốt; tác động của Hành lang kinh tế Đông - Tây để phát triển Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên và Đà Nẵng chỉ mới ở những bước khởi đầu. Hệ thống cảng biển tại miền Trung có những khó khăn đặc thù về thời tiết, địa hình, vùng hậu phương phát triển rất chậm, nên chủ trương vươn ra biển để khai thác tiềm năng của biển là hướng đi đúng đắn song vẫn còn nhiều sự bất cập. Năm 2010, thành phố vẫn chưa có chương trình, chiến lược toàn diện về phát triển kinh tế biển; quy mô kinh tế biển còn nhỏ; các công trình hạ tầng thiếu đồng bộ; sản lượng hàng hóa qua cảng và năng lực vận tải còn thấp; du lịch biển chưa phát triển mạnh; khai thác thủy sản chủ yếu ở ven bờ, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến thấp; công tác điều tra, nghiên cứu nguồn lợi thủy sản và ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất

Page 344: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

344

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

và chế biến chưa được chú trọng; đời sống của ngư dân còn khó khăn; công tác đảm bảo an toàn và an ninh trên biển còn hạn chế. Thực trạng này cũng chính là “điểm mở” cho việc dần xác định phát triển dịch vụ là một trong 5 hướng đột phá về phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong tương lai, nhằm tạo cho khu vực này một tốc độ tăng trưởng cao hơn, bền vững hơn và đóng góp nhiều hơn vào tốc độ tăng trưởng GDP của Đà Nẵng.

Về công nghiệp: Thời gian này, Thành ủy rất chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao, quan tâm đổi mới công nghệ, tiếp cận công nghệ hiện đại. Thành phố đã tập trung đầu tư phát triển một cách chọn lọc một số lĩnh vực công nghiệp sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, có hàm lượng chất xám cao, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp hàng xuất khẩu, công nghiệp công nghệ thông tin, là những lĩnh vực công nghiệp Đà Nẵng có thế mạnh, nhất là thế mạnh về nguồn nhân lực. Thành phố dành những ưu tiên thỏa đáng về mặt bằng sản xuất, có chính sách miễn giảm thuế, hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào những ngành công nghiệp nói trên, nhất là doanh nghiệp dân doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; đồng thời cũng kiên quyết từ chối những dự án đầu tư công nghiệp sử dụng công nghệ không đảm bảo hoặc có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.

Mặc dù gặp khá nhiều khó khăn nhưng quy mô, số lượng doanh nghiệp công nghiệp trong giai đoạn này ngày càng tăng. Trong 5 năm 2006-2010, có 295 doanh nghiệp thành lập mới, lũy kế đến năm 2010 có 857 doanh nghiệp(1); số hộ sản xuất cá thể ngành công nghiệp đến năm 2010 là 3.987 hộ, tăng 221 hộ so với năm 2006. Cơ cấu ngành công nghiệp trên địa bàn, công nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn mặc dù đã giảm đáng kể so với

(1) Trong đó: 17 doanh nghiệp Trung ương, 1 doanh nghiệp nhà nước địa phương, 22 Hợp tác xã, 191 doanh nghiệp tư nhân, 578 công ty trách nhiệm hữu hạn - công ty cổ phần và 48 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Page 345: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

345

năm 2006 do quá trình sắp xếp, cổ phần hóa (năm 2006 là 62,9%, năm 2010 còn 42,1%); tỷ trọng công nghiệp ngoài nhà nước tăng từ 19,3% năm 2006 lên 37,6% năm 2010; công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng chậm từ 17,6% năm 2006 lên 20,2% năm 2010. Công nghiệp chế biến tiếp tục giữ vai trò chủ đạo (năm 2006 là 88,4%, đến năm 2010 là 90,1%). Thành phố cũng chú trọng hoàn thiện cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh thu hút đầu tư vào 6 khu công nghiệp, tổng diện tích 1.141,8ha. Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung bước đầu hình thành một số sản phẩm chủ lực có quy mô sản xuất lớn. Một số doanh nghiệp lớn đã đầu tư đáng kể cho công tác thị trường, tạo dựng được thương hiệu riêng; nhiều dự án mới đi vào hoạt động hiệu quả. Tổng vốn đầu tư phát triển ngành công nghiệp giai đoạn 2006-2010 đạt khá cao, đạt 18.539,3 tỷ đồng, bình quân 3.707,8 tỷ đồng/năm, chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư phát triển toàn thành phố. Hệ số ICOR ngành công nghiệp giai đoạn 2006-2010 là 4,3 góp phần đưa nhóm ngành công nghiệp - xây dựng từ 46,1% năm 2006 tăng lên 46,5% năm 2010.

Ngành công nghệ thông tin được lãnh đạo thành phố đặc biệt quan tâm. Hằng năm, Ban Thường vụ Thành ủy đều có chỉ đạo sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện và chỉ đạo các giải pháp đẩy mạnh ngành này. Nhờ đó, công nghiệp công nghệ thông tin thành phố đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Năm 2009, Ban Thường vụ Thành ủy đã tiến hành kiểm điểm kết quả việc lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin - truyền thông trên địa bàn theo tinh thần các Nghị quyết số 06-NQ/TU, ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Thường vụ Thành ủy “Về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin đến năm 2010”. Trên cơ sở đó, đã ban hành Thông báo Kết luận số 138-TB/TU, ngày 07 tháng 9 năm 2009 “Về việc tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin từ nay đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020”. Trong đó

Page 346: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

346

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

xác định, xây dựng và phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin nói riêng và ngành công nghệ thông tin - truyền thông là một hướng ưu tiên phát triển trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Đến cuối nhiệm kỳ, hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông đã được Nhà nước và các doanh nghiệp đầu tư khá đồng bộ, giữ vai trò trung tâm ở khu vực miền Trung, một trong ba trung tâm của cả nước. Công nghiệp công nghệ thông tin của thành phố cũng đã có những bước phát triển vượt bậc trong giai đoạn này, với tốc độ tăng trưởng bình quân là 25%/năm, doanh thu công nghệ thông tin của Đà Nẵng năm 2010 đạt 1.798 tỷ đồng. Đây là một thành tựu rất có ý nghĩa đối với Đà Nẵng, không chỉ khẳng định công nghiệp phần mềm của thành phố từng bước phát triển mà còn khẳng định tiềm năng to lớn của thành phố trong xu hướng hội nhập thị trường phần mềm thế giới; mở ra triển vọng lớn cho Đà Nẵng xây dựng một ngành công nghiệp mới, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Tuy nhiên, việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển sản xuất công nghiệp thành phố trong giai đoạn cũng gặp nhiều khó khăn do diễn biến phức tạp về kinh tế thế giới và trong nước, giá cả nguyên nhiên, vật liệu biến động lớn ảnh hưởng không ít đến sản xuất và đầu tư, dẫn đến một số dự án công nghiệp lớn triển khai kéo dài so với tiến độ dự kiến như: dự án lắp ráp ô tô, nhà máy sữa, nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu, nhà máy săm lốp ô tô. Thời gian này, cũng là giai đoạn mà quá trình đô thị hóa và chỉnh trang đô thị tại thành phố diễn ra khá mạnh mẽ, nhiều cơ sở công nghiệp nằm trong khu dân cư, ngoài khu công nghiệp phải di dời theo quy hoạch và việc bố trí lại mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ còn gặp khó khăn; một số dự án đầu tư lớn phải từ chối triển khai do không phù hợp quy hoạch phát triển bền vững, bảo đảm môi trường đô thị, như các dự án thép, dự án đóng tàu,... Vận chuyển hàng hóa tại cảng Đà Nẵng tuy đã có nhiều cố gắng giảm bớt khó khăn cho

Page 347: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

347

doanh nghiệp song so với hai đầu đất nước, cước phí qua cảng Đà Nẵng còn cao và thời gian vận chuyển còn dài do lượng hàng xuất cảng còn thấp cũng là một trong những yếu tố làm giảm bớt sức hút đầu tư công nghiệp tại thành phố.

Trong giai đoạn này, ngành công nghiệp thành phố còn bị thiệt hại lớn do bão Xangsane gây ra vào tháng 10 năm 2006. Về chủ quan, công tác xúc tiến đầu tư công nghiệp của các cấp, các ngành cũng còn hạn chế. Mặt khác cũng phải công bằng mà đánh giá, với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố Đà Nẵng sang “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp” từ sau 2010, nên mức độ ưu tiên đầu tư cho phát triển công nghiệp trong giai đoạn này cũng có sự điều chỉnh. Ngoài ra, cũng có nguyên nhân một bộ phận doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn thành phố chưa thật sự năng động, nhạy bén trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chưa xây dựng được chiến lược phát triển lâu dài, ổn định và tăng trưởng cao. Do vậy, tốc độ tăng trưởng công nghiệp chưa có sự bứt phá, nổi trội, chưa thật sự vững chắc. Giá trị sản xuất công nghiệp toàn thành phố, giai đoạn 2006-2010 đạt 51.535 tỷ đồng, tăng bình quân 8,8%/năm. Quy mô nền công nghiệp còn nhỏ so với nhiều địa phương trong nước (năm 2010 xếp thứ 20/63 tỉnh, thành). Cơ cấu nội bộ ngành cũng chưa định hình rõ các ngành công nghiệp quan trọng, các sản phẩm chủ lực có hàm lượng công nghệ và tri thức cao; một số sản phẩm công nghiệp có sản lượng lớn còn mang tính gia công, lắp ráp, giá trị nội địa tăng chậm; công nghệ chậm đổi mới; còn ít sản phẩm khẳng định được thương hiệu và có sức cạnh trạnh cao trên thị trường.

Trong các năm 2009 và năm 2010, lãnh đạo thành phố chủ trương chú trọng phát triển công nghiệp có công nghệ cao, quan tâm đổi mới công nghệ, tiếp cận với công nghệ hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội thành phố lần thứ XIX dần được khẳng định và thực thi một cách quyết liệt. Theo đó, cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp dần được chuyển đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng các ngành sản xuất tiêu hao nhiều năng lượng, ô nhiễm

Page 348: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

348

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

môi trường, giá trị gia tăng thấp như: chế biến thực phẩm, dệt - may - giày, chế biến gỗ, lâm sản...; và tăng tỷ trọng các ngành sử dụng công nghệ cao, hiện đại, giá trị gia tăng cao như: sản xuất linh kiện, thiết bị điện, điện tử, công nghệ thông tin, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng từ khoáng phi kim loại; từng bước đầu tư phát triển một số sản phẩm công nghiệp chủ lực.

Việc đầu tư đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp có chuyển biến. Khu công nghệ cao Đà Nẵng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt triển khai tại Quyết định số 1979/QĐ-TTg, ngày 28 tháng 10 năm 2010. Đây là Khu công nghệ cao đa chức năng thứ 3 của cả nước, gồm 7 phân khu chức năng, tổng diện tích 1.120,9 ha, với 6 nhóm ngành nghề thu hút đầu tư khác nhau. Chính phủ cũng đã chấp thuận và Ủy ban nhân dân thành phố đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng khu công nghệ thông tin tập trung, tọa lạc tại xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang trên diện tích 131ha với tổng vốn đầu tư cho hạ tầng cơ bản gần 580 tỷ đồng. Việc tích cực kêu gọi đầu tư, triển khai 2 dự án lớn này là một trong những đột phá về phát triển kinh tế - xã hội thành phố trong những năm đầu của nhiệm kỳ tiếp theo.

Về xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu kinh tế tổng hợp: Thành phố đã đầu tư xây dựng tương đối hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng kỹ thuật và thường xuyên rà soát, điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp, di dời, xử lý các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm, từ chối các dự án mới có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Đến năm 2010, thành phố có 6 khu công nghiệp đang hoạt động, tổng diện tích 1.136 ha, thu hút 320 dự án, tổng vốn đầu tư trên 10.000 tỷ đồng, tỷ lệ lấp đầy trung bình đạt 62,6%.

Muốn phát triển nhanh thành phố theo hướng văn minh, hiện đại, Đà Nẵng cần phải có những nguồn lực dồi dào, đặc biệt là nguồn lực tài chính và nguồn lực khoa học công nghệ. Xuất phát từ nhận thức trên, bên cạnh việc phát huy tối đa bài học kinh nghiệm về phát huy nội lực, lãnh đạo thành phố luôn coi mở rộng hợp tác quốc tế và xem đây là nhiệm vụ quan trọng.

Page 349: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

349

Thành ủy, chính quyền thành phố luôn thực hiện cơ chế cởi mở, thông thoáng theo quy định pháp luật để thu hút các nguồn lực từ bên ngoài nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đa dạng hóa các hoạt động hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo và chăm sóc sức khỏe người dân.

Ngoài quan hệ hợp tác của chính quyền các cấp, thành phố cũng chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp, các hội đoàn thể, tổ chức quần chúng tăng cường công tác này, vừa tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ trên các lĩnh vực, vừa đẩy mạnh góp phần quảng bá hình ảnh của thành phố và người dân thành phố đến với bạn bè thế giới. Đến năm 2010, thành phố đã thiết lập quan hệ đối ngoại, kinh tế đối ngoại lâu dài với trên 100 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức thành công tại Đà Nẵng như Hội nghị quan chức cấp cao APEC lần thứ 3 (SOM III), Hội nghị Bộ trưởng Du lịch các nước thành viên APEC, Hội nghị Thượng đỉnh tham tán thương mại Mỹ của các quốc gia ASEAN, sự kiện Tuần lễ Hành lang kinh tế Đông - Tây. Tính đến cuối năm 2010, thành phố có trên 11.250 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký đạt trên 58.216 tỷ đồng; có 186 dự án FDI, tổng vốn đầu tư 2,72 tỷ USD; vốn thực hiện ước đạt 1,39 tỷ USD, chiếm 51,1% tổng vốn đầu tư với 100 dự án đã đi vào hoạt động. Đối với các dự án từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), có 12 dự án sử dụng vốn ODA do thành phố quản lý, tổng vốn đầu tư 310,43 triệu USD. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hóa thị trường và sản phẩm tiêu thụ, doanh thu tăng bình quân khoảng 20,5%/năm. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ước đạt 4,5 tỷ USD, tăng 20%/năm; thị trường xuất khẩu hàng hóa mở rộng với 95 nước và vùng lãnh thổ.

Trong việc hợp tác với các tỉnh lân cận, thành phố Đà Nẵng đặc biệt chú trọng đối với tỉnh Quảng Nam anh em ngay từ khi chia tách tỉnh, xem đây là một trong những chủ trương mang tính

Page 350: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

350

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

xuyên suốt, lâu dài và không tách rời của quá trình xây dựng, phát triển thành phố. Mối quan hệ hợp tác phát triển Đà Nẵng - Quảng Nam được minh chứng sinh động qua Chương trình hợp tác, hỗ trợ giữa hai địa phương theo Kết luận số 08-KL/TUĐN-TUQN của Thành ủy Đà Nẵng và Tỉnh ủy Quảng Nam, bắt đầu triển khai từ năm 2008. Kết luận này thể hiện nỗ lực của lãnh đạo hai địa phương, nhằm thực hiện tinh thần “chia mà không tách” từ khi Quảng Nam - Đà Nẵng tái lập thành 2 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, đồng thời cũng là nền tảng để hai địa phương hợp tác, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Để triển khai Kết luận nêu trên, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã ban hành Quyết định số 5516/QĐ-UBND về việc “Hợp tác liên kết, hỗ trợ giữa thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam”. Theo đó, từ năm 2008 đến năm 2020, thành phố Đà Nẵng cam kết sẽ hỗ trợ tỉnh Quảng Nam mỗi năm 15 tỷ đồng với phần lớn dành để xây dựng nhà ở cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo, đầu tư giáo dục... Đây có thể xem là tín hiệu mới trong việc tạo mối liên kết vùng giữa các địa phương tại khu vực miền Trung nói chung, giữa hai “người anh em” Quảng Nam và Đà Nẵng nói riêng - một vấn đề luôn được quan tâm tại các hội nghị, diễn đàn quan trọng trong khu vực.

Trên cơ sở quyết định này, các sở, ban, ngành, quận, huyện trên địa bàn thành phố sẽ phối hợp với các đơn vị thuộc tỉnh Quảng Nam triển khai, tổ chức hợp tác liên kết toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, nhấn mạnh việc hợp tác xây dựng Đà Nẵng - Quảng Nam thành trung tâm du lịch, dịch vụ lớn của cả nước và khu vực. Qua đó, hai địa phương sẽ xây dựng chung chương trình xúc tiến, quảng bá du lịch và đẩy mạnh việc kết nối các chương trình lễ hội văn hóa - du lịch. Trong những nội dung hợp tác, hỗ trợ này, thành phố Đà Nẵng đã dành một khoản hỗ trợ kinh phí đáng kể để tỉnh Quảng Nam giải quyết những vấn đề cấp bách cũng như lâu dài trên lĩnh vực giáo dục và hỗ trợ người có công, người nghèo… Năm 2010, thành phố Đà Nẵng đã hỗ trợ ban đầu 10 tỷ đồng để xây dựng Trường trung học phổ thông

Page 351: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

351

chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm và thỏa thuận tiếp tục hỗ trợ xây dựng một hạng mục công trình cho ngôi trường này. Bên cạnh đó, Đà Nẵng duy trì thường xuyên việc tuyển 20 học sinh Quảng Nam vào học trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn; trên 100 học sinh Quảng Nam vào học tại trường Trung học phổ thông Phan Thành Tài; hơn 10 học sinh của Quảng Nam được tham gia đào tạo bậc đại học trong nước và nước ngoài bằng nguồn ngân sách thành phố. Hoạt động phối hợp xúc tiến đầu tư xây dựng hệ thống giao thông khu vực miền Trung cũng được 2 địa phương chú trọng, nhất là đối với những tuyến quan trọng như đường ven biển Đà Nẵng - Hội An sẽ được tiếp tục mở rộng về phía nam khi cầu Cửa Đại được hoàn thành; tuyến cao tốc Đà Nẵng - Dung Quất hợp cùng Quốc lộ 1, Quốc lộ 14B tạo điều kiện thuận lợi hơn trong giao thông, góp phần tích cực vào vận hành hiệu quả Hành lang kinh tế Đông - Tây(1).

Thành phố tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án đổi mới kinh tế nhà nước, phát triển kinh tế dân doanh. Các thành phần kinh tế được hỗ trợ và tạo thuận lợi để phát triển nhanh, đúng hướng. Cơ cấu thành phần kinh tế biến đổi theo hướng tích cực. Tỷ trọng kinh tế nhà nước từ 48,4% năm 2006 dự kiến giảm còn 39% năm 2010, kinh tế dân doanh từ 44% năm 2006 dự kiến tăng lên 52,5% năm 2010 và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài từ 5,5% năm 2006 dự kiến tăng lên 6,5% năm 2010. Nhiều chủ trương hỗ trợ, phát triển mới doanh nghiệp, cải thiện công tác hậu kiểm được thực hiện có hiệu quả; hoàn thành cổ phần hóa doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2006-2010, đã cấp đăng ký kinh doanh mới 10.711 doanh nghiệp, tăng 13,6%/năm, tổng vốn đăng ký ước đạt 31.604 tỷ đồng, tăng 23,6%/năm. Tổng vốn đầu tư phát triển của thành phố trong cả giai đoạn đạt 66.734 tỷ đồng, tăng 18,3%/ năm, trong đó đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước ước đạt 16.541 tỷ đồng, tăng 3,6%/năm.

(1) Bài “Đà Nẵng - Quảng Nam: chia mà không tách”, Báo Quảng Nam, số ra ngày 15 tháng 3 năm 2013.

Page 352: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

352

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Về nông nghiệp: Thành phố chủ trương phát triển theo hướng phục vụ cho đô thị, du lịch, công nghiệp; kinh tế biển và chương trình xây dựng nông thôn mới được chú trọng đẩy mạnh. Xu hướng chuyển dịch trong cơ cấu ngành nông, lâm ngư nghiệp ở thời kỳ này tiếp tục duy trì, nhưng có chậm hơn so với giai đoạn trước. Đồng thời, quá trình đô thị hóa nhanh, diện tích đất nông nghiệp tiếp tục bị thu hẹp, thành phố cũng thực hiện đóng cửa rừng để bảo vệ môi trường khiến cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp có sự chuyển đổi mạnh theo hướng sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên đất đai. Diện tích trồng lúa kém hiệu quả được khuyến khích chuyển đổi sang các mô hình sản xuất nông nghiệp khác hoặc thay đổi trong cơ cấu giống cây trồng kết hợp các tiêu chuẩn trồng trọt tiên tiến cho năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn. Các nghề trồng nấm, trồng hoa, cây cảnh phục vụ nhu cầu đô thị được quan tâm chỉ đạo phát triển, làm đa dạng thêm cơ cấu cây trồng của ngành nông nghiệp Đà Nẵng. Trong nội bộ ngành thủy sản cũng diễn ra sự chuyển dịch theo hướng tích cực, từ năm 2007 thành phố đã có chủ trương không phát triển hình thức nuôi trồng thủy sản nước mặn, giảm nuôi trồng thủy sản nước lợ mà chủ yếu phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Thành phố cũng có nhiều chính sách khuyến khích giảm dần nghề khai thác hải sản có giá trị kinh tế thấp, gây hại đến nguồn lợi thủy sản bền vững, theo đó, các nghề lưới vây, lưới rê phát triển, góp phần tăng năng lực khai thác theo hướng vươn khơi bám biển, công nghệ khai thác cũng được đầu tư đổi mới khá mạnh trong thời kỳ này.

Tuy nhiên, giai đoạn 2005-2010, trước sức ép của đô thị hóa, cơ cấu đất thay đổi, đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp dần, lại chịu tàn phá mạnh của thiên tai, dịch bệnh khiến cho hoạt động sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Từ giữa năm 2006, thành phố chủ trương hạn chế và ngừng hẳn việc chăn nuôi heo, bò trong khu vực nội thành nhằm đảm bảo vệ sinh, môi trường đối với đô thị đang được chỉnh trang và phát triển mạnh, hoạt

Page 353: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

353

động ngành chăn nuôi được tổ chức lại theo phương thức tập trung, kinh tế trang trại và ở các hợp tác xã phát nông nghiệp thuộc huyện Hòa Vang là chủ yếu. Các yếu tố trên dẫn đến mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn này giảm xuống thấp chỉ còn thay đổi 6,8% so với giai đoạn 2001-2005.

Tháng 8 năm 2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) ra Nghị quyết “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, Nghị quyết của Trung ương khẳng định các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quán triệt tinh thần trên, ngày 30 tháng 10 năm 2008, Thành ủy đã ban hành triển khai Chương trình hành động số 30-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết và tiếp theo là Chương trình xây dựng nông thôn mới theo bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới tại Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ.

Theo đó, việc triển khai các chương trình trên được đẩy mạnh, tập trung chủ yếu vào 5 nội dung cơ bản bao gồm: Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn; phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; hỗ trợ phát triển sản xuất và xây dựng các hình thức sản xuất có hiệu quả trong nông thôn; xây dựng đời sống văn hóa phong phú, lành mạnh ở nông thôn và bảo vệ, phát triển nâng cao chất lượng môi trường nông thôn. Thành ủy thường xuyên chỉ đạo các cấp ủy Đảng, bao gồm cấp xã, phường nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, đổi mới phương thức làm việc, ban hành các nghị quyết chuyên đề về kinh tế, an ninh trật tự, văn hóa, xã hội, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề về xây dựng nông thôn mới để tập trung chỉ đạo thực hiện.

Qua triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) cùng với nhiều chính sách hỗ trợ khác từ nhiều năm trước đó, nông nghiệp, nông dân, nông thôn thành phố trong giai đoạn này tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và sự nghiệp xây dựng

Page 354: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

354

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

nông thôn mới. Diện mạo nông thôn thay đổi nhanh chóng, đến cuối năm 2010, hệ thống điện, đường, trường, trạm được đầu tư khá đồng bộ; hệ thống giao thông được nhựa hóa - bê tông hóa (tỷ lệ đường giao thông liên xã, thôn, xóm và kiệt hẻm được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt trên 83%); tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn đạt 99,7%; có 10/11 xã có bưu điện văn hóa xã với 25 điểm phục vụ bưu chính viễn thông, có 47 điểm cung cấp dịch vụ internet đến thôn trên địa bàn 11 xã, có 45,34% hộ sử dụng điện thoại cố định; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở được tiếp tục học Trung học phổ thông đạt 92,4%; 11/11 trạm y tế xã trên địa bàn huyện đạt chuẩn y tế quốc gia, tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh ngày càng tăng.

Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế nông thôn được chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của người dân khu vực nông thôn ngày càng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm. Công tác quản lý, bảo vệ rừng, kiểm tra, phòng chống chặt phá, cháy rừng được quan tâm; đã hoàn thành quy hoạch 3 loại rừng với tổng diện tích đất lâm nghiệp là 60.988 ha; tỷ lệ che phủ rừng đến cuối năm 2010 đạt 41%.

Nhìn chung, với sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố, Đà Nẵng cơ bản đã hoàn thành những nhiệm vụ mà Đại hội nhiệm kỳ XIX đã đề ra trên lĩnh vực kinh tế. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) trong 5 năm 2006-2010 ước tăng 11%/năm. Trong đó, dịch vụ ước tăng 16,3%/năm, công nghiệp - xây dựng ước tăng 6,9%/năm và nông nghiệp ước giảm 1,9%. GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 33,2 triệu đồng (tương đương 2.010 USD), gấp 2,2 lần so với năm 2005 và cao hơn gấp 1,6 lần so với mức bình quân chung cả nước. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo định hướng Nghị quyết Đại hội XIX và Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ chính trị (khóa IX) đề ra, với tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng

Page 355: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

355

từ 49,6% năm 2006 lên 50,43% năm 2010, công nghiệp - xây dựng tăng từ 46,1% lên 46,53% và nông nghiệp giảm từ 4,3% xuống 3,04%. Tỷ lệ lao động ngành nông nghiệp giảm từ 1,5% năm 2006 xuống 9,6% năm 2010, công nghiệp tăng từ 34,9% lên 35,1% và dịch vụ tăng từ 53,6% lên 55,3%. Kết quả trên thể hiện sự vươn lên của thành phố phục hồi kinh tế sau khủng hoảng kinh tế thế giới và 2 cơn bão lớn, dù đây là giai đoạn khó khăn nhất trong thời kỳ 1996 - 2010.

Trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội, Đảng bộ thành phố tiếp tục thực hiện chủ trương phát triển kinh tế gắn liền với chăm lo xây dựng đời sống văn hóa - xã hội, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội như các nghị quyết của Đảng đã đề ra. Đối với thành phố, trước hết là nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển văn hóa phù hợp với sự phát triển kinh tế và vị thế mới của Đà Nẵng.

Để triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động của Thành ủy triển khai Nghị quyết số 33/NQ-TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; tháng 12 năm 2004, Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành chương trình tiếp tục thực hiện tốt Chương trình xây dựng thành phố “5 không”; xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục - thể thao”, từ năm 2005 đến năm 2010 với những mục tiêu: Tiếp tục thực hiện Chương trình xây dựng thành phố “5 không”, đặc biệt chú trọng đến các lĩnh vực “không có người lang thang xin ăn” dưới mọi hình thức; “không có người nghiện ma túy trong cộng đồng” và “không có giết người để cướp của”. Thực hiện có hiệu quả đề án đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động diện di dời giải tỏa, chỉnh trang đô thị; đồng thời chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp giải quyết từ 27.000 đến 28.000 lao động có việc làm giai đoạn 2006 - 2010, nhằm góp phần đưa tỷ lệ thất nghiệp từ 5,17% (năm 2003) xuống còn 4,95% (năm 2005) và xuống dưới 4% (năm 2010), nâng

Page 356: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

356

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tỉ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn từ 81,2% (năm 2003) lên 82% (năm 2005) và 85% (năm 2010)(1). Thành phố đã phấn đấu, nỗ lực rất lớn trong các mục tiêu Chương trình “5 không”. Cụ thể như sau:

Mục tiêu không có hộ nghèo: Đẩy nhanh tốc độ nâng cao chất lượng đời sống của người dân thành phố Đà Nẵng nói chung và những hộ có mức thu nhập thấp nói riêng, đến năm 2015 cơ bản không còn hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng ở thành thị và 400.000 đồng/người/tháng ở nông thôn trở xuống. Phấn đấu giai đoạn 2011-2015 giảm 2,0%-3,2% hộ nghèo/năm, đến năm 2015 cơ bản không còn hộ nghèo; chất lượng cuộc sống của hộ thu nhập thấp được nâng lên cả về vật chất và tinh thần, là cơ sở vững chắc cho việc xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Mục tiêu không có người nghiện ma túy: 100% công dân có hiểu biết pháp luật về phòng, chống ma túy, tác hại của ma túy; tổ chức cai nghiện phục hồi cho 100% người nghiện, tái nghiện được phát hiện, 100% đối tượng hoàn thành cai nghiện được quản lý cai nghiện tại cộng đồng theo đúng quy định của pháp luật; khống chế người nghiện ma túy dưới 0,05% dân số, tỷ lệ tái nghiện ma túy hằng năm không vượt quá 50%; duy trì 100% cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, trường học, đơn vị lực lượng vũ trang không có người nghiện ma túy, phấn đấu giữ vững số phường, xã lành mạnh hiện có và hằng năm xây dựng mới từ 1 đến 2 phường, xã đạt chuẩn phường, xã lành mạnh không có tệ nạn ma túy.

(1) Đến tháng 6 năm 2009, Ủy ban nhân dân thành phố đồng ý theo đề nghị của Sở Kế hoạch và Đầu tư về việc điều chỉnh các mục tiêu Chương trình “Thành phố 5 không” giai đoạn 2009-2015. Theo đó, mục tiêu của Chương trình “Thành phố 5 không” giai đoạn 2009-2015: Không có hộ nghèo theo chuẩn thành phố; không có học sinh bỏ học ở cấp tiểu học và trung học cơ sở; không có người lang thang xin ăn; không có người nghiện ma túy trong cộng đồng; không có giết người để cướp của. Tương ứng với từng mục tiêu, các ngành của thành phố đã xây dựng các Đề án để thực hiện chương trình thành phố 5 không trong giai đoạn mới.

Page 357: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

357

Mục tiêu không có học sinh bỏ học: Đảm bảo không có học sinh bỏ học do hoàn cảnh gia đình khó khăn; huy động học sinh bỏ học giữa chừng trở lại trường, duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi một cách bền vững, phấn đấu hoàn thành phổ cập bậc trung học phổ thông; nâng cao chất lượng dạy và học ở tất cả các cấp học, ngăn chặn tình trạng bỏ học; đổi mới phương pháp giảng dạy; đồng thời hoàn thiện quy hoạch mạng lưới trường lớp ở các cấp học.

Mục tiêu không có người lang thang xin ăn: Phấn đấu hằng năm có 100% phường, xã không có người lang thang xin ăn, thực hiện tốt chương trình “5 không, 3 có”; phát hiện kịp thời và tập trung 100% số người lang thang xin ăn, người tâm thần lang thang trên địa bàn thành phố vào các cơ sở bảo trợ xã hội để phân loại, nuôi dưỡng, giáo dục, chữa bệnh, dạy nghề và giải quyết đưa về cộng đồng.

Mục tiêu không có giết người để cướp của: Đảm bảo 100% hộ dân được phổ biến pháp luật nâng cao nhận thức, trách nhiệm phòng tránh hành vi của tội phạm giết người để cướp tài sản, 90% số người trong nhóm đối tượng có nguy cơ cao vi phạm pháp luật hình sự phải được tuyên truyền, vận động phòng, chống tội phạm, ngăn ngừa và làm hạn chế phát sinh các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an toàn xã hội. Đồng thời đảm bảo 80% người có tiền án, tiền sự được quản lý giúp đỡ, tạo điều kiện sinh hoạt, nâng cao hiệu quả giải quyết những vấn đề xã hội.

Với quyết tâm đó, trong giai đoạn 2005-2010, chương trình “thành phố 5 không”, được duy trì thực hiện và tiếp tục phát huy kết quả đạt được. Thành phố không còn người mù chữ, không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo (chuẩn Quốc gia) giảm từ 5,7% cuối năm 2006 ước còn 0% cuối năm 2010 và tỷ lệ hộ nghèo (chuẩn cũ thành phố) giảm từ 11,08% (tương ứng 16.956 hộ) cuối năm 2005 ước còn 0,95% (tương ứng 1.450 hộ) vào cuối năm 2008 với 15.506 hộ thoát nghèo. Đến cuối năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo theo

Page 358: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

358

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

chuẩn mới thành phố(1) giảm còn 6,55% (tương ứng 14.884 hộ) với 20.042 hộ thoát nghèo, chiếm tỷ lệ 12,71%. Trong 5 năm 2006-2010, thành phố đã giải quyết việc làm mới cho 161.486 lao động, đạt bình quân 3,3 vạn lao động/năm và đưa 1.219 lao động đi làm việc ở nước ngoài(2). Tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm từ 5,1% năm 2006 xuống còn 4,9% năm 2010, phù hợp với đô thị đang phát triển.

Sau kết quả ban đầu của chương trình thành phố “5 không”, thành phố tiếp tục thực hiện Chương trình “3 có”: Có nhà ở, có việc làm, có nếp sống văn hóa, văn minh đô thị. Nhìn lại các kết quả của chương trình “5 không” đã đạt được trong những năm qua và những mục tiêu mà chương trình “3 có” đặt ra, có thể thấy rằng đó là những mục tiêu hoàn toàn thiết thực, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân. Các chương trình hành động này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với Đảng bộ thành phố, bởi nếu đặt ra mục tiêu mà không thực hiện tốt, và đem đến những đổi thay cho người dân thì chỉ số lòng tin của người dân đối với chính quyền thành phố sẽ suy giảm. Vì vậy, thành phố đã đề ra và thực hiện với một quyết tâm cao độ các chương trình này.

Từ năm 2006 đến năm 2010, “chương trình 3 có” của thành phố đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Đến năm 2010, Đà Nẵng đã cơ bản hoàn thành “xóa nhà tạm” cho hộ nghèo có đất ở ổn định; tích cực triển khai thực hiện Chương trình xây dựng 7.000 căn hộ chung cư cho người thu nhập thấp và xây dựng ký túc xá cho học sinh, sinh viên; đã triển khai gần 120 khu chung cư, bố trí gần 10 ngàn căn hộ. Các cấp, ngành của thành phố đã tổ chức gần 100 phiên chợ việc làm, giải quyết

(1) Chuẩn nghèo: 400.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn, 500.00 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.(2) Gồm các thị trường: Nhật Bản: 111 lao động, Đài Loan: 443 lao động, Malaysia: 379 lao động, Hàn Quốc: 188 lao động, Cộng hòa Liên bang Nga: 14 lao động; tàu du lịch: 66 lao động, tàu biển Đài Loan: 11 lao động, Libya: 7 lao động.

Page 359: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

359

việc làm hơn 160 ngàn lao động; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và Đề án “Xây dựng nếp sống văn hóa văn minh đô thị” được các cấp ngành của thành phố đẩy mạnh thực hiện, năm 2010 có 90% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá, 75% thôn, 60% tổ dân phố và 30% phường, xã đạt tiêu chuẩn văn hóa. Công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội thực hiện có hiệu quả. Mô hình xây dựng cụm dân cư, phường, xã không có tội phạm ma túy và tệ nạn xã hội được triển khai nhân rộng.

Việc thành phố thực hiện chương trình “5 không” và “3 có”, đã tạo thành nền tảng vững chắc để thành phố thực hiện chính sách an sinh xã hội mang đậm tính nhân văn. Nhiều chương trình được tổ chức như: Giúp đỡ hộ đặc biệt nghèo thoát nghèo, vận động học sinh bỏ học trở lại trường hoặc học nghề, giúp đỡ thiếu niên hư, vi phạm pháp luật tiến bộ; cho vay vốn hoàn lương, hỗ trợ mổ tim bẩm sinh; ban hành chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội, với mức trợ cấp cao hơn 15% và mở rộng đối tượng hơn so với quy định của Trung ương cho gần 19 ngàn đối tượng, tổng kinh phí 44 tỷ đồng/năm; 100% trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được chăm sóc, giúp đỡ từ chính sách của nhà nước, cộng đồng và các tổ chức quốc tế; 100% trẻ em trong các hộ nghèo được hưởng chính sách của Nhà nước về y tế và giáo dục; 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí, tăng gần 10% so với năm 2006. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 15,9% năm 2006 còn 9,4% năm 2010. Quỹ Bảo trợ trẻ em 2006 - 2010 vận động hơn 20 tỷ đồng.

Mô hình xây dựng cụm dân cư, phường, xã không có tội phạm ma túy và tệ nạn xã hội được triển khai nhân rộng. Công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở được quan tâm, 100% quận, huyện và 12 phường, xã (chiếm tỷ lệ 21,4%) có nhà văn hóa - thể thao, thư viện. Trong giai đoạn này, thành phố có thêm 5 di

Page 360: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

360

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia(1). Giai đoạn 2006-2010, thành phố đã hoàn thành trùng tu, tôn tạo 14 di tích; tiếp tục trùng tu các đình Phong Lệ, đình Đại La (huyện Hòa Vang), kinh phí hơn 7 tỷ đồng. Công tác sưu tầm hiện vật được chú trọng. Hệ thống các thiết chế văn hóa - thể thao phường, xã được quan tâm đầu tư. Hầu hết các quận, huyện đã tổ chức bộ máy trung tâm văn hóa - thể thao, tuy nhiên mới có các quận Hải Châu, Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ và huyện Hòa Vang có thiết chế sinh hoạt nhà văn hóa cấp quận, huyện. Đến cuối năm 2010, thành phố có 37 phường, xã có thiết chế văn hóa thông tin cơ sở, chiếm 66,07%; xây dựng 13 nhà văn hóa cấp phường, xã và 3 nhà gươl của đồng bào dân tộc Cơtu tại xã Hòa Bắc và xã Hòa Phú. Tỷ lệ hộ xem truyền hình đạt 99% và 100% hộ được nghe đài. Mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, trong thời gian này, việc sử dụng các thiết chế văn hóa, bảo tàng, nhà văn hóa thiếu nhi trên địa bàn thành phố chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân.

Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, thành phố thực hiện có hiệu quả mục tiêu nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Trong giai đoạn 2006-2010, thành phố cũng đưa ra nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của giáo dục - đào tạo, nhằm đảm bảo cho hai lĩnh vực này thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, từ đó nhanh chóng tạo ra cho thành phố một nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như tạo dựng được cho thành phố một tiềm lực khoa học thật sự mạnh, có thể đưa thành phố trở thành trung tâm khoa học - công nghệ của khu vực miền Trung - Tây Nguyên trong những nhiệm kỳ tiếp theo.

Thành phố tiếp tục tập trung đầu tư nâng cấp trường chất lượng cao (Trường trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn),

(1) Đình làng Thạc Gián, Nhà thờ tiền hiền làng An Hải và Thoại Ngọc Hầu, Lăng mộ Đỗ Thúc Tịnh, Nhà Mẹ Nhu và 7 Dũng sỹ Thanh Khê, Khu Căn cứ Cách mạng K20.

Page 361: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

361

các trường trọng điểm chất lượng cao ở các cấp học, bậc học; phối hợp tạo điều kiện thành lập mới hoặc nâng cấp một số trường, khoa như trường Đại học Kiến Trúc, trường Đại học Thể dục - Thể thao Đà Nẵng; trường Cao đẳng Công nghệ thông tin Việt - Hàn, Khoa Y - Dược (Đại học Đà Nẵng), trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng; chi ngân sách cho việc đào tạo đại học, thạc sĩ và tiến sĩ ở nước ngoài. Theo đó, mạng lưới trường, lớp, các ngành học, bậc học thuộc thành phố không ngừng mở rộng, cơ sở vật chất, trang thiết bị đảm bảo với 100% phòng học cấp 4 trở lên, không có trường học ca 3. Đến cuối năm 2010, toàn thành phố có 25 trường mầm non, 66 trường tiểu học, 10 trường trung học cơ sở và 3 trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia; 100% phường, xã duy trì chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học cơ sở đúng độ tuổi; 94,64% phường, xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục bậc trung học. Chất lượng giáo dục và đào tạo được cải thiện đáng kể, thành tích các kỳ thi quốc gia và quốc tế nâng cao qua từng năm. Đội ngũ giáo viên đảm bảo về số lượng, tỷ lệ giáo viên trên lớp bậc tiểu học đạt 1,35; trung học cơ sở đạt 1,9 và trung học phổ thông đạt 2,17; số giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn ngày càng tăng.

Giáo dục hướng nghiệp, đào tạo nghề, được định hướng phát triển phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố và không ngừng nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Giai đoạn 2006-2010, thành phố đã đầu tư 41,2 tỷ đồng xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề các cơ sở dạy nghề công lập. Số lượng cơ sở dạy nghề phát triển. Trong 5 năm 2006-2010, đã tuyển sinh dạy nghề cho 168.422 học viên, mỗi năm tuyển sinh 33.684 học viên, trong đó dạy nghề cho 18.702 lao động nông thôn, lao động thuộc hộ di dời, giải tỏa, hộ nghèo và các đối tượng đặc thù khác (80% có việc làm). Năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 50%, trong đó qua đào tạo nghề ước đạt 37%, tăng 11,3% so với năm 2005. Bên canh đó, Đại học Đà Nẵng với 7 trường thành viên và một phân

Page 362: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

362

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

hiệu trực thuộc, không ngừng lớn mạnh, từng bước khẳng định vai trò của một đại học vùng, một trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực và cùng với Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III, 5 trường Đại học, 10 trường Cao đẳng, 53 cơ sở dạy nghề và các Viện nghiên cứu chuyên ngành, với đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao, ngày càng khẳng định vai trò, vị trí Đà Nẵng là trung tâm giáo dục - đào tạo lớn của khu vực và cả nước(1).

Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân và các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được triển khai có hiệu quả trên diện rộng. Nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp mới nhằm thúc đẩy công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho nhân dân trên địa bàn được Thành ủy quan tâm chỉ đạo trong thời kỳ này. Một mặt, Thành ủy lãnh đạo khá cụ thể việc dành ngân sách cho việc xây mới, cũng như cho việc nâng cấp các bệnh viện, các trung tâm y tế, các trạm y tế trên địa bàn toàn thành phố, đưa ra các cơ chế chính sách khuyến khích nhằm thu hút các cán bộ y, dược có tài năng về làm việc cho các cơ sở y tế của thành phố. Mặt khác, Thành ủy cũng có nhiều giải pháp để thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ lĩnh vực quan trọng này, như khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đầu tư xây dựng các cơ sở y, dược dân doanh. Nhờ đó, mạng lưới y tế từ thành phố đến cơ sở đã không ngừng phát triển, chất lượng khám, chữa bệnh được nâng cao; đặc biệt, mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, đến cuối năm 2007, 100% phường, xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010. Đến năm 2010, đạt 11,54 bác sĩ và 43,39 giường bệnh/10.000 dân; 100% phường, xã có trạm y tế, 100% trạm y tế có nữ hộ sinh, y tá,

(1) Thời gian này, Ủy ban nhân dân thành phố đã thành lập Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng nhằm nghiên cứu, tham mưu cho Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố về định hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố; xây dựng định hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thành phố trong mối quan hệ với khu vực và cả nước, dự báo xu hướng phát triển các nguồn nhân lực và các nhân tố phát triển khác.

Page 363: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

363

điều dưỡng; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn 7,8% (cân nặng/tuổi); tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch ở thành thị là 95%, ở nông thôn là 83%. Hệ thống y tế tư nhân, dịch vụ y tế chuyên sâu, chất lượng cao có bước phát triển. Đặc biệt, thành phố đã tiến hành nhiều cuộc vận động có liên quan đến công tác giữ gìn, chăm sóc sức khỏe cho người dân như: phong trào giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm, phong trào giữ gìn vệ sinh môi trường ở từng tổ dân phố, các chương trình tiêm chủng cho trẻ em, mua thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, hỗ trợ mổ tim trẻ em bị dị tật bẩm sinh, miễn phí chữa bệnh cho phụ nữ nghèo.

Phong trào thể dục - thể thao quần chúng phát triển sâu rộng với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Năm 2006, có 19% dân số, 13,7% số hộ gia đình tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, có 287 câu lạc bộ thể dục thể thao một môn và đa môn, 90% số trường học duy trì hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa thường xuyên. Đến năm 2010 đã tăng lên đáng kể với 23% dân số, 17% số hộ gia đình tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, cả thành phố hiện có trên 300 câu lạc bộ thể dục thể thao một môn và đa môn, 95% số trường học duy trì hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa thường xuyên. Thể thao thành tích cao cũng đã có những bước trưởng thành, từ đội ngũ cán bộ, huấn luyện viên, vận động viên các môn thể thao đến cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo, huấn luyện. Thành phố có những vận động viên xuất sắc, hàng đầu ở một số môn điền kinh, bơi, lặn, cử tạ, karatedo, pencak silat, cờ vua, cờ tướng và đã đóng góp nhiều vận động viên cho đội tuyển trẻ và đội tuyển quốc gia. Chất lượng tập luyện, thi đấu vận động viên từng bước được cải thiện, nâng cao. Mùa giải năm 2008 -2009, đội bóng đá SHB Đà Nẵng đoạt giải vô địch quốc gia và cúp quốc gia. Đến cuối năm 2010, thành phố có 25 phường, xã (chiếm 44,64%) có địa điểm tập luyện thể dục thể thao và đầu tư sân bãi, nhà thi đấu, sân vận động, mua sắm trang thiết bị, dụng cụ cho tập luyện và thi đấu thể dục thể thao thành tích cao. Nhiều cơ sở thể thao đạt chuẩn, như Cung Thể thao Tuyên Sơn đạt tiêu chuẩn

Page 364: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

364

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

quốc tế và nhiều công trình khác như: Bể bơi thành tích cao, Làng Thể thao Tuyên Sơn, Nhà Tập luyện Taekwondo... đảm bảo yêu cầu tổ chức các môn thi trong khuôn khổ quốc gia, quốc tế.

Cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, các chủ trương nhằm nâng cao đời sống vật chất, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm và đảm bảo an sinh xã hội được Thành ủy và các ngành, các cấp quan tâm chỉ đạo và đạt nhiều kết quả trong thời kỳ này. Công tác quản lý, chi trả trợ cấp và chăm lo đời sống người có công cách mạng được thực hiện tốt(1). Bên cạnh các chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi Người có công, thành phố đã ban hành một số chính sách nâng cao đời sống người có công, gia đình chính sách như: Trợ cấp thường xuyên 300.000 đồng/tháng cho đối tượng chính sách mắc bệnh hiểm nghèo, có hoàn cảnh khó khăn; trợ cấp thường xuyên 150.000 đồng/tháng cho hộ có mức trợ cấp thấp và không có nguồn thu nhập nào khác với 2.361 đối tượng được thụ hưởng, kinh phí đạt 3,5 tỷ đồng. Ngoài ngân sách Trung ương, thành phố đã trích ngân sách địa phương hỗ trợ cải thiện nhà ở, tăng định mức trợ cấp, hỗ trợ trong dịp lễ, Tết cho các đối tượng chính sách. Hoạt động xã hội hóa công tác chăm sóc người có công thông qua các phong trào phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc thương, bệnh binh nặng, thân nhân liệt sĩ neo đơn, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, vật dụng sinh hoạt gia đình... được các cấp, các ngành, đoàn thể và các doanh nghiệp tích cực hưởng ứng, góp phần cùng Đảng bộ chăm lo việc từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đối tượng chính sách.

Công tác bảo vệ môi trường, đất đai, tài nguyên nước và khoáng sản, được tăng cường với việc xây dựng thể chế chính sách, đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường; khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học. Trong thời kỳ này, thành phố đã cơ bản hoàn thành các mục

(1) Đến cuối năm 2010, thành phố có trên 18.500 đối tượng đang hưởng trợ cấp thường xuyên, tổng kinh phí chi trả hằng năm là 235 tỷ đồng.

Page 365: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

365

tiêu giai đoạn 1 của Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường”, nhất là xử lý dứt điểm các điểm nóng môi trường, ngăn chặn mùi hôi nước thải, di dời cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Ô nhiễm do nước thải công nghiệp được ngăn chặn nhờ thúc đẩy đầu tư xây dựng hạ tầng xử lý nước thải tập trung cho 5 khu công nghiệp. Tăng cường hợp tác quốc tế, kêu gọi đầu tư bảo vệ môi trường từ nguồn vốn vay ODA, vốn viện trợ không hoàn lại, với 3 dự án đầu tư cho lĩnh vực môi trường (cho vay ưu đãi) do Ngân hàng thế giới, JICA và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tài trợ, tổng vốn vay 511,1 triệu USD.

Về quốc phòng - an ninh: Thời gian này, tình hình an ninh chính trị cả nước nói chung và thành phố nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp. Trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, các thế lực thù địch tăng cường chống phá quyết liệt, cả về đường lối và nhân sự. Nhiều tài liệu xấu, có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước tán phát trên mạng hoặc chuyền tay từ người này sang người khác không giảm; tiếp tục có thêm một số tài liệu mới; một số bài báo đăng với nội dung đáng chú ý, không có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, ổn định tình hình thành phố. Một số loại tội phạm nghiêm trọng như cướp, cướp giật, dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích, hành xử côn đồ, chống người thi hành công vụ, tai nạn giao thông cũng diễn biến phức tạp; đáng chú ý là đã xuất hiện tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao trên địa bàn. Mặt khác, từ cuối năm 2007, nhất là từ giữa năm 2008, một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước có những biểu hiện xấu, lạm phát tăng cao, nhập siêu lớn, cán cân thanh toán căng thẳng, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra, đình công ở các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khiếu kiện của nông dân về đất đai gia tăng. Tham nhũng, lãng phí và suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân, chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Các thế lực thù địch tiếp tục can thiệp vào

Page 366: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

366

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

công việc nội bộ của nước ta dưới các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, kích động bạo loạn, lật đổ, đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy nội bộ ta “tự diễn biến”... đã tác động không nhỏ đến tình hình trật tự và an toàn xã hội và quốc phòng - an ninh của thành phố.

Quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược, trong nhiệm kỳ này, các cấp ủy đảng, chính quyền thành phố luôn coi trọng lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực cho quốc phòng - an ninh. Thành ủy xây dựng, ban hành triển khai Chương trình về “Tăng cường công tác quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới” theo tinh thần Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị, các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”, Kết luận số 41-KL/TW của Ban Bí thư (khóa X) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 16-CT/TW của Ban Bí thư (khóa IX) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên trong tình hình mới”, Kết luận số 38-KL/TW của Bộ Chính trị (khoá X) về “Tăng cường lãnh đạo công tác bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới”.

Các lực lượng quân sự, công an, bộ đội biên phòng thường xuyên rèn luyện nâng cao trình độ, có bản lĩnh chính trị, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt đã tham gia cùng Bộ Quốc phòng, Quân khu diễn tập “CQ-08”, thành phố diễn tập “PT-08” đạt kết quả tốt. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân được tăng cường. Các công trình quốc phòng, các khu vực phòng thủ được hoàn thành theo kế hoạch. 100% phường, xã, quận, huyện và thành phố tổ chức diễn tập cơ chế đạt kết quả tốt. Chương trình phối hợp giữa các lực lượng vũ trang, các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn với các ngành, đoàn thể làm công tác dân vận đạt hiệu quả cao,

Page 367: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

367

góp phần xây dựng cơ sở chính trị, củng cố “thế trận lòng dân”, phòng chống các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ, quản lý quân dự bị động viên, dân quân tự vệ, công tác hậu phương quân đội được các cấp, các ngành thực hiện nghiêm túc, chu đáo. Công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai sâu rộng. Công tác tuyển chọn, gọi thanh niên nhập ngũ hoàn thành 100% chỉ tiêu (3970/3970) với chất lượng tốt; đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, công tác hậu phương quân đội được thực hiện nghiêm túc, chu đáo. Các lực lượng vũ trang, các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn phối hợp làm tốt công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị, giữ vững ổn định từ cơ sở.

Trên lĩnh vực bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, Thành ủy đã tổ chức quán triệt nội dung Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 14 tháng 10 năm 2006 của Bộ Chính trị về “Tăng cường lãnh đạo công tác đảm bảo An ninh quốc gia trong tình hình mới” và Chương trình hành động cho cán bộ chủ chốt của thành phố, trong đó tập trung nghiên cứu, giới thiệu kỹ các nội dung về âm mưu, thủ đoạn hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam; ban hành triển khai Kế hoạch số 20-KH/TU, ngày 06 tháng 7 năm 2009 về thực hiện Kết luận số 38-KL/TW của Bộ Chính trị. Trên cơ sở đó, các Đảng bộ trực thuộc đã tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện đến các tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên và tuyên truyền ra dân nhằm huy động tổng hợp sức mạnh cả hệ thống chính trị, của toàn dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo ổn định chính trị trên địa bàn.

Công tác bảo vệ an ninh chính trị, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động được đẩy mạnh. Lực lượng Công an thành phố đã chủ động xây dựng và triển khai các phương án phản gián, phòng chống các cơ quan đặc biệt nước ngoài phá hoại cách

Page 368: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

368

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

mạng nước ta, làm rõ âm mưu, phương thức hoạt động của địch trên địa bàn thành phố. Phối hợp với các ban, ngành chức năng đấu tranh chống địch phá hoại tư tưởng, phòng chống nội gián, bảo vệ bí mật nhà nước. Xây dựng và triển khai các phương án, kế hoạch, bảo vệ chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng - văn hóa, an ninh xã hội, an ninh thông tin, phòng chống khủng bố, đấu tranh và bảo vệ nhân quyền... Bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu trọng điểm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, các đoàn khách quốc tế và Trung ương đến thăm và làm việc tại Đà Nẵng. Thực hiện đúng chính sách, pháp luật trong giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo, phát hiện ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc. Nắm chắc tình hình, cùng với các ngành, các cấp giải quyết dứt điểm khiếu kiện phức tạp, không để trở thành “điểm nóng”; một số vụ việc phức tạp, đột xuất nảy sinh, được tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời, chặt chẽ. Đặc biệt, các cơ quan nội chính phối hợp tốt trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, góp phần răn đe, ngăn ngừa và giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố; trong đó, các cơ quan tiến hành tố tụng đã đưa ra xét xử một số vụ án về hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; vụ cố ý gây thương tích gây rối trật tự công cộng và chống người thi hành công vụ xảy ra tại khu vực Cồn Dầu (phường Hòa Xuân - quận Cẩm Lệ), được dư luận xã hội đồng tình.

Ban Thường vụ Thành ủy cũng đã chỉ đạo các đơn vị Công an, Bộ đội Biên phòng thành lập lực lượng chống cướp giật trên địa bàn thành phố, với hơn 100 chiến sĩ công an và bộ đội biên phòng, được trang bị đầy đủ công cụ, phương tiện tuần tra thường xuyên trên các tuyến đường. Trước tình hình phạm pháp trong thanh thiếu niên ngày càng gia tăng, ngày 07 tháng 9 năm 2010 đồng chí Bí thư Thành ủy - Nguyễn Bá Thanh đã trực tiếp

Page 369: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

369

gặp mặt, đối thoại với 294 em thiếu niên chậm tiến trên địa bàn thành phố để lắng nghe tâm tư nguyện vọng của các em.

Thời gian này, Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh việc gây hấn, cản trở ngư dân Đà Nẵng đánh bắt tại ngư trường truyền thống Hoàng Sa, gây ra nhiều vụ việc nghiêm trọng, ảnh hưởng hoạt động sản xuất của bà con ngư dân Đà Nẵng. Điển hình như: Lúc 17 giờ, ngày 27 tháng 6 năm 2006, do ảnh hưởng của bão số 2, 18 tàu thuyền đánh cá của ngư dân thành phố Đà Nẵng đang neo đậu tránh bão tại toạ độ 17,04 độ vĩ Bắc, 111,30 độ kinh Đông (thuộc khu vực đảo Đá Bắc của quần đảo Hoàng Sa) bị một tàu sắt sơn trắng có số hiệu 302 (Trung Quốc) sử dụng 1 canô số hiệu 301 có 6 người vào cập mạn, khống chế thuyền viên tàu ĐNa 90052 và lấy đi 25 phi dầu, 4 tấn mực khô, 10 thùng nước ngọt, 18 vỏ phi nhựa(1). Thành ủy thường xuyên chú trọng công tác tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với vùng biển và huyện đảo Hoàng Sa; ngăn chặn có hiệu quả các hành động xâm phạm chủ quyền vùng biển. Năm 2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng thực hiện quy trình, thủ tục bổ nhiệm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hoàng Sa khi thành phố thí điểm thực hiện không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường. Theo đó, đồng chí Đặng Công Ngữ, Giám đốc Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng kiêm giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hoàng Sa.

Đảng bộ thành phố vừa tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, vừa chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, củng cố mặt trận, đoàn thể các cấp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, đạt được những kết quả quan trọng.

Công tác tư tưởng trong Đảng bộ được Thành ủy, Ban Thường vụ hết sức quan tâm. Nhiệm vụ công tác tư tưởng trong thời kỳ này được tập trung chỉ đạo theo hướng “Tăng cường giáo

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo tình hình tàu đánh cá Việt Nam bị Trung Quốc truy đuổi, thu giữ tài sản trên biển trong khi trú bão, ngày 28 tháng 6 năm 2006”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng.

Page 370: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

370

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

dục chính trị - tư tưởng, tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ, nói và làm theo Nghị quyết của Đảng, nói đi đôi với làm; củng cố niềm tin về chủ nghĩa xã hội, về mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, góp phần cùng Đảng bộ và nhân dân thành phố vượt qua thời kỳ suy giảm kinh tế, phát triển thành phố theo hướng văn minh, hiện đại.

Năm 2006, thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07 tháng 11 năm 2006 của Bộ Chính trị (Khóa X), về Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Thành ủy tổ chức phát động và hướng dẫn thực hiện tốt các bước triển khai Cuộc vận động trên địa bàn thành phố và các chuyên đề hằng năm do Trung ương quy định; chỉ đạo các cấp các ngành tổ chức sôi nổi Hội thi kể chuyện về tấm gương đạo đức của Bác; gặp mặt, giao lưu những điển hình tiêu biểu làm theo tấm gương đạo đức của Người; tổ chức cho cán bộ, công chức, đảng viên, hội, đoàn viên viết thu hoạch, liên hệ bản thân để đề ra phương hướng phấn đấu trong thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, vô cảm trong công tác và cuộc sống. Hội thi kể chuyện “Hồ Chí Minh - Người là niềm tin tất thắng” năm 2008, tạo ấn tượng tốt, có sức lan tỏa lớn, thu hút hàng ngàn cổ động viên tham dự, cổ vũ; triển khai các hoạt động Kỷ niệm 40 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hội nghị biểu dương điển hình tiêu biểu “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” từ quận huyện, các đảng bộ trực thuộc, góp phần đẩy mạnh Cuộc vận động chuyển mạnh sang trọng tâm làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, phong trào thi đua ở mỗi địa phương, đơn vị. Từ năm 2006 đến năm 2010, đã xuất hiện hàng chục tập thể, hàng trăm cá nhân là gương tiêu biểu làm theo tấm gương đạo đức của Bác; trong đó có 17 tập thể, 21 cá nhân được các đảng bộ trực thuộc bình chọn gửi về thành phố tuyên dương khen thưởng. Công tác giáo dục lý luận chính trị cũng được quan tâm thực hiện, đạt kết

Page 371: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

371

quả tốt, có 670 lớp các loại cho 94.974 học viên(1), bao gồm 129 lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng, 68 lớp bồi dưỡng chính trị cho đảng viên mới, 45 lớp bồi dưỡng Bí thư chi bộ và cấp ủy viên cơ sở, 107 lớp chuyên đề về giáo dục chủ nghĩa yêu nước, đạo đức cách mạng, hội nhập kinh tế quốc tế, tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng, 105 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Mặt trận và các đoàn thể, 80 lớp học tập Nghị quyết, 60 lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đối tượng 4,5 và chức sắc, chức việc các tôn giáo. Ngoài ra, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, các đồng chí cấp ủy viên đã tổ chức hàng trăm buổi thông tin thời sự, nói chuyện, đối thoại cho đông đảo cán bộ, đảng viên, hội, đoàn viên tham dự. Ấn tượng, có tiếng vang và có kết quả nhất là các buổi nói chuyện, đối thoại của đồng chí Bí thư Thành ủy - Nguyễn Bá Thanh với đội ngũ cán bộ, công chức liên quan đến công tác giải tỏa đền bù; buổi nói chuyện với các cán bộ cấp trưởng phòng khối Đảng, cấp phó phòng trở lên đối với khối chính quyền (gần 5.500 người), góp phần làm tốt công tác tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công tác, công vụ cho đội ngũ cán bộ thành phố.

Về công tác cán bộ, Đảng bộ thành phố đã tạo ra một đột phá trong công tác cán bộ với 3 Đề án về nguồn nhân lực. Trên cơ sở kế thừa, phát huy kết quả thực hiện 2 Đề án: “Đề án đào tạo 100 tiến sĩ, thạc sĩ ở các cơ sở đào tạo nước ngoài” (Đề án 393) và “Đề án hỗ trợ đào tạo bậc đại học tại các cơ sở giáo dục trong và ngoài nước bằng ngân sách nhà nước dành cho học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố” (Đề án 47). Từ năm 2005, thành phố đã triển khai việc cử học sinh xuất sắc của các trường trung học phổ thông đi học đại học trong nước và nước ngoài và từ năm 2006 cử cán bộ, công chức, viên chức giỏi, có triển vọng đi học sau đại học ở nước ngoài thông qua 2 Đề án trên. Đến năm 2010, đã có 67 công chức, viên chức đi đào tạo

(1) Thành ủy Đà Nẵng: “Tổng hợp số liệu Báo cáo kết quả công tác giáo dục lý luận chính trị của các năm: 2006, 2007, 2008, 2009”. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 372: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

372

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thạc sĩ, tiến sĩ tại các cơ sở nước ngoài, trong đó đào tạo 17 tiến sĩ và 50 thạc sĩ theo đề án 393 và 284 học sinh các trường trung học phổ thông tham gia chương trình đào tạo đại học, trong đó 142 học sinh được cử đi đào tạo tại các cơ sở nước ngoài.

Cùng với việc thực hiện các đề án về nguồn nhân lực đi đào tạo ở nước ngoài, thành phố đã ban hành chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức tham gia các chương trình đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao kiến thức và kỹ năng làm việc, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập. Thành phố đã quan tâm tạo nguồn nhân lực chất lượng cao với việc đầu tư phát triển Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn trở thành nơi cung cấp chính nguồn ứng viên cho việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của thành phố. Như vậy, có thể nhận định rằng, việc phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng tài năng được thành phố quan tâm bằng những chủ trương, chính sách cụ thể, chủ động phát triển đội ngũ những người tài năng từ rất sớm bằng ngân sách của thành phố, mang tầm chiến lược. Bên cạnh đó, thành phố đã ban hành Đề án “Tạo nguồn cán bộ cho chức danh Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, xã trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” (Đề án 89). Đề án này được triển khai thực hiện vào tháng 6 năm 2008, sau 2 khóa đào tạo đã có 139 học viên tốt nghiệp, ngoài 18 học viên ở lại công tác tại các phường, xã cử đi học thì số còn lại được lựa chọn nơi công tác của mình theo thứ tự ưu tiên cho người giỏi chọn trước. Đặc biệt là chính sách thu hút nhân tài của thành phố có một ý nghĩa to lớn. Nhờ vậy, thành phố đã đón nhận nhiều chuyên gia, nhiều người có học vị, trình độ cao đến làm việc. Đến cuối năm 2010, thành phố đã thu hút được 711 đối tượng, trong đó có 1 phó giáo sư, 5 tiến sĩ và 112 thạc sĩ về công tác lâu dài tại thành phố.

Về chủ trương thi tuyển các chức danh lãnh đạo, quản lý. Đây là một hình thức, giải pháp tích cực nhằm thu hút những người có tài, có đức vào làm việc trong bộ máy lãnh đạo của cơ

Page 373: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

373

quan nhà nước. Từ việc thí điểm thành công của ngành giáo dục, Đà Nẵng đã mở rộng hình thức thi tuyển chức danh lãnh đạo ra nhiều đơn vị hành chính, sự nghiệp. Đây là cách làm hoàn toàn mới mang tính đột phá, khác với phương thức truyền thống là đề bạt, bổ nhiệm từ xét chọn và đề xuất của cơ quan, tổ chức để cơ quan có thẩm quyền quyết định. Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện Đề án “Thực hiện thí điểm thi tuyển Giám đốc, Phó Giám đốc (tương đương) một số đơn vị sự nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân thành phố quản lý”. Đến năm 2011, các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân quận, huyện đã tổ chức 21 lượt thi tuyển với 221 ứng viên đăng ký dự thi, “đã tuyển chọn được 70 người có trình độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức để bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý các cơ quan, đơn vị”(1). Có tới “100% cán bộ lãnh đạo nhận xét năng lực của những người trúng tuyển thông qua thi tuyển vừa qua là tốt”, và “97% người trúng tuyển được khảo sát trả lời họ được cơ quan tạo điều kiện để phát huy năng lực lãnh đạo, quản lý sau khi được bổ nhiệm”(2). Trên cơ sở đó, Đảng bộ thành phố đã xây dựng Đề án Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao (Đề án 922) trong nhiệm kỳ tiếp theo. Chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ, thu hút nhân tài, hướng tới xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đã tác động to lớn đến hiệu quả kinh tế - xã hội, tạo nền tảng cho việc xây dựng nền kinh tế tri thức, đáp ứng vai trò trung tâm của khu vực miền Trung - Tây Nguyên trong chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đây là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính đột phá của thành phố so với các địa phương khác trong cả nước.

(1) Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng: “Báo cáo tình hình thực hiện công tác ngành Nội vụ thành phố Đà Nẵng năm 2011 - phương hướng, nhiệm vụ năm 2012”.Tài liệu lưu tại Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng.(2) Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng: “Báo cáo Sơ kết thực hiện thí điểm thi tuyển cán bộ lãnh đạo các đơn vị sự nghiệp, cơ quan hành chính thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng quản lý”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Ủy ban nhân thành phố Đà Nẵng.

Page 374: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

374

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh được Đảng bộ thành phố xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng, nhờ vậy đã có nhiều chuyển biến mới và tích cực. Hằng năm có gần 74% số tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh, trong đó có 15% đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu, không có tổ chức cơ sở Đảng yếu kém. Công tác phát triển đảng viên mới được chú trọng, nhất là phát triển đảng viên trong trường học, trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được quan tâm. Đến tháng 12 năm 2009, Đảng bộ thành phố kết nạp được 7.663 đảng viên (mỗi năm trên 1.800 đảng viên, trong đó nữ chiếm trên 42%, đoàn viên Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh chiếm 52%, trình độ cao đẳng, đại học trên 70%, 116 thạc sĩ và 10 tiến sĩ, khu vực tôn giáo có 4 đảng viên, khu vực dân tộc thiểu số và người Hoa có 6 đảng viên). Thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần bảo vệ Đảng, nâng cao chất lượng công tác cán bộ và phát triển đảng viên mới.

Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp được tăng cường, nhất là kiểm tra việc chấp hành chủ trương, Nghị quyết, Điều lệ Đảng; chính sách về quản lý tài chính, tài sản của cấp ủy đảng và quy định về những điều đảng viên không được làm. Tổ chức quán triệt nghiêm túc các Nghị quyết, Quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và các hướng dẫn thực hiện của Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các cuộc kiểm tra theo kế hoạch của Trung ương và Thành ủy; kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm và tổ chức đảng cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại; xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên sai phạm, được dư luận đồng tình.

Công tác dân vận góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng thành phố theo hướng văn minh, hiện đại. Ban Thường vụ Thành ủy luôn chú ý nghiên cứu tình hình đời sống, tâm tư

Page 375: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

375

nguyên vọng của các tầng lớp nhân dân, đề ra được nhiều chủ trương giải pháp hợp lòng dân. Đặc biệt chủ trương “an dân” của Thành ủy; chương trình thành phố “5 không”, “3 có” được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Các cấp ủy đảng tập trung chỉ đạo huy động toàn bộ hệ thống chính trị triển khai thực hiện Chỉ thị số 24-CT/TU ngày 10 tháng 8 năm 2009 của Ban Thường vụ Thành ủy về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác phối hợp giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư, vi phạm pháp luật trên địa bàn thành phố” và “Năm giải tỏa đền bù, tái định cư và an sinh xã hội”, làm tốt công tác vận động giúp đỡ các gia đình chính sách, đối tượng xã hội, người tàn tật, giúp đỡ các gia đình bị thiệt hại do thiên tai, bão lụt. Thông qua đó, tăng cường công tác vận động quần chúng, giáo dục lòng nhân ái, tinh thần tương thân, tương ái trong cộng đồng, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách nhân đạo của Đảng.

Về công tác tôn giáo, Thành ủy, Ban Chỉ đạo T98 triển khai, sơ tổng kết các chủ trương của Đảng về công tác tôn giáo; chỉ đạo công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo, xử lý một số vụ việc phức tạp của tôn giáo, chống lại âm mưu kích động của các phần tử cực đoan, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với giáo dân(1). Có thể nói, thành phố rất thành công trong công tác vận động bà con giáo dân chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về di dời, giải tỏa đền bù trong nhiều năm liền. Về công tác dân tộc, thành phố đã có nhiều chủ trương, chính sách, tập trung nguồn lực đầu tư phát triển mạng lưới giao thông, điện, thông tin liên lạc, cơ sở y tế, trường học, hệ thống nước sạch; tiếp tục thực hiện chủ trương kết nghĩa giữa các quận nội thành với các xã miền núi, tổ chức đưa bộ đội hành quân dã ngoại làm công tác dân vận, giúp đỡ các xã miền núi và đồng bào dân tộc.

(1) Tính đến tháng cuối năm 2010, thành phố Đà Nẵng có khoảng 169.180 tín đồ, 746 chức sắc, gần 2.000 chức việc của 12 tổ chức tôn giáo hợp pháp, với 184 cơ sở thờ tự.

Page 376: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

376

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Nhìn chung, từ năm 2001 đến năm 2010, là giai đoạn Đà Nẵng phát triển vượt bậc là nhờ có Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, thành phố đã nỗ lực phấn đấu không ngừng và đạt được những thành tựu to lớn, tương đối toàn diện các lĩnh vực, góp phần tích cực vào sự phát triển chung của khu vực, từng bước phát huy vai trò của Đà Nẵng đối với toàn vùng. Để đạt được những thành tựu quan trọng đó, thành phố đã không ngừng suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các cơ chế, chính sách của Trung ương; khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực của địa phương, lựa chọn đúng và chỉ đạo thực hiện có kết quả những vấn đề lớn, mang tính đột phá trong công tác tổ chức thực hiện. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết, kinh tế Đà Nẵng tăng trưởng với tốc độ khá, GDP tăng bình quân 11,5%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng “dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp”. Bước đầu định hình được một số ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện, môi trường đầu tư thông thoáng; hoạt động đối ngoại mở rộng, vị thế thành phố ngày càng nâng cao; huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển tăng cao hơn trước; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đô thị được tập trung đầu tư; chủ trương xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả tích cực tạo cơ sở xây dựng đô thị bền vững; nhiều chính sách an sinh xã hội mang đậm tính nhân văn được triển khai có hiệu quả; công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ đạt kết quả tích cực; hệ thống chính trị được củng cố và hoạt động ngày càng hiệu quả. Có thể nói, Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” là sự khẳng định đúng đắn vai trò, vị trí của thành phố đối với sự phát triển của miền Trung và cả nước; đồng thời là căn cứ quan trọng để thành phố xây dựng các chương trình, đề án, vận dụng sáng tạo các cơ chế, chính sách, tạo sự đột phá để thành phố phát triển vượt bậc thời gian qua.

Page 377: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

377

Thời gian này, nhân sự Thành ủy Đà Nẵng có nhiều biến động: 6 đồng chí trong Ban Thường vụ và Ban Chấp hành chuyển công tác(1); Trung ương chỉ định và chuẩn y thêm 8 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy(2), chỉ định bổ sung 10 đồng chí Thành ủy viên(3). Tháng 9 năm 2008, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã điều động và chỉ định bổ sung đồng chí Trương Quang Nghĩa vào Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Thành uỷ Đà Nẵng, giữ chức Phó Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng. Tháng 12 năm 2008, Ban Chấp hành đã bầu đồng chí Trần Thọ, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tổ chức Thành ủy giữ chức Phó Bí thư Thường trực thay đồng chí Phan Như Lâm nghỉ hưu theo chế độ. Bước vào Đại hội lần thứ XX Đảng bộ thành phố, Ban Thường vụ Thành ủy có 13 đồng chí và Ban Chấp hành có 44 đồng chí.

* **

Từ năm 2006 đến năm 2010, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đà Nẵng đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, đạt được những thành tựu quan trọng và tương đối toàn diện. Nổi bật là tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị tạo được dấu ấn rõ nét. Kinh tế thành phố tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp”(4). Tính chung cho cả giai đoạn 2001-2010, bên cạnh vấn

(1) Hoàng Tuấn Anh, Lê Ngọc Nam, Trương Quang Nghĩa, Nguyễn Đức Tuấn, Phạm Huy Tập, Bùi Văn Ga. (2) Trương Quang Nghĩa, Phan Xuân Sang, Nguyễn Mạnh Hùng, Bùi Văn Tiếng, Lê Kim Củng, Huỳnh Nghĩa, Văn Hữu Chiến, Trần Đình Liễn.(3) Trương Quang Nghĩa, Nguyễn Văn Sơn, Lê Hồng Minh, Huỳnh Đức Thơ, Võ Văn Thương, Dương Đề Dũng, Nguyễn Nho Trung, Trần Văn Miên, Mai Đức Lộc, Đặng Thị Kim Liên.(4) So với năm 1997, tổng giá trị sản phẩm xã hội (GDP) tăng gấp 4 lần, đạt tốc độ tăng bình quân trên 11% mỗi năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 2.015 USD.

Page 378: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

378

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

đề hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, điều có ý nghĩa quan trọng không kém là thực hiện chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế ở Đà Nẵng phù hợp với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với xu thế phát triển chung của cả nước, thể hiện được xu hướng phát triển thành phố trong tiến trình hội nhập, đã khơi dậy và huy động cao nhất mọi nguồn lực trong xã hội và các thành phần kinh tế để phát triển.

Khu vực nông nghiệp mặc dù giá trị đóng góp vào GDP toàn thành phố vẫn tăng qua các năm, song trong tỷ trọng GDP của khu vực này có xu hướng giảm. Ngành công nghiệp của thành phố Đà Nẵng luôn duy trì được nhịp độ phát triển. Dịch vụ ngày càng chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế, là yếu tố đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng của thành phố Đà Nẵng nói riêng cũng như cả nước nói chung. Chính sự gia tăng nhanh chóng của ngành dịch vụ giúp thành phố trở thành một trong những trung tâm thương mại lớn, giao dịch tài chính, tín dụng, giáo dục - đào tạo, y tế - cứu trợ xã hội khu vực miền Trung - Tây Nguyên, định hình được một số ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện, môi trường đầu tư thông thoáng. Hoạt động đối ngoại mở rộng, vị thế thành phố ngày càng nâng cao.

Để có được những thành tựu đó, là kết quả của một thời gian dài Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng không ngừng phấn đấu, cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp phát triển chung của thành phố. Và, “cái được lớn nhất trong hơn mười năm qua là được lòng dân. Chính lòng dân ấy, chính sự đồng thuận ấy là nguồn lực mạnh mẽ ủng hộ, cổ vũ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố. Bài học tin ở dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân, hết lòng vì dân là bài học đầu tiên và muôn thuở, là bài học của mọi lúc mọi nơi… Chính sự đoàn kết nhất trí cao trong nội bộ luôn được giữ vững, sự đồng thuận trong xã hội luôn được nâng cao, cùng với vai trò lãnh đạo, chỉ đạo linh hoạt,

Page 379: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

379

sáng tạo với tinh thần trách nhiệm cao là những nhân tố cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định để tạo nguồn lực to lớn, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố trong thời gian qua, là bệ phóng để Đà Nẵng tiếp tục tăng tốc trong những năm sắp đến”(1). Đây cũng chính là bài học lớn và sâu sắc nhất của Đảng bộ thành phố trong suốt chặng đường xây dựng Đà Nẵng trong vị thế một thành phố trực thuộc Trung ương.

(1) Phát biểu của đồng chí Nguyễn Bá Thanh - Bí thư Thành ủy Đà Nẵng trong Diễn văn Kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng thành phố Đà Nẵng (29/3/1975 - 29/3/2010).

Page 380: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 381: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

381

Chương Tám

TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH SỰ PHÁT TRIỂNTHÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG THEO TINH THẦN

NGHỊ QUYẾT SỐ 33-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ,BẰNG CÁC CHỦ TRƯƠNG CÓ TÍNH ĐỘT PHÁ

(2010-2015)

I. THỰC HIỆN CÁC ĐỘT PHÁ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG NGÀY CÀNG VĂN MINH, HIỆN ĐẠI

Đến năm 2010, sau 25 năm thực hiện công cuộc Đổi Mới, đời sống của nhân dân cả nước nói chung, Đà Nẵng nói riêng không ngừng nâng lên. Chính nhờ công cuộc Đổi Mới nên từ một nền kinh tế kế hoạch hóa trì trệ và cứng nhắc, giờ đây, Việt Nam luôn được xếp vào nhóm nước có tốc độ phát triển kinh tế mạnh của thế giới, hoàn thành mục tiêu thoát nghèo, chính thức bước vào Khối các nước có thu nhập trung bình. Chìa khóa thành công cho những thành tựu của đất nước chính là đổi mới tư duy, cởi trói sức sáng tạo cá nhân, mở cửa để hòa nhập cùng xu thế toàn cầu hóa của thời đại. Đó là những tiền đề quan trọng để đất nước ta đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tình hình mới của khu vực và quốc tế.

Đối với Đà Nẵng, sau gần 15 năm trực thuộc Trung ương, thành phố không ngừng “thay da đổi thịt”, trở thành một đô thị

Page 382: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

382

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

năng động bậc nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Diện mạo của Đà Nẵng ngày càng khang trang, đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, kết cấu hạ tầng đô thị đồng bộ và hiện đại; văn hóa, văn minh đô thị được nâng lên; quốc phòng - an ninh ổn định, vững chắc… tất cả đã tạo cho Đà Nẵng một lực hấp dẫn mới, là vùng “đất lành chim đậu” của cả nước. Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều vấn đề mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Đà Nẵng phải tiếp tục tìm tòi hướng đi, nhằm khắc phục những bất cập, tồn tại, vướng mắc để phát triển đi lên.

Từ tháng 8 năm 2009, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng ban hành Kế hoạch tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, trong đó dự kiến đến tháng 8 năm 2010, toàn thành phố phải hoàn thành Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở, quận, huyện.

Từ ngày 28 đến 30 tháng 10 năm 2010, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XX được tổ chức, với sự tham dự của 299 đại biểu, đại diện cho 39.499 đảng viên của 19 tổ chức Đảng trực thuộc Thành ủy. Chủ đề của Đại hội đã đề ra khẩu hiệu cho thấy khát vọng xây dựng và phát triển Đà Nẵng trong tình hình mới là: Đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, tiếp tục xây dựng thành phố Đà Nẵng văn minh, hiện đại, phát triển bền vững, xứng đáng là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung.

Đại hội đã nghiêm túc đánh giá thực trạng tình hình hoạt động của Đảng bộ từ năm 2005 đến năm 2010, từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu, giải pháp cụ thể cho chặng đường 5 năm đến, nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân từng bước xây dựng Đà Nẵng thành một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ của miền Trung và cả nước.

Đại hội đề ra các mục tiêu và phương hướng tổng quát sau: Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc Đổi Mới, nâng cao năng

Page 383: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

383

lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, giữ vững ổn định chính trị, phát huy dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế nhanh và bền vững; xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung, là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của miền Trung và cả nước. Phấn đấu đến năm 2020, Đà Nẵng sẽ trở thành một thành phố có môi trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn, có thiên nhiên trong lành và đời sống văn hóa cao, làm giàu bằng kinh tế tri thức; một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống. Đại hội thống nhất các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2015 là: Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng bình quân 13,5-14,5%/năm(1), GDP bình quân đầu người đạt 3.200 USD(2).

Đặc biệt, Đại hội đã thống nhất đề ra “5 đột phá về phát triển kinh tế - xã hội” để phát triển thành phố Đà Nẵng:

- Một là, phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch và thương mại;

- Hai là, phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin;

(1) Dịch vụ: 16-17%/năm; công nghiệp - xây dựng: 8,5-9,5%/năm; nông nghiệp: 1,5-2,5%/năm.(2) Cơ cấu các ngành trong GDP năm 2015 là: Dịch vụ 54,2% - công nghiệp, xây dựng 43,8% - nông nghiệp 2,0%. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 17-18%/năm. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 12-13%/năm. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3-4%/năm. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16-17%/năm. Tổng thu ngân sách Nhà nước tăng 11,5-12,5%/năm; tổng chi ngân sách địa phương tăng 10-11%/năm. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tăng 15-16%/năm. Giảm tỷ suất sinh 0,3%o/năm. Giải quyết việc làm bình quân cho 3,2 - 3,4 vạn lao động/năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 55%; không còn hộ nghèo theo chuẩn mới của thành phố. 100% dân số nội thành và 95% dân số nông thôn được cấp nước sạch. Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn đạt 100%. Gọi công dân nhập ngũ đạt 100% kế hoạch, với chất lượng bảo đảm. Hằng năm, có trên 75% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh.

Page 384: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

384

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

- Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại;- Bốn là, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh và thực

thi các chính sách xã hội giàu tính nhân văn;- Năm là, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao.Nghị quyết Đại hội lần thứ XX Đảng bộ thành phố đưa ra 5

đột phá về phát triển kinh tế - xã hội là dựa vào 5 quan điểm phát triển(1) trên cơ sở nhận thức khoa học về yếu tố “bền vững”, “hài hòa” và “lợi thế so sánh” của thành phố, dưới sự định hướng và tạo điều kiện thuận lợi của Trung ương theo Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị ( khóa IX). Từ năm 2010 đến năm 2015, “5 đột phá” trên đã trở thành nhiệm vụ trong tâm, xuyên suốt của Đảng bộ và nhân dân thành phố trong giai đoạn phát triển này.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố gồm 55 đồng chí, đồng chí Nguyễn Bá Thanh được Đại hội bầu trực tiếp làm Bí thư Thành ủy. Ngay trong phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố (khóa XX) đã bầu Ban Thường vụ gồm 15 ủy viên, các đồng chí Trần Văn Minh và Trần Thọ được bầu làm Phó Bí thư Thành ủy; bầu Uỷ ban Kiểm tra Thành uỷ gồm 11 đồng chí do đồng chí Lê Kim Củng - Uỷ viên Ban Thường vụ (khoá XX) làm Chủ nhiệm.

Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XX diễn ra trong thời điểm Đà Nẵng đã vượt qua những khó khăn, thách thức trong chặng đường “chuyển mình” từ một đô thị trực thuộc tỉnh sang một đô thị loại I trực thuộc Trung ương. Trong khoảng thời gian đó, Đà Nẵng đã đạt được những thành tựu

(1) Năm quan điểm đó là: phát triển nhanh và bền vững nhằm đáp ứng các yêu cầu thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và khu vực nông thôn và bảo đảm sự phát triển ổn định kinh tế thành phố; phát triển kinh tế đi đôi với việc bảo đảm an sinh xã hội, quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường; phát triển nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng tạo động lực phát triển thành phố; tạo điều kiện thuận lợi trong thu hút, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh trong tăng trưởng và phát triển thành phố; tăng cường hợp tác, hội nhập và phát huy nội lực trong thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.

Page 385: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

385

nổi bật: Tăng trưởng nhanh, tương đối bền vững, đời sống nhân dân không ngừng tăng lên, Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân thành phố đã tạo được sự đồng thuận cao trong khát vọng xây dựng Đà Nẵng ngày một văn minh, hiện đại và giàu mạnh.

Ngay sau khi Đại hội thành công, từ đầu năm 2011 - năm đầu tiên Thành ủy chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XX theo hướng “5 đột phá” gắn với thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, tập trung lãnh đạo thực hiện chủ trương vừa kiềm chế lạm phát, vừa ổn định sự tăng trưởng kinh tế, tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc để thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư vào thành phố(1); khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, xúc tiến đầu tư, nâng cao vị thế của thành phố trong khu vực(2). Đặc biệt, để tăng cường liên kết, tạo sức mạnh và khai thác hiệu quả các nguồn lực khu vực Duyên hải miền Trung, thành phố chủ động đề xuất và đăng cai tổ chức thành công Hội thảo: “Liên kết phát triển 7 tỉnh Duyên hải miền Trung”(3), tạo nền tảng cho hoạt động liên kết phát triển về du lịch, hạ tầng giao thông, nguồn nhân lực chất lượng cao và kinh tế biển... Bên cạnh đó, Thường trực Thành ủy chỉ đạo Ủy ban nhân dân thành phố xây dựng và ban hành 2 Đề án: “Phát triển dịch vụ đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020” và “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. Đây là một bước đi quan trọng trong việc tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị và cụ thể hóa 5 đột phá của Đảng bộ Đà Nẵng.

(1) Tinh thần Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 11-NQ/CP của Chính phủ.(2) Thành ủy ban hành Chương trình hành động số 07-CTr/TU thực hiện Chỉ thị số 41-CT/TW của Ban Bí thư “Về tăng cường công tác ngoại giao kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.(3) Các tỉnh từ tỉnh Thừa Thiên - Huế đến Khánh Hòa.

Page 386: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

386

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Từ cuối năm 2012 và năm 2013, có nhiều sự kiện quan trọng tác động tích cực đến tình hình phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của thành phố Đà Nẵng.

Ngày 28 tháng 12 năm 2012, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định tái lập Ban Nội chính Trung ương(1) và Ban Kinh tế Trung ương. Việc tái lập Ban Nội chính diễn ra trong bối cảnh nạn tham nhũng có xu hướng ngày càng tăng, công tác phòng chống tham nhũng trở thành một vấn đề hết sức cấp thiết. Tiếp đó, Bộ Chính trị đã có Quyết định số 655-QĐNS/TW, ngày 02 tháng 01 năm 2013, về việc điều động đồng chí Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng giữ chức Trưởng ban Nội chính Trung ương. Việc phân công này thể hiện sự tín nhiệm của Trung ương đối với đồng chí Nguyễn Bá Thanh về những đóng góp to lớn và đầy ấn tượng của đồng chí trên cương vị Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Ngày 31 tháng 01 năm 2013, Bộ Chính trị có Quyết định số 682-QĐNS/TW phân công đồng chí Trần Thọ - Phó Bí thư Thường trực, phụ trách Thành ủy Đà Nẵng thay đồng chí Nguyễn Bá Thanh. Ngày 01 tháng 4 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6 Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng (khóa VIII), với số phiếu 47/47 phiếu thuận, đồng chí Trần Thọ - Phó Bí thư Thường trực, phụ trách Thành uỷ Đà Nẵng đã được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng (khoá VIII), nhiệm kỳ 2011-2016. Được sự đồng ý của Bộ Chính trị tại Công văn số 6168-CV/TW ngày 16 tháng 8 năm 2013, Ban Thường vụ Thành ủy đã tiến hành quy trình giới thiệu nhân sự tại chỗ, để bầu Bí thư Thành ủy thay đồng chí Nguyễn Bá Thanh. Trên cơ sở đó, ngày 30 tháng

(1) Ban Nội chính Trung ương được thành lập lần đầu vào ngày 05 tháng 01 năm 1966, với tên gọi là Ban Pháp chế Trung ương. Ngày 23 tháng 12 năm 1991, Ban Nội chính được giao chức năng, nhiệm vụ mới theo Quyết định số 17-QĐ/TW, theo đó những vụ án đặc biệt quan trọng có liên quan đến cán bộ cao cấp mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho phương hướng chỉ đạo thì Ban Nội chính Trung ương có trách nhiệm theo dõi, đề xuất. Đến tháng 5 năm 2007, Ban Nội chính được hợp nhất về Văn phòng Trung ương Đảng.

Page 387: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

387

8 năm 2013, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố đã bầu đồng chí Trần Thọ - Phó Bí thư Thường trực, phụ trách Thành ủy Đà Nẵng làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Cũng trong năm 2013, một sự kiện quan trọng đánh dấu sự phát triển của thành phố Đà Nẵng, đó là sự kiện tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW và Bộ Chính trị ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới nhằm tạo điều kiện cho Đà Nẵng tiếp tục phát triển đi lên.

Ngày 17 tháng 10 năm 2013(1), tại Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì buổi làm việc của Bộ Chính trị với tập thể Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng về kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX); đồng thời quyết định những cơ chế ưu đãi mới, để Đà Nẵng tiếp tục tạo đột phá về kinh tế - xã hội, là thành phố động lực của miền Trung - Tây Nguyên.

Tại buổi làm việc, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Trần Thọ thay mặt Ban Thường vụ Thành ủy báo cáo Bộ Chính trị những kết quả nổi bật sau 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW. Theo đó, Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Kế hoạch và Chương trình hành động về tổ chức thực hiện Nghị quyết, đề ra 12 chương trình trọng tâm trên các ngành, lĩnh vực để thực hiện. Ủy ban nhân dân thành phố xây dựng và ban hành 24 quyết định cụ thể hóa và phân công các đồng chí lãnh đạo thành phố chủ trì, chỉ đạo trên từng lĩnh vực.

Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, đến năm 2013, tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn Đà Nẵng đạt 40.456,5 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2003. GDP bình quân đầu

(1) Trước đó, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng làm việc với một số bộ, ban, ngành của Trung ương như: Làm việc với Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch (ngày 20 tháng 8 năm 2013), Bộ Tài chính (ngày 23 tháng 8 năm 2013) - hai ngành quan trọng để đưa kinh tế du lịch thành mũi nhọn, để cho ý kiến trong Dự thảo báo cáo 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Page 388: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

388

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

người năm 2013 đạt 55,98 triệu đồng(1), gấp 5,4 lần năm 2003 và bằng 1,6 lần bình quân cả nước(2). Các ngành dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân 15,5%/năm; đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, doanh thu tăng 23,5%/năm. Tốc độ đô thị hóa nhanh, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị tạo được dấu ấn rõ nét, quy mô của thành phố mở rộng hơn 3 lần so với năm 2003; môi trường đầu tư thông thoáng, huy động được cả nội lực và ngoại lực cho đầu tư phát triển(3), nhất là các chủ trương “Khai thác quỹ đất”, “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, huy động vốn từ quỹ đầu tư phát triển... Công tác đền bù, giải tỏa, tái định cư ảnh hưởng đến cuộc sống của hơn 100.000 hộ dân, nhưng đã không để xảy ra điểm nóng, khiếu kiện đông người, số trường hợp bị cưỡng chế rất ít.

Kết luận buổi làm việc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao và biểu dương những thành tựu quan trọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Đà Nẵng qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW. Những thành tựu mang tính đột phá mà Đà Nẵng đạt được không chỉ góp phần phát triển thành phố mà còn đóng góp tích cực vào thành tựu chung của đất nước. Để đạt được những thành tựu nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất là thành phố Đà Nẵng đã xây dựng được khối đoàn kết nhất trí cao trong Đảng bộ và sự đồng thuận sâu rộng toàn xã hội trong quá trình xây dựng, phát triển; chủ động khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực của địa phương, lựa chọn đúng và chỉ đạo thực hiện có kết quả những vấn đề lớn, mang tính đột phá trong công tác tổ chức thực hiện.

(1) Khoảng 2.650 USD.(2) Cơ cấu kinh tế thành phố chuyển dịch tích cực theo hướng từ “công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp” sang “dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp” vào năm 2008, trước 2 năm so với mục tiêu Nghị quyết số 33-NQ/TW.(3) Trong cải cách hành chính, 3 năm liền từ năm 2005 đến năm 2007, Đà Nẵng đứng thứ Nhì và 3 năm liên tiếp (từ năm 2008 đến năm 2010) vươn lên dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.

Page 389: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

389

Ngày 22 tháng 10 năm 2013, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng tổ chức Hội nghị mở rộng nhằm kiểm điểm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XX Đảng bộ thành phố; đồng thời, thông báo kết quả làm việc với Bộ Chính trị về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị và thông báo nhanh kết quả Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI).

Ngày 12 tháng 11 năm 2013, Bộ Chính trị có Kết luận số 75-KL/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Kết luận nêu rõ: Đà Nẵng cần phát huy những kinh nghiệm, thành tích tốt đã đạt được, để thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị một cách tích cực, quyết liệt và đạt hiệu quả cao hơn. Tập trung rà soát, xây dựng và thực hiện tốt các quy hoạch, kế hoạch phát triển thành phố. Đẩy mạnh phát triển thương mại, dịch vụ, tập trung vào các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng lớn, phát triển mạnh du lịch, nhất là du lịch cao cấp, hình thành trung tâm du lịch ven biển lớn tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước, ưu tiên thu hút đầu tư vào khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin. Phát triển Đà Nẵng trở thành một trung tâm kinh tế biển, trung tâm nghề cá, gắn với bảo vệ an ninh và chủ quyền biển, đảo ở khu vực. Phát triển nông nghiệp theo hướng phục vụ đô thị và du lịch; phấn đấu hoàn thành xây dựng nông thôn mới vào cuối năm 2020. Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đẹp, văn minh, hiện đại, có bản sắc riêng. Tiếp tục đầu tư phát triển nhanh, đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố và vùng. Quan tâm hơn nữa công tác an sinh xã hội, tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, quản lý trật tự đô thị nền nếp; xây dựng môi trường văn hóa, đời sống và phát triển con người phù hợp với văn minh đô thị. Tăng cường quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống.

Page 390: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

390

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Đặc biệt, Bộ Chính trị cũng đã yêu cầu các bộ, ban, ngành Trung ương cần tập trung giải quyết: Sớm ban hành một số cơ chế, chính sách có tính đặc thù cho Đà Nẵng; xem xét phân cấp thêm một số nguồn thu do Trung ương quản lý cho địa phương; tăng mức hỗ trợ từ số tăng thu các khoản phân chia giữa ngân sách Trung ương với thành phố và khoản tăng thu ngân sách Trung ương. Cho phép huy động vốn đầu tư hằng năm cao hơn tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách thành phố. Ưu tiên bố trí vốn thanh toán cho các dự án đã có chủ trương đầu tư của Trung ương và đã hoàn thành đưa vào sử dụng(1). Sớm có kế hoạch triển khai các dự án, công trình đã được Trung ương đồng ý triển khai thực hiện(2). Có chính sách hỗ trợ để ngư dân đóng tàu công suất lớn, khai thác hải sản xa bờ, gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Có lộ trình triển khai những dự án có ý nghĩa động lực, lan tỏa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền Trung và Tây Nguyên(3)…

Có thể nói, những nội dung kết luận và giải quyết các kiến nghị trong Kết luận số 75-KL/TW của Bộ Chính trị cùng với “5 đột phá về phát triển kinh tế - xã hội” mà Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XX đề ra, là những động lực mới để thành phố tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển mọi mặt theo hướng ngày một văn minh, hiện đại, đặt nền móng để Đà Nẵng trở thành đô thị động lực của miền Trung.

(1) Nhà thi đấu Thể dục - thể thao, Cầu Nguyễn Văn Trỗi - Trần Thị Lý, Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng, Bệnh viện Đa khoa 600 giường.(2) Làng Đại học Đà Nẵng, Khu liên hợp thể thao, di dời Ga đường sắt Đà Nẵng; nghiên cứu triển khai tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây 2, Cảng Liên Chiểu; mở rộng tuyến Quốc lộ 14B (giai đoạn 2) và mở rộng, nâng cấp quốc lộ 14G; các viện nghiên cứu khoa học chuyên ngành, trung tâm công nghệ sinh học, trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, dự án Trường Đại học Quốc tế Việt - Anh.(3) Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng (giai đoạn 2), nâng cấp Sân bay Đà Nẵng đạt trên 6 triệu lượt khách/năm.

Page 391: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

391

Từ năm 2010 đến năm 2015, bằng các chủ trương, chính sách cụ thể, linh động, được sự hỗ trợ của các bộ, ngành của Trung ương, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn, tính đến năm 2015 (GRDP, giá so sánh 2010) ước tăng 9,7%/năm; GRDP bình quân đầu người được nâng lên rõ rệt, năm sau cao hơn năm trước; đến năm 2015 ước đạt 62,65 triệu đồng, tương đương 2.908 USD, gần bằng 2 lần so với năm 2010(1); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng dịch vụ trong GRDP ước đạt 62,6%, công nghiệp - xây dựng 35,3% và nông nghiệp 2,1%. Cơ cấu các thành phần kinh tế chuyển dịch tích cực; tỷ trọng kinh tế dân doanh ước tăng từ 60,1% lên 63,7%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 11% lên 12,8%, trong khi kinh tế nhà nước giảm từ 28,3% năm 2010 xuống còn 23,5%(2). Các thành tựu trên một số lĩnh vực tiêu biểu như sau:

Trong xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ hiện đại gắn với mục tiêu “thành phố môi trường”: Từ định hướng điều chỉnh, xây dựng quy hoạch chung cho thành phố Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, ngày 14 tháng 9 năm 2012, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng tổ chức cuộc họp gồm các sở, ngành và chuyên gia để nghe về điều chỉnh quy hoạch tổng thể thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, Đà Nẵng sẽ phát triển thành đô thị hướng biển, đa trung tâm, không gian xanh trong đô thị mở để hình thành thành phố thân thiện với môi trường, phát triển bền vững và đáng sống, xây dựng nền tảng kiến trúc theo xu thế đơn giản, hiện đại. Thành ủy cũng quyết định rõ, việc quy hoạch thành phố sẽ trải qua hai giai đoạn(3) và

(1) Tỷ giá bình quân năm 2015 ước 21.500 đồng/USD. Mặc dù không đạt được chỉ tiêu như Nghị quyết Đại hội lần thứ XX Đảng bộ thành phố đưa ra, nhưng trong điều kiện có nhiều biến động thì đó là một thành tựu đáng khích lệ.(2) Thành ủy Đà Nẵng: Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XXI (2015-2020), 2015, Lưu hành nội bộ.(3) Giai đoạn đầu thực hiện đến năm 2020, giai đoạn 2 thực hiện đến năm 2030.

Page 392: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

392

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

chọn Singapore làm hình mẫu để phát triển đô thị; thành phố sẽ phát triển cơ sở vật chất hiện đại, tạo dựng môi trường sống về giao thông, nhà ở, việc làm, vui chơi giải trí, đảm bảo để 30 năm sau, Đà Nẵng sẽ là thành phố “Đáng sống, đa dạng, hấp dẫn, thân thiện và phát triển bền vững”.

Ngày 04 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2357/QĐ-TTg, về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Tại Quyết định số 2000/QĐ-UBND ngày 02 tháng 4 năm 2014 của Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng cũng đã tiếp tục bổ sung, triển khai nhiều hạng mục quan trọng cho việc xây dựng, phát triển không gian đô thị Đà Nẵng trong tình hình mới. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng cho công tác quy hoạch, xây dựng thành phố trong tương lai.

Từ năm 2010 đến năm 2015, công tác quy hoạch của Đà Nẵng đã hoàn thành được khối lượng công việc rất lớn: Thẩm tra, phê duyệt được 1.597 đồ án quy hoạch trên tổng diện tích 18.454,87 ha(1); thực hiện xét chọn 219 địa điểm với diện tích 1.841,525 ha. Các công trình trọng điểm được xây dựng trong thời gian này đã trở thành điểm nhấn kiến trúc đô thị có chất lượng cao của Đà Nẵng. Nhiều công trình hoàn thành, đưa vào sử dụng đã trở thành điểm thu hút du lịch nổi tiếng(2). Ngày 29 tháng 3 năm 2013, nhân dịp Kỷ niệm 38 năm ngày giải phóng quê hương, thành phố đã tiến hành khánh thành 2 cây cầu lớn bắc qua sông Hàn là cầu Trần Thị Lý(3) và Cầu

(1) Năm 2010: 327 đồ án, năm 2011: 476 đồ án, năm 2012: 351 đồ án, năm 2013: 315 đồ án và 6 tháng đầu năm 2014: 128 đồ án. Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo các năm 2010 - 2014 của Sở Xây dựng)(2) Các công trình trọng điểm là điểm nhấn trong kiến trúc đô thị của Đà Nẵng thời gian này như: Cầu Rồng, Cầu Trần Thị Lý, Tòa nhà Trung tâm hành chính, các quần thể du lịch Bà Nà, Sơn Trà,...(3) Đây là cây cầu hiện đại với kiến trúc và kết cấu độc đáo khi sử dụng hệ dây văng 3 chiều kết hợp trụ tháp nghiêng 12 độ về phía tây, cao 145 mét so với mực nước biển, gối ngàm cứng độc đáo nhất Việt Nam.

Page 393: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

393

Rồng(1) cùng với đó là khánh thành hệ thống cáp treo số 3, đạt 4 kỷ lục thế giới tại Khu du lịch Bà Nà Hills. Nếu cầu Trần Thị Lý như một cánh buồm căng gió thì Cầu Rồng như một con rồng khổng lồ đang lượn trên mặt sông Hàn và hướng ra biển Đông. Riêng Cầu Rồng, để thu hút khách du lịch, thành phố đã cho thiết kế đầu Cầu Rồng phun lửa và phun nước trong một số ngày trong tuần và các ngày lễ, tết, gây được sự ngạc nhiên, thích thú và tạo điểm nhấn cho khách du lịch bốn phương khi đến Đà Nẵng(2).

Ngày 19 tháng 5 năm 2014, đúng ngày Kỷ niệm 124 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, thành phố phối hợp với Ngân hàng Thế giới khánh thành đường vành đai phía Nam thành phố. Nhân dịp Kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng thành phố Đà Nẵng, ngày 29 tháng 3 năm 2015, Nút giao thông khác mức - cầu vượt 3 tầng Ngã ba Huế được khánh thành; đây là công trình được mệnh danh là “công trình không ngủ”, biểu tượng của sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân và năng lực quản lý điều hành các dự án lớn của chính quyền thành phố.

Tính đến năm 2015, thành phố đã hoàn thành Trục I giao thông Tây Bắc, Bệnh viện Đa khoa quận Hải Châu, Trường Trung học phổ thông Phan Châu Trinh (cơ sở 2), Khu Công nghệ cao, Cung Văn hóa thiếu nhi, Trung tâm Tim mạch - Bệnh

(1) Cầu có tổng kinh phí xây dựng 1.498 tỷ đồng, dài 666 mét, rộng 37,5 mét (gần gấp đôi Cầu Thuận Phước), có 6 làn xe, dải phân cách 6 mét và có hành lang đi bộ hai bên. Cầu có kết cấu nhịp chính gồm 5 nhịp liên tục dài 592m dạng vòm ống thép có khẩu độ từ 90-160m. Cầu có hình dáng con rồng đang lượn trên mặt sông Hàn và hướng ra biển Đông. Thiết kế của Cầu Rồng đã được Hiệp hội Cầu đường thế giới công nhận là một trong những công trình có kiến trúc độc đáo, mới lạ, tạo nên nguồn cảm hứng đặc biệt về một thành phố đang chuyển mình phát triển mạnh mẽ.(2) Ngày 30 tháng 4 năm 2014, Cầu Rồng là 1 trong 8 công trình và dự án xuất sắc nhất thế giới được vinh danh tại Lễ trao giải thưởng Kỹ thuật xuất sắc (EEA); đạt giải thưởng thiết kế chiếu sáng của Hiệp hội các nhà thiết kế chiếu sáng chuyên nghiệp thế giới (IALD). Các giải thưởng trên ví như giải thưởng Oscar của ngành kỹ thuật, kiến trúc.

Page 394: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

394

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

viện Đà Nẵng, Bệnh viện Đa khoa huyện Hòa Vang, Trạm Xử lý nước thải sông Phú Lộc, Hạ tầng kỹ thuật Khu số 2 và Khu số 7 - Tây Bắc, Đường vành đai phía nam (đoạn Hòa Phước - Hòa Khương), Đường vành đai phía bắc (đường Nguyễn Tất Thành)... Thành phố đã hình thành các trục không gian đô thị, đặc biệt là khai thác và tôn tạo cảnh quan thiên nhiên núi - biển - sông; ranh giới đô thị mở rộng thêm gần 2.000 ha so với năm 2010, về các hướng Tây, Tây - Bắc, Nam, Đông - Nam(1); công tác vệ sinh, môi trường đô thị có những bước tiến lớn(2). Cùng với việc xây dựng những cây cầu, mở rộng không gian thành phố ra các hướng, số lượng con đường được đặt tên trên địa bàn thành phố tăng lên đáng kể. Riêng giai đoạn 1997-2015, thành phố có khoảng 2.000 con đường được đặt tên, gấp khoảng 30 lần so với thời điểm sau giải phóng năm 1975(3).

Với kết quả nêu trên, thành phố nhận được nhiều giải thưởng lớn quốc gia và quốc tế về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu(4). Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, cấp điện, nước, điện chiếu sáng, cây xanh, xử lý rác thải... được đầu tư khá đồng bộ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cải tạo môi trường, cải thiện chất lượng sống của nhân dân, tạo diện mạo mới cho thành phố theo hướng văn minh, hiện đại. Những thay đổi tích cực này góp phần chuyển dịch cơ cấu,

(1) Đến năm 2015, diện tích đô thị của Đà Nẵng đạt gần 9.000 ha.(2) Diện tích không gian xanh đô thị đạt 6,1 m2/người. 5/6 khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung, tỷ lệ đấu nối nước thải đạt 98%; 100% chất thải nguy hại được thu gom và xử lý bằng biện pháp đốt tại bãi rác Khánh Sơn; tỷ lệ thu gom rác thải sinh hoạt đạt 93%.(3) Năm 1975, thành phố Đà Nẵng có khoảng 75 con đường được đặt tên.(4) Năm 2011, được trao giải thưởng “Thành phố bền vững về môi trường của các nước ASEAN”; năm 2012, được bình chọn là 1 trong 20 thành phố trên thế giới có hàm lượng carbon thấp nhất; năm 2013, được xét chọn 1 trong 33 thành phố đầu tiên đăng ký tham gia “Chương trình 100 thành phố có khả năng chống chịu”; năm 2015, được Bộ Tài nguyên và Môi trường tặng Giải thưởng Môi trường Việt Nam.

Page 395: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

395

tăng trưởng kinh tế, phân bổ lại dân cư và lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Với việc không ngừng mở rộng không gian đô thị ra các phía từ trung tâm, cùng với việc có thêm những cây cầu đầy ấn tượng bắc qua sông Hàn, Đà Nẵng đã được du khách bốn phương gọi một cách thân mật là: “Thành phố của những cây cầu”.

Thực hiện nhiều chủ trương mới, có tính đột phá về du lịch, dịch vụ và thương mại, để xây dựng Đà Nẵng sớm trở thành một trong những trung tâm thương mại - du lịch lớn của cả nước: Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XX của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng nhiệm kỳ 2011-2015 và Chương trình hành động 09-CTr/TU ngày 20 tháng 4 năm 2011 của Thành ủy Đà Nẵng về định hướng “Đầu tư phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố”, ngày 30 tháng 6 năm 2011, Uỷ ban nhân dân thành phố đã ban hành Quyết định số 5528/QĐ-UBND về việc ban hành Chương trình Phát triển Du lịch thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2011-2015, với những nhiệm vụ cụ thể liên quan đến: Đầu tư phát triển du lịch; sản phẩm du lịch; xúc tiến thị trường, quảng bá du lịch; môi trường du lịch; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch… Tiếp đó, ngày 05 tháng 4 năm 2012, Uỷ ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 2550/QĐ-UBND phê duyệt Đề án “Phát triển dịch vụ thành phố Đà Nẵng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020” nhằm quán triệt mục tiêu: “Tập trung phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, có thương hiệu, có trọng tâm, trọng điểm; xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm du lịch của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, cả nước, khu vực ASEAN và thế giới”. Trong Chương trình hành động, Thành ủy chủ trương tiến hành đồng thời các nhiệm vụ: Nâng cấp, phát triển sản phẩm và dịch vụ du lịch, hoàn thành các dự án đã được phê duyệt, nhất là các dự án lớn, tạo động lực cho phát triển du lịch(1).

(1) Như quần thể du lịch sinh thái Bà Nà - Suối Mơ, bán đảo Sơn Trà; Công viên văn hóa Ngũ Hành Sơn gắn với nâng tầm tổ chức Lễ hội Quán Thế Âm, triển

Page 396: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

396

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Với định hướng và chủ trương trên, thành phố sẽ tiến hành đầu tư phát triển nhanh cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại theo quy hoạch; chú trọng phát triển mạng lưới bán buôn, bán lẻ, các trung tâm thương mại, khu mua sắm lớn; xây dựng lại các chợ theo quy hoạch; đa dạng hóa các phương thức bán hàng, phấn đấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 20-21%/năm(1). Đồng thời, đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ, khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy nhanh các dịch vụ hỗ trợ thương mại. Đa dạng hóa các dịch vụ về cảng biển và các ngành công nghiệp gắn với cảng biển, phấn đấu xây dựng Đà Nẵng trở thành thành phố cảng biển, một trong những đầu mối giao thông quan trọng của khu vực và cả nước về vận tải nội địa và trung chuyển quốc tế. Phát triển mạnh các nhóm ngành dịch vụ tài chính - tín dụng - bảo hiểm; bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin - truyền thông; vận tải - kho bãi - dịch vụ cảng và xuất nhập khẩu; kinh doanh tài sản - bất động sản; dịch vụ thông tin tư vấn, khoa học - công nghệ; y tế, giáo dục - đào tạo, thể dục thể thao... chất lượng cao(2).

Từ những chủ trương trên, từ năm 2011 đến năm 2015, nhiều khu, điểm tham quan, du lịch sinh thái trên địa bàn thành phố đã được nâng cấp và đầu tư bổ sung thêm nhiều sản phẩm du lịch mới phục vụ du khách như: Quần thể du lịch sinh thái Bà Nà -

khai cuộc thi điêu khắc đá Quốc tế và nâng cao tính chuyên nghiệp trong tổ chức cuộc thi bắn pháo hoa Quốc tế, từng bước xây dựng thương hiệu “thành phố sự kiện”…(1) Nâng cao hiệu quả Cổng giao tiếp thương mại điện tử thành phố; khai thác hiệu quả Trung tâm hội chợ triển lãm, định kỳ và tiến đến tổ chức thường niên các hội chợ quốc tế tại Đà Nẵng; cải tạo Chợ đầu mối nông sản Hòa Cường (giai đoạn 2), nâng cấp Chợ Cồn, Chợ Mới, Chợ Hàn…; triển khai hiệu quả Chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và Chương trình phát triển sản phẩm lưu niệm du lịch.(2) Đến năm 2015, bán kính phục vụ bưu chính giảm còn 0,73 km/điểm phục vụ; mật độ điện thoại cố định đạt 41 máy/100 dân; mật độ thuê bao Internet đạt 18 thuê bao/100 dân; tăng tỷ lệ giao thông công cộng từ 4% năm 2009 lên 15% năm 2015.

Page 397: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

397

Suối Mơ với hệ thống cáp treo đạt 4 kỷ lục thế giới, khu vui chơi giải trí trong nhà hiện đại, khu làng Pháp, vườn hoa bốn mùa, khu du lịch tâm linh lầu chuông, dịch vụ tàu hỏa leo núi,…; Bán đảo Sơn Trà với một số điểm dừng chân tại chân đồi Vọng Cảnh, đỉnh Bàn Cờ, Sân bay Trực thăng, Cây đa đại thụ di sản, điểm du lịch văn hóa tâm linh Chùa Linh Ứng, Tour trekking “Không gian xanh” ngắm Voọc và nhiều resort nghỉ dưỡng cao cấp(1) cùng các dịch vụ vui chơi giải trí biển như lặn biển ngắm san hô, câu cá cùng ngư dân; Khu danh thắng Ngũ Hành Sơn đã hoàn thành đưa vào hoạt động hệ thống thang máy đưa khách tham quan Chùa Linh Ứng trên đỉnh ngọn Thủy Sơn; Khu du lịch sinh thái Suối Hoa đã được đầu tư các hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản để phục vụ du khách; Khu du lịch Hòa Phú Thành được đưa vào khai thác từ năm 2013 với dịch vụ trượt thác mạo hiểm, các dịch vụ ẩm thực, cắm trại đang là loại hình du lịch thu hút nhiều du khách vào các dịp lễ, cuối tuần; Du lịch đường sông thu hút du khách với các tour tham quan bán đảo Sơn Trà, Bãi Cát Vàng, Bãi Đá Đen, lặn ngắm san hô và tham quan sông Hàn về đêm.

Cùng với đó, các dịch vụ vui chơi giải trí trên địa bàn thành phố cũng được quan tâm phát triển. Tại các bãi biển du lịch đã có thêm nhiều loại hình dịch vụ thể thao, giải trí biển như ca nô, dù kéo, jeski, kayak, lặn biển… Các dịch vụ lưu trú, vui chơi giải trí hiện đại như Khu giải trí quốc tế Silver Shores (Crown Plaza), Sân gofl The Dunes Hòa Hải (được bình chọn là sân golf tốt nhất Việt Nam), Khu công viên giải trí thể thao biển Dana Beach Club... Tháng 7 năm 2014, thành phố đã hoàn thành và đưa vào sử dụng Khu công viên văn hóa vui chơi giải trí tại phía đông nam Đài tưởng niệm (Asia Park)(2).

Các dự án du lịch tăng đều theo từng năm: Nếu năm 2011, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có 57 dự án đầu tư du lịch với

(1) Như Intercontinental, Sơn Trà Spa & Resort,… (2) Có vòng xoay mặt trời, quy mô lớn thứ 4 thế giới và tiếp tục đầu tư nhiều trò chơi hiện đại khác.

Page 398: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

398

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tổng vốn đầu tư là 3.148,2 triệu USD (tương đương 66.112 tỷ đồng), trong đó có 11 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn là 1.535,6 triệu USD (tương đương 32.247 tỷ đồng) và 46 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn là 1.612,6 triệu USD (tương đương 33.864 tỷ đồng) thì đến năm 2015, trên địa bàn thành phố có 71 dự án đăng ký đầu tư trong lĩnh vực du lịch với tổng vốn đầu tư là 8.180,85 triệu USD (tương đương 171.799 tỷ đồng), trong đó các dự án có vốn đầu tư nước ngoài là 15 dự án với tổng vốn là 1.668,5 triệu USD (tương đương 35.039 tỷ đồng) và 56 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn là 6.512,35 triệu USD (tương đương 136.760 tỷ đồng). Nhiều dự án ven biển mang tầm cỡ quốc tế đã được hoàn thành đưa vào khai thác, thu hút nhiều khách tham quan du lịch(1).

Tính đến cuối năm 2015, trên địa bàn thành phố có 351 khách sạn với tổng số phòng là 11.257 phòng, trong đó có 8 khách sạn 5 sao với 2.041 phòng, 4 khách sạn 4 sao tương đương với 598 phòng, 43 khách sạn 3 sao tương đương với 2.738 phòng. Ngoài ra, thành phố cũng đã đầu tư 8 bãi tắm công cộng dọc đường Trường Sa - Hoàng Sa và đường Nguyễn Tất Thành phục vụ nhu cầu của người dân và khách du lịch, bao gồm Khu nhà tắm số 1, số 2, số 3 Phạm Văn Đồng, Khu nhà tắm nước ngọt Sao Biển, Mân Thái, Thanh Khê, Liên Chiểu, Marble Mountain. Các tuyến đường du lịch ven biển Hoàng Sa - Trường Sa, đường lên đỉnh Sơn Trà, đường lên Khu du lịch Bà Nà - Suối Mơ (đường ĐT 206), quy hoạch và mở rộng khu Ngũ Hành Sơn, Cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý… được đưa vào hoạt động phục vụ du khách tham quan, thưởng ngoạn,

(1) Đáng kể là một số công trình lớn như: Khu Intercontinental; Khu du lịch Pullman DaNang Beach Resort; Trung tâm du lịch và giải trí quốc tế đặc biệt Silver Shores; Khu du lịch FusionMaia; Hyatt Regency; Vinpearl Luxury; Khu du lịch - sân golf của Vinacapital... Một số khách sạn lớn ở trung tâm thành phố cũng đã hoàn thành và đưa vào phục vụ du khách như: Mercure Hotel, Novotel, Brillant Hotel, Golden Sea.

Page 399: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

399

tạo thuận lợi cho phát triển du lịch(1). Theo đó, trong 5 năm 2011-2015, ngành dịch vụ, du lịch và thương mại thực hiện đạt kết quả rõ nét, bước đầu thực hiện thành công đột phá thứ nhất. Giá trị sản xuất dịch vụ ước tăng 12,1%/năm, năm 2015 tăng gấp 1,8 lần so với năm 2010(2).

Phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin theo yêu cầu mới: Từ năm 2010 đến năm 2015, thành phố cũng chú trọng đầu tư xây dựng tương đối hoàn chỉnh 6 khu công nghiệp, với tổng diện tích 1.141,8 ha; thu hút 376 dự án(3), với tổng vốn đầu tư 12.444 tỷ đồng và 768,4 triệu USD, trong đó đã thu hút đầu tư một số doanh nghiệp công nghiệp quy mô lớn(4). Thành phố cũng đã hoàn thành 6 khu công nghệ thông tin:

- Khu Công viên Phần mềm Đà Nẵng đi vào hoạt động năm 2009 và đã lấp đầy 99,4%.

- Khu Công viên Phần mềm (Tòa nhà) FPT Đà Nẵng đã đi vào hoạt động và lấp đầy năm 2012;

- Khu Công viên Phần mềm số 2 (10 ha) do Sở Thông tin và Truyền thông làm chủ đầu tư, đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư(5).

(1) Lượng khách du lịch đến Đà Nẵng giai đoạn gần đây tăng nhanh với tốc độ tăng trưởng bình quân 20,9%/năm; trong đó khách quốc tế tăng bình quân 26%/năm, khách nội địa tăng bình quân 19,25%/năm. Năm 2013, ước tính tổng cộng có 3.117.558 lượt khách đến tham quan, du lịch tại Đà Nẵng; trong đó, khách quốc tế ước đạt 734.183 lượt khách, khách nội địa ước đạt 2.374.375 lượt khách. Đến năm 2015 nâng tổng số khách du lịch lên 4 triệu lượt người, trong đó có khoảng 1 triệu lượt khách quốc tế).(2) Nghị quyết đưa ra là 17-18%.(3) Trong đó, có 296 dự án trong nước. (4) Như: Nhà máy sản xuất ô tô TCIE công suất 6.500 xe/năm; Nhà máy sản xuất lốp xe tải Radial công suất 600.000 lốp/năm, Công ty VBL Đà Nẵng sản xuất bia công suất 150 triệu lít/năm; Nhà máy sữa Vinamilk công suất gần 22 triệu sản phẩm/tháng... (5) Thành phố đã hoàn thành việc cắm mốc theo Sơ đồ ranh giới sử dụng đất điều chỉnh được duyệt; Uỷ ban nhân dân thành phố phê duyệt quy hoạch chi

Page 400: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

400

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

- Khu Công nghệ thông tin tập trung số 2 (55,62 ha) do Sở Thông tin và Truyền thông làm chủ đầu tư, đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư(1).

- Khu Đô thị Công nghệ FPT Đà Nẵng (181,6 ha) do Tập đoàn FPT làm chủ đầu tư, khởi công xây dựng tháng 4 năm 2011 và dự kiến hoàn thành toàn Khu Đô thị vào năm 2020.

- Khu Công nghệ Thông tin tập trung thành phố Đà Nẵng (341,54 ha) đã khởi công, phối hợp hoàn thành thủ tục phê duyệt quy hoạch tổng mặt bằng tỷ lệ 1/500 của toàn dự án, xác định giá đất của giai đoạn 2.

Ngoài ra, 2 khu Công viên Phần mềm Đà Nẵng và khu Công viên Phần mềm (Tòa nhà) FPT Đà Nẵng đã được đưa vào sử dụng và lấp đầy vào năm 2012. Nhờ vậy, công nghiệp công nghệ thông tin phát triển khá, dần trở thành ngành công nghiệp quan trọng. Riêng giai đoạn 2011-2013, doanh thu lĩnh vực công nghệ thông tin tăng 24,1%/năm; kim ngạch xuất khẩu phần mềm ước đạt 58,4 triệu USD, tăng 37,6 %/năm, với các thị trường chính là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Châu Âu. Bên cạnh đó, thành phố Đà Nẵng vẫn liên tục dẫn đầu cả nước về Chỉ số sẵn sàng ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin (ICT Index) 5 năm liền (2009-2013). Đến cuối năm 2015, thành phố có gần 700 doanh nghiệp, cơ quan, viện nghiên cứu, trường học hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin với các hoạt động chính là tích hợp giải pháp, sản xuất gia công phần mềm; lắp ráp cung cấp dịch vụ phần cứng; phân phối buôn bán sản phẩm công nghệ thông tin; sản xuất cung cấp dịch vụ và đào tạo nhân lực công nghệ thông tin. Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền

tiết tỷ lệ 1/500 (Quyết định số 7390/QĐ-UBND ngày 24 tháng 10 năm 2013) trên cơ sở lựa chọn ý tưởng độc đáo thông qua cuộc thi tuyển phương án quy hoạch, kiến trúc.(1) Uỷ ban nhân dân thành phố đã phê duyệt quy hoạch tổng mặt bằng tỷ lệ 1/500 và công bố quy hoạch, phê duyệt dự án đầu tư (Quyết định số 7391/QĐ-UBND ngày 24 tháng 10 năm 2013).

Page 401: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

401

thông phát triển mạnh, nhất là số thuê bao di động và internet tăng lên đáng kể(1).

Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển: Thành phố đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong nhân dân về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và các luật pháp liên quan đến biển, nhất là thông tin kịp thời các chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách hỗ trợ cho ngư dân khai thác ở các vùng biển xa bờ, tạo điều kiện cho ngư dân được nhận đầy đủ các chính sách hỗ trợ của nhà nước; tổ chức Hội thảo khoa học bàn về quản lý và phát triển bền vững kinh tế biển Đà Nẵng; triển khai đề tài nghiên cứu khoa học về giải pháp phát triển kinh tế biển thành phố Đà Nẵng đến năm 2020, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Thành phố tập trung đẩy mạnh phát triển hình thức tổ chức sản xuất trên biển theo tổ, đội khai thác. Đến cuối năm 2014, thành phố đã thành lập và duy trì hoạt động của 92 tổ khai thác hải sản với 675 tàu, tổng công suất 41.395 mã lực (chiếm 50,8% tổng số tàu thuyền của thành phố), với 42 tổ khai thác xa bờ (179 tàu), trong đó có 1 tổ dịch vụ hậu cần nghề cá để phục vụ nhu cầu dịch vụ hậu cần trên biển. Các tổ, đội khai thác đã có sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong công tác cứu nạn, cứu hộ, tìm kiếm ngư trường, hỗ trợ vốn để mua ngư lưới cụ, trang thiết bị phát triển sản xuất, hướng dẫn phòng tránh thiên tai, cứu nạn, cứu hộ trên biển. Từ năm 2013, thành phố đã thành lập 3 nghiệp đoàn nghề cá tại các phường Nại Hiên Đông (quận Sơn Trà), phường Thanh Khê Đông, Xuân Hà (quận Thanh Khê) với 77 tàu và 250 ngư dân. Mô hình hình hoạt động theo nghiệp đoàn, giúp ngư dân tự tin, vươn ra khơi bám biển, nhất là việc đoàn kết, hỗ trợ

(1) Tính đến năm 2015, thành phố có dân số 1.028838 người: Trong đó, tổng số thuê bao điện thoại cố định: 258.273, bình quân 25,1 máy/100 dân; tổng số thuê bao di động: 2.241.355 (trả trước và sau), đạt 217, 85 máy/100 dân; tổng số thuê bao internet băng rộng: 1.043.454, trong đó, thuê bao băng rộng cố định: 213.644 và thuê bao băng rộng không dây: 829.810, bình quân 101,42 thuê bao/100 dân; tổng số bưu cục: 55; tổng số bưu điện văn hóa xã: 10/14.

Page 402: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

402

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

lẫn nhau trong trong sản xuất, bảo vệ quyền lợi của ngư dân khi xảy ra tranh chấp trên biển, sự cố rủi ro, tai nạn, xây dựng được mối quan hệ hài hòa, ổn định giữa chủ tàu và ngư dân.

Công tác khuyến ngư, ứng dụng khoa học công nghệ và hỗ trợ chuyển đổi nghề khai thác được chú trọng, nên hoạt động khai thác hải sản đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng khai thác xa bờ. Thành phố đã phê duyệt Đề án chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền, cơ cấu nghề khai thác theo hướng bền vững, giai đoạn 2011-2015(1); thực hiện hỗ trợ chuyển đổi nghề cấm khai thác cho 98 hộ ngư dân quận Sơn Trà với tổng kinh phí 484,7 triệu đồng và bước đầu triển khai mô hình quản lý cộng đồng khai thác kết hợp bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại 2 phường Thọ Quang, Mân Thái (quận Sơn Trà). Qua đó đã làm thay đổi nhận thức của ngư dân đối với việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản, nhất là nguồn lợi thủy sản ven bờ.

Ngoài ra, thành phố đã tập trung nguồn vốn để đầu tư phát triển, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nghề cá theo hướng trở thành trung tâm nghề cá của khu vực(2), không chỉ phục vụ cho thành phố Đà Nẵng mà còn cho các tỉnh trong khu vực miền Trung như: Đầu tư xây dựng hoàn chỉnh và đưa vào hoạt động Khu công nghiệp dịch vụ hậu cần nghề cá và âu thuyền Thọ Quang (quy mô khoảng 150 ha, sức chứa trên 1.000 tàu công suất 45 mã lực trở lên) với đầy đủ các phân khu chức năng (khu vực nhà máy chế biến thủy sản, hệ thống cầu cảng, chợ tạp hóa, hạ tầng dịch vụ đóng sửa tàu thuyền, sản xuất nước đá, cửa hàng xăng dầu, ngư lưới cụ…) đã cơ bản đáp ứng nhu cầu dịch vụ hậu cần nghề cá cho ngư dân Đà Nẵng và các tỉnh lân cận. Chợ đầu mối

(1) Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng: Quyết định số 2493/QĐ-UBND ngày 30 tháng 3 năm 2011.(2) Quy hoạch Tổng thể phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 (Quyết định số 1445/QĐ-TTg ngày 16 tháng 8 năm 2013) đã xác định phát triển Đà Nẵng trở thành 1 trong 6 trung tâm nghề cá lớn của cả nước và là 1 trong 2 trung tâm lớn của khu vực (bao gồm Đà Nẵng và Khánh Hòa) gắn với ngư trường biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa.

Page 403: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

403

thủy sản Thọ Quang (2 ha) với quy mô là chợ đầu mối thủy sản khu vực miền Trung được đầu tư xây dựng, hoàn thành và đưa vào sử dụng từ tháng 12 năm 2010, được công nhận là chợ loại I. Sản lượng hàng hóa qua cảng Thọ Quang đạt 85.000 tấn/năm, thu hút nguồn nguyên liệu thủy sản từ các tỉnh lân cận về phục vụ nhu cầu chế biến xuất khẩu, tiêu thụ nội địa cho thành phố. Thành phố cũng đã đầu tư Dự án nâng cấp, mở rộng cảng cá Thọ Quang thành cảng cá loại I cấp quốc gia theo quy hoạch của Chính phủ (chương trình Quy hoạch hệ thống cảng cá, bến cá đến năm 2020, định hướng đến năm 2030).

Hằng năm, thành phố bố trí kinh phí cho chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp thủy sản, tham gia hội chợ triển lãm tổ chức tại địa phương và các tỉnh, thành trong và ngoài nước. Đối với nhóm thủy sản đông lạnh, nhiều cơ sở đã đầu tư dây chuyền thiết bị công nghệ mới (công nghệ đông rời IQF), nhờ đó, chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm đã được nâng lên đáng kể. Giai đoạn 2006-2013, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng bình quân 4,6%/năm, trong đó, kim ngạch xuất khẩu năm 2013 đạt 120 triệu USD, gấp 1,4 lần so với năm 2005; thị trường tiêu thụ chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc, vùng Đông Bắc Á, Mỹ, Trung Đông, EU...

Cơ sở hạ tầng cảng biển(1) và kinh tế hàng hải của thành phố được chú trọng. Kinh tế hàng hải được thành phố xác định là 1

(1) Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 2190/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2009); Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển Trung Trung Bộ (nhóm 3) đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 1743/QĐ-BGTVT ngày 3 tháng 8 năm 2011); Quy hoạch Tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Dải ven biển miền Trung Việt Nam đến năm 2020 (Quyết định số 61/2008/QĐ-TTG ngày 09 tháng 5 năm 2008) và Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 07/2011/QĐ-TTG ngày 25 tháng 01 năm 2011) đã xác định phát triển cảng Đà Nẵng thành cảng tổng hợp quốc gia, cảng đầu mối khu vực (loại I) và về lâu dài phát triển để đảm nhận vai trò cảng cửa ngõ Quốc tế ở khu vực miền Trung.

Page 404: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

404

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

trong 4 lĩnh vực chính của phát triển kinh tế biển. Theo đó, từ năm 2010-2015, thành phố đã tập trung đầu tư phát triển hạ tầng cảng biển và kinh tế hàng hải như: Nâng cấp cảng Tiên Sa (nâng cấp, mở rộng bến, bãi tăng năng suất khai thác, xây dựng bến số 7, đầu tư trang thiết bị hiện đại, đồng bộ để phát triển trở thành cảng container, cảng trung chuyển của khu vực)(1). Bộ Giao thông - Vận tải cũng đã cho phép lập dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng cảng Tiên Sa giai đoạn 2, để kêu gọi đầu tư theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp tự bỏ vốn đầu tư xây dựng các bến theo quy hoạch(2).

Ngoài ra, cảng Đà Nẵng đã đầu tư khu kho vận hỗ trợ năng lực cho cảng Tiên Sa (diện tích xây dựng 5.200 m2), hình thành các khu ngoại quan, thiết bị khai thác container chuyên dụng và đang đầu tư mạnh mẽ để trở thành cảng hiện đại hơn và là cảng container đạt 150.000 TEUS (tức tổng sản lượng thông qua bãi đạt 150.000 thùng container), tàu hàng đến 4 nghìn DWT (tàu có khả năng an toàn khi chuyên chở 4 nghìn tấn gồm: Trọng lượng tổng cộng của toàn bộ thủy thủ đoàn, hành khách, hàng hóa, nhiên liệu, nước trên tàu, không xét các yếu tố khác ảnh hưởng đến an toàn của tàu) và tàu khách đến 75.000 GRT (là dung tích đăng ký, gồm toàn bộ thể tích các khoảng trống của con tàu, 1 GRT = 2,83 m³, dùng làm đơn vị tính cảng phí, hoa tiêu phí...). Hằng năm, Cảng tiếp nhận trên 300 chuyến tàu container cập

(1) Mở rộng 2 block làm hàng container có khả năng tiếp nhận thêm 1.200 TEUs; đầu tư mới 1 RTG (Cẩu khung bánh lốp) chuyên bốc dỡ container, sức nâng 36-40 tấn sử dụng hệ thống lưới điện và chuyển đổi 1 RTG dùng dầu diezel sang hệ lưới điện; đầu tư mới 1 xe nâng chụp (reach stacker) sức nâng 45 tấn, 7 đầu kéo và rơ-mooc 40 feet (trong đó có 2 đầu kéo chuyên dùng trong cảng với sức kéo hơn 60 tấn), hệ thống quản lý khai thác container, trạm biến áp... (2) Quy mô dự kiến: xây mới 1 bến liền bờ dài 500 m, độ sâu 13-14m, diện tích kho bãi gần 100.000 m2 cùng với thiết bị khai thác chuyên dụng, đáp ứng tàu hàng tổng hợp 50.000 DWT, tàu container 3.000 Teus, tàu khách loại lớn đến 100.000 GRT, nâng công suất của cảng lên 4,5-5 triệu tấn hàng hóa/năm và thành lập khu kho, bãi trung chuyển diện tích 30-50ha, tổng giá trị đầu tư ước tính 150 triệu USD.

Page 405: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

405

cảng, năng suất bình quân 22 conts/giờ/cẩu, ngang bằng với các cảng hiện đại của thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Khối lượng hàng hóa qua cảng Đà Nẵng giai đoạn 2005-2015 ước tăng 10,2%/năm với sản lượng năm 2015 ước đạt 6 triệu tấn, gấp 2,7 lần so với năm 2005, trong đó hàng container đạt 145.000 TEUS, đạt mức tăng cao nhất từ trước đến nay.

Đầu tư xây dựng cảng Sơn Trà, Trung tâm Logistics (20 ha) tại huyện Hòa Vang; đầu tư hoàn thiện các tuyến đường phục vụ vận tải hàng hóa qua cảng nhằm nâng cao khả năng thu hút hàng hóa vào cụm cảng Đà Nẵng; phát triển đội tàu vận tải biển trọng tải lớn để thực hiện chức năng vận chuyển hàng hóa lớn, vận chuyển container, đồng thời mở rộng, đa dạng hóa loại hình dịch vụ hàng hải. Đến năm 2015, tổng số tàu biển thuộc các chủ tàu là doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thành phố có 10 chiếc với tổng trọng tải là 26.047 DWT, trong đó có 5 chiếc trọng tải từ 2.000 DWT đến 6.500 DWT... Trên địa bàn thành phố có khoảng 50 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, trong đó có các công ty hàng đầu về dịch vụ hàng hải của Việt Nam mở chi nhánh tại Đà Nẵng như: Vosa, Viconship, Gemadept, Vietfracht… với đầy đủ các loại hình dịch vụ (đại lý tàu biển, đại lý giao nhận, thủ tục hải quan, dịch vụ xếp dỡ, lưu kho - bãi) và đã bước đầu cung cấp dịch vụ logistics. Thị trường vận tải container đường biển của Đà Nẵng tuy quy mô nhỏ song cũng đã thu hút 22 hãng tàu container nước ngoài đặt văn phòng đại diện và có 7 hãng tàu đã mở tuyến trực tiếp đến cảng Đà Nẵng(1).

Với những chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng, các định hướng, cơ chế chính sách cụ thể của Nhà nước về phát triển kinh tế biển cả nước nói chung và kinh tế biển Đà Nẵng nói riêng, bước đầu đã đem lại một số kết quả tích cực và khả quan.Qua đó phát huy được tiềm năng, lợi thế to lớn về biển và ngày

(1) Như: Wanhai, Kline, Samudera, Mcc, Acl và Cma-Cgm...

Page 406: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

406

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

càng đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, tạo chuyển biến mạnh trên các lĩnh vực kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu kinh tế thủy sản đã có chuyển dịch theo hướng khai thác xa bờ, phát huy tiềm năng, lợi thế biển. Cơ sở hạ tầng dịch vụ hậu cần nghề cá đã phục vụ tốt nhu cầu dịch vụ nghề cá cho tàu thuyền của thành phố và các tỉnh lân cận, là cầu nối gắn giữa khai thác với chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá. Bước đầu đã hình thành đội ngũ tàu cá của thành phố khai thác ở các vùng biển xa, góp phần bảo vệ chủ quyền vùng lãnh hải Việt Nam. Kết cấu hạ tầng cảng biển được chú trọng đầu tư, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng cảng Đà Nẵng trở thành cụm cảng lớn, hiện đại của miền Trung; nâng cao năng lực, công suất cảng và từng bước phát triển dịch vụ vận tải biển, dịch vụ hàng hải. Đến năm 2015, cảng Đà Nẵng cơ bản đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng, nhất là khách hàng container.

Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh và thực thi các chính sách xã hội giàu tính nhân văn: Ngày 20 tháng 4 năm 2011, Thành ủy Đà Nẵng ban hành Chương trình hành động số 09-CTr/TU đề ra các đề án, kế hoạch mang tính chiến lược liên quan đến lĩnh vực văn hóa, xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cho giai đoạn 2010-2015(1), nhằm mục tiêu hoàn thiện và phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa.

Từ chủ trương trên, từ năm 2011 đến năm 2015, thành phố đã tập trung đầu tư các thiết chế văn hóa cấp thành phố như công trình Thư viện Khoa học Tổng hợp, Trung tâm văn hóa mới của thành phố; nâng cấp, cải tạo Bảo tàng Điêu khắc Chăm, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Lịch sử, Nhà hát Tuồng Nguyễn

(1) Gồm: Đề án Phát triển văn học nghệ thuật thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2015, Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2015, Đề án Phát triển hệ thống thư viện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2012-2015 và định hướng đến năm 2020, Đề án Hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa giai đoạn 2011-2015.

Page 407: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

407

Hiển Dĩnh; đầu tư xây dựng mới Trường Văn hóa Nghệ thuật cơ sở 2 tại xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng… Bên cạnh đó, các thiết chế văn hóa lớn của thành phố cũng từng bước được đầu tư theo hình thức xã hội hóa như Công viên Châu Á, Công viên 29 tháng 3, Công viên Bách Thảo, Công viên Đại Dương…

Về “Xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh”, đến năm 2015, đã có 100% khu dân cư đã triển khai cuộc vận động và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phòng chống tội phạm ma túy, mại dâm; lập lại trật tự, an toàn giao thông. Các mô hình “Câu lạc bộ 09”, “Câu lạc bộ sau cai”, “Tiếng kẻng an ninh”, “Cụm dân cư liên kết”. Đặc biệt với mô hình “Tộc họ không có người vi phạm pháp luật”… tiếp tục được duy trì và phát huy có hiệu quả cao ở các quận Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn và huyện Hòa Vang, góp phần giữ vững an ninh trật tự và thực hiện có hiệu quả công tác cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ người lầm lỗi ở địa bàn dân cư. Phong trào xây dựng tuyến đường văn minh, đảm bảo đường thông hè thoáng, học sinh không đi xe máy đến trường và cổng trường bình yên được thực hiện tương đối tốt. Ở các khu dân cư công tác vệ sinh môi trường được triển khai thông qua các hoạt động Phong trào “Ngày chủ nhật xanh - sạch - đẹp”, các mô hình “Đoạn đường an toàn - văn minh - sạch đẹp”... Nổi bật trong hoạt động này là các quận Thanh Khê, Hải Châu, Liên Chiểu và huyện Hòa Vang.

Thành phố tiếp tục duy trì thực hiện tốt chương trình “5 không”, “3 có”, gắn với các chính sách an sinh xã hội; tập trung chỉ đạo và dành nhiều nguồn lực thực hiện công tác giảm nghèo, chăm lo các đối tượng chính sách(1). Đề án hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho gia đình người có công với cách mạng và đồng bào dân

(1) Riêng năm 2015, thành phố đã trợ cấp cho hơn 2.767 lượt đối tượng chính sách; cấp Bảo hiểm Y tế cho 1.312 đối tượng người có công và thân nhân; phụng dưỡng, chăm sóc 271 mẹ Việt Nam anh hùng; miễn giảm tiền sử dụng đất cho 284 hộ, kinh phí 4,422 tỷ đồng và sửa chữa 40 nhà, kinh phí 1,475 tỷ đồng...

Page 408: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

408

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tộc thiểu số năm 2015 hoàn thành vượt kế hoạch, với kết quả 1.188/1.032 căn nhà được sửa chữa, xây mới, kinh phí 32,4 tỷ đồng, vượt 15,1% kế hoạch(1). Bên cạnh đó, thành phố đã giải quyết việc làm mới cho 31.500 lượt lao động, đạt 100% kế hoạch, giải ngân 23,54 tỷ đồng cho 1.152 dự án vay vốn. Với những giải pháp tích cực trong công tác giảm nghèo, đến cuối năm 2015, thành phố cơ bản không còn hộ nghèo theo chuẩn giai đoạn 2013-2017, đã ban hành chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2016-2020(2); tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 45%, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị ước còn 4%. Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, dân tộc được thực hiện tốt.

Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế tiếp tục được đầu tư và đạt nhiều kết quả tích cực. Mạng lưới trường lớp phát triển theo cơ cấu hợp lý, chất lượng giáo dục được nâng lên, kết quả phổ cập giáo dục được giữ vững. Thành phố tiếp tục thực hiện quyết liệt việc không tuyển học sinh trái tuyến tại các trường học khu vực trung tâm; rà soát, đầu tư xây dựng các trường học, phòng học(3). Hoạt động nghiên cứu khoa học, quản lý công nghệ, phong trào sáng tạo kỹ thuật được duy trì thường xuyên; đẩy mạnh hình thức đặt hàng, thí điểm khoán kinh phí nghiên cứu; hình thành Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ. Chất lượng chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh được nâng lên, hệ thống điều trị phát triển theo hướng “đa khoa mạnh, chuyên khoa sâu và hội nhập khu vực”, ngày càng khẳng định là trung tâm y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Mạng lưới y tế thành phố không ngừng được củng cố,

(1) Đồng thời tặng mỗi hộ 1 ti vi 24 inches màn hình LED tích hợp đầu thu kỹ thuật số, trị giá 3,1 triệu đồng/chiếc(2) Chuẩn nghèo: khu vực nông thôn 1.100.000 đồng/người/tháng, khu vực thành thị 1,3 triệu đồng/người/tháng. Chuẩn cận nghèo: khu vực nông thôn 1.430.000 đồng/người/tháng, khu vực thành thị 1,69 triệu đồng/người/tháng.(3) Từ năm 1997 đến năm 2015, thành phố đã hoàn thành và đưa vào sử dụng (gồm sửa chữa và xây dựng mới): 111 mẫu giáo, 99 trường tiểu học, 49 trường trung học cơ sở, 20 trường trung học phổ thông.

Page 409: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

409

đã thành lập Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng(1). Cơ sở hạ tầng y tế được quan tâm đầu tư xây dựng, đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của người dân(2). Các chương trình, mục tiêu y tế quốc gia được triển khai đầy đủ, đồng bộ và có hiệu quả. Năm 2015, các chỉ tiêu thiên niên kỷ của Đà Nẵng đã vượt xa so với toàn quốc, 100% phường xã đạt chuẩn quốc gia y tế xã giai đoạn 2010-2010, về trước 5 năm so với kế hoạch của Bộ Y tế, Đà Nẵng đứng đầu cả nước về tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế toàn dân (95%). Công tác quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng, chống dịch bệnh, nhất bệnh tay chân miệng, bệnh sốt xuất huyết

được thực hiện khá đồng bộ(3). Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình có nhiều đổi mới, đa dạng, tập trung tuyên truyền Đại hội Đảng bộ các cấp và kỷ niệm các ngày lễ lớn. Thành phố đã phối hợp tổ chức thành công Đại hội Biển Đông Á, Cuộc thi Marathon quốc tế năm 2015; tích cực chuẩn bị các điều kiện để tổ chức Đại hội Thể thao Bãi biển Châu Á lần thứ 5 (ABG5) và các hoạt động đón Cuộc đua thuyền buồm quốc tế đến Đà Nẵng đầu năm 2016.

Trong năm 2015, thực hiện chủ trương “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015”, thành phố đã tập trung chỉ đạo quyết liệt, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và bước đầu đạt được kết quả khả quan. Thành phố đã chỉ đạo các cấp, các ngành làm tốt công tác tuyên truyền, chú trọng đầu tư các thiết chế văn hóa trọng

(1) Đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Y tế, trên cơ sở chuyển đổi nguyên trạng Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng và tiếp nhận Khoa Ung bướu thuộc Bệnh viện Đà Nẵng.(2) Bệnh viện Phụ sản - nhi, Trung tâm Y tế Hoà Vang, Trung tâm Y tế Hải Châu, Trung tâm Y học hạt nhân và xạ trị khu vực miền Trung, Khu phẫu thuật hồi sức tích cực chống độc và Đơn vị điều trị quốc tế tại Bệnh viện Đà Nẵng, Trung tâm Tim mạch.(3) Tính đến 15 tháng 11 năm 2015, có 1.000 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, tăng 761 trường hợp (tăng 318,4%) so cùng kỳ; 1.805 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, tăng 432 trường hợp, tăng 31,4%, không có trường hợp tử vong.

Page 410: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

410

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

điểm(1), tổ chức các hoạt động văn hoá phục vụ nhân dân; thành lập Tổ liên ngành 43 để kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; duy trì thường xuyên các đợt cao điểm kiểm tra, đảm bảo trật tự xã hội, mỹ quan đô thị, an toàn giao thông; tập trung xử lý các điểm ngập úng(2), các điểm nóng ô nhiễm môi trường, nhất là khu vực bãi rác Khánh Sơn, sông Phú Lộc, âu thuyền Thọ Quang và tại các bãi biển, khu công nghiệp, lô đất trống; chấn chỉnh tình trạng xe dù, bến cóc, chợ tạm, việc treo biển hiệu, băng rôn, mái che ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị; xử lý quyết liệt hành vi quảng cáo, rao vặt sai quy định, đeo bám, chèo kéo du khách, lang thang xin ăn, xin ăn biến tướng. Nhờ vậy, Đà Nẵng đã được các tổ chức quốc tế và trong nước bình chọn “Thành phố xuất sắc trong chuyển đổi” và “Giải thưởng Môi trường Việt Nam”.

Thành phố còn chú trọng công tác trùng tu, tôn tạo, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể; tổ chức sưu tầm, triển lãm tư liệu lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Tập trung đầu tư xây dựng nhiều công trình, thiết chế văn hóa quan trọng(3). Tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, thể thao lớn(4), góp phần từng bước hình thành thương hiệu thành phố văn hoá, du lịch, thành phố sự kiện. Các cơ quan báo, đài thành phố có bước phát triển mới, ngày càng khẳng

(1) Thư viện Khoa học Tổng hợp, Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Điêu khắc Chăm; đầu tư, nâng cấp 6 khu vui chơi giải trí, 10 trung tâm văn hóa thể thao phường và 5 nhà văn hóa, 5 trung tâm văn hóa thể thao xã.(2) Theo thống kê vào năm 2015, thành phố có 58 điểm ngập, trong đó có 4 điểm ngập nặng: Khu vực đường Nguyễn Văn Linh - Lê Đình Lý; khu vực hồ Thạc Gián - Vĩnh Trung - Đỗ Quang - Nguyễn Hoàng; khu vực đường Quang Trung - Đống Đa; khu vực đường Lê Duẩn - Hoàng Hoa Thám...(3) Thư viện Khoa học tổng hợp, Bảo tàng Mỹ thuật, Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, Bảo tàng Điêu khắc Chăm... Rà soát, đầu tư nâng cấp khu vui chơi giải trí phường, xã, Công viên 29/3; xã hội hoá đầu tư Công viên Châu Á.(4) Cuộc thi trình diễn pháo hoa, dù bay, robocon, marathon Quốc tế, cuộc thi Hoa hậu Việt Nam.

Page 411: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

411

định vai trò kênh thông tin thiết yếu trong việc tuyên truyền, định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố, dần khẳng định là trung tâm báo chí lớn thứ 3 của cả nước(1). Phong trào thể dục, thể thao được quan tâm đầu tư phát triển, nhất là thể thao thành tích cao, đạt nhiều giải thưởng ở các giải quốc gia, khu vực và quốc tế. Một số công trình thể thao trọng điểm được tập trung đầu tư, đảm bảo đăng cai, tổ chức các giải đấu quốc gia và khu vực(2).

Nhìn chung, từ năm 2010 đến năm 2015, nhờ thực hiện đồng bộ 5 đột phá về phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XX Đảng bộ thành phố, tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn thành phố giai đoạn 2010-2015 (GRDP, giá so sánh 2010) tăng 9,7%/năm, cao hơn mức bình quân cả nước, đến năm 2015 ước đạt 45.885 tỷ đồng, bằng 1,6 lần so với năm 2010; GRDP bình quân đầu người được nâng lên rõ rệt, đến năm 2015 đạt 62,65 triệu đồng(3). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, cơ cấu nguồn thu chuyển biến tích cực, nguồn thu phát sinh từ kinh tế có tỷ trọng đóng góp ngày càng tăng. Giai đoạn này, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 57.460 tỷ đồng, tăng 1,4%/năm(4). Đến năm 2015, tỷ trọng dịch vụ trong GRDP ước đạt 62,6%, công nghiệp - xây dựng 35,3%, nông nghiệp 2,1%. Cơ cấu các thành phần kinh tế chuyển dịch tích cực(5). Việc sắp xếp, đổi

(1) Đến năm 2015, trên địa bàn thành phố có 8 cơ quan báo chí địa phương, gần 88 cơ quan thường trú, văn phòng đại diện, hơn 40 trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử…; 1 nhà xuất bản địa phương và 7 chi nhánh nhà xuất bản khác.(2) Cung Thể thao Tiên Sơn, Bể bơi thành tích cao, Trung tâm đào tạo vận động viên...(3) Tương đương 2.908 USD, gần bằng 2 lần so với năm 2010.(4) Thu nội địa (không kể thu tiền sử dụng đất) ước đạt 33.460 tỷ đồng, tăng 12,8%/năm; tổng thu cân đối ngân sách địa phương ước đạt 80.240 tỷ đồng.(5) Năm 2015, tỷ trọng kinh tế dân doanh ước tăng từ 60,1% lên 63,7%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 11% lên 12,8%, trong khi kinh tế Nhà nước giảm từ 28,3% năm 2010 xuống còn 23,5%.

Page 412: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

412

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

mới doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, phần lớn các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế thành phố. Đặc biệt, việc thực hiện đột phá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đạt kết quả tích cực cả về thu hút, đào tạo và bồi dưỡng, nhất là trong khu vực công(1).

Nhìn một cách tổng thể, với những thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện 5 đột phá về phát triển kinh tế - xã hội, đã tạo cho Đà Nẵng một bước phát triển mới theo hướng trọng tâm và bền vững hơn, dần khẳng định là trung tâm phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Những đột phá về công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin đã hỗ trợ các ngành kinh tế đối ngoại, kinh tế biển và sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế và chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc, điều này đồng nghĩa với việc tiếp tục thực hiện Kết luận số 75-KL/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW. Đáng chú ý là ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tái cấu trúc lại toàn ngành, phát triển theo chiều sâu, nâng cao giá trị gia tăng; bước đầu hình thành được một số mô hình chuyên canh giống lúa, trồng hoa, rau an toàn, nuôi trồng thủy sản nước ngọt, sản xuất nấm, với năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, giá trị sản xuất ước tăng 4,5%/năm. Đặc biệt, ngày 19 tháng 3 năm 2012, Ban Thường vụ Thành uỷ đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TU về việc “Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố” theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Ban Chấp hành Trung

(1) Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đến tháng 4 tháng 2015, đã cử đi đào tạo 623 trường hợp (20 tiến sĩ, 87 thạc sĩ, 397 bậc đại học, 119 học viên tham gia đào tạo bác sĩ, bác sĩ nội trú); có 343/393 lượt học viên tốt nghiệp được bố trí công tác. Ngoài ra, trong nhiệm kỳ đã thu hút 508 cán bộ có trình độ đại học khá, giỏi trở lên (8 tiến sĩ, 102 thạc sĩ, 398 tốt nghiệp đại học); hằng năm có 4.000 - 4.500 lượt cán bộ, công chức, viên chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn về lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, cập nhật kiến thức.

Page 413: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

413

ương Đảng (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Theo đó, Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, đạt kết quả khả quan, từ năm 2012 đến năm 2015, thành phố đã huy động hơn 1.700 tỷ đồng để đầu tư, làm thay đổi nhanh diện mạo nông thôn, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Đến cuối năm 2015, huyện Hòa Vang đạt chuẩn nông thôn mới và thành phố hoàn thành chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới(1). Công tác quản lý, bảo vệ rừng, kiểm tra, phòng, chống chặt phá, cháy rừng được chú trọng; tỷ lệ che phủ rừng đến cuối năm 2015 ước đạt 41%.

Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng phát triển vẫn cho thấy quy mô nền kinh tế thành phố còn nhỏ(2), tích lũy để tái đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, sức cạnh tranh và hiệu quả trên một số lĩnh vực còn thấp. Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện “5 đột phá” còn chậm, triển khai giải pháp và đầu tư nguồn lực chưa đủ mạnh. Sức ảnh hưởng và vai trò đầu tàu, trung tâm phát triển của khu vực chưa thể hiện rõ nét, mô hình tăng trưởng chưa có thay đổi lớn.

Tình hình xúc tiến và thu hút đầu tư vào khu Công nghệ cao chưa đạt được kết quả mong muốn, chưa đáp ứng tiến độ xây dựng các hạ tầng khu Công nghệ cao so với mục tiêu đề ra. Các hoạt động liên kết giữa các địa phương trong vùng, khu vực còn yếu. Các doanh nghiệp phần lớn có quy mô nhỏ, về năng lực tổ chức và thương hiệu còn nhiều hạn chế, chưa có khả năng thực hiện các dự án công nghệ thông tin lớn, các sản phẩm chiến lược tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Tiến độ đầu tư, xây dựng một số dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm còn chậm(3). Nhiều đồ án quy hoạch

(1) Tháng 11-2015, Hoà Vang có 10/11 xã đạt 19/19 tiêu chí Nông thôn mới và Thủ tướng chính phủ công nhận là Huyện đạt chuẩn Nông thôn mới. Đầu năm 2016, huyện Hoà Vang đã đề nghị Chính phủ công nhận xã Hoà Bắc được 19/19 tiêu chí Nông thôn mới, hoàn thành 11/11 xã đạt chuẩn Nông thôn mới.(2) Năm 2015, GRDP Đà Nẵng chiếm 1,36% cả nước.(3) Trong 48 công trình đề ra có 15 công trình chưa triển khai: Thiết kế, xây dựng hệ thống tàu điện ngầm; Rạp xiếc thành phố; Nhà hát lớn thành phố;

Page 414: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

414

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

của thành phố và các nhà đầu tư qua nhiều năm không triển khai hoặc triển khai chậm, kéo dài, gây bức xúc và ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân(1). Một số điểm nóng về ô nhiễm môi trường, ngập úng cục bộ chưa được xử lý dứt điểm(2). Quá trình vận dụng, thực thi một số chủ trương, chính sách về lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai có mặt còn khuyết điểm, để xảy ra trình trạng giấu đất tái định cư. Bắt đầu xuất hiện tình trạng ùn tắc giao thông cục bộ trong giờ cao điểm tại một số tuyến đường chính. Việc thu gom rác, xử lý nước thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp vẫn chưa tốt, chưa có giải pháp căn cơ, bền vững.

Lĩnh vực văn hóa chưa được đầu tư phát triển tương xứng với kinh tế và nhu cầu thụ hưởng của người dân. Công trình thiết chế văn hoá còn thiếu, phân bổ chưa đều; tỷ lệ diện tích đất dành cho mục đích công cộng thấp. Văn minh đô thị chuyển biến chậm, có mặt còn bức xúc, đạo đức xã hội vẫn tiềm ẩn nguy cơ xuống cấp, tội phạm và tệ nạn xã hội có dấu hiệu tăng. Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chưa gắn kết chặt chẽ giữa thu hút, đào tạo và sử dụng. Bởi vậy, việc đẩy mạnh đầu tư, chăm lo về văn hóa và tái cơ cấu nguồn nhân lực là những ưu tiên cần giải quyết trong thời gian đến.

Trung tâm văn hóa thành phố; Nhà máy nước Hòa Liên; xây dựng Cảng Liên Chiểu; xây dựng Cảng Tiên Sa (giai đoạn 2); Làng Đại học Đà Nẵng; di dời ga đường sắt; Hành lang kinh tế Đông Tây 2 (EWEC2); nâng cấp Quốc lộ 14B đoạn từ Túy Loan đến ranh giới Đà Nẵng - Quảng Nam; các nút giao thông từ Đà Nẵng đi các tỉnh; hầm đường sắt Hải Vân; bến cảng khách quốc tế đường biển; Viện nghiên cứu Việt-Anh.(1) Rà soát 152 đồ án quy hoạch kéo dài nhiều năm không triển khai hoặc tính khả thi thấp, qua đó đã huỷ bỏ, thu hồi 32 đồ án, điều chỉnh 50 đồ án, rà soát tiến độ 70 đồ án. Các dự án tư nhân như: Khu phức hợp thương mại - dịch vụ cao tầng tại sân vận động Chi Lăng, khu phức hợp du lịch quốc tế Làng Vân, Tổ hợp Viễn Đông Meridian Tower, dự án DaNang Center, khu phức hợp Golden Square...(2) Ô nhiễm môi trường tại sông Phú Lộc, âu thuyền Thọ Quang, bãi rác Khánh Sơn…

Page 415: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

415

II. PHÁT HUY DÂN CHỦ, TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỮNG MẠNH, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG THÀNH MỘT “THÀNH PHỐ CÓ MÔI TRƯỜNG SỐNG TỐT”

Trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể: Từ năm 2010 đến năm 2015, công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác cán bộ chủ chốt của thành phố có nhiều thay đổi quan trọng.

Năm 2011, Thành ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân thành phố nhiệm kỳ 2011-2016 vào ngày 22 tháng 5 năm 2011. Ủy ban nhân dân thành phố thành lập hai Ban bầu cử đại biểu Quốc hội: Ban số 1 các quận, huyện Hải Châu, Sơn Trà, Hòa Vang, Hoàng Sa; Ban số 2 gồm các quận Thanh Khê, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ; đồng thời, thành lập 15 Ban bầu cử Hội đồng nhân dân thành phố. Với sự chỉ đạo cụ thể, sâu sát của Thành ủy, cuộc bầu cử thành công tốt đẹp. Theo đó, số lượng cử tri tham gia bầu cử đạt 99,89%, 6 người trúng cử đại biểu Quốc hội (khóa XIII)(1), 50 người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố.

Ngày 20 tháng 6 năm 2011, tại kỳ họp thứ nhất Hội đồng nhân dân thành phố (khóa VIII), đã tiếp tục bầu đồng chí Nguyễn Bá Thanh - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân khóa VIII, nhiệm kỳ 2011-2016 và bầu đồng chí Huỳnh Nghĩa làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân.

Ngày 05 tháng 7 năm 2011, Bộ Chính trị có Quyết định điều động đồng chí Trần Văn Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng ra Hà Nội giữ chức Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Sau đó, tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố (khóa XX) đã bầu đồng chí Văn Hữu Chiến - Ủy viên Ban

(1) Gồm các đồng chí: Nguyễn Bá Thanh, Lê Văn Hoàng, Nguyễn Thị Kim Thúy, Huỳnh Ngọc Sơn, Thân Đức Nam, Huỳnh Nghĩa.

Page 416: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

416

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố giữ chức Phó Bí thư Thành ủy Đà Nẵng. Ngày 03 tháng 10 năm 2011, tại kỳ họp lần thứ 2 Hội đồng nhân dân thành phố (khóa VIII) đã bầu đồng chí Văn Hữu Chiến, Phó Bí thư Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố.

Được sự đồng ý của Ban Bí thư, ngày 17 tháng 12 năm 2013, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố tổ chức bầu chức danh Phó Bí thư Thường trực Thành ủy nhiệm kỳ 2010-2015, đồng chí Võ Công Trí, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Đà Nẵng.

Trong năm 2014, Ban Thường vụ Thành ủy tập trung kiện toàn nhân sự cán bộ chủ chốt thành phố, bổ sung Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Thành ủy và Phó Bí thư Thành uỷ nhiệm kỳ 2010-2015 cũng như điều động, luân chuyển, sắp xếp đội ngũ cán bộ chủ chốt, kiện toàn bộ máy các cơ quan, đơn vị, chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ các cấp.

Ngày 02 tháng 4 năm 2014, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố đã bầu đồng chí Nguyễn Xuân Anh, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố làm Phó Bí thư Thành ủy(1).

Ngày 13 tháng 02 năm 2015, đồng chí Nguyễn Bá Thanh - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội Chính Trung ương đại biểu Quốc hội (khóa XIII) qua đời. Đây là sự kiện gây tác động mạnh đến tâm tư, tình cảm của nhân dân thành phố

(1) Trong đợt này, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố đã bầu bổ sung 7 Ủy viên Ban Thường vụ gồm các đồng chí: Đặng Việt Dũng, Trần Thanh Vân, Phạm Quý, Lương Nguyệt Thu, Trần Đình Hồng, Huỳnh Đức Thơ, Trương Chí Lăng; chỉ định bổ sung 7 Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố; thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự để Hội đồng nhân dân thành phố bầu bổ sung Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố (khóa VIII), nhiệm kỳ 2011-2016 đối với đồng chí Huỳnh Đức Thơ, Thành ủy viên, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư.

Page 417: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

417

Đà Nẵng và cả nước, là tổn thất to lớn cho Đảng bộ thành phố Đà Nẵng nói riêng cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam và Quốc hội Việt Nam nói chung.

Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng luôn ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp to lớn của đồng chí Nguyễn Bá Thanh đối với sự phát triển của Đà Nẵng. Trong những năm tháng cống hiến cho quê hương, đồng chí Nguyễn Bá Thanh đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng, có tính quyết định để đưa Đà Nẵng thành một đô thị tầm cỡ của cả nước, dần xác lập vị trí của một thành phố động lực của miền Trung - Tây Nguyên. Di sản lớn nhất đồng chí để lại cho Đà Nẵng là “thành phố của những cây cầu”, là chương trình “5 không, 3 có” giàu tính nhân văn... Đồng chí Nguyễn Bá Thanh nổi tiếng với những phát ngôn “nói là làm”, “làm việc chứ đừng hô khẩu hiệu”, “làm người phải có lòng tự trọng”... Trên cương vị Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, đồng chí đã khơi vào lòng người dân kỳ vọng về công cuộc chống tham nhũng trên bình diện cả nước. Sự ra đi của đồng chí Nguyễn Bá Thanh để lại niềm thương tiếc to lớn cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố Đà Nẵng và nhân dân cả nước(1). Đối với Đà Nẵng, đồng chí Nguyễn Bá Thanh

(1) Khi đồng chí Nguyễn Bá Thanh qua đời, nhiều hãng thông tấn nước ngoài đã đồng loạt đưa tin. Hãng thông tấn Pháp AFP có đăng bài viết mô tả: “Nguyễn Bá Thanh - Một nhân vật cấp cao có sự mến mộ rộng rãi trong dân chúng. Ông là một nhân vật lớn, nổi tiếng trong giới đầu tư nước ngoài lẫn những người bán hàng rong”. Hãng Bangkok Post dẫn bình luận “Đất nước đã mất đi một vị lãnh đạo tài năng với trái tim nồng ấm”. Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế CSIS giới thiệu đồng chí Nguyễn Bá Thanh là “một chính trị gia Việt Nam nổi bật và được ngưỡng mộ rộng rãi. Tầm vóc của ông được xây dựng trên sự lãnh đạo năng động và quyết đoán với thành phố Đà Nẵng đang phát triển nhanh chóng và thân thiện với nhà đầu tư. Sự ra đi của ông là một mất mát lớn đối với Việt Nam. Ảnh hưởng của ông Thanh đã vượt xa tầm cỡ của người đứng đầu một chính quyền thành phố”. Hãng BBC bình luận: “Trong số những phẩm chất đáng chú ý nhất của Nguyễn Bá Thanh là khả năng có những cuộc nói chuyện rất dài, đôi lúc kéo dài tới ba giờ đồng hồ nhưng thật tự nhiên, có sức thuyết phục, và tính vui vẻ hài hước của ông đã làm cho những diễn văn và

Page 418: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

418

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

luôn là hình mẫu của một cán bộ chủ chốt với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, gần dân, thương dân và được nhân dân yêu mến.

Trong năm 2015, Thành ủy đã chủ trương đẩy mạnh việc luân chuyển, bố trí, sắp xếp cán bộ, để chuẩn bị nhân sự cho cấp ủy khóa mới. Ngày 26 tháng 01 năm 2015, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố đã bầu đồng chí Huỳnh Đức Thơ, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố giữ chức Phó Bí thư Thành ủy. Trong cùng ngày, tại kỳ họp Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng lần thứ 12, nhiệm kỳ 2011-2016, đã miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố đối với đồng chí Văn Hữu Chiến do nghỉ hưu theo chế độ; đồng thời, bầu bổ sung đồng chí Huỳnh Đức Thơ, Phó Bí thư Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố (khóa VIII), nhiệm kỳ 2011-2016.

Thời gian này, cùng với việc điều động, bổ nhiệm cán bộ, Thành ủy cũng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ thành phố đến cơ sở phù hợp với đặc điểm đô thị. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ các cơ quan, đơn vị, mối quan hệ trong từng tổ chức và giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; tiếp tục tinh giảm biên chế, kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, đồng bộ, hiệu quả, sát hợp với chức năng, nhiệm vụ và tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Chú trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; tiếp tục tăng cường công tác đảng trong trường học, công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước. Nâng cao chất lượng đánh giá tổ chức cơ sở Đảng, đổi mới công tác khen thưởng tổ chức đảng, đảng

các tuyên bố của ông trở nên ngoạn mục. Nguyễn Bá Thanh sẽ được nhớ đến rộng rãi, khắp nơi trên toàn Việt Nam”. Dẫn theo: “Báo chí quốc tế nói về sự ra đi của ông Nguyễn Bá Thanh”. Nguồn dẫn: Vnexpress.net.

Page 419: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

419

viên(1). Thực hiện tốt việc định kỳ tổ chức lấy ý kiến nhận xét của nhân dân nơi cư trú đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, lãnh đạo quản lý. Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân. Chú trọng cổ vũ, nhân rộng gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiêu biểu, các phong trào thi đua yêu nước; tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể. Kiên quyết đấu tranh, phản bác thông tin, quan điểm sai trái, xuyên tạc, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; bảo vệ đường lối và sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng trên địa bàn, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Đặc biệt, Thành uỷ đã lãnh đạo thực hiện chặt chẽ, đồng bộ các nhóm giải pháp theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng. Việc tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình ở các cấp, các ngành được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, thận trọng và đảm bảo yêu cầu. Sau kiểm điểm, các đơn vị đã từng bước khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, góp phần nâng cao nhận thức, cảnh báo và ngăn chặn một bước sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tinh thần tự phê bình, phê bình, xây dựng, tính tiên phong gương mẫu được phát huy; đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng được nâng cao. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Đồng thời, Thành ủy chỉ đạo tổ chức thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với nhiều hình thức sáng tạo, nền nếp, trở thành công việc

(1) Duy trì hằng năm số tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh theo quy định; phấn đấu không có tổ chức cơ sở Đảng yếu kém. Thực hiện tốt công tác đánh giá chất lượng đảng viên, phấn đấu hằng năm có từ 90% đảng viên trở lên hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Page 420: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

420

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thường xuyên của nhiều tổ chức và cá nhân; việc “làm theo” từng bước đi vào chiều sâu, phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Nhờ vậy, ngày càng xuất hiện nhiều tấm gương tập thể, cá nhân điển hình tiêu biểu trong các cấp, các ngành, tạo sự lan tỏa tích cực trong xã hội(1).

Thành ủy thường xuyên chỉ đạo thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của các địa phương, đơn vị. Tiếp tục chỉ đạo các quận ủy, huyện ủy, đảng ủy trực thuộc Thành ủy rà soát, bổ sung, xây dựng chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cụ thể, thiết thực, sát với nhiệm vụ, đặc điểm của mỗi địa phương, đơn vị, đảm bảo ngắn gọn, dễ nhớ, dễ làm, dễ đánh giá(2); yêu cầu những đơn vị xây dựng chuẩn mực, đề ra tiêu chí chưa đạt phải xây dựng lại. Nhiều cách làm mới, thiết thực, hiệu quả được triển khai nhân rộng, tiêu biểu là phong trào “Người đảng viên sống đẹp” đã được nhân rộng ở các quận Hải Châu, Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn(3).

(1) Trong 5 năm 2011-2015, có 10 tập thể, cá nhân điển hình tiêu biểu được Trung ương khen thưởng; 248 tập thể, cá nhân được thành phố khen thưởng; 2.912 tập thể, cá nhân được các cấp, các ngành khen thưởng.(2) “Làm đúng ngay từ đầu trong từng công đoạn sản xuất, để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả công việc” của Chi bộ Nhà máy Dệt Hải Vân; “Đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, quan tâm chăm lo cải thiện đời sống cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội” của Đảng bộ Tổng Công ty cổ phần Dệt may Hòa Thọ; “Lớp học không có học sinh yếu”; “Thầy thuốc như mẹ hiền”… của Quận ủy Cẩm Lệ; “Vì nhân dân phục vụ” với 3 tiêu chí cho cán bộ khu dân cư, 5 tiêu chí cho cán bộ, đảng viên, nhân viên cơ quan phường Phước Ninh (quận Hải Châu)… Các tiêu chí “Tận tâm với việc, tận tụy với dân”, “Hết việc, không hết giờ”, “Nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình”, “Thương người như thể thương thân”, “Mỗi ngày một việc tốt”, “Vận động nhân dân tham gia họp tổ dân phố”, “Giữ vệ sinh môi trường”, “Ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo”…(3) Phong trào “Người đảng viên sống đẹp” với 5 tiêu chí: Sống có nghĩa tình, không xa rời quần chúng; có lương tâm, có trách nhiệm, không vi phạm đạo đức; có sáng kiến xây dựng Đảng; ứng xử có văn hóa, không vi phạm pháp

Page 421: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

421

Nhiều “việc làm theo” trở thành các phong trào thi đua thường xuyên, hiệu quả(1). Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố vận động mỗi chị em phụ nữ tiết kiệm, nuôi heo đất, thu gom và phân loại rác thải tại nguồn... đến năm 2015 có tổng số tiền trên 33 tỷ đồng. Từ nguồn quỹ này, các cấp Hội Phụ nữ đã giúp phụ nữ nghèo, giúp đỡ trẻ em khó khăn và thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Đảng ủy Tổng Công ty miền Trung, Đảng ủy Cảng Đà Nẵng đẩy mạnh phong trào tiết kiệm, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong sản xuất làm lợi cho đơn vị hàng tỷ đồng, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng thu nhập cho người lao động. Quận ủy Liên Chiểu vận động nhân dân “treo ảnh Bác Hồ tại nhà” được thực hiện từ năm 2013 đến nay đã có 100% cán bộ, đảng viên và trên 85% hộ dân thực hiện treo ảnh Bác tại nơi trang trọng(2).

Năm 2013, thành phố đã ban hành và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 29-CT/TU ngày 06 tháng 11 năm 2013 của Ban Thường vụ Thành ủy, trọng tâm là thực hiện

luật; có việc làm tốt (có sáng kiến, kinh nghiệm trong giải quyết công việc có hiệu quả; đăng ký một việc làm gắn với một địa chỉ cụ thể…). Trên cơ sở đó, tổ chức cho mỗi đảng viên về cư trú trên địa bàn dân cư tuỳ theo lĩnh vực công tác và nhiệm vụ chuyên môn mà đăng ký công việc phù hợp, như: giáo viên nhận dạy kèm cho học sinh nghèo; bác sĩ nhận khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo; công an đăng ký quản lý địa bàn dân cư không có tội phạm; cán bộ đoàn giúp phong trào đoàn cơ sở; đảng viên có điều kiện nhận giúp đỡ hộ nghèo vươn lên trong cuộc sống…(1) Như: Xây dựng “Cơ quan văn hóa, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở”, “Người cán bộ Hội Nông dân tiêu biểu, xuất sắc làm theo Bác Hồ”, “Heo đất tình thương”, “Ống tre tiết kiệm”, “Người cán bộ trung thành, gương mẫu, tận tụy, sáng tạo”, “Thắp nến tri ân”, “Tìm và quy tập mộ liệt sĩ”, “Công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”, “Nhanh nhất, đúng nhất, hiệu quả nhất”, “Hành trình theo chân Bác”, “Cựu chiến binh 3 gương mẫu”, “Trung thành bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền”, “2 trong 1 giúp đỡ học sinh hư, bỏ học”...(2) Báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (2011-2016). Tài liệu hiện lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

Page 422: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

422

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

nội dung “5 xây”, “3 chống”(1) làm cho chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng cao. Năm 2014, thành phố xây dựng Quy chế phối hợp trong giải quyết thủ tục hành chính tại các sở, ngành, quận, huyện, liên thông, liên kết trong giải quyết thủ tục hành chính; sơ kết 2 năm thực hiện cuộc vận động “3 hơn” trong cải cách hành chính(2)…

Công tác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình ở các cấp, các ngành được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, thận trọng và đảm bảo yêu cầu; sau kiểm điểm, các đơn vị đã từng bước khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, góp phần nâng cao nhận thức, cảnh báo và ngăn chặn một bước sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tinh thần tự phê bình, phê bình, xây dựng, tính tiên phong gương mẫu được phát huy; đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng được nâng cao. Công tác tư tưởng được coi trọng; từng bước đổi mới phương thức tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết của Đảng, đề cao ý thức tự nghiên cứu, thảo luận để tạo sự thống nhất nhận thức, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện phù hợp với thực tiễn địa phương(3). Đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, kịp thời đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, góp phần phòng chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Công tác nghiên cứu lý luận, quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa - văn nghệ được tăng cường. Công tác khoa giáo có nhiều

(1) Trong đó, “5 xây”: Trách nhiệm, chuyên nghiệp, trung thực, kỷ cương, gương mẫu; “3 chống”: Quan liêu, tiêu cực, bệnh hình thức. Ban đầu, thành phố chọn các Sở: Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Tài nguyên và Môi trường, Giao thông vận tải, Cục Thuế và Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố làm điểm, thành lập Tổ kiểm tra thường xuyên và đột xuất việc triển khai thực hiện Chỉ thị này.(2) Gồm: Nhanh hơn, hợp lý hơn, thân thiện hơn.(3) Giai đoạn 2010-2015, hệ thống Trung tâm Bồi dưỡng chính trị tổ chức 951 lớp bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho trên 142.590 lượt cán bộ. In, phát hành 60 số bản tin nội bộ với 252.000 bản; 120 số bản tin phục vụ lãnh đạo với 44.400 bản.

Page 423: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

423

chuyển biến tích cực. Việc sưu tầm, biên soạn lịch sử, phát huy truyền thống được đẩy mạnh(1).

Tổ chức bộ máy Đảng, hệ thống chính trị được đổi mới, kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Tập trung triển khai thực hiện Kết luận số 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các cấp ủy trực thuộc Thành ủy. Thành lập Ban Nội chính Thành uỷ, sắp xếp các tổ chức cơ sở Đảng phù hợp với sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên trực tiếp(2). Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng từng bước được nâng lên; việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên được thực hiện nghiêm túc(3). Phát triển đảng viên hằng năm tăng về số lượng và chất lượng(4). Công tác cán bộ có chuyển biến, quy trình tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm được thực hiện chặt chẽ; thí điểm thi tuyển một số chức danh cán bộ lãnh đạo quản lý(5); triển khai nhiều giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ, nhất là cấp cơ sở.

Công tác kiểm tra, giám sát được chú trọng trên cả mặt lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Công tác dân vận được tăng cường, trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với công tác dân vận được nâng cao, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự

(1) Đã biên soạn, phát hành 6 công trình lịch sử, truyền thống cách mạng; 2 đề tài khoa học khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.(2) Thành lập Đảng bộ cấp trên cơ sở Sở Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy, Đảng bộ cơ sở giao quyền cấp trên cơ sở Tổng Công ty Điện lực miền Trung, nâng cấp Đảng bộ Các khu công nghiệp thành Đảng bộ cấp trên cơ sở trực thuộc Thành ủy.(3) Hằng năm, có trên 83% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh; trong đó có trên 19% trong sạch vững mạnh tiêu biểu; trên 99% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, trong đó trên 12% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. (4) Trung bình mỗi năm kết nạp trên 2.000 đảng viên.(5) Giai đoạn 2010-2015, có 115 vị trí chức danh lãnh đạo cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp được tổ chức thi tuyển với 336 ứng viên dự thi.

Page 424: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

424

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

đồng thuận trong xã hội. Công tác dân vận của các cơ quan chính quyền ngày càng được chú trọng. Phong trào “Dân vận khéo” từng bước đi vào chiều sâu, thiết thực, nhất là phong trào “Cả thành phố chung sức xây dựng nông thôn mới”, phong trào “Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”... Chất lượng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội bước đầu được triển khai và phát huy hiệu quả.

Công tác xây dựng chính quyền được đẩy mạnh. Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành phố tích cực đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tăng cường tiếp xúc, đối thoại và xử lý những kiến nghị, nguyện vọng của cử tri. Hoạt động giám sát và chất lượng các kỳ họp Hội đồng nhân dân được nâng cao, bám sát thực tiễn, lựa chọn những vấn đề bức xúc cử tri đặc biệt quan tâm, trên cơ sở đó đề ra nhiều quyết sách phù hợp để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh trên địa bàn, nổi bật là tổ chức tốt các hội nghị giám sát giữa 2 kỳ họp được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả rõ nét. Hệ thống chính quyền điện tử bước đầu được hình thành từ thành phố đến các quận, huyện, sở, ngành, nhất là ứng dụng các dịch vụ công, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục hành chính. Đã ban hành và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 29-CT/TU ngày 06 tháng 11 năm 2013 của Ban Thường vụ Thành ủy, trọng tâm là thực hiện nội dung “5 xây”, “3 chống”. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng cao. Giai đoạn 2011-2015, thành phố luôn thuộc nhóm dẫn đầu và có kết quả tốt về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), xếp thứ nhất năm 2013, 2014; Chỉ số sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin (ICT) dẫn đầu 7 năm liên tiếp (2009-2015); Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) xếp thứ 1 giai đoạn 2012-2014, Chỉ số hiệu quả quản trị hành chính công cấp tỉnh (PAPI) liên tục nằm trong nhóm các tỉnh, thành phố đạt điểm cao nhất từ năm 2011-2014. Nhiều mô hình mới, cách làm

Page 425: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

425

hay về cải cách hành chính được Trung ương và các địa phương trong cả nước đánh giá cao(1).

Công tác cải cách tư pháp được chỉ đạo thực hiện theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX). Việc tham gia xây dựng dự thảo các văn bản luật được thực hiện đầy đủ và có chất lượng. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được đẩy mạnh. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, tranh tụng tại phiên tòa, thi hành án được nâng lên, khắc phục được tình trạng truy tố, xét xử oan, sai, hạn chế được tình trạng bỏ lọt tội phạm, giảm số vụ án và thi hành án dân sự tồn đọng, kéo dài, tạo chuyển biến tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Công tác tiếp công dân, tiếp nhận xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có chuyển biến tích cực(2), tập trung giải quyết việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài và các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp, không để xảy ra điểm nóng. Công tác thanh tra đi sâu vào những lĩnh vực nhạy cảm, bức xúc của xã hội, nhất là quản lý tài chính, quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản(3).

Hệ thống tổ chức Mặt trận, các đoàn thể từ thành phố đến cơ sở được củng cố, kiện toàn. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước đối với công tác vận động nhân dân được đổi mới. Tập trung củng cố tổ chức cơ sở, phát triển hội viên, đoàn viên, xây dựng lực lượng cốt cán phong trào. Vai trò,

(1) Thực hiện cơ chế “một cửa liên thông”, “một cửa liên kết”, “một cửa tập trung”, “một cửa điện tử”; từng bước xây dựng chính quyền điện tử; triển khai hiệu quả cuộc vận động 3 hơn “Nhanh hơn, hợp lý hơn, thân thiện hơn” và một số chính sách công tác cán bộ...(2) Giai đoạn 2011-2014, các cơ quan quản lý hành chính các cấp, các cơ quan thanh tra đã xử lý 2.148 đơn khiếu nại, tố cáo; đã giải quyết 793/820 vụ khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 90%.(3) Giai đoạn 2011-2014, đã hoàn thành 7.984 cuộc thanh tra, kiểm tra, qua đó phát hiện sai phạm và kiến nghị thu hồi ngân sách Nhà nước 73,5 tỷ đồng, ban hành 16.739 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền phạt 51,5 tỷ đồng, chuyển cơ quan điều tra 01 vụ có dấu hiệu tham nhũng.

Page 426: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

426

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

vị thế của Mặt trận, các đoàn thể được phát huy trong các phong trào an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Hoạt động Mặt trận và các đoàn thể đã có nhiều đổi mới, đa dạng các hình thức tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân dân; đặc biệt là các nhân sĩ, trí thức, doanh nhân, đồng bào các dân tộc, đồng bào có đạo, chức sắc tôn giáo tích cực đóng góp xây dựng, phát triển thành phố(1). Đồng thời, thành phố đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách chăm lo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, nhất là địa bàn vùng núi, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo. Nâng cao năng lực giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Các hội quần chúng đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của thành phố, nhất là trên các lĩnh vực công tác xã hội, nhân đạo, từ thiện, giúp nhau trong sản xuất, khuyến học, khuyến tài, xây dựng đời sống văn hóa tại cộng đồng dân cư, xây dựng nông thôn mới.

Trên lĩnh vực an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội: Từ năm 2010 đến năm 2015, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, tác động không nhỏ đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

(1) Tính đến năm 2015, Đà Nẵng có 12 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân (Phật giáo, Công giáo, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Truyền giáo Cao Đài, Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam, Giáo hội Cơ đốc phục lâm Việt Nam, Hội thánh Bắp tít, Họ đạo Cao Đài Tây Ninh, Cộng đồng tôn giáo Baha’i, Giáo hội Phật đường Nam tông Minh sư đạo, Pháp tạng Phật giáo Việt Nam và 1 cơ sở tín ngưỡng Thờ Mẫu). Đà Nẵng có trụ sở Trung ương của 2 tôn giáo (Hội thánh Truyền giáo Cao Đài, Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam); tổng số chức sắc tôn giáo: 1.044; tổng số tín đồ tôn giáo: 180.742 (chiếm 17,5% tổng số dân), với 191 cơ sở thờ tự. Nguồn: Ban Tôn giáo thành phố Đà Nẵng, 2015.

Page 427: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

427

Trong thời gian này, tình hình biển Đông nói chung và khu vực biên giới biển thuộc thành phố Đà Nẵng nói riêng chịu sự tác động bởi mưu đồ tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia; hoạt động xâm phạm chủ quyền của tàu thuyền nước ngoài đối với vùng biển nước ta, nhất là trên khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để thăm dò, đặt giàn khoan khai thác dầu khí, tài nguyên, thuỷ hải sản… gia tăng và diễn biến phức tạp. Tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật, các hiệp định, quy chế biên giới… tuy được kiềm chế nhưng còn tiềm ẩn nhiều phức tạp mới, nhất là tội phạm vận chuyển, buôn bán ma tuý, phụ nữ, trẻ em, tiền giả, chất nổ, khoáng sản, gian lận thương mại… Những vấn đề trên đặt ra cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nói chung, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã trên khu vực biên giới biển thuộc thành phố những yêu cầu mới.

Một sự kiện đáng chú ý trong thời gian này là ngày 01 tháng 5 năm 2014, Trung Quốc di chuyển giàn khoan Hải Dương 981 từ Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa tiến sâu vào thềm lục địa Việt Nam. Giàn khoan được hạ đặt sâu trong vùng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cách bờ biển Việt Nam 130 hải lý. Đi cùng với đó, Trung Quốc huy động hơn 100 tàu các loại tới khu vực này, cùng với sự yểm trợ của máy bay đã hung hãn đe dọa, đâm va, phun vòi rồng, gây hư hỏng nặng cho các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam.

Trước hành động ngang ngược trên của Trung Quốc, ngày 04 tháng 5 năm 2015, Việt Nam lên tiếng phản đối hoạt động phi pháp của giàn khoan Hải Dương 981. Việt Nam khẳng định có đầy đủ mọi bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

Page 428: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

428

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Thành ủy Đà Nẵng đã kịp thời chỉ đạo sát tình hình và thành lập Tổ giúp việc Ban Thường vụ Thành ủy, các quận ủy, huyện ủy để theo dõi, chỉ đạo có hiệu quả các vấn đề liên quan đến việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép vào vùng biển Việt Nam.

Ngày 08 tháng 7 năm 2014, tại kỳ họp thứ 10 Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng (khóa VIII) đã thông qua Nghị quyết phản đối Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981, xâm phạm chủ quyền quốc gia Việt Nam. Cùng với nhân dân cả nước, người dân Đà Nẵng yêu cầu Trung Quốc phải rút giàn khoan Hải Dương 981 cùng với tàu hộ tống ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Cũng trong dịp này, khi tiếp xúc cử tri, đa số nhân dân Đà Nẵng muốn đẩy nhanh tiến độ, mở rộng quy mô và diện tích Nhà trưng bày Hoàng Sa để nhân dân và du khách trong và ngoài nước có điều kiện tham quan, chứng kiến những hiện vật, bằng chứng lên án hành vi sai trái của nhà cầm quyền Trung Quốc, đẩy mạnh tuyên truyền để phát huy lòng yêu nước bằng những việc làm thiết thực trên cơ sở pháp luật.

Ngày 12 tháng 5 năm 2014, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị, Hội Khoa học Lịch sử và Hội Nghề cá thành phố ra tuyên bố nêu rõ: “Trong những ngày gần đây, nhân dân Đà Nẵng vô cùng phẫn nộ việc Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan Hải Dương 981 cùng hơn 80 tàu vũ trang, tàu quân sự và máy bay hộ tống đi vào vùng biển Việt Nam và đã hạ đặt giàn khoan này vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam… Chúng tôi yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hành động xâm phạm chủ quyền, rút ngay giàn khoan Hải Dương 981 và các tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Chúng tôi kêu gọi dư luận yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, kêu gọi các tổ chức, cá nhân và bạn bè quốc tế, đặc biệt là kêu gọi Hội hữu nghị Trung - Việt, các ngư dân, các nhà sử học và nhân dân Trung Quốc… hãy vì tình hữu nghị lâu đời giữa hai dân tộc, vì tương lai phát triển bền vững của hai đất nước, vì sự khách quan của lịch sử, hãy ủng hộ và cùng chúng tôi yêu cầu Trung Quốc phải rút ngay không điều kiện giàn khoan Hải Dương 981 và

Page 429: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

429

các tàu vũ trang, tàu quân sự khỏi vùng biển Việt Nam”. Cũng trong thời gian này, nhằm nâng cao tính pháp lý cũng như tuyên truyền trong nhân dân và bạn bè bốn phương về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, thành phố đã tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm để nêu rõ tính chính nghĩa của Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa.

Ngày 26 tháng 5 năm 2014, tàu đánh cá ĐNa 90152 do bà Huỳnh Thị Như Hoa, trú ở tổ 9, phường Xuân Hà, quận Thanh Khê làm chủ, cùng 10 thuyền viên đang đánh bắt hải sản tại vùng biển Hoàng Sa, bị tàu hải cảnh của Trung Quốc đâm chìm. Sự kiện này đã thổi bùng lên sự phẫn nộ của nhân dân Đà Nẵng nói riêng, cả nước nói chung về hành vi ngang ngược, vô nhân đạo của Trung Quốc đối với ngư dân Việt Nam, tại ngư trường truyền thống Hoàng Sa.

Dưới sức ép quyết liệt từ cộng đồng quốc tế, cùng với sự đấu tranh bằng phương pháp hòa bình theo công pháp quốc tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, sau 75 ngày hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 bên trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, Trung Quốc đã buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của mình và rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam.

Ngày 05 tháng 5 năm 2014, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã bổ nhiệm đồng chí Võ Công Chánh giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hoàng Sa thay đồng chí Đặng Công Ngữ nghỉ hưu theo chế độ. Sau đó, ngày 01 tháng 9 năm 2014, Ủy ban nhân dân thành phố đã ra quyết định xây dựng Nhà Trưng bày Hoàng Sa để lưu giữ, giới thiệu với công chúng các hình ảnh, hiện vật của quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, hiện do Trung Quốc chiếm giữ trái phép.

Xác định Đà Nẵng có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị và quân sự của miền Trung - Tây Nguyên và cả nước; có ngư trường đánh bắt rộng, trong đó có huyện đảo Hoàng Sa, Thành

Page 430: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

430

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

ủy ban hành Chỉ thị số 08-CT/TU ngày 27 tháng 6 năm 2011, về việc diễn tập ứng phó với sóng thần và tìm kiếm cứu nạn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng(1). Ngày 25 tháng 12 năm 2012, Thành ủy ban hành Chỉ thị số 23-CT/TU, “về tăng cường lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ biên phòng trong tình hình mới”. Trong đó, nhấn mạnh việc tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 15/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh các xã phường biên giới, hải đảo”; đẩy mạnh tuyên truyền vận động, hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt Luật Biên giới quốc gia, các hiệp định, quy chế biên giới và chủ trương phát triển kinh tế biển, đảo của Đảng và thành phố; nhân rộng các mô hình “Khu dân cư văn hóa biển”, “Tổ tàu thuyền an toàn”, “Cảng cá văn hoá”…

Công tác quốc phòng - an ninh được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân không ngừng được củng cố. Công tác giáo dục và phổ biến kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai sâu rộng trong cán bộ, đảng viên; ý thức trách nhiệm bảo vệ chủ quyền Tổ quốc nói chung, Biển Đông và huyện đảo Hoàng Sa nói riêng được nâng lên. Các tiềm lực trong khu vực phòng thủ, nhất là tiềm lực chính trị - tinh thần, thế trận lòng dân được chú trọng xây dựng. Hoàn thành quy hoạch và xây dựng các công trình quốc phòng, khu vực phòng thủ đảm bảo theo kế hoạch. Thực hiện chặt chẽ chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, nhất là trong xây dựng, thực hiện các quy hoạch, dự án đầu tư. Chỉ đạo diễn tập khu vực phòng thủ thành phố, quận, huyện; diễn tập chiến đấu trị an cấp phường, xã; diễn tập vận hành cơ chế đối với doanh nghiệp đạt kết quả tốt. Chỉ tiêu tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ đạt 100% với chất lượng tốt; xây dựng lực

(1) Ngày 8 tháng 10 năm 2011, tại bờ biển Sơn Trà diễn ra cuộc diễn tập sóng thần với hơn 3.000 người tham gia.

Page 431: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

431

lượng dân quân tự vệ đạt 1,5% so với dân số; thực hiện chặt chẽ công tác đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên và công tác hậu phương quân đội. Chăm lo đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, xây dựng lực lượng vững mạnh; nâng cao chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Lực lượng vũ trang thành phố, các đơn vị của Bộ Quốc phòng, Quân khu V đóng quân trên địa bàn phối hợp làm tốt công tác dân vận, xây dựng nông thôn mới, xây dựng thực lực chính trị, giữ vững ổn định từ cơ sở.

An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội cơ bản đảm bảo, không để bị động bất ngờ; triển khai phương án chủ động đối phó, xử lý đúng đắn, hiệu quả các tình huống kích động, gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững ổn định, bảo đảm môi trường đầu tư, các hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân, nhất là trong thời điểm Trung Quốc đưa trái phép giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì và triển khai sâu rộng, cùng với hoạt động tấn công, trấn áp các loại tội phạm đã góp phần kiềm chế các vụ trọng án(1). Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông có chuyển biến tích cực; không để xảy ra đua xe trái phép, ùn tắc giao thông kéo dài; ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông được nâng lên; tai nạn giao thông giảm trên cả 3 tiêu chí(2).

Ngày 19 tháng 7 năm 2011, Bộ Công an và lãnh đạo thành phố đã công bố Quyết định thành lập Sở Cảnh sát Phòng cháy và

(1) Giai đoạn 2010 - 2014, đã điều tra làm rõ 2.012 vụ vi phạm trật tự xã hội, đạt tỷ lệ 80,93%, bắt xử lý 3.304 đối tượng; phát hiện, xử lý 414 vụ/581 đối tượng phạm tội về ma túy; khởi tố 120 vụ/154 bị can vi phạm pháp luật về quản lý kinh tế và chức vụ.(2) Năm 2010: 730 vụ, 149 người chết, 592 người bị thương; năm 2011: 459 vụ, 131 người chết, 472 người bị thương; năm 2012: 263 vụ, 113 người chết, 247 người bị thương; năm 2013: 237 vụ, 130 người chết, 198 người bị thương; năm 2014: 161 vụ, 86 người chết, 149 người bị thương.

Page 432: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

432

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chữa cháy(1). Theo đó, sau khi được thành lập, Sở Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy thành phố nhanh chóng ổn định, đi vào hoạt động, góp phần ngăn chặn, hạn chế nguy cơ cháy, nổ, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và Nhà nước. Ngày 29 tháng 11 năm 2012, thành lập thêm Đội Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu hộ cứu nạn trên sông, để đáp ứng việc cứu nạn khi hoạt động trên sông Hàn ngày càng nhộn nhịp, cả du lịch và tàu thuyền của ngư dân nêu đậu.

Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân; chủ động ngăn ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Xây dựng lực lượng Quân sự, Công an, Biên phòng thành phố: Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, có khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với biển đảo, trong đó có huyện đảo Hoàng Sa.

Nhìn chung, từ năm 2010 đến năm 2015, trước tình hình thế giới, khu vực và trong nước diễn biến phức tạp, thành phố đã kịp thời điều chỉnh, đổi mới phương thức lãnh đạo, điều hành có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, sát với tình hình thực tiễn; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện, kịp thời giải quyết các vướng mắc; đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân; huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân và tranh thủ các nguồn lực để đầu tư phát triển thành phố. Thành phố tập trung thực hiện 5 đột phá về phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội XX đạt được một số kết quả khả quan, góp phần khẳng định đây là chủ trương đúng

(1) Sau Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương được thành lập Sở Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy.

Page 433: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

433

hướng và khả thi. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; chủ động phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm. Công tác xây dựng Đảng đạt nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống chính trị được củng cố và hoạt động ngày càng hiệu quả. Sự cố gắng của cả hệ thống chính trị đã làm cho đời sống nhân dân không ngừng tăng lên, mối quan hệ giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị với nhân dân ngày càng được củng cố, đó là: “Đảng nói - dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động - dân hưởng ứng; Chính quyền làm - dân ủng hộ”... Có thể nói, với 5 hướng đột phá chiến lược và thực thi có hiệu quả Chương trình thành phố “5 không”, “3 có” trong thời gian này, đã thúc đẩy sự phát triển về văn hóa, văn minh đô thị theo hướng xây dựng thành phố Đà Nẵng “an toàn”, “đáng sống”, làm cơ sở tạo nên những giá trị riêng phù hợp với bản sắc và văn hóa người Đà Nẵng.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế. Việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, nhất là việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa đạt kết quả như mong muốn. Công tác chính trị tư tưởng có lúc, có nơi còn bị động, chưa kịp thời định hướng dư luận trước những vấn đề xã hội quan tâm. Công tác đấu tranh phòng, chống diễn biến hòa bình, phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chưa đáp ứng yêu cầu và thực tiễn đặt ra. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp được nâng lên, nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm cũng như công tác cải cách tư pháp còn hạn chế, chưa đồng bộ; trình độ, năng lực một bộ phận cán bộ tư pháp chưa đáp ứng kịp yêu cầu của nhiệm vụ. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn

Page 434: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

434

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thể chính trị - xã hội chưa đồng bộ; nội dung, phương thức hoạt động tuy có đổi mới nhưng có mặt còn hạn chế. Công tác tập hợp quần chúng chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa phát huy tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.

Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: Chấp hành Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30 tháng 5 năm 2014 của Bộ Chính trị về “Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”, từ ngày 14 đến 17 tháng 10 năm 2015, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015-2020 được tổ chức, với sự tham dự của 350 đại biểu đại diện cho hơn 5 vạn đảng viên toàn Đảng bộ thành phố(1). Đến dự và chỉ đạo Đại hội có Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và các đồng chí lãnh đạo bộ, ban, ngành Trung ương.

Với tinh thần khách quan, trung thực, Đại hội đã nghiêm túc thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố (khóa XX) và Báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp vào dự thảo văn kiện trình Đại hội lần thứ XII của Đảng. Đại hội đã đánh giá toàn diện những thành tựu đạt được, chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của những ưu, khuyết điểm và rút ra ba bài học kinh nghiệm lớn, sâu sắc, có tính chất đúc kết thực tiễn trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX, đó là: “Lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận và vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, xác định nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá để lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành”.

Đại hội xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2020 là: Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định chính

(1) Đại hội đã dành phút mặc niệm Nguyên Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh đã qua đời trong thời gian còn đang công tác, để tỏ lòng thương tiếc và biết ơn đồng chí - Người đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua.

Page 435: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

435

trị, phát huy dân chủ và sức mạnh đồng thuận, huy động mọi nguồn lực xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội, động lực phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh của cả nước; phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại.

Đại hội đề ra các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020, như: Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GRDP) tăng bình quân 8-9%/năm. GRDP bình quân đầu người ước đạt 4.000-4.500 USD. Cơ cấu GRDP: Dịch vụ 63-65%; Công nghiệp - Xây dựng 35-37% và Nông nghiệp 1-2%. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 9,5-10,5%/năm. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 10-11%/năm. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng bình quân 2-3%/năm. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng bình quân 15-16%/năm. Tổng thu ngân sách Nhà nước tăng bình quân 5-8%/năm; tổng chi ngân sách Nhà nước tăng bình quân 2-3%/năm. Tổng vốn đầu tư phát triển tăng bình quân 9-10%/năm. Giảm tỷ suất sinh 0,1‰/năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 50-55%; tỷ lệ tạo việc làm tăng thêm bình quân 4-5%/năm. Hoàn thành Đề án giảm nghèo của thành phố giai đoạn 2016-2020(1). Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch 95-100%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn đạt 95-98%. Hằng năm, phát triển trên 2.000 đảng viên mới, không có tổ chức cơ sở Đảng yếu kém.

Đặc biệt, Đại hội đã thống nhất thực hiện “ba đột phá về phát triển kinh tế - xã hội” trong nhiệm kỳ 2015-2020: Một là, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, thương mại; tập trung thu hút đầu tư vào công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin. Hai là, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và có trọng điểm; xây dựng và phát triển văn hóa, văn minh

(1) Thành thị: 1.300.000 đồng/người/tháng; nông thôn: 1.100.000 đồng/người/tháng.

Page 436: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

436

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

đô thị, xây dựng thành phố môi trường. Ba là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Để thực hiện thành công có mục tiêu và ba đột phá về phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội đã đề ra 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao quy mô, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quy hoạch và quản lý đô thị; tiếp tục đầu tư phát triển nhanh, đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng văn minh, hiện đại, có môi trường sống tốt. Thực hiện linh hoạt, đồng bộ cơ chế, chính sách; tăng cường thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội; tập trung xây dựng văn hóa, văn minh đô thị, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân. Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, xây dựng thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới. Xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đẩy mạnh cải cách tư pháp, thanh tra, phòng, chống tham nhũng. Phát huy dân chủ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố (khóa XXI) gồm 52 đồng chí. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành đã bầu Ban Thường vụ Thành ủy gồm 15 đồng chí, bầu Bí thư, các Phó Bí thư Thành ủy, Ủy ban kiểm tra và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy; bầu 17 đại biểu chính thức và 1 đại biểu dự khuyết tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Đồng chí Nguyễn Xuân Anh, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành

Page 437: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

437

Trung ương Đảng được bầu làm Bí thư Thành ủy(1); các đồng chí Võ Công Trí, Huỳnh Đức Thơ được bầu làm Phó Bí thư Thành ủy; bầu vào Uỷ ban Kiểm tra Thành uỷ gồm 11 đồng chí do đồng chí Lương Nguyệt Thu - Uỷ viên Ban Thường vụ (khoá XXI) làm Chủ nhiệm.

Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XXI đánh dấu một chặng đường phát triển mới sau gần 20 năm thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương với những thành tựu to lớn, vượt bậc. Đại hội có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận định, đúc kết các bài học không những trong nhiệm kỳ 2010-2015 mà cho cả giai đoạn từ khi thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương để tìm ra một hướng đi có trọng tâm, phát huy được lợi thế so sánh cũng như phát triển theo hướng bền vững. Kết quả Đại hội đã thể hiện rõ ý chí, quyết tâm và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ hội nhập khu vực và quốc tế một cách sâu sắc hơn.

Đây là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu chặng đường phát triển mới của Đà Nẵng, đánh dấu sự dịch chuyển từ chủ trương xây dựng Đà Nẵng thành “Thành phố có môi trường sống tốt”, sang mục tiêu “giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại”. Để thực hiện được khát vọng này, Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng phải không ngừng huy động các nguồn lực, kể cả nguồn lực của truyền thống, văn hóa và rèn luyện, phấn đấu để đạt được mục tiêu đã đề ra. Đúng như lời phát biểu bế mạc Đại hội của tân Bí thư Thành ủy - Nguyễn Xuân Anh, vào ngày 16 tháng 10 năm 2015, rằng: “Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã qua, chúng ta tự hào về thành phố Đà Nẵng “trung dũng, kiên cường” trong chiến đấu; sáng tạo và đột phá trong xây dựng. Thế hệ cha anh đã vượt qua biết bao gian lao, thử thách để phát triển thành phố chúng ta như hôm nay. Nhìn về

(1) Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng vào tháng 01 năm 2016, đồng chí Nguyễn Xuân Anh được bầu làm Uỷ viên Trung ương Đảng (chính thức).

Page 438: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

438

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

tương lai phía trước, thành phố chúng ta có nhiều thời cơ, thuận lợi song cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Mục tiêu “xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước”, một thành phố thực sự đảm bảo các giá trị và tiêu chí của một đô thị văn minh, hiện đại không phải là mục tiêu quá xa vời song không phải dễ dàng đạt được. Điều đó đòi hỏi chúng ta, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở mỗi cấp, mỗi ngành phải năng động, sáng tạo, đổi mới, xây dựng phong cách nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, nêu cao tinh thần đoàn kết, ý thức trách nhiệm, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của cấp mình, ngành mình, cá nhân mình với hiệu quả cao nhất”(1).

* **

Trong giai đoạn 2010-2015, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn, tiếp tục tổ chức thực hiện nghiêm túc, năng động, sáng tạo Nghị quyết số 33-NQ/TW, Kết luận số 75-KL/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội lần thứ XX Đảng bộ thành phố, nhất là tập trung thực hiện năm đột phá về phát triển kinh tế - xã hội đạt những kết quả quan trọng.

Trong giai đoạn này, kinh tế thành phố Đà Nẵng phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các thành phần kinh tế phát triển tích cực, công tác quy hoạch, quản lý đô thị, kết cấu hạ tầng phát triển nhanh, đồng bộ và hiện đại, văn hóa - xã hội có bước phát triển khá, các chính sách an sinh xã hội, nhất là chương trình “5 không”, “3 có” tiếp tục đạt kết quả tích cực; thành phố đã cụ thể hoá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội hằng năm bằng cách đề ra nhiệm vụ trọng tâm theo chủ đề để tập trung thực hiện như: “Năm giải tỏa đền bù, tái định cư và

(1) Diễn văn bế mạc của đồng chí Nguyễn Xuân Anh, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy (khóa XXI), trình bày tại Đại hội Đại biểu lần thứ XXI Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, ngày 16 tháng 10 năm 2015.

Page 439: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

439

an sinh xã hội”, “năm doanh nghiệp”, năm văn hoá, văn minh đô thị”… Những thành quả đó, là biểu hiện sinh động, rõ nét nhất của sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sáng tạo và đặc biệt là sự đoàn kết nhất trí cao, trên dưới một lòng trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận sâu rộng trong toàn xã hội vì sự phát triển của thành phố, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Thành quả ấy được thể hiện qua bộ mặt đô thị ngày càng khang trang hơn, sạch đẹp hơn, những cây cầu, những con đường rộng mở, là những ngôi trường, bệnh viện, những công trình phúc lợi vì cộng đồng, là những khu đô thị, trung tâm thương mại, dịch vụ mới văn minh, hiện đại mọc lên, là những chính sách an sinh xã hội giàu tính nhân văn, phù hợp với ý Đảng lòng dân tại thành phố thân yêu này.

Page 440: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 441: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

441

KẾT LUẬN

Ngay sau ngày giải phóng quê hương, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Đà Nẵng đã nhanh chóng bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây

dựng quê hương trong thời kỳ mới.Chặng đường 40 năm qua là cả một quá trình nỗ lực, phấn

đấu không mệt mỏi trên tinh thần tiến công cách mạng, không ngừng đổi mới để xây dựng thành phố Đà Nẵng ngày một giàu đẹp, văn minh hơn. Đó cũng là quá trình trưởng thành, đúc rút nhiều kinh nghiệm quý báu trong công tác tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ mới.

Thành tựu đạt được trong 40 năm qua, ghi dấu một chặng đường xây dựng Đà Nẵng từ một thành phố nghèo nàn, chỉ phục vụ chiến tranh, với sự đồng tâm, hiệp lực, ý Đảng lòng dân,... “Đảng nói - dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động - dân hưởng ứng; Chính quyền làm - dân ủng hộ” để có được một thành phố Đà Nẵng hôm nay - một đô thị loại I trực thuộc Trung ương, là một trong những địa phương đi đầu cả nước trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đáng nói hơn là, Đà Nẵng đã có những thay đổi mang tính đột phá, toàn diện song vẫn giữ được những truyền thống tốt đẹp, những nét văn hóa đặc thù, làm rạng danh thêm truyền thống yêu quê hương, đất nước, dám hy sinh vì khát vọng xây dựng quê hương “ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo như di huấn của Bác Hồ.

Page 442: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

442

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Lịch sử thành phố Đà Nẵng 40 năm qua là một bộ phận không thể tách rời của lịch sử dân tộc, những chặng đường đấu tranh và xây dựng trong thời kỳ mới đó không kém phần gian nan, khổ cực, nó gắn liền với những thời điểm lịch sử quan trọng của đất nước, của quê hương qua từng giai đoạn cụ thể.

Thời kỳ từ 1975 đến 1996, là thời kỳ thành phố Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Trong thời kỳ này có 4 giai đoạn nhỏ. Giai đoạn đầu, từ 1975 đến tháng 12 năm 1979, là khoảng thời gian ngắn ngủi sau chiến tranh của Đà Nẵng. Đà Nẵng là thành phố, căn cứ quân sự lớn thứ hai ở miền Nam sau Sài Gòn nên tình hình sau chiến tranh có nhiều phức tạp. Trong chiến tranh, Đà Nẵng là thành phố tiêu thụ, có nền công nghiệp nhỏ bé, què quặt, chủ yếu làm dịch vụ cho bộ máy quân sự khổng lồ của Mỹ - ngụy, với nền kinh tế, văn hóa “phồn vinh giả tạo” và dựa vào viện trợ của Mỹ; xã hội có nhiều thành phần, một số có ý đồ phục thù giai cấp; huyện Hòa Vang có 2/3 dân số mù chữ, bệnh dịch hoành hành; một số nhóm tàn binh vẫn ngoan cố tìm cách chống phá. Thời gian đó, đội ngũ cán bộ từ thời chiến chuyển sang thời bình, nên trong công tác quản lý có những hạn chế nhất định. Bên cạnh đó, một số cán bộ được phân công làm nhiệm vụ cấp thiết là chi viện cho chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam với khẩu hiệu: “Sài Gòn chưa giải phóng, Đà Nẵng chưa yên” nên nguồn lực cán bộ trong hệ thống chính trị của thành phố sau chiến tranh càng khó khăn hơn. Những yếu tố đó đã làm cho tình hình thành phố sau giải phóng gặp rất nhiều khó khăn, thử thách.

Trong bối cảnh đó, với chủ trương “Đoàn kết toàn dân, hòa hợp dân tộc”, Đảng bộ Đà Nẵng đã xác định những nhiệm vụ cấp bách trước mắt là: thực hiện tốt nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng và củng cố mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội; củng cố, xây dựng Đảng, chính quyền đã bước đầu đáp ứng yêu cầu trong hoàn cảnh mới. Các quận (I, II, III) của Đà Nẵng, huyện Hòa Vang đã tiến hành tổ chức Đại hội đảng bộ để kiện

Page 443: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

443

toàn tổ chức và hoàn thành tốt đẹp trong tháng 10 năm 1976. Đặc biệt, trên cơ sở củng cố tổ chức Đảng, thành phố Đà Nẵng được thành lập là đơn vị hành chính cấp thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (tháng 8 năm 1977), đánh dấu một bước quan trọng trong sự phát triển của thành phố. Tuy nhiên trong giai đoạn này, các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu chống phá, xâm chiếm nước ta. Trong hoàn cảnh đó, Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng vẫn giữ vững được quốc phòng - an ninh, đảm bảo được yêu cầu hỗ trợ sức người, sức của cho hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc của các thế lực phản động.

Giai đoạn thứ hai, từ 1979 đến 1985, Đảng bộ và nhân dân toàn thành phố Đà Nẵng đã tiếp tục thực hiện thành công nhiệm vụ cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Tình hình các ngành kinh tế không ngừng phát triển, sản lượng tăng qua các năm, an ninh chính trị vẫn được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, do phát triển trong tình hình đất nước có chiến tranh nên Đảng bộ chưa có điều kiện lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành thành phố công nghiệp, thành phố cảng, có vị trí là trung tâm kinh tế, văn hóa và chính trị như Nghị quyết trong hai kỳ Đại hội XII và XIII của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã đề ra.

Giai đoạn thứ ba, từ 1986 đến 1991, những năm đầu thực hiện đường lối Đổi Mới do Đảng khởi xướng, Đảng bộ đã kịp thời lãnh đạo thực hiện quá trình Đổi Mới, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước thực trạng tình hình kinh tế lúc bấy giờ và để giải quyết những khó khăn trước mắt, toàn Đảng và các cấp chính quyền tập trung xây dựng và thực hiện “3 chương trình kinh tế lớn” (gồm lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu) theo sự

Page 444: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

444

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

chỉ đạo của Trung ương. Đảng bộ và nhân dân thành phố đã ra sức thực hiện thắng lợi, từ ngành công, nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu lương thực tiêu dùng trong nước và bước đầu cho xuất khẩu. Dù có những lĩnh vực còn chưa đạt được như kế hoạch đề ra nhưng về cơ bản thành phố Đà Nẵng đã tìm cho mình một lối đi riêng, đặt nền móng cho việc lãnh đạo thành phố đề xuất Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng và Trung ương, xin được tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương hoặc một đặc khu, để có cơ chế riêng nhằm tranh thủ tốt hơn nguồn lực từ bên ngoài, phát huy mạnh hơn nữa tiềm năng vốn có của mình cả về tài nguyên thiên nhiên, con người. Bên cạnh đó, để đáp ứng với sự chuyển đổi theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể được thành phố quan tâm củng cố, bồi dưỡng về tư tưởng, nghiệp vụ để đảm đương được nhiệm vụ trong tình hình mới và có những chuyển biến tích cực.

Giai đoạn thứ tư, từ 1991 đến 1996, tình hình thế giới có những chuyển biến phức tạp. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm đánh bại phe xã hội chủ nghĩa, đã tác động không nhỏ đến tư tưởng một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, tác động xấu đến kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, với những thành tựu của những năm đầu Đổi Mới, cùng với sự kiên trì lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Đảng bộ và nhân dân thành phố đã thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, trong tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp. Cơ bản cùng cả nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Các vấn đề văn hóa - xã hội được quan tâm giải quyết, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, quốc phòng an ninh tiếp tục được giữ vững. Đó là cơ sở để Đảng bộ thành phố Đà Nẵng và huyện Hòa Vang sáp nhập thành thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương vào ngày 01 tháng 01 năm 1997, theo chủ trương của Bộ Chính trị và phê chuẩn của Quốc hội (khóa IX) vào tháng 11 năm 1996.

Page 445: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

445

Có thể nói, từ năm 1975 đến hết 1996, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những bước thăng trầm, gian khó trong bối cảnh chung cả nước vừa thoát ra khỏi chiến tranh lại đối mặt ngay với nhiệm vụ xây dựng đất nước trong tình hình đất nước có chiến tranh ở hai đầu biên giới và bị Mỹ cấm vận kinh tế. Đây cũng là giai đoạn “tìm hướng đi” và đặt nền móng cho việc Trung ương Đảng quyết định tách Đà Nẵng thành một đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương sau này.

Từ đầu năm 1997 đến năm 2015, là thời kỳ Đà Nẵng phát triển với vị thế mới của một thành phố trực thuộc Trung ương. Thực tế đã cho thấy, chủ trương chia tách Đà Nẵng của Bộ Chính trị là kịp thời và đúng đắn. Bởi từ vị trí địa chính trị của mình, cùng với thành quả đạt được sau gần 20 năm là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, Đà Nẵng đã dần xác lập được cho mình là một thành phố động lực của miền Trung và Tây Nguyên. Thành phố không ngừng phát triển nhanh, tăng trưởng mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện. Đặc biệt, thành phố đã nhận được sự quan tâm của Trung ương, khi Bộ Chính trị về làm việc với Thành ủy Đà Nẵng và ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW “Về phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Đây là một Nghị quyết có tầm quan trọng và ý nghĩa hàng đầu trong quá trình thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đà Nẵng suốt những giai đoạn sau đó trên tất cả các lĩnh vực, phát huy vai trò trung tâm của khu vực và đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển của đất nước. Đồng thời, Đà Nẵng đã chủ động, nhạy bén, chọn những khâu đột phá dựa trên tiềm năng và thế mạnh của mình, để phát triển theo hướng nhanh và bền vững; chú trọng quan điểm phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa - xã hội một cách hài hòa, bền vững, hướng đến con người, vì con người, với mục tiêu xây dựng Đà Nẵng trở thành thành phố văn hóa, thành phố của những cây cầu, thành phố sự kiện, thành phố du lịch, thành phố

Page 446: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

446

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

môi trường, thành phố của sự hội tụ, là thành phố đáng sống, thành phố an bình... Đây là những nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển Đà Nẵng, thể hiện tính chủ động, sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân thành phố.

Trong thời kỳ này, có thể chia làm 4 giai đoạn phát triển cho Đà Nẵng.

Từ năm 1997 đến năm 2000, đây là giai đoạn có tính “bản lề” của Đà Nẵng, sau khi trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Giai đoạn này đã tạo được những điều kiện ban đầu cho sự phát triển của Đà Nẵng, chứng tỏ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về việc xác lập cho Đà Nẵng vị trí một đô thị loại I trực thuộc Trung ương và đặt nền móng cho một thành phố động lực của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Trong 4 năm ngắn ngủi ấy, Đảng bộ Đà Nẵng đã xây dựng được khối đoàn kết toàn dân, trước hết từ trong cấp ủy, chính quyền các cấp; hoạch định ra các chủ trương, chính sách đúng đắn và phù hợp; khơi dậy, phát huy được sức mạnh to lớn của các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội nhằm đưa phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ, đều khắp, để thực hiện những nhiệm vụ đề ra.

Từ năm 2001 đến năm 2005, trên cơ sở vận dụng linh hoạt Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, Thành ủy Đà Nẵng đã đề ra mục tiêu phát triển thành phố Đà Nẵng theo hướng “giàu mạnh, văn minh”, được sự hỗ trợ, cổ vũ mạnh mẽ từ Trung ương Đảng, Bộ Chính trị bằng Nghị quyết số 33-NQ/TW “Về xây dựng và phát triển Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã tạo nhiều thuận lợi cho Đà Nẵng phát triển mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Đặc biệt, giai đoạn này, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng tập trung đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị với chủ trương “tạo vốn từ quỹ đất để xây dựng cơ sở hạ tầng” để phát triển, đã tạo ra sự thay đổi bộ mặt của thành phố cả chiều rộng và chiều cao.

Từ năm 2005 đến năm 2010, điểm nổi bật của thành phố là tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, xây dựng kết cấu hạ tầng,

Page 447: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

447

chỉnh trang đô thị tạo được dấu ấn rõ nét. Kinh tế thành phố tăng trưởng cao và chuyển dịch theo hướng “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp”. Bước đầu định hình được một số ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao, làm động lực phát triển cho cả khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Đi cùng với những chuyển biến về kinh tế, các chính sách an sinh xã hội ngày càng được đảm bảo, phù hợp với phát triển kinh tế và vị thế mới của thành phố, nhất là các chương trình lớn, tạo được sự ủng hộ, lòng tin của nhân dân và có tiếng vang lớn trong cả nước như: Chương trình thành phố “5 không” và “3 có”; chính sách thu hút nhân tài và xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; giải quyết việc làm, giảm nghèo, chăm lo các đối tượng chính sách được chú trọng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Từ năm 2010 đến năm 2015, là giai đoạn thành phố tiếp tục vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị trong việc đưa ra các chủ trương cụ thể, dựa trên lợi thế so sánh trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện hơn. Theo đó, thành phố đã tập trung thực hiện các khâu đột phá kinh tế - xã hội, thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm theo từng vấn đề và theo chủ điểm từng năm, đồng thời nhấn mạnh yếu tố phát triển bền vững. Do vậy, thành phố đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, nhất là ngành kinh tế du lịch - dịch vụ, kinh tế biển, kết hợp với việc giải quyết tốt an sinh xã hội. Thành phố chú trọng đến việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, giải quyết tốt các vấn đề an ninh trật tự, an toàn xã hội, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân; khẳng định và xây dựng thương hiệu của một thành phố đi đầu trong công tác cải cách hành chính, thành phố môi trường, con người thân thiện, an bình và sống tốt.

Để có được những thành tựu đó, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng xác định sự phát triển tự thân là yếu tố quyết định, trên cơ sở được hỗ trợ một cách mạnh mẽ của Trung ương, các bộ,

Page 448: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

448

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

ngành và đầu tư bên ngoài. Trong khoảng thời gian đó, Đà Nẵng đã đề ra những chủ trương quan trọng trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại, tạo hành lang pháp lý, thủ tục đầu tư tinh giản, thông thoáng, minh bạch; đảm bảo tốt an ninh, trật tự an toàn xã hội; có chính sách thỏa đáng về đào tạo nguồn nhân lực, cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ hội nhập… Nhờ vậy, trong một thời gian ngắn, Đà Nẵng đã tạo cho mình một diện mạo mới, là một thành phố năng động, an toàn, văn minh, có sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư, tranh thủ tốt hơn nguồn lực từ bên ngoài, tạo được nhiều thiện cảm của du khách trong nước và bạn bè quốc tế. Những thành tựu đạt được là cơ sở ban đầu để Đảng bộ đề ra mục tiêu xây dựng Đà Nẵng trở thành “thành phố đáng sống” của cả nước.

Trong chặng đường 40 năm thực hiện nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc Đổi Mới của Đảng, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng bộ thành phố có thể rút ra bốn bài học kinh nghiệm sau:

1. Quán triệt, vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng vào hoàn cảnh của địa phương nhằm đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để phát triển trên tất cả các lĩnh vực.

Từ khi Đảng ra đời và thực hiện sứ mệnh lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, cũng là lúc trí tuệ Việt Nam được thể hiện rõ nét trong chuỗi mắt xích của lịch sử dân tộc. Chủ trương, chính sách của Đảng là sản phẩm của trí tuệ toàn Đảng, toàn dân trong điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trí tuệ của Đảng, của Hồ Chí Minh được đặt trên nền tảng văn hóa Việt Nam trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin. Những đường lối, chủ trương đó được thể hiện trong các Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng nhằm xây dựng và bảo vệ đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, Nhà nước đề ra chính sách để thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và trở thành lẽ sống, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Tuy nhiên, đường lối của Đảng được xây

Page 449: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

449

dựng trên thực tiễn chung của cả nước, mang tính chiến lược quốc gia nên Đảng bộ các cấp muốn thực hiện tốt chủ trương đó, phải luôn quán triệt và vận dụng, cụ thể hóa trên điều kiện thực tế của địa phương mình. Đây là một bài học xuyên suốt trong lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo và cũng là bài học chung của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và Đảng bộ thành phố Đà Nẵng sau này.

Từ sau năm 1975, khi quê hương vừa được giải phóng, thực hiện đường lối hòa hợp dân tộc, khoan dung độ lượng đối với binh lính và những người cộng tác với chế độ cũ, Đảng bộ thành phố đã thực hiện một cách linh hoạt và nhạy bén chủ trương đoàn kết dân tộc để xây dựng cuộc đời mới, không hề có một vụ “trả thù, tắm máu” nào như kẻ địch rêu rao. Nhờ vậy, Đà Nẵng đã nhanh chóng ổn định tình hình, làm vô hiệu hóa hơn 15 vạn quân địch, cùng nhiều thành phần xã hội phức tạp khác; đã tiếp thu, đưa vào sử dụng hầu như nguyên vẹn các nhà máy, xí nghiệp, công thự… của chế độ cũ để lại. Đảng bộ đã quán triệt đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân chính sách hòa hợp dân tộc của Đảng và có nhiều biện pháp đặc thù để thực hiện, tạo điều kiện cho thành phố nhanh chóng ổn định tình hình, bắt tay ngay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, củng cố chính quyền nhân dân. Cũng trong thời gian này, công tác cải tạo được thực hiện một cách sáng tạo, thoả đáng, giảm được những hậu quả không đáng có do sự duy ý chí, giáo điều từ miền Bắc mang vào, nhất là trong cải tạo tư sản, tư doanh… Sự sáng tạo này mang đậm dấu ấn của các đồng chí lãnh đạo như Hồ Nghinh, Phạm Đức Nam… cũng như một thế hệ cán bộ bước ra từ chiến tranh, từng trải nghiệm đời sống khắc nghiệt. Nếu đồng chí Hồ Nghinh trong công tác cải tạo tư sản, công thương nghiệp không xử lý linh hoạt mà “răm rắp” theo Trung ương thì sẽ gây thêm sự xa cách về giai tầng xã hội, nhất là những người chúng ta gọi là “nhà tư sản” tại Đà Nẵng, mà trên thực tế họ ít nhiều có sự đóng góp cho cách mạng.

Page 450: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

450

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Trong thời kỳ xây dựng quê hương trong cơ chế quan liêu, bao cấp; Đảng bộ Đà Nẵng đã thể hiện tinh thần chủ động của mình qua các chủ trương lớn như: Xây dựng các “công ty hợp doanh” theo mô hình nhà nước và nhân dân cùng làm, thực hiện “Cải tiến công tác khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”, giao đất giao rừng và tổ chức theo hướng nông lâm kết hợp và khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình. Thực hiện đường lối Đổi Mới của Đảng, Đảng bộ đã thực hiện 3 chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; coi trọng hàng xuất khẩu dựa trên thế mạnh vốn có của mình. Trong phong trào thi đua, các ngành có những sáng kiến thiết thực. Các trường học tổ chức các cụm sinh hoạt chuyên môn, xây dựng mô hình “Xưởng - Trường - Phường”, phát động phong trào thi đua “Hai giỏi”, phong trào xây dựng “Gia đình 5 tốt”, “Người con hiếu thảo” được tổ chức là một ví dụ tiêu biểu. Thành phố đã giải quyết tốt sự hài hòa giữa chuyển dịch nhanh quan hệ giữa các mục tiêu cụ thể với mục đích chủ yếu trong suốt quá trình phát triển. Đó là sự nắm vững những điều kiện của địa phương, kết hợp hài hòa và sáng tạo để phát triển, trong mục tiêu chung mà Đảng đã vạch ra.

Đặc biệt, khi Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, bài học này càng được phát huy hơn nữa. Trước hết là bài học về cơ chế, chính sách phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể và cuộc sống của nhân dân, có ý nghĩa “sống là để phát triển đi lên”. Do vậy, trong chỉ đạo, điều hành Đảng bộ Đà Nẵng thường xuyên quan tâm, xem xét cơ chế, chính sách do mình vạch ra đã thực sự phù hợp, để từ đó không ngừng bổ khuyết, vạch ra những chủ trương mới cho phù hợp với thực tiễn và trình độ phát triển của địa phương và mạnh dạn đề xuất với Trung ương để có sự thay đổi cần thiết hoặc cho chủ trương để thực hiện. Tiếp theo là bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng Đà Nẵng phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng, chiều cao lẫn chiều sâu. Chủ trương của Trung ương là làm sao để thành phố

Page 451: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

451

xứng vai trò là trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội của khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Để thực hiện được vai trò đó, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân thành phố phải sáng tạo trong cách nghĩ và cách làm. Thể hiện rõ nhất là việc đã chọn được hướng đi đúng, đề ra được những mục tiêu đúng, có những cách làm phù hợp, sáng tạo, hiệu quả mang lại những đột phá. Đảng bộ thành phố đã xác định rõ mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành một đô thị lớn, một trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội quan trọng của miền Trung và cả nước, cùng với các khu kinh tế lân cận có vai trò là động lực phát triển cho vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời là một địa bàn chiến lược về quốc phòng - an ninh của cả nước. Xây dựng Đà Nẵng thành một thành phố vừa giàu đẹp, hiện đại, văn minh, nhân văn, một thành phố kinh tế và văn hóa, một thành phố môi trường, trong đó có cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, công nghiệp chủ yếu hướng vào công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến có hàm lượng chất xám cao, không làm hại môi trường và xác định rõ kinh tế biển sẽ là chủ đạo. Đà Nẵng sẽ là đầu mối giao thông lớn, là một lối ra biển chính của miền Trung - Tây Nguyên và hành lang kinh tế Đông - Tây. Đó là một lựa chọn phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện lợi thế của Đà Nẵng, cũng phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa của thế giới bên ngoài. Nhờ chọn mục tiêu đúng, nên Đà Nẵng đã có nhiều mục tiêu đột phá, thể hiện rõ nét qua việc quy hoạch tổng thể thành phố, bắt đầu từ chỉnh trang đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, với những cây cầu đẹp mang “thương hiệu Đà Nẵng”, nhất là các chủ trương giàu tính nhân văn như các chương trình “thành phố 5 không” và “thành phố 3 có”.

Có thể khẳng định rằng, chặng đường lịch sử thành phố trong 40 năm qua, công tác “cải tạo và xây dựng” được thực hiện một cách xuyên suốt; hai chủ thể này có lúc độc lập, có lúc đan xen, hoà quyện nhau. Nếu như thời kỳ 1975-1996, Đảng bộ

Page 452: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

452

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

chú trọng việc cải tạo sau chiến tranh, trong đó chú ý đến việc sử dụng người và các nguồn lực của chế độ cũ còn lại sau chiến tranh thì trong thời kỳ đẩy mạnh thực hiện công cuộc Đổi Mới của Đảng 1997-2015, Đảng bộ nhấn mạnh đến sự hòa hợp dân tộc và tính nhân văn trong xây dựng và phát triển xã hội, thể hiện rõ ở các chủ trương thu hút người tài, kêu gọi bà con Việt kiều hồi hương đầu tư làm ăn... Nhiều chủ trương lớn như “5 không”, “3 có”, các cuộc đối thoại giữa lãnh đạo thành phố với những ông chồng bạo lực gia đình, xe ôm, trẻ em hư… xét cho cùng chính là cải tạo xã hội - một sự vận dụng sáng tạo mối quan hệ giữa cải tạo và xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Phát huy truyền thống yêu quê hương của các tầng lớp nhân dân và tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, tạo sự đồng thuận xã hội đối với sự nghiệp chung.

Đường lối phát triển của thành phố được thể hiện trong Nghị quyết, Báo cáo chính trị của các kỳ đại hội Đảng bộ. Đường lối đó dựa trên cơ sở thực tiễn tình hình mọi mặt của thành phố trong nhiệm kỳ trước, đó là nhiệm vụ chính trị, mục tiêu phấn đấu, ý chí, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sau khi có chủ trương, đường lối đúng, việc tổ chức triển khai thực hiện là yếu tố quyết định - đây chính là điểm nổi bật của thành phố, nhất là trong thời kỳ trực thuộc Trung ương. Trong nhiều trường hợp, việc tổ chức thực hiện phải có phương pháp đúng, quyết liệt, cụ thể, sát người, sát việc nhưng không nôn nóng, phải có thời gian, kiên trì, bền bỉ và quyết tâm cao trong vận động, tổ chức, thuyết phục để cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức và đồng thuận với chủ trương, nghị quyết.

Thực tiễn hoạt động của Đảng bộ trong suốt chặng đường qua cho thấy, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng có vai trò quyết định, phải coi trọng vai trò tập thể, nhưng quan trọng hơn là phải phát huy vai trò người đứng đầu, đề cao trách nhiệm cá nhân. Phải luôn phát huy vai trò của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành, sự tiên phong, gương mẫu của từng cán bộ, đảng

Page 453: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

453

viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy. Trong giai đoạn thành phố Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, các đồng chí đứng đầu cấp ủy sẵn sàng nhận trách nhiệm khi để xảy ra sai sót, củng cố uy tín của Đảng đối với nhân dân. Đặc biệt, thể hiện cụ thể và rõ ràng nhất là sự phát triển của thành phố Đà Nẵng sau khi trực thuộc Trung ương mang đậm dấu ấn và vai trò của đồng chí Nguyễn Bá Thanh trong thời gian hơn 15 năm làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Bí thư Thành ủy (1997-2013). Người lãnh đạo phải chủ động tổ chức đối thoại trực tiếp với các tầng lớp nhân dân, nhất là các đối tượng yếu thế trong xã hội, tập trung giải quyết một cách tích cực những vấn đề bức xúc, những quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của người dân trong khi thực thi từng chủ trương cụ thể, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc ngay tại cơ sở. Để làm được điều đó, cần đổi mới phương pháp, phong cách lãnh đạo, điều hành theo hướng tập trung, sâu sát, kiên quyết, dứt điểm, phát huy thực sự tinh thần dân chủ đối với người dân, thực sự “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”; chủ trương phải đi đôi với kiểm tra giám sát, kiên trì thực hiện đến cùng những nhiệm vụ chính trị đã xác định.

Trong suốt 40 năm xây dựng và phát triển Đà Nẵng, bài học “được lòng dân” đóng vai trò quyết định cho sự đi lên của thành phố, là nền tảng cho mọi sự thành công của các chủ trương, chính sách do Đảng bộ và chính quyền Đà Nẵng vạch ra. Từ “cái được lớn nhất của Đà Nẵng chính là được lòng dân”, đã tạo ra sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của thành phố; chính sự đồng thuận đó, đã trở thành nguồn lực to lớn, là bệ phóng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển Đà Nẵng. Để xây dựng và củng cố sự đồng thuận xã hội, cả hệ thống chính trị luôn hướng về dân, gắn bó với dân, tôn trọng dân, học hỏi ở nhân dân và ngày càng có trách nhiệm với dân hơn. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng bộ thành phố là hướng vào dân, dựa vào dân để thực hiện, nên lúc thuận lợi cũng như

Page 454: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

454

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

khi khó khăn, lúc mưa thuận gió hòa cũng như khi thiên tai, dịch bệnh; lực lượng cán bộ, đảng viên phải luôn luôn mẫu mực, trong sáng, vì dân; lo cái lo của dân mà chương trình “5 không”, “3 có” đã thể hiện rõ tinh thần này.

Từ sự đồng thuận xã hội, thành phố đã khơi dậy tinh thần yêu quê hương, đất nước, phát huy hiệu quả mọi nguồn lực trong các tầng lớp nhân dân - cả vật chất và tinh thần, huy động sức mạnh tổng hợp của các thành phần xã hội, của cả hệ thống chính trị, vì mục tiêu phát triển thành phố. Hơn 100.000 hộ dân trong diện di dời giải tỏa để triển khai các dự án, xây dựng các công trình, không ít người phải chịu một phần thiệt thòi, nhưng hầu hết trong số họ đều đồng thuận với những chủ trương của thành phố. Từ đó cho thấy vai trò quan trọng của người dân trong quá trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa. Đó là việc di dời, giải tỏa, bố trí tái định cư, sắp xếp, điều chỉnh dân cư cho hợp lý, giãn dân khu vực nội thành ra ngoại vi thành phố nhằm làm giảm ùn tắc giao thông và giải quyết nhiều vấn đề dân sinh thiết thực, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân với cách làm sáng tạo và khoa học.

Vì vậy, đối với Đà Nẵng, việc biết duy trì, củng cố và phát huy sức mạnh to lớn từ sự đồng thuận xã hội là một bài học lớn, luôn mang tính thời sự trong sự nghiệp xây dựng, phát triển thành phố. Cốt lõi của bài học đó là: Phải có chủ trương, chính sách đúng, hợp lòng dân, vì lợi ích nhân dân thông qua khâu tổ chức thực hiện cụ thể, gắn với cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Xét cho cùng, sự “được lòng dân” và đồng thuận ấy chính là kết quả, là sự thành công của công tác dân vận. Công tác này không đơn thuần là của cơ quan dân vận, đó là công việc của cả hệ thống chính trị; mỗi cán bộ, đảng viên đều xem công tác dân vận là nhiệm vụ thường xuyên của mình song hành cùng nhiệm vụ chuyên môn. Các nhiệm vụ này thể hiện rõ nhất ở thái độ phục vụ nhân dân của cơ quan công quyền và của từng cán bộ, chiến sĩ, công chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ. Và khi ấy mới có đáp số “Đảng nói - dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động

Page 455: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

455

- dân hưởng ứng; Chính quyền làm - dân ủng hộ”. Bên cạnh đó, việc phát huy truyền thống yêu nước, yêu quê hương luôn được chú trọng và trở thành yếu tố quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đề ra. Từ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của địa phương, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đúc kết to lớn là: “Cái được lớn nhất trong hơn mười năm qua là được lòng dân. Chính lòng dân ấy, chính sự đồng thuận ấy là nguồn lực mạnh mẽ ủng hộ, cổ vũ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố. Bài học tin ở dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân, hết lòng vì dân là bài học đầu tiên và muôn thuở, là bài học của mọi lúc mọi nơi… Chính sự đoàn kết nhất trí cao trong nội bộ luôn được giữ vững, sự đồng thuận trong xã hội luôn được nâng cao, cùng với vai trò lãnh đạo, chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo với tinh thần trách nhiệm cao là những nhân tố cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định để tạo nguồn lực to lớn, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố trong thời gian qua, là bệ phóng để Đà Nẵng tiếp tục tăng tốc trong những năm sắp đến”(1).

3. Chú trọng công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể và các tổ chức chính trị xã hội vững mạnh; tạo sự đoàn kết, thống nhất, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương trong Đảng bộ và trong xã hội.

Những thành tựu mà Đảng bộ đạt được trong suốt 40 năm qua, trước hết là sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng bộ, mà hạt nhân là thường trực, thường vụ và cấp ủy các cấp. Đoàn kết, thống nhất đã được phát huy một cách hiệu quả qua việc thực thi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; là sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt nội bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ; là tinh thần tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy Đảng và đảng viên. Chính tinh thần đoàn kết, thống nhất nên vấn đề nào, chủ trương nào đã được tập thể Đảng bộ thông qua thì được thực thi một cách quyết liệt, được kiểm tra, đôn đốc trong suốt quá trình

(1) Phát biểu của đồng chí Nguyễn Bá Thanh - Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, trong Diễn văn Kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng thành phố Đà Nẵng (29/3/1975 - 29/3/2010).

Page 456: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

456

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

thực hiện. Từ đó, cho thấy một nguyên lý cơ bản: đoàn kết thống nhất phải được minh chứng trên cơ sở gương mẫu chấp hành Nghị quyết của cán bộ lãnh đạo các cấp, mẫu mực trong rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống; tận tâm, tận tụy với công việc được giao của từng đảng viên; là tình thương yêu đồng chí, trách nhiệm với công tác xây dựng nội bộ; là sự giữ gìn kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, đồng thời vận động, giáo dục nhân dân chấp hành kỷ cương, phép nước. Chính đoàn kết, thống nhất đã tạo ra sức mạnh to lớn để Đảng bộ thành phố vượt qua những khó khăn, thử thách trong chặng đường đã qua, gặt hái được nhiều thành tựu to lớn.

Từ đoàn kết, thống nhất, đã tạo điều kiện cho Đảng bộ thành phố tinh thần dám nghĩ, dám làm; vừa vận dụng sáng tạo chủ trương, nghị quyết của Đảng, vừa tranh thủ được sự quan tâm, giúp đỡ của Trung ương và các địa phương trong cả nước cho mục tiêu phát triển của thành phố. Để có sự đoàn kết, thống nhất đó, thì công tác xây dựng Đảng được đặt lên hàng đầu. Đảng bộ đã luôn giành nhiều thời gian để đưa vấn đề này trong Nghị quyết và các quyết sách xây dựng đội ngũ cán bộ của thành phố, đặc biệt là cấp ủy các cấp. Đảng bộ tăng cường công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng và công tác dân vận của Đảng bộ. Các biện pháp công tác tư tưởng phải hướng đến mục tiêu khơi dậy niềm vinh dự, tự hào và ý thức trách nhiệm công dân đối với sự nghiệp xây dựng thành phố; đồng thời nêu cao vấn đề giáo dục, rèn luyện và đấu tranh chống những biểu hiện thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, công tác cán bộ và cải cách hành chính phải được xem là khâu đột phá, nhằm nâng tầm bộ máy lãnh đạo, quản lý cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới của thành phố. Trong công tác cán bộ, quan trọng nhất là giao việc rõ ràng, quyền hạn tương xứng, thưởng phạt nghiêm minh, kịp thời.

Page 457: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

457

4. Phát huy sức mạnh tổng hợp giữa các lĩnh vực, gắn với việc huy động hiệu quả các nguồn lực trong quá trình phát triển.

Đà Nẵng là thành phố nằm giữa khu vực miền Trung, là một cầu nối quan trọng giữa hai đầu đất nước; có địa thế tự nhiên đa dạng, biển đảo - đồng bằng - đồi núi. Ngay từ buổi đầu lịch sử, Đà Nẵng là khu vực quan trọng trong chiến lược của vua chúa nhà Nguyễn, trong ý đồ xâm lược của thực dân phương Tây bởi thế đắc địa của mình. Bài học phát huy sức mạnh tổng hợp trong công cuộc phát triển thành phố là một bài học quan trọng và xuyên suốt trong lịch sử; bài học đó đã được thể hiện rõ và phát huy tác dụng trong quá trình xây dựng quê hương trong tình hình mới.

Với địa thế chính trị, kinh tế quan trọng như vậy, Đảng bộ đã luôn phát huy một cách đồng bộ và hài hòa. Đà Nẵng nằm ở ven biển, trên con đường chiến lược Bắc - Nam. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị thành phố được xây dựng theo hướng nhìn ra biển Đông, “mở rộng dòng sông, kéo dài bờ biển”, việc thành lập huyện đảo Hoàng Sa và xây dựng con đường ven biển là một ví dụ. Thành phố rất chú trọng đến sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa - xã hội, Nghị quyết Đại hội xác định, kinh tế phải phát triển dựa trên nền tảng văn hóa, lấy văn hóa làm động lực phát triển kinh tế. Sự phát triển kinh tế đi đôi với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao mức sống của nhân dân, chăm lo tốt hơn các đối tượng chính sách, giảm chênh lệch giàu nghèo. Các chương trình, đề án, phong trào của thành phố trong thời gian vừa qua chính là cụ thể hóa những nội dung đó. Thực tế khi giải quyết tốt các vấn đề xã hội đã tạo ra một động lực cho thành phố phát triển vững mạnh toàn diện và bền vững. Đà Nẵng trở thành một thành phố vững mạnh về hệ thống chính trị, phát triển nhanh, bền vững về kinh tế, đậm tính nhân văn và giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Để thực hiện sự huy động toàn diện các lĩnh vực, tạo ra sự phát triển hài hòa, nhanh, bền vững chính là Đảng bộ đã biết phát huy cả hệ thống chính trị vào cuộc với tinh thần sáng tạo và quyết liệt nhất.

Page 458: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

458

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Song song với sự phát triển hài hoà giữa các lĩnh vực, một vấn đề then chốt trong quá trình phát triển của thành phố trong thời gian qua, nhất là khi trực thuộc Trung ương là bài học về huy động các nguồn lực. Trước hết, thể hiện rõ nhất là thành phố đã có cách làm sáng tạo khi biết khai thác nguồn lực tại chỗ, đó là tận dụng khai thác quỹ đất để tạo nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và quy hoạch đô thị. Vấn đề này không đơn thuần chỉ là “đổi đất lấy cơ sở hạ tầng”, bản chất của chủ trương này là đã giải quyết được một bài toán hóc búa trong quá trình đô thị hoá, khi đạt được cùng một lúc 3 mục đích: thành phố có nguồn vốn tại chỗ; người dân có cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp, xây dựng nếp sống “văn minh đô thị”; thành phố thay đổi toàn diện bộ mặt chỉ trong vòng hơn 10 năm khi trực thuộc Trung ương. Tiếp đến, thành phố đã biết khơi dậy và phát huy được ý chí và nguồn lực trong các tầng lớp nhân dân cả về công sức, tiền mặt, đất đai… theo chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” nhằm phục vụ trực tiếp người dân. Phát huy có hiệu quả nguồn lực ngoài nhà nước, khi tiến hành xã hội hoá, kêu gọi sự tham gia trên các lĩnh vực mà kinh tế tư nhân có thể đảm nhận. Từ đó, thành phố vừa tăng nguồn ngân sách để đầu tư phát triển các lĩnh vực chủ đạo, vừa có tác dụng phát huy tinh thần dân chủ, hoà hợp dân tộc, và huy động vốn xã hội ngoài nhà nước và cộng đồng người Việt trên khắp thế giới. Bên cạnh đó, thành phố đã sử dụng hiệu quả các nguồn vốn vay trong nước và ngoài nước; kêu gọi đầu tư của nước ngoài trên các lĩnh vực có thế mạnh, gắn kết với hoạt động kinh tế đối ngoại trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

Đồng thời, thành phố đã chủ động đề xuất, kiến nghị lên Trung ương, các bộ, ngành những giải pháp có tác dụng “tháo chốt” để phát triển, thể hiện rõ nhất là sự ra đời Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIX, theo tinh thần Nghị quyết số 33 của Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng thay mặt Bộ Chính

Page 459: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

459

trị đã yêu cầu Đà Nẵng “trở thành địa phương về đích sớm trong mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về đích sớm đó là trọng trách nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang của Đà Nẵng, xứng đáng với lòng tin và sự mong đợi của toàn Đảng, toàn dân”. Tại Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX, Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang, thay mặt Bộ Chính trị tiếp tục nhấn mạnh trọng trách vẻ vang này của thành phố. Với tinh thần đó, Đảng bộ khẳng định sẽ tiếp tục phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của địa phương xứng đáng với niềm tin của toàn Đảng, toàn dân dành cho Đà Nẵng. Tại Đại Đảng bộ thành phố lần thứ XXI, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, thay mặt Bộ Chính trị yêu cầu “Đà Nẵng phải đi đầu trong phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, trở thành đầu tàu dẫn dắt sự phát triển trong vùng”. Rõ ràng, trong quá trình phát triển, nhất là khi trực thuộc Trung ương, thành phố luôn chủ động đề xuất và nhận được sự quan tâm, kỳ vọng và tạo điều kiện của Trung ương. Có thể nói, cùng với bài học về sự vận dụng sáng tạo các chủ trương của Đảng, nhất là kết hợp nhuần nhuyễn giữa cải tạo và xây dựng; tinh thần “biết nghĩ, dám nghĩ, dám làm” của người đứng đầu để tạo sự “đồng thuận xã hội”, sự đoàn kết, nhất trí của cả hệ thống chính trị; cũng như biết “huy động các nguồn lực”, gồm nội lực và ngoại lực, với cách “tổ chức thực hiện đến nơi đến chốn” và sự quan tâm của Trung ương sẽ là động lực to lớn để thành phố tiếp tục phát triển trong thời gian tới.

Cùng với những bài học trên, Đảng bộ cũng đã nghiêm túc chỉ rõ những hạn chế, tồn tại trong chặng đường 40 năm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của thành phố. Qua từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử, việc thực hiện những chủ trương của Đảng về công tác cải tạo, mặc dù đã có nhiều cố gắng và linh hoạt trong tổ chức thực hiện song Đảng bộ vẫn mắc những hạn chế nhất định như: Cải tạo tư bản, tư doanh; vận động nhân dân ào ạt vào hợp tác xã; tính duy ý chí của tổ chức Tín dụng Thành Công; công tác quản lý xã hội có

Page 460: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

460

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

nhiều vấn đề bất cập, nhân dân vượt biên, vượt biển với số lượng lớn; không kịp ổn định thị trường do chủ trương giá - lương - tiền gây nên... Bên cạnh đó, do yếu tố chủ quan, không lường trước được tình hình chính trị phức tạp của khu vực và quốc tế, thiếu cách nhìn nhận biện chứng và thiếu tính dự báo…, Đảng bộ đã không đề ra những giải pháp kịp thời trên một số lĩnh vực; công tác quy hoạch, phát triển đô thị đã làm mất đi hoặc gây hư hại nhiều công trình kiến trúc, di tích lịch sử, văn hóa; nhiều công trình xây dựng không hiệu quả; mắc sai lầm trong công tác cán bộ và quản lý nhà nước, có các vụ án tham nhũng, gây thất thoát tài sản của nhà nước, tạo dự luận không tốt trong nhân dân; có đến 3 trên 4 nhiệm kỳ đã đề ra các chỉ tiêu cụ thể song không thực hiện được. Các tồn tại trên đã tạo lực cản không nhỏ trong quá trình phát triển đi lên của thành phố. Tuy nhiên, qua đó, Đảng bộ thành phố đã rút ra bài học về công tác dự báo tình hình, công tác quản lý trên các lĩnh vực, nhất là quản lý con người trong việc phát triển thành phố theo hướng bền vững và đặt nền tảng cho một xã hội tri thức.

Có thể nói, những thành tựu và kinh nghiệm đạt được của Đà Nẵng trong 40 năm qua là kết quả của quá trình phấn đấu lâu dài và gian khổ của Đảng bộ và nhân dân thành phố thời gian qua trên cơ sở kế thừa truyền thống của các thế hệ đi trước, là mảnh đất đi đầu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nêu cao tinh thần quyết chiến và quyết thắng, không sợ gian khổ, hy sinh lập nên những chiến công chói lọi, góp phần viết nên truyền thống Tám chữ vàng: “Trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ”.

Lịch sử Đảng bộ thành phố 40 năm qua, là lịch sử của “trận chiến mới” không kém phần cam go - chống nghèo nàn, lạc hậu, khôi phục và phát triển kinh tế và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tất cả vì mục tiêu mà Trung ư ơng đã tin tưởng giao phó. Đó là phát triển Đà Nẵng theo hướng phát huy tối đa các nguồn lực, lợi thế, tìm ra các động lực mới để xây dựng thành phố trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, một trung

Page 461: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

461

tâm kinh tế - xã hội của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực và cả nước; có tổ chức Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; sớm trở thành thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại; tạo động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm tiếp theo. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là đòi hỏi của đất nước, là xu thế của thời đại và đó cũng chính là khát vọng chính đáng của Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng anh hùng./.

Page 462: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 463: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

463

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNHĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

(1997 - 2015)

1. Danh sách Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (theo Quyết định số 122-QĐNS/TW ngày 12-12-1996 của Bộ Chính trị)

TT HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ

01 Trương Quang Được Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy (lâm thời)

02 Phan Như Lâm Phó Bí thư Thường trực Thành ủy (lâm thời)

03 Nguyễn Bá Thanh Phó Bí thư Thành uỷ (lâm thời) - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố (lâm thời)

04 Trần Phước Hường Uỷ viên Ban Thường vụ (lâm thời)

05 Bùi Công Minh Uỷ viên Ban Thường vụ (lâm thời)

06 Phùng Văn Thành Uỷ viên Ban Thường vụ (lâm thời)

07 Nguyễn Thị Vân Lan Uỷ viên Ban Thường vụ (lâm thời)

08 Trần Văn Thanh Uỷ viên Ban Thường vụ (lâm thời)

09 Huỳnh Năm Uỷ viên Ban Thường vụ (lâm thời)

10 Nguyễn Hoàng Long Thành uỷ viên (lâm thời)

11 Trần Phước Chính Thành uỷ viên (lâm thời)

12 Hoàng Tuấn Anh Thành uỷ viên (lâm thời)

13 Trần Thọ Thành uỷ viên (lâm thời)

Page 464: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

464

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

14 Huỳnh Kim Sơn Thành uỷ viên (lâm thời)

15 Nguyễn Mạnh Hùng Thành uỷ viên (lâm thời)

16 Nguyễn Quốc Dũng Thành uỷ viên (lâm thời)

17 Huỳnh Nghĩa Thành uỷ viên (lâm thời)

18 Nguyễn Thị Minh Lý Thành uỷ viên (lâm thời)

19 Đoàn Văn Lộc Thành uỷ viên (lâm thời)

20 Thái Thanh Hùng Thành uỷ viên (lâm thời)

21 Lê Diên Thành uỷ viên (lâm thời)

22 Lê Tự Cường Thành uỷ viên (lâm thời)

23 Ngô Văn Chờ Thành uỷ viên (lâm thời)

24 Lê Kim Ngân Thành uỷ viên (lâm thời)

25 Võ Công Trí Thành uỷ viên (lâm thời)

26 Hồ Văn Đắc Thành uỷ viên (lâm thời)

27 Lê Thị Tám Thành uỷ viên (lâm thời)

28 Võ Duy Khương Thành uỷ viên (lâm thời)

29 Nguyễn Minh Hùng Thành uỷ viên (lâm thời)

30 Phạm Kiều Đa Thành uỷ viên (lâm thời)

31 Trần Chí Thành Thành uỷ viên (lâm thời)

2. Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng khóa XVII, nhiệm kỳ 1997-2000 (theo Quyết định số 292-QĐNS/TW ngày 24-11-1997 của Bộ Chính trị) và bổ sung

TT HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ

01 Trương Quang Được

Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủyTháng 02-2000, thôi giữ chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, đi nhận công tác ở Trung ương

02 Phan DiễnTháng 02-2000, Bộ Chính trị chỉ định đồng chí Phan Diễn - Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Page 465: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

465

03 Phan Như Lâm Phó Bí thư Thường trực Thành ủy

04 Nguyễn Bá Thanh Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố

05 Ngô Văn Chờ Uỷ viên Ban Thường vụ

06 Trần Phước Hường Uỷ viên Ban Thường vụ

07 Nguyễn Thị Vân Lan Uỷ viên Ban Thường vụ

08 Bùi Công Minh Uỷ viên Ban Thường vụ

09 Huỳnh Năm Uỷ viên Ban Thường vụ

10 Trần Văn Thanh Uỷ viên Ban Thường vụ

11 Phùng Văn Thành Uỷ viên Ban Thường vụ

12 Nguyễn Văn Tuấn Uỷ viên Ban Thường vụ

13 Hoàng Tuấn Anh Thành uỷ viên

14 Trần Nhật Bằng Thành uỷ viên

15 Hồ Văn Chinh Thành uỷ viên

16 Trần Phước Chính Thành uỷ viên

17 Lê Tự Cường Thành uỷ viên

18 Lê Diên Thành uỷ viên

19 Phan Văn Diện Thành uỷ viên

20 Nguyễn Quốc Dũng Thành uỷ viên

21 Phạm Kiều Đa Thành uỷ viên

22 Hồ Văn Đắc Thành uỷ viên

23 Huỳnh Văn Hoa Thành uỷ viên

24 Nguyễn Mạnh Hùng Thành uỷ viên

25 Nguyễn Minh Hùng Thành uỷ viên

26 Thái Thanh Hùng Thành uỷ viên

27 Võ Duy Khương Thành uỷ viên

28 Nguyễn Hoàng Long Thành uỷ viên

29 Đoàn Văn Lộc Thành uỷ viên

30 Nông Thị Ngọc Minh Thành uỷ viên

31 Trần Văn Minh Thành uỷ viên

Page 466: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

466

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

32 Lê Ngọc Nam Thành uỷ viên

33 Lê Kim Ngân Thành uỷ viên

34 Huỳnh Nghĩa Thành uỷ viên

35 Nguyễn Xuân Nhĩ Thành uỷ viên

36 Ngô Qui Nhơn Thành uỷ viên

37 Huỳnh Kim Sơn Thành uỷ viên

38 Lê Thị Tám Thành uỷ viên

39 Hoàng Văn Thắng Thành uỷ viên

40 Trần Thọ Thành uỷ viên

41 Nguyễn Thu Thành uỷ viên

42 Hoàng Thanh Thuỵ Thành uỷ viên

43 Bùi Văn Tiếng Thành uỷ viên

44 Võ Công Trí Thành uỷ viên

45 Phùng Tấn Viết Thành uỷ viên

46 Phan Quang Xưng Thành uỷ viên

3. Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng khóa XVIII, nhiệm kỳ 2001-2005 (theo Quyết định số 1112-QĐNS/TW ngày 28-02-2001 của Bộ Chính trị) và bổ sung

TT HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ

01 Phan DiễnỦy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủyTháng 7-2001, thôi giữ chức Bí thư Thành ủy, đi nhận công tác ở Trung ương

02 Nguyễn Đức Hạt

Tháng 7-2001, Bộ Chính trị chỉ định đồng chí Nguyễn Đức Hạt - Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam về làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.Tháng 5-2003, Trung ương điều động và bổ nhiệm Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương (theo Quyết định số 673-QĐNS/TW, ngày 14-5-2003)

Page 467: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

467

03 Phan Như Lâm Phó Bí thư Thường trực Thành ủy

04 Nguyễn Bá Thanh

Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phốTháng 6-2003, giữ chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng (Quyết định chuẩn y số 723-QĐNS/TW, ngày 27-6-2003)

05 Hoàng Tuấn Anh

Thành uỷ viênNgày 09-8-2002, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định phê chuẩn số 437-QĐNS/TW, ngày 08-10-2002)Tháng 5-2004, được bầu giữ chức Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố (Quyết định chuẩn y số 1081-QĐNS/TW, ngày 23-7-2004)

06 Huỳnh Năm

Uỷ viên Ban Thường vụTháng 8-2003, giữ chức Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố (Quyết định phê chuẩn số 885/QĐ-TTg, ngày 04-8-2003)

07 Ngô Văn Chờ Uỷ viên Ban Thường vụ

08 Trần Phước Hường Uỷ viên Ban Thường vụ

09 Nguyễn Thị Vân Lan Uỷ viên Ban Thường vụ

10 Bùi Công Minh Uỷ viên Ban Thường vụ

11 Lê Ngọc Nam Uỷ viên Ban Thường vụ

12 Phùng Văn Thành Uỷ viên Ban Thường vụ

13 Nguyễn Văn Tuấn Uỷ viên Ban Thường vụ

14 Trần Văn Minh

Thành uỷ viênNgày 09-8-2002, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 437-QĐNS/TW, ngày 08-10-2002)

15 Lê Tự Cường

Thành uỷ viênNgày 23-9-2003, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 820-QĐNS/TW, ngày 20-10-2003)

16 Nguyễn Viết HoàngBổ sung Thành uỷ viên, Uỷ viên Ban Thường vụ (Chỉ định tại Quyết định số 1539-QĐNS/TW, ngày 02-11-2005)

Page 468: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

468

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

17 Văn Hữu Chiến Thành uỷ viên

18 Hồ Văn Chinh Thành uỷ viên

19 Trần Phước Chính Thành uỷ viên

20 Lê Kim Củng Thành uỷ viên

21 Lê Diên Thành uỷ viên

22 Phan Văn Diện Thành uỷ viên

23 Phạm Kiều Đa Thành uỷ viên

24 Hồ Văn Đắc Thành uỷ viên

25 Nguyễn Điểu Thành uỷ viên

26 Huỳnh Văn Hoa Thành uỷ viên

27 Trần HoaThành uỷ viênTháng 8-2003, đi nhận công tác ở Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng

28 Nguyễn Mạnh Hùng Thành uỷ viên

29 Nguyễn Minh Hùng Thành uỷ viên

30 Thái Thanh Hùng Thành uỷ viên

31 Võ Duy Khương Thành uỷ viên

32 Nguyễn Hoàng Long Thành uỷ viên

33 Đoàn Văn Lộc Thành uỷ viên

34 Nông Thị Ngọc Minh Thành uỷ viên

35 Lê Kim Ngân Thành uỷ viên

36 Huỳnh Nghĩa Thành uỷ viên

37 Nguyễn Xuân Nhĩ Thành uỷ viên

38 Ngô Qui Nhơn Thành uỷ viên

39 Hoàng Thư Sinh Thành uỷ viên

40 Lê Thị Tám Thành uỷ viên

41 Nhật Thành Thành uỷ viên

42 Hoàng Văn Thắng Thành uỷ viên

43 Trần Thọ Thành uỷ viên

44 Phan Viết Thông Thành uỷ viên

45 Nguyễn Thu Thành uỷ viên

Page 469: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

469

46 Bùi Văn Tiếng Thành uỷ viên

47 Võ Công Trí Thành uỷ viên

48 Phùng Tấn Viết Thành uỷ viên

49 Phan Quang Xưng Thành uỷ viên

50 Bùi Chí Loan Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 957-QĐNS/TW, ngày 15-3-2004)

51 Phạm Huy Tập Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 958-QĐNS/TW, ngày 15-3-2004)

4. Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng khóa XIX, nhiệm kỳ 2005-2010 (theo Quyết định số 1694-QĐNS/TW, ngày 7-2-2006 của Bộ Chính trị) và bổ sung

TT HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ

01 Nguyễn Bá ThanhUỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố

02 Phan Như Lâm Phó Bí thư Thường trực Thành ủy

03 Hoàng Tuấn Anh

Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phốTháng 4-2006, thôi giữ chức Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố để giữ chức Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục du lịch (tại Quyết định số 604-QĐ/TTg, ngày 14-4-2006).

04 Trần Văn Minh

Uỷ viên Ban Thường vụTháng 8-2006, được bầu giữ chức Phó Bí thư Thành uỷ (Quyết định chuẩn y số 150-QĐNS/TW, ngày 21-8-2006)Tháng 9-2006, giữ chức Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố (tại Quyết định số 1169-QĐ/TTg, ngày 06-9-2006)

Page 470: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

470

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

05 Trương Quang Nghĩa

Tháng 4-2008, Trung ương chỉ định giữ chức Phó Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng, phụ trách công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng (tại Quyết định số 786-QĐNS/TW, ngày 28-4-2008)Tháng 10-2010, đi nhận công tác tại Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương, giữ chức Phó Bí thư Đảng uỷ; tháng 4-2016, giữ chức Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải

06 Trần Thọ

Uỷ viên Ban Thường vụNgày 27-11-2008, được bầu giữ chức Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ (Quyết định chuẩn y số 1059-QĐNS/TW, ngày 08-12-2008)

07 Ngô Văn Chờ Uỷ viên Ban Thường vụ

08 Bùi Công Minh Uỷ viên Ban Thường vụ

09 Lê Tự Cường Uỷ viên Ban Thường vụ

10 Lê Ngọc Nam

Uỷ viên Ban Thường vụTháng 8-2006, đi nhận công tác tại Bộ Công an, giữ chức Phó Tổng cục trưởng Tổng cục chính trị

11 Nguyễn Viết Hoàng Uỷ viên Ban Thường vụ

12 Võ Công Trí Uỷ viên Ban Thường vụ

13 Trần Phước Chính Uỷ viên Ban Thường vụ

14 Võ Duy KhươngUỷ viên Ban Thường vụ (được chuẩn y Uỷ viên Ban Thường vụ tại Quyết định số 131-QDNS/TW, ngày 26-7-2006)

15 Phan Xuân Sang

Thành uỷ viênNgày 01-12-2006, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 309-QĐNS/TW, ngày 25-12-2006)

16 Nguyễn Mạnh Hùng

Thành uỷ viênNgày 25-6-2008, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 884-QĐNS/TW, ngày 21-7-2008)

Page 471: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

471

17 Bùi Văn Tiếng

Thành uỷ viênNgày 27-11-2008, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1060-QĐNS/TW, ngày 8-12-2008)

18 Lê Kim Củng

Thành uỷ viênNgày 19-5-2009, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1285-QĐNS/TW, ngày 27-5-2009)

19 Huỳnh Nghĩa

Thành uỷ viênNgày 19-5-2009, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1286-QĐNS/TW, ngày 27-5-2009)

20 Văn Hữu Chiến

Thành uỷ viênNgày 08-12-2009, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1514-QĐNS/TW, ngày 28-12-2009)

21 Trần Đình Liễn

Thành uỷ viênNgày 8-12-2009, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1515-QĐNS/TW, ngày 28-12-2009)

22 Nguyễn Văn Cán Thành uỷ viên

23 Phan Văn Diện Thành uỷ viên

24 Nguyễn Điểu Thành uỷ viên

25 Đặng Việt Dũng Thành uỷ viên

26 Bùi Văn Ga

Thành uỷ viênTháng 6-2010, đi nhận công tác ở Trung ương, giữ chức Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

27 Nguyễn Văn Hiệu Thành uỷ viên

28 Huỳnh Văn Hoa Thành uỷ viên

29 Nguyễn Thị Thanh Hưng Thành uỷ viên

30 Lê Thị Hường Thành uỷ viên

31 Trần Văn Huy Thành uỷ viên

32 Phan Văn Kha Thành uỷ viên

33 Vũ Ngọc Liên Thành uỷ viên

Page 472: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

472

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

34 Đỗ Thị Kim Lĩnh Thành uỷ viên

35 Bùi Chí Loan Thành uỷ viên

36 Nông Thị Ngọc Minh Thành uỷ viên

37 Đặng Công Ngữ Thành uỷ viên

38 Nguyễn Xuân Nhĩ Thành uỷ viên

39 Nguyễn Thanh Quang Thành uỷ viên

40 Hoàng Thư Sinh Thành uỷ viên

41 Phạm Huy TậpThành uỷ viên Tháng 5-2009, đi nhận công tác tại Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng

42 Nhật Thành Thành uỷ viên43 Phan Viết Thông Thành uỷ viên44 Lương Nguyệt Thu Thành uỷ viên45 Nguyễn Thu Thành uỷ viên46 Nguyễn Ngọc Tuấn Thành uỷ viên

47 Nguyễn Đức TuấnThành uỷ viênTháng 02-2008, đi nhận công tác tại Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch

48 Trần Thanh Vân Thành uỷ viên

49 Phùng Tấn Viết Thành uỷ viên

50 Ngô Quang Vinh Thành uỷ viên

51 Nguyễn Văn Sơn Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 301-QĐNS/TW, ngày 11-12-2006)

52 Nguyễn Nho Trung Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 1303-QĐNS/TW, ngày 04-6-2009)

53 Võ Văn Thương Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 1304-QĐNS/TW, ngày 04-6-2009)

54 Huỳnh Đức Thơ Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 1305-QĐNS/TW, ngày 04-6-2009)

55 Lê Hồng Minh Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 1306-QĐNS/TW, ngày 04-6-2009)

56 Trần Văn Miên Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 1307-QĐNS/TW, ngày 04-6-2009)

57 Mai Đức Lộc Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 1308-QĐNS/TW, ngày 04-6-2009)

Page 473: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

473

58 Đặng Thị Kim Liên Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 1309-QĐNS/TW, ngày 04-6-2009)

59 Dương Đề Dũng Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 1310-QĐNS/TW, ngày 04-6-2009)

5. Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng khóa XX, nhiệm kỳ 2010-2015 (theo Quyết định số 1800-QĐNS/TW, ngày 9-10-2010 của Bộ Chính trị) và bổ sung

TT HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ

01 Nguyễn Bá Thanh

Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủyNgày 28-12-2012, nhận công tác ở Trung ương, giữ chức Trưởng ban Nội chính Trung ương (theo Quyết định số 655-QĐNS-TW, ngày 28-12-2012)Ngày 01-02-2013, thôi giữ chức Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng

02 Trần Thọ

Phó Bí thư Thường trực Thành ủyNgày 30-8-2013, được bầu làm Bí thư Thành ủy (Quyết định chuẩn y số 925-QĐNS/TW, ngày 11-9-2013)

03 Trần Văn Minh

Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phốTháng 7-2011, Trung ương điều động và bổ nhiệm giữ chức Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương (theo Quyết định số 131-QĐNS/TW, ngày 05-7-2011)Ngày 10-8-2011, thôi giữ chức Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố.

04 Văn Hữu Chiến

Uỷ viên Ban Thường vụNgày 30-9-2011, được bầu giữ chức Phó Bí thư Thành uỷ (Quyết định chuẩn y số 382-QĐNS/TW, ngày 10-11-2011)Tháng 11-2011, giữ chức Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố (tại Quyết định số 1956/QĐ-TTg, ngày 04-11-2011)

Page 474: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

474

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

05 Võ Công Trí

Uỷ viên Ban Thường vụNgày 17-12-2013, được bầu làm Phó Bí thư Thường trực Thành ủy (Quyết định chuẩn y số 1023-QĐNS/TW, ngày 26-12-2013)

06 Nguyễn Xuân Anh

Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Uỷ viên Ban Thường vụNgày 02-4-2014, được bầu làm Phó Bí thư Thành ủy (Quyết định chuẩn y số 1189-QĐNS/TW, ngày 17-4-2014)

07 Huỳnh Đức Thơ

Thành uỷ viênNgày 28-11-2014, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1559-QĐNS/TW, ngày 09-12-2014)Ngày 26-01-2015, được bầu làm Phó Bí thư Thành ủy (Quyết định chuẩn y số 1717-QĐNS/TW, ngày 29-01-2015)Tháng 01-2015, giữ chức Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố (tại Quyết định số 146/QĐ-TTg, ngày 28-01-2015)

08 Bùi Văn Tiếng Uỷ viên Ban Thường vụ

09 Lê Kim Củng Uỷ viên Ban Thường vụ

10 Trần Đình Liễn Uỷ viên Ban Thường vụ

11 Huỳnh Nghĩa Uỷ viên Ban Thường vụ

12 Võ Duy Khương Uỷ viên Ban Thường vụ

13 Nguyễn Mạnh Hùng Uỷ viên Ban Thường vụ

14 Nguyễn Thanh Quang Uỷ viên Ban Thường vụ

15 Nguyễn Viết HoàngUỷ viên Ban Thường vụTháng 10-2011, đi nhận công tác tại Bộ Tư lệnh Quân khu V

16 Nguyễn Văn Sơn

Uỷ viên Ban Thường vụTháng 5-2015, đi nhận công tác tại Bộ Công an, giữ chức Phó Tổng cục trưởng Tổng cục chính trị; tháng 11-2016, được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Công an

17 Trần Thanh Vân

Thành uỷ viênNgày 14-02-2014, được bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1135-QĐNS/TW, ngày 06-3-2014)

Page 475: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

475

18 Đặng Việt Dũng

Thành uỷ viênNgày 14-02-2014, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1135-QĐNS/TW, ngày 06-3-2014)

19 Phạm Quý

Thành uỷ viênNgày 01-7-2014, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1297-QĐNS/TW, ngày 12-7-2014)

20 Trần Đình Hồng

Thành uỷ viênNgày 28-11-2014, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1561-QĐNS/TW, ngày 9-12-2014)

21 Lương Nguyệt Thu

Thành uỷ viênNgày 07-10-2014, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1494-QĐNS/TW, ngày 29-10-2014)

22 Lê Văn Tam

Thành uỷ viênNgày 24-7-2015, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1931-QĐNS/TW, ngày 5-8-2015)

23 Huỳnh Minh Chức

Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 409-QĐNS/TW, ngày 10-11-2011)Ngày 14-12-2011, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 446-QĐNS/TW, ngày 26-12-2011)

24 Trương Chí Lăng

Bổ sung Thành uỷ viên (Chỉ định tại Quyết định số 1526-QĐNS/TW, ngày 12-11-2014)Ngày 28-11-2014, bầu bổ sung vào Uỷ viên Ban Thường vụ (Quyết định chuẩn y số 1560-QĐNS/TW, ngày 09-12-2014)

25 Nguyễn Phú Ban Thành uỷ viên

26 Lê Trung Chinh Thành uỷ viên

27 Dương Đề Dũng Thành uỷ viên

28 Nguyễn Điểu Thành uỷ viên

29 Huỳnh Văn Hoa Thành uỷ viên

30 Huỳnh Văn Hùng Thành uỷ viên

31 Trần Văn Huy Thành uỷ viên

Page 476: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

476

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

32 Nguyễn Thị Thanh Hưng Thành uỷ viên

33 Phan Văn Kha Thành uỷ viên

34 Đặng Thị Kim Liên Thành uỷ viên

35 Vũ Ngọc Liên Thành uỷ viên

36 Nguyễn Linh Thành uỷ viên

37 Đỗ Thị Kim Lĩnh Thành uỷ viên

38 Bùi Chí Loan Thành uỷ viên

39 Mai Đức Lộc Thành uỷ viên

40 Trần Văn Miên Thành uỷ viên

41 Hồ Kỳ Minh Thành uỷ viên

42 Lê Hồng MinhThành uỷ viênNgày 31-01-2013, đi nhận công tác tại Ban Nội chính Trung ương

43 Trần Văn Nam Thành uỷ viên

44 Ngô Quang Phúc Thành uỷ viên

45 Trần Đình Quỳnh Thành uỷ viên

46 Nguyễn Bá Sơn Thành uỷ viên

47 Phạm Kim Sơn Thành uỷ viên

48 Phan Văn TâmThành uỷ viênNgày 06-02-2013, đi nhận công tác tại Ban Nội chính Trung ương

49 Nhật Thành Thành uỷ viên

50 Nguyễn Tiến Thọ Thành uỷ viên

51 Nguyễn Thu Thành uỷ viên

52 Võ Văn Thương Thành uỷ viên

53 Lương Nguyễn Minh Triết Thành uỷ viên

54 Nguyễn Nho Trung Thành uỷ viên

55 Nguyễn Ngọc Tuấn Thành uỷ viên

56 Phùng Tấn Viết Thành uỷ viên

57 Ngô Quang Vinh Thành uỷ viên

Page 477: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

477

58 Nguyễn Thanh HoàngBổ sung Thành uỷ viênChỉ định tại Quyết định số 1054-QĐNS/TW, ngày 27-01-2014

59 Đào Tấn BằngBổ sung Thành uỷ viênChỉ định tại Quyết định số 1281-QĐNS/TW, ngày 01-7-2014

60 Ngô Xuân ThắngBổ sung Thành uỷ viênChỉ định tại Quyết định số 1281-QĐNS/TW, ngày 01-7-2014

61 Nguyễn Bá CảnhBổ sung Thành uỷ viênChỉ định tại Quyết định số 1281-QĐNS/TW, ngày 01-7-2014

62 Lê Quang NamBổ sung Thành uỷ viênChỉ định tại Quyết định số 1281-QĐNS/TW, ngày 01-7-2014

63 Lê Văn PhúcBổ sung Thành uỷ viênChỉ định tại Quyết định số 1526-QĐNS/TW, ngày 12-11-2014

64 Võ Công ChánhBổ sung Thành uỷ viênChỉ định tại Quyết định số 1618-QĐNS/TW, ngày 30-12-2014

65 Lê Văn TrungBổ sung Thành uỷ viênChỉ định tại Quyết định số 1619-QĐNS/TW, ngày 30-12-2014

6. Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng khóa XXI, nhiệm kỳ 2015-2020 (theo Quyết định số 2080-QĐNS/TW, ngày 28-10-2015 của Bộ Chính trị)

TT HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ

01 Nguyễn Xuân Anh

Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Bí thư Thành ủy.Vào tháng 01-2016, tại Đại hội lần thứ XII của Đảng, đồng chí được bầu chính thức vào Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

02 Võ Công Trí Phó Bí thư Thường trực Thành ủy

03 Huỳnh Đức Thơ Phó Bí thư Thành ủy - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố

Page 478: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

478

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

04 Trần Đình Hồng Uỷ viên Ban Thường vụ

05 Nguyễn Thanh Quang Uỷ viên Ban Thường vụ

06 Lương Nguyệt Thu Uỷ viên Ban Thường vụ

07 Trần Thanh Vân Uỷ viên Ban Thường vụ

08 Phạm Quý Uỷ viên Ban Thường vụ

09 Đặng Việt Dũng Uỷ viên Ban Thường vụ

10 Nguyễn Nho Trung Uỷ viên Ban Thường vụ

11 Võ Văn Thương Uỷ viên Ban Thường vụ

12 Hồ Kỳ Minh Uỷ viên Ban Thường vụ

13 Đặng Thị Kim Liên Uỷ viên Ban Thường vụ

14 Trương Chí Lăng Uỷ viên Ban Thường vụ

15 Lê Văn Tam Uỷ viên Ban Thường vụ

16 Nguyễn Phú Ban Thành uỷ viên

17 Đào Tấn Bằng Thành uỷ viên

18 Nguyễn Bá Cảnh Thành uỷ viên

19 Võ Công Chánh Thành uỷ viên

20 Lê Trung Chinh Thành uỷ viên

21 Võ Ngọc Đồng Thành uỷ viên

22 Nguyễn Thị Thu Hà Thành uỷ viên

23 Lê Thanh Hải Thành uỷ viên

24 Lê Thị Mỹ Hạnh Thành uỷ viên

25 Nguyễn Thanh Hoàng Thành uỷ viên

26 Huỳnh Văn Hùng Thành uỷ viên

27 Vũ Quang Hùng Thành uỷ viên

28 Nguyễn Thị Thanh Hưng Thành uỷ viên

29 Phan Văn Kha Thành uỷ viên

30 Vũ Ngọc Liên Thành uỷ viên

31 Trần Văn Miên Thành uỷ viên

32 Lê Quang Nam Thành uỷ viên

33 Trần Văn Nam Thành uỷ viên

Page 479: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015)

479

34 Phạm Nhật Phi Thành uỷ viên

35 Lê Văn Phúc Thành uỷ viên

36 Nguyễn Văn Phụng Thành uỷ viên

37 Trần Đình Quỳnh Thành uỷ viên

38 Nguyễn Bá Sơn Thành uỷ viên

39 Trần Văn Sơn Thành uỷ viên

40 Huỳnh Thị Tam Thanh Thành uỷ viên

41 Nguyễn Thành Thành uỷ viên

42 Cao Xuân Thắng Thành uỷ viên

43 Ngô Xuân Thắng Thành uỷ viên

44 Lương Nguyễn Minh Triết Thành uỷ viên

45 Lê Minh Trung Thành uỷ viên

46 Lê Văn Trung Thành uỷ viên

47 Trần Văn Trường Thành uỷ viên

48 Nguyễn Ngọc Tuấn Thành uỷ viên

49 Phùng Tấn Viết Thành uỷ viên

50 Ngô Quang Vinh Thành uỷ viên

51 Nguyễn Đình Vĩnh Thành uỷ viên

52 Ngô Thị Kim Yến Thành uỷ viên

Page 480: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 481: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

481

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1997 - 2010), Nxb. Đà Nẵng 2013.

2. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam: Biên niên sự kiện Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (1975 - 2005), Tam Kỳ, 2007.

3. Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Nam, Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng thành phố Đà Nẵng: Lịch sử Bộ đội Biên phòng Quảng Nam - Đà Nẵng (1959 - 1997), Nxb. Đà Nẵng, 2004.

4. Bộ chỉ huy quân sự thành phố: Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân thành phố Đà Nẵng (1945 - 2000), Nxb. Công an nhân dân. Hà Nội, 2002.

5. Báo Quảng Nam - Đà Nẵng (1975 - 1996). Lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

6. Báo Đà Nẵng (1997 - 2010). Lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

7. Công an thành phố Đà Nẵng: Công an nhân dân thành phố Đà Nẵng Lịch sử Biên niên, tập 2 (1975 - 1996), Nxb. Đà Nẵng, 1995.

8. Cảng Đà Nẵng: Truyền thống Cảng Đà Nẵng (tái bản), Nxb. Đà Nẵng, 2011.

9. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XXI Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, 2015.

10. Đảng bộ huyện Hòa Vang: Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Hòa Vang (1975 - 2005), Nxb. Đà Nẵng, 2005.

11. Đảng bộ quận Hải Châu: Lịch sử đấu tranh cách mạng quận Hải Châu (1975 - 2005), Nxb. Đà Nẵng, 2005.

Page 482: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

482

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

12. Đảng bộ quận Sơn Trà: Lịch sử đấu tranh cách mạng quận Sơn Trà (1975 - 2005), Nxb. Đà Nẵng, 2005.

13. Đảng bộ quận Ngũ Hành Sơn: Lịch sử Đảng bộ quận Ngũ Hành Sơn (1975 - 2005), Nxb. Đà Nẵng, 2005.

14. Đảng bộ quận Thanh Khê: Lịch sử Đảng bộ quận Thanh Khê (1975 - 2005), Nxb. Đà Nẵng, 2005.

15. Đảng bộ quận Liên Chiểu: Lịch sử Đảng bộ quận Liên Chiểu (1975 - 2005), Nxb. Đà Nẵng, 2005.

16. Đảng bộ quận Sơn Trà: Lịch sử đấu tranh cách mạng quận Sơn Trà (1975 - 2005), Nxb. Đà Nẵng, 2005.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), ngày 04 tháng 7 năm 2002.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), ngày 05 tháng 01 năm 2004.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), ngày 29 tháng 9 năm 1975.

25. Nguồn tư liệu lưu trữ gồm: Chỉ thị, Nghị quyết, Báo cáo năm, Báo cáo chuyên đề, Văn kiện Đại hội... hiện lưu tại:

a. Văn phòng Thành ủy Đà Nẵngb. Kho tư liệu Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵngc. Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵngd. Văn phòng Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Hòa Vang

Page 483: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

MỤC LỤC

Lời giới thiệu .....................................................................................05

Dẫn nhập sự thay đổi địa giới hành chính thành phố Đà Nẵng (1975 - 2015) .................................................................................................07

PHẦN MỘT

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG THỜI KỲ TRỰC THUỘC TỈNH QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG (1975 - 1996)

Chương Một..............................................................................15NHANH CHÓNG ỔN ĐỊNH TÌNH HÌNH, GIỮ VỮNG

AN NINH - CHÍNH TRỊ; KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU GIẢI PHÓNG (3/1975 - 12/1978)..........................................15

I. GIỮ VỮNG AN NINH - CHÍNH TRỊ, THỰC HIỆN NHỮNG NHIỆM VỤ CẤP THIẾT NGAY SAU NGÀY GIẢI PHÓNG (29/3 -30/4/1975) .......................................................................................... 15

II. XÂY DỰNG, CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CÁCH MẠNG VỮNG MẠNH, PHỤC HỒI SẢN XUẤT VÀ ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (5/1975 - 1977) ................................... 36

III. THÀNH LẬP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG; ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP, TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP, THƯƠNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ .............................................................................................. 61

Page 484: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

Chương Hai ........................................................................................ 81

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC CÓ CHIẾN TRANH, VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG ĐỂ TÌM HƯỚNG ĐI THÍCH HỢP (1/1979 - 12/1985) .....81

I. GIỮ VỮNG AN NINH CHÍNH TRỊ, TÍCH CỰC HƯỞNG ỨNG PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC TẠI BIÊN GIỚI PHÍA BẮC VÀ TÂY NAM ....................................................................... 81

II. KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN TRONG TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC CÓ CHIẾN TRANH, RA SỨC PHÁT HUY THẾ MẠNH CỦA THÀNH PHỐ, TỪNG BƯỚC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (1979-1982) ................................................................................................... 91

III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, GÓP PHẦN THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU ĐẠI HỘI V CỦA ĐẢNG ĐỀ RA (1983-1985) ................. 115

Chương Ba ........................................................................................ 145

BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 - 1990) .............................................................................................. 145

I. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ ĐÀ NẴNG LẦN THỨ III (9-1986) ....... 145

II. NHỮNG CHUYỂN BIẾN BAN ĐẦU TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG ........................................ 150

Chương Bốn ..................................................................................... 187

TỪNG BƯỚC KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - XÃ HỘI; XÁC ĐỊNH XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG TRỞ THÀNH “VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN” THEO MỤC TIÊU CHUNG CỦA ĐẢNG (1991 - 1996) ..................... 187

I. TĂNG CƯỜNG ỔN ĐỊNH AN NINH - CHÍNH TRỊ, KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN ................ 187

Page 485: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

II. TỪNG BƯỚC KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, ĐẨY LÙI KHỦNG HOẢNG, TẠO ĐÀ CHO SỰ PHÁT TRIỂN ........................................ 196

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG TRỞ THÀNH “VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN” THEO MỤC TIÊU CHUNG CỦA ĐẢNG ............................................ 210

PHẦN HAI

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG THỜI KỲ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG (1997 - 2015)

Chương Năm ................................................................................... 227

NHỮNG NĂM ĐẦU THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG (1997 - 2000) ................................................................. 227

I. BƯỚC CHUYỂN MÌNH CỦA MỘT THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG ........................................................................ 227

II. TẠO ĐỘNG LỰC ĐỂ VƯƠN LÊN, TRỞ THÀNH MỘT ĐÔ THỊ HIỆN ĐẠI TRƯỚC THỀM THIÊN NIÊN KỶ MỚI .................... 246

III. NHẬN DIỆN NHỮNG TRỞ LỰC ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ............................................... 265

Chương Sáu...................................................................................... 275

BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN MỤC TIÊU XÂY DỰNG “THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH” (2001 - 2005) ........... 275

I. THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG “KHAI THÁC QUỸ ĐẤT, TẠO VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG” NHẰM XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ “GIÀU MẠNH, VĂN MINH”, VỮNG BƯỚC TIẾN VÀO THIÊN NIÊN KỶ MỚI ............................. 275

II. NHỮNG THÀNH TỰU BƯỚC ĐẦU VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA - XÃ HỘI TRÊN CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG MỘT “ĐÀ NẴNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH” (2001-2005) ........................291

Page 486: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

Chương Bảy...................................................................................... 317

PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG THEO HƯỚNG VĂN MINH, HIỆN ĐẠI, BỀN VỮNG, XỨNG ĐÁNG LÀ TRUNG TÂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA MIỀN TRUNG (2005 - 2010) ................................................ 317

I. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC QUY HOẠCH ĐÔ THỊ, HOÀN CHỈNH CƠ SỞ HẠ TẦNG; PHÁT HUY NHỮNG LỢI THẾ VỐN CÓ, TỪNG BƯỚC XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG TRỞ THÀNH “VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG” ....................................................... 317

II. NHỮNG KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA - XÃ HỘI TRONG CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG TRỞ THÀNH MỘT ĐÔ THỊ BỀN VỮNG, LÀ THÀNH PHỐ ĐỘNG LỰC CỦA MIỀN TRUNG (2005-2010) ......................................335

Chương Tám .................................................................................... 381

TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH SỰ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT SỐ 33-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ, BẰNG CÁC CHỦ TRƯƠNG CÓ TÍNH ĐỘT PHÁ (2010-2015) ................................................................................................. 381

I. THỰC HIỆN CÁC ĐỘT PHÁ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG NGÀY CÀNG VĂN MINH, HIỆN ĐẠI ..............................................................................................381

II. PHÁT HUY DÂN CHỦ, TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỮNG MẠNH, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG THÀNH MỘT “THÀNH PHỐ CÓ MÔI TRƯỜNG SỐNG TỐT” .............................................................................................. 415

KẾT LUẬN ....................................................................................... 441

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1997 - 2015) ................................................................................. 463

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 481

Page 487: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế
Page 488: BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG · hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là đối với thế

NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNGLô 103 - Đường 30 tháng 4 - Thành phố Đà NẵngĐT: 05113 797814 - 3797823 - Fax 0511 3797875

Chịu trách nhiệm xuất bản:Giám đốc TRƯƠNG CÔNG BÁO

Chịu trách nhiệm nội dung:Tổng biên tập NGUYỄN KIM HUY

Biên tập: HUỲNH KIM HÙNGBìa & Trình bày: LÊ HOÀNG QUÝSửa bản in: VÕ HÀ

In 800 cuốn, khổ 16 x 24 cm tại công ty Cổ phần In và Dịch vụ Đà Nẵng. Địa chỉ số 420 Lê Quẩn, TP. Đà Nẵng. Số ĐKXB: 4555-2016/CXBIPH/01-198/ĐaN. QĐXB số 500/QĐ-NXBĐaN, cấp ngày 16/12/2016. Số ISBN: 978-604-84-1907-3. In xong và nộp lưu chiểu tháng 12/2016.