Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

71
Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế CHƯƠNG 1: TÀI CHÍNH CÔNG VÀ CƠ SỞ KINH TẾ CHO NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ 1.1. Tổng quan chung về tài chính công 1.1.1. Khái niệm của tài chính công Khái niệm Thuật ngữ tài chính công được hiểu là sự hợp thành bởi ý nghĩa và phạm vi của hai thuật ngữ “tài chính” và “công”. Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Thuật ngữ công hay công cộng: xét về ý nghĩa, thuật ngữ công có thể hiểu trên các khía cạnh: - Về quan hệ sở hữu (đối với tài sản, các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ) là sở hữu công cộng; - Về mục tiêu hoạt động: là vì lợi ích công cộng; - Về chủ thể tiến hành hoạt động: là các chủ thể thuộc khu vực công; - Về pháp luật điều chỉnh: là các luật công. Như vậy, Tài chính công là sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước bằng việc sử dụng quyền lực hợp pháp của Nhà nước (trước tiên là quyền lực chính trị) phân phối và phân phối lại của cải xã hội (chủ yếu là sản phẩm mới được tạo ra), để thực hiện các chức năng kinh tế và xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận của Nhà nước. Đặc trưng: từ những luận giải trên cho thấy các đặc trưng của tài chính công là: - Về mặt sở hữu: các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính công thuộc sở hữu công cộng, sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện, thường gọi là sở hữu nhà nước. - Về mặt mục đích: các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính công được sử dụng vì lợi ích chung toàn xã hội, của toàn quốc và của cả cộng đồng. - Về mặt chủ thể: các hoạt động thu, chi bằng tiền trong tài chính công do chủ thể thuộc khu vực công tiến hành. Các quan Trang 1

description

Tài liệu cho dân KT

Transcript of Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Page 1: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

CHƯƠNG 1: TÀI CHÍNH CÔNG VÀ CƠ SỞ KINH TẾ CHO NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ

1.1. Tổng quan chung về tài chính công

1.1.1. Khái niệm của tài chính công

Khái niệm

Thuật ngữ tài chính công được hiểu là sự hợp thành bởi ý nghĩa và phạm vi của hai thuật ngữ “tài chính” và “công”.

Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ.

Thuật ngữ công hay công cộng: xét về ý nghĩa, thuật ngữ công có thể hiểu trên các khía cạnh:

- Về quan hệ sở hữu (đối với tài sản, các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ) là sở hữu công cộng;

- Về mục tiêu hoạt động: là vì lợi ích công cộng;

- Về chủ thể tiến hành hoạt động: là các chủ thể thuộc khu vực công;

- Về pháp luật điều chỉnh: là các luật công.

Như vậy, Tài chính công là sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước bằng việc sử dụng quyền lực hợp pháp của Nhà nước (trước tiên là quyền lực chính trị) phân phối và phân phối lại của cải xã hội (chủ yếu là sản phẩm mới được tạo ra), để thực hiện các chức năng kinh tế và xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận của Nhà nước.

Đặc trưng: từ những luận giải trên cho thấy các đặc trưng của tài chính công là:

- Về mặt sở hữu: các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính công thuộc sở hữu công cộng, sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện, thường gọi là sở hữu nhà nước.

- Về mặt mục đích: các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính công được sử dụng vì lợi ích chung toàn xã hội, của toàn quốc và của cả cộng đồng.

- Về mặt chủ thể: các hoạt động thu, chi bằng tiền trong tài chính công do chủ thể thuộc khu vực công tiến hành. Các quan hệ tài chính công là quan hệ kinh tế nảy sinh gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ công mà một bên của quan hệ là chủ thể thuộc khu vực công.

- Về mặt pháp luật: các quan hệ tài chính chịu sự điều chỉnh bởi các “luật công”, dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật.

Phân biệt phạm trù tài chính công và tài chính nhà nước: Tài chính công khác với tài chính nhà nước ở hai điểm sau đây:

- Tài chính công không gắn với các hoạt động mang tính kinh doanh thu lợi nhuận, còn tài chính nhà nước thì bao gồm cả các hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước.

Trang 1

Page 2: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

=> Tài chính công chỉ bao gồm tài chính của các hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận của nhà nước như: Ngân sách nhà nước, Tài chính của các đơn vị hành chính sự nghiệp, Các quỹ dự trữ của nhà nước

Tài chính nhà nước, ngoài tài chính của các hoạt động phi lợi nhuận, còn bao gồm tài chính của các hoạt động

- Tài chính công gắn với nhiệm vụ chi tiêu phuc vụ việc thưc hiện các chức năng vốn có của nhà nước, còn tài chính nhà nước thì còn bao gồm cả các hoạt động chi tiêu phục vụ việc cung ứng những hàng hoá và dịch vụ thông thường tại các doanh nghiệp nhà nước.

1.1.2. Đặc điểm của tài chính công:

- Tài chính công liên quan đến sở hữu công và các đặc điểm kinh tế của Nhà nước. Tài chính công chịu sự điều chỉnh của các luật : luật ngân sách Nhà nước, luật tổ chức bộ máy Nhà nước, các luật thuế.

- Tài chính công bao gồm các quỹ tiền tệ, trong đó lớn nhất là quỹ ngân sách Nhà nước và các quỹ ngoài ngân sách

- Tài chính công được sử dụng để cung cấp các hàng hóa dịch vụ phục vụ các lợi ích cộng đồng và không vì mục tiêu lợi nhuận

1.1.3. Chức năng của tài chính công

1.1.3.1. Chức năng phân phối

Chức năng phân phối của tài chính công là khả năng khách quan mà nhờ đó Nhà nước có thể chiếm hữu và chi phối một phần của cải xã hội (trước hết là sản phẩm mới được tạo ra ) để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội do Nhà nước đảm nhiệm.

Đối tượng phân phối của tài chính công là của cải xã hội, trong đó chủ yếu là sản phẩm mới được tạo ra.

Nhà nước là chủ thể phân phối của tài chính công.

Kết quả trực tiếp của việc vận dụng chức năng phân phối của tài chính công là các quỹ tiền tệ của Nhà nước được hình thành và sử dụng.

1.1.3.2. Chức năng điều chỉnh và kiểm soát

Chức năng điều chỉnh và kiểm soát của tài chính công là khả năng khách quan mà nhờ đó Nhà nước có thể điều chỉnh lại và xem xét lại tính đúng đắn, hợp lý của quá trình Nhà nước tham gia phân phối của cải xã hội và sử dụng các quỹ tiền tệ, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội.

Đối tượng điều chỉnh và kiểm soát của tài chính công là quá trình phân phối của cải xã hội (trong đó chủ yếu là sản phẩm mới tạo ra) để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.

Kết quả điều chỉnh và kiểm soát của tài chính công : đảm bảo cho quá trình phân phối của cải xã hội để tạo lập các quỹ tiền tệ của Nhà nước được đúng đắn, hợp lý, góp phần điều chỉnh hoạt động tài chính của các chủ thể kinh tế- xã hội theo định hướng của Nhà nước.

Trang 2

Page 3: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

1.1.4. Phân loại tài chính công

1.1.4.1. Các quỹ tài chính công trong ngân sách Nhà nước

Ngân sách Nhà nước bao gồm quỹ ngân sách Nhà nước và một số quỹ khác, Các quỹ này đều có thu, chi nằm trong dự toán do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

Qũy Ngân sách Nhà nước là một bộ phận các khoản tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay, có trên tài khoản của Ngân sách Nhà nước các cấp. Qũy Ngân sách Nhà nước được quản lý tại kho bạc Nhà nước

Một số quỹ khác trong Ngân sách Nhà nước : các khoản thu để lại cho đơn vị chi quản lý qua Ngân sách Nhà nước, các quỹ mang tính trung gian trong quá trình thực hiện cấp phát thanh toán các khoản chi Ngân sách Nhà nước.

1.1.4.2. Các quỹ tài chính công ngoài Ngân sách Nhà nước

Các quỹ tài chính công ngoài Ngân sách Nhà nước như : Qũy BHXH, Qũy dự trữ quốc gia, các quỹ chuyên dùng khác.

Các quỹ tài chính công ngoài ngân sách vẫn chịu sự quản lý của chính quyền, nhưng được tách khỏi Ngân sách và có tính độc lập nhất định. Nguồn hình thành các quỹ tài chính ngoài ngân sách có thể 100% từ Ngân sách Nhà nước, cũng có thể một phần từ Ngân sách Nhà nước, một phần từ nguồn khác, hoặc 100% từ các nguồn khác.

1.2. Vai trò chính phủ và tài chính công

1.2.1. Chính phủ với việc phân phối lại thu nhập

a) Khái niệm : Phân phối lại thu nhập xã hội là sự can thiệp của Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật, của các chính sách để vận động, thuyết phục những người có thu nhập cao đóng góp để cùng nhà nước giúp đỡ cộng đồng và những người có thu nhập thấp.

b) Nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập- Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản do được thừa kế tài sản, do

hành vi tiêu dung và tiết kiệm khác nhau, do kết quả kinh doanh..- Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động: khả năng và kĩ năng lao

động dẫn đến sự khác nhau về thu nhập, chế độ làm việc, nghề nghiệp và tính chất công việc..

c) Đường Lorenz và hệ số Gini Đường Lozen : phản ánh thu nhập giữa các nhóm dân số trong một quốc gia

Trang 3

Page 4: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Đường Lozen- Trục hoành biểu thị phần trăm cộng dồn của dân số và được sắp xếp theo thứ tự thu

nhập tăng dần.Trục tung là tỷ lệ trong tổng thu nhập mà mỗi phần trăm trong dân số nhận được. Đường chéo là đại diện của sự phân phối thu nhập "hoàn toàn công bằng".

- Đường Lozen cho thấy mối quan hệ định lượng giữa tỷ lệ phần trăm của dân số có thu nhập và tỷ lệ phần trăm trong tổng thu nhập nhận được trong một khoảng thời gian nhất định –

- Khoảng cách giữa đường chéo và đường Lozen là một dấu hiệu cho biết mức độ bất bình đẳng. Đường Lozen càng xa đường chéo thì mức độ bất bình đẳng càng lớn, phần trăm thu nhập của người nghèo nhận được giảm đi. Chính phủ phải dung các chính sách phân phối để kéo đường cong Lozen gần

với đường phân giác. Hệ số GINI: Hệ số Gini thường được sử dụng để biểu thị mức độ bất bình đẳng

trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp cư dânHệ số GINI(G) = Diện tích (A)/ Diện tích (A+B)

Hệ số GINI có thể nhận được giá trị từ 0 đến 1.

G= 0 phân phối thu nhập hoàn toàn bình đẳng

G= 1 phân phối thu nhập hoàn toàn bất bình đẳng

d) Chính phủ với chức năng phân phối lại thu nhập-  Thông qua chính sách thuế: cụ thể và rõ nhất là thuế thu nhập cá nhân và thuế tiêu thụ

đặc biệt. Thuế thu nhập cá nhân động viên thu nhập của những người có thu nhập ở một mức khá cao so với mặt bằng xã hội .Thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào người mua sắm, sử dụng một số hàng hóa, dịch vụ thuộc diện xa xỉ.

- Trợ cấp :+  Thông qua các chính sách an sinh xã hội vĩ mô

+ Thông qua các cuộc vận động, các phong trào hỗ trợ

+ Thông qua việc hỗ trợ cho các đối tượng khó khăn, thuộc diện chính sách.

Trang 4

Page 5: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Công thức tính: Hệ số GINI được tính bằng cách lấy 1 trừ đi thương của tích giữa 2 số phần trăm cộng dồn chi tiêu bình quân 1 người 1 tháng của 2 người kế tiếp nhau (sắp xếp chi tiêu bình quân 1 người 1 tháng (giá tháng 1 của năm cần tính và cùng một mặt bằng giá) theo thứ tự tăng dần) và hiệu số phần trăm cộng dồn của chính hai người đó. Hệ số GINI (G) được tính theo công thức sau:

Trong đó:Fi - là phần trăm cộng dồn dân số đến người thứ iYi - là phần trăm cộng dồn chi tiêu đến người thứ iSau đây là ví dụ tính Hệ số GINI theo 5 nhóm thu nhập của dân cư. Năm nhóm thu nhập được hình thành bằng cách sắp xếp thu nhập bình quân đầu người theo thứ tự tăng dần và chia mỗi nhóm gồm 20% dân số. Ta có bảng số liệu để tính hệ số GINI như sau:

BẢNG SỐ LIỆU ĐỂ TÍNH HỆ SỐ GINI

 

 

Thứ tự nhóm-i

 

 

TNBQ đầu người/tháng

 

(1000đ)

 

 

Tỷ trọng dân số của từng 

nhóm 

 

 

 

 

Tỷ trọng thu nhập từng 

nhóm

 

 

Tỷ lệ

cộng dồn

 

 

Fi-Fi-1

 

 

Yi+Yi-1

 

 

(Fi-Fi-1)(Yi+Yi-1)Dân số 

(Fi)Thu nhập (Yi)

A 1 2 3=(1x2) 4 5 6 7 8=(6x7)

1 141,75 0,2 0,0584 0,2 0,0584 0,2 0,0584 0,011687

2 240,66 0,2 0,0992 0,4 0,1576 0,2 0,2161 0,043214

3 346,98 0,2 0,1430 0,6 0,3007 0,2 0,4583 0,091662

4 514,21 0,2 0,2120 0,8 0,5126 0,2 0,8133 0,162662

5 1182,27 0,2 0,4874 1 1 0,2 1,5126 0,302528

Tổng cộng

48517,40 1 1         0,611753

Thay số liệu vào công thức ở trên hệ số GINI tính được:G = 1 - 0,611753 ≈ 0,3882

Trang 5

Page 6: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

1.2.2. Độc quyền và vai trò của chính phủ

- Thị trường cạnh tranh: nhiều người bán, nhiều người mua và không chủ thể nào có thể can thiệp giá. Tự do tham gia và rút lui khỏi thị trường, hàng hóa là duy nhất, không có sự can thiệp của chính phủ.

- Độc quyền là tình trạng thị trường chỉ có một hoặc một số ít người bán, sản phẩm không có hàng hóa thay thế gần gũi.

- Nguyên nhân xuất hiện độc quyền :

+ Do được phép của Chính phủ. Trong một số hoàn cảnh nhất định với một số ngành chủ đạo thì Chính phủ thường cho phép nó tồn tại và hoạt động dưới dạng độc quyền

+ Nhà nước nắm giữ quá nhiều nền kinh tế.

+ Do chế độ bản quyền, tạo cho người giữ bản quyền một vị thế độc quyền trong một khu vực địa lý nhất định

- Can thiệp của Chính phủ:

+ Sử dụng thuế để giảm bớt lợi nhuận của ngành độc quyền.

+ Các chính sách chống độc quyền, hạn chế các hành vi và các cơ cấu thị trường có thể tạo ra độc quyền.

+ Khuyến khích cạnh trạnh, giảm bớt rào cản thâm nhập thị trường, trợ cấp doanh nghiệp vừa và nhỏ, dỡ bỏ ngăn cách thị trường trong nước và thị trường quốc tế.

+ Kiểm soát giá cả của các công ty Nhà nước hoạt động độc quyền.

1.2.3. Các yếu tố ngoại lai và vai trò của chính phủ

1.2.3.1. Khái niệm

Ngoại ứng là các chi phí hoặc lợi ích mà bên thứ ba (không phải là người mua hay người bán) gánh chịu do các giao dịch thị trường và không được phản ánh trong giá cả hàng hóa.

Ngoại ứng tiêu cực là những chi phí áp đặt lên một đối tượng thứ ba (ngoài người mua và người bán trên thị trường), nhưng chi phí đó lại không được phản ánh trong giá cả thị trường.

Ngoại ứng tích cực là những lợi ích mang lại cho bên thứ ba (không phải là người mua và người bán ) và lợi ích đó cũng không được phản ánh vào giá bán.

1.2.3.2. Ngoại ứng tiêu cực

Chi phí ngoại ứng biên (MEC) là chi phí tăng thêm mà nhóm thứ ba phải gánh chịu do việc sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa hoặc dịch vụ. Chi phí ngoại ứng biên là một phần của chi phí xã hội biên, tuy nhiên nó lại không được phản ánh trong giá cả hàng hóa.

Giả sử ngành công nghiệp giấy hoạt động trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo. Cân bằng thị trường sẽ tại điểm A, nơi đường cầu (D) cắt đường cung (S). Giá cả hiện tại của giấy là 100 $/ tấn, và sản lượng của ngành là 5 tỷ tấn giấy mỗi năm tại mức giá này. Đường cầu D phản ánh lợi ích cá nhân biên mà người mua nhận được từ mỗi tấn giấy.

Trang 6

Page 7: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Giả định là việc sản xuất và tiêu dùng giấy chỉ đem lại lợi ích cho người mua, khi đó lợi ích xã hội biên của giấy sẽ bằng với lợi ích cá nhân biên của người mua, và đường cầu D cũng phản ánh lợi ích xã hội biên của giấy.

Đường cung dựa trên chi phí biên của doanh nghiệp khi sản xuất thêm 1 đơn vị sản phẩm. Nhưng đường chi phí biên của doanh nghiệp không phản ánh được tất cả các chi phí mà xã hội phải chịu khi sản xuất thêm một đơn vị giấy.

Giả sử chi phí ngoại ứng biên là cố định và bằng 10$ cho mỗi tấn giấy được sản xuất thêm. Chi phí ngoại ứng biên là 10$/tấn là không được tính đến trong các quyết định sản lượng khi sản xuất giấy. Nhưng chi phí ngoại ứng là một phần chi phí xã hội trong việc sản xuất giấy giống các chi phí khác như lương hay chi phí nguyên liệu. Chi phí biên mà doanh nghiệp dựa vào đó để đưa ra quyết định của mình là chi phí cá nhân biên (MPC). Để xác định được chi phí xã hội biên, chi phí cá nhân biên (MPC) phải được cộng thêm với chi phí ngoại ứng biên (MEC)

MSC = MPC + MEC

Vì MEC = 10 và không đổi tại tất cả các mức sản lượng, đường MSC sẽ nằm trên đường MPC. Khoảng cách giữa MSC và MPC là 10, không phụ thuộc vào mức sản lượng. Cân bằng thị trường tương ứng với điểm A, tại đó:

MPC = MSB

Cân bằng hiệu quả sẽ tương ứng với điểm B, tại đó chi phí xã hội biên của hàng hóa, đã bao gồm cả chi phí ngoại ứng biên, bằng với lợi ích xã hội biên của nó.

MSC = MPC+ MEC = MSB

Sản lượng cân bằng ở mức 5 triệu tấn giấy là sản lượng không hiệu quả vì chi phí xã hội biên của nó bằng 110$/tấn tại điểm G, trong khi lợi ích xã hội biên của nó chỉ là 100$/ tấn. Lợi ích xã hội ròng bằng với diện tích BGA sẽ đạt được nếu các nhà sản xuất giảm sản lượng giấy từ 5 triệu tấn xuống 4,5 triệu tấn. Khi có ngoại ứng tiêu cực, sản lượng được sản xuất ra sẽ dư thừa, vượt quá mức sản lượng hiệu quả mà xã hội cần.

Trang 7

Chi phí, lợi ích

Page 8: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Hình 1.1 Cân bằng thị trường, ngoại ứng tiêu cực và hiệu quả

Sản lượng cân bằng 5 tấn/ năm là không hiệu quả vì MSC> MSB tại mức sản lượng này. Mức sản lượng hiệu quả tương ứng với điểm B, 4,5 tấn/năm. Giá cả là 105$/tấn. Sản lượng giảm từ 5 tấn xuống 4,5 tấn làm giảm chi phí xã hội biên của giấy từ 110$ xuống 105$ và tạo ra lợi ích ròng tương đương với diện tích BGA.

1.2.3.3. Ngoại ứng tích cực

Khi có ngoại ứng tích cực, giá cả hàng hóa là thấp hơn lợi ích xã hội biên của hàng hóa. Ví dụ, giả sử việc tiêm chủng tạo ra một ngoại ứng tích cực. Những người tiêm chủng sẽ có được lợi ích cá nhân, tuy nhiên họ cũng cung cấp lợi ích cho những người không tiêm chủng bằng việc giảm số lượng những người bị ốm vò dịch bệnh và làm giảm việc lan rộng của bệnh. Ngoại ứng tích cực của tiêm chủng là việc giảm khả năng bị nhiễm bệnh cho người khác.

Cân bằng thị trường tại điểm U. Tại điểm này, lượng tiêm chủng là 10 triệu/ năm với mức giá là 25$/đơn vị. Giả sử lợi ích ngoại biên (lợi ích tăng thêm của những người thứ ba không phải là người mua hoặc người bán ) là 20$/đơn vị tiêm chủng. Lợi ích biên mà người tiêu dùng dựa vào đó để đưa ra các quyết định là lợi ích cá nhân biên Cân bằng thị trường tương ứng với điểm mà tại đó lợi ích cá nhân biên MPBi bằng với chi phí xã hội biên của tiêm chủng. Giả sử chi phí cá nhân biên của tiêm chủng phản ánh chính xác chi phí xã hội biên. Lợi ích xã hội biên thực tế ở mức sản lượng cân bằng 10 triệu đơn vị mỗi năm là 45$, cao hơn giá cả (25$/đơn vị ). Lợi ích xã hội biên thực tế là tổng của lợi ích cá nhân biên mà người tiêu dùng nhận được và lợi ích ngoại ứng biên (MEB) mà những người thứ ba nhận được.

MPBi + MEB = MSB

Khi có ngoại ứng tích cực, lợi ích cá nhân biên sẽ thấp hơn lợi ích xã hội biên tại bất kỳ mức sản lượng nào

Trang 8

Sản lượng

D= MSB

S= MPC

MPC+ MEC= MSC

10B

G

A

4.5 5

110

105

100

Page 9: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Hình 1.2 Cân bằng thị trường, ngoại ứng tích cực và hiệu quả

Thị trường cân bằng tại điểm U, tại đó MPBi = MSC. Sản lượng là 10 triệu mũi tiêm chủng một năm là không hiệu quả vì MSB> MSC tại điểm này. Mức sản lượng hiệu quả là mức sản lượng 12 triệu mũi tiêm chủng, tương ứng với điểm V. Giá cả mà người tiêu dùng phải trả giảm từ 25$ xuống 10$. Việc gia tăng sản lượng để đạt mức sản lượng hiệu quả là tăng lợi ích ròng tương ứng với diện tích hình UZV.

Sản lượng sản xuất ra sẽ thấp hơn mức sản lượng hiệu quả vì lợi ích xã hội biên tại điểm cân bằng thị trường là cao hơn chi phí xã hội biên. Sản lượng hiệu quả của tiêm chủng là tương ứng với điểm V. Tại điểm này, lợi ích xã hội biên của tiêm chủng bằng với chi phí xã hội biên. Điều kiện biên của hiệu quả đã được đáp ứng tại điểm này vì :

MPBi + MEB = MSB = MSC

Với mức sản lượng hiệu quả ở V, chi phí xã hội biên của tiêm chủng là 30$. Để đạt được mức sản lượng này, giá cả của tiêm chủng phải giảm xuống 10$, tương đương với điểm H trên đường cầu tiêm chủng. Lợi ích xã hội ròng được thể hiện bằng diện tích tam giác UZV sẽ đạt được nếu sản lượng tăng lên mức tương ứng với mức sản lượng ở điểm V.

1.2.3.4. Xử lý ngoại ứng bằng thuế và trợ cấp

a) Đánh thuế điều chỉnh ngoại ứng tiêu cực

Giả sử đánh thuế vào doanh nghiệp sản xuất giấy gây ô nhiễm nước do doanh nghiệp gây ra. Chi phí ngoại ứng biên của mỗi đơn vị sản phẩm MEC = 10$, thuế được đánh là :

T = MEC

Trang 9

Sản lượng

D= MPB

S= MSC

MPB+ MEC= MSB

z

H

U

V

10 12

30

25

10

Chi phí, lợi ích

45

Page 10: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Thuế được đánh 10$/tấn giấy bằng với chi phí ngoại ứng biên của sản xuất giấy. Thuế đánh vào mỗi đơn vị sản lượng giấy được sản xuất ra làm tăng chi phí cá nhân biên của việc sản xuất. Việc tăng chi phí do thuế làm điểm cân bằng sẽ giảm từ 5 triệu xuống 4,5 triệu (mức sản lượng hiệu quả của xã hội )

Hình 1.3 Đánh thuế điều chỉnh ngoại ứng

Thuế điều chỉnh T = 10$/đơn vị sản lượng làm tăng chi phí cá nhân biên của doanh nghiệp lên một lượng tương đương với chi phí ngoại ứng biên và giúp đạt được mức sản lượng hiệu quả. Doanh thu thuế được thể hiện bằng diện tích hình FBJH. Doanh thu này bằng với tổng chi phí ngoại ứng tại mức sản lượng hiệu quả. Đánh thuế cho phép đạt được phúc lợi ròng tương đương với diện tích BGA.

Với mức thuế 10$/tấn, doanh thu thuế sẽ là 45 triệu $ tại mức sản lượng4,5 triệu tấn giấy và được thể hiện bởi diện tích hình FBIH. Sau khi đánh thuế, chi phí ô nhiễm của sản xuất giấy đối với người sử dụng nguồn nước sẽ giảm. Ban đầu chi phí này là 50 triệu $ (10 $/tấn x 5 triệu tấn ), sau khi có thuế, sản lượng giảm xuống 4,5 triệu, chi phí ô nhiễm của việc sản xuất giấy giảm xuống 45 triệu $.

Thuế điều chỉnh không làm giảm ô nhiễm nước xuống bằng 0. Nó làm tăng chi phí sử dụng nước để phản ánh tổn thất biên của những người sử dụng nguồn nước. Nhà sản xuất giấy, khi sử dụng nước, buộc phải so sánh chi phí bổ sung do thuế (10$/đơn vị sản lượng ) với các biện pháp thay thế khác để xử lý nước thải và khi đó sẽ quyết định sử dụng nước như thế nào khi phải chịu chi phí này. Số tiền thuế thu được có thể đem sử dụng cho nhiều mục đích. Nếu có thể xác định những người ị ảnh hưởng do việc sử dụng nước thì có thể sử dụng tiền thuế (45 triệu $) để đền bù cho họ.

Thuế điều chỉnh ngoại ứng tiêu cực có thể có tác động sau:

1.Tăng giá cả của giấy và làm giảm sản lượng đến mức sản lượng hiệu quả mức sản lượng mà tại đó chi phí xã hội biên cân bằng với lợi ích xã hội biên của giấy

Trang 10

Sản lượng

D= MSB

S= MPC

S’ = MPC+ T= MSC

B

G

A

4.5 5

T

Tổn thất phúc lợi

J

H

F

Doanh thu thuế = tổng chi phí ngoại ứng

Chi phí, lợi ích

110

105

100

95

Page 11: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

2. Chuyển giao thu nhập từ những người sản xuất giấy và người tiêu dùng cho những người sử dụng nguồn nước và những người khác bằng cách : giảm thuế đánh vào họ, hoặc cung cấp cho họ hàng hóa, dịch vụ nhiều hơn vì chính phủ có nhiều tiền hơn để tài trợ.

3. Làm giảm nhưng không loại trừ hoàn toàn ô nhiễm nguồn nước và làm giảm tổn hại đối với những người sử dụng nguồn nước

b) Sử dụng trợ cấp điều chỉnh ngoại ứng tích cực

Trợ cấp là một khoản thanh toán của chính phủ cho người mua hoặc người bán để mức giá mà người tiêu dùng phải trả giảm xuống. Khoản thanh toán này phải bằng với lợi ích ngoại ứng biên của hàng hóa, dịch vụ.

Giả sử sẽ trả cho mỗi người đi tiêm chủng một khoản tiền là 20$. Khoản trợ cấp này sẽ được cộng với lợi ích cá nhân biên cho mỗi lần tiêm chủng.

Tác động của trợ cấp làm tăng lợi ích tiêm chủng cho những người thứ ba không phải là người mua hay người bán từ 200 triệu $ lên 259 triệu $ mỗi năm (20$/ người x 12 triệu tiêm chủng/ năm). Chính phủ thực hiện việc này bằng cách trợ cấp 240 triệu $ cho 12 triệu người tiêm chủng mỗi năm và bằng diện tích hình RVXY. Khoản trợ cấp này được trả bởi tiền thuế do chính phủ thu được.

Hình 1.4 Trợ cấp điều chỉnh ngoại ứng tích cực

Trợ cấp giúp cho người tiêu dùng tăng cầu đối với tiêm chủng và đạt được sản lượng hiệu quả. Sau khi có trợ cấp, giá ròng của tiêm chủng giảm xuống 10$, giúp cho sản lượng đạt 12 triệu mũi/năm. Diện tích hình RVXY phản ánh tổng trợ cấp tại mức sản lượng hiệu quả

1.2.4. Chính phủ với việc cung cấp hàng hóa công cộng

a) Khái niệm

Hàng hóa công cộng (sản phẩm công cộng) là loại hàng hoá mà ngay cả khi một người đã dùng, thì người khác vẫn có thể dùng được. Nói một cách khác, là với sản phẩm công

Trang 11

Sản lượng

D= MPBi

S= MSC

D’= MPBi + 20$= MSB

z

X

U

V

10 12

30

25

10

Chi phí, lợi ích

45

Y

R

Trợ cấp

Page 12: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

cộng, mọi người đều tự do hưởng thụ các lợi ích do các sản phẩm đó mang lại và sự hưởng thụ của người này, không làm giảm thiểu khả năng hưởng thụ của người khác.

b) Đặc điểm của hàng hóa công cộng

- Các hàng hóa công là các hàng hóa không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng.

- Các hàng hóa công có thuộc tính không loại trừ trong tiêu dùng

c) Hàng hóa công thuần túy và hàng hóa cá nhân thuần túy

- Hàng hóa công thuần túy là hàng hóa thỏa mãn hai thuộc tính, đó là không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng và không có tính loại trừ trong tiêu dùng.

- Hàng hóa cá nhân thuần túy là những hàng hóa sau khi người sản xuất đã nhận lại đầy đủ chi phí cơ hội cho việc sản xuất của mình, thì nó chỉ tạo ra lợi ích cho người mua nó mà không tạo ra lợi ích cho bất kì ai khác.

d) Hàng hóa công không thuần túy

- Hàng hóa công có thể tắc nghẽn là những hàng hóa mà khi có thêm nhiều người cùng sử dụng chúng thì có thể gây ra sự ùn tắc hay tắc nghẽn khiến lợi ích của những người tiêu dùng trước đó bị giảm sút.

- Hàng hóa công có thể loại trừ bằng giá là những hàng hóa mà lợi ích do chúng tạo ra có thể định giá.

e) Tính chất hàng hóa công cộng

- Hàng hóa công cộng là một dạng đặc biệt của của ngoại ứng tích cực. Nếu một người tạo ra một hàng hóa mà mọi người trong cộng đồng đều nhận được tác động tích cực của nó thì người đó tạo ra một hàng hóa công cộng.

- Việc xác định một hàng hóa công cộng là thuần túy hay không có thể thay đổi theo điều kiện thị trường và công nghệ

- Hàng hóa công cộng không nhất thiết do khu vực công sản xuất và rất nhiều hàng hóa công cộng do khu vực tư nhân sản xuất.

+ Ví dụ: Với không khí trong sạch thì sự tiêu dùng không khí của mọi người không ảnh hưởng lẫn nhau.

Nếu để các cá nhân riêng lẻ đảm nhận cung cấp các sản phẩm công cộng nói trên sẽ xảy ra tình trạng cung ứng với số lượng không đầy đủ hoặc không được cung ứng.

+ Hình 1.5: Ví dụ về hàng công cộng thuần tuý A

Trang 12

Page 13: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

b) Phân tích

- Mỗi điểm trên đường cầu D1D1 của người thứ nhất cho thấy cá nhân đó phải trả bao nhiêu cho đơn vị cuối cùng của loại hàng hoá A. Nó cho biết lợi ích biên đối với cá nhân đó.

- Đường D2D2 cho thấy lợi ích biên của người thứ hai về A.

- Đường DD cho thấy lợi ích biên của xã hội được xác định bằng cách cộng theo chiều thẳng đứng lợi ích biên của các cá nhân.

Tại mức sản lượng Q, lợi ích biên xã hội là P = P1 + P2 .

+ Hình 1.5 cũng cho thấy chi phí biên của việc sản xuất hàng công cộng A:

Nếu không có ngoại ứng sản xuất thì chi phí biên cá nhân và chi phí biên xã hội của việc sản xuất sản phẩm A sẽ trùng nhau. Mức có hiệu quả về mặt xã hội để sản xuất mặt hàng này là Q, nơi mà lợi ích biên xã hội bằng chi phí biên của xã hội.

Nếu hàng hóa A giao cho tư nhân sản xuất và tiêu thụ người số 1 có thể trả giá là P1, để có lượng Q do một doanh nghiệp cung ứng có sức cạnh tranh sản xuất và định giá ở mức chi phí biên. Người số 1 chọn điểm (Q, P1) ở đó chi phí biên P1 bằng lợi ích biên cá nhân của người đó thu nhận được từ đơn vị cuối cùng của mặt hàng công cộng đó. Người số 2 có chịu trả tiền để có số lượng hàng hóa lớn hơn Q không? Sẽ là không bởi vì với mức giá P 2<P1 họ vẫn được hưởng Q, do đó người số 2 sữ trở nên là người ăn không hưởng mức Q như người thứ nhất.

Cuối cùng tổng lượng tư nhân sản xuất và tiêu thụ trên thị trường tự do cạnh tranh luôn nhỏ hơn lượng Q* có hiệu quả về mặt xã hội.

Trang 13

DD

MC

D2D2

D1D1

P = P1 + P2

P1

P2

Q Q* Lượng hàng hoá công cộng

Hình 1.5: Hàng hóa công cộng

P

Page 14: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Ngân sách nhà nước

2.1.1. Khái niệm, đặc điểm Ngân sách nhà nước

2.1.1.1. Khái niệm

Trong thực tiễn, khái niệm ngân sách thường để chỉ tổng số thu và chi của một đơn vị trong một thời gian nhất định. Một bảng tính toán các chi phí để thực hiện một kế hoạch, hoặc một chương trình cho một mục đích nhất định của một chủ thể nào đó. Nếu chủ thể đó là Nhà nước thì được gọi là ngân sách Nhà nước.

Điều 1 của Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ hai, năm 2002 cũng khẳng định:

Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

Về bản chất của ngân sách nhà nước, đằng sau những con số thu, chi đó là các quan hệ lợi ích kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể khác như doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân trong và ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách.

Ngân sách nhà nước (NSNN) Việt Nam gồm: ngân sách trung ương (NSTW) và ngân sách địa phương (NSĐP). Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền Nhà nước ta hiện nay ngân sách địa phương bao gồm: ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh) ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp huyện) và ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã)

2.1.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia. Nó bao gồm những quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tài chính quốc gia, cụ thể:

Quan hệ tài chính giữa nhà nước và công dân

Quan hệ tài chính giữa nhà nước với doanh nghiệp

Quan hệ tài chính giữa nhà nước với tổ chức xã hội

Quan hệ tài chính giữa nhà nước với quốc tế

- Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của nhà nước, và việc thực hiện các chức năng của nhà nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định;

- Hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối lại các nguồn tài chính, nó thể hiện ở hai lãnh vực thu và chi của nhà nước;

Trang 14

Page 15: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

- Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công cộng;

- Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét khác biệt của ngân sách nhà nước với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng riêng, sau đó mới được chi dùng cho những mục đích đã định;

- Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.

2.1.2. Vai trò của Ngân sách nhà nước

a) Ngân sách nhà nước - công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của nhà nước

Đây là vai trò lịch sử của ngân sách nhà nước, mà trong cơ chế nào và trong thời đại nào ngân sách nhà nước cũng phải thực hiện. Vai trò này của ngân sách nhà nước được xác định trên cơ sở bản chất kinh tế của ngân sách nhà nước. Sự hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải có các nguồn tài chính để chi tiêu cho những mục đích xác định. Các nhu cầu chi tiêu của nhà nước phải được thỏa mãn từ các nguồn thu bằng hình thức thuế và thu ngoài thuế.

Việc huy động nguồn thu vào tay nhà nước để đảm bảo các yêu cầu chi tiêu cần thiết chú ý đến ba vấn đề sau:

- Mức động viên vào ngân sách nhà nước đối với các thành viên trong xã hội qua thuế và các khoản thu khác (có liên quan) phải hợp lý. Mức động viên cao hay thấp đều có tác dụng tiêu cực.

- Tỉ lệ động viên vào ngân sách nhà nước đối với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vừa đảm bảo hợp lý với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, vừa đảm bảo cho đơn vị cơ sở có điều kiện tích tụ vốn để tái sản xuất mở rộng.

- Các công cụ kinh tế được sử dụng tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và thực hiện các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.

b) Ngân sách nhà nước - công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của nhà nước.

Khi đề cập đến các công cụ tài chính trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội, nhà nước không thể không sử dụng một công cụ rất quan trọng, đó là ngân sách nhà nước. Bởi lẽ, phạm vi phát huy vai trò của ngân sách nhà nước rất rộng và trên một mức độ lớn, nó tương đồng với phạm vi phát huy chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Hay nói cách khác, do cơ chế thị trường cần thiết phải có sự điều chỉnh vĩ mô từ phía nhà nước. Song, nhà nước cũng chỉ có thể thực hiện đìêu chỉnh thành công khi có nguồn tài chính đảm bảo, tức là khi sử dụng triệt để và có hiệu quả công cụ ngân sách nhà nước. Vai trò đìêu tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của ngân sách nhà nước có thể được khái quát hóa trong các lĩnh vực kinh tế xã hội và thị trường như sau :

Về mặt kinh tế

Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng hình thành cơ cấu

Trang 15

Page 16: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.

- Ngân sách nhà nước cung cấp nguồn kinh phí để nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, để trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

- Việc hình thành các doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo.

- Hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết đảm bảo cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ cấu mới, cao hơn.

- Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.

- Các nguồn vay nợ từ nước ngoài và trong nước sẽ tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn vay nợ của nhà nước cũng là một vấn đề cần phải xem xét thận trọng khi quyết định thực hiện các biện pháp huy động tiền vay.

Về mặt xã hội

- Đầu tư của ngân sách để thực hiện các chính sách xã hội : chi Giáo dục - đào tạo, y tế, kế hoạch hóa gia đình, văn hóa, thể thao, truyền thanh, chi bảo đảm xã hội, sắp xếp lao động và việc làm, trợ giá mặt hàng ...

- Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm điều tiết thu nhập để phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp.

- Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng công cụ NSNN để điều chỉnh các vấn đề xã hội không đơn giản, đòi hỏi phải được nghiên cứu đầy đủ và phải có sự thống nhất giữa chính sách và biện pháp. Chẳng hạn: Khi trợ giá điện, xăng dầu, công tác truyền hình …thì những đối tượng được hưởng không phải là người nghèo, mà chính là những người có thu nhập trung bình hoặc cao.

Về mặt thị truờng

Ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các chính sách về ổn định giá cả, thị trường và chống lạm phát.

Bằng công cụ thuế, phí, lệ phí, vay và chính sách chi ngân sách nhà nước có thể điều chỉnh được giá cả, thị trường một cách chủ động.

- Một chính sách ngân sách thắt chặt hay nới rộng đều có thể tác động mạnh mẽ đến cung - cầu xã hội.

- Việc huy động của ngân sách nhà nước dưới các hình thức thuế, phí, lệ phí, vay và kể cả bảo hiểm xã hội trên GDP và GNP chiếm tỉ trọng cao thì sự cung ứng vốn đầu tư dài hạn, vốn tiền tệ ngắn hạn của các nhà đầu tư và đầu tư của dân sẽ giảm, vốn tự đầu tư sẽ khan hiếm hơn. Mặt khác, nó sẽ làm cho cầu về hàng hóa, dịch vụ của dân cư giảm xuống, nhưng ngân sách nhà nước lại có điều kiện để tăng cầu với quy mô lớn và chi cho đầu tư lớn sẽ kích thích tăng cung

- Ngược lại, nếu ngân sách nhà nước huy động trên GDP và GNP chiếm tỉ trọng thấp thì Trang 16

Page 17: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

nguồn tự đầu tư tăng lên, thúc đẩy tăng cung, đồng thời kích thích tăng cầu về hàng hóa, dịch vụ, nhưng ngân sách lại không có đìêu kiện để tăng cầu và chi cho đầu tư.

- Trên thị trường tài chính, nhà nước vay vốn với lãi suất cao sẽ có tác động tăng cung ứng vốn từ phía các nhà đầu tư và tiết kiệm tiêu dùng để dành cho tương lai, đồng thời làm giảm lượng cầu về vốn đầu tư của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Ngược lại, khi lãi suất các khoản vay của nhà nước giảm xuống dưới mức lợi tức bình quân toàn xã hội, các nhà đầu tư sẽ tìm môi trường đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà không muốn cho nhà nước vay.

Mặt khác, lãi suất các khoản vay của nhà nước có vị trí quan trọng trên thị trường chứng khoán, có thể tham gia điều tiết quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán.

Ở đây cần nhấn mạnh đến dự trữ nhà nước. Trong cơ chế thị trường, nhà nước không thể bắt buộc các doanh nghiệp bán hàng theo giá cả quy định, mà ngược lại, giá cả là do thị trường quyết định, phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu và các yếu tố khác. Trong quá trình biến đổi của mình, sẽ có lúc giá cả lên cao, gây ra những cơn sốt nhất thời và có lúc giá cả lại xuống quá thấp.

Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và kích thích sản xuất phát triển, nhà nước cần phải theo dõi sự biến động của giá cả trên thị trường và phải có nguồn dự trữ về hàng hóa và tài chính để điều chỉnh kịp thời. Ngưồn dự trữ này được hình thành từ kinh phí cấp phát của ngân sách nhà nước. Do đó, sự thành công của nhà nước trong điều chỉnh giá cả và thị trường thông qua công cụ dự trữ nhà nước phụ thuộc vào kinh phí cấp phát của ngân sách nhà nước cho mục đích này.

- Chống lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình đìêu chỉnh thị trường. Nguyên nhân gây ra và thúc đẩy lạm phát có nhiều và xuất phát từ nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thu, chi tài chính của Nhà nước.

- Khi đồng vốn ngân sách được sử dụng hợp lý và có hiệu quả thì tác dụng tích cực của nó rất lớn, ngược lại sẽ gây ra bất ổn định trên thị trường, thúc đẩy lạm phát tăng lên.

- Phát hành thêm tìên để bù đắp thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng lạm phát gia tăng.

- Mặt khác, ngân sách nhà nước có cân bằng hay không sẽ tác động sâu sắc đến sự cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế, bởi vì:

+ Cân bằng của ngân sách tác động trực tiếp đến sự cân bằng của cán cân thương mại.

+ Cân bằng của ngân sách thực hiện được hay không nói lên khả năng trả nợ đến hạn các khoản vay nước ngoài có thực hiện được hay không

2.2. Quản lý thu và chi Ngân sách nhà nước

2.2.1. Quản lý thu Ngân sách nhà nước

Thu ngân sách Nhà nước được thực hiện bằng các hình thức: bắt buộc bao gồm thuế, phí, lệ phí; bán tài nguyên, tài sản quốc gia, các khoản thu trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước mà còn có các hình thức động viên khác như hình thức trưng thu, trưng mua... Quản lý quá trình thu NSNN chính là quản lý các

Trang 17

Page 18: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

hình thức động viên đó.

Yêu cầu cơ bản quản lý quá trình thu NSNN là:

- Đảm bảo tập trung một bộ phận nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà nước để trang trải các khoản chi phí cần thiết của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử.

Việc động viên một bộ phần nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà nước là yêu cầu cơ bản, không thể thiếu được đối với mọi Nhà nước. Mức độ tập trung nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà nước tuỳ thuộc vào chức năng nhiệm vụ mà Nhà nước đảm nhận, tuỳ thuộc vào cách thức sử dụng nguồn lực tài chính của Nhà nước cũng như khả năng tạo ra nguồn lực tài chính của nền kinh tế.

Thông thường, đứng trên góc độ kinh tế, mức động viên nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà nước thường chịu sự tác động của các yếu tố sau đây:

+ Mức thu nhập GDP bình quân đầu người

+ Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế.

+ Khả năng khai thác và xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên

+ Tỷ lệ tiết kiệm của khu vực tư nhân để đầu tư

+ Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước

+ Tổ chức bộ máy thu nộp

- Đảm bảo khuyến khích, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra nguồn thu của NSNN ngày càng lớn hơn.

Thực hiện đầy đủ các yêu cầu này, chính là khắc phục tư tưởng thu đơn thuần, thu thoát ly thực trạng kinh tế. Vì vậy, trong quản lý thu NSNN từ việc hoạch định chính sách, chế độ thu cho đến tổ chức thực hiện phải luôn luôn phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế, thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh để có chính sách, chế độ, biện pháp chỉ đạo thu thích hợp. Không vì yêu cầu đảm bảo nhu cầu trang trải các khoản chi phí của Nhà nước mà gia tăng các khoản thu một cách phi thực tế, gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh, làm hạn chế nguồn thu NSNN trong tương lai.

Quản lý quá trình thu NSNN phải coi mục tiêu bồi dưỡng nguồn thu là mục tiêu có tính chất quyết định đến sự ổn định và phát triển của thu NSNN.

- Trong quá trình quản lý thu phải coi trọng yêu cầu công bằng xã hội, đảm bảo thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các chính sách, chế độ thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành.

Thu NSNN xét ở một góc độ nào đó là sự phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư thông qua bộ máy quyền lực của Nhà nước.

Sự phân phối đó là cần thiết cả về khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Song sự phân phối đó luôn luôn chứa đựng trong nó những mâu thuẫn về mặt lợi ích. Một sự động viên thiếu công bằng sẽ khoét sâu những mâu thuẫn đó. Khi mức độ mâu thuẫn đạt đến cực điểm sẽ bùng nổ những cuộc đấu tranh xã hội làm phương hại đến tính ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia.

Do đó, nội dung quản lý quá trình thu NSNN không đơn thuần là quản lý các hình

Trang 18

Page 19: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

thức thu và số thu NSNN mà phải tổ chức quản lý các yếu tố quyết định đến số thu của NSNN.

Trong quá trình quản lý thu NSNN phải luôn luôn coi trọng khía cạnh công bằng xã hội. Công bằng xã hội trong quản lý thu NSNN đòi hỏi việc tổ chức động viên phải sát với khả năng đóng góp của người dân theo nguyên tắc công bằng theo chiều ngang và chiều dọc. Để đảm bảo được yêu cầu của công bằng xã hội, trong quá trình tổ chức, quản lý, động viên các khoản thu của NSNN không thể tiến hành một cách chủ quan, tuỳ tiện mà phải tuân thủ đầy đủ chính sách chế độ thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Nói chung các chính sách, chế độ thu đó đã được dân chúng thừa nhận gián tiếp qua cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của họ, ở nước ta cơ quan quyền lực đó là Quốc hội.

Trong thực tế có nhiều cách thức, phương pháp quản lý thu NSNN. Song phương pháp quản lý thu NSNN phổ biến hiện nay là:

- Xác lập một hệ thống chính sách thu đồng bộ phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. Hệ thống chính sách thu đó không chỉ quan tâm đến lợi ích tạo ra nguồn thu trước mắt cho Nhà nước mà phải có tác động đến quá trình phát triển kinh tế theo hướng có lợi nhất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc làm nhiều hơn, kiềm chế và hạn chế lạm phát, thực hiện chủ trương mở cửa, từng bước cân đối cán cân thanh toán quốc tế.

- Trên cơ sở chính sách, chế độ thu, gắn với diễn biến của quá trình hoạt động kinh tế, hoạch định kế hoạch thu sát, đúng, phù hợp với diễn biến thực tế khách quan của tình hình kinh tế hàng năm.

Kế hoạch thu sát đúng là biện pháp quan trọng để tổ chức quá trình quản lý thu cụ thể. Đồng thời kết quả thực hiện kế hoạch thu sẽ cho phép nhìn nhận lại các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, cũng như các biện pháp tổ chức thu thích hợp.

- Xác lập các biện pháp tổ chức thu phù hợp với từng khoản thu cụ thể của NSNN. ở đây cần phải tập trung vào hai vấn đề chủ yếu:

Một là, xây dựng quy trình thu cho từng loại cụ thể.

Hai là, tổ chức bộ máy thu gọn nhẹ, hợp lý đạt hiệu quả cao, đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ thu có đầy đủ năng lực, trình độ và phẩm chất.

2.2.2. Quản lý chi Ngân sách nhà nước

Chi NSNN có quy mô và mức độ rộng lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực, ở nhiều địa phương, ở tất cả các cơ quan công quyền. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường chi NSNN vừa mang tính chất không hoàn trả trực tiếp, lại vừa có tính chất hoàn trả trực tiếp.

Vì vậy, việc quản lý các khoản chi NSNN hết sức phức tạp. Xét theo yếu tố thời hạn của các khoản chi NSNN, có thể hình dung nội dung cụ thể quản lý các khoản chi NSNN bao gồm:

+ Quản lý các khoản chi đầu tư phát triển

+ Quản lý các khoản chi thường xuyên

+ Quản lý các khoản chi trả nợ

+ Quản lý chi dự phòng Trang 19

Page 20: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Các khoản chi kể trên được trang trải bằng các nguồn tài chính khác nhau, mang tính chất khác nhau. Do đó trong việc hoạch định các phương pháp và nguyên tắc quản lý cụ thể cũng khác nhau.

Trong quản lý các khoản chi của NSNN phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây:

- Đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để các cơ quan công quyền thực hiện các nhiệm vụ được giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của Nhà nước. NSNN là công cụ tài chính quan trọng của Nhà nước. Vì vậy, bất luận trong điều kiện nào, việc quản lý các khoản chi của NSNN phải hướng vào mục tiêu chính là đảm bảo nguồn tài chính cho việc thực hiện các nhiệm vụ của các cơ quan công quyền đã được Nhà nước giao phó. Tuy nhiên trong thực tế, việc đảm bảo yêu cầu này không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là trong điều kiện khả năng tập trung nguồn lực tài chính của Nhà nước còn hạn chế, yêu cầu thực hiện, nhiệm vụ của các cơ quan công quyền lại cấp bách và rộng lớn.

Nhằm giải quyết mâu thuẫn này trong quản lý các khoản chi của NSNN cần thiết phải xác lập được thứ tự ưu tiên các khoản chi, đồng thời về phía Nhà nước, cần có sự cân nhắc khi giao nhiệm vụ cho các cơ quan công quyền.

- Quản lý các khoản chi phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả tiết kiệm và hiệu quả là yêu cầu sống còn trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Đặc biệt việc quản lý các khoản chi NSNN lại càng phải coi trọng việc tiết kiệm và hiệu quả. Đó là tiêu thức cơ bản khi xác lập các biện pháp quản lý. Luận điểm này được xác lập dựa trên những căn cứ sau đây:

Một là, xuất phát từ tính chất của các khoản chi của NSNN có quy mô, mức độ rộng lớn phức tạp, lợi ích của các khoản chi mang lại thường ít gắn liền với lợi ích cụ thể, cục bộ. Do đó sự quan tâm của người sử dụng nguồn lực tài chính của Nhà nước phần nào bị hạn chế.

Hai là, so với các khoản chi ở các khâu tài chính khác trong nền kinh tế, thì các khoản chi của NSNN nói chung có tỷ trọng lớn và có ảnh hưởng đến toàn bộ vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước. Vì vậy các khoản chi của NSNN không đúng mục đích, không tiết kiệm, hiệu quả kém sẽ gây tổn hại to lớn đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội.

Xuất phát từ những lý do đó, trong quản lý các khoản chi của NSNN phải coi trọng mục tiêu tiết kiệm và hiệu quả.

Nhằm đạt được tiêu chuẩn tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý các khoản chi của NSNN cần thiết phải quản lý chặt chẽ từ khâu xây dựng kế hoạch, xây dựng định mức, thường xuyên phân tích, đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện các khoản chi của NSNN. Trên cơ sở đó đổi mới các biện pháp chi và cơ cấu chi, chuyển một NSNN mang tính chất bao cấp sang một NSNN phù hợp với kinh tế thị trường.

- Gắn nội dung quản lý các khoản chi NSNN với nội dung quản lý các mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Tăng cường việc làm, ổn định cán cân thành toán, kìm chế lạm phát luôn luôn là mục tiêu phấn đấu ở mọi quốc gia. Các mục tiêu đó có mối quan hệ hữu cơ với các khoản chi của NSNN. Các mục tiêu đó là cơ sở đặt ra yêu cầu cho việc thực hiện các khoản chi của NSNN. Ngược lại, các khoản chi của NSNN lại có tác động to lớn đến các mục tiêu của kinh tế vĩ mô.

Trang 20

Page 21: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Chính vì vậy, trong quản lý chi NSNN cần phải chú ý mối quan hệ này, làm thế nào để các khoản chi NSNN có tác động tích cực đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Ngược lại, phải trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô để bố trí các khoản chi cho thích hợp.

Để thực hiện các yêu cầu trên, điều quan trọng là phải tìm ra những biện pháp quản lý chi thích hợp đối với từng khoản chi cụ thể ở những hoàn cảnh cụ thể.

Trong thực tiễn, đối với từng khoản chi có nhiều biện pháp quản lý khác nhau.

Song biện pháp quản lý chi NSNN chung nhất là:

+ Thiết lập các định mức chi. Định mức chi vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch chi, vừa là căn cứ để thực hiện việc kiểm soát các khoản chi của NSNN. Nguyên tắc chung để thiết lập các định mức chi là vừa phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tiễn khách quan của các đơn vị thụ hưởng nguồn kinh phí của NSNN, vừa phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả.

+ Xác lập thứ tự ưu tiên các khoản chi của NSNN theo mức độ cần thiết đối với từng khoản chi trong tình hình cụ thể về phát triển kinh tế, xã hội, về việc thực hiện các chức năng của cơ quan công quyền.

+ Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát chi của các cơ quan có thẩm quyền.

+ Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước. Đồng thời qua quá trình thực hiện thanh tra, kiểm tra và kiểm toán phát hiện những bất hợp lý trong chính sách, chế độ nhằm hoàn thiện bổ sung chính sách, chế độ.

2.3. Hệ thống ngân sách và phân cấp ngân sách

2.3.1. Hệ thống ngân sách

Hệ thống ngân sách nhà nước được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách.

Tại nước ta, tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy Nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo Hiến pháp. Mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. Việc hình thành hệ thống chính quyền Nhà nước các cấp là một tất yếu khách quan nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước. Chính sự ra đời của hệ thống chính quyền Nhà nước nhiều cấp đó là tiền đề cần thiết để tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước nhiều cấp.

Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền Nhà nước, phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước ta hiện nay, hệ thống ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương:

2.3.1.1. Ngân sách trung ương

Trang 21

Page 22: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân sách nhà nước. Nó bắt nguồn từ vị trí, vai trò của chính quyền trung ương được Hiến pháp quy định đối với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Ngân sách trung ương cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trung ương (sự nghiệp văn hoá, sự nghiệp an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, đầu tư phát triển…).

Nó còn là trung tâm điều hoà hoạt động ngân sách của địa phương. Trên thực tế, ngân sách trung ương là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn tài chính quốc gia và đảm bảo các nhiệm vụ chi tiêu có tính chất huyết mạch của cả nước. ngân sách trung ương bao gồm các đơn vị dự toán của cấp này, mỗi bộ, mỗi cơ quan trung ương là một đơn vị dự toán của ngân sách trung ương. Ngân sách trung ương bao gồm:

Ngân sách cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh).

Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp huyện).

Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).

2.3.2.2. Ngân sách địa phương

Là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp chính quyền bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp. Ngoài ngân sách xã chưa có đơn vị dự toán, các cấp ngân sách khác đều bao gồm một số đơn vị dự toán của cấp ấy hợp thành.

+ Ngân sách cấp tỉnh phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của chính quyền cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Chính quyền cấp tỉnh cần chủ động, sáng tạo trong việc động viên khai thác các thế mạnh trên địa bàn tỉnh để tăng nguồn thu, đảm bảo chi và thực hiện cân đối ngân sách cấp mình.

+ Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt và cũng có đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác trực tiếp trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố tríđể phục vụ cho mục đích trực tiếp của cộng đồng dân cư trong xã mà không thông qua một khâu trung gian nào. Ngân sách xã là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống ngân sách nhà nước, đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã chủ động khai thác các thế mạnh về đất đai, phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới, thực hiện các chính sách xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự trên địa bàn.

Trong hệ thống ngân sách Nhà nước ta, ngân sách trung ương chi phối phần lớn các khoản thu và chi quan trọng, còn ngân sách địa phương chỉ được giao nhiệm vụ đảm nhận các khoản thu và chi có tính chất địa phương. Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc sau:

Ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể.Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Số bổ sung

Trang 22

Page 23: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

này là khoản thu của ngân sách cấp dưới.Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vị chi thuộc chức năng của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.Ngoài việc bổ sung nguồn thu và uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ chi, không được dùng ngân sách cấp này để chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp khác trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ.

2.3.2. Phân cấp ngân sách

a) Khái niệm

Phân cấp quản lý ngân sách là quá trình Nhà nước trung ương phân giao nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý ngân ngân sách.

Khi nói tới phân cấp quản lý ngân sách nhà nước người ta thường hiểu theo nghĩa trực diện, dễ cảm nhận đó là việc phân giao nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp chính quyền. Thực chất nội dung phân cấp rộng hơn nhiều. Nó giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước Trung ương và các cấp chính quyền nhà nước Địa phương trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến hoạt động của NSNN bao gồm 3 nội dung sau: Quan hệ về mặt chế độ, chính sách; Quan hệ vật chất về nguồn thu và nhiệm vụ chi; Quan hệ về quản lý chu trình ngân sách.

Về nguyên tắc những chế độ nếu đã do trung ương quy định thì các cấp chính quyền địa phương tuyệt đối không được tự tiện điều chỉnh hoặc vi phạm. Ngược lại, trung ương cũng phải tôn trọng thẩm quyền của các địa phương, tránh can thiệp làm mất đi tính tự chủ của họ.

Về quan hệ vật chất trong phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi đây luôn là vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, gây nhiều sự bất đồng nhất trong quá trình xây dựng và triển khai các đề án phân cấp quản lý ngân sách.

Sự khó khăn này bắt nguồn từ sự phát triển không đồng đều giữa các địa phương, sự khác biệt về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội giữa các vùng, miền trong cả nước.

Vì vậy, bất kỳ phương án phân chia, trợ cấp nào cũng khó làm hài lòng các cấp chính quyền địa phương, ổn định ngân sách trong một khoảng thời gian và bổ sung theo mục tiêu có lẽ là phương thức hữu hiệu để giảm bớt sự ỷ lại cũng như điều hoà lợi ích giữa các địa phương.

Mối quan hệ trong chu trình ngân sách nhà nước qua 3 khâu: lập ngân sách; chấp hành và quyết toán ngân sách cũng cần được phân định rõ ràng, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cấp chính quyền

b) Các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

Để đảm bảo phân cấp quản lý ngân sách đem lại kết quả tốt cần phải quán triệt các nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất: Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh của nhà nước và năng lực quản lý của mỗi cấp trên địa bàn.

Trang 23

Page 24: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền về quản lý nhà nước do hiến pháp quy định trong từng thời kỳ. Ngân sách là công cụ không thể thiếu được của các cấp trong việc thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, phân cấp quản lý ngân sách phải phù hợp, nhằm đảm bảo điều kiện vật chất để thực thi nhiệm vụ một cách hiệu quả. Mặt khác, năng lực quản lý của các cấp chính quyền cũng là một nhân tố cần được xem xét kỹ càng trước khi thực hiện phân cấp mạnh cho địa phương. Điều này sẽ hạn chế những tác động tiêu cực như đã bàn đến ở trên trong tiến trình phân cấp. Cần nâng cao năng lực của các cấp chính quyền trong quản lý nguồn lực công trước khi phân cấp mạnh cho họ.

Thứ hai: Đảm bảo vai trò chủ đạo của Ngân sách trung ương và vị trí độc lập của NS địa phương trong hệ thống NSNN thống nhất.

Đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương là một đòi hỏi khách quan, bắt nguồn từ vị trí, vai trò của chính quyền trung ương trong việc cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công cộng có tính chất quốc gia. Hơn nữa, nó còn có vai trò điều tiết, điều hoà đảm bảo công bằng giữa các địa phương.

Ngân sách trung ương tập trung đại bộ phận nguồn thu của quốc gia và thực hiện các khoản chi chủ yếu của quốc gia.

Các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có tác động đến cả nước, các chương trình, dự án quốc gia, các chính sách xã hội quan trọng, điều phối hoạt động kinh tế vĩ mô của đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân sách đều do ngân sách trung ương đảm bảo.

Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội trong phạm vi quản lý ở địa phương mình.

Vị trí độc lập tương đối của nó được thể hiện qua cả ba khâu của chu trình ngân sách: lập, chấp hành và quyết toán ngân sách. Trong phạm vi phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi được ổn định từ ba đến năm năm, các địa phương được chủ động tìm các biện pháp tăng thu hợp pháp để phát triển kinh tế-xã hội, tăng khả năng tự cân đối ngân sách.

Thứ ba: Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp ngân sách nhà nước

Để giảm bớt khoảng cách giàu, nghèo giữa các vùng, các địa phương, trong quá trình phân cấp cần đảm bảo cơ chế điều hoà, trợ cấp giữa trung ương với địa phương, giữa ngân sách cấp trên với ngân sách cấp dưới. Trợ cấp cân đối và trợ cấp có mục tiêu là hai phương thức tài trợ mà chính quyền cấp trên thường sử dụng đối với chính quyền cấp dưới.

Ngoài ra, việc thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng, miền qua chi ngân sách trung ương vào đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội cũng được sử dụng như biện pháp bổ trợ cho hai phương thức trên.

2.4. Năm ngân sách và chu trình ngân sách

2.4.1. Năm ngân sách

Năm ngân sách là giai đoạn mà trong đó dự toán thu, chi ngân sách được Quốc hội quyết

Trang 24

Page 25: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

định có hiệu lực thi hành.

Năm ngân sách ở các nước ngày nay đều có thời hạn bằng một năm dương lịch, nhưng thời điểm bắt đầu và kết thúc năm ngân sách ở mỗi nước khác nhau. Năm ngân sách của Việt Nam cũng giống đại bộ phận các nước như Malaixia, Hàn quốc, Trung quốc trùng với năm dương lịch (1/1/N- 31/12/N). Tuy nhiên, cũng có một số nước năm ngân sách có thời điểm bắt đầu và kết thúc không như vậy, ví dụ: Mỹ, Thái lan từ 1/10 năm trước đến 30/9 năm sau; Anh, Canada, Nhật từ 1/4 năm trước đến 31/3 năm sau; Italia, Na uy, Thuỵ điển từ 1/7năm trước đến 30/6 năm sau. Khi năm ngân sách này kết thúc cũng là thời điểm bắt đầu một năm ngân sách mới.

2.4.2. Chu trình ngân sách

a) Khái niệm

Chu trình ngân sách hay còn gọi là quy trình ngân sách dùng để chỉ toàn bộ hoạt động của một ngân sách kể từ khi bắt đầu hình thành cho tới khi kết thúc chuyển sang ngân sách mới. Một chu trình ngân sách gồm 3 khâu nối tiếp nhau, đó là: lập ngân sách; chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách.

Chu trình ngân sách thường bắt đầu từ trước năm ngân sách và kết thúc sau năm ngân sách. Trong một năm ngân sách đồng thời diễn ra cả ba khâu của chu trình ngân sách đó là: chấp hành ngân sách của chu trình ngân sách hiện tại; quyết toán ngân sách của chu trình ngân sách trước đó và lập ngân sách cho chu trình tiếp theo. Theo Luật NSNN 2002 mối quan hệ đó được minh hoạ như sau:

b) Chu trình ngân sách Việt Nam

Lập NS (n+1)

Chấp hành NS năm (n+1)

Quyết toán NS năm (n+1)

Lập NS (n+2)

Chấp hành NS năm (n+2)

Quyết toán NS năm (n+2)

Lập NS (n+3)

Chấp hành NS năm

(n+3)

Quyết toán NS năm (n+3)

6/n 1/n+1 1/n+2 1/n+3 1/n+4 1/n+5 6/n+5

b) Quy trình ngân sách Việt Nam

Nội dung công việc Thời gian

Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về định mức phân bổ ngân sách và chế độ chi ngân sách quan trọng để làm căn cứ xây dựng dự toán ngân sách nhà nước.

Trước 1/5

Trang 25

Page 26: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Giai đoạn chuẩn bị và lập dự toán ngân sách

Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị về xây dựng dự toán ngân sách nhà nước. Trước 31/5

Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ra thông tư hướng dẫn và thông báo số kiểm tra

Các Bộ, cơ quan Trung ương và Uỷ ban nhân

dân các tỉnh hướng dẫn đơn vị cấp dưới lập dự toán.Trước 10/6

Các cơ quan, đơn vị, các tỉnh gửi dự toán đến

Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chậm nhất 20/7

Bộ Tài chính tổ chức làm việc với các cơ quan Trung ương và địa phương; tổng hợp và lập dự toán ngân sách nhà nước trình Chính phủ.

Từ cuối tháng 7

Chính phủ trình các cơ quan của Quốc hội thẩm tra. Trước 1/10

Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách thẩm tra:

- Tình hình thực hiện ngân sách nhà nước và ngân sách trung ương năm N

- Phương án phân bổ ngân sách trung ương năm N+1

Chậm nhất 5/10

Chính phủ báo cáo giải trình sau phiên họp thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội.

3 ngày sau phiên họp thẩm tra

Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách.

Chậm nhất

12/10

Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến.

Trước ngày 18/10

UBKT&NS hoàn chỉnh báo cáo thẩm tra trước khi khai mạc kỳ họp Quốc hội.

Chậm nhất 10 ngày

Quốc hội họp, thảo luận, chất vấn và quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương.

Trước 15/11

Trang 26

Page 27: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Giai đoạn thẩm tra, phê chuẩn và phân bổ ngân sách

Chính phủ giao dự toán ngân sách nhà nước cho các cơ quan trung ương và địa phương.

Trước 20/11

Uỷ ban nhân dân trình xem xét điều chỉnh lại dự toán trên cơ sở quyết định của Quốc hội sau đó trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thảo luận, quyết định ngân sách địa phương.

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương và phương án phân bổ ngân sách địa phương.

Trước 10/12

Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định dự toán ngân sách huyện và phương án phân bổ ngân sách huyện.

10 ngày sau khi được hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt

Giao dự toán ngân sách xã và các đơn vị sử dụng ngân sách.

Trước ngày 31/12

Giai đoạn chấp hành

Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện dự toán ngân sách đã được quyết định.

Trong năm tài khoá

Trang 27

Page 28: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

CHƯƠNG 3: HỆ THỐNG THUẾ NHÀ NƯỚC

3.1. Khái quát chung hệ thống thuế

3.1.1. Khái niệm và đặc điểm

a) Khái niệm

Dưới chế độ công sản nguyên thủy, con người sống chung, làm chung, ăn chung với nhau, mọi người đều bình đẳng với nhau, không có ai cai trị ai, cho nên mọi thành viên trong xã hội lúc bấy giờ đều không có trách nhiệm đóng góp cho ai một cái gì cả.

Cùng với sự phát triển của xã hội, giai cấp hình thành và Nhà nước ra đời. Nhà nước ra đời, kèm theo nó là bộ máy quản lý để thực hiện quyền lực của mình. Bộ máy quản lý này không tự tạo ra nguồn vật chất để tự nuôi sống mình mà chúng sống dựa vào sự đóng góp của toàn thể dân chúng. Bằng quyền lực của mình, Nhà nước bắt buộc dân chúng phải nộp một phần tài sản của mình cho Nhà nước như là một nghĩa vụ, đó chính là thuế.

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, công bằng xã hội được đặt ra như là một nhu cầu cấp thiết đòi hỏi Nhà nước phải đặc biệt quan tâm. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải hướng sự hoạt động của mình vào sự phát triển toàn diện của dân chúng, quan tâm sấu sắc đến những người có thu nhập thấp . .

Để thực hiện được điều này, bằng các chính sách thuế Nhà nước đã thực hiện việc điều tiết một phần thu nhập của những người có thu nhập cao thông qua các sắc thuế trực thu như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp và một số loại thuế gián thu khác để chi cho một số mục tiêu xã hội. Ở đây thuế phải đảm bảo không hạn chế ý chí làm giàu của các cá nhân trong xã hội, đồng thời phải tăng được nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, nhưng vẫn giữ được tính nhân đạo của thuế.

Thuế là khoản đóng góp mang tính bắt buộc mà nhà nước qui định thành luật để mọi tổ chức kinh tế và người dân phải nộp cho nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước

b) Đặc điểm

- Thứ nhất: Thuế là một biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính quyền lực, tính cưỡng chế, tính pháp lý cao nhưng sự bắt buộc này là phi hình sự.

Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu một bộ phận thu nhập của các pháp nhân và thể nhân thành quyền sở hữu của Nhà nước. Do đó Nhà nước phải dùng quyền lực để thực hiện quyền chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên sự bắt buộc là một tất yếu khách quan, nhưng vì các hoạt động thu nhập của thể nhân và pháp nhân không gây cản trở cho xã hội nên tính bắt buộc này là phi hình sự. Vì vậy có thể nói việc đánh thuế không mang tính hình phạt.

Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, việc đóng góp thuế cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân làm nghiã vụ đóng thuế theo những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao quy định và nếu không thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định.

Trang 28

Page 29: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

- Thứ hai: Thuế tuy là biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính bắt buộc, song sự bắt buộc đó luôn luôn được xác lập trên nền tảng kinh tế-xã hội của người làm nhiệm vụ đóng thuế, do đó thuế bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố kinh tế xã hội.

+ Yếu tố kinh tế thể hiện : Hệ thống thuế trước hết phải kể đến thu nhập bình quân đầu người của một Quốc gia, cơ cấu kinh tế, thực tiễn vận động của cơ cấu kinh tế đó, cũng như chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước. Cùng với yếu tố đó còn phải kể đến phạm vi, mức độ chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng kinh tế của mình.

+ Yếu tố xã hội thể hiện : Hệ thống thuế phải dựa trên phong tục, tập quán của quốc gia, kết cấu giai cấp cũng như đời sống thực tế của các thành viên trong từng giai đoạn lịch sử. Mặt khác thuế còn thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội đảm bảo công bằng xã hội.

Như vậy mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các vấn đề kinh tế, xã hội của quốc gia đó.

- Thứ ba: Thuế là một khoản đóng góp không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. Nghiã là khoản đóng góp của công dân bằng hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số lượng và khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó như là một khoản vay mượn. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế đầu tư của Ngân sách nhà nước cho việc sản xuất và cung cấp hàng hoá công cộng.

Đặc điểm này làm nổi rõ sự khác nhau giữa thuế và lệ phí. Lệ phí được coi là một khoản đối giá giữa Nhà nước với công dân, khi công dân thừa hưởng những dịch vụ công cộng do nhà nước cung cấp phải trả một phần thu nhập của mình cho nhà nước. Tuy nhiên việc trao đổi này thường không tuân thủ theo hình thức trao đổi ngang giá dựa trên quy luật của thị trường.

Tóm lại, Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, nó được thực thi khi hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập tạo ra. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường vai trò của Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng thì vai trò của thuế cũng chiếm vị trí không thể thiếu được trong công tác quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

3.1.2. Cơ sở thuế, thuế suất và cấu trúc thuế suất

3.1.2.1. Cơ sở thuế

a) Tên gọi

Mỗi sắc thuế đều có tên gọi nhằm phân biệt giữa các hình thức thuế khác nhau nhằm phản ánh nội dung chính của hình thức thuế đó. Vì vậy các nhà làm luật thường chọ tên ngắn, gọn, dễ hiểu. Đặt tên cho thuế ngoài mục đích quản lý còn nhằm bảo vệ dân chúng không nộp thuế trùng lắp.

Cách đặt tên thuế được sử dụng phổ biến là:

+ Đặt tên theo đối tượng đánh thuế như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT, thuế TNCN,…

+ Đặt tên theo nội dung như: thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB,…

Đối tượng nộp thuế

Trang 29

Page 30: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

- Trong 1 luật thuế thường quy định rõ ai phải nộp thuế và người đó được gọi là đối tượng nộp thuế.

- Đối tượng nộp thuế có thể là thể nhân hoặc pháp nhân có trách nhiệm phải nộp thuế cho nhà nước, gọi chung là người nộp thuế. Người nộp thuế không nhất thiết là người chịu gánh nặng thuế.

Đối tượng tính thuế (căn cứ tính thuế)

Một cách tổng quát, đối tượng tính thuế là nguồn dẫn xuất trực tiếp của thuế. Đối tượng tính thuế là nguồn vật chất mà người ta tính toán trên đó số tiền thuế phải nộp

b. Thuế suất – cấu trúc thuế suất

Thuế suất là một con số toán học ấn định một số tiền trích ra từ đối tượng tính thuế. Thông thường, thuế suất là một con số tỷ lệ trên giá trị của vật chịu thuế. Đôi khi, nó lại là một số tuyệt đối bằng tiền nhất định đối với từng vật chịu thuế.

Thuế suất biên (MTR) là doanh thu thuế thu được thêm trên giá trị tăng thêm của cơ sở tính thuế khi cơ sở tính thuế tăng lên.

Thuế suất trung bình (ATR) là tỷ số giữa tổng số tiền thuế phải trả chia cho giá trị bằng tiền của cơ sở tính thuế

Cấu trúc thuế suất

- Cấu trúc thuế suất phản ánh mối quan hệ giữa thuế suất và giá trị cơ sở thuế bao gồm các kiểu cấu trúc thuế như sau:

+ Cấu trúc thuế suất tỷ lệ: có mức thu được quy định bằng 1 tỷ lệ % trên cơ sở thuế và không thay đổi theo quy mô cơ sở thuế

Ví dụ: cấu trúc thuế suất tỷ lệ của thuế thu nhập DN là 28%

+ Cấu trúc thuế suất bằng số tuyệt đối cố định: Là loại thuế suất được ấn định bằng một con số tuyệt đối trên đối tượng tính thuế.

Ví dụ: Ở Thụy Điển một phần thuế đặc biệt sử dụng loại thuế suất này, như bia loại 3,6 độ nộp thuế 9,5 cua- ron/lít; thuốc lá gói 0,39 cua-ron/điếu.

+ Cấu trúc thuế suất bằng số tuyệt đối lũy tiến: Là loại thuế suất cũng được ấn định bằng một số tiền tuyệt đối nhưng tăng dần lên theo độ tăng của đối tượng tính thuế. Ví dụ như

Trang 30

ATR =

Tổng số tiền thuế phải trả

Giá trị của cơ sở tính thuếMTR =

ΔGiá trị của cơ sở tính thuế

MTR = ATRThuế suất

Giá trị cơ sở thuế

Page 31: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

thuế môn bài ở Việt Nam.+ Cấu trúc thuế suất tỷ lệ cố định: Là loại thuế suất được ấn định bằng con số tỷ lệ phần trăm trên đối tượng tính thuế và tỷ lệ này không thay đổi theo đối tượng tính thuế. Ví dụ: Thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt ...+ Cấu trúc thuế suất tỷ lệ lũy tiến: Là loại thuế suất được ấn định bằng con số tỷ lệ phần trăm trên đối tượng tính thuế và tỷ lệ này tăng dần lên theo độ lớn của đối tượng tính thuế.

Thuế suất tỷ lệ lũy tiến có hai loại chính: Lũy tiến toàn phần và lũy tiến từng phần.

3.1.2.2. Thuế lũy tiến, thuế tỷ lệ

a) Thuế lũy tiến

Lũy tiến toàn phầnLà loại thuế suất tỷ lệ, tăng theo đối tượng tính thuế và sự gia tăng đó đánh trên toàn

bộ đối tượng tính thuế.

Ví dụ: Ở nước ta, theo pháp lệnh ngày 26/1/1983, thuế lợi tức doanh nghiệp áp dụng đối với các hộ kinh doanh công thương nghiệp, sử dụng thuế suất tỷ lệ lũy tiến toàn phần như sau:

Trong tất cả các loại thuế suất lũy tiến, thuế suất lũy tiến toàn phần có sức điều tiết mạnh hơn cả. Nhược điểm của loại thuế suất này là nó hạn chế ý muốn làm giàu của cá nhân.

Lũy tiến từng phần: Là loại thuế suất tỷ lệ, tăng theo đối tượng tính thuế và sự gia tăng đó đánh trên từng

phần tăng thêm của đối tượng tính thuế.

Ví dụ: Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ở Việt Nam

Đvt: 1000 đ

Bậc Thu nhập bình quân tháng/người

Thuế suất (%)

Trang 31

Bậc Lợị tức chịu thuế 1 tháng (đồng)

Thuế suất (%)

Ngành SX, Vận tải

Ngành dịch vụ

Ngành thương nghiệp, ăn uống

1 Đến 500 12 16 24

2 Đến 1.000 15 20 30

3 Đến 1.500 18 24 38

4 Đến 2.000 22 29 46

5 Đến 2.500 26 34 54

Page 32: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

1

2

3

4

5

Đến 5.000

Trên 5.000 đến 15.000

Trên 15.000 đến 25.000

Trên 25.000 đến 40.000

Trên 40.000

0

10

20

30

40Biểu thuế là một bảng tập hợp các thuế suất cùng một số yếu tố kèm theo.

- TN = 15 tr

Thuế = 5 x 0% + 10 x 10% = 1tr

ATR = = 6,67%

- TN = 25 tr

Thuế = 5 x 0% + 10 x 10% +10 x 20% = 3 tr

ATR = = 12%

- TN = 40 tr

Thuế = 5 x 0% + 10 x 10% + 10 x 20% + 15 x 30% = 7,5 tr

ATR = = 18,75%

- TN= 50 tr

Thuế = 5 x 0% + 10 x 10% + 10 x 20% + 15 x 30%+ 10 x 40% = 11,5 tr

ATR = = 23%

Luật thuế mới

Bậc Thu nhập bình quân tháng/người

(1.000 đồng)

Thuế suất (%)

1

2

3

4

5

6

7

Đến 5.000

Trên 5.000 đến 10.000

Trên 10.000 đến 18.000

Trên 18.000 đến 32.000

Trên 32.000 đến 52.000

Trên 52.000 đến 80.000

Trên 80.000

5

10

15

20

25

30

35 Giảm trừ gia cảnh:

+ Giảm cho bản thân người nộp thuế : 4tr/tháng

+ Giảm cho người phụ thuộc : 1,6 tr/tháng

- TN = 15tr, TN chịu thuế = 5 – 4 = 1 tr

Trang 32

Page 33: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Thuế = 1 x 5% = 0,05 tr

- TN = 15tr,TN chịu thuế = 15 – 4 = 11 tr

Thuế = 5 x 5% + 5 x 10% + 1 x 15% = 0,9 tr

ATR = = 8,18%

- TN = 25 tr, TN chịu thuế = 25 – 4 = 21 tr

Thuế = 5 x 5% + 5 x10% + 8 x 15% + 3 x 20% = 2,55 tr

ATR = = 0,121%

- TN = 40 tr, TNCT = 40 – 4 = 36 tr

Thuế = 5 x 5% + 5 x10% + 8 x 15% + 14 x 20% + 4 x 25% = 5,75 tr

ATR = = 0,16%

- TN = 50 tr, TNCT = 50 – 4 = 46 tr

Thuế = 5 x 5% + 5 x10% + 8 x 15% + 14 x 20% + 14 x 25% = 8,25 tr

ATR = = 0,179%

b) Thuế tỷ lệ

Là loại thuế mà thuế suất trung bình không thay đổi theo giá trị của cơ sở tính thuế.Ví dụ thuế 10% đánh vào mọi mức thu nhập là thuế tỷ lệ vì thuế suất trung bình đối với người có thu nhập 100.000 đồng hay 1 triệu đồng đều bằng 10%. Đối với thuế tỷ lệ thuế suất trung bình đồng thời cũng chính là thuế suất biên.

3.1.3. Các tính chất của hệ thống thuế tối ưu

a) Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách nhà nước

Có rất nhiều về khái niệm thuế, song bất cứ ai cũng đều phải công nhận rằng thuế bao giờ cũng là khoản thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Điều này có thể được lý giải bởi những lý do sau đây:

Thuế là khoản đóng góp mang tính chất pháp lệnh của Nhà nước đối với các thể nhân và pháp nhân trong xã hội.

- Là khoản thu mang tính ổn định tương đối.

- Hình thức thu bao quát được hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập và mọi tiêu dùng xã hội.

- Đảm bảo được tính tự chủ trong cân đối ngân sách.

- Thể hiện một nền tài chính quốc gia lành mạnh.

Theo khảo sát của World Bank tại 85 nước trên thế giới, có đến 60 quốc gia mà khoản thu từ thuế chiếm 80% tổng thu ngân sách Nhà nước.

b) Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế

Trang 33

Page 34: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả, đến quan hệ cung cầu, đến cơ cấu đầu tư và sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế.

Căn cứ vào từng tình huống cụ thể, Nhà nước có thể chủ động điều tiết nền kinh tế bằng thuế. Khi nền kinh tế ở vào giai đoạn cực thịnh Nhà nước có thể tăng thuế để tăng nguồn thu cho ngân sách.

Trong giai đoạn này việc tăng thuế thường không gây ra phản ứng ở người nộp thuế bởi vì ở giai đoạn này thu nhập của người dân rất cao và ổn định nên việc tăng thuế sẽ không ảnh hưởng đến đời sống của họ. Số bội thu ngân sách sẽ được lập thành quỹ dự trữ để đề phòng khi nền kinh tế chuyển sang giai đoạn suy thoái.

Việc tăng thuế trong giai đoạn này sẽ có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của tổng cầu, làm giảm bớt sự tăng trưởng của nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế

bước sang giai đoạn suy thoái, việc giảm thuế sẽ có tác dụng nâng cao tổng cầu, từ đó mà xúc tiến việc phục hưng nền kinh tế.

Thuế có tác dụng trực tiếp đến giá cả, đến thu nhập, vì vậy dựa vào công cụ thuế Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích lũy và đầu tư . Khi ban hành một sắc thuế do những yêu cầu về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, Nhà nước đã có những quy định về đối tượng, phạm vi đánh thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm. Các quy định này xét về bề ngoài là một sự cưỡng chế, nhưng bên trong là nhằm mục đích điều chỉnh những quan hệ kinh tế - xã hội nhất định.

c) Thuế góp phần điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối.

Trong nền kinh tế hàng hóa nói chung, đặc biệt là kinh tế thị trường, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, để thị trường tự điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhập sẽ càng tập trung, tạo ra hai cực đối lập nhau, một thiểu số người sẽ giàu lên nhanh chóng và đa số người nghèo cuộc sống sẽ không được cải thiện.

Tình trạng trên chẳng những liên quan đến vấn đề đạo đức, công bằng mà còn tạo nên sự đối lập giai cấp làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự phát triển kinh tế của một đất nước. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia là kết quả nổ lực cộng đồng của toàn dân, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định của họ.

Thành quả của sự phát triển kinh tế nếu không chia sẻ cho mọi người cùng hưởng thì rõ ràng mất đi sự công bằng. Bởi vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước trong sự phân phối thu nhập trong xã hội, đặc biệt thông qua công cụ thuế.

Vai trò là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội của thuế thể rõ trong thuế trực thu. Ví dụ như thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh vào những người có thu nhập cao. Như vậy ngoài việc tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thuế còn đóng vai trò quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội. Vai trò này còn thể hiện rõ rệt khi sử dụng thuế suất lũy tiến.

Việc điều hòa thu nhập xã hội còn được thể hiện một phần thông qua các sắc thuế gián thu như: Thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt. . . Các loại thuế này thường đánh rất cao vào

Trang 34

Page 35: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

những mặt hàng, dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của các cá nhân có thu nhập tương đối cao so với mức bình quân xã hội.

3.1.4. Phân loại thuế

Hệ thống thuế hiện hành ở Việt Nam

- Thuế GTGT

- Thuế tiêu thụ đặc biệt

- Thuế xuất, nhập khẩu

- Thuế thu nhập doanh nghiệp

- Thuế thu nhập cá nhân

- Thuế tài nguyên

- Thuế chuyển quyền sử dụng đất

- Thuế sử dụng đất nông nghiệp

- Thuế nhà đất

- Thuế môn bài

- Thuế về sử dụng vốn NSNN

3.2. Phân tích tác động của thuế trong thị trường cạnh tranh

3.2.1. Tính hiệu quả của việc đánh thuế

Thuế bao giờ cũng làm thay đổi hành vi của các cá nhân nhưng dù họ có tìm cách thích ứng thế nào đi chăng nữa thì suy cho cùng họ vẫn phải chịu thiệt. Phần lợi ích mà cá nhân bị mất đi do thuế sẽ được chuyển sang cho Chính phủ dưới dạng doanh thu thuế để Chính phủ trang trải cho những khoản chi tiêu công cộng.

Như vậy thuế đã gây ra sự phi hiệu quả mà người ta thường gọi bằng cái tên tổn thất vô ích hay gánh nặng quá mức. Đó là phần mất mát trong phúc lợi của xã hội do thuế gây ra mà không thể bù đắp được bằng doanh thu thuế.

3.2.2. Tác động của thuế đơn vị

Thuế đơn vị là thuế đánh một lượng cố định trên lượng đơn vị sản phẩm bán được. Ví dụ, nếu Chính phủ đánh thuế 3.000 đồng/lít xăng thì đó chính là thuế đơn vị. Thuế đơn vị có đực điểm là mức thuế được quy định là một mức tuyệt đối, vì thế nó không phụ thuộc vào sự thay đổi giá bán của hàng hóa.

Giả sử CP công bố để hạn chế việc uống rượu, CP quyết định đánh thuế T đồng vào mỗi chai rượu được mua trên thị trường.Có nghĩa là người tiêu dùng sẽ là đối tượng chịu thuế luật định. Thực tế có phải người tiêu dùng sẽ trả giá cho mỗi chai rượu cao hơn trước đây T đồng hay không? Điều này sẽ được làm rõ trong hình 2.1

Trang 35

Page 36: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Hình 2.1: Phạm vi ảnh hưởng của thuế đơn vị đánh vào người tiêu dùng

Trước khi có thuế, thị trường cân bằng tại điểm E với giá mỗi chai rượu được bán là Po đồng và lượng rượu trao đổi là Qo chai. Đường cầu D’ của người tiêu dùng là đường thể hiện mức tối đa mà các cá nhân sẵn sàng trả cho mỗi chai rượu mà không cần biết số tiền phải trả đó là cho ai, người bán vay Chính phủ. Vì thế dù có thuế hay không thì tổng mức độ sẵn sàng trả của người tiêu dùng vẫn không thay đổi. Đường cầu D’ là đường thể hiện mức độ sãn sàng trả của người tiêu dùng cho người bán.

Sau khi có thuế người mua biết rằng họ còn có nghĩa vụ nộp thuế T cho Chính phủ. Như vậy mức độ sẵn sàng trả của người tiêu dùng tại mọi điểm dọc trên đường cầu D’ ít hơn lúc trước một lượng bằng T.

Kết quả, toàn bộ đường cầu D’ sẽ dịch chuyển song song xuống dưới đến đường D’ một khoảng đúng bằng T. Cân bằng thị trường chuyển từ E xuống F, với số lượng rượu được bán trên thị trường là Q1. Mức giá tại F là mức mà người mua sẵn sàng trả cho người bán sau khi có thuế ký hiệu là Pb để mức giá mà người bán thực sự nhận được sau khi có thuế. Còn người mua thực sự phải trả thuế T cho Chính phủ nên mức giá người mua thực sự phải trả khi có thuế (Pm) là Pb + T. T chính là khoảng cách dọc giữa D và D’ nên: nếu tương ứng với điểm F thì Pm sẽ tương ứng với điểm H trong hình 2.1.

Như vậy thuế đã tạo ra một sự chênh lệch giữa giá người mua phải trả và giá người bán được nhận. Khoảng chênh lệch đó chính là thuế Chính phủ thu (T = Pm – Pb). So với trước thuế, người mua đã phải trả một mức giá cao hơn, nhưng người bán cũng chỉ nhận được mức giá thấp

Tổng doanh thu thuế mà Chính phủ thu được bằng T nhân với số chai rượu bán ra (Q1) hay chính là diện tích hình chữ nhật PbPmHF. Trong đó phần diện tích PoPmHG là gánh nặng thuế mà người tiêu dùng phải trả còn diện tích PbPoGF là gánh nặng thuế mà người sản xuất phải trả.

Trang 36

Pb

Pm

Po

P(đ)

0

H

E

F

G

DD’

S

T

Q1 Qo Chai rượu

Page 37: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Một vấn đề đặt ra là giả sử Chính phủ vẫn đánh thuế T trên mỗi chai rượu sản xuất ra nhưng không thu thuế này tại khâu tiêu thụ ngay mà từ khi rượu xuất xưởng ví dụ đây là thuế doanh thu. Khi đó người bán sẽ phải trả thuế theo luật như hình 2.2. Cân bằng thị trường trước thuế vẫn ở điểm E, đường cung S là đường thể hiện mức tối thiểu mà người sản xuất sẵn sàng bán hàng hóa của mình cho người tiêu dùng.

Hình 2.2: Phạm vi ảnh hưởng của thuế đơn vị đánh vào người sản xuất

Sau khi có thuế, người sản xuất biết rằng họ không được giữ lại toàn bộ số tiền mà người tiêu dùng trả cho họ mà phải trích T đồng/chai rượu để trả thuế cho Chính phủ. Vì thế tại mọi điểm dọc theo đường cung bây giờ người sản xuất chỉ sẵn sàng bán cho người tieu dùng vói mức giá cao hơn trước khi có thuế một khoản bằng T.

Kết quả, đường cung sẽ dịch chuyển song song lên trên đúng bằng mức thuế. Cân bằng mới của thị trường diễn ra tại H và đó cũng là mức giá Pm mà người mua thực sự phải trả để mua được hàng hóa. Mức giá mà người sản xuất thực sự nhận được không phải là Pm mà là Pm – T hay chính là Pb tương ứng với điểm F.

Hình 2.1 và 2.2 cho thấy thuế đánh vào người sản xuất hay người tiêu dùng thì phạm vi ảnh hưởng kinh tế của thuế cũng hoàn toàn tương tự như nhau.

3.2.3. Tác động của thuế theo giá trị

Tác động của thuế theo giá trị rất giống với với thuế đơn vị. Nguyên tắc cơ bản vẫn là xác định xem thuế là đường cung hoặc cầu thay đổi như thế nào rồi sau đó tính toán điểm cân bằng mới của thị trường.

Hình 2.3 (a) và (b) mô tả phạm vi ảnh hưởng của thuế theo giá trị khi nó đánh vào người tiêu dùng và người sản xuất.

Trang 37

Pb

Pm

Po

0

H

E

F

G

D’

T

Q1 Qo

S’P

S

Chai rượu

Pb

Pm

Po

H

E

F

G

S

P

Page 38: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Hình 2.3(a): Phạm vi ảnh hưởng của thuế giá trị đánh vào người tiêu dùng

Hình 2.3(b): Phạm vi ảnh hưởng của thuế giá trị đánh vào người sản xuất

3.2.4. Độ co giãn của cung và cầu quyết định sự phân chia gánh nặng thuế

Thuế là lượng hàng hóa được mua bán trên thị trường giảm xuống đồng thời làm giá người mua tăng, giá người bán nhận được giảm so với trước khi có thuế. Tuy nhiên, giá người mua phải trả tăng bao nhiêu tùy thuộc độ co giãn của cầu. Nếu cầu co giãn nhiều thì với một mức tăng giá cho trước, lượng cầu sẽ giảm nhiều hơn. Nói cách khác tương ứng với cùng một mức độ giảm xuống của lượng cầu thì giá mà người tiêu dùng thực sự phải trả sẽ tăng ít hơn, người tiêu dùng sẽ phải chịu thiệt ít hơn. Nếu cầu càng ít co giãn thì tương ứng với cùng một mức độ giảm xuống của lượng , giá mà người sản xuất thực sự được nhận giảm nhiều hơn và người sản xuất chịu thiệt nhiều hơn.

Có thể kết luận rằng cầu càng co giãn và cung càng ít co giãn thì gánh nặng thuế sẽ chủ yếu rơi vào người sản xuất và ngược lại cầu càng ít co giãn và cung càng co giãn thì gánh nặng thuế sẽ chủ yếu rơi vào người tiêu dùng.Bằng trực giác cũng có thể thấy gánh nặng thuế của người tiêu dùng (PoPmHG) trong hình 2.4 (a) nhỏ hơn so với gánh nặng thuế của người sản xuất (PbPoGF), lớn hơn tương đối trong hình 2.4 (b).

Trang 38

0

D’

Q1 Qo Chai rượu

Pb

Pm

Po

0

H

E

F

G

D

S’

Q1 Qo Chai rượu

P S

Page 39: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Hình 2.4(a): Phân chia gánh nặng thuế khi cầu co giãn nhiều, cung co giãn ít

Hình 2.4 (b): Phân chia gánh nặng thuế khi cầu co giãn ít, cung co giãn nhiều

- Trường hợp đặc biệt cung có thể co giãn hoàn toàn hoặc hoàn toàn không co giãn có nghĩa là các đường này có dạng nằm ngang hoặc thẳng đứng. Khi đó toàn bộ gánh nặng thuế sẽ rơi vào người tiêu dùng hoặc người sản xuất.

Hình 2.5(a): Cầu hoàn toàn co giãn

Trang 39

Pb

Pm

Po

P(đ)

0

H

E

F

G

D

D’

S

Q1 Qo Chai rượu

Pb

Pm

Po

0

HE

F

G

D’

D’

S

Q1 Qo Chai rượu

Pb

Po≡Pb

0

D

D’

S

Q1 Qo Q

D

P(đ)

P(đ)

Page 40: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Đường cầu nằm ngang thuế làm giá thị trường giảm xuống đúng bằng mức thuế nên người sản xuất phải chịu toàn bộ gánh nặng thuế. Người tiêu dùng sau khi trả Pb cho người bán sẽ phải trả tiếp thuế T cho CP nên Pm của người tieu dùng trước và sau khi có thuế không thay đổi.

Hình 2.5(b): Cầu không hoàn toàn co giãn

Khi cầu thẳng đứng thuế làm đường cầu dịch chuyển xuống dưới và trùng vào đường cầu cũ. Giá cả thị trường không thay đổi mà người tiêu dùng lại có nghĩa vụ trả thêm thuế theo luật định nên trong trường hợp này người tiêu dừng đã phải chịu toàn bộ gánh nặng thuế.

Hình 2.5 (c): Cung hoàn toàn co giãn

Khi đường cung nằm ngang thuế không làm thay đổi giá cả thị trường nên người tiêu dùng phải chịu toàn bộ gánh nặng thuế

Trang 40

Pb≡Po

Pm

0

S

Q1≡Qo Q

D≡D’P

Pm

Po≡Pb

0D

D’

S

Q1 Qo Q

P

Pm ≡Po

Pb

0

DD’

S

Q1≡Qo Q

P

Page 41: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Hình 2.5(d): Cung hoàn toàn không co giãn

Khi đường cung thẳng đứng thuế làm giá thị trường giảm xuống đúng bằng mức thuế nên người sản xuất phải chịu toàn bộ thuế.

Tóm lại qua phân tích về phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo ta có thể thấy:

+ Phạm vi ảnh hưởng luật định của thuế không nói đucợ điều gì về thực chất sự phân chia gánh nặng thuế giữa người sản xuất và tiêu dùng, muốn biết tác động của thuế phải nghiên cứu phạm vi ảnh hưởng kinh tế của thuế

+ Phạm vi ảnh hưởng kinh tế của thuế chỉ phụ thuộc vào độ co giãn của cung và cầu. Cầu càng co giãn nhiều và cung càng co giãn ít thì gánh nặng thuế càng rơi nhiều vào người sản xuất và ngược lại.

3.3. Quản lý các loại thuế

3.3.1. Quản lý đối tượng nộp thuế

Quản lý theo sổ thuế

Quản lý mã số thuế

3.3.2. Quản lý tờ khai thuế

Cơ quan tính và thông báo số thuế dựa trên tờ khai của đối tượng nộp thuế tính và thông báo số thuế phải nộp

3.3.3. Tính thuế

Phương pháp đánh giá hành chính: số thuế phải nộp phải nộp dựa trên những căn cứ khách quan rõ ràng và là kết quả của 1 đánh giá hành chính ví dụ thuế đất

Phương pháp thuế khoán: dựa trên các yếu tố khách quan do người nộp thuế cung cấp và các biện pháp kiểm tra của cán bộ thuế, cơ quan thuế ấn định một mức doanh thu cụ thể và số thuế dựa trên mức doanh thu này

Ưu điểm: đơn giản, khối lượng công việc giảm nhẹ

Nhược điểm: phát sinh tiêu cực của cán bộ thuế, thất thoát các nguồn thu không bao quát được hết các nguồn thu

Phương pháp kê khai thuế: thuế được tính dựa trên cơ sở các số liệu thực tế về tình hình sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế. Phương pháp này yêu cầu tiêu chuẩn cao về hệ thống kế toán hóa đơn chứng từ

Trang 41

Page 42: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ CHI TIÊU CÔNG CỘNG.

4.1. Nội dung cơ bản của đánh giá chi tiêu công cộng

4.1.1 Khái niệm

Đánh giá chi tiêu công cộng la việc đánh giá công tác hoạch định chính sách ngân sách và xây dựng thể chế. Là một công cụ chủ yếu trong phân tích các vấn đề của khu vực công cộng và tác động của khoản chi tiêu công cộng đến các đối tượng khác nhau trong xã hội. Ngày nay việc thực hiện trở nên cần thiết vì những lí do sau;

Thứ nhất, chỉ thông qua đánh giá chi tiêu công cộng chúng ta mới có thể biết được sự can thiệp của chính phủ bằng các chie tiêu có cơ sở lập luận vững chắc hay không.

Thứ hai, đánh giá chi tiêu công cộng sẽ giúp nâng cao năng lực của chính phủ trong việc sử dụng hiệu quả và hiệu lực các nguồn công quỹ để thúc đẩy nhanh hơn nữa việc đại được các mục tiêu phát triển của mình thông qua PER:

- Nâng cao sự hiểu biết của cán bộ công chức nhà nước về mục đích và lợi ích của chi tiêu công cộng, tăng cường giao lưu đối thoại giữa nhà hoạch định chính sách và các đối tượng chịu tác động của chính sách để từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng của chính sách.

- Nâng cao năng lực của các cơ quan hoạch định và thực hiện chính sách ở các cấp các ngành tạo sự hiểu biết tốt hơn về các kỹ năng phân tích chi tiêu từ đó củng cố cơ sở của các quyết định chi tiêu.

- Cải thiện công tác soạn lập ngân sách và sự điều phối giữa các ngân sách đầu tư và ngân sách thường xuyên, cải tiến hệ thống định mức phân bổ ngân sách.

Thứ ba, qua những phát hiện của đánh giá chi tiêu công cộng chúng ta có thể tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn lực mà điều này sẽ có lợi cho phúc lợi nhân dân nói chung và người nghèo nói riêng.

Thứ tư, một quy trình đánh giá chi tiêu công cộng thực hiện tốt sẽ thu hút được sự tham gia đông đảo các bên liên quan và tầng lớp dân cư. Như vậy, PER thực sự trở thành công cụ để thực hiện tiêu chuẩn quản lí chi tiêu công cộng đặc biệt là thu hút sự tham gia của xã hội.

4.1.2. Nội dung cơ bản của việc đánh giá chi tiêu công cộng cấp tổng thể

4.1.2.1. Xác định và thực hiện chiến lược phân tích chi tiêu công cộng

a, Chúng ta biết gì về việc thực hiện ngân sách nhà nước.

Câu hỏi này nhằm làm rõ hai tiêu chí. Thứ nhất là độ tin cậy của các số liệu ngân sách. Vì số liệu ngân sách là đầu vào quan trọng nhất để tiến hành PER đồng thời nó là sự

Trang 42

Page 43: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

phán ánh chính sách về mặt tài chính nên nếu những số liệu này có độ tin cậy không cao mà PER đưa ra sẽ thiếu một luận cứ vững chắc. Thứ hai, là cần xác định mức độ minh bạch của ngân sách trên ba cấp dộ: Kỷ luật tài khóa tổng thể, các chỉ số kinh tế xã hội và các chỉ tiêu về chất lượng dịch vụ.

b, Khả năng đánh giá độc lập bên ngoài như thế nào.

Đánh giá độc lập bên ngoài ở đây là muốn nói tới sự đánh giá của các cơ quan, tổ chức nằm ngoài hệ thống quản lí và thực hiện chi tiêu công như văn phòng quốc hội, văn phòng kiểm toán nhà nước hay xã hội dân sự nói chung. Cũng như trong mọi báo cáo tài chính cần có kiểm toán bên ngoài để xác nhận chính xác và mức độ đáng tin cậy của các số liệu báo cáo viêc các tổ chức đánh giá độc lập bên ngoài hoạt động mạnh mẽ sẽ giúp nâng cao tính khách quan, xác thực của các số liệu ngân sách nhà nước.

4.1.2.2. Đánh giá ngân sách nhà nước

Việc đánh giá ngân sách nhà nước phải kết hợp giữa việc phân tích các khoản chi tiêu đã phân bổ với các thể chế ngân sách.

Ký luật tài khóa tổng thể: nội dung chính của việc phân tích ở cấp độ này là đánh giá tác động của chi tiêu đối với kinh tế vĩ mô.

Xác định các ưu tiên chiến lược: ở cấp độ này chủ yếu nhằm thẩm định lại lí do chính phủ can thiệp, công cu can thiệp thích hợp nhất và chi phí để thực hiện sự can thiệp đó. Trên cơ sở đó sắp xếp các thứ tuwk ưu tiên của các chương trình can thiệp của chính phủ.

Xác định hiệu quả chi phí. Đến đay cần làm rõ với mỗi chương trình can thiệp thì dự kiến sẽ tạo ra một lượng đầu ra là bao nhiêu và phương an nào là phương án hiệu quả nhất về chi phí để có lượng đầu ra đó.

4.1.2.3. Củng cổ quy trình ngân sách

Mục đích của công tác quản lí tài chính công là cải tiến phương pháp soạn lập và chấp hành ngân sách quốc gia. Vì thế việc đánh giá quy trình ngân sách giúp làm rõ điểm mạnh điểm yếu quy trình này từ đó đề xuất những cải cách hoặc trợ giúp cần có. Muốn vậy cần tìm hiểu xem ngân sách nhà nước được soạn lập nhue thế nào và thực hiện ra sao có cần điều chỉnh và cải tiến gì không. Bên cạnh đó cần làm rõ những quy định và thể chể chi phối hoạt động ngân sách là gì có hiệu quả không và có cần thay đổi theo hướng nào để tăng cường độ tin cậy của ngân sách cũng như hiệu lực của chúng.

Tuy nhiên thông thường để PER có thể có những kết luận cụ thể thì PER phải được tiến hành ở cấp ngành. Không nhất thiết tất cả các ngành deeuduf phải tiến hành PER cùng một lc, mà có thể cần lựa chọn một số ngành để đánh giá trước . thông thường, những ngành chiếm tỉ trọng lớn trong ngân sách nhà nước sẽ được ưu tiên tiến hành PER.

4.1.3. Nội dung PER ở cấp nghành

Khi tiến hành PER ở cấp ngành, cần đánh giá các thông tin cơ bản sau:

Trang 43

Page 44: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

- Những diễn biến kinh tế vĩ mô gần đây. Đánh giá này nhằm xác định lại bối cảnh kinh tế vĩ mô của nội dung đánh giá.

- Quy mô ngành được đánh giá trong nền kinh tế. Quy mô nghành được xác định qua các tiêu chí như tỉ trọng chi tiêu cho ngành trong GDP, trong ngân sách nhà nước, có so sánh với các nghành khác. Ngoài ra có thể xem xét tỉ trọng chi tiêu công cộng và chi tiêu tư nhân trong nghành này. Mục tiêu chiến lược của nghành, các chỉ số hoạt động của nghành trong thời gian qua cũng cần được đề cập.

- Phân tích tình hình kinh tế xã hội nghành được đánh giá.- Hiệu quả hoạt động của nghành.- Các mục tiêu ưu tiên của Chính phủ trong nghành và những vấn đề cấp bách nhất của

ngành được đánh giá.- Lựa chọn mức độ và phạm vi phân tích chỉ tiêu thích hợp.- Đánh giá cơ cấu chi tiêu.n- Các nguồn lực trong và ngoài nước được huy động vào nghành.- Các vấn đề bao trùm khác. Những vấn đề thường gặp được đề cập ở đây là tính minh

bạch và bền vững tài chính của nghành, vấn đề phân cấp trong quản lý nghành ở địa phương, giữa các vùng và các nhóm dân cư...Tất cả những vấn đề này này nhằm xác định tác động của chi tiêu công cộng cho nghành, xét trên các phương tiện đa dạng khác nhau.

4.2. ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH TRỢ CẤP CỦA CHÍNH PHỦ.

4.2.1. Sự cần thiết phải xây dựng các chương trình trợ cấp giúp người nghèo.

4.2.1.1. Mối quan hệ giữa hiệu quả và công bằng trong các chương trình trợ cấp.

Các chương trình trợ cấp giúp người nghèo của Chính phủ sẽ thiết lập nên một mức sống tối thiểu cho những người thuộc diện trợ giúp.

Thứ nhất, đảm bảo một mức sống tối thiểu cho họ thông qua các chương trình chuyển nhượng là vì sự tương tác trên thị trường tự do đã khiến họ và gia đình không thể đáp ứng được những nhu cầu tối cần thiết của cuộc sống, và điều đó là không thể chấp nhận được đối với xã hội.

Thứ hai, phân phối lại thu nhập sẽ làm giảm bớt gánh nặng đói nghèo, và lợi ích đó là một ngoại ứng tích cực cho toàn xã hội.

Thứ ba, phân phối lại thu nhập có thể đảm bảo sự ổn định xã hội.

2.1.2. Khó khăn trong việc phân tích các chương trình trợ cấp

Phạm vi ảnh hưởng của chỉ tiêu rất khó xác định vì những lý do sau:

- Những khó khăn khi đo lường thu nhập.

- Sự bất đồng về đơn vị quan sát.

- Ảnh hưởng của sự thay đổi giá tương đối.

Trang 44

Page 45: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

C

A

Y2

Y1

E2

E

1

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

- Ảnh hưởng ngắn hạn và dài hạn.

- Vấn đề liên quan đến hàng hóa công cộng.

- Đánh giá các khoản trợ cấp bằng hiện vật.

4.2.2. Ảnh hưởng của chương trình trợ cấp đến lợi ích người nhận.

4.2.2.1. Chương trình trợ cấp bằng tiền mặt.

Để cải thiện thu nhập cho người nghèo, nhiều khi Chính phủ trực tiếp chuyển giao cho họ một khoản tiền mặt nhất định và để họ tùy ý sử dụng vào mục đích gì họ muốn. Trợ cấp bằng tiền cho phép lợi ích của người nhận được tăng lên, như đã minh họa trong hình 6.2. Hình này mô tả đường ngân sách AB của cá nhân trước khi có trợ cấp, và cá nhân tối đa hóa độ thỏa dụng của mình tại điểm E1 khi AB tiếp xúc với đường bàng quan (i). Sau trợ cấp, thu nhập của cá nhân tăng lên, nhưng giá cả hai hàng hóa X và Y không đổi. Vì thế, tác dụng của trợ cấp được biểu thị bằng sự dịch chuyển song song ra ngoài của đường ngân sách AB đến đường ngân sách CD.

2.2.2. Trợ cấp bằng hiện vật: Trường hợp cung cấp hàng hóa dịch miễn phí.

Nhiều khi Chính phủ muốn người nghèo thực sự sử dụng một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó mà Chính phủ cho rằng cần thiết. Trợ cấp bằng tiền mặt có thể không đạt được mục tiêu mà Chính phủ đề ra, nếu người nhận trợ cấp bằng tiền mặt không tiêu dùng hàng mà Chính phủ đang khuyến khích. Khi đó Chính phủ có thể sẽ thay trợ cấp bằng tiền mặt bằng việc trợ cấp trực tiếp hàng hóa hay dịch vụ như đã đề ra.

Trang 45

0XX 1  X2               B               D

0

Page 46: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

H

G2AG1 FE1

U1

U2

(ii)

(*)

(i)

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

4.2.2.4. Kết luận về các chương trình trợ cấp bằng tiền mặt và bằng hiện vật.

Qua phân tichso sánh giữa các chương trình trợ cấp bằng tiền mặt và bằng hiện vật như đã nêu ở trê, có thể đi đến một số kết luận như sau:

1. Nếu thực hiện cùng một mục tiêu là tăng lợi ích cho người nghèo thì trợ cấp bằng tiền là chương trình ít tốn kém hơn đối với Chính phủ. Hay nói cách khác, nếu cùng tiêu tốn một số tiền trợ cấp như nhau thì trợ cấp bằng tiền nói chung mang lại độ thỏa dụng cao hơn cho người nhận.

2. Chương trình trợ cấp bằng hiện vật thường đòi hỏi tốn kém chi phí vận hành nhiều hơn và các thủ tục hành chính phiền hà phức tạp hơn.

3. Trợ cấp bằng hiện vật hạn chế quyền tự do lựa chọn tiêu dùng của cá nhân vì chỉ khi nào người được trợ cấp thực sự được tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ được trợ cấp thì khi đó họ mới được thụ hưởng lợi ích của chương trình.

Với nhiều nhược điểm như vậy tại sao trợ cấp bằng hiện vật được nhiều chính phủ ưa thích mà họ không chuyển sang chỉ sử dụng hình thức trợ cấp bằng tiền. Có rất nhiều cách giải thích khác nhau. Thứ nhất, nhiều người cho rằng chính sách phân phối lại của chính phủ ảnh hưởng rất mạnh của chủ nghĩa bình quân hàng hóa là quan điểm cho rằng có một số hàng hóa thiết yếu phải được phân phối bình đẳng cho mọi người bất kể hoàn cảnh hay mức sống của họ ra sao. Thứ hai, trợ cấp bằng hiện vật có thể hạn chế được sự gian lận trong việc nhận phúc lợi trợ cấp. Thứ ba, người ta hy vọng rằng bằng việc trợ cấp bằng hiện vật thì cá nhân sẽ tiêu dùng đúng cái mà chính phủ muốn họ sử dụng, Cuối cùng trợ cấp bằng hiện vật sẽ được hậu thuẫn về mặt chính trị hơn vì mối quan hệ giữa một vấn đề đói nghèo nhất định với các hàng hóa và dịch vụ đề nghị được trợ cấp thường khá rõ dàng và trực tiếp vì thế đẽ được người ra quyết định đồng ý.

Trang 46

0 C1  C2   C*                      C3          C4                   D(kg)

E2

Page 47: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

4.2.3. Ảnh hưởng của các chương trình trợ giúp người nghèo đến động cơ làm việc của cá nhân.

4.2.3.1. Trường hợp phúc lợi trợ cấp bị khấu trừ hàng toàn khi tham gia lực lượng lao động.

Hãy xét trường hợp của anh A, người đang phải cân nhắc dành bao nhiêu thời gian để làm việc và bao nhiêu thời gian để làm các công việc phi thị trường khác mà chúng ta gọi chung là nghỉ ngơi.

4.2.3.2. Trường hợp phúc lợi trợ cấp bị khấu trừ một phần khi tham gia lực lượng lao động

Chương trình trợ cấp thất nghiệp của chính phủ có thể khấu trừ hoàn toàn hay khấu trừ một phần. Chương trình khấu trừ hoàn toàn sẽ thủ tiêu động cơ đi làm của cá nhân. Còn chưng trình khấu trừ một phần (hay còn gọi là thuế thu nhập âm) là một chương trình trợ cấp đồng loạt trong đó lợi ích trợ cấp nhận được chỉ phụ thuộc vào thu nhập và sẽ giảm một phần thu nhập do đi làm tăng lên. Mặc dù nó không triệt tiêu toàn bộ động cơ đi làm như chương trình trên nhưng nó phải đứng trước sự lựa chọn giữa một mức trợ cấp thỏa đáng với việc khuyến khích cá nhân tham gia làm việc.

4.3. ĐÁNH GIÁ DỰ ÁN ĐẦU TƯ CÔNG CỘNG: PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CHI PHÍ LỢI ÍCH.

4.3.1.Các nguyên tắc ra quyết định đầu tư.

Khi lựa chọn dự án, cần phân biệt giưa dự án chia nhỏ đươc và không chia nhỏ được. Khi các dự án có thể chia nhỏ từng ý, quy tắc lựa chọn để lợi ích biên từ đồng chi tiêu cuối cùng của tấ cả các dự án bằng nhau (khi ngân sách cố định), và lợi ích biên của các dự án công cộng bằng của các dự án cá nhân (khi quy mô ngân sách biến đổi). Còn khi các dự an không thể chia nhỏ thì phải tìm cách tối đa hóa lợi ích ròng (khi quy mô ngân sách cố định) và chọn các dự án có lợi ích lớn hơn chi phí (khi quy mô ngân sách biến đổi).

Khi đánh giá các dự án chi tiêu, một câu hỏi đặt ra là làm thế nào có thể tính toán được tất cả chi phí và lợi ích do dự án phát sinh trong những khoảng thời gian khác nhau. Chẳng hạn dự án cải tạo đường quốc lộ số một có thể đòi hỏi có thể chi rất nhiều tiền trong thời gian đầu và hàng năm cũng phải chi những khoản tiền bảo dưỡng không nhỏ. Đồng thời lợi ích do dự án đó tạo ra cũng tồn tại trong nhiều năm và có xu hướng ngày một tăng lên theo đà phát triển của các hoạt động thương mại trong nền kinh tế.

Phương pháp phân tích chi phí lợi ích đòi hỏi phải tính giá trị theo thời gian của đồng tiền nghĩa là phải chiết khấu các đồng tiền trong tương lai về thời điểm hiện tại trước khi tổng hợp chúng với nhau, còn lạm phát không ảnh hưởng đến tính toán đồng tiền, chừng nào việc lựa chọn tý suất chiết khấu và tính toán các luồng tiền còn nhất quán với nhau.

Trang 47

Page 48: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Tất cả các khoản chi phí phát sinh trong suốt tuổi đời của dự án đượ tập hợp lại thành một luồng chi phí. Tất cả các khoản lợi ích phát sinh tập hợp lại thành luồng lợi ích. Kỹ thuật xác định luồng chi phí và lợi ích này rồi so sách chúng với nhau được gọi là kỹ thuật phân tích luồng tiền. Như ta đã biết trong môn học đánh giá dự án đầu tư, khi các luồng tiền xuất hiện ở những thời điểm khác nhau thì chúng có giá trị khác nhau. Giá trị luồng tiền sau khi quy đổi về năm hiện tại được gọi là gia trị hiện tại của đồng tiền.

4.3.3. Các chỉ tiêu cơ bản phản ánh giá trị đầu tư.

4.3.3.1. Chỉ tiêu giá trị hiện tại dòng (hiện giá thuần)

=( - ) + + +...+

Sau khi quy cả hai dự án về giá trị hiện tại ròng, chúng ta có thể sử dụng chỉ tiêu giá trị hiện tại dòng để trả lời hai câu hỏi trên:

1.dự án chỉ được chấp nhận khi có NPV dương

2. Nếu hai dự án là loại trừ lẫn nhau thì dự án có NPV lớn hơn sẽ được ưu tiên.

Ưu, nhược điểm của chỉ tiêu NPV:

Ưu điểm lớn nhất là nó cho biết quy mô lợi nhuận của dự án trong suốt cả đời dự án. Tuy nhiên việc tính toán nó lại phụ thuộc rất lớn vào tỷ suất chiết khấu. Một nhược điểm khác nữa là chỉ tiêu này chỉ sử dụng được khi các phương án loại bỏ lẫn nhau có cung tuổi thọ. Khi các phương án có tuổi thọ khác nhau vì cần giả định rằng các phương án có tuổi thọ ngăn hơn sẽ được đầu tư thêm cho đến khi nó có tuổi thọ ngang bằng với những phương án khác.

3.3.2. Chỉ tiêu tý suất nội hoàn (tỷ lệ hoàn vốn nội bộ).

a, ý nghĩa và cách xác định tỷ suất nội hoàn nội hoàn.

- + + +...+ = 0

Tỉ suất nội hoàn (internal rate of return-IRR) là tí suất chiến khấu làm giá trị hiện tại ròng băng không. Về mặt toán học IRR sẽ là nghiệm của phương trình.

Trong thực tế người ta thường tính gần đúng tí suất này bằng cách chọn các tỉ suất chiến khấu khác nhau.r1 và r2 sao cho với r1 thì NPV1 của dự án >0, còn với r2 thì NPV2<0. Sau đó IRR được tính theo công thức:

IRR =

Trang 48

Page 49: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

Ưu nhược điểm của IRR.

Việc sử dụng IRR làm một tiêu thức đánh giá dự án có lợi thế là nó cho biết lãi suât tối đa mà một dự án có thể chấp nhận được vì thế rất hữu ích trong việc xác định độ nhảy của dự án đối với tỉ suất chiến khấu. Hơn nữa nó không đòi hỏi phải xác định một mức tỉ suất duy nhất để tính toán như trong trường hợp NPV.

Tuy nhiên sử dụng chỉ tiêu này nhiều khi cũng dẫn đến những quyết định sai lầm. Vì nó chỉ cho biết lãi suất ngưỡng làm NPV đổi dấu từ dương sang âm nhưng lại không phản ánh được quy mô lãi ròng nên nó có thể khiến nhà đầu tư đi đến lựa chọn dự án có IRR cao hơn nhưng quy mô lãi ròng thấp. Khi các dự án có quy mô khác nhau thì IRR có thể đưa ra một chỉ dẫn không tốt.

4.3.3.3.Chỉ tiêu chỉ số lợi ích chi phí.

a. ý nghĩa của tỉ số lợi ích chi phí.

Một tiêu chuẩn nữa mà ít nhất chúng ta đã đề cập đến trong phần một của bài là chi tiêu tỷ số lợi ích chi phí. Nếu một dự án có luồng lợi ích là B0, B1...Bt và luông chi phí C0, C1... Ct thì tỷ số lợi ich chi phí là tỷ số giữa giá trị hiện tại của lợi ích và giá trị hiện tại của chi phí. Về mặt toán học: một dự án có BCR >1 sẽ đượ thông qua còn dự an nào co BCR< 1 thì sẽ loại bỏ. Đó là vì BCR>1 cùng đồng nghĩa với việc NPV>0 và ngược lại.

BCR = = =

Ưu nhược điểm của tỷ số lượi ích chi phí.

BCR có ưu điểm nổi bật là nó cho biết hiệu quả cuả một đồng vốn bỏ ra. Cũng như tiêu chuẩn NPV, BCR luôn đưa ra một câu tả lời nhất quán về quyết định đầu tư. Tuy nhiên sử dung BCR cũng có thể dẫn đến sai lầm khi phải lựa chon giữa các phương an loại trừ lẫn nhau.

4.3.4. Xác định lợi ích và chi phí công cộng trong các dự án

Khi đo lường lợi ích và chi phí xã hội của dự án công cộng, phải phân biệt giữa các khoản phát sinh thực và các khoản chuyển giao. Chỉ các khoản phát sinh thực mới được tính đến còn các khoản chuyển giao thì loại bỏ.

Định giá các khoản hữu hình có thể trực tiếp dựa vào giá của thị trường nhưng cần loại bỏ các giá trị thể hiện lợi ích hoặc chi phí chuyển giao. Muốn vậy cần áp dụng nguyên tắc giá bóng là giá phản ánh chi phí lợi ích thực của xã hội để điều chỉnh những méo mó do độc

Trang 49

Page 50: Bài giảng Tài chính công - Cao đẳng tín chỉ - CND

Bài giảng Tài chính Công Khoa Kinh tế

quyền, thuế, trợ cấp, thất nghiệp và các chính sách khác nhau của chính phủ, nhất là chính phủ các nước đang phát triển đề ra. Phân tích dự án cần tránh những sai lầm đễ mắc phải như xử lí với vần đề lao động, tính trùng lợi ích hoặc chi phí.

Trang 50