hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1...

84
1 HI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIT NAM HC VIN THN HC ------ LUẬN VĂN TỐT NGHIP ĐỀ TÀI NGHIÊN CU ĐAU KHỔ TRONG SQUAN PHÒNG CA THIÊN CHÚA DƯỚI CÁI NHÌN C A TU S Ĩ Sinh Viên Th c Hi n: AUGUSTINÔ HUY NGUY ỄN VĂN NHIỆ M Giáo Sư Hướ ng D n: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄ N H NG THANH NIÊN KHÓA 2011-2015

Transcript of hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1...

Page 1: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

1

HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC

------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

ĐAU KHỔ TRONG SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA DƯỚI CÁI NHÌN CỦA TU SĨ

Sinh Viên Thực Hiện:

AUGUSTINÔ HUY NGUYỄN VĂN NHIỆM

Giáo Sư Hướng Dẫn:

LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH

NIÊN KHÓA 2011-2015

Page 2: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

2

Lời tri ân

Page 3: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

3

Nhận xét của giáo sư hướng dẫn Nói về đau khổ và sự không bao giờ cùng, vì nó tồn tại song hành cùng với con

người. Đau khổ hiện diện dưới muôn hình vạn trạng khác nhau. Đã là người không ai có

thể tránh khổ và thoát khổ trong kiếp nhân sinh. Nhưng mỗi người đối diện và lý giải

đau khổ một cách khác nhau.

Vấn đề đặt ra là đau khổ từ đâu mà đến? Đâu là nguyên nhân hay nguồn gốc

đưa đến đau khổ cho con người? Phải chăng là do tình cờ hay do ai đó gây nên? Làm

sao có thể vượt thoát khỏi khổ đau trong thân phận người? Ai có thể giải thoát con

người khỏi «bể khổ tràn gian»? Tìm kiếm câu trả lời cho vấn nạn đau khổ là một điều

gai góc của con người mọi thời và mọi nơi. Cũng vì muốn lý giải cho vấn đề đau khổ

của kiếp người mà nghiên cứu sinh đã chọn đề tài nghiên cứu của mình là: «Đau khổ

trong sự quan phòng của Thiên Chúa dưới cái nhìn của tu sĩ». Đây là đề tài rất thiết

thực và hữu ích không chỉ cho đời sống thánh hiến mà cho tất cả mọi kitô hữu, cũng

như cho tất cả mọi người nói chúng. Bởi vì ai cũng phải đối diện với đau khổ và muốn

vượt thoát khỏi khổ đau trong cuộc đời mình.

Qua đề tài nghiên cứu này, sinh viên giới thiệu cho chúng ta những cách lý giải

khác nhau về đau khổ theo nhãn quan triết học, và tôn giáo, đặc biệt là dưới ánh sáng

mặc khải của Kitô giáo.

Đặc biệt là với cặp mắt đức tin và dưới góc nhìn của một tu sĩ, nghiên cứu sinh

đã trình bày cho chúng ta những khía cạnh khác nhau của vấn đề đau khổ. Đồng thời

cũng giới thiệu cho chúng ta những mẫu gương vượt khổ và nhất là mở ra cho chúng ta

những chìa khóa để đối diện với đau khổ theo nhãn quan Kitô giáo.

Nhìn chung, bài viết của sinh viên có sự đầu tư, nghiên cứu nghiêm túc. Trích

dẫn rõ ràng và nguồn sách tham khảo cũng tương đối dồi dào, phong phu. Nghiên cứu

sinh cũng có khả năng tổng hợp kiến thức và các nguồn tài liệu khác nhau để hoàn

thành tiểu lận của mình một cách khá thuyết phục.

Hy vọng rằng sau khi hoàn tất tiểu luận này, với tư cách là một đan sĩ, sinh

viên sẽ có đủ can đảm và sức mạnh của Chúa Kitô phục sinh để vượt qua mọi đau khổ

và sự dữ trong cuộc đời dâng hiến của mình để thông phần vào mầu nhiệm Thập giá của

Chúa Kitô, hầu đem niềm vui Phục Sinh đến cho mọi người. Ước mong rằng những ai

đọc qua tiểu luận này cũng biết thăng hoa đau khổ và sự dữ thành Thiên ân.

Lm. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O. Cist.

Page 4: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

4

MỤC LỤC DẪN NHẬP...................................................................................................................... 1

I. KHÁI NIỆM VỀ SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA .................................... 10

1. Quan phòng là gì? ............................................................................................................10

2. Sự quan phòng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh ..........................................................11

2.1. Cựu Ước ...................................................................................................... 11

2.2. Tân Ước ...................................................................................................... 12

3. Theo các giáo phụ ............................................................................................................14

4. Theo giáo lý Hội Thánh Công Giáo .................................................................................15

II. KHÁI NIỆM VỀ ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ ................................................................ 17

1. Đau khổ và sự dữ .............................................................................................................18

2. Phân loại sự dữ .................................................................................................................19

2.1. Sự dữ thiên nhiên ......................................................................................... 19

2.2. Sự dữ luân lý ............................................................................................... 22

III. NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RA ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ .............................. 24

1. Phải chăng đau khổ và sự dữ đến từ Thiên Chúa? ............................................................24

2. Đau khổ và sự dữ đến từ ma quỷ ......................................................................................26

3. Đau khổ và sự dữ do tội nguyên tổ ...................................................................................27

4. Đau khổ và sự dữ đến từ con người ..................................................................................28

4.1. Do con người khước từ Thiên Chúa ............................................................. 29

4.2. Do tính hữu hạn của con người .................................................................... 31

IV. NHỮNG LÝ GIẢI VỀ ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ THEO CÁC TRIẾT GIA VÀ CÁC THẦN HỌC GIA ................................................................................................. 33

1. Theo các Triết Gia ............................................................................................................33

2. Theo các Thần Học Gia ....................................................................................................34

2.1. Theo thánh Irênê .......................................................................................... 34

2.2. Theo Thánh Augustinô ................................................................................ 36

a. Sự dữ là thiếu sự thiện .................................................................................... 36

b. Nguyên lý của sự phong phú ........................................................................... 37

c. Thẩm mỹ luận ................................................................................................. 38

2.3. Theo thánh Thomas Aquinô ......................................................................... 39

V. KITÔ GIÁO VÀ TRƯỜNG PHÁI DUY TÂM HÓA GIẢI VỀ SỰ DỮ ................. 41

1. Thiên Chúa không hề muốn sự dữ và đau khổ cho con người ..........................................41

2. Thiên Chúa liên kết với con người trong đau khổ .............................................................42

3. Đức tin hoá giải sự dữ ......................................................................................................44

Page 5: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

5

4. Hóa giải sự dữ theo cái nhìn duy tâm ...............................................................................45

VI. THÁI ĐỘ CỦA CON NGƯỜI TRƯỚC ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ .......................... 46

1. Thái độ phản kháng ..........................................................................................................46

2. Thái độ chấp nhận để vươn lên .........................................................................................47

VII. CON NGƯỜI CỘNG TÁC VỚI THIÊN CHÚA NGĂN CHẶN SỰ DỮ ............ 51

1. Ngăn chặn sự dữ thể lý .....................................................................................................51

2. Ngăn chặn sự dữ luân lý ...................................................................................................52

VIII. NHỮNG MẪU GƯƠNG GIÚP TU SĨ ĐỐI DIỆN, THĂNG HOA ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ THÀNH THIÊN ÂN .................................................................................. 55

1. Ông Gióp..........................................................................................................................55

2. Đức Maria ........................................................................................................................57

3. Thánh Phaolô Tông Đồ ....................................................................................................58

4. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu ....................................................................................59

5. Cha Henrry Denis Biển Đức Thuận, đấng sáng lập hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam .61

IX. NHỮNG PHƯƠNG THẾ ĐỂ TU SĨ ĐỐI DIỆN VỚI ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ ..... 63

1.Nhìn lên thập giá Đức Kitô................................................................................................63

2. Cầu nguyện trong thinh lặng ............................................................................................65

3. Hiệp thông với cộng đoàn ................................................................................................66

X. TU SĨ ĐÓN NHẬN ĐAU KHỔ TRONG SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA NHƯ THẾ NÀO? ............................................................................................... 68

1. Đau khổ, một phương thế để tu sĩ loan báo Tin Mừng .....................................................68

2. Đau khổ, một bằng chứng tình yêu của tu sĩ đối với Thiên Chúa .....................................69

3. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ nên giống Đức Kitô và bổ túc những gì còn thiếu sót nơi Nhiệm Thể của Ngài ............................................................................................................71

3.1. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ nên giống Đức Kitô ........................................... 71

3.2. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ bổ túc những gì còn thiếu sót nơi Nhiệm Thể của Đức Kitô ...................................................................................................... 72

4. Đau khổ, con đường đạt tới ơn cứu độ .............................................................................73

XI. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH ......................................................................................... 76

KẾT LUẬN .................................................................................................................... 79

MỤC SÁCH THAM KHẢO ............................................... Error! Bookmark not defined.

Page 6: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

6

DẪN NHẬP

Đã mang kiếp phàm nhân, từ khi sinh ra tới lúc trở về với cội nguồn, con người

luôn thao thức tìm kiếm niềm vui, bình an và hạnh phúc. Vì vậy, nhạc sĩ Trịnh Công

Sơn đã cất lên tiếng hát: “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, chọn những bông hoa và

những nụ cười”. Nhưng trớ trêu cho phận người, trên con đường tìm kiếm hạnh phúc,

lại luôn gặp phải thách đố và đau khổ, hay có thể nói, hằn sâu trên định mệnh làm người

là hai chữ “khổ đau”.

“Cháu không muốn làm gánh nặng cho mẹ nữa. Mẹ cũng đang bệnh mà chẳng

dám đi khám bệnh. Cháu thà ở nhà chịu chết một mình còn hơn mẹ và các em phải nhịn

đói chữa bệnh cho cháu”. Đó là câu nói của em Thu Hà (quê ở Lâm Đồng) đang mang

trong mình căn bệnh ung thư gan, ai nghe cũng cảm thấy nhói tim, chạnh lòng và cảm

thương cho một phận người hẩm hiu. Đối diện với căn bệnh hiểm nghèo, em muốn

được chữa khỏi bệnh, mong dành lại sức khỏe, cuộc sống và tương lai cho chính mình.

Nhưng vì thấy hoàn cảnh gia đình mình quá nghèo, em đã sẵn sàng chấp nhận số phận,

đón nhận hy sinh, thậm chí phải đối diện với tử thần, để mẹ và các em bớt cực nhọc, đói

khổ... Em chia sẻ, nếu em đi chữa bệnh thì có thể đàn em sẽ bị nghỉ học, chịu đói và mẹ

có thể bị bệnh nặng thêm. Theo suy nghĩ đơn sơ của em, chỉ cần em không đi chữa bệnh

thì mẹ sẽ không tốn tiền, các em sẽ được chăm sóc tốt hơn, có được một cuộc sống ấm

no hơn.

Theo đúng như chỉ định của bác sĩ, vào tháng 4/2014 vừa qua, em đã phải phẩu

thuật gan một lần nữa, nhưng vì thương mẹ, các em, Thu Hà đã không chịu xuống bệnh

viện chữa bệnh. Không thể nhìn con ở nhà chịu đau đớn và nguy hiểm đến tính mạng

bất cứ lúc nào, chị Đinh Thị Dương và bà con hàng xóm động viên Hà tiếp tục chữa

bệnh. Dù chẳng biết việc chữa bệnh sẽ kéo dài được tới đâu, nhưng chị Dương vẫn

muốn con mình tiếp tục được chữa bệnh bởi Chị không muốn mất thêm một người thân

nữa.

Cách đây một năm, chồng chị cũng đã ra đi mãi mãi vì căn bệnh hiểm nghèo,

để lại cho chị đàn con thơ. Chị trở thành trụ cột tinh thần của gia đình. Cảnh mẹ góa con

côi, đàn con nheo nhóc vì thiếu tình cha, vắng hơi ấm tình mẹ. Gia đình chị ngày càng

lâm vào hoàn cảnh túng quẫn.

Ngày ngày chị phải xuống bệnh viện chăm con (bé Hà), đàn con nhỏ ở nhà

không ai chăm sóc, kiếm tiền nuôi dưỡng. Chị bắt đầu lâm cảnh nợ nần từ gần tới xa.

Page 7: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

7

Trước đây thu nhập của cả gia đình một năm được 15 triệu đồng. Nhưng từ ngày chồng

chết, chị cũng không làm được việc nhà, kinh tế lại càng thêm khó khăn. Chị vay 20

triệu tiền vốn sản xuất kinh doanh và 8 triệu tiền của chương trình môi trường nước

sạch nhưng vì chữa bệnh cho con, chị đã sử dụng hết. Giờ này 5 mẹ con chị bám víu

vào nhau để sống. Vì thấy hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, mẹ thì mắc bệnh thiếu máu

cơ tim, các em thì không người chăm sóc, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, nên Thu

Hà đã tự nguyện không chữa bệnh để bớt gánh nặng cho mẹ và các em1.

Từ lúc sinh ra tới khi trở về với cội nguồn, con người phải vượt qua hàng

triệu sóng gió thử thách của cuộc đời, phải băng qua hàng ngàn nỗi đau trần thế, phải

lao đao vất vả, khổ đau với kiếp nhân sinh. Đúng vậy, qua hoàn cảnh của gia đình chị

Dương, ta có thể thốt lên như đức Phật: “đời là bể khổ”, hay đời là thời gian kết nối,

đan xen giửa thử thách và gian nan. Vì vậy, chắc chắn mọi người trong chúng ta ai

cũng có kinh nghiệm về đau khổ không ít thì nhiều. Lịch sử loài người luôn gắn liền

với khổ đau và cực hình: Động đất, chiến tranh, bóc lột, đói khát, bệnh tật, thất bại, cô

đơn, tàn sát, trẻ thơ bị giết chết, bị bỏ rơi, mất ý nghĩa cuộc sống … Đã làm người, có

lẽ không ai chối cãi giáo lý nhà Phật “Đời là bể khổ”. Con người ngay từ khi chào đời

đã cất tiếng khóc như báo hiệu cho một cuộc đời dang dở và đau thương bắt đầu, cho

đến lúc lìa đời giữa tiếng khóc bi ai của bao người thân luyến tiếc.

Đời là bể khổ không trừ một ai. Vì thế, ca dao Việt Nam có câu:

«Gánh khổ mà đổ lên non

Cong lưng mà chạy khổ còn chạy theo».

Khổ đau làm bạn với tất cả mọi người: từ vua chúa ngự trị trên ngai vàng, đến

anh nông dân cùng đinh khố rách áo ôm, đều phải mang lấy mọi hình thức khổ đau

trong thân xác và tinh thần. Đau khổ không tránh né ai, cũng chẳng bao giờ biến khỏi

trần đời. Đối diện với đau khổ, là nỗi kinh hoàng đối với bạn trẻ, nỗi khiếp sợ đối với

người trưởng thành và là điều không thể chịu nổi đối với người lớn tuổi. Nhất là đứng

trước cái chết, hẳn ai cũng khiếp sợ. Khiếp vì chẳng ai có kinh nghiệm về cái chết.

Chẳng có ai thử chết bao giờ. Cái chết luôn là điều tăm tối, bế tắc, cùng đường và chấm

hết của kiếp người. Vì vậy, đứng trước những thách đố về sự dữ và đau khổ trong kiếp

nhân sinh, lắm khi ở vào một mức độ khốc liệt, con người bị rơi vào tuyệt vọng, không

lời giải đáp. Trải qua dòng lịch sử nhân loại, biết bao thế hệ đã bất lực trước những

huyền nhiệm của sự dữ và đau khổ, mà không có một lời giải đáp mỹ mãn, từ bất lực

1x. Vietnamnet-15:19 ngày 17/07/2014.

Page 8: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

8

đó, con người đánh mất niềm tin vào một Thiên Chúa quan phòng hay ít ra niềm tin đã

bị đặt lại. Nếu mọi sự do và bởi Thiên Chúa quyền năng, tốt lành và hằng yêu thương

quan phòng cho vạn vật, vậy sự ác phải giải thích thế nào? Sự dữ từ đâu đến? Ai là

người chịu trách nhiệm về những sự dữ xảy ra trên thế giới này? Tại sao Thiên Chúa

giàu lòng nhân từ và rất mực xót thương lại không can thiệp mà để cho đau khổ xảy ra?

Nhiều người còn chua chát hơn nữa, đã hằn học kêu trách Thiên Chúa: “Làm sao để tôi

có thể yêu mến và đặt hết tin tưởng vào một Thiên Chúa thiện hảo và giàu lòng từ nhân,

nếu Ngài đã để cho tôi phải khóc lóc, đớn đau như vậy”2? Đó là những câu hỏi muôn

thưở mà con người đặt ra để chất vấn Chúa. Nhất là khi đối diện với một thế giới toàn

cầu hoá, trào lưu chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa cá nhân và thực dụng, khuynh hướng tự

do, hưởng thụ và tương đối hoá như hiện nay, thì những vấn nạn đau khổ và sự dữ lại

càng là một thách đố gai góc hơn. Bởi vì con người tìm mọi cách, mọi phương tiện để

chạy trốn đau khổ, nhưng không thể tránh nổi và phải chấp nhận với số phận. Đức giáo

hoàng Benedicto XVI đã nói: “Chúng ta tìm cách ngăn chặn, chiến đấu với đau khổ,

như thể loại trừ ra khỏi thế giới. Ngay chính con người tìm cách chạy trốn, lẩn tránh tất

cả những gì mang ý nghĩa đau khổ, muốn loại bỏ khó nhọc và đau đớn của chân lý, tình

yêu và thiện hảo, họ lại rơi vào một đời sống trống rỗng, có lẽ bớt đau khổ, nhưng lại

có nhiều cảm nghiệm mơ hồ về sự vô nghĩa và hụt hẫng”3.Vậy, những người tu trì bước

theo chân Chúa Giêsu để mô phỏng đời sống của Ngài, họ có thái độ nào khi phải đối

diện với đau khổ và sự dữ ? Họ đón nhận đau khổ trong sự quan phòng của Thiên Chúa

như thế nào? Họ phải làm gì để thăng tiến đau khổ và sự dữ thành Thiên ân?

Từ những lời chất vấn này, người viết đã chọn đề tài sau đây để tìm hiểu về

vấn đề đau khổ: Đau Khổ Trong Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Dười Cái Nhìn

Của Tu Sĩ. Đề tài sẽ được khai triển qua các phần chính sau:

I. Khái niệm về quan phòng và đau khổ

II. Nền tảng của niềm tin vào ơn quan phòng.

II. Đâu là nguyên nhân gây ra đau khổ?

IV. Thái độ của con người trước đau khổ.

V. Những tấm gương thăng hoa đau khổ thành Thiên ân.

2Lm: Lê Văn Quảng, Sức Mạnh Tình Yêu, Nxb Tôn Giáo, 2013,tr. 45. 3ĐGH Benedicto XVI, Thông Điệp Spe Salvi,số 37.

Page 9: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

9

VI. Tu sĩ đón nhận đau khổ trong sự quan phòng của Thiên Chúa như thế nào?

VII. Một vài nhận định cá nhân về đề tài đau khổ

Với đề tài này, bản thân người viết chỉ mong cố gắng tìm hiểu và làm sáng

tỏphần nào vềnguyên nhân của đau khổ và đau khổ được đón nhận trong sự quan phòng

của Thiên Chúa như thế nào đối với các tu sĩ, chứ không ảo tưởng sẽ giải quyết hết mọi

vấn đề đau khổ và sự dữ.

Qua những gì sẽ trình bày trong đề tài này, người viết chỉ dựa vào mạc khải

của Thiên Chúa qua Thánh Kinh, suy tư của các giáo phụ, Giáo Lý Hội Thánh Công

Giáo, các nhà thần học, triết gia, cũng như thu thập các tài liệu và tổng hợp những quan

niệm khác nhau về vấn đề đau khổ và sự dữ, nhất là qua kinh nghiệm thực tế của cuộc

sống. Với mục đích và thao thức cầu mong chính bản thân, cũng như mọi người nói

chung, đặc biệt các tu sĩ nói riêng, khi gặp thử thách trong cuộc đời, thay vì than trách,

thất vọng, buông xuôi…, thì nên có cái nhìn lạc quan, tích cực, hy vọng, nhất là tìm ra

được ngay trong đau khổ một ý nghĩa và giá trị cho bản thân cũng như cuộc sống. Bên

cạnh đó, với niền tin Kitô giáo, đau khổ và cái chết không phải là một cái gì đó phi lý và

vô nghĩa của cuộc đời, nhưng nó là con đường, là phương thế để kết hợp với Đức Kitô

Thập giá, để từ đó ngang qua đau khổ mở ra một chân trời hạnh phúc và vinh quang.

Page 10: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

10

I. KHÁI NIỆM VỀ SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA

1. Quan phòng là gì?

Để định nghĩa quan phòng là gì, trước hết chúng ta cần phải hiểu từ ngữ quan

phòng được dùng để ám chỉ điều gì, từ ngữ này được hiểu như thế nào khi người ta

dùng nó để ám chỉ hoạt động của Thiên Chúa trong vũ trụ? Theo Jasques Lison, từ ngữ

quan phòng được hiểu theo truyền thống vốn dĩ chỉ thuộc tính những Thiên hướng qua

đó, Thiên Chúa chỉ huy vạn vật theo cứu cánh của chúng4.

Từ “quan phòng” có nguyên ngữ từ Hy-lạp là pronoia và dịch qua La-ngữ là

providentia. Cả trong tiếng Hy-lạp lẫn La-tinh, từ quan phòng đều bắt đầu với giới từ

pro, giới từ này có nghĩa là: trước, trước kia, do chiếu cố đến, vì lợi ích của nó. Giới từ

pro được gép với động từ noein biến thành pronoia trong tiếng Hy-lạp và với động từ

videre biến thành providentia trong tiếng La-tinh. Pronoia hay providentia có nghĩa là:

thấy, nhìn thấy, tài trí, trong tư tưởng5.

Do đó, ta có thể định nghĩa như sau: Theo quan niệm bình dân, quan phòng gợi lên

ý tưởng Thiên Chúa an bài xếp đặt, lo liệu mọi sự. Đồng thời cũng gợi lên ý tưởng về:

mệnh Trời, ý Trời, hoặc số phận, số kiếp, hay là nghiệp.

Từ Điển Công Giáo định nghĩa về quan phòng như sau:

Quan: Chú ý nhìn. Phòng: Gìn giữ.

Quan phòng: chý ý nhìn xem và gìn giữ.

Còn theo sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo định nghĩa: “Sự quan phòng của

Thiên Chúa chính là những đường lối người xếp đặt để đưa vạn vật tới sự trọn hảo (số

302)”. Hay: “Quan phòng là những lo liệu của Thiên Chúa, trong khôn ngoan và tình

thương, để dẫn đưa mọi loài thụ tạo tới mục đích sau cùng của chúng là chính Ngài”6.

Theo truyền thống thần học: “Quan phòng là việc Thiên Chúa xếp đặt và phối

trí, trong trí khôn từ muôn thuở, mọi sự cho phù hợp với những mục đích riêng của mỗi

vật và với mục đích chung của cả vũ trụ. Hay sự quan phòng là thuộc tính thiên linh chỉ

những thiên hướng qua đó Thiên Chúa chỉ huy những sự vật tạo dựng theo cứu cánh

của chúng. Sáng tạo là dựng nên vũ trụ vạn vật, tức là làm ra những cái chưa có. Còn

4 x. Jacques Lison, Sự Quan Phong Của Thiên Chúa Ngay Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Trần Văn Khuê, aa., tr. 6. 5 x. Jacques Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Trần Văn Khuê, aa., tr. 28. 6GLHTCG, số 321.

Page 11: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

11

quan phòng là gìn giữ và bảo tồn vũ trụ vạn vật, tức là quản trị những gì đã có”7.Còn

theo Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo định nghĩa như sau: “Quan phòng hay thiện hữu là

việc Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan và tình thương, đã an bài mọi sự”8.

2. Sự quan phòng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh

Đức tin của Giáo Hội vào một Thiên Chúa quan phòng được đặt trên nền tảng của

mạc khải trong Kinh Thánh. Quả vậy, trong Cựu Ước và Tân Ước là kho tàng mạc khải về

một Thiên Chúa yêu thương quan phòng con người và vạn vật.

2.1. Cựu Ước

Chính Thiên Chúa muốn mặc khải tình yêu của mình qua việc chọn dân riêng là

Israel giữa các dân tộc khác và đã ký kết với họ một giao ước vĩnh cửu (Gs 31, 31-37 ;

Ez 36, 26-29). Là dân được Thiên Chúa tuyển chọn riêng, nên Israel nhận biết quyền

năng của Thiên Chúa trên vũ trụ vạn vật, mà chính Ngài đã sáng tạo nên. Chính Israel

cảm nhận được sự che chở, tình yêu thương, quan phòng của Thiên Chúa luôn ở bên họ

trong từng biến cố của lịch sử, Ngài sắp đặt mọi sự trong vũ trụ (St 8,22), để hướng đến

giao ước (Dnl 11,13). Thiên Chúa khôn ngoan cai trị vũ trụ mà Người đã dựng nên.

Chúa là mục tử yêu thương, nuôi dưỡng và dẫn dắt dân riêng Ngài (Tv 105 và 106)9.

Thiên Chúa quan phòng, như là sự bảo đảm căn cốt và vĩnh cửu cho con người

và sự tự do của con người trong vũ trụ, trong Cựu Ước cho thấy rõ điều này khi con

người nhìn nhận chính Thiên Chúa là khiên che, thuẫn đỡ, là thành luỹ vững vàng, là

núi đá không thể phá hủy được: “Lạy Chúa, con yêu mến Ngài, Ngài là sức mạnh của

con. Lạy Chúa, Ngài là núi đá, là thành luỹ của con, là Đấng giải thoát con. Lạy Thiên

Chúa, Chúa là núi đá nơi con trú ẩn, là khiên mộc che chở con, là Đấng cứu độ quyền

năng, là thành trì bảo vệcon”(Tv 18,3). Chính vịnh gia còn nói lên lòng tin tưởng và

phó thác cho Thiên Chúa quan phòng số mạng của mình: “Chúa là Đấng nắm giữ số

mạng con”(Tv 16,5).

Trong thời lưu đày, giữa cảnh gian truân, toàn dân Israel đã đặt niềm tin rất chắc

chắn vào Chúa quan phòng và che chở họ. Vì thế họ đã thưa lên với cả tâm can rằng:

“Lạy Chúa, xin nghe lời con cầu khẩn, tiếng con kêu, mong được thấu tới Ngài. Buổi

7Giải Thích Thần Học, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Tạo Thành, 1995, tr. 289. 8Lm. Hồng Phúc. CSsR, Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo, mục: quan phòng. 9 x. M. Vinh sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Sáng Tạo Và Quan Phòng. Học Viện Thần Học Xitô Thánh Gia Việt Nam, 2012, tr. 185.

Page 12: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

12

con gặp gian truân, xin Ngài đừng ẩn mặt, trong ngày con cầu cứu, xin Ngài lắng tai

nghe và mau mau đáp lời” (Tv 102,2-3).

Không chỉ các vịnh gia đã đặt niềm tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa,

mà tác giả sách Khôn Ngoan cũng cho chúng ta thấy một Thiên Chúa duy nhất quan phòng,

an bài và gìn giữ tạo vật và con người: “Thế nhưng lạy Cha,chính Cha mới quan phòng

hướng dẫn” (Kn 14,3a). Ngoài Ngài ra không có vị thần nào chăm lo đến muôn loài : “Vì

Chúa chăm sóc mọi loài. Ngoài Ngài ra, chẳng còn thần nào khác”(Kn 12,13), hay “Chúa

biểu dương sức mạnh đến mút cùng cõi đất, và cai quản vũ trụ cách nhân hậu” (x.Kn

8,1),“Nếu như Ngài Không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi?Nếu như Ngài không cho

hiện hưu, Làm sao nó có thể được duy trì”? (Kn 11,25).

Riêng đối với con người, Isaia nói: “Lạy Chúa, Ngài cho chúng con được an cư lạc

nghiệp, vì hết mọi việc chúng con làm đều do Ngài thực hiện cho chúng con”(Is 26,12).

Không những con người mà đối với tạo vật, Người nuôi dưỡng, chăm lo. Chẳng hạn

trong Thánh Vịnh ca lên:“Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài

đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” (Tv 145,

15-16), hay “Chúa cho loài gia súc có đầy đủ thức ăn,bầy quả non kêu đói cũng luôn được

no mồi” (Tv 147,9)10.

Qua mặc khải trong Cựu Ước, Thiên Chúa cho ta biết về một niềm tin vào sự

yêu thương quan phòng của Thiên Chúa được thể hiện qua dân riêng mà Ngài đã tuyển

chọn…Giờ đây người viết xin được tiếp tục tìm hiểu qua mặc khải trong Tân Ước về

tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.

2.2. Tân Ước

Ngay trong chương trình cứu chuộc của Đức Kitô đã diễn tả và khai mở cho

chúng ta về tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa Cha, vì như thánh Phaolô đã

viết:“Khi thời gian tới hồn viên mãn Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một

người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng

ta nhận được ơn làm nghĩa tử”(Gl 4,4-5). Qua câu nói này cho chúng ta thấy được ý

định đời đời của Thiên Chúa yêu thương trong sự quan phong, muốn cho mọi người

được cứu độ. Cũng chính thánh Phaolô nói tiếp:Thiên Chúa quan phòng là kế hoạch yêu

10Jasque Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo, 2008. Chuyển ngữ: Lm. Trần Văn Khuê, tr. 94.

Page 13: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

13

thương, Thiên Chúa đã chọn lựa Đức Giêsu Kitô làm Đấng cứu độ và cho chúng ta

được thừa hưởng ân sủng, ban làm nghĩa tử của Ngài(x. Ep 1,3-10).

Việc Thiên Chúa yêu thương quan phòng được làm sáng tỏ và rõ nét nhất là qua

các tác giả Tin Mừng Mat-thêu và Luca. Chính các ngài đã ghi lại những lời Đức Giêsu

đã mạc khải cho loài người về tình yêu và quan phòng của Chúa Cha: “Vì thế anh em

đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những điều đó, dân

ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó”(Mt

6, 31-33 ; Lc 12, 29-31). Không dừng lại ở đây, thánh Mat-thêu và Luca còn nhấn mạnh

và xác quyết hơn : “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không ? thế mà không

một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay

đến tóc trên đầu anh em, người cũng đếm cả rồi”(Mt 10, 29-31 ; Lc 21,18)11. Để xác tín

niềm tin sắt đá của mình một lần nữa vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa

hai tác giả sách Tin Mừng còn nói tiếp: “Anh em nhìn chim trời : chúng không gieo,

không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh

em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài

đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy

ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên như thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm

lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo thật cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù

vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài

đồng, nay còn, mai đã quặng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì

huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin”(Mt 6,26-30; Lc 12, 24-28)12. Với niềm tin

xác tín vào tình yêu thương quan phòng của Thiên Chúa, thánh Phaolô đã nói lên cách

hùng hồn và mạnh mẽ qua diễn từ trước hội đồng Arêôpagô trong sách Công Vụ Tông

Đồ như sau: “Người cũng không cần được bàn tay con người phục vụ, như thể Người

thiếu thốn cái gì, vì Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự”(Cv 17,26), và

“Thật vậy, chính nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu”(Cv17,28). Cũng

với niềm xác tín đó, thánh Phaolô đã viết cho giáo đoàn Rôma để khuyên bảo và dạy họ

tin vào tình yêu quan phòng và ca tụng thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa: “Vì muôn

vật đều do Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn

đời! A-men”(Rm 11,36). Có thể nói, sự quan phòng của Thiên Chúa được biểu lộ rõ nét

nhất và huy hoàng nhất trên thập giá.Trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô đã sống khoảnh

11 x. Jacques Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, NxbTôn Giáo. Chuyển ngữ : Lm. Trần Văn Khuê, tr. 100-101. 12Thiên Chúa là Cha và Là Đấng Tạo Thành, Giáo Lý Dựa Trên Kinh Tin Kính Do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Chuyển Ngữ : Nguyễn Đức Tuyên, Ngưỡng Nhân Ấu Nhi, tr. 300-301.

Page 14: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

14

khắc của thất bại và của sự bỏ rơi cực độ nhất. Nhưng một cách chính xác, chính ở đó,

trong người Con của Ngài chịu đóng đinh, Thiên Chúa đã phá vỡ hận thù (x. Ep 2,16),

và làm cho điều thiện thắng điều dữ13.

Như thế, qua Kinh Thánh, chính Đức Kitô đã mặc khải cho chúng ta một khuôn

mặt như một người Cha, luôn yêu thương, chăm sóc và giữ gìn cho công trình tạo dựng

của Người.Nhất là cho chúng ta thấy rõ được phẩm giá cao quý của mình là được làm

nghĩa tử của Người nhờ Đức Giêsu Kitô.

Qua những gì đã trình bày, Kinh Thánh cho chúng ta thấy rõ một Thiên Chúa

luôn yêu thương và quan phòng công trình sáng tạo của Người trong mọi thời gian và

qua từng biến cố. Vậy giờ đây người viết xin được làm rõ nét hơn về tình yêu quan

phòng của Thiên Chúa qua cái nhìn của các giáo phụ.

3. Theo các giáo phụ

Dựa vào Mặc khải, và kết hợp với năm tháng cầu nguyện, chiêm niệm, suy tư

một số giáo phụ cũng đã lãnh ân được sự khôn ngoan về sự quan phòng của Thiên Chúa

và đã trình bày cho chúng ta về việc Thiên Chúa quan phòng như sau14.

Thánh Justinô viết: “Vật tham phần thời khác và chính vật được vật đó tham

phần vào thời khác. Linh hồn tham phần sự sống vì Thượng Đế muốn nó sống. Một khi

Ngài không muốn nó sống nữa, là nó thôi không được tham phần nữa. Vì khác với

Thượng Đế, linh hồn không có sự sống bởi riêng mình”.

Tương tự như thế, thánh Irênê cũng nói: “Mọi vật đã bắt đầu có và chúng tồn tại

bao lâu Thượng Đế muốn cho chúng có và tồn tạo”.

Trong khi đó thánh Gioan Kim Khẩu viết: “Chúa lưu ý đến từng điều cho con

người. Phần ta, ta không thêm được gì cho thân ta, nhưng Chúa quan phòng làm hoàn

toàn đầy đủ mọi việc cho ta. Nếu không có Chúa quan phòng, thì mọi sự lo lắng vất vả

của chúng ta đều vô ích”. Đối với thánh Thomas Aquinô, ngài kết luận như sau: “Sự

quan phòng thuộc về Thiên Chúa, đó là điều thiết yếu. Quan phòng là kế hoạch của

chính Thiên Chúa, Đấng thiết lập sức mạnh của Ngài trong mọi sự, Ngài dự liệu tất

cả”15

.

13 x. Jacques Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Trần Vă Khuê, aa., tr. 102. 14 x. Nguyễn Văn Hạnh, Thiên Chúa Sáng Tạo, Học Viện Đa Minh, 2005, tr. 80. 15 M. Vinh Sơn Liêm. Nguyễn Hồng Thanh, Sáng Tạo Và Quan Phòng. Học Viện Thần Học Xitô Thánh Gia Việt Nam, 2012, tr. 185.

Page 15: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

15

Thánh Basiliô lại dùng kiểu nói tỉ dụ và ví von để nói về tình thương Chúa quan

phòng các thụ tạo như sau: “Chúa cho bò ngựa có cỏ, thì lại cho con người có của cải

sinh sống. Chúa tạo nên mọi thứ là dự bị cho con người có đủ thức ăn… không có gì là

không có lý do hay tình cờ, nhưng là kết quả của tài khôn ngoan vô cùng”16. Còn thánh

Augustinô đã đưa ra một lập luận vững chắc và đầy thuyết phục: “Thượng Đế không

phải như một kỹ sư xây nhà xong có thể bỏ đấy đi, vì nếu Ngài ngơi tay ra thì tất cả vũ

trụ sụp đổ”. Thánh nhân lại viết tiếp: “Sao tôi lại xin để Chúa ở trong tôi, trong khi tôi

không thể tồn tại nếu Chúa không ở trong tôi”? Theo ngài, đúng hơn phải nói: “Tôi

không thể tồn tại nếu tôi không ở trong Chúa, mà do đó, nhờ đó và trong đó tất cả mọi

vật tồn tại”17.

4. Theo giáo lý Hội Thánh Công Giáo

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo khẳng định, Thiên Chúa luôn quan phòng những gì

mà Ngài sáng tạo: “Sau khi sáng tạo, Thiên Chúa không bỏ mặc các thụ tạo của Người.

Người không chỉ ban cho chúng hữu thể và hiện hữu, Người còn luôn giữ gìn chúng hiện

hữu, cho chúng khả năng hành động và đưa chúng đến cùng đích”. Nhờ tình yêu không

giới hạn mà ngài vẫn hằng sắp xếp, điều khiển, gìn giữ, và hướng dẫn cũng như luôn tác

động thúc đẩy các tạo vật đạt đến sự hoàn hảo và cứu cánh mà Ngài đã định sẵn, đó được

gọi là việc Thiên Chúa quan phòng. Bởi vì: “Công trình sáng tạo có sự tốt lành và hoàn

hảo riêng, nhưng chưa hoàn tất khi được dựng nên. Vạn vật đang ở trong một “tiến trình”

hướng tới sự trọn hảo tối hậu do Thiên Chúa định sẵn”18. Như vậy, qua Giáo Lý Hội

Thánh Công Giáo cho ta thấy một cách minh nhiên, Thiên Chúa không chỉ sáng tạo ra vạn

vật rồi bỏ mặc chúng. Nhưng Ngài còn quan tâm, săn sóc, bảo vệ cũng như điều hành

chúng bằng ý định và sự khôn ngoan của Ngài. Lý do mà các thụ tạo cần đến sự quan

phòng của Thiên Chúa vì bản chất của nó mỏng dòn và chưa hoàn thiện. Chúng không tự

mình tồn tại và đứng vững. Mà luôn lệ thuộc vào Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất đã

sáng tạo nên chúng. “Tính bất tất của thụ tạo có ngay từ đầu và ám ảnh thụ tạo mãi, nên

muốn bổ túc cho nó có, cứ phải cần đến nguyên nhân đã làm cho nó ngay từ đầu. Chỉ

Thượng Đế mới tự mình có điều kiện để tự hữu và để luôn luôn có”19.Điều này được Giáo

hội xác định một cách mạnh mẽ như sau: “Thụ tạo mà không có Đấng Tạo Hoá thì sẽ tan

16 Nguyễn Văn Hạnh, Thiên Chúa Sáng Tạo, Hoc Viện Đa Minh, 2005, tr. 79. 17 Jacques Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Trần Văn Khuê, tr. 107-110. 18GLHTCG, số 302. 19 Nguyễn Văn Hạnh, Thiên Chúa Sáng Tạo. Học Viện Đa Minh, 2005, tr. 80.

Page 16: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

16

biến” (Gs 36,3); nó lại không thể đạt tới cùng đích tối hậu của mình nếu không có sự trợ

giúp của ân sủng”20.

Do đó việc Thiên Chúa quan phòng trước hết là việc Thiên Chúa bảo tồn vạn vật do

Người đã sáng tạo: “Thật ra thì tác động bảo tồn và tác động sáng tạo chỉ khác nhau theo

quan điểm trí khôn thôi… tác động bảo tồn không phải là tác động mới, nhưng chỉ là tiếp

tục tác động sáng tạo mà thôi”21.Do vậy, việc quan phòng còn biểu dương quyền năng và

sự khôn ngoan của Thiên Chúa nữa: “Sự quan phòng chính là Thiên Chúa lo liệu với sự

khôn ngoan và tình thương để dẫn đưa mọi thụ tạo tới cùng đích tối hậu của chúng”22.

Còn về cách thức quan phòng, Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nói: “Thiên Chúa

quan phòng, săn sóc mọi sự cách cụ thể và tiếp tục, từ những cái nhỏ nhất đến những biến

cố vĩ đại của thế giới và lịch sử. Nhưng để thực hiện, Thiên Chúa cần đến sự cộng tác của

nguyên nhân đệ nhị là các thụ tạo bằng cách trao quyền cho con người “làm chủ” trái đất

(x. St 1, 26-28) và cộng tác vào chương trình quan phòng qua cách vô thức = bản năng và

cách có ý thức = hành động có suy nghị, bằng lời cầu nguyện, bằng chính đau khổ của

mình(x. Cl 1, 24). Khi đó, họ hoàn toàn trở thành “những cộng tác viên của Thiên

Chúa”(x. 1Cr 3, 9), và của Nước Trời (x. Cl 4,11). Đây không phải là dấu hiệu của sự yếu

kém, nhưng là dấu của sự cao cả và lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa toàn năng. Vì

Thiên Chúa không chỉ cho các thụ tạo hiện hữu, nhưng cũng cho chúng phẩm giá tự mình

hoạt động, làm nguyên nhân và nguyên lý cho nhau, và nhờ đó mà cộng tác vào việc hoàn

thành ý định của Người”23.

Như vậy, qua Kinh Thánh, quan niệm của các giáo phụ, và Giáo Lý Hội Thánh

Công Giáo, cho ta thấy được một Thiên Chúa rõ nét nhất về lòng nhân từ, săn sóc và quan

tâm đến vạn vật bằng một tình yêu không giới hạn và đặc biệt yêu thương con người với

tình phụ tử. Vậy phải hiểu thế nào về việc Thiên Chúa quan phòng và vấn đề đau khổ, sự

dữ? Sự dữ do đâu mà có? Giờ đây người viết xin được bước sang tìm hiểu vấn đề về đau

khổ và sự dữ.

20 GLHTCG, số 308. 21 Nguyễn Văn Hạnh, Thiên Chúa Sáng Tạo. Học Viện Đa Minh, 2005, tr. 80. 22GLHTCG, số 321. 23GLHTCG, số 303 -308.

Page 17: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

17

II. KHÁI NIỆM VỀ ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ

Thật là điều hết sức khó khăn, phức tạp và bí ẩn nhất khi con người đối diện với

vấn đề đau khổ và sự dữ. Thế nhưng, thực tế tất cả chúng ta đều phải đương đầu với vấn

nạn ấy một cách hết sức cụ thể, và thường là hết sức đau đớn. Đó là một kinh nghiệm

rất đa dạng, đặc biệt là những đau khổ (thể lý và luân lý), những cái chết do sức mạnh

thiên nhiên, hay do sự độc ác của con người gây ra. Và dù có một niềm tin theo triết học

hay tôn giáo, chúng ta cũng không thể tránh khỏi bị chất vấn một cách khủng khiếp và

đau đớn24. Vậy đau khổ và sự dữ là gì? Chúng ta có thể định nghĩa một cách bình dân

về sự dữ như sau: Sự dữ là sự đau đớn. Sự dữ là bất cứ điều gì hại đến cơ thể. Sự dữ là

bất cứ sự thiếu sót nào của thiên nhiên hay sự dữ hệ tại trong sự thiếu vắng sự hoàn

hảo25.Đau khổ là tình trạng đau đớn, khó chịu mà con người cảm thấy khi sự dữ xuất

hiện hay khi thiếu sự lành26. Nhưng theo quan niệm của các triết gia thì, đi tìm cho đau

khổ và sự dữ một định nghĩa thật là điều hết sức khó khăn, vì giả như từ bản chất sự dữ

có hiện hữu thật, thì ta cũng chỉ có thể định nghĩa sự dữ qua một điều tốt đã bị sự dữ

làm giảm thiểu hay tổn hại. “Có thật chúng ta biết… sự lành là gì và sự dữ là gì không,

khi chúng ta luôn pha trộn với nhau không thể tách biệt được”? Etienne Borne đã đưa

ra nghi vấn đó. Ông còn lập luận: “Cần lưu ý là ta không bao giờ có thể định nghĩa sự

dữ một cách trực tiếp được. Không phải chỉ vì sự dữ luôn đi đôi với sự lành, nhưng còn

vì không thể kể ra một sự dữ mà không nhắc đến một sự lành”. Chính Lavelle cũng quả

quyết: “Sự dữ chính là thiếu sự lành”. Tuy nhiên, mặc dù theo quan niệm của các triết

gia, dù không thể định nghĩa sự dữ mà không liên hệ với sự lành, nhưng như thế không

có nghĩa là sự dữ không có thật. Nó không phải chỉ là tình trạng thiếu sự lành, nhưng

thỉnh thoảng người ta vẫn nói: “Các triết gia có thể hài lòng với những lập luận kiểu đó

một mình trong bàn giấy; nhưng họ sẽ nghĩ sao trước cảnh một bà mẹ vừa mới chứng

kiến con mình chết? Không, đau khổ là một thực tại kinh khủng và thật là quá lạc quan

đến mức không chịu được khi định nghĩa sự dữ…là một sự lành ở một mức độ nhỏ

hơn”27.

24 x. Dominique Morin, Gọi Tên Thượng Đế, tr. 199. 25 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search Of True Religion A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 185-190. 26 x. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin Tiểu Ban Từ Vựng, Từ Điện Công Giáo 500mục từ, Nxb Tôn Giáo, 2011, tr. 104. 27Dominique Morin, Gọi Tên Thượng Đế, tr. 207-208.

Page 18: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

18

1. Đau khổ và sự dữ

Trong kiếp sống nhân sinh nỗi kinh hoàng, sự ám ảnh hầu như mang lại nhiều

hoang mang cho con người có thể nói được đó là đau khổ và sự dữ. Vì vậy, triết lý nhà Phật

mới thốt lên rằng: “Đời là bể khổ”. Đúng thế, đã là người ai cũng có kinh nghiệm về sự ác

hay đau khổ của kiếp sống dương gian này. Bất kể là người trẻ hay các bậc tiền bối, người

giàu sang, quyền quý hay người mang thân phận bần cùng trong xã hội, tất cả đều phải kinh

qua những đau khổ, như: Bệnh tật, thiên tai, chiến tranh, khủng bố, nghèo đói…

Năm 1940 Phát xít Đức đã gieo kinh hoàng và đau khổ cho cả thế giới qua việc sát

hại hàng loạt những người vô tội bằng nhiều hình thức vô nhân đạo như: Dùng phòng hơi

ngạt, cho uống và chích thuốc độc, dùng lò thiêu sống, bỏ đói và rét cho đến chết. Theo kế

hoạch huỷ diệt người Do Thái và tù nhân chính trị, trùm phát xít Hitler đã cho xây một nhà

tù, tên gọi là Auschwitz. Từ đó Auschwitz đã trở thành “lò giết người hàng loạt” lớn nhất

trong lịch sự nhân loại28.Theo thống kê có khoảng 6 triệu người bị giết tại đây, đa số là

người Do Thái29. Đây là một biến cố tang thương và đau khổ bao trùm mọi nơi trên thế

giới. Mọi người nói chung và dân Do Thái nói riêng đều phẩn uất và lên án vụ tàn sát đó

cho đến ngày nay.

Năm Ất Dậu 1945, dân Việt Nam trải qua một nạn đói kinh hoàng. Có đến khoảng

2 triệu người phải chết đói trong tuyệt vọng vì không có miếng ăn, với sự lạnh giá thấu

xương của thời tiết. Đây là một biến cố mà con người luôn rùng mình và căm hận mỗi khi

họ phải chứng kiến những hình ảnh bi thương nhất của những người nằm giơ xương chờ

chết.

Gần đây nhất, vào thứ ba ngày 11 tháng 9 năm 2001, nhóm khủng bố Osama Bin

Laden đã cướp bốn chiếc Boeing 767 và chỉ trong một giờ đồng hồ đã làm nổ tung hai ngọn

tháp chọc trời của trung tâm thương mại thế giới này. Tổng số thương vong trong cuộc

khủng bố này trên ba ngàn người, gồm nhiều quốc gia, trong số đó có rất nhiều chuyên gia

lỗi lạc về các nghành kinh tế, tài chánh, ngân hàng, kỹ thuật và quân sự. Biến cố này không

chỉ làm chấn động nước Mỹ, mà còn làm rúng động cả thế giới, và phải còn rất lâu người ta

mới có thể nguôi ngoai nỗi đau30.

28 x. Michel Rondet S.j., Lời Thì Thầm Của Chúa hay những nẻo đường khác nhau trong hanh trình tâm linh, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Đặng Xuân Thành, tr. 54-57. 29 x. Giuse Đinh Thanh Bình.Lạy Chua! Tại Sao Ngài Im Lặng? Tủ Sách Dân Chúa, 1995, tr. 93. 30x.Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật. Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa, 2007, tr. 46.

Page 19: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

19

Đứng trước những tiếng khóc bi ai trong đau thương, bất công và mất mát của cuộc

đời, rất nhiều câu hỏi được đặt ra xung quanh vấn đề về sự hiện hữu, quan phòng yêu

thương của Thiên Chúa, như: Có Thiên Chúa không? Nếu thật sự có Thiên Chúa thì Ngài ở

đâu khi sự dữ xảy ra? Hoặc nếu Thiên Chúa đầy tình thương và giàu lòng nhân hậu thì tại

sao Ngài lại không ngăn chặn sự ác… Những vấn nạn liên tục được đặt ra và đã có rất

nhiều người không thể tìm được câu trả lời thoả đáng cho mình. Chính vì thế biết bao người

đã đánh mất niềm tin, hay ít ra niềm tin vào một Thiên Chúa quyền năng và yêu thương bị

nghi ngờ. Để làm rõ những thắc mắc trên, người viết xin được bước sang mục phân biệt các

loại sự dữ.

2. Phân loại sự dữ

Khi đề cập đến vấn đề đau khổ và sự dữ, thường người ta phân loại ra hai khía

cảnh đó là, sự dữ đến từ thiên nhiên và luân lý.

2.1. Sự dữ thiên nhiên

Khi nói tới sự dữ thiên nhiên, con người luôn đi tìm và đặt ra cho mình

những câu hỏi: Tại sao thiên nhiên luôn xẩy ra những biến cố động đất, lũ lụt, dịch

bệnh…? Có thể trả lời cho những thắc mắc của con người về những bất toàn của

thiên nhiên là do con người đã lạm dụng tự do để khai thác thiên nhiên một cách bừa

bãi và thiếu khoa học. Đây có thể được coi là nguyên nhân chính hay nói nhẹ hơn là

một phần. Ngoài ra còn có những sự dữ nằm ngoài và độc lập với ý chí con người đã

làm phát sinh ra đau khổ cho con người như: Sóng thần, động đất, bão lụt, hạn hán,

nghèo đói… dù muốn dù không, chúng ta phải nhìn sự dữ thiên nhiên hiện hữu thật

sự và dương như nó nằm ngay trong cơ cấu của vũ trụ bất toàn.

Cho dù biết bao nhiêu nhà khoa học, thiên văn học qua mọi thời đại cất công

nghiên cứu tìm hiểu nhưng vẫn không thể hiểu thấu được tại sao vũ trụ lại bất toàn? Và

với niềm tin tôn giáo vào Thiên Chúa hay Thượng Đế cũng không ngừng tìm hiểu do

đâu mà Thiên Chúa hay Thượng Đế chấp nhận cho một số sự kiện xấu xẩy ra. Tại sao

Thiên Chúa không dựng nên một vũ trụ hoàn hảo đến độ không có sự dữ đó? Để trả lời

cho những vấn nạn con người luôn thao thức đi tìm, niềm tin của Kitô Giáo đã xác

quyết: “Theo quyền năng vô cùng của Ngài, Thiên Chúa có thể tạo nên một cái gì tốt

hơn, nhưng trong sự khôn ngoan và tốt lành của Ngài, Thiên Chúa đã muốn tự do sáng

tạo một vũ trụ “trong trình trạng đang tiến tới” sự toàn hảo tối hậu của nó… như vậy

Page 20: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

20

bao lâu sự sáng tạo chưa đạt tới mức toàn hảo của nó, thì cùng với sự thiện vật lý sẽ có

những sự ác vật lý”31.

Dù muốn dù không, con người cũng phải thừa nhận rằng chúng ta đang sống

trong một thế giới đã sa ngã, và con người phải chịu những thiên tai đáng lẽ không xẩy

ra nếu con người không chống lại Thiên Chúa cũng như không làm trái với quy luật tự

nhiên.

Bên cạnh đó, đối với lập trường Kitô giáo chưa bao giờ giả định rằng Thiên

Chúa có ý định tạo nên thế giới mà trong đó con người có thể tận hưởng tối đa các lạc

thú và chịu đau khổ tối thiểu. Trái lại, thế giới này chỉ được coi như là nơi mà con người

phải vất vả để trở thành một hữu thể tự do, và phải đối diện với những nhiệm vụ và

thách đố đến từ môi trường sống, để trở thành con cái Thiên Chúa. Thật vậy, một số

giáo phụ đã có những suy tu thần học về việc Thiên Chúa có ý định sáng tạo liên tục,

chẳng hạn như thánh Irênê. Gợi hứng từ tư tưởng của thánh Phaolô, ngài dạy rằng:

“Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng chưa phải là một tác

nhân tự do và trách nhiệm giống như Thiên Chúa”, giới hạn này chỉ có thể được Mặc

khải nơi Đức Giêsu Kitô. Với tất cả gai góc của nó, thế giới này chính là nơi mà tiến

trình tạo dựng được diễn ra liên tục cho tới khi (nên giống Thiên Chúa).32

Trong tâm khảm mọi người, ai ai cũng mong ước một thế giới vẹn toàn, là một

thiên đàng trong đó không có đau khổ, chết chóc, lo âu, phiền muộn… Thế nhưng, thử

hỏi rằng nếu thế giới này là một thiên đàng, trong đó không có đau khổ và phiền muộn

thì hậu quả sẽ thế nào? Chúng ta hãy giả định rằng, chúng ta đã sống trong một thế giới

ở đó Thiên Chúa không ngừng can thiệp để ngăn cản đau khổ và sự dữ. Sự ngăn cản này

đòi hỏi một sự loại bỏ tất cả những luật lệ tự nhiên phổ quát. Thiên Chúa sẽ lấy đi nhiệt

của lửa, phòng trường hợp khi chúng ta đưa tay vào lửa. Ngài sẽ thay đổi bản tính của

nước khi một ai đó ở trong sự nguy hiểm của việc chết chìm. Sự sắc bén của con dao sẽ

biến mất khi có sự nguy hiểm cho một ai đó bị cắt bởi con dao. Thuốc lá không còn là

nguyên nhân của bệnh ung thư phổi… Sự can thiệp như thế của Thiên Chúa vào trong

luật lệ tự nhiên để ngăn cản đau khổ sẽ tạo nên một thế giới trong đó thiên nhiên hoàn

toàn không thể đoán trước được. Vì vậy, trong thế giới này không có chỗ cho khoa học

và bất kỳ sự phát triển kỹ thuật. Đi xa hơn, nếu như Thiên Chúa can thiệp không ngừng

vào trong đời sống con người để ngăn cản đau khổ và để tạo nên hạnh phúc tối đa.

Trong một thế giới như thế không có hành động nào của sự dữ có thể gây ra những hậu

31GLHTCG, số 310. 32x. John Hick, Triết Học Tôn Giáo. Dịch giả: Lm. Nguyễn Thịnh Phước, tr. 67.

Page 21: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

21

quảgây hại. Sự gian lận không phá huỷ xã hội, sự phản bội không mang đến đau khổ

cho bất kỳ cá nhân nào… Trong một thế giới như thế không có sự phát triển đặc tính

luân lý của con người. Sẽ không cần đến nhân đức can đảm, kiên nhẫn và bền chí. Tách

biệt khỏi mọi đau khổ, tình yêu của con người không bao giờ có thể phát triển, không có

chổ cho sự hy sinh bản thân và quan tâm đến người khác33. Có thể nói, khi loại bỏ các

vấn nạn, khó khăn và những quy luật thiên nhiên, đời sống sẽ trở thành dễ chịu. Nhưng

trái lại, đời sống con người đánh mất đi giá trị và ý nghĩa của nó, từ đó con người chỉ

sống một cách vật vờ và không có mục đích vươn tới. Con người luôn đặt ra câu hỏi:

Tại sao vũ trụ bất toàn, đau khổ, chết chóc, và các điều xấu Thiên Chúa vẫn cho xẫy ra?

Là vì, con người không tưởng tượng hay chưa có khả năng để nhận ra đâu là lý do mà

Thiên Chúa cho phép chúng xẩy ra. Như một đứa bé, không phải lúc nào nó cũng hiểu

rõ và nhận biết rằng những lý do mà cha mẹ nó không cho phép hay cấm nó không được

làm việc này hay việc kia.

Tóm lại, điểm thiết yếu nhất để giải quyết các vấn nạn thiên nhiên là phải nhìn

nhận rằng, khi nói đến Thiên Chúa là Đấng toàn năng, chúng ta không có ý nói Ngài có

khả năng làm bất cứ điều gì ta tưởng tượng ra. Đúng vậy, chính Kinh Thánh khẳng định

rằng: “Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mt 19,26). Tuy nhiên, Kinh Thánh

cũng khẳng định rằng, có một số điều Thiên Chúa không thể làm vì nó đi ngược với bản

tính và sự trung tín của Ngài như: “Với niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên

Chúa, Đấng không hề nói dối đã hứa từ thuở đời đời” (Tt 1,2), hay “Vì Thiên Chúa

không thể bị cám dỗ phạm tội” (x. Gc 1,13). Nói cách khác, Ngài không thể làm bất cứ

điều gì “ngược lại” với bản chất công chính, thánh thiện của Ngài. Ngài cũng không thể

làm những gì trái với bản chất hợp lý của Ngài trong một thế giới trọng lý lẽ. Chắc chắn

Thiên Chúa cũng không làm trái với những quy luật thiên nhiên mà Ngài đã ban cho

chúng. Đặc biệt, Thiên Chúa không bao giờ làm những gì phi lý và vô nghĩa34.

Dựa vào những chứng lý trên, chúng ta có thể kết luận rằng, Thiên Chúa không

thể loại trừ sự dữ và đồng thời Ngài cũng không làm cho nó trở nên vô hiệu đối với sự

hoàn thành những mục đích quan trọng khác. Chúng ta đã tìm hiểu về sự dữ thiên nhiên

gây ra, giờ đây người viết xin được bước sang sự dữ luân lý.

33 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search Of True Religion A Philosophy of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 220-222. 34 x. Giuse Đinh Thanh Bình, Lạy Chúa! Tại Sao Ngài Im lặng. Tụ Sách dân Chúa,1995, tr. 62-63.

Page 22: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

22

2.2. Sự dữ luân lý

Theo niềm tin Kitô giáo thì tất cả hình thức của tội lỗi là do con người đi

ngược lại ý muốn hay kháng cự lại tình yêu Thiên Chúa. Khi con người bất tuân với

Đấng chân thiện mỹ là lúc con người chiều theo điều xấu và tạo nên những sự dữ

luân lý, một điều không bao giờ Thiên Chúa tạo nên35.Còn theo quan niệm của John

Hick: “Sự dữ luân lý là sự dữ mà con người gây ra như: sự tàn nhẫn, sự bất công,

sự xấu xa, những suy nghĩ và hành xử đồi bại”36.

Lập luận trên được chứng thực qua những biến cố thương tâm đã xẩy ra trong

thế giới như: Thế chiến thứ I và thế chiến thứ II, những lò thiêu hay hầm chết ngạt trong

các trại tập trung của Đức quốc xã thời Hitler, cuộc khủng bố kinh hoàng xẩy ra ớ Mỹ

vào Ngày 11 tháng 9 năm 2001… Cũng có thể kể đến những cái chết thương tâm và bi

ai của hàng triệu triệu thai nhi đã bị chính bàn tay vô nhân đạo của các đấng bậc sinh

thành giết đi ngay khi còn chưa chào đời. Thật vậy, chúng ta phải nhìn nhận rằng, tội ác

luân lý luôn là những hậu quả của việc con người lạm dụng tự do mà chính Thiên Chúa

ban, để quay lưng và chống lại ý muốn tốt lành của Thiên Chúa.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết: “Các thiên thần và con người, những

tạo vật thông minh và tự do, phải đi tới cùng đích tối hậu của mình bằng một lựa chọn

tự do, trách nhiệm và bằng niềm ưu ái. Vậy họ có thể lạc đường. Sự thật thì họ đã phạm

tội, do đó sự ác tinh thần đã đi vào thế gian”37. Tội lỗi của con người đã gây ra không

phải do Thiên Chúa dựng nên. Thật vậy: “Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của

sự ác tinh thần chút nào, dù cách trực tiếp hay gián tiếp. Tuy nhiên, Ngài cho phép như

thế để tôn trọng sự tự do của tạo vật của Ngài”38.

Việc liên kết tự do con người với khả thể, và giờ đây đã trở thành hiện thực, con

người phạm tội, soi sáng rất nhiều cho ta về những nỗi thống khổ nhân loại đã phải gánh

chịu. Vì phần lớn những đau khổ của con người là đến từ những hành vi vô nhân đạo,

hay do con người không làm tròn trách nhiệm của mình. Những đau khổ đó như:

Nghèo đói, áp bức, bách hại, chiến tranh và mọi thứ bất công xẩy ra trong xã hội. Một

câu hỏi luôn đặt ra là, tại sao Thiên Chúa không sáng tạo nên con người tốt lành, thánh

thiện và toàn diện đến nỗi không thể phạm tội?

35 x. George A. Maloney, S..J., Nơi Chúa Giêsu Chúng Con Tín Thác, tr. 246. 36 John Hick, Triết Học Tôn Giáo. Người dịch: Nguyễn Thịnh Phước, tr. 66. 37 GLHTCG, số 311. 38 GLHTCG, số 311.

Page 23: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

23

Để trả lời cho thắc mắc vừa đưa ra, người viết xin được quay về với quan niệm

của Kitô giáo. Kitô giáo luôn coi sự dữ luân lý trong tương quan tự do và trách nhiệm

của con người. Là một nhân vị có tự do và tự chủ, phải chịu trách nhiệm lấy vận mạng

của mình thông qua những quyết định. Vì vậy, không ai trong loài người dám vỗ ngực

và đảm bảo trước được rằng, một tác nhân luân lý sẽ không bao giờ chọn sai. Như vậy,

khả năng làm điều xấu hay phạm tội không thể tách rời khỏi việc tạo nên những con

người hữu hạn. Vậy tại sao Thiên Chúa không dựng nên con người có tự do nhưng

không thể phạm tội? Nếu như ta hiểu hành vi tự do là hành vi không bị cưỡng bức từ

bên ngoài, nhưng nó xuất phát chính từ bên trong hay ngay từ bản tính của tác nhân, khi

họ phản ứng lại hoàn cảnh họ sống. Tuy nhiên sẽ mâu thuẫn khi nói rằng Thiên Chúa đã

tạo nên chúng ta để chúng ta buộc phải hành động theo một cách thức nhất định, và

chúng ta thực sự là những nhân vị độc lập với Thiên Chúa. Nếu như mọi tư tưởng và

hành động của chúng ta đã được Thiên Chúa tiền Định, thì dù chúng ta thấy mình có vẽ

tự do và có trách nhiệm đến mấy đi nữa, chúng ta không thể nào tự do và chịu trách

nhiệm luân lý trước mặt Thiên Chúa, nhưng trái lại, lúc đó chúng ta chỉ là những con rối

của Thiên Chúa.

Tóm lại, Thiên Chúa có dư quyền năng để sáng tạo nên bất cứ loài thọ tạo nào ta

có thể nghĩ ra. Nhưng nếu thụ tạo đó không có tự do luân lý, thì dù thụ tạo đó có trổi

vượt con người đến mấy đi nữa, thì chúng ta cũng không coi đó là những ngôi vị. “Khi

chúng ta hỏi tại sao Thiên Chúa lại không tạo nên những thụ tạo như thế thay vì con

người, câu trả lời truyền thống chỉ có ngôi vị, theo một nghĩa nào đó có ý nghĩa, mới có

thể trở thành “con cái Thiên Chúa”, có khả năng đi vào tương quan hữu vị với Đấng

Tạo Hoá qua sự đáp trả tự do không bị cưỡng chế trước tình yêu của Thiên Chúa”39.

39 John Hick, Triết Học Tôn Giáo. Dịch giả: Lm. Nguyễn Thịnh Phước. Tr 65.

Page 24: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

24

III. NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RA ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ

1. Phải chăng đau khổ và sự dữ đến từ Thiên Chúa?

Vấn đề về sự dữ luôn là những nhức nhối và băn khoăn đối với mọi người. Nhất

là vấn nạn: Phải chăng sự dữ đến từ Thiên Chúa? Thật vậy, Carl Jung, đồ đệ của

Simund Freud cũng đã đặt ra những thắc mắc về Thiên Chúa là nguyên do phát sinh sự

dữ như: Phải chăng Đấng tối hậu cũng mang trong mình hai khuôn mặt? Phải chăng sự

dữ bắt nguồn từ Ngài? Bởi vì nếu sự dữ hiện hữu thì hẳn nó phải là cái gì phát xuất từ

nơi Ngài. Để trả lời cho những thắc mắc này, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã dùng

lời nói của Thánh Gioan để nói về thực tại của bóng tối và phẩm tính nơi Thiên Chúa:

“Thiên Chúa là ánh sáng, nơi Người không có một chút bóng tối nào” (Ga 1,5); mà

bóng tối tượng trưng cho sự dữ và quyền lực tối tăm. Vì thế, có thề khẳng định bóng tối

(sự dữ) đến từ một thế lực khác ngoài Thiên Chúa, chứ không phải đến từ Thiên Chúa.

Ma quỷ hay sự dữ không thể ở gần hay ở nơi Thiên Chúa. Vậy sự dữ phát xuất từ đâu?

Nếu sự dữ không do Thiên Chúa tạo ra thì làm sao nói Thiên Chúa là Đấng tác tạo mọi

sự? Chính Giáo Hoàng Bênêdictô XVI lại khẳng định: “Sự dữ không phải là một tạo vật

mới. Nó không phải là một cái gì tự sinh tồn nhưng tự bản chất nó là phủ định, là sự

huỷ diệt thụ tạo. Nó không phải là một hữu thể vì hữu thể chỉ phát xuất từ nguồn của

mọi hữu thể. Nó là một cái không. Sự dữ không phải là một thụ tạo riêng lẻ. Nó là một

thứ cây tầm gửi. Nó sống nhờ kẻ khác và cuối cùng nó sẽ tự giết nó”40. Cho nên, dù sự

dữ có đó, hiện hữu đó,và vẫn đang hoành hành giữa thế giới con người, thì Thiên Chúa

cũng luôn quan phòng mọi sự và dẫn đưa vạn vật đến cùng đích tối hậu của chúng. Hay

nói như thánh Thomas Aquinô: “Thiên Chúa sắp xếp mọi sự đều hướng về cứu cánh tối

hậu của chúng là sự tốt lành của Thiên Chúa”41.

Tuy nhiên, khi gặp sự dữ và đau khổ con người thường chỉ nghĩ ra một Thiên Chúa

theo như họ quan niệm và đòi hỏi Thiên Chúa đó phải đáp ứng những nhu cầu của họ; một

vị Thiên Chúa luôn tiêu diệt kẻ dữ và thưởng công cho người lành. Thiết tưởng nếu có một

vị Thiên Chúa như thế, thì vị Thiên Chúa đó đã bị chính con người đóng khung. Trái lại,

Thiên Chúa không như con người nhìn nhận. Ngài không chỉ là một Thiên Chúa công bình

nhưng còn đầy tình thương hay tha thứ. Ngài không chỉ là một Thiên Chúa toàn năng mà

thôi, nhưng Ngài là một Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, nhẫn nại, giàu lòng xót thương (x.

40 Joseph Raszinger, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, Nxb Tôn Giáo. Người dịch: Phạm Hồng Lam, 2011, tr. 129-130. 41 M. Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Sáng Tạo Và Quan Phòng. Học Viện Thần Học Xitô Thánh Gia Việt Nam, 2012, tr. 185.

Page 25: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

25

Tv 85; 103), hay “Ngài đã cho mặt trời mọc lên soi sáng người lành cũng như kẻ dữ và cho

mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”(Mt 5,45). Cho nên, trong vấn đề

đau khổ và sự dữ, con người thường bị cám dỗ có xu hướng kéo Thiên Chúa ngang hàng

với mình, tạo ra cho mình một vị Thiên Chúa đầy quyền năng nhưng hoạt động theo như ý

họ muốn. Đó không phải là đường lối của Thiên Chúa cũng như không phải cách Thiên

Chúa hành động.

Một số không nhỏ, nếu không muốn nói là tất cả mọi người, khi ở trong cuộc sống

thịnh vượng, mọi sự đều an bình, xuôi thuận thì không ai kêu ca, trách móc, cầu khẩn hay

nhớ đến để tạ ơn Thiên Chúa. Nhưng khi gặp gian nan, đau khổ, thử thách thì người ta bắt

đầu khấn vái, kêu cầu Ngài giúp sức, phù hộ, nếu không được như ý mình xin thì quay lại

chống đối, trách móc. Tuy nhiên dù con người cầu khẩn hay trách cứ thì Thiên Chúa vẫn có

đó, vẫn hiện hữu. Thật vậy “Danh Thánh Thiên Chúa khắc sâu vào lòng lịch sử các niềm

hy vọng và các nỗi đau khổ của nhân loại. Chính trong lịch sử nhân loại mà có khi danh

thánh trở nên chói loà vang dội, có lúc lại tàn lụi, khi thì được tôn kính, lúc khác lại bị phủ

nhận, nhưng không bao giờ bỏ quên”42. Cho nên nếu nói sự dữ đến từ Thiên Chúa thì

không đúng, vì sự dữ và đau khổ là sự khiếm khuyết của sự thiện hảo; mà Thiên Chúa là

Đấng thiện hảo trọn vẹn. Vì vậy, sự dữ và đau khổ không thể đến từ Ngài. Nếu sự dữ và

đau khổ đến từ Thiên Chúa thì tại sao Đức Giêsu lại trừ quỷ và chữa bệnh cho con người43?

Chúng ta phải khẳng định đau khổ và sự dữ không bắt nguồn từ Thiên Chúa, và

Ngài cũng không tạo ra đau khổ, cũng như không gây nên bất công, bởi vì Ngài là tình yêu

“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16), và là sự công bằng vô biên44.Chính Đức Thánh Cha

Bênêdictô XVI đã xác quyết như sau: “Không thể nói Chúa tạo ra Satan. Câu chuyện về

Luxiphe muốn nói lên rằng không phải Chúa tạo nên các thế lực sự dữ. Các thế lực này

xuất hiện rõ nét trong câu chuyện Đức Giêsu trừ quỉ. Chúa chỉ tạo nên thần lành”45.Hay

như thánh Giacôbê đã nói: “Nơi Chúa không hề có sự dữ, Người không bao giờ thử thách

ai. Mỗi người khi bị thử thách là do dục vọng của mình lôi cuốn, và dùng mồi mà bẫy. Một

khi dục vọng đã cưu mang thì sinh ra tội, còn tội, khi đã phạm rồi thì sinh ra cái chết… Mọi

42 Herbert Vorgrimler, dẫn nhập, tuyển chọn và giới thiệu trong bộ Texte Zur Theologie Dogmatik, Thiên Chúa LuậnQua Các Tác Giả, tr. 105. 43 x. Joseph Ratzinger Đức Giáo Hoàn Bênêdictô XVI, Thiên Chúa Và Trần Thế, Nxb Tôn Giáo. Người dịch: Phạm Hồng Lam, tr. 126. 44 x. Thiên Phúc, Nữ Thánh Giữa Đời Thường. 30 Câu Chuyện, Suy Niệm và Cầu Nguyện, 1997, tr. 50-51. 45 Joseph Ratzinger Đức Giáo Hoàn Bênêdictô XVI, Thiên Chúa Và Trần Thế, Nxb Tôn Giáo. Người dịch: Phạm Hồng Lam, tr. 126.

Page 26: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

26

ơn lành, mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha, là Đấng dựng nên

tinh tú, nơi Người không có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối, khi

sáng”(Gc 1, 13-17). Tóm lại, Thiên Chúa không bao giờ tạo ra tàn tật, bệnh hoạn, chết

chóc, thất bại, nhục nhã… Vì Thiên Chúa đã yêu cho đến chết để cứu chúng ta. Một Thiên

Chúa đã yêu đến thế, không thể có bóng tối của quỷ dữ nơi Người được46.Nếu vậy thì tại

sao có đau khổ và sự dữ? Phải chăng đau khổ và sự dữ đến từ ma quỷ? Để làm sáng tỏ vấn

nạn này, người viết xin được trình bày mục “đau khổ và sự dữ đến từ ma quỷ”.

2. Đau khổ và sự dữ đến từ ma quỷ

Khi đề cập đến ma quỷ, chúng ta không cần tìm chứng cứ để chứng minh có ma

quỷ thật hay không, mà tìm hiểu xem có phải sự dữ, sự ác đến từ ma quỷ hay không ?

Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn là ma quỷ có thật, và chúng hoạt động trong thế

giới để làm hại con người. Nhưng chúng chỉ được phép làm hại con người trong một

phạm vi mà Thiên Chúa cho phép. Điều này ta thấy rõ trong sách Gióp: “Được, nó

thuộc quyền ngươi, nhưng người phải tôn trọng mạng sống nó” (G 2,6). Ma quỷ luôn

tấn công dụ dổ con người phạm tội vì ma quỷ là kẻ gian ác, với lòng phân bì, chúng nỗ

lực ngăn cản không cho loài người tiến tới, nhưng phải hư vong; chúng tìm mọi cách để

tiêu diệt loài người. Cho nên cám dỗ là việc của ma quỷ47. Còn theo các nhà thần học,

ma quỷ thường xuyên lôi kéo con người đi trệch con đường cứu độ mà Thiên Chúa đã

vạch ra cho họ. Theo thánh Thomas Aquinô: “Ma quỷ không thể biến đổi ý chí nhưng

có thể biến đổi những năng lực hạ cấp của con người, do đó dù ý chí không bị nó cưỡng

bức nhưng bị khuých đảo”48.Dựa vào quan điểm của thánh Thomas Aquinô và mặc khải

của Thánh Kinh ta có thể nói, không phải mọi tội ác đều do ma quỷ cám dỗ con người.

Chính trong Cựu Ước nhấn mạnh chân lý này: Con người hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên

Chúa, con người luôn luôn có thể chống lại sự dữ. Như thế, quyền lực của Satan không

phải là bất khả phản kháng. Trong sách Huấn Ca có nói: “Khi người vô đạo chửi rủa

Satan, nó rủa chính mình”(Hc 21,27). Đây là câu nói bằng chứng, nhằm ngăn ngừa tư

tưởng sai lầm là đổ lỗi cho Satan khi chính bản thân mình đã phạm luật Chúa49.Trong

Kinh Thánh chính Đức Giêsu cũng khẳng định: “Từ lòng người phát xuất những ý định

tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình…” (Mt 15,19). Còn thánh Giacôbê nói:

“Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà

bắt”(Gc 1,14). Trong con người có đủ nguyên nhân của tội lỗi, là tính tự do dự quyết,

46 x. Stan Rougier, Những cuộc hẹn của Thiên Chúa. Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết, tr. 218. 244. 47 x.Giải Thích Thần Học, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Tạo Thành, 1996, tr. 204. 48 Thánh Thomas Aquinô, Tổng Luận Thần Học về việc Thiên Chúa cai quản vũ trụ. Phầ I, vấn để 114. 49 x. Tội Lỗi Đau Khổ Theo Cựu Ước, tr. 58.

Page 27: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

27

những mơn trớn của xác thịt, tính kiêu ngạo, lòng ghen ghét…dù có thể kìm hãm. Vậy

nếu không ai cám dỗ, mà thiên thần cao cấp đã phạm tội, phương chi là con người, dù

ma quỷ không cám dỗ, cũng có thể tự mình sa ngã phạm tội. Cho nên không phải mọi

tội đều do ma quỷ50.Vậy có thể nói, nguyên nhân của đau khổ và sự dữ không chỉ đến từ

ma quỷ, nhưng cũng do từ tội nguyên tổ. Để làm sáng tỏ vấn nạn này, người viết xin

được trình bày mục “khổ và sự dữ do tội nguyên tổ”.

3. Đau khổ và sự dữ do tội nguyên tổ

Theo quan niện của Kitô giáo, đau khổ và sự dữ là do tội lỗi loài người mà đầu

tiên là tội nguyên tổ. Có thể nói, sự bất phục tùng của nguyên tổ Ađam và Evà đã xô đổ

lâu đài hạnh phúc của con người, để từ đó đau khổ và sự dữ đi vào trần gian mặc sức

tung hoành51. Chồng đổ lỗi cho vợ: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái

cây ấy, nên con đã ăn” (St 3,12). Anh cả giết em: “Cain xông đến giết em mình”(St

4,8). Con người không còn biết nghe và hiểu nhau nữa (tháp Baben, x. St 11,1-9)52.

Thật vậy “kể từ khi con người có khả năng tự chọn, không có thời gian nào mà con

người không phải là tội nhân”53. Chính Công đồng Vaticano II cũng đã khẳng định như

sau: “Ngay từ đầu lịch sử, con người theo thần dữ nên đã lạm dụng tự do của mình khi

nổi dậy chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới cứu cánh của mình ngoài Thiên Chúa.

Thật thế, biết lành dữ là quyền định đoạt cái gì tốt cái gì xấu, quyền ấy chỉ thuộc một

mình Thiên Chúa. Con người muốn dùng tự do của mình để nên hoàn thiện mà không

cần Thiên Chúa” (GS, 13). Ngay từ khởi thuỷ “Adam là người đầu tiên vượt chặng

đường ấu trĩ của nhân loại, là kẻ đầu tiên có khả năng hoạt động tự do và đáp trả lời

mời gọi của Thiên Chúa. Ông đã phạm tội ngay từ khi bước vào tự do, và cử chỉ từ

khước đó, ông đã chặn đứng bước thẳng tiến siêu nhiên của nhân loại. Ông đã tự ngăn

cản mình và ngăn cản người khác không đạt tới được trạng thái địa đàng (hạnh phúc

viên mãn)”54. Chính hậu quả của tội đã phá hỏng sự hài hoà giữa điều khác và điều

giống, nên lãnh vực nào (lẽ ra trong đó có sự phối hợp hài hoà giữa cái giống và khác)

cũng đều trở nên xấu đi do tội lỗi gây ra. Chẳng hạn từ nay sự khác biệt giữa ta với

Thiên Chúa trở nên tai hại, khó chấp nhận, vì Ađam và Evà bỗng trở nên sợ Thiên Chúa

50x. Giải Thích Thần Học, Mầu nhiêm Thiên Chúa Tạo Thánh, 1995, tr. 205. 51 x. Lm Nguyễn Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời, tr. 60. 52 x. Stan Rougier, Những Cuộc Hẹn Của Thiên Chúa. Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết, tr. 264. 53 Jacques Bur,les Editios du Cerf, Giáo Hội Nói Gì Về Nguyên Tổ. Lưu hành nội bộ, tr. 22. 54 Jacques Bur,. les Editios du Cerf , Giáo Hội Nói Gì Về Nguyên Tổ. Lưu hành nội bộ, tr. 34.

Page 28: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

28

(St 3,8). Tình trạng này sẽ được tái tạo và phục hồi lại nhờ chương trình cứu độ của

Chúa Ki tô thực hiện qua mầu nhiệm thập giá vàn phục sinh55.

Tuy nhiên, chúng ta không thể đổ lỗi hết cho ma quỉ và ông bà nguyên tổ, nhưng

trái lại phải nhìn nhận một phần tội lỗi của chính mình và chính tội lỗi mình đã đẩy

chúng ta vào cuộc sống đau khổ cũng như phải đối diện với sự dữ. Vì khi chúng ta

phạm tội, là chúng ta khước từ những gì giúp xây dựng con người một cách thật sự, vì ý

định của Thiên Chúa là làm sao cho con người đạt được mức viên mãn, làm con người

đứng thẳng, con người thành công, làm nghĩa tử đã được giải cứu. Bởi khi phạm tội là

luôn luôn tự làm cho mình bớt là người, là thụt lùi xuống một cấp, có hại cho sự phát

triển của mình, là tạo ra những tình huống đau đớn, trong đó con người sẽ đau khổ cảm

nhận những hậu quả của sự vong thân56. Vậy phải chăng sự dữ xuất hiện không chỉ đến

từ ma quỷ hay hậu quả của tội nguyên tổ của loài người mà thôi, nhưng cũng do từ con

người?

4. Đau khổ và sự dữ đến từ con người

Khi người ta xem đau khổ như là một đồ vật có thể nắm gọn trong tay hay một

vấn đề có thể quán triệt được nhờ sự hiểu biết của trí óc, thì con người sẽ đi vào ngõ cụt

và bế tắc. Thực ra sự dữ là một mầu nhiệm hay nói cách khác; sự dữ không chỉ đơn

thuần là một vấn đề triết học mà còn là một vấn đề tôn giáo. Mầu nhiệm sự dữ là một

mầu nhiệm con người không thể quán triệt được, vì là chương trình và ý định của Thiên

Chúa vượt qua giới hạn của con người. Khoảng cách từ con người đến Thiên Chúa là vô

biên. Ngay cả những thực tại của trần gian, con người còn chưa hiểu hết, huống chi là

đòi hiểu chương trình của Thiên Chúa! Như vậy, vấn nạn sự dữ, đau khổ vẫn còn đó;

đau khổ vẫn là một huyền nhiệm. Tuy nhiên, chính nó cũng trực tiếp liên quan đến kinh

nghiệm cũng như sự tự do của con người57. Vì vậy, trước đau khổ và sự dữ ta không thể

dùng các lý chứng để giải thích; ta phải đi từ vô nghĩa đến có nghĩa. Đứng trước mầu

nhiệm đau khổ và sự dữ khiến người ta nổi loạn vì họ bị chồng chất những đau khổ và

đối diện với những điều vô lý mà không thể giải đáp.

Vậy sự dữ nơi con người là gì? Về phương diện thể lý, có thể nói sự dữ phát

sinh do thể xác con người như: Bệnh tật, khuyết tật bẩm sinh, sự chết…; về phương

diện tâm linh do: lo âu, suy nhược tâm thần, chấn thương tâm lý…; còn sự dữ phát sinh

trong tinh thần là do: phản bội tinh thần, phản bội tự do, tình yêu… Hoặc sự dữ phát

55 x. Xavier Thevenot, Tội Lỗi. Trình Bày Về Tội Cho Con Người Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo, tr. 59. 56 x. Xavier Thevenot, Tội Lỗi. Trình Bày Về Tội Cho Con Người Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo, tr. 106. 57 x. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP., Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, tr. 82

Page 29: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

29

sinh do liên quan đến một cá nhân hay xã hội: liên quan cá nhân, sự dữ là ích kỷ, tính

kiêu căng, hận thù, phản bội, tôn thờ bản năng; liên quan đến xã hội, sự dữ là chủ nghĩa

dân tộc quá khích, chủ nghĩa quân phiệt độc tài khuynh hướng tôn thờ giới tính, quyền

lực, tiền bạc...58.Tuy nhiên, một điều ít ai để ý tới, đó là sự dữ xuất hiện vì do con người

khước từ Thiên Chúa.

4.1. Do con người khước từ Thiên Chúa

Có thể nói, phần lớn sự dữ xẩy ra trong thế giới là do con người dùng tự do của

mình quay lưng, khước từ Thiên Chúa là nguồn gốc mọi điều thiện hảo. Thật vậy chính

vì lạm dụng tự do hay đề cao tự do một cách mù quáng, mà con người bất cần Thiên

Chúa và xem Ngài như một kẻ quấy rối và đưa tới tình trạng nổi loạn chống lại Thiên

Chúa! Nietzsche hô lớn: “Ta đã chết và ta đã để cho Thiên Chúa chết”59. Nhất là ông

đã hạ cấp Thiên Chúa khi nói: “Một Thiên Chúa không còn vô cùng, nhưng như một

hữu thể bần cùng, vụ lợi, luôn bận tâm chống lại thụ tạo của mình”60.Còn nhà thơ

Lautréamont đã tự sát ngày ông sinh nhật thứ 21 với ý đồ đen tối là để đời đời Thiên

Chúa phải ngắm nhìn một cực hình mà đáng lẽ ông không phải chịu. Hơn nữa, con

người còn nhân danh công lý để nổi loạn chống lại Ngài.“Chống lại Thiên Chúa nhân

danh công lý, nhân danh sự ghê tởm sự dữ”61.Để xây dựng lại công trình của Thiên

Chúa, cần phải giết tự do, và để giết chết tự do, ta phải giết chết Thiên Chúa, đặc biệt là

Thiên Chúa của Kitô giáo. Người ta muốn Thiên Chúa im lặng để khỏi nghe nói về

Ngài, khỏi bị quấy rối. Người ta muốn giết Thiên Chúa như người Do-thái đã làm để

khỏi bị tra hỏi và bị kết án bởi Thiên Chúa62. Tuy nhiên, con người không biết rằng khi

loại trừ Thiên Chúa, thì tức khắc con người đi ngược lại chân, thiện, mỹ, cũng như đánh

mất sự hoà hợp, thông thương, là lúc bắt đầu sắm cho mình một hung khí tự huỷ diệt

chính mình và tha nhân, cũng là nguồn gốc phát sinh đau khổ và sự dữ. Vì thế ta hiểu

được câu nói của triết gia Jean Paul Sartre: “hoả ngục chính lá tha nhân”!Chính vì con

người chối bỏ Thiên Chúa nên đời sống đã diễn ra trong cảnh cướp bóc, hãm hiếp, ám

sát và chết chóc. Tại Nantes, người ta đã chế tạo một chiếc tàu giết người hở đáy. Chiều

chiều họ chất đầy tù nhân. Và vào ban đêm, họ đem đổ tất cả xuống sông Loire. Mỗi

chuyến như thế là 1.300 người. Người ta đếm được cả thảy là 23 chuyến, trong đó có

600 trẻ em. Trên bờ sông đã có sẵn bọn côn đồ. Hễ ai bơi được vào bờ thì liền bị chúng

58 x. Con Người Và Những Vấn Đề Của Con Người Trong Ánh Sáng Đức Kitô, tr. 90-92. 59 B. Bro, Quyền Lực Sự Dữ, Paris 1976, tr 44. 60 Lm Thái Nguyên, Những Canh Hoa Tâm Linh 1. Cuộc sống với những tương quan, 2007, tr. 219. 61 B. Bro, Quyền Lực Sự Dữ, Paris 1976, tr 44. 62 x. Con Người Và Những Vấn Đề Của Con Người Trong Ánh Sáng Đức Kitô, tr. 96-97.

Page 30: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

30

chặt tay, chặt chân rồi đẩy xuống sông. Ngoài ra trong một vài tháng đầu năm 1794,

nguyên tại thành phố Nantes đã có tới 15.000 bị hành quyết. Bởi đó, Platon ngày xưa đã

nói: “Xây một thành quách trên chín tầng mây còn dễ hơn cai trị một dân tộc không có

tôn giáo”. Hay như Chateaubriand thốt lên: “Tiêu huỷ việc thờ phượng Thiên Chúa thì

mỗi xã, mỗi huyện đều phải xây thêm nhà tù và phải tuyển thêm nhiều đao phủ”. Còn

Napoleon thì kết luận: “Một dân tộc không tôn giáo thì phải cai trị bằng súng đạn”63.

Sau biến cố tang thương ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, con gái của một vị

giảng thuyết lừng danh đã được mời phỏng vấn trên truyền hình và người dẫn chương

trình hỏi cô như sau: Tại sao Thiên Chúa lại để xẩy ra một thảm hoạ khủng khiếp như

thế? Cô trả lời: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn

bằng chúng ta. Từ bao năm nay chúng ta đã yêu cầu Ngài đi khỏi trường học, khỏi chính

phủ và khỏi đời sống chúng ta. Ngài là người “Quân tử” nên đã lẳng lặng rút lui. Làm

sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta đã khẩn

thiết xin Ngài để mặc chúng ta một mình”. Bên cạnh đó cô còn trả lời một cách mạnh mẽ

hơn, khi nhắc đến những biến cố mới xảy ra như: các cuộc khủng bố, giết người, chiến

tranh… như sau:“Tôi nghĩ rằng mọi sự bắt đầu với Madeleine Murray O’Hare, khi bà ấy

than phiền là không nên đọc kinh trong trường học nữa, và chúng ta đã đồng ý. Rồi người

khác có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh trong trường học, nhưng chính

Kinh Thánh dạy chúng ta: “Chớ giết người, chớ trộm cắp, hãy yêu thương tha nhân như

chính mình mình”… và chúng ta cũng đã đồng ý”64.Thiết nghĩ điều đó cũng quá đủ để

chúng ta thấy nguyên nhân những sự tàn ác xảy ra trong thế giới này. Thật vậy, vì chạy

theo và tôn sùng tự do một cách sai lạc, mù quáng, con người đã chuốc vào thân bao

nhiêu đau khổ, tang thương, nhất là đánh mất giá trị là người của mình. Triết gia Pascal

nói thật chí lý: “Đối với tôi, tôi thú thật, đạo Kitô cho tôi biết nguyên lý là bản tính con

người đã bị hư hỏng, trầm luân vì mất Thiên Chúa, ngay lúc đó tôi thấy khắp nơi đặc

điểm của chân lý này, vì thiên nhiên với tính cách là thế đánh dấu khắp nơi một Thiên

Chúa vắng mặt trong con người”65. Thay vì nhận Thiên Chúa làm cứu cánh đời mình, thì

con người lại dùng tự do để quay lưng, khước từ Thiên Chúa và nâng mình lên là cứu

cánh. Chính lúc con người khước từ Thiên Chúa ra khỏi đời mình, là lúc cuộc sống của

con người trở thành hư vô, và mọi sự trong đó chỉ còn là phi lý và vô nghĩa, “cuộc đời

đáng buồn nôn” (Jean Paul Sartre), cũng là lúc con người mở đường cho những bất hạnh

63 Hương Việt, Tôi Tin Có Một Thiên Chúa. Quyển II, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2006, tr. 138. 64 Trích trong bài“Tình Yêu Thầm Lặng Của Người Cha”. 65 Sư Huynh Phan Văn Chức, It Phút Suy Tư Thần Lý. Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo TPHCM, 1994, tr. 170.

Page 31: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

31

và đau khổ tràn vào thế giới. Thay vì chọn Thiên Chúa, con người lại chọn sự dữ, thay vì

sống trong hạnh phúc, bình an thì con người lại sống trong lo âu và bất hạnh. Chính sự dữ

huỷ diệt mọi giá trị trong thế giới khi con người xem mình là trung tâm và cùng đích. Đó

là nguyên nhân con người gây ra đau khổ và sự dữ trong thế giới. Bởi vậy, xét cho cùng

nguồn gốc đau khổ phát sinh từ con người, và chính tội lỗi là sự dữ lớn nhất trong đời

sống con người. Người ta vẫn có thể thấy hạnh phúc khi đau khổ, nhưng họ không thể

hạnh phúc khi phạm tội, vì tội lỗi phát xuất từ chính trong thâm cung của lòng người.

Chính tội lỗi làm cho con người trở nên xấu xa và gánh lấy hậu quả tai hại. Cho nên

người ta mới nói: “Sự dữ là điều bẩn thỉu nhất mà người ta có thể làm cho nhau và cho

Thiên Chúa”66.

Chính Công đồng Vatican II đã khẳng định: “Những chênh lệch trong thế giới

ngày nay được nối liền với những chênh lệch căn bản hơn phát xuất từ đáy lòng con

người, bởi vì chính trong con người có nhiều yếu tố xung khắc nhau. Bởi vậy, có sự

phân rẽ trong chính con người, từ đó sinh ra bao điều bất hoà lớn lao trong xã hội”

(GS, 10). Bên cạnh đó, Giáo hội cũng cho thấy nguyên nhân của sự dữ, bất ổn trong xã

hội, là do cuộc chiến của tội lỗi, nó từ chối mến Chúa yêu người67. Tóm lại,khi con

người loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi chân trời của mình, là lúc con người đã phủ một bóng

đen trên đoạn kết của cuộc đời. Con người sẽ mãi mãi không được biết đến lời cuối

cùng của lịch sử. Chính việc loại Thiên Chúa ra khỏi đời mình, là nguyên nhân đẩy con

người vào đường cùng, đến tuyệt vọng và sống trong đau khổ68.

4.2. Do tính hữu hạn của con người

Con người được dựng nên là môt hữu thể hữu hạn và bất toàn, chính vì vậy mà

con người phải đối diện với bao đau khổ: đau khổ về thể lý, tâm lý, tâm linh.

Trước hết là các đau khổ do tính hữu hạn của thể lý, phát xuất từ một sự rối loạn

của các cơ quan trong chúng ta hoặc từ những trục trặc về sinh lý. Loại đau khổ này mang

nhiều “khuôn mặt”: Những cơn dịch liệt thật sự vật ngã con người xuống; những trục trặc

mãn tính làm cho cuộc sống hằng ngày của ta luôn xấu đi, tính tình gắt gỏng; những bệnh

tật trong đó người ta biết mình sẽ phải chết hay phải tật nguyền trầm trọng, rồi từ đó tâm

hồn ta ngấm dần nỗi sợ hãi và cảm giác rằng tương lai mình kể như hư hỏng, đời ta tàn

phế; những “khốn khổ” do tuổi già huỷ hoại dần dần tất cả và rồi đi đến làm thân xác suy

66 Jacques Bur, les Editions du Cerf, Giáo Hội Nói Gì Về Nguyên Tổ. Lưu hành nội bộ, tr. 92. 67x. Jacques Bur, les Editions du Cerf, Giáo Hội Nói Gì Về Nguyên Tổ. Lưu hành nội bộ, tr. 71. 68x. Stan Rougier, Những Cuộc Hẹn Của Thiên Chúa, Nxb Phương Đông. Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết, tr. 139.

Page 32: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

32

sụp, các mối tương giao đổ vỡ và khả năng trí tuệ biến mất; tuổi già đôi khi chẳng khác

nào một sự phá sản, một cuộc đắm tàu… Tắt một lời, cái thân xác thường cho ta cảm giác

an toàn sâu xa nay lại bỏ rơi ta, phản bội ta, tạo ra nơi ta nào là sợ hãi, đau khổ và đoạn

tuyệt!...69. Những đau khổ tâm lý thường được biểu lộ qua nhiều cách đôi khi thật bất ngờ

và khó hiểu đối với người chung quanh như lo âu vô căn cứ, ám ảnh, sợ hãi, rối loạn tính

dục và tình cảm; hay những điều rốt cuộc làm nản lòng cả đến những người yêu thương

chúng ta và từ đó, đi đến chỗ càng cảm thấy cô đơn hơn. Thêm vào đó, còn có tình trạng

trầm cảm u uất đè bẹp ta tới mức làm cho ta tỏ ra bất lực không đương đầu nổi với chúng,

càng ngày càng chán sống. Thế rồi, chúng đưa chúng ta vào tình trạng mặc cảm về sự phi

lý, về một tâm hồn đã chết cũng như thèm khát được chấm dứt tất cả, và rốt cuộc trở nên

sợ hãi đối với chính mình!...70.

Sau hết là những đau khổ có nguồn gốc tâm linh.Đây là những đau khổ đụng

chạm đến người Kitô hữu trong niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Họ đối diện với

những đau khổ nặng nề như: Con chết, chồng hay vợ qua đời, hoặc một bất công

nghiêm trọng mà mình phải chịu, khiến người Kitô hữu đâm ra nghi ngờ không biết

con người có tốt không, Thiên Chúa có hiện hữu hay không… Đó là những đau khổ

len lói vào tâm hồn con người và từ đó quay ra nghi ngờ mọi sự, nghi ngờ một cách

nghiêm túc cả những “chân lý đức tin” mà người tín hữu đã được khắc ghi trong tim

từ khi còn bé71.Con người có lý trí và tự do nhưng con người có khả năng sai lạc vì

mang trong mình tính hữu hạn. Vì vậy, con người khi sử dụng tự do của mình và hậu

quả xấu có thể phát xuất từ đó. Thiết nghĩ nếu huỷ bỏ những khả năng gây ra đau

khổ thì tức là huỷ bỏ tính hữu hạn nơi con người và đậy con người vào vòng xoáy

cám dỗ muốn bằng Thiên Chúa như tổ tiên loài người đã từng vấp ngã. Có thể nói,

nếu không có những yếu đuối và giới hạn thì thế giới này chắc sẽ buồn chán vì thiếu

thách đố, không có mục đích và con người không còn cố gắng để phấn đấu vươn lên.

Theo quan niệm của thánh Irênê và thánh Augustinô, mọi sự do Thiên Chúa

sáng tạo, tự bản chất chúng là tốt đẹp: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là

rất tốt đẹp” (St 1,31), vì chính thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện. Tuy nhiên

thiện tính nơi thụ tạo không có nghĩa là chúng đã hoàn hảo, mà Thiên Chúa đã sáng tạo

chúng và đặt chúng vào tiến trình đi đến sự hoàn hảo. Như vậy, do tính chất bất toàn và

giới hạn của thụ tạo mà có sự ác, đau khổ và sự dữ trong tự nhiên và trong thế giới con

người

69 x. Xavier Thévenot, Đau Khổ Và Hạnh Phúc, NxbTôn Giáo, tr. 9-10. 70 x. Xavier Thévenot, Đau Khổ Và Hạnh Phúc, Nxb Tôn Giáo, tr. 10. 71 x. Xavier Thévenot, Đau Khổ Và Hạnh Phúc, Nxb Tôn Giáo, tr. 11.

Page 33: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

33

IV. NHỮNG LÝ GIẢI VỀ ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ THEO CÁC TRIẾT GIA VÀTHẦN HỌC GIA

Vấn đề đau khổ và sự dữ là một vấn đề mang tính hiện sinh, nên không chỉ có

các tôn giáo muốn đi tìm và trả lời cho những chất vấn của con người về nó, nhưng bên

cạnh đó còn có các triết gia và các thần học gia cũng luôn quan tâm và không ngừng tìm

hiểu về những vấn nạn đau khổ và sự dữ. Vì thế, để làm sáng tỏ vấn nạn về đau khổ và

sự dữ, thiết tưởng sẽ là một thiếu sót không nhỏ nếu không đề cập đến các lập trường

triết học và thần học tiêu biểu. Vậy sau đây người viết xin được tìm hiểu xem lập trường

của họ về vấn đề đau khổ và sự dữ như thế nào?

1. Theo các Triết Gia

Thuyết hiện sinh vô thần J.P. Sartre và Albert Camus xem cuộc đời là buồn

nôn, tha nhân là đau khổ. Vì vậy, ông cho rằng: “Hiện sinh con người tự căn bản

mang tính phi lý. Cuộc sống con người tự nền tảng là vô nghĩa. “Con người là một

đam mê vô ích” hay “Người là sói của người”72. Nhất là:“Cái nhìn của tha nhân chỉ

biến tôi thành sự vật, và cái nhìn của tôi chỉ biến tha nhân thành sự vật khi những cái

nhìn đó là cái nhìn vô nhân đạo mà thôi”73. Trong lãnh vực của những học thuyết

chính trị chúng ta có những nhà tư tưởng như John Hobbes, ông quan niệm con người

khởi đầu là tàn bạo và tình trạng xã hội nguyên thuỷ căn bản là sự dữ: “Từ nguyên

thuỷ, con người đã mang nơi mình bản năng hung ác, người với người chỉ là lang sói:

Lợi dụng nhau, khai thác nhau. Phải nhờ khế ước xã hội, con người mới hạn chế được

phần nào khuynh hướng gian ác để chung sống hoà bình”74.

Qua những quan niệm của các triết gia vô thần, ta thấy con người là nguyên

nhân gây ra đau khổ và sự dữ cho chính mình, tha nhân và thế giới. Vậy đâu là lập

trường và quan niệm của các triết gia hữu thần? Bất cứ chủ thuyết nào né tránh vấn đề

nguồn gốc của sự dữ bằng cách coi nó như một yếu tố cấu thành vũ trụ, đồng đẳng với

sự thiện, đều bị Kitô giáo bác bỏ ngay từ đầu, chẳng hạn: Thánh Augustinô là người

đầu tiên cho rằng sự dữ chính là điều thiện bị sai lạc. Ngài đã chủ trương mạnh mẽ

rằng: “Theo xác tín Do thái-Kitô giáo, vũ trụ này là tốt lành, Thiên Chúa dựng nên nó

vì mục đích tốt”. Còn triết gia David Hume, khi được đặt câu hỏi về Thiên Chúa và

vấn đề sự dữ, ông đã lập luận như sau: “Có phải Thiên Chúa muốn ngăn cản sự dữ,

72 Lm. J.B. Nguyễn Đăng Trực. OP, Lý Học Về Thượng Đế, tr. 49. 73 Trần Thái Đỉnh, Triết Học Hiện Sinh, Nxb Văn Hoá, 2008, tr. 334. 74 Michael D. Moga,Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực, Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên Tác: In Search of True Religion A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr.205-206.

Page 34: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

34

nhưng không được? Vậy thì Ngài bất lực. Có thể Ngài có thể ngăn cản, nhưng không

muốn làm vậy? Vậy thì Ngài ác tâm. Có phải Ngài vừa có khả năng vừa muốn ngăn

cản sự dữ? Vậy thì sự dữ bởi đâu? Những người hoài nghi chống lại niềm tin vào

Thiên Chúa, dựa trên căn bản vấn nạn biện chứng về sự dữ, đã phát biểu rằng:“Thật

là phi lý và không thể tin được một Thiên Chúa tốt lành và toàn năng lại hiện hữu một

lúc với thực tại sự dữ và đau khổ. Vì Thiên Chúa tốt lành và toàn năng như thế không

thể chấp nhận cho sự dữ tồn tại được”75. Những nhà triết học theo trường phái Platon

chủ trương rằng: “Cuộc đời con người là một bãi chiến trường của hai lực lượng

tương phản tung hoành; thân xác là biểu tượng sự dữ, tâm hồn là biểu tượng của sự

thiện”76. Triết gia Kierkegaard quan niệm: “Từ nguyên thuỷ đã có buồn chán, vì buồn

chán chư thần đã sáng tạo nên con người. Rồi từ Ađam nguyên tổ chúng ta cũng buồn

chán vì cô đơn, cho nên Eva được tác tạo. Rồi từ đó, cùng với sự phát triển và lan

rộng khắp thế giới. Ađam một mình đã buồn chán, khi Ađam ở với Evà , thì hai người

cũng buồn chán, khi có thêm hai người con là Cain và Aben, thì cả gia đình cũng

buồn chán, và khi cả một loài người đông đúc thì cả lũ người cũng buồn chán”77.

Chúng ta vừa tìm hiểu các triết gia lý giải về vấn nạn sự dữ. Chúng ta thấy, nhìn

chung, những lý giải trên vẫn chưa trả lời thoả đáng cho những băn khoăn và dằn vặt

của con người trước đau khổ và sự dữ. Sau đây ta tìm hiểu xem các nhà thần học sẽ lý

giải như thế nào về vấn nạn đau khổ và sự dữ.

2. Theo các Thần Học Gia

2.1. Theo thánh Irênê

Thánh Irênê đã giải quyết vấn nạn sự dữ bằng cách đưa ra hai khái niệm rất độc

đáo: Hình ảnh Thiên Chúa và sự đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa. Theo thánh

nhân, Thiên Chúa đã tạo nên nhân loại theo“hình ảnh” của Người, cho họ một số tiềm

năng thần linh trong sự thông minh của họ và trong khả năng của họ để đạt tới tình bằng

hữu với Đấng tạo nên họ. Những tiềm năng này chỉ đạt tới tình trạng “giống” như thần

linh sau một quá trình phát triển những đặc tính của con người. Đối với thánh Irênê con

người được dựng nên như những tạo vật chưa hoàn hảo, chưa chín chắn, vì vậy cần phải

trải qua sự phát triển về đạo đức. Ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã có thể trao ban sự

hoàn hảo cho con người, nhưng khi đó con người không thể đón nhận hay gìn giữ được.

Ngài viết: “Chắc chắn, người mẹ có quyền đưa những thức ăn giàu dinh dưỡng cho đứa

75 Lm. J.B. Nguyễn Đăng Trực. OP, Lý Học Về Thượng Đế, tr. 49. 76 Lm. J.B. Nguyễn Đăng Trực. OP, Lý Học Về Thượng Đế, tr. 49. 77 Trần Thái Đỉnh, Triết Hoc Hiện Sinh, Thời Mới xuất bản, Sài Gòn, 1967, tr. 84.

Page 35: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

35

con còn đang ẵm của bà, nhưng bà đã không làm, bởi vì đứa trẻ chưa thể đón nhận

thức ăn quá bổ; cũng vậy, Thiên Chúa cũng có thể tạo ra con người hoàn hảo ngay từ

ban đầu, nhưng con người không thể đón nhận sự hoàn hảo này, vì con người chỉ là

những đứa trẻ còn đang ẵm sữa”78.Với quan điểm này, đối với Irênê, thế giới trộn lẫn

tốt và xấu là một môi trường được chọn bởi Thiên Chúa, để giúp con người phát triển

đến tình trạng hoàn hảo.Bởi vì quan điểm này về thế giới nhấn mạnh trên sự lớn lên của

đặc tính con người, nó nhấn mạnh sự quan trọng của tính độc lập nơi con người.Chỉ khi

con người thật sự độc lập với Thiên Chúa họ mới có thể sử dụng khả năng chọn lựa, để

phát triển chính mình và lớn lên như là con cái của Thiên Chúa. Bởi vì sự độc lập là rất

quan trọng cho sự phát triển của con người nên có một sự bào chữa cho Thiên Chúa

trong việc cho phép hiện diện của sự dữ trong thế giới. Để cho con người thật sự độc

lập, Thiên Chúa phải ẩn mình và trình bày cho con người một thế giới vừa bày tỏ, vừa

ẩn giấu Người. Nếu sự tốt lành và tình yêu của Thiên Chúa hoàn toàn rõ ràng trong thế

giới, sẽ không có một thành tựu nào cho con người để tin, yêu mến hay tín thác vào

Thiên Chúa. Nhưng trong thế giới của chúng ta với ánh sáng và bóng tối, nó cho thấy

một thành tựu lớn lao trong việc đáp trả Thiên Chúa. Một thế giới như thế làm cho con

người dễ dàng quên lãng Thiên Chúa và phạm tội.

Tương tự, tiếp cận này nhấn mạnh đến sự quan trọng của tự do con người. Trong

một tình trạng ở đó con người được định để lớn lên giống như thần linh, họ phải có khả

năng để xác định đời sống riêng của họ. Con người chỉ có thể trở nên con cái Thiên

Chúa một cách hoàn toàn bằng việc tự mình chọn lựa để hướng về Thiên Chúa, trong

đức tin và tình mến. Mục đích tạo thành của Thiên Chúa sẽ chỉ đạt được khi con người

hành động một cách tự do.

Nhưng chính quà tặng giá trị này cũng có thể làm cho tội lỗi trở nên có thể.

Thiên Chúa đã có thể không ban tặng con người khả năng chọn lựa để đi đến địa vị làm

con đầy tràn mà không đồng thời cho họ khả năng phạm tội. Tự do làm cho con người

có thể chọn sự dữ cũng như sự lành. Tất cả những sự dữ luân lý hiện diện trong thế giới,

có thể phát sinh từ nguồn gốc là tự do trong chọn lựa của con người. Con người đã chọn

ghen ghét, tham lam, ích kỷ... Xã hội loài người đã chọn gắn bó với những cuộc chiến

tàn bạo, thực thi chế độ nô lệ, áp bức, bất công thay vì chọn công bình và yêu thương.

Thiên Chúa đã có thể làm nên con người là những người máy được lập trình sẵn,

những người luôn luôn làm điều đúng và ngay thẳng. Nhưng những người máy sẽ

78 Irénée, Bài viết của Phạm Đại Quang, SDB, tr. 120.

Page 36: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

36

không bao giờ có thể phát triển thành những con cái trọn vẹn của Thiên Chúa. Thật là

một thành tựu vô giá khi con người chọn sống can đảm, yêu thương và ca ngợi Thiên

Chúa theo cách hoàn toàn nhân loại. Để làm thành tựu này trở nên có thể Thiên Chúa đã

cho phép có sự dữ và đau khổ79.

Tóm lại, đối với Irênê thế giới hiện tại này mang trong mình đau khổ và sự dữ là

điều mà Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa đã tạo nên thế giới này với sự tốt lành và xấu xa

của nó như là một nơi huấn luyện để giúp con người đạt tới sự toàn thiện và hoàn thành

kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa dành cho con người.

2.2. Theo Thánh Augustinô

a. Sự dữ là thiếu sự thiện

Theo thánh Augustinô Thiên Chúa là cùng đích của hữu thể và sự thiện. Ngài là

sự Thiện Hoàn Hảo và là một hữu thể vĩnh cửu, bất biến và chân thực. Ngài tạo dựng

thế giới từ hư vô như một tạo vật trong bàn tay Thiên Chúa. Vũ trụ là toàn thiện, mọi

hữu thể xứng đáng để tồn tại bởi vì nó đóng góp một điều gì đó đáng giá vào trong toàn

bộ trật tự của sự vật. Vũ trụ cũng là một thực tại phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều

hình thức hiện hữu, những loại hữu thể mà bản tính của chúng được sắp xếp theo cấp

bậc.

Toàn thể vũ trụ là thiện; nhưng vì nó không có những đặc tính bất biến như

Đấng Tạo Hoá, cho nên nó có thể bị hư mất. Tuy nhiên, không có cấp bậc hữu thể theo

nghĩa hữu thể bậc thấp là sự dữ. Theo Thánh nhân, sự dữ cũng thực sự hiện hữu, nhưng

chúng chỉ tồn tại như một tình trạng thiếu vắng sự tốt lành, một sự thiếu vắng hiện diện

trong sự vật vốn căn bản là tốt, như bóng tối xuất hiện khi thiếu ánh sáng80.

Thánh Augustinô còn khẳng định thêm: Sự dữ không phải là một hữu thể hay

một phẩm chất hiện hữu độc lập mà chúng chỉ là sự khiếm khuyết của cái tốt như hữu

thể.Người ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa không sáng tạo ra mọi sự ở cấp hoàn hảo nhất,

không còn chỗ cho những khiếm khuyết xen vào? Tại sao Ngài đã tạo nên những hữu

thể thấp kém? Tại sao Ngài tạo nên những vật như cá mập, bọ chét và virus HIV? Thánh

79 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên Tác: In Search Of True Religion. A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 218-220. 80 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search Of True Religion A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 212-213.

Page 37: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

37

nhân trả lời: Cần có nhiều loại hữu thể được sáng tạo ở cấp độ hoàn hảo khác nhau, nhờ

đó sự phong phú và vẻ huy hoàng càng nổi bật81.

b. Nguyên lý của sự phong phú

Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới phong phú và phức tạp. Chính sự đa

biệt này dẫn đến sự không đồng đều. Đứng trên một quan điểm đạo đức nào đó, người

ta có thể đưa ra những lập luận như, ở đây có những bất công. Một loạt các câu hỏi

được đặt ra như : Tại sao Thiên Chúa lại tạo nên một thế giới phức tạp và đa dạng với

các tạo vật không đồng đều như vậy? Tại sao Ngài không sáng tạo con người thông

minh như các Thiên Thần? Tại sao Ngài không tạo dựng thế giới này như Thiên

Đàng…? Thánh Augustinô đã giải quyết các vấn nạn này dựa trên nguyên lý về sự

phong phú.

Theo nguyên lý này, một vũ trụ phong phú và giá trị là một vũ trụ chứa đựng

nhiều tạo vật đa dạng và mọi loài có thể tồn tại thấp hơn cũng như cao hơn, xấu cũng

như đẹp, bất toàn cũng như hoàn hảo, sẽ tốt hơn và phong phú hơn một vũ trụ chỉ có

một tạo vật bậc cao nhất. Chính các tạo vật được tạo nên trong sự đa dạng và phong phú

nói lên một khả năng sáng tạo vô biên xuất phát từ một nguồn hoàn hảo vô tận và đầy

quyền năng.

Tư tưởng của thánh Augustinô cung cấp sự bào chữa cho một số sự dữ bởi vì

nhiều sự dữ trong thế giới là vấn đề của không hoàn hảo, dạng thức thấp kém của sự

sống. Nguyên tắc này khẳng định rằng những dạng thức của sự hiện hữu là những mắt

xích cần thiết trong sợi xích lớn của hữu thể như là một toàn thể, hữu thể này thì tốt đẹp

và cho thấy một cách thích đáng sự phong phú trong việc sáng tạo của Thiên Chúa.

Hơn nữa, nhiều sự dữ trong thế giới nảy sinh từ sự tương tác của những cấp độ

khác nhau, sự xung đột nảy sinh từ trong những dạng thức khác nhau của sự hiện hữu.

Động đất tàn phá cây cối và muỗi quấy rối con người. Sự dữ đến từ những xung đột này

được biện minh bởi sự muôn màu muôn vẻ do sự sáng tạo của Thiên Chúa.

Thay vì nhìn các vấn đề từ quan điểm của chúng ta đối với các tạo vật qua câu

hỏi về tính không đồng đều của những chủng loại hữu thể khác nhau, thì thánh

Augustinô đã dựa vào quy mô tuyệt đối cấp vũ trụ về hữu thể và sự thiện. Bởi vì Thiên

Chúa có sự sống, Ngài làm cho các sinh vật xếp hàng cao hơn so với những vật vô tri

trong dãy hữu thể; bởi vì Thiên Chúa là tinh thần, Ngài làm cho các hữu thể có lý trí và

81 x. Augustinô, Thần Luận. Người dịch: Nguyễn Đăng Trực, tr. 58.

Page 38: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

38

tinh thần xếp bậc cao hơn so với các động vật. Mỗi một thụ tạo có một vị trí khác nhau

và mỗi hữu thể đều hướng về chính cội nguồn của mình là Thiên Chúa82.

c.Thẩm mỹ luận

Trong tương quan sự thiện mà đau khổ và sự dữ có một ý nghĩa: quan điểm loại

suy thẩm mỹ. Kinh nghiệm thực tế về thẩm mỹ cho hay, sự tương phản thường làm cho

thực tại tăng thêm vẻ đẹp. Như trong một bản nhạc, đôi khi có những nét không hoà

điệu, một cách nào đó lại có thể làm cho toàn bộ bản nhạc thêm truyệt vời. Ta chứng

kiến điều này rõ nét nhất qua các tác phẩm tranh của Rembrant, chúng nổi tiếng và được

khắc sâu vào lòng người qua mọi thế hệ là nhờ kỹ thuật tương phản giữa ánh sáng và

bóng tối, một số những yếu tố này tự nó là xấu xa và gây khó chịu. Tuy nhiên, những

yếu tố tối tăm và xấu xa góp phần vào sự đẹp đẽ và hoàn thiện trọn vẹn của bức tranh.

Vậy, nếu như ta bất mãn hay không bằng lòng bởi sự bất toàn của vũ trụ, là vì chúng ta

chưa hiểu thấu được bản giao hưởng của vũ trụ trong tổng thể của nó. Sỡ dĩ một chi tiết

của một bức tranh làm chúng ta khó chịu, hay không mãn nguyện với chính nó, là vì

chúng ta thiếu cái nhìn bao quát vốn đem lại ý nghĩa cho từng chi tiết. Tương tự như

một ít khiếm khuyết của một bản nhạc hay của bức tranh, sự dữ cũng có thể làm phát ra

vẻ rực rỡ của điều thiện. Nó cũng là phương thế để đạt tới sự hài hoà tuyệt định của thế

giới83.

Dựa theo sự phân tích này, thánh Augustinô đã lý luận rằng, có một vai trò cho

mảnh vá của bóng tối sự dữ trong vũ trụ, trong đó toàn thể của nó thì hài hoà, trật tự và

tốt đẹp về phương diện đạo đức. Chẳng hạn, sự dữ của tội nhân tàn bạo và ích kỷ chỉ

nhằm làm nổi bật tình yêu đầy lòng thương xót của Thiên Chúa. Một cái nhìn toàn cảnh

này cũng có thể được thấy trong liên hệ với một sự mở rộng về thời gian, nơi đó sự thất

bại trước của những tạo vật tự do được vượt qua trong sự cứu chuộc đầy hoan hỉ.

Như thế, trong cái nhìn của Thiên Chúa, tất cả tạo vật, bao gồm cả tội và sự

trừng phạt của nó, kết hợp để hình thành một sự hài hoà tuyệt vời không chỉ là tốt đẹp

mà là rất tốt đẹp. Mặc dù một phần của vũ trụ có thể là không hoàn hảo và xấu xa, thì

toàn bộ vũ trụ vẫn hoàn hảo. Mỗi một phần, trong chỗ đứng riêng của nó trong hệ

thống, góp phần cho sựhoàn hảo của toàn thể84. Trong các bài viết chống lại phái

82 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên Tác: In Search Of True Religion A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr . 214-215. 83 x. Augustinô, Thần Luận. Người dịch: Nguyễn Đăng Trực, tr. 58. 84 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search Of True Religion A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 215-216.

Page 39: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

39

Manikê, thánh Augustinô đã viết: “Sự dữ theo kiểu chất độc thì gây độc, lửa làm cháy,

nước nhận chìm, sẽ chỉ là sự dữ theo một nghĩa tương đối. Chất độc sẽ không độc cho

chính nó, nhưng chỉ sẽ gây hại khi ta cho nó tương tác với sự vật không tương hợp với

nó. Theo tác giả, mỗi hữu thể, dưới quan điểm Thiên Chúa, mang một khả thể sáng tạo,

có nghĩa là mỗi sự vật tốt đẹp theo cách thức của nó. Tuy nhiên, con người thường xem

xét việc sáng tạo dựa trên một cái nhìn hạn hẹp của mình”. Trái lại, Thiên Chúa có thể

thấy sự vật như là một toàn thể và từ cái nhìn đó “những sự dữ” chỉ là sự dữ trong một

nghĩa tương đối. Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra vì một số mục đích tốt. Chẳng hạn,

sự tốt lành của ơn cứu độ của tội nhân, thì có trọng lượng hơn là sự xấu xa của tội lỗi

của họ và cái giá của sự cứu độ họ85.

Tóm lại, qua những gì đã trình bày, cho ta thấy thánh Augustinô có một cái nhìn

và diễn tả một cách lạc quan về cái đẹp, cũng như sự dữxuất hiện như một khiếm khuyết

trong công cuộc sáng tạo mà thôi. Tuy nhiên, dù lập luận như thế nào thì đau khổ và sự

dữ vẫn có đó, vẫn hiện hữu cách thực sự trong thế giới con người. Nhưng với cái nhìn

loại suy, thánh nhân cho rằng, tội lỗi cũng là cơ hội làm nổi bật lòng thương xót và nhân

hậu của Thiên Chúa. Những thất bại của thụ tạo ban đầu cũng đã được khắc phục nhờ

chiến thắng Cứu Độ của Thiên Chúa trong Đức Kitô, con người đã lấy lại được ơn cứu

độ đã mất do tội lỗi của mình86. Có thể nói, Thiên Chúa nhìn mọi sự như một tổng thể

hài hoà trong đó sự ác chỉ mang một màu sắc cục bộ và tương đối, hay chỉ là khiếm

khuyết mà thôi. Sự thiện của ơn cứu độ vượt xa sự ác của tội lỗi “Ở đâu tội lỗi đã lan

tràn, ở đó ơn cứu độ càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20b). Đó là cái nhìn của thánh

Augustinô, còn quan niệm của thánh Thomas Aquinô thì như thế nào?

2.3. Theo thánh Thomas Aquinô

Đứng trước vấn nạn về sự dữ, thánh Thomas Aquinô quả quyết rằng, Thiên

Chúa không phải là tác giả của sự dữ. Để bảo vệ cho quan niệm của mình, thánh nhân

đã sử dụng những ý niệm siêu hình về hữu thể để xây dựng thuyết chứng của mình và

trình bày vấn đề trong Tổng Luận Thần Học, phần I, vấn đề. 48-4987.

Theo thánh nhân, sự dữ cho thấy cách biệt giữa sự vật như nó phải là (do tự bản

chất của nó) và điều mà thực sự nó là. Như thế, sự dữ chỉ là biểu hiện sự khiếm khuyết

của sự thiện trong bất cứ tạo vật nào. Nó không hiện hữu tự bạn thân nó. Thế nên, trên

85 x. Augustinô, Thần Luận. Người dịch: Nguyễn Đăng Trực, tr. 58. 86 x. Lm. Nguyễn Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời, tr. 5. 87 x. Thomas Aquinô, Tổng Luận Thần Học. Thiên Chúa Tạo Thành Và Các Thiên Thần, phần I, vấn đề 44-64. Người dịch: Joachim Nguyên Văn Liêm. Op, tr. 138.

Page 40: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

40

bình diện hiện hữu, ta không tìm được sự dữ vì mọi tạo vật với tư cách là hữu thể đều

tốt lành hay thiện hảo. Sự thiện đó là điều mỗi người ước mong và không có gì đáng

ước mong nếu nó không hiện hữu. Có hiện hữu mới làm cho vật khác yêu thích được.

Vì thế, người ta chỉ nhận ra sự dữ trên bình diện cách thế hiện hữu của nó mà thôi. Sự

dữ được biết đến là do một hữu thể nào đó thiếu hay khiếm khuyết sự thiện nào đó, như

bóng tối được nhận biết là do thiếu ánh sáng. Sự dữ tự nó không thể hiện hữu được. Vì

vậy, thánh Thomas Aquinô đã định nghĩa: “Sự dữ là thiếu hay khiếm khuyết một sự

thiện hảo nào đó đáng lẽ một vật phải có”. Đôi mắt hay đôi tai là sự thiện hảo phải có

nơi con người, nên người bị khiếm thị hay khiếm thính được coi là người bất hạnh.

Thiếu điều thiện hảo không thuộc về bản chất của mình thì không thể coi đó là sự dữ

được. Ví dụ: Thiếu đôi cánh không thể được coi là bất hạnh đối với con người. Khi định

nghĩa sự dữ là một thiếu sót hay khiếm khuyết trong tạo vật, thánh nhân không hề muốn

làm giảm nhẹ hậu quả và tính bi đát của sự dữ. Vì hậu quả sự dữ vật lý cũng như luân lý

thật tồi tệ, cần phải loại trừ hay lên án. Khi thánh nhân đề nghị lối phân tích có tính kỹ

thuật như thế, ngài chỉ muốn khẳng định rằng: sự dữ không có bề dày hữu thể nào hết.

Nên Thiên Chúa không phải là tác giả sự dữ, vì Ngài chỉ là nguyên nhân mọi hữu thể.

Tuy nhiên, một cách nào đó thánh nhân cho rằng sự dữ đôi khi cần cho sự hài

hoà, cân bằng của vũ trụ. Về phương diện này ngài nói, Thiên Chúa có thể là nguyên

nhân gián tiếp sinh ra sự dữ vật lý. Muốn sinh tồn, các vật trong vũ trụ phải lương

tựavào nhau. Con người nuôi sống mình bằng những việc hạ cấp. Các vật khác cũng

thế. Có thể nói, sự tác động qua lại này tạo nên sự quân bình sinh thái, đây được coi như

một thứ thiện hảo của vũ trụ tổng quan88. Tóm lại, theo thánh nhân sự dữ vật lý không

đúng nghĩa là sự dữ.

88 x. Tủ Sách Tôi Biết-Tôi Tin, La Souffrance, Pourquoi, Đau Khổ Tại Sao? Bản tiếng Việt: Trần Thiên Ân, Antôn Và Đuốc Sáng, 2012, tr. 16.

Page 41: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

41

V. KITÔ GIÁO VÀ TRƯỜNG PHÁI DUY TÂM HÓA GIẢI VỀ SỰ DỮ

Với quan niệm của Kitô giáo, đau khổ và sự dữ chỉ là một thực tại thương vong

mà con người không ngừng phải chống lại. Người Kitô giáo hoàn toàn đồng ý với quan

niệm của Camus, khi ông cho rằng phải không ngừng đấu tranh chống lại sự dữ. Đây

cũng là điểm khởi hành cho suy tư Kitô giáo về sự dữ. Tuy nhiên, điều khác với Camus,

là thái độ phản kháng và đấu tranh chống lại sự dữ của người Kitô giáo thì dựa trên

niềm tin không buộc phải chối bỏ Thiên Chúa, trái lại, còn khẳng định sự hiện hữu của

Ngài, cho dù sự dữ hay đau khổ vẫn còn đó. Thực ra, đối với kẻ tin, thái độ phản kháng

và đấu tranh chống lại sự dữ và đau khổ dựa trên hai điều xác tín sau đây: Con người

được dựng nên là để hạnh phúc, Thiên Chúa không hề muốn đau khổ và sự dữ cho con

người; và đứng trước sự dữ xem ra Thiên Chúa bất lực, nhưng Ngài lại liên đới với con

người trong đau khổ.

1. Thiên Chúa không hề muốn sự dữ và đau khổ cho con người

Con người được dựng nên là để hạnh phúc: sự dữ dù là gì cũng luôn luôn là sự

dữ vàThiên Chúa không bao giờ muốn. Phải chăng đây cũng là điều mà mọi nhà thần

học và triết học Kitô giáo đã đồng ý nói lên một cách rõ nét nhất?

Trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước có nhiều nơi nói đến sự dữ và sự Thiện

trong kinh nghiệm của con người. Kinh Thánh đã ghi lại mọi loài đau buồn, khổ sở, bất

trắc…, cũng như nhiều cách thức vô nhân đạo đã xẩy ra cho con người trong thế giới

này. Sự dữ được nhìn nhận như một đám mây u ám, đen tối, đầy kinh tởm và chết chóc,

làm cho con người tan nát cõi lòng. Trong Kinh Thánh, tột đỉnh của sự dữ chính là cái

chết nhục nhã trên thập giá của Đức Kitô, được trình bày không chỉ như là trường hợp

đau khổ một cách bất công, nhưng còn như là một sự sát hại Đấng Thiên Sai. Vậy, chắc

chắn rằng, theo đức tin Kitô giáo, sự dữ luôn luôn là sự dữ, và nó hoàn toàn nghịch lại

với ý muốn của Thiên Chúa89.

Mauric Zundel đã nói, tôi phát điên lên khi người ta nói: “Thiên Chúa cho

phép xảy ra sự dữ”. Không thể được, Thiên Chúa không bao giờ cho phép xảy ra sự

dữ, Ngài đau khổ vì nó, Ngài cũng đã chết vì nó, Ngài là người đầu tiên bị nó đập,

và nếu có sự dữ, đó là bởi vì Thiên Chúa trước tiên đã là nạn nhân của nó90. Còn

François Varone và các nhà thần học, cũng như triết học Kitô giáo cho rằng, phải

cương quyết lên án và chống lại những luận điểm cho rằng Thiên Chúa cho phép sự

89 x. John Hick,Triết Học Tôn Giáo. Người dịch: Nguyễn Thịnh Phước SDB, tr. 70. 90 x. Mauric Zundel, Lắng Nghe Tiếng Nói Của Thinh Lặng, Uỷ ban đoàn kết công giáo TPHCM. Dịch giả: Nữ tu Nguyễn Thị Chung, 1993, tr. 26.

Page 42: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

42

dữ xuất hiện trên thế giới, Thiên Chúa tạo ra nó, làm sao vừa dám nói như thế vừa

khẳng định Thiên Chúa là tình yêu. Thật là một điều phi lý.

“Làm sao có thể tưởng tượng được một Thiên Chúa dửng dưng để mặc cho thế

giới hư hỏng và đau khổ, hoặc tệ hơn, một Thiên Chúa đặt ta vào thử thách rồi ngồi

xem ta chống cự và gục ngã để nếm đôi chút vinh quang bệnh hoạn. Một Thiên Chúa

tính toán tài tình đã nghĩ ra những chước cám dỗ, rồi những hình thức tra tấn dằn vặt

để giáo dục con người. Ta có thể chấp nhận được một Thiên Chúa mà lại có những kỹ

thuật ghê rợn như vậy không? Làm sao ta có thể gọi một người là tốt khi người ấy chơi

xấu với bạn bè và bắt họ phải chịu một tình cảnh tồi tệ đến thế. Bất cứ giải đáp nào cho

những bí ẩn này đều không thể đi theo chứng ấy”91.

2.Thiên Chúa liên kết với con người trong đau khổ

Con người không thể lý giải hoặc thấu hiểu được tại sao Thiên Chúa lại để

cho sự dữ và đau khổ xẩy ra, thì cũng không hiểu hết được tại sao Ngài lại tỏ ra bất

lực trước những thực tại khủng khiếp đó. Chúng ta đang đụng tới một điều có thể nói

là nghịch lý đối với sự hiểu biết của con người, và không thể giải thích được: Thiên

Chúa xem ra yếu đuối.

Thế nhưng chính cái nghịch lý đó, lại là sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong

Kitô giáo: một Thiên Chúa tốt lành và toàn năng nhưng lại tỏ ra bất lực trước sự dữ, bất

lực đến nỗi người ta có thể nói: “Thiên Chúa đau khổ”92. Khi đứng trước tạo vật,

“dường như Thiên Chúa không làm gì được trước cảnh lực lượng của sự dữ tung

hoành”93.Tại sao vậy? Tại sao Thiên Chúa không làm gì để diệt trừ sự dữ và nhất là

hình như Ngài bất lực khi chống lại đau khổ và sự dữ? Ngay cả khi nhìn thấy những cái

chết bi thảm, rùng rợn và bất công ở Auschwitz hay ở Nantes, xem ra sự dữ có nguồn

lực huỷ diệt mạnh hơn là một Thiên Chúa toàn năng, hay nói đúng hơn Ngài không có

một chút quyền nào để cứu thoát. Tại sao một Thiên Chúa toàn năng lại phải bất lực như

vậy? Đối với sự dữ do con người gây ra, ta có thể thông cảm được với sự bất lực của

Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người và trao ban cho họ có quyền tự do,

nên Ngài phải tuyệt đối tôn trọng lời cam kết đó94,cũng như Ngài để cho họ phải tự chịu

trách nhiệm hành động của mình, nên Ngài tôn trọng tự do đó và không can thiệp để

91 Nedoncelle. “La reciprocite des consciences”, Paris, Aubier 1942, P. 272-273. E ; x. John Hick, Triết Học TônGiáo. Người dịch: Nguyễn Thịnh Phước SDB, tr. 171. 92 John Hick, Triết Học Tôn Giáo. Người dịch: Nguyễn Thịnh Phước SDB, tr. 70. 93Nedoncelle. “La réciprocite des consciences”, Paris, Aubier 1942, P. 272-273. E ; x. John hick, Triết Học TônGiáo. Người dịch: Nguyễn Thịnh Phước SDB, tr. 171. 94 Giuse Đinh Thanh Binh, Lạy Chua! Tại Sao Ngài Im Lặng? Tủ Sách Dân Chúa, 1995, tr. 98.

Page 43: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

43

“sắp đặt” mọi sự theo ý Ngài95.Nhưng còn đối với sự dữ “hiện sinh” thì chúng ta hoàn

toàn không thể hiểu được. Đành rằng như thế có vẻ phù hợp với thân phận con người và

với sự bất toàn của thân phận ấy. Nhưng tại sao Thiên Chúa lại tạo cho bản tính con

người có sức huỷ diệt như thế, trong khi lại muốn con người được hạnh phúc và bình

an? Một lần nữa chúng ta lại phải đối diện với huyền nhiệm ghê gớm và dày đặc này; và

ở đây chỉ có một điều xác tín duy nhất đối với những người có đức tin: Thiên Chúa liên

đới với con người cả trong đau khổ lẫn trong các cuộc chiến đấu chống lại sự dữ và đau

khổ96.

Đức Giêsu cả nhân tính và Thiên tính, đã chia sẻ trọn vẹn kiếp người với chúng

ta. Là một con người, Đức Giêsu đã không được miễn thứ cho khỏi cô đơn, sợ hãi, bị từ

chối, bị hiểu lầm, chống đối, đau khổ… và cuối cùng là cái chết. Như thế, chẳng có nỗi

thống khổ nào của loài người mà Đức Giêsu đã không mang vào mình. Đức Giêsu đã

đồng hội, đồng thuyền với kiếp người trong cõi nhân sinh này97.Ngài đã đồng hoá mình

với con người qua những nỗi đau như: bệnh tật, cùng cực, cô đơn, thất vọng, đớn đau,

hấp hối, gánh tội trần gian… tất cả những thứ đó, Thiên Chúa đều mang lấy hết cho

chúng ta (x. Mt 8,17), như một người mẹ lãnh chịu tất cả các tình trạng của đứa con

mình, bởi vì bà mẹ đó tự đồng hoá hoàn toàn với đứa con98.Nhất là, nếu như cái chết là

đau khổ đe dọa con người ghê gớm nhất và rùng rợn nhất, thì Đức Giêsu không những

đã chọn đi qua cửa chết đó, mà còn chết một cách nhục nhã. Ngài đã tự đón nhận cái

chết với một tình yêu mãnh liệt. Ngài không hề lẩn trốn cho dù có sợ hãi, xao xuyến,

thậm chí đổ mồ hôi máu. Vì vậy, trong nỗi cùng cực nhất, con người vẫn gặp được nơi

đấy người bạn đồng hành và chia sẻ khổ đau là chính Đức Giêsu99. Quan niệm trên đây

vẫn được các nhà triết học và thần học ngày nay lưu ý đặc biệt khi họ phản đối thái độ

thụ động của trường phái khắc kỷ, và khuynh hướng ái khổ đã được nuôi dưỡng rất lâu

trong Giáo Hội.

“Đức Kitô không loay hoay trong những lối giải thích có thể được dựng nên,

nhưng Ngài tố cáo sự dữ và chống lại nó... Ngài không cho biết rõ nguồn gốc của sự

dữ, mà chỉ cho biết lối thoát khỏi nó. Mọi lối thoát không phải là dễ dàng. Trước tình

hình sự dữ leo tới cao điểm, tràn ngập thế giới và đe doạ nhận chìm cả nhân loại, Đức

Giêsu đáp lại bằng cách mặc khải cho thấy một Thiên Chúa với tình yêu cực độ đã dấn

95 x. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP, Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, tr. 81-82. 96 x. C. Geffré,“La crise moderne du théisme”, Op. Cit. P. 379. 97 x. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP. Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, tr. 86. 98 x. Mauric Zundel, Lắng Nghe Tiếng Nói Của Thinh Lặng, Uỷ ban đoàn kết Công giáo TPHCM, 1993. Dịch giả: Nữ tu Nguyễn Thị Chung, tr. 26. 99 x. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP, Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, tr. 86.

Page 44: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

44

thân chống lại sự dữ. Đó là lý do tại sao bảng tên của Người bị treo trên Thập Giá. Tên

của Người chỉ có thể là tình yêu”100.

3. Đức tin hoá giải sự dữ

Kitô hữu không lảng tránh, nhưng dám đối diện với đau khổ và coi đau khổ

như là trung tâm của Mầu Nhiệm Vượt Qua và Phục Sinh Vinh Hiển. Người Kitô hữu

tin rằng, Qua Mầu Nhiệm này chúng ta được cứu độ, được cứu khỏi tội lỗi hay khỏi sự

ác và quyền lực sự dữ, được chung hưởng vinh quang bất diệt. Chính tình yêu và lòng

trắc ẩn của Đức Kitô không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Trong suốt hành

trình thi hành sứ mạng, Ngài luôn cố gắng đẩy lui mọi đau khổ nơi con người. Ngài đã

chữa lành bệnh tật cho con người: chữa kẻ bại tay (x. Mc 3,5), cho người phong hủi

được sạch (x. Mc 1,42), và giải thoát con người khỏi quỷ ám (x. Mt 9, 33). Như thế,

Đức Kitô đã đồng cảm với số phận bi đát nhất của con người. Nhất là Ngài đã đón

nhận lấy cái chết nhục nhã trên thập giá. Thật vậy, nếu cái chết, đau khổ là sự sợ hãi

và là sự tuyệt vọng của con người, thì Đức Kitô đã không né tránh, nhưng Ngài đã tự

mình hy sinh chết thay cho nhân loại để cứu chuộc toàn thể nhân loại và đẩy lui sự sợ

hãi đó nơi con người101.Vậy, đối với Kitô hữu, những ai biết liên kết với sự đau khổ

của mình với đau khổ của Đức Kitô, và tin rằng Đức Kitô luôn ở bên mình trong cả

những lúc đen tối nhất của cuộc đời, thì những khổ đau ấy cũng có thể biến đổi chính

họ thành con người mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn. Đối với họ, cái chết đã mất đi nọc độc

của nó, và đây chính là giờ chiến thắng: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một

mối lợi” (Pl 1,21). Như vậy, ta có thể nói chỉ có niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh,

nhân loại mới giải thích được đâu là ý nghĩa của sự dữ và đau khổ102. Đây là một niềm

hy vọng lớn lao của con người, khi họ đối diện với những đau khổ mà không hiểu

được bằng lý trí của mình: Thiên Chúa có thể biến sự dữ thành sự lành chống lại sự dữ

đó103. Chính nhờ chân lý này, chúng ta có thể tìm thấy niềm vui và hy vọng ngay cả

lúc chúng ta đang ở giữa những buồn sầu và đau đớn: “Gian truân, khốn quẫn, lo âu,

đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả…coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực

chúng tôi luôn vui vẻ” (x. 2Cr 6, 4-10).

Tóm lại, đối với những người không có niềm tin thì cây thập giá là một biểu

tượng của sự chết, sự ô nhục và điên rồ (x. 1Cr 1,23). Nhưng đối với người tin vào Đức

100 Dominique Morin, Gọi Tên Thượng Đế, tr.111. 101 x. John Na Vone, S.J, Thất Bại Và Tình Yêu. Những suy tu thần học về sự thất bại, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm Montfort Phạm Quốc Huyên O.Cist, tr. 135. 102 x.Herbert Mc Kayes, Sr. Maria Bolding Osb, Qua Thập Giá Đến Vinh Quang, Nxb Tôn Giáo, tr. 176. 103 x.Herbert Mc Kayes, Sr. Maria bolding Osb, Qua Thập Giá Đến Vinh Quang, Nxb Tôn Giáo, tr. 177.

Page 45: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

45

Kitô chết và phục sinh, thì cây thập gía sẽ biến thành cây sự sống. Và đau khổ có một

giá trị mua ơn phúc cho mình cũng như cho mọi người, khi kết hợp đau khổ với thập giá

Đức Kitô104. Vì trong Ngài, đau khổ mới nở hoa, chiều thứ Sáu sẽ là khởi điểm cho bình

minh phục sinh105.Có thể nói, nhờ đức tin, người Kitô hữu xác tín rằng: “Con đường

dẫn đến tột đỉnh vinh quang chính là con đường thập giá, con đường chông gai, con

đường đau khổ”106.

4. Hóa giải sự dữ theo cái nhìn duy tâm

Trường phái duy tâm cho rằng đau khổ và sự dữ chỉ biết đến khi có ý thức của

con người. Thật vậy, những tai ương xảy ra trong thiên nhiên như: động đất, lũ lụt, núi

lửa, sóng thần, ôn dịch…tự bản chất của nó không tốt cũng không xấu, chỉ khi nào nó

đụng đến ý thức của con người qua những tàn phá mà nó gây ra; khi đó nó mới là sự

dữ. Các triết gia đã nhanh chóng giản lược sự dữ thành một sản phẩm thuần tuý của ý

thức và rồi dùng ngay chính ý thức để hoá giải chúng. Theo họ, nếu sự dữ là của ý

thức thì chính ý thức cũng có khả năng để hoá giải. Chẳng hạn như xem nó không có,

hay không quan trọng, cứ thản nhiên hoặc điều khiển ý thức sao cho phù hợp, ăn khớp

với hoàn cảnh và môi trường xung quanh. Những trường phái khắc kỷ lại quan niệm

rằng thông qua ý thức, con người có thể đạt tới hạnh phúc. Nên không có sự dữ tự

thân, chỉ có sự dữ do cái nhìn hay thái độ của con người; và như thế, vì ước ao tìm

được sự nguôi dịu khi đứng trước sự dữ,đau khổ; các triết gia khắc kỷ đã tìm cách

tuyên truyền cho thái độ tùng phục nhiều hơn là giải thích về sự dữ. Đối với họ, khôn

ngoan là hãy chăm lo phát triển những gì thuộc quyền mình và can đảm ghánh chịu

những điều khác, đúng như lời chỉ bảo của Epictète, một trong những triết gia lớn nhất

của trường phái này: “Chớ đòi hỏi những gì xảy ra phải xảy ra như ý bạn muốn, mà

hãy mong mốn mọi sự xảy ra như phải xảy ra, và bạn sẽ được hạnh phúc”. Với chủ

trương này, chúng ta cần phải làm chủ ước muốn và đam mê của mình, phải giữ bình

thản, đặc biệt trước đau khổ và sự dữ, hầu tìm được sự bình tâm thật sự.

Tóm lại, thái độ trên được tóm gọn trong khẩu hiệu nổi tiếng sau đây của

phái khắc kỷ: “Sustine et abstine; chịu đựng những gì không phụ thuộc mình và

tránh bớt đam mê”107.

104 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007, tr. 81. 105 x. Lm Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời, tr. 142. 106 Herbert Mc Kayes Op. Sr. Maria Bolding, Qua Thập Giá Đến Vinh Quang, Nxb Tôn Giáo, tr.173. 107 Epictète, “ Manuel VIII; trích trong Dominique, Gọi Tên Thượng Đế, sđd, tr. 155.

Page 46: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

46

VI. THÁI ĐỘ CỦA CON NGƯỜI TRƯỚC ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ Có thể nói, đau khổ và sự dữ là thực tại bi đát nhất trong kiếp sống nhân sinh.

Hành trình của cuộc đời con người được ấn định bằng những bậc thang của đau khổ và

kết thúc bằng cái chết. Mặc dù có những cái chết mang màu sắc tang thương, bi ai,

nhưng cũng có những cái chết mang nhiều ý nghĩa. Cũng vậy, có những người lẩn trốn,

phản kháng, nguyền rủa đau khổ và chết chóc, nhưng trái lại có những người dùng đau

khổ và cái chết để làm chứng cho một lý tưởng và một chân lý cao đẹp. Như vậy, chúng

ta thấy có hai thái độ trái ngược nhau khi đối diện với đau khổ và sự dữ: thái độ phản

kháng và thái độ chấp nhận. Giờ đây người viết xin được trình bày thái độ phản kháng.

1. Thái độ phản kháng

Sống trên đời, đã là người ai cũng phải đối diện với đau khổ và sự chết. Đó là

một chân lý ngàn đời ai cũng phải chấp nhận. Đứng trước chân lý nghiệt ngã, phũ phàng

này, không ai có thể tránh khỏi hoang mang, run sợ và thất vọng. Ở gần bờ vực thẳm

của sự chết, con người thường đặt ra những câu hỏi đại loại như: Tại sao tôi lại đau khổ,

tại sao tôi lại phải chết và tại sao tôi lại khốn khổ thế này?... Khi đối diện với bệnh tật

hiểm nghèo, con người thường thất vọng, nản chí, ấm ức, bất mãn hay ít ra thốt lên ước

gì tôi không phải mang căn bênh này, hay ước gì Thiên Chúa cất nó khỏi nơi

tôi…108.Tất cả những chất vấn hay những lời ước đó đều biểu lộ một thái độ phản kháng

lại đau khổ và sự dữ. Có thể nói, ai cũng tỏ ra hoang mang, sợ hãi khi đau khổ và nhất là

giây phút thần chết sắp mời gọi. Do đó, thái độ phản kháng lại đau khổ và sự dữ là một

thái độ chung nhất cho cả loài người. Các nhà khoa học gọi đó là một bản năng sinh tồn

của thế giới động vật.

Trở về Kinh Thánh, ta thấy rất nhiều nơi nói đến thái độ phản kháng của con

người khi đối diện với đau khổ và sự chết. Điểm khởi đầu cho đau khổ và sự chết là sự

bất phục tùng của con người (x. St 3,1-19). Còn thánh Phaolô nói: “Vì tội lỗi của con

người, tội đã nhập vào thế gian, và bởi tội nên có sự chết” (Rm 5,12). Sự chết là số

mạng chung cho toàn thể loài người: “Con hãy nhớ: mệnh ta thế nào, mệnh con cũng

vậy, hôm qua là phiên ta, hôm nay đến lượt con” (Hc 38,22). Nó cũng là nỗi ám ảnh lớn

nhất đối với phận người sống trên dương gian: “Điều không ngừng ám ảnh khiến lòng

người sợ hãi âu lo là cứ phải nghĩ rằng mình đang chờ chết” (Hc 40,2). Cử chỉ phản

kháng lại đau khổ và sự chết được diễn tả qua hành vi khóc lóc, than van: “Vua Đa-vít

run rẩy, đi lên trên cửa thành và khóc. Vua vừa đi vừa nói: “Áp-sa-lôm con ơi, Áp-sa-

108 x. Hương Việt, Tôi Tin Có Một Thiên Chúa, Quyển II, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2006, tr. 93.

Page 47: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

47

lôm con ơi! Phải chi cha chết thay con! Áp-sa-lôm con ơi, con ơi” (2Sm 19,1).Hay

“Ông Giu-se gục vào mặt cha mà khóc và hôn cha. Rồi ông Giu-se truyền cho các thầy

thuốc vẫn giúp việc ông, ướp xác cha ông. Các thầy thuốc ướp xác ông Ít-ra-en” (St

50,1-2). Sở dĩ con người phản kháng lại sự chết vì nó kéo theo một hệ quả rất khủng

khiếp. Chết là rơi vào quên lãng ngàn thu: quên luôn cả Thiên Chúa (x.Tv 6,6) và dường

như bị cả Thiên Chúa quên lãng (x.Tv 88,6), không còn biết ca tụng Ngài (x.Tv 30,10;

88,12; 115,17; Is 38,18).

Số phận của con người là: được sinh ra, đau khổ, già, rồi cuối cùng phải đi về

cỏi vĩnh hằng. Đau khổ và cái chết không loại trừ một ai, già trẻ lớn bé, từ quan quyền

cho đến thứ dân, từ kẻ quyền cao chức trọng cho đến dân đinh nghèo hèn, đều phải đi

qua ngưỡng cửa của sự chết, hậu quả của nó thật tang thương và bi ai. Con người có tìm

mọi cách hay phản kháng cách mãnh liệt đến đâu đi nữa, thì đau khổ và sự chết cũng

đến. Mỗi người một cách thế và một thời điểm khác nhau, nhưng kết cục rồi cũng giống

nhau, đều từ biệt dương gian để đi về với lòng đất109. Vậy đâu là bí quyết, là phương thế

để con người giảm bớt đau khổ? Chỉ có một cách duy nhất để con người giảm bớt lo sợ

hoang mang và đau khổ là dám đối diện cũng như chấp nhận thực tại đau khổ và yêu

mến sự chết110.

2. Thái độ chấp nhận để vươn lên

Để chấp nhận được điều gì thì trước hết phải biết nó như thế nào đã. Triết gia

Socrates đã từng nói: “Hãy biết chính mình”.Qua câu nói này, ông muốn nhắn nhủ

người đời hãy trở về với chính mình để tìm hiểu mình là gì và thân phận mình như thế

nào. Biết rõ mình và thân phận của mình thì chúng ta mới chấp nhận được chính mình.

Quả thế, thân phận của con người là phải chết, đó là chân lý ngàn đời, là kết cục chung

cho mọi loài thụ tạo. Socrates cũng đã xác tín điều này qua câu nói: “Là người ai cũng

phải chết, Socartes cũng là người, nên Socrates cũng phải chết”.Hay như đức Phật nói:

“Đời là bể khổ”. Biết được thân phận con người là thế, chúng ta mới dám đối diện và

chấp nhận để thăng hoa khổ đau và sự chết có một ý nghĩa.

Thành nhân chẳng phải là tiến trình tự nhiên ắt có, mà là hoa trái trổ sinh từ

những đau khổ. Thế nhưng, không phải qua đau khổ, ai cũng được thành nhân. Có kẻ đã

phải ngậm đắng, nuốt cay và ngã gục, vì trong đau khổ ấy vắng bóng tình yêu. Hơn nữa,

phải chấp nhận đau khổ là một thành phần trong đời sống con người, đơn giản chỉ vì

không ai tránh khỏi. Có nhiều người chạy trốn đau khổ bằng cách vùi đầu vào khói

109 x. Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật. Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa, 2007, tr. 99-100. 110 x. Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật. Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa, 2007, tr. 122-125.

Page 48: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

48

thuốc, men say, rượu tình…Cuối cùng nỗi đau lại càng xoáy mòn sâu thêm. Thái độ tích

cực có lẽ là đón nhận đau khổ để biến đổi nó, biến nó thành sức mạnh và là một đau khổ

có ý nghĩa. Rủi ro là điều chẳng ai mong đợi, nhưng ai cũng có thể từ chối được. Chấp

nhận sự may rủi không phải là buông theo số phận, mà là mở ngỏ lối vào và cho phép

đau khổ có thể biến đổi chúng ta. Một điều thật nghịch lý: nếu muốn tận hưởng cuộc

sống, chúng ta phải biết mở lòng với đau khổ; nếu muốn yêu thương, chúng ta phải chấp

nhận mất mát! Muốn có cuộc sống tròn đầy chúng ta phải biết đón nhận cả những điều

không hay, không tốt. Một khi chúng ta chấp nhận đau khổ như cái giá sự hiện hữu của

con người, thì chúng ta có thể tìm thấy ý nghĩa trong đó111.

Về phạm trù nhân bản, đau khổ sẽ giúp con người phát triển cá tính và tinh thần

phục vụ lẫn nhau: Thế giới hiện tại này, nơi khổ đau luôn hiện diện, là một tình trạng rất

phù hợp cho sự phát triển cá tính. Sự khôn ngoan của chúng ta được phát triển trong sự

gặp gỡ với khó khăn, với những tình trạng phức tạp mỗi ngày. Sự can đảm của chúng ta

được phát triển ngang qua những vật lộn với khía cạnh sợ hãi trong cuộc sống: thất bại,

chối bỏ, bệnh tật, đau khổ và sự chết. Sự bền chí của chúng ta là nhờ những nỗ lực để

thích ứng với những khó khăn mà chúng ta phải đối diện trong việc đạt tới những mục

tiêu nhân loại của chúng ta. Lòng thương xót của chúng ta được phát triển bởi những

đau khổ mà chúng ta gặp thấy nơi người khác. Sự kiên nhẫn của chúng ta được phát

triển bởi sự cần thiết phải chịu đựng thất bại, buồn phiền, đau khổ, yếu đuối, tuổi già và

cái chết… Đau khổ không chỉ huấn luyện cá tính con người nhưng còn cần cho sự liên

đới của xã hội. Nó là một sự vật lộn với sự dữ mà trong đó cộng đồng nối kết lại với

nhau. Một cộng đồng trở nên một cộng đồng đích thực khi nó quan tâm đến những

thành phần bệnh tật, nghèo đói, chiến đấu chống lại những yếu tố gây hỗn loạn, mang

giáo dục đến cho mọi người, quan tâm đến kẻ mồ côi, tù tội và an ủi những người mang

gánh nặng buồn phiền. Như thế, đau khổ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển

cộng đồng nhân loại. Không có đau khổ thì sẽ không có lòng thương cảm nối kết chúng

ta lại với nhau. Không có đau khổ sẽ không có những công việc phục vụ cộng đồng như

bác sĩ, giáo viên, y tá, điều dưỡng… Cộng đồng cần đến chúng ta bởi vì những đau khổ

vẫn còn hiện diện112. Có thể nói, đời người có trải qua đau khổ thì mới thấy giá trị của

niềm vui. Đau khổ càng lớn thì niềm vui càng tăng. Không có khả năng chịu đau khổ thì

cũng khó có khả năng hưởng hạnh phúc. Triết gia Lavelle đã phải thốt lên: “Đau khổ là

111 x. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn. OP, Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, tr. 87-88. 112 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search of True Religion a Philosophy of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 223-224.

Page 49: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

49

điều thiết yếu của cuộc đời”113. Về lãnh vực đức tin: Đón nhận đau khổ và cái chết còn

mang một ý nghĩa lớn lao và sâu xa hơn như, chết vì làm chứng cho chân lý, sự thật,

hay vì một hành vi cao thượng. Có nhiều vĩ nhân đã đón nhận đau khổ và sự chết để làm

chứng, bảo vệ đức tin, chân lý. Đó là hình ảnh các vị tử đạo; các ngài biết rằng mạng

sống của mình chẳng là gì so với Thiên Chúa. Đây không phải là thái độ của những

người theo trường phái khổ dâm114, nhưng là những người có một sự quân bình và khôn

ngoan. Các ngài đã thực hiện một chọn lựa đúng đắn, một bước nhảy từ đời sống tạm bợ

sang đời sống vĩnh hằng, qua cái chết anh dũng.

Hơn nữa, đối với những người mang trong mình niềm tin vào Đức Kitô thái độ

chấp nhận này còn mang một ý nghĩa lớn lao, đó là được tham dự vào mầu nhiệm đau

khổ và cái chết của chính Đức Kitô. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được liên kết với

Đức Kitô trên thập giá, được tẩy rửa trong cái chết của Ngài (x. Rm 6,3-4; Pl 3,10). Nhờ

đó chúng ta trở thành những kẻ đã chết đối với tội lỗi (x. Rm6,11) và đối với con người

cũ (x. Rm6,6), cho thế gian (x. Cl 2,20). Như thế, thái độ đón nhận đau khổ và sự chết

không còn mang tính tiêu cực, nhưng đã khoác vào nó một ý nghĩa tích cực. Ý nghĩa

này chỉ được trọn vẹn khi người Kitô hữu biết liên kết những đau khổ của mình với đau

khổ của Đức Kitô trên thập giá. Hay đau khổ và sự chết cũng là một đặc ân, hay ý muốn

của Thiên Chúa. Một nhật báo ở Hoa Kỳ đăng tải một mẫu tin như sau: “Ngày

14.01.1953, tại Kansas người ta báo tin cho cha Bussi đang nằm điều trị ở bệnh viện

rằng: “Ngài sắp chết vì ung thư”. Thay vì buồn bã, cha chỉ mỉm cười đáp lại: “Đó là

đặc ân, là thánh ý Chúa. Với bệnh ung thu, tôi có đủ thời gian dọn mình chết. Còn với

các bệnh khác, người ta ít có may mắn, để làm việc chuẩn bị cho giờ sau hết

này”115.Trong Kinh Thánh có ba nhân vật nổi bật sống chấp nhận đau khổ và sự chết,

đó là: ông Gióp, Người tôi tớ đau khổ trong Isaia, và Đức Giêsu. Ông Gióp được Kinh

Thánh gọi là người liêm khiết và chính trực, đầy lòng kính sợ Thiên Chúa và tránh xa

điều ác (x. G 1,1). Người tôi tớ đau khổ là người hiền dịu, đầy Thần Khí, đầy lòng nhân

hậu và sống theo sự thật (x. Is 42,1-3). Còn Đức Giêsu, Con một Thiên Chúa và là Đấng

vô tội. Người là Thiên Chúa mà đã từ bỏ vinh quang của mình để mặc lấy xác phàm (x.

Pl 2,6-11). Đối với ông Gióp, ông nhìn nhận sự đau khổ như là thử thách Thiên Chúa

gửi tới(x. G 1,2; 2,10). Nơi người tôi tớ đau khổ của Isaia và Đức Giêsu, thái độ đón

nhận đau khổ và sự chết là tham gia vào công trình cứu độ của Thiên Chúa, đã trở nên

113 Hội Dòng Xitô Thánh Gia. Hạt Giống Chiêm Niệm, Nội San Linh Đạo Đan Tu, Dám Đối Diện,số 9, 2010, tr.104. 114 x. Đây là những người lấy sự đau khổ làm niềm vui. Họ ham mê sự đau khổ và cố tình làm cho thân thể bị đau đớn. 115 Lm. Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời, tr. 95.

Page 50: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

50

Con Chiên gánh tội cho nhân loại (x. Is 53,8; 1Cr 15,3). Có thể nói, cả ba nhân vật tiêu

biểu mà Kinh Thánh nói tới, đều nhìn đau khổ và sự chết một cách tích cực. Các Ngài

đã đón nhận nó như một thử thách mà Thiên Chúa gửi đến để kiểm chứng lòng tin của

các Ngài và nhờ đó mà danh Thiên Chúa được tôn vinh116. Đã mang lấy kiếp người,

“Ngay lúc được sinh ra, con người đã mang trong mình cái chết; con người là một bản

thể cho cái chết”117. Biết rằng kiếp sống con người phải đau khổ và phải chết, nhưng đa

số con người vẫn phản kháng trước sự thật phũ phàng đó. Tuy nhiên, vẫn còn đó những

con người nhìn ra ý nghĩa tích cực của đau khổ và sự chết, nên đã vui lòng đón nhận nó

với một tâm hồn an bình. Đối với người Kitô hữu, ý nghĩa lớn nhất để họ đón nhận đau

khổ và sự chết trong tin yêu, phó thác là họ được diễm phúc công tác vào đau khổ, cái

chết của Đức Giêsu và cùng được phục sinh với Ngài.

Hình ảnh Đức Giêsu và Con Chiên vô tội bị đem đi sát tế, là tấm gương và là

ngọn hải đăng chiếu soi cho mọi người nói chungvà người Kitô hữu nói riêng, có một

cái nhìn và thái độ tích cực hơn trước thực tại đau khổ và sự dữ. Thánh Phaolô đã nói:

“Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang

hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở

nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến

nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Qua những câu Kinh Thánh,

chúng ta thấy Đức Giêsu đã chấp nhận đi đến cái chết rốt cùng của kiếp nhân sinh. Ngài

chấp nhận đi vào kiếp người, sống như một con người và chết như một con người, để

làm của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha nhằm cứu rỗi loài người.

Tóm lại, đau khổ không phải là cùng đích của đời sống con người, cũng chẳng

phải là con đường cùng; nhưng đối với những kẻ tin vào sứ mệnh cứu độ của Chúa

Giêsu, thì bên kia bóng tối của sự chết và đau khổ, chính là ánh sáng của sự sống vĩnh

cữu và của hạnh phúc bất diệt118. Vậy khi chấp nhận đau khổ là người Kitô hữu đã chấp

nhận đi con đường của Đức Kitô, con đường qua đau khổ để vào vinh quang119.

116 x. Jean Potin, Đức Giêsu Tư Tưởng Và Hành Động Của Ngài, Paris, 1973, tr. 131-137. 117 Fx. Durrwell, Đức Kitô, Con Người Và Cái Chết. Dịch giả: Vân Thuý, tr. 11. 118 x. Thiên Phúc, Nữ Thánh Giữa Đời Thường, 30 Câu Chuyện, Suy Niệm Và Câu Nguyện, 1997, tr. 64. 119 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niền Tin, 2007, tr. 32.

Page 51: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

51

VII. CON NGƯỜI CỘNG TÁC VỚI THIÊN CHÚA NGĂN CHẶN SỰ DỮ

Đau khổ và sự dữ không phải là điều Thiên Chúa muốn, cũng không phải là điều

chúng ta muốn, thì chúng ta phải có trách nhiệm nỗ lực để ngăn chặn nó. Nhưng để

ngăn chặn hoàn toàn cái ác, thiết nghĩ là điều không thể, vì con người không phải là

Đấng toàn năng. Thế nhưng, hạn chế nó một phần, cũng như làm cho nó bớt ảnh hưởng

lên cuộc sống con người là điều nằm trong khả năng của chúng ta. Nếu đau khổ và sự

dữ không do bởi Thiên Chúa, mà xuất phát từ sự lạm dụng tự do của con người cũng

như sự bất toàn của tạo vật, thì để làm giảm bớt đi một phần nào, chúng ta có lẽ cũng

phải bắt đầu từ đó.

1. Ngăn chặn sự dữ thể lý

Vũ trụ được Thiên Chúa dựng nên và vận hành theo quy luật tự nhiên của nó. Vì

vậy, con người muốn hoá giải nó thì cần phải nỗ lực khám phá và nương theo quy luật

đó. Như thánh Thomas Aquinô đã nói: “Mọi tạo vật được Thiên Chúa dựng nên vẫn

được hưởng một quy chế đặc biệt: tính cách tự trị. Trong vũ trụ hữu hình, có cả một trật

tự riêng biệt, có môi trường hoạt động và bản tính riêng của mỗi sự vật”. Theo ngài,

dường như Thiên Chúa cũng phải tự buộc mình tôn trọng mọi vật do chính Người đã tác

tạo120.Thế nhưng, thay vì dùng khối óc sáng tạo và quyền làm chủ vũ trụ mà Thiên

Chúa đã ban để nối tiếp công trình tạo dựng của Ngài, thì con người thường lạm dụng

quyền đó, để khai thác thiên nhiên một cách tuỳ tiện, ích kỷ, bừa bãi và tàn bạo… Kết

quả bi thảm là phá vỡ mối tương quan hài hoà giữa con người với môi trường sinh thái

và đẩy trái đất đến bờ vực thẳm của diệt vong! Càng cố gắng chinh phục trái đất và chế

ngự nó theo quan điểm duy kỹ thuật , con người càng làm ô nhiễm hoá vũ trụ và tạo nên

những gánh quá nặng cho môi trường. Chính vì vậy, thay vì bảo vệ con người và môi

trường sinh thái thì chính nó quay lại giết hại con người và môi trường bằng những trận

cuồng phong, sạt lở, động đất, hạn hán, ô nhiễm sông ngòi, môi trường… Đau đớn hơn,

con người đã gạt lương tâm, trách nhiệm ra khỏi cuộc đời, để sử dụng thuốc trừ sâu, diệt

cỏ cách cẩu thả, không đúng quy cách, hậu quả là con người mắc bao chứng bệnh nan y

như: ung thư, ôn dịch, nhiễm độc…121. Hậu quả này ai chịu trách nhiệm? Phải chăng là

do Thiên Chúa không quan phòng? Con người thường quay ra đổ trách nhiệm hết cho

Thiên Chúa những khi gặp đau khổ, mà chính con người ác tâm làm hại chính mình.

120 x. Nguyễn Trọng Viện, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Học Viện Đa Minh, 1998, tâp 2, tr. 205-206. 121 x. Gm. Nguyễn Thái Hợp, Op., Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Nxb Phương Đông, 2010, tr. 460.

Page 52: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

52

Vậy nên, để làm giảm bớt sự dữ thể lý, con người cần tìm hiểu quy luật thiên

nhiên mà Thiên Chúa quan phòng đã định sẵn và nương theo nó. Cũng như làm sao

khi sử dụng khoa học kỹ thuật tân tiến vào việc thám hiểm và khai thác thiên nhiên,

con người biết tuân thủ những quy tắc đạo đức, bảo vệ môi trường và các sinh vật

khác. Chính vì vậy, Giáo hội luôn yêu cầu các nhà khoa học biết sử dụng một cách tốt

nhất các nghiên cứu khoa học và khả năng kỹ thuật để phục vụ nhân loại. Ngỏ lời với

công nhân của Olivetti tại Ivrea (Bắc Ý), đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh:“Cần phải

tận dụng nghiên cứu khoa học và khả năng kỹ thuật một cách trung thực để phục vụ

nhân loại”122.Nhất là con người cần ý thức rằng: Thế giới này đã được Thiên Chúa uỷ

thác cho con người để canh tác. Vì thế con người có nghĩa vụ bảo vệ, trân trọng thế

giới, chứ không được phá hoại bằng sự khai thác bừa bãi, vô độ, nhất là không được

phép tàn phá sự sống hoặc gây ô nhiễm khiến cho sự sống ngột ngạt. Nếu Thiên Chúa

sẽ canh tân đổi mới thế giới chứ không huỷ diệt nó, tại sao con người lại tàn phá món

quà đã nhận lãnh để thăng tiến sự sống?”123. Mặt khác, Thiên Chúa ban cho con người

có trí thông minh và óc sáng tạo, con người cần vận dụng để nghiên cứu khám phá ra

các loại thuốc để chữa bệnh, các công cụ để dự báo thiên tai, các công trình để phòng

chống tai hoạ. Dẫu vậy, điều trên hết là con người cần được giáo dục về “sinh thái

nhân bản” và có khả năng nhận thức, kiểm soát chính mình, có trách nhiệm trong việc

sử dụng thiên nhiên có hiệu quả, theo quy luật Thiên Chúa đã định sẵn thì sự dữ thể lý

sẽ được ngăn chặn, đẩy lùi và con người sẽ có cuộc sống bình an, hạnh phúc hơn124.

2. Ngăn chặn sự dữ luân lý

Sự dữ luân lý xuất phát đầu tiên là do lạm dụng tự do quá đáng và sai lầm của

thụ tạo có lý trí. Ngay từ sơ khai của công trình sáng tạo, các thiên thần và nguyên tổ

loài người đã sử dụng sai lạc tự do này và từ đó đến nay, sự dữ và đau khổ không ngừng

xuất hiện. Thiên Chúa biết tự do là đầu mối gây nên sự dữ luân lý nhưng Ngài tôn trọng

tự do ấy, tôn trọng đến nỗi con người vận dụng tự do ấy chống lại chính Thiên Chúa.

Như vậy, sử dụng tự do như thế nào là trách nhiệm của con người. Vì con người quan

niệm rằng tự do là muốn làm gì thì làm và đã sử dụng tự do để làm bậy, say sưa với

nhục lạc, lòng đầy thù hận, một nhân loại đang muốn sụp đổ. Những gì có thể dùng để

giúp nhân loại thoả mãn các nhu cầu của mình, thì lại được đem phung phí vào việc chế

tạo các dụng cụ phá hoại. Các chủ nghĩa duy vật chống báng nhau. Những nhà lãnh đạo

122 Gm. Nguyễn Thái Hợp, Op., Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Nxb Phương Đông, 2010, tr. 460. 123 GLHTCG, số 2415. 124 x. Gm. Nguyễn Thái Hợp, Op., Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Nxb Phương Đông, 2010, tr. 470.

Page 53: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

53

đang dẫn các dân tộc đến đủ mọi hình thức rối loạn. Các triết thuyết đều dẫn con người

đi sai lạc, trái với ý muốn của Thiên Chúa, cũng như chống lại Ngài125.

Vì con người cho rằng, làm theo ý Thiên Chúa là đánh mất tự do. Nhưng con

người không biết rằng: “Càng làm điều thiện, con người càng trở nên tự do. Chỉ có

tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý

Thiên Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên nô lệ cho tội

lỗi”126. Đứng trước một thế giới khổ đau và hận thù đang hoành hành như vậy, con

người phải làm gì để ngăn chặn?

Cuộc chiến đấu trường kỳ gian khổ chống lại nghèo đói, bệnh tật, lầm than,

chiến tranh và bạo lực là một nghĩa vụ của Kitô giáo127. Hay chống lại sự dữ có thể nói

được đây là một nhu cầu và là bổn phận của mọi người, cho dù chúng ta có phải bước

qua đau khổ, hoặc phải chết đi nữa128. Thiết nghĩ, để ngăn chặn sự dữ luân lý thì con

người cần sử dụng tự do Chúa ban để sống công bằng, làm những đều nhân đạo, ban

phát tình thương và lòng nhân ái. Tình yêu và lòng nhân ái sẽ làm phát sinh những pháp

chế công minh, những cuộc chiến đấu cho công lý, và những trợ giúp quảng đại. Tình

yêu và lòng nhân ái sẽ điều tiết những đam mê quá đáng, sự lạm dụng quyền lực, những

đòi hỏi bừa bãi, những hy vọng hão huyền. Tình yêu cũng có khả năng thống nhất con

người, các nền văn minh, và giảm thiểu những khoảng cách giữa các tầng lớp hay giai

cấp xã hội129. Chính tình yêu đem lại cho những con người đau khổ, bần cùng của xã

hội đúng phẩm giá con người mà họ có quyền được nhìn nhận, cũng như đem lại cho

thế giới đầy đau khổ và bất công này niềm tin và hy vọng.

Mẹ Têrêxa Calcutta đã chứng minh cho thế giới thấy, chỉ có con đường yêu

thương mới ngăn chặn được sự dữ và đau khổ. Với con tim yêu thương không giới hạn,

Mẹ đã dành suốt cuộc đời lăn lộn bên cạnh những người nghèo khổ, những người phong

cùi, những nạn nhân của bệnh AIDS, nhất là những kẻ hấp hối bên vệ đường. Mẹ đã

làm cho những người hấp hối, được an vui, thanh thản trước khi nhắm mắt lìa đời.

Những kẻ vô gia cư lang thang cơ nhỡ có mái nhà để che nắng, che mưa. Những kẻ sinh

ra không cha không mẹ, không cửa không nhà được nhìn nhận phẩm giá như con người.

Những kẻ phong cùi, sida, được có những anh chị em hết lòng yêu thương chăm sóc.

125 x. Joseph-Louis Lebret, Tình Yêu Không Biên Giới, tr. 226-227. 126 x. Gioan Phaolo II, Là Tất Cả Trong Mọi Sự. Dịch giả: Đaminh Cao Tấn Tĩnh, tr. 203. 127 x. Gm. Nguyễn Thái Hợp, Op. Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Nxb Phương Đông, 2010, tr. 97. 128 x. Herbert Mc Kayes, Sr. Maria Bolding, Osb, Qua Thập Giá Đến Vinh Quang, Nxb Tôn Giáo, tr. 173. 129 x. Joseph-Louis Lebret, Tình Yêu Không Biên Giới, tr. 89-90.

Page 54: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

54

Những người bất hạnh, nghèo đói, đau khổ có được những bàn tay yêu thương chăm sóc

cho họ được mạnh khoẻ, lạc quan, vui sống…130.

Đức Kitô đã từng là nạn nhân của sự dữ nhưng Ngài đã sống lại, tức là đã thắng

sự dữ. Vì thế, chúng ta là những môn đệ của Ngài, cần phải có thái độ tích cực đối với

sự dữ, một thái độ đầy hy vọng, nghĩa là phải đối đầu với sự dữ và ra sức làm sao để

khổ đau giảm đi càng nhiều càng tốt, bởi làm thế là cộng tác với Đức Kitô trong “trận

chiến cánh chung”, hầu mang lại những lợi ích chiến thắng của Ngài cho lịch sử loài

người. Chính Thiên Chúa Tạo Hoá đã ban cho chúng ta tài năng và Thiên Chúa Cứu Độ

đã nêu cao tấm gương, cũng như ban ân sủng để chúng ta có đủ điều kiện chu toàn sứ

mệnh đó. Vấn đề là mỗi người, phải nhận ra phần trách nhiệm của mình đối với thực

trạng sự dữ, và thành thật tự hỏi: Tôi có sẵn sàng trả giá để góp phần vào cuộc chiến

thắng của Đức Kitô không? Nếu không tập trao ban, không tập khước từ, không tập cho

đi và không dám xả thân hay không dám chết đi từng ngày cho tình yêu, cho những

người đau khổ, thì đừng mong ngăn chặn và tẩy trừ sự dữ ra khỏi thế giới con người131.

130 x. Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật, 2007, tr. 104-105. 131x. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, Lm. Giuse Nguyễn Hữu An, …, Đức Giêsu Với Cái Chết, tr. 13-14.

Page 55: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

55

VIII. NHỮNG MẪU GƯƠNG GIÚP TU SĨ ĐỐI DIỆN, THĂNG HOA ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ THÀNH THIÊN ÂN

Xã hội ngày nay, con người đang đề cao nhu cầu hưởng thụ và vui chơi. Vì vậy

hai từ đau khổ và hy vọng có vẻ khó song hành, vì đau khổ đặt con người trước những

chướng ngại lớn, lắm khi khó vượt qua. Nhìn vào những người bị mang trong mình

bệnh nan y như ung thư vào giai đoạn cuối, hay nhiễm “căn bệnh thế kỷ”: họ đã phải

đối diện với những đau khổ lớn lao dường nào, trong thân xác cũng như tinh thần. Đã

không ít người suy sụp, không giám đối diện, nhất là tìm đến cái chết như một giải pháp

thoát khỏi sức nặng của đau khổ. Đối với họ, tất cả đều bế tắc, không một tia hy vọng.

Nhưng may thay, Giáo Hội cũng như xã hội vẫn còn đó những vĩ nhân anh dũng dám

đối diện với những đau khổ và thử thách. Nhất là họ đã biến những đau khổ thành sức

mạnh và thăng hoa những đau khổ thành Thiên ân. Giờ đây người viết xin được đề cập

tới những mẫu gương trong Kinh Thánh và trong Giáo Hội khi đối diện với đau khổ.

1. Ông Gióp

Ông Gióp, có lẽ đã cảm nhận được rằng cuộc sống của con người trên trần thế

chẳng khác gì một cuộc khổ dịch, con người luôn luôn vất vả suốt chuỗi ngày của một

kiếp nhân sinh, dường như Thiên Chúa tặng ban cho con người một món quà để rồi diễu

cợt vậy. Bởi vì: “cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là một thời khổ dịch

sao? Và chuỗi ngày lao lúng vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong

bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những thứ vô vọng,

số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề” (G 7,1-3).

Như thế, cuộc sống con người quá đỗi phù du và khổ ải: Vừa nằm xuống, tôi đã

nhủ thầm: “khi nào trời sáng?” Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: “Bao giờ chiều buông?”

Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng. Thịt tôi chai ra, dòi bọ lúc nhúc, da tôi

nứt nẻ, máu mủ đầm đìa. Ngày tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một

tia hy vọng132. Trước thực tế buốt nhói của đau khổ, ông lại thốt lên: “Vô phúc cho ngày

tôi đã sinh ra, ngày người ta nói, một người đã ra đời. Ước gì ngày đó đã ra tối tăm u

ám. Ước gì Chúa trên trời đã không săn sóc tới ngày ấy, ước gì ánh sáng đừng soi cho

ngày ấy, ước gì sự tăm tối đã bao phủ ngày ấy và ngày ấy đã không được tính vào ngày

trong năm. Ước chi đừng ai tính ngày ấy vào ngày trong tháng. Ước gì đêm ấy là một

rừng hoang không cây cỏ. Ước gì không ai nghe một tiếng vui vẻ ở ngày ấy” (G 3,1-7).

132 x. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiên Niệm, Nội San Linh Đạo Đan Tu, Thử Thách, số 7, 2009, tr. 8.

Page 56: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

56

Đối với ông Gióp, thà “được kể như không có” hay “được đưa thẳng từ lòng mẹ

xuống mồ” thì tốt hơn. Ông không thể lặng câm không nói, trong khi nỗi đớn đau xé nát

ruột gan, ông quá bất mãn đến độ đổ lỗi cho Thiên Chúa về thảm kịch đời ông. Thật trớ

trêu, khi thân phận con người tựa như cánh hoa sớm nở tối tàn, như bóng câu qua cửa

sổ, như hơi thở (x. G14,2). Ông cay đắng xót xa, ông đã nhận ra ân huệ sự sống và lòng

nhân hậu của Thiên Chúa giống như một trò chơi chẳng có ý nghĩa gì. Ông cảm thấy

rằng Thiên Chúa như đang đùa giỡn mạng sống mình vậy: “Ngài quật cho nó ngã

không dậy được và nó phải ra đi. Con cái nó có được vẻ vang rạng ngời, nó cũng chẳng

hay; chúng nó bị khinh khi miệt thị, nó nào có biết! Đau đớn trong thân xác, duy một

mình nó chịu, tang tóc trong tâm hồn, chỉ một mình nó hay” (G 14,20-22). Có thể nói,

đau khổ chưa được ánh sáng phục sinh chiếu rọi, là một nỗi bất hạnh và tuyệt vọng đối

với Gióp. Vậy, đâu là lối thoát cho ông khi đối diện với những đau khổ? Mặc dầu ông là

người công chính vẹn toàn trước nhan Đức Chúa.

Thật ra ông Gióp đau khổ và tuyệt vọng với những tai ương của mình, vì ông chỉ

tìm câu trả lời trước những đau khổ huyền nhiệm bằng lý luận và chứng cứkhôn ngoan

của phàm nhân. Nhưng sau khi ông được tiếp xúc thực sự với Thiên Chúa, thay vì ông

đổ lỗi cho Thiên Chúa và than thân trách phận, thì ông đã sám hối và thốt ra những lời

hết sức thân tình: “Trước kia con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ

đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi con

sấp mình thống hối ăn năn” (G 42,5-6)133.

Dù trong mọi quẫn bách, đau khổ tột cùng: con cái chết hết, gia sản bị cướp

sạch, thân thể ghẻ lở hôi hám, ung nhọt, bạn bè khiển trách, ngay cả vợ cũng lên tiếng

nguyền rủa,“nhưng trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không để cho môi miệng

thốt ra lời tội lỗi” (G 2,10)134.

ÔngGióp đã không hiểu hết mọi sự về huyền nhiệm của đau khổ. Nhưng ông đã

cảm nghiệm và tin rằng Thiên Chúa ông thờ là Đấng Hằng Sống, và ông luôn sống dưới

sự che chở, quan phòng của Người khi ông sống hạnh phúc cũng như khi ông gặp tai

hoạ: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận

sao?” (G 2,10), hay “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần

truồng. Đức Chúa ban cho Đức Chúa lại lấy đi. Xin chúc tụng danh Đức Chúa” (G

2,21).

133 Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiên Niệm, Thử Thách, số 7, 2009, tr. 22. 134 Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niền Tin, 2007, tr. 56-58.

Page 57: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

57

Tóm lại, ông Gióp đã tìm ra ý nghĩa của đau khổ là nhờ một cuộc gặp gỡ với

chính Thiên Chúa. Vì vậy, đối với ông, đau khổ cũng như đức tin hay hạnh phúc ở

đời này đều là ân huệ135.

2. Đức Maria

Nhân loại ngày nay nói rất nhiều về việc giá trị hoá, tối đa hoá, về sự thăng tiến,

tất cả đều nhằm giải thoát con người khỏi đau khổ. Nhưng nhân loại không hiểu được

điều gì sẽ làm họ tăng triển, vì họ tự khép kín và không hề chịu cởi mở trước mầu

nhiệm đau khổ của Đức Kitô, cũng như họ không biết rằng, con người chỉ có giá trị

trong việc hiến dâng đau khổ của mình136.Trái lại, Đức Maria hiện hữu nơi trần gian là

để làm Mẹ Chúa Cứu Thế và để dự phần cứu chuộc với Đấng Cứu Thế: Đức Giêsu đã

cứu chuộc nhân loại bằng đau khổ Thập giá, Mẹ cũng đồng công cứu chuộc nhân loại

với Đức Giêsu qua con đường đau khổ137. Điều này được minh định qua bảy sự đau khổ

của Đức Maria sau:

Ngay lúc dâng con trong đền thờ, tiên tri Simêon ẵm lấy Hài Nhi trong cánh

tay mình và nói tiên tri với Mẹ Maria rằng, đứa trẻ sẽ là cớ cho một số người vấp ngã

và một số người khác chỗi dậy, rồi đây con trẻ này sẽ trở nên một dấu hiệu cho người

ta chống đối. Ông cũng nói với Mẹ về những đau khổ sẽ đến: “Còn chính bà, thì một

lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người

phải lộ ra” (Lc 2,35)138. Trong niềm đau thứ hai, trước hành động dã man và tàn độc

của Hêrôđê muốn tìm giết Chúa Hài Nhi, Mẹ đã phải bồng bế Đức Giêsu, theo chân

thánh Giuse chạy trốn trong đêm sương giá rét, để bảo vệ cho Hài Nhi khỏi bị tàn sát,

không biết đi đâu và cũng không biết trước ngày trở về.Một niềm đau đặc biệt khác

của Đức Maria, nhân dịp đi dự lễ Vượt qua tại Giêrusalem, năm Đức Giêsu lên 12

tuổi, Mẹ và thánh Giuse lạc mất Chúa Giêsu trong ba ngày, đã hoảng hốt và đi tìm

kiếm ròng rã ba ngày.Đau khổ thứ tư, gợi lại cho tâm trí chúng ta giờ phút hãi hùng

khi Mẹ Maria đã gặp Đức Giêsu con Mẹ, với thập giá trên vai, với vòng gai trên đầu,

với tấm thân rách nát tả tơi, gương mặt đầy máu, cùng với những tiếng la hét, chửi vả

kinh hoàng trên con đường dẫn tới núi Canvê.Trong niềm đau thứ năm, Mẹ đứng dưới

chân thập giá treo xác Đức Giêsu, với tâm hồn tan nát, chứng kiến thảm kịch đau

thương của con yêu dấu trong ba giờ, với biết bao hành vi dã man mà bọn lý hình tuôn

135 x. Con Người Và Những Vấn Đề Của Con Người Trong Ánh Sáng Đức Kitô, tr. 147. 136 x. Joseph-Louis Lebert, Tình Yêu Không Biên Giới, tr. 140-141. 137 x. Hương Việt, Truyện Các Thánh, quyển III, tháng 7,8,9, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2008, tr. 396. 138 x. Các Bài Đọc Kinh Sách, Quyển 2, Mùa Thường Niên, tuần VI- XXXIV. Bản dịch do: Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ thực hiện, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2008, tr. 1061.

Page 58: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

58

ra và bao tiếng nhục mã của kẻ qua, người lại xỉ vả con Mẹ. Ta chiêm ngắm với niềm

đau thứ sáu,Mẹ ôm xác con Mẹ mới được tháo đanh, còn mang đầy vết thương tím

bầm, do những cái vả vào mặt, những roi, những đanh, lưỡi đòng còn ghi dấu lại.Đau

khổ sau cùng, Mẹ chứng kiến cuộc táng xác Đức Giêsu, đơn giản, sơ sài, hấp tấp và

lạnh lùng139.Thông qua bảy đau khổ mà Mẹ đã đón nhận, cho thấy Mẹ Maria đã luôn

theo dõi từng bước mọi đau khổ của con mình và âm thầm đón nhận những đau buồn,

tủi hổ ấy của con140.

Mẹ đón nhận những đau khổ với một tinh thần siêu nhiên, một thái độ anh hùng,

và phát xuất từ một tấm lòng nhân ái, thương xót đối với nhân loại, cũng như do tình yêu

mến đối với Đức Giêsu. Mẹ không than vãn, không khóc lóc, không ngất xỉu trước đau

khổ, nhưng luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Giám mục Bốt-xu-ê nói: “Mẹ cương quyết,

kiên tâm và hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đấng đã quyết định Chúa Con phải

chết để cứu chuộc nhân loại”141. Công đồng VatianôII cũng nói: “Đức Maria đã đau đớn

chịu khổ cực với Con một của mình và dự phần vào hy lễ của Con với tấm lòng của một

người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế hy lễ do lòng mình sinh ra”142. Tóm lại, Mẹ Maria đã

can đảm trèo lên đỉnh đồi Golgotha và đã đứng với Chúa Giêsu trong cơn hấp hối, ở bên

cạnh Ngài để cùng đón nhận với Con của Mẹ những lời chế nhạo và lăng nhục. Bất chấp

sự thù ghét và đau khổ, Mẹ vẫn ở bên Con Mẹ để chia sẻ giờ sau hết của Ngài143. Mặc dù

tim Mẹ tan nát, đau khổ tột cùng, khi phải nhìn đứa con yêu dấu của mình thân hình tàn tạ

treo trên thánh giá, nhưng Mẹ vẫn tiếp tục đứng đó, đứng như một chứng tá cho Đấng

Chịu Đóng Đinh. Mẹ chia sẻ trọn vẹn “giờ” của Chúa Giêsu, và đã “chịu đóng đinh với

Chúa Giêsu”144.

3. Thánh Phaolô Tông Đồ

Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu được mời gọi sẵn sàng từ bỏ mình,

vác thập giá mà theo Chúa (x. Mt 16,24). Từ sau biến cố Đamas, Phaolô đã thật sự ý

thức mình được Chúa chọn gọi làm Tông đồ (Gl 1,11tt) và đã hoàn toàn đáp trả bằng

cả cuộc đời loan báo Tin Mừng, đạt cao điểm nơi chính sự chết theo gương Đức

Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, và tột đỉnh của vâng phục là cái

chết đầy đau khổ trên thập giá (x. Pl 2, 6-8). Phaolô đã quả quyết: “Chúng tôi luôn

139 x. Hương Việt, Truyện Các Thánh, quyển III, tháng 7,8,9, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2008, tr. 397-398. 140 x. Stan Rougier. Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết, Những Cuộc Hẹn Của Thiên Chúa, Nxb Phương Đông, 2013, tr. 211. 141 Hương Việt, Truyện Các Thánh, quyển III, tháng 7,8,9, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2008, tr. 398-399. 142 Lumen Gentium, số 58. 143 x. Dân Chúa Ngày Nay, số 106, Đứng Gần Thập Giá Chúa Giêsu, tr. 36. 144 x. Dân Chúa Ngày Nay, số 106, Đứng Gần Thập Giá Chúa Giêsu, tr. 18.

Page 59: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

59

mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu

cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2Cr 4,10). “Tôi cùng chịu đóng đinh

với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống nhưng không còn là tôi mà là Đức Kitô sống

trong tôi” (Gl 2,19-20). Chọn Chúa là lẽ sống, Phaolô là người môn đệ tuyệt vời của

Đức Giêsu, thể hiện cao điểm nơi ý thức và thái độ trước đau khổ và cái chết.

Qua sự chiêm ngắm Đấng đã chết và sống lại, Phaolô xác tín rằng niềm tin Đức

Giêsu chết và sống lại không loại bỏ đau khổ, nhưng giúp can đảm chiến đấu để loại trừ

và làm giảm bớt đau khổ. Đau khổ mang chiều kích cứu độ và nhìn đau khổ trong tương

quan với hy vọng (x. Rm 5,1-2)145. Chính vì thế, mặc dù bị giam trong tù nhưng thánh

Phaolô cảm thấynhư đang ở trên Thiên Quốc. Người đón nhận đòn vọt và thương tích

một cách vui vẻ hơn cả những người chạy đua để giật giải. Người yêu thích đau khổ

chẳng kém chi phần thưởng, vì người coi những đau khổ là phần thưởng; bởi thế người

gọi chúng là ơn: “Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng, khi mình yếu đuối, khi bị xỉ nhục,

hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô” (x. 2Cr 12, 10”146. Có thể nói, trái tim đau

khổ của thánh nhân luôn tràn ngập một niềm an ủi và biết ơn đối với Thiên Chúa:

“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phục Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ngài là Cha

giàu lòng từ bi nhân ái và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ, ủi an” (2Cr 1,3)147.

Thánh nhân còn nói: “Tôi vui chịu trong thân xác tôi tất cả những gì còn thiếu trong

cuộc khổ nạn của Đức Kitô” (Cl 1,24). Ngài sẵn sàng đón nhận tất cả vì nhận thức sâu

sắc rằng trong mọi đau khổ phải chịu, Ngài thật sự cộng tác vào ơn cứu độ của Đức

Kitô.

Đối với Phaolô, Đức Kitô là trung tâm mọi suy tư và ước muốn của thánh nhân,

cũng như mẫu mực sống cho mình, cho nên thánh tông đồ muốn được sống trong Đức

Kitô, được đồng lao cộng khổ với Đức Kitô, được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức

Kitô trong những đau khổ và hy vọng cùng được phục sinh với Ngài148.

4. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Đau khổ giữ một địa vị quan trọng trong cuộc đời của chị thánh Têrêsa Hài

Đồng Giêsu, hơn cả việc chấp nhận, Têrêsa đã yêu thích đau khổ một cách nồng nhiệt.

Giống như các nhân đức khác, Chịthánh yêu thích đau khổ, là hiệu quả kéo dài của tình

yêu đối với Thiên Chúa. Để cho tình yêu Thiên Chúa có thể nắm giữ linh hồn và phát

145 x. Tài Liệu Học Tập Năm Thánh Phaolô. Số 2, tr. 100-106. 146 Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển 1, Nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 959-960. 147 Hương Việt, Tôi Tin Có Một Thiên Chúa, quyển II, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2006, tr. 93. 148 x. Lm. Phan Tấn Thành, Nt. Maria Đinh Thị Sáng, Cánh Chung Học, Học Viện Liên Dòng Thánh Tôma, TPHCM, 2004, tr. 73.

Page 60: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

60

triển trong Chị, Chị thánh quyết tâm thực hành sự từ bỏ đến mức độ tận cùng. Ước

muốn đáp trả tình yêu của Đức kitô, Chị đã tận hiến chính mình để yêu thương những

người thân cận mà không giữ lại gì cả. Nhưng một tình yêu bắt nguồn từ lò lửa tình yêu

Thiên Chúa, không ngừng ở đó. Nó mong muốn trao ban chính mình trong sự hy sinh

trọn vẹn.Nó đòi hỏi đau khổ để cái tôi có thể được tiêu huỷ hoàn toàn bởi tình yêu149.

Chúng ta hãy nghe lời thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nói trong “Truyện một linh

hồn”: “Linh hồn con đã qua biết bao cơn thử thách, con đã đau khổ rất nhiều. Lúc còn

bé, con đau khổ và buồn nhưng ngày nay con mến tất cả các thứ quả đắng trong sự

bằng yên và vui vẻ…”, và: “Đừng tưởng con được bơi lội trong sự yên ủi. Không, chính

sự yên ủi của con, ấy là không được yên ủi ở đời”. Nhất là khi trả lời một chị hỏi ngài:

“Người ta nói: “Không khi nào chị bị đau khổ lắm, có phải không?” Thánh nữ liền chỉ

vào ly thuốc đựng một chất đỏ tươi, và nói: “Chị hãy nhìn cái ly này, ai cũng tưởng nó

đầy chất ngọt, nhưng thật ra không gì đắng hơn nữa. Đấy chính là hình ảnh linh hồn

em: trước mắt người khác, đời em là một vườn hoa đầy những màu tươi thắm, người ta

tưởng em chỉ được uống toàn những chất ngọt và thơm, nhưng thật ra em chỉ uống toàn

chất đắng. Em nói chất đắng, nhưng đời em không cay đắng, vì em đã làm cho chất

đắng hoá vui và ngọt… Em đã hoá thành con người không biết đau khổ nữa vì hết mọi

sự đau khổ biến thành sự ngọt ngào cho em…”150. Đặc biệt, Chị còn thân thưa với Chúa

một cách mạnh mẽ: “Lạy Chúa, bao lâu Chúa muốn, con còn bằng lòng ăn bánh đau

khổ… Con sẽ ngồi luôn ở bàn ăn cay đắng, cho đến khi Chúa biểu đứng dậy”151. Chị

cũng viết cho mẹ Agnès như sau: “Bao lâu ở trong tu viện Carmel con mong ước chỉ

một điều là luôn chịu đau khổ vì Chúa Giêsu”. Vì đối với Chị thánh đau khổ được chịu

đựng với sự vui vẻ, bình an, thì Chị sẽ yêu mến Thiên Chúa hoàn hảo hơn trong cõi

vĩnh hằng! Do đó, quyết tâm mạnh mẽ của Chị thánh là: “chúng ta hãy ôm chầm lấy

đau khổ”152, hay “Con luôn cố gắng yêu mến sự đau khổ và tiếp nhận nó. Khi đau khổ

nhiều, khi những điều phiền toái, đau đớn xảy đến với con, thay vì nhìn cách buồn thảm,

con cố gắng tươi cười. Lúc đầu con không thành công trong việc này nhưng bây giờ nó

đã trở thành thói quen. Con chịu đựng nhiều vì con đang sống trên dương gian, nhưng

149 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 169. 150 Lm. Antôn Nguyễn Văn Tuyên, Ý Nghĩa Sự Đau Khổ, tr. 137. 151 Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007, tr. 110. 152 Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 173-174 .

Page 61: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

61

nếu trong thời thơ ấu, con chịu đựng bằng sự buồn nản. Giờ đây con chịu đựng bằng

hoan lạc và bình an. Con thật sự hạnh phúc chịu đau khổ”153.

Chị thánh Têrêsa Hài Đồng là gương mẫu cho các tu sĩ, dù trong đau khổ, cô

đơn cùng cực, Chị vẫn xin thêm đau khổ vì yêu Chúa và vì phần rỗi các linh hồn. Chị

vui sướng chịu đau khổ vì ý thức sứ vụ cao cả của mình trong lòng Giáo Hội. Đặc biệt,

chị muốn nên giống người yêu của mình là Đức Kitô trong đau khổ154.

5. Cha Henrry Denis Biển Đức Thuận, đấng sáng lập hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam

Đối với cha Henrry Denis Biển Đức Thuận, Thánh giá như là một thành tố hình

thành cuộc đời dâng hiến. Có thể nói, Thánh giá đã in sâu vào tâm hồn ngài và trở thành

đối tượng chiêm niệm. Trong một lá thư gửi cho bà kế mẫu, ngài tâm sự: “Con cầu cho

mẹ hơn mọi khi. Xin Chúa ban cho mẹ được bằng lòng chịu đau đớn và chịu cách vui

vẻ. Luyện ngục còn cực hơn bội phần. Trong đó không lập công được nữa. Vả sự

thương khó Chúa chịu vì ta còn cực hơn muôn phần, không so sánh được. Mẹ hãy

ngước mắt trông Thánh Giá Chúa mà thân thưa: “Dạ con xin vâng chịu mọi sự Chúa

gởi cho con! Chính lúc con viết thư cho mẹ, con cũng liếc mắt trông lên Chúa trên

Thánh Giá và thầm thỉ cầu cho mẹ”155. Qua câu “liếc mắt trông lên Chúa trên Thánh

giá”; có thể nói đây là một diễn ngữ nói lên môt cái nhìn, một liếc mắt, để định hướng

đi cho cuộc đời. Thánh giá Đức Giêsu được ví như ngọn hải đăng chiếu soi, hướng dẫn,

con đường thập giá. Nhưng con đường đó chẳng mấy ai muốn đi, vì đó là con đường hy

sinh và từ bỏ:“Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá của mình mỗi ngày mà

theo”(Lc 9,23), Chúa đã quả quyết và chính Ngài đã làm gương cho mọi người qua việc

vác thập giá để rồi bị đóng đinh và chết trên đó vì tình yêu.

Cha Henrry Denis Biển Đức Thuận không chỉ “liếc nhìn” Thánh giá mà cha còn

ôm ghì Thánh giá trong suốt cuộc đời. Điều này được thể hiện rõ nét khi ngài khuyên

nhủ các môn sinh của mình: “Có ít câu này, cha tưởng cũng sinh ích cho chúng ta, nên

chúng ta hãy đem vào trí vào lòng mà suy nghĩ, chắc sẽ sinh ích cho linh hồn chúng ta

nhiều. Vậy, lời rằng: một lần chịu khổ vì Chúa, thì hơn trăm lần làm lành cho thế gian”

(Di Ngôn, số 126)156. Sau khi đã nhắc lại câu châm ngôn và giải thích việc hy sinh cho

Chúa, cha mời gọi các môn sinh của mình đón nhận thập giá với một tình yêu Chúa, bởi

153 Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, 2011, tr. 223. 154 x. Hội Dòng Xit ô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Dám Đối Diện,số 9, 2010, tr. 105. 155 Di Ngôn, số 58. 156 x. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Trên Nền Tảng Đức Kitô, số 10, 2011, tr. 97-98.

Page 62: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

62

vì chỉ tình yêu mới làm cho những gánh nặng và ách kia trở thành êm dịu và nhẹ nhàng:

“Nếu chúng ta biết ấp yêu Thánh Giá vào lòng, thì mọi sự gian nan tân khổ đời này,

không làm cho chúng ta nao núng. Có lòng trìu mến Thánh Giá thật, thì ở trong Nhà

Dòng này rất đỗi vui mừng. Như vậy, ai làm chi được chúng ta! Bề trên có quở phạt,

anh em có khinh chê, đó là Thánh Giá. Là điều mình hằng nâng niu trân trọng. Những

kẻ ấy trong Nhà Dòng này rất đỗi vui mừng” (Di Ngôn, số 156)157.

Như vậy, đau khổ vì Đức Kitô không những là một thành tố hình thành cuộc đời

dâng hiến của cha Henrry Denis Biển Đức Thuận mà thôi, nhưng nó còn vẫn hành trong

mọi chọn lựa và hướng đi cho cuộc đời ngài. Từ đây, mọi Thập giá trong cuộc đời nhân

sinh đều được cha ấp yêu, trân trọng và là ngọn hải đăng rọi chiếu ánh sáng trên mọi

ngõ ngách của hành trình dâng hiến của ngài158.

157 Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Thử Thách, số 7, 2009, tr. 99. 158 x. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Trên Nền Tảng Đức Kitô, số 10, 2011, tr. 98-99.

Page 63: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

63

IX. NHỮNG PHƯƠNG THẾ ĐỂ TU SĨ ĐỐI DIỆN VỚI ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ

1.Nhìn lên thập giá Đức Kitô

Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong bài giảng vào sáng thứ tư hàng tuần khi

tiếp kiến khách hành hương tại quảng trường thánh Phêrô chia sẽ rằng: “Theo dự án đời

đời của Thiên chúa, cũng như theo tác động quan phòng của Ngài trong lịch sử, thì mọi

sự dữ, nhất là sự dữ luân lý-tức là tội lỗi-vì thập giá và cuộc phục sinh của Chúa Kitô,

đều quỵ luỵ sự thiện của ơn cứu chuộc và cứu độ”159. Như vậy lời khẳng định của thánh

giáo hoàng Gioan Phaolô II là quy Kitô và chỉ duy một mình Đức Kitô Thập giá mới là

giải đáp thoả đáng mọi đau khổ của nhân loại. Ngài viết tiếp:“Nếu không căn cứ vào

Chúa Kitô, không thể nào giải đáp dứt khoát cho vấn nạn làm sao dung hoà được sự dữ

và đau khổ với sự thật về việc Quan Phòng Thần Linh”160. Như thế, vai trò của Đức

Kitô trong mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa là rất lớn và là nguồn giải đáp mọi

thắc mắc. Vậy, tại sao Đức Kitô là câu trả lời duy nhất? Đó là nhờ Đức Giêsu, Ngôi Lời

Nhập thể đã tháp nhập đời sống con người, một cuộc sống nghèo hèn, đơn sơ- nhất là

bằng cuộc tử nạn trên Thập giá, rằng Thiên Chúa ở với mọi người trong đau khổ của họ.

Đức Kitô đã xuống thế làm người, đã nhận vào mình mọi khổ đau của kiếp người và

qua khổ đau Ngài đã thánh hoá và cho muôn loài thấy rằng việc chịu đựng đau khổ

mang một ý nghĩa và có giá trịcứu độ. Vì tình yêu, và vì phần rỗi con người, Thiên

Chúa Cha đã ban tặng Người Con duy nhất cho nhân loại, và chấp nhận để cho con

mình chết trên thập giá: “Vì yêu, Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con

Một của Người, mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9). Nhờ cái chết cao quý của Đức

Giêsu, mầu nhiệm cứu độ đã được mở ra cho con người, để con người được sống đời

đời. Chính thập giá Đức Kitô và cái chết của Người mà mọi quyền lực sự dữ đã bị đập

tan (x. 1Cr 15,55-57). Qua thập giá Đức Kitô, Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa con

người (x.Ga 1,14), để cùng con người chịu đau khổ và giải phóng con người khỏi quyền

lực của ác thần. Khi con người quỳ xuống tôn thờ và chiêm ngắm Tôi Tớ Đau Khổ của

Thiên Chúa bị treo trên thập giá, họ sẽ nhận ra được khuôn mặt của chính mình. Một

khi được liên đới trong đau khổ của Đức Kitô, chúng ta cũng được phục sinh và chung

phần vinh quang với Ngài (x. Rm 8,17). Nơi mà chính Ngài đi trước dọn chỗ và sẽ trở

lại đón chúng ta, để Ngài ở đâu thì chúng ta cũng được ở đó với Ngài (x. Ga 14,3). Nơi

đó sẽ không còn đau khổ và khóc than, vì: “Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần… và sẽ

159 ĐGH Gioan Phaolô II, Là Tất Cả Trong Mọi Sự. Dịch giả: Đaminh Cao Tấn Tĩnh, tr. 206. 160 ĐGH Gioan Phaolô II, Là Tất Cả Trong Mọi Sự. Dịch giả: Đaminh Cao Tấn Tĩnh, tr. 206.

Page 64: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

64

lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô

nhục của dân Người” (Is 25,8).

Xác tín thập giá Đức Kitô là lời giải đáp thoả đáng cho tất cả đau khổ và sự dữ

của con người. Điều đó không có nghĩa là tu sĩ chỉ xác tín một lần cho tất cả. Nhưng,

muốn hoá giải và loại bỏ được đau khổ, sự dữ, tu sĩ cần phải gắn chặt cuộc đời với thập

giá của Đức Kitô, vì đau khổ thuộc về hiện sinh của con người, nó gắn liền với bản chất

của thụ tạo. Điều mà các tu sĩ phải làm là ôm trọn đau khổ và thăng hoa nó với tất cả

niềm xác tín và cùng với nó, người dâng hiến đóng đinh chính mình vào thập giá Đức

Kitô. Một niềm xác tín tuyệt đối vào Đức Kitô tử nạn và phục sinh như thánh Phaolô:

“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Ki tô? Phải chăng là gian truân, khốn

khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo… Trong tất cả mọi thử thách ấy, chúng ta

toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (x. Rm 8,35-37). Hơn nữa, noi gương Đức

Kitô các tu sĩ phải trung thành với những cơn thử thách, vì: “Sự quan phòng không

miễn cho Đức Giêsu khỏi thử thách, vì Người đã thấy Chúa Cha ruồng bỏ (x. Mt 27,46)

và khi vâng lời cho đến chết, Người đã xác quyết lòng tín thác hiếu thảo bằng lời sau

hết trên thập giá: “Lạy Cha con phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46)161.

Thập giá Đức Kitô là lời giải đáp thoả đáng cho những người đặt niềm tin nơi Ngài,

nhưng những người chưa tin vào Đức Kitô thì sao? Đức thánh Cha Gioan Phaolô II đã

nói trong cuốn sách “Tất Cả Trong Mọi Sự” của Ngài rằng : “Với sự hỗ trợ của một đức

tin được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện, con người sẽ dần khám phá ý nghĩa đích thực

của đau khổ mà mỗi người đều cảm nghiệm nơi cuộc sống của mình. Đó là khám phá

dựa vào lời mặc khải thần linh, cũng như vào lời thập giá” (x. 1Cr 1,18) của Chúa Kitô

là “Quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24)162. Nhờ sự trung thành và

tin tưởng vào Đức Kitô tử nạn và phục sinh, các tu sĩ được thông phần sự chiến thắng

ấy, sự chiến thắng mang lại niềm hy vọng cho mọi người, vì là chiến thắng đau khổ và

sự dữ, chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết. Đức Kitô đã sống lại, sự chết không cầm

giữ được Người, Người là hy vọng của chúng ta, là tương lai của chúng ta. Mặc dù thế

giới có tàn bạo, đau khổ, sự dữ đến bao nhiêu, thì tiếng nói cuối cùng vẫn là của tình

yêu Thiên Chúa, và của chúng ta trong Thiên Chúa. Dù thế giới đầy dẫy bất công và đau

khổ, tiếng nói cuối cùng là tiếng nói công lý và hoà bình của Thiên Chúa và hạnh phúc

của con người163.

161 x. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Giáo hoàng học viện Pio X dịch, tr. 306. 162 x. ĐGH Gioan Phaolô II, Là Tất Cả Trong Mọi Sự. Dịch giả: Đaminh Cao Tấn Tĩnh, tr .209. 163 x. Những Trái Khuấy Và Đôi Lời Góp Ý Về Đời Sống Tu Trì, số 24, tr. 159.

Page 65: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

65

Đau khổ quả là một thử thách lớn đối với mỗi tu sĩ. Thế nhưng, nhờ nỗi khổ

nhục và cái chết đau thương, nhục nhã trên thánh giá, Chúa Giêsu đã tuôn trào một sức

mạnh tình yêu trao ban, đến nỗi đã biến thành cuộc phục sinh khải hoàn và trở nên ơn

cứu độ cho muôn người. Vì thế, những đau khổ mà các tu sĩ đang gánh chịu cùng với

Đức Kitô sẽ làm trổ sinh những cánh hoa yêu thương rực rỡ, trong vườn hoa muôn sắc

của thiên đường tình yêu164. Như thế, khi nhìn lên Thập Giá, và nhờ sức mạnh của tình

Yêu Thập Giá, đau khổ đối với tu sĩ không còn phải là viên đá làm cho vấp phạm, mà là

dụng cụ, con đường đi về với Thiên Chúa. Từ đây tu sĩ khi đối diện với đau khổ và sự

dữ, lửa tình yêu trong mình không lụn tắt, nhưng sẽ bùng lên mãnh liệt, vì đau khổ sẽ

làm tu sĩ nên giống Chúa Kitô165.

2. Cầu nguyện trong thinh lặng

Khi còn ở trần gian, nhất là trên Thập giá, Chúa Giêsu đã dùng lời nói và nhất là

sự thinh lặng để cầu nguyện. Đây là một đặc điểm quan trọng trong việc cầu nguyện của

Chúa Giêsu, cũng là chiều kích quan trọng của tu sĩ khi cầu nguyện. Cần phải giữ thinh

lặng nội tâm và bên ngoài để lắng nghe Lời Chúa. Nhưng oái ăm thay, đối với các tu sĩ

ngày nay giữ thinh lặng là một thách đố không nhỏ166. Quả thật, tu sĩ đang sống trong một

thời đại không thích hợp cho việc hồi tâm; trái lại, đôi khi có cảm tưởng con người sợ đối

diện với chính mình, dù chỉ trong giây lát. Những đau thương của cuộc đời thường quá

lớn đến nỗi con người chỉ muốn tìm cách lẩn trốn để khỏi phải đối diện với chúng. Truyền

thanh, truyền hình, báo chí, sách vở, phim ảnh, cả những công việc vất vả và đời sống bận

rộn xã hội nữa…, tất cả đều có thể là những phương thế giúp con người tránh đối diện với

chính mình và biến cuộc sống thành cuộc giải trí trường kỳ. Có thể nói, giải trí giúp cuộc

sống con người có những niềm vui, thanh thản qua một ngày làm việc mệt nhọc. Nhưng

nếu ta sống cuộc đời vui chơi giải trí triền miên, thì tâm trí ta sẽ tách xa khỏi tâm hồn và

trở thành những khán giả của vở tuồng cuộc đời mình. Nhất là khi đối diện với thử thách,

đau khổ chúng ta sẽ chao đảo và dễ buông xuôi, thất vọng167. Vậy đâu là phương thế để tu

sĩ dám đối diện với chính mình và với sóng gió, đau khổ của cuộc đời? Câu trả lời là:

“cầu nguyện trong thinh lặng”.

Thập giá của Đức Kitô không chỉ cho thấy sự tĩnh lặng của Chúa Giêsu, như lời

cuối cùng dâng lên Chúa Cha, mà còn cho thấy Thiên Chúa đã nói bằng sự thinh lặng:

164 x. Thiên Phúc, Lời Gọi Yêu Thương, 30 Câu Chuyện Suy Niệm Và Cầu Nguyện, Nxb Tôn Giáo, tr. 27-28. 165 x. Lm Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời, tr. 61. 166 x. Bênêđictô XVI, Cầu Nguyện Trên Nền Tảng Thánh Kinh. Tập II: Tân Ước. Chuyển ngữ và biên soạn: Vương Nghi- Khổng Thành Ngọc, Nxb Tôn Giáo, tr. 104. 167 x. Lm Henri Nowen. Phỏng dịch: Lm. Dominic Thuần,SSS, Chén Cuộc Đời. Tủ sách Eymard, tr. 68-69.

Page 66: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

66

“Trải nghiệm về sự thinh lặng, xa cách của Chúa Cha, Đấng Toàn Năng, là cả một

chặng đường quyết định trong cuộc đời trần thế của Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập

thể. Bị treo trên thập giá, Người đã thốt lên nỗi đau đớn do sự im lặng đó gây ra cho

Người: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, vì sao Ngài bỏ con” (Mc 15,34). Chính

trong thinh lặng, Đức Giêsu đã vâng phục ý Chúa Cha cho đến hơi thở cuối cùng, bước

vào bóng tối sự chết, Chúa Giêsu kêu lên cùng Chúa Cha. Người đã trao lại chính mình

cho Chúa Cha vào lúc vượt qua sự chết tiến đến sự sống đời đời: “Lạy Cha, con xin phó

linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46)168. Chính trong lúc chịu khổ nạn và chịu chết,

Chúa Giêsu đạt đến độ sâu nhất của việc cầu nguyện cùng chúa Cha khi nói lời “Xin

vâng” tuyệt đối tuân theo ý Chúa Cha định cho Ngài, đồng thời cho thấy làm thế nào để

ý muốn của con người được nên trọn trong sự tháp nhập hoàn toàn với ý Thiên Chúa,

chứ không phải ngược lại169.

Còn đối với tu sĩ, thinh lặng trong cầu nguyện là phương thế giúp họ sẵn sàng

lắng nghe và đón nhận ý Chúa. Cũng như nhờ thinh lặng trong cầu nguyện, tu sĩ có

thể hoà tan niềm vui và đau khổ với nhau nơi đáy thâm sâu của cuộc sống. Thinh

lặng có thể giúp tu sĩ dám nhìn thẳng vào chính mình và nói: “Đừng sợ, ngươi có

thể nhìn thẳng vào cuộc hành trình của ngươi, nhìn thẳng vào những khía cạnh đen

tối và tươi sáng của nó, để khám phá ra con đường dẫn tới tự do thật”170.Chính nhờ

cầu nguyện trong thinh lặng mà tu sĩ luôn tìm kiếm những gì thuộc về Chúa, những

gì làm đẹp lòng Người. Ngay cả đó là những sự dữ, những điều xỉ nhục, đau khổ đối

với bản thân mình171. Hay nhờ lời cầu nguyện từ thẳm sâu trong hồn, tu sĩ không còn

tìm ý riêng của mình nữa, nhưng chỉ tìm thánh ý Thiên Chúa, cho dù thánh ý của

Người có trái ngược với ý muốn tầm thường của họ và thường làm cho họ khổ sở172.

Lúc đó tu sĩ cùng với Đức Giêsu thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “Cha ơi, nếu được,

xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”(Mt

26,39).

3. Hiệp thông với cộng đoàn

Ngay từ nguyên thuỷ, nền tảng của sự hiện hữu nơi con người là con người

sống với con người. Vì con người là một hữu thể của sự gặp gỡ, chia sẻ; con người

168 x. Bênêđictô XVI, Cầu Nguyện Trên Nền Tảng Thánh Kinh. Tập II: Tân Ước. Chuyển ngữ và biên soạn: Vương Nghi - Khổng Thành Ngọc, Nxb Tôn Giáo, tr. 103-104. 169 x. Bênêđictô XVI, Cầu Nguyện Trên Nền Tảng Thánh Kinh. Tập II: Tân Ước. Chuyển ngữ và biên soạn: Vương Nghi - Khổng Thành Ngọc, Nxb Tôn Giáo, tr. 111. 170 x. Lm Henri Nowen. Phỏng dịch: Lm. Dominic Thuần,SSS, Chén Cuộc Đời. Tủ sách Eymard, tr. 69. 171 x. Lm. Vũ Văn Tự Chương, Từ Suy Niệm Đến Chiêm Niệm, Nxb Phương Đông, tr. 55. 172 x. Lm. Vũ Văn Tự Chương, Từ Suy Niệm Đến Chiêm Niệm, Nxb Phương Đông, tr. 92.

Page 67: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

67

là một hữu thể sống với người khác trong thế giới và để xây dựng thế giới. Điều

quan trọng hơn, con người được sinh ra là những anh em với nhau, con cùng một

Cha trên trời. Tuy nhiên, con người là tạo vật bất toàn, vì thế luôn luôn hướng tới sự

toàn thiện. Do đó, con người luôn sống và cần đến sự tương trợ, liên đới và hiệp

thông với nhau173. Tu sĩ cũng vậy, họ cũng là người như bao người khác, vẫn mang

trong mình những yếu đuối, bất toàn của kiếp nhân sinh. Vì vậy, họ cũng cần đến sự

tương trợ, bao bọc của người khác và cộng đoàn. Vì chính lúc hiệp thông với cộng

đoàn mà người tu sĩ được chia sẻ những khó khăn và được thông cảm, nâng

đỡnhững yếu đuối của mình, cũng như được kín múc sức mạnh và lòng tín thác ngay

trong lòng cộng đoàn, để có sức mạnh vượt qua khó khăn và đau khổ trong cuộc đời.

Nhờ hiệp thông với cộng đoàn qua việc chia sẻ những khó khăn và yếu đuối, để xin

được giúp đỡ và cầu nguyện, thì ví được như xi-măng kết dính với cát và đá. Chính

nơi cộng đoàn mà tu sĩ khám phá ra được lời mời gọi nối kết lẫn nhau và tạo nên sự

hiệp nhất, và là nguồn yêu thương, sức mạnh, để trung thành và thực thi các ân huệ

của mình, cho dù có phải đối diện với phong ba bão táp của cuộc đời174. Cũng vậy,

qua cộng đoàn và nhờ cộng đoàn, tu sĩ được hiệp thông trong Chúa. Họ cùng nhau

đến với Chúa trong sự hiệp thông và giúp nhau để hoàn tất hành trình ơn gọi. Không

có mối dây hiệp thông với cộng đoàn, tu sĩ không thể trung thành với đặc sủng, linh

đạo và sứ mạng của họ. Họ cần cộng đoàn nâng đỡ trong những lúc khó khăn, đau

khổ và chán nản, để tiếp tục kiên vững dấn thân175. Tóm lại, nhờ hiệp thông trong

cộng đoàn, tu sĩ trưỡng thành trong chiều kích thiêng liêng và có đủ sức mạnh để

dám đối diện, vượt qua những đau khổ, thách đố trong cuộc đời dâng hiến và vượt

thắng chính mình.

173 x. Hội Dòng Xitô Thánh Gia. Hạt Giống Chiêm Niệm, Cội Nguồn Hy Vọng, 2008, tr. 147. 174 x. Jean Vanier, Đời Sống Công Đoàn, Cộng Đoàn, Nơi Tha Thứ Và Mừng Lễ, Nxb Fleurus/ Bellarmin, Lưu hành nội bộ. Người dịch: Lm Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ, tr. 398. 175 x. Vũ Thị Thu Thuỷ, Tình Bạn Trong Cộng Đoàn Thánh Hiến, Nxb Phương Đông, 2014, tr. 137-139.

Page 68: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

68

X. TU SĨ ĐÓN NHẬN ĐAU KHỔ TRONG SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA NHƯ THẾ NÀO?

1. Đau khổ, một phương thế để tu sĩ loan báo Tin Mừng

Sự đau khổ của Đức Kitô biến đổi sự đau khổ của tu sĩ đang mang trong mình:

cho nên giữa thế giới tục hoá và hưởng thụ, tu sĩ đau khổ sống như một chứng nhân,

như một ngôn sứ không ngừng nói lên rằng con người được sinh ra là để hướng về và

dành cho đời sống vĩnh cửu, từ những đau khổ và bất hạnh của đời này.

Thật vậy, tuyệt đại đa số những người sống ở đời này thường tỏ ra quá gắn bó

với đời sống tạm bợ ở đời này và xem nó như là cùng đích. Vì vậy, họ không ý thức

được rằng sự gắn bó này chỉ dẫn đến diệt vong. Con người vẫn tin có Thiên Chúa- một

Thiên Chúa mà họ có thể kêu cầu trong trường hợp khẩn cấp hay bất lực - nhưng họ hy

vọng sẽ không bao giờ phải sử dụng đến Thiên Chúa. Trên lý thuyết, con người tin rằng

Thiên Chúa là nguồn cội và cùng đích của hạnh phúc, nhưng bao lâu họ còn bám víu

được hạnh phúc tạm bợ nơi trần gian này, họ không cần tới Thiên Chúa.

Tu sĩ đón nhận đau khổ và bệnh tật với một lòng yêu mến vì Đức Kitô, có vai trò

nhắc mọi người hay rằng, hạnh phúc con người quả thật mỏng manh và ta mang trong

mình một sự “thiếu thốn” mà cuối cùng ta sẽ khám phá ra. Ngày mà ta đối diện với

Thiên Chúa, ta chỉ có thể tiến dâng Người một cái gì đó nhỏ nhoi mà ta còn giữ lại được

nhờ hoa trái của đau khổ. Bên cạnh đó, họ cũng giúp ta tìm lại được tinh thần mà ta phải

có khi sống ở trần gian: tiền tài, vật chất, danh vọng, quyền thế và ngay cả trái đất này

đều không phải là Thiên Chúa chúng ta thờ, và kho báu đích thực ta phải tìm kiếm chính

là Đức Kitô. Và đây là điều ta có thể gọi là vai trò loan bào Tin Mừng của những người

đau khổ. Thiên Chúa dùng họ để nói với mọi người rằng, đời sống trần gian chỉ là đời

tạm và mọi người đang trên đường tiến về đất hứa để được an nghỉ trong bình an của

Thiên Chúa. Người đau khổ, bệnh tật luôn sống trong sự phó thác vào Thiên Chúa là

con người sống trong sự thật. Phúc thay ai chịu đau khổ ở đời này!

Cũng như Đức Kitô chết trên thập giá, tu sĩ đau khổ và bệnh tật là người bất lực,

nhưng họ có khả năng nói cho mọi người biết rằng thật là lầm lẫn nếu họ gắn bó với thế

gian, vì chính thế gian ngăn cản họ đến cùng Thiên Chúa. Chính đau khổ và bệnh tật

cũng thanh luyện, thánh hoá, biến đổi tu sĩ đang mang trong mình bệnh tật, cũng như

người khỏe mạnh khi họ hiểu được sứ điệp của người bệnh. Có biết bao nhiêu đấng

thánh trong cuộc đời dâng hiến đã hiểu được ý nghĩa của đau khổ- đặc biệt là đau khổ

của những người vô tội - và đã trở thành chứng nhân loan báo Tin Mừng của Thánh

Thần. Emmanuel Mounier - một nhà văn, một nhà triết học Kitô giáo người Pháp - nhìn

Page 69: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

69

đứa bé mới lọt lòng mẹ đã bị viêm não và bị mù, đã thốt lên những lời đầy xúc động

như sau: “Không, đây không phải là một sự may rủi, một tai họa…Một ai đó đã đến với

ta và không hẳn đã mang cho ta điều bất hạnh… Ta hãy cúi nhìn thinh lặng trước mầu

nhiệm non trẻ này và hãy để niềm vui xâm chiếm ta… Từ sáng tới chiều, ta đừng nhìn

trẻ thơ này như một cái gì đã bị người ta cướp mất, nhưng một cái gì mà ta dâng hiến

để Đức Kitô không phải làm việc một mình… Không gì giống Đức Kitô cho bằng một

trẻ thơ vô tội phải chịu đau khổ…” (E. Mounier và thế hệ của ông, Paris 1940). Người

tu trì cũng vậy, khi họ đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, họ trở nên giống Ngài và loan báo

cho mọi người Đức Kitô khổ nạn và phục sinh176.

Tóm lại, tu sĩ khi chấp nhận Mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Kitô

(x. 2Cr 4,10), thì họ đã biểu lộ quyền năng Phục Sinh của Đức Kitô nơi thân mình, và

trong trường hợp này, những người tu trì trở thành khí cụ cho việc loan báo Tin

Mừng177.

2. Đau khổ, một bằng chứng tình yêu của tu sĩ đối với Thiên Chúa

Sự phát triển tình yêu là một sự phát triển trong nỗ lực và đau khổ. Đức ái

vốn cao sang vô tận, lên tới Thiên Chúa huy hoàng, vốn trải rộng vô biên, lan khắp

toàn thể nhân loại, vốn đang tiếp diễn trong thời gian và phóng tới vĩnh cửu, nhưng

nó lại đặt nền móng trên đau khổ mà Thiên chúa đã chấp nhận trong sự hiệp thông

với đau khổ của Đức Kitô178.

Khi vào trần gian, Đức Kitô đã thân thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, này con đây,

con đến để thực thi ý muốn của Cha” (Dt 10,7). Ý muốn đó, Ngài đã thực hiện đến “đổ

mồ hôi máu” và kinh hoàng tới mức, phải thân thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, nếu

có thể được, xin cho con khỏi uống chén này” (Lc 22,42a). Xin như thế, nhưng Ngài

vẫn sẵn sàng trong tư thế vâng phục: “Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”

(Lc 22,42). “Ngài vâng phục và vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8).

Đau khổ, với Đức Kitô, thực là bằng chứng nói lên tình yêu của Ngài với Chúa Cha và

với nhân loại179. Ngài yêu không chỉ bằng lời nói suông, nhưng bằng hành động cụ thể.

Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá chính là lời tỏ tình trọn vẹn nhất dành cho con

người180. Có thể nói, qua đau khổThập Giá, Thiên Chúa chứng minh cho nhân loại thấy

176 x. Con Người Và Những Vấn Đề Của Con Người Trong Ánh Sáng Đức Kitô, tr. 150-151. 177 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007, tr. 110. 178 x. Joseph-Louis Lebret, Tình Yêu Không Biên Giới, tr. 120. 179 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007, tr. 91-92. 180 x. Thiên Phúc, Tình Yêu Mạnh Hơn Sự Chết, 30 Câu Chuyện Suy Niệm Và Cầu Nguyện, Nxb Tôn Giáo, tr. 61.

Page 70: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

70

rõ Người là Tình Yêu, một tình yêu sẵn sàng hy sinh hiến mạng sống mình, vì thế hy lễ

Thập Giá không là bằng chứng cao cả nhất của tình yêu hay sao181?

Vì vậy, khi đón nhận đau khổ làm cho tu sĩ nên giống Chúa Giêsu; nó cũng cho

những người sống đời tận hiến vô số dịp, để tỏ lòng họ yêu mến Ngài. Không ai nghĩ là

còn nhiều cách khác để chứng tỏ tình yêu ấy. Đức vâng lời, trong sạch, khiêm nhường,

yêu anh em, hết mọi nhân đức đều là cách biểu lộ tình yêu. Cũng vậy, việc chiêm niệm,

hoạt động tông đồ, việc bác ái, lần lượt mang đến cho tu sĩ những dịp để biểu lộ tình

yêu và tỏ ra cho Chúa Giêsu thấy họ yêu Ngài đến thế nào. Nhưng linh hồn yêu nồng

nhiệt lắm, thật say yêu Thiên Chúa, cảm thấy một cách tự phát rằng: sự đau khổ dưới

thiên hình vạn trạng có lẽ là phương tiện tốt nhất để tỏ tình yêu. Thánh Gioan Thánh

Gía khi được Đức Giêsu hỏi, con muốn Ta thưởng cho cái gì. Thánh nhân trả lời: “Lạy

Chúa, chịu đau khổ và chịu khinh dể vì Chúa”. Còn nhà chiêm niệm cao siêu Avila kêu

lên: “Chịu khổ hay chết”. Madalena de Pazzi lại thưa: “Không chết, nhưng cứ tiếp tục

chịu đau khổ”. Và gần hơn với thời đại chúng ta, chị thánh nhỏ Lisieux đã sung sướng

thốt lên: “Tôi đã đến mức không chịu khổ được nữa rồi, vì mọi đau khổ đã thành vui

sướng cho tôi”.

Yêu chính là ban mình đi; vậy thì tu sĩ càng yêu nhiều thì càng ban mình đi

nhiều. Làm sao người ta có thể ban mình đi cách hữu hiệu và ý nghĩa, nếu không qua

con đường nhẫn nhục chịu đau khổ, tìm khổ, yêu khổ vì người yêu? Yêu cũng còn

quên mình đi. Khi người dâng hiến bỏ mình ra một bên vì người yêu, thì họ càng

yêu nhiều hơn, thế thì làm sao họ có thể quên hẳn mình, nếu họ không yêu đau khổ

vì Chúa Giêsu, là Đấng tình quân của họ?

Yêu là một hy sinh, một hành vi sát tế chính mình. Còn có việc sát tế bản thân

nào đẹp và cao cả hơn sự chịu đau khổ với tinh thần vì lòng yêu mến Đức Kitô!182 Hay

có thể nói, tình yêu được diễn tả trọn vẹn nhất qua thành ngữ “cho đến tận cùng của tình

yêu”, đó là nỗi đau trong cái chết, và cái chết đi của bản thân trong sự đau khổ183. Cũng

như thánh Aloisio Gonzaga dạy: “Người nào muốn yêu mến Thiên Chúa, mà không

muốn vì Người mà chịu đau khổ, thì không thể yêu Người cách chân chính”184. Còn

thánh Gioan Thánh Giá trong bài ca sốt mến, ngài viết: “Ai không qua kinh nghiệm khổ

đau, trong thung lũng u sầu này, thì sẽ chẳng hiểu gì về điều tốt lành, cũng như không

181 x. Dom Andre Gozier, Thập Giá Sự Điên Rồ Của Thiên Chúa. Lưu hành nội bộ. Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Thuỷ, Lagi - Bình Thuận, 2010, tr. 11. 182 x. Paul Jaegher. S.J, Đức Ái . Chuyển ngữ. Lm. Bênađô Maria, C.M.C, tr. 147-150. 183 x. Tác giả: Guy Joal. Chuyển Dịch: Trần Khánh Hưng, AA., Tình Yêu Và Đau Khổ, Nxb Tôn Giáo, 2007, tr. 65. 184 Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật. Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa, 2007, tr. 92.

Page 71: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

71

nếm được tình yêu, vì đau khổ là y phục của kẻ yêu nhau”185. Tóm lại, tình yêu chân

chính không thể lớn lên nơi tâm hồn thiếu vắng hay muốn tránh né đau khổ. Cuộc sống

chẳng ý nghĩa và đẹp đẽ gì, khi con người không chấp nhận khổ đau186. Đau khổ là con

đường và điều kiện cho tâm hồn tu sĩ chứng tỏ tình yêu, cũng như giúp tình yêu lớn

mạnh và tăng triển187. Như cha Combes nói: Khi người tu trì đau khổ vì lòng mến và

chứng tỏ tình yêu của họ, họ cũng sẽ chết vì yêu và để chứng tỏtình yêu của họ188. Cho

nên, tu sĩ phải can đảm để thốt lên như chị Claire: “Lạy Chúa, con muốn chịu đau khổ,

muốn như điên cuồng, sẵn sàng khước từ mọi thú vui, dù là thú vui được phép, để tỏ

lòng con yêu mến Chúa”189.

3. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ nên giống Đức Kitô và bổ túc những gì còn thiếu sót nơi Nhiệm Thể của Ngài

3.1. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ nên giống Đức Kitô

Khi yêu nhau, hai người tự nhiên muốn nên giống nhau, giống nhau từ lời ăn

tiếng nói, đến các cử chỉ, ăn mặc…Cũng vậy, tu sĩ mến Chúa và yêu Chúa thật sự thì họ

cũng muốn nên giống Chúa. Vậy họ phải làm gì để được nên giống Chúa? Phải chăng,

là họ phải sống như Đức Kitô đã sống?

Đức Kitô đã sống một cuộc đời đau thương khổ não, trăm đường phiền muộn.

Từ khi giáng thai trong lòng Đức Mẹ, cho đến khi chịu chết trên thánh giá và an táng

trong mồ, không giây phút nào là không đau khổ, thiếu thốn: “Con cáo có hang, con

chồn có tổ, Con Người không có nơi tựa đầu” (Mt 8,20). Chính Chúa đã phán về mình

như thế. Khổ hơn nữa, là vì Chúa có thể sống một cuộc đời lộng lẫy, giàu sang phú quý,

tránh được hết mọi sự đau khổ, nhưng vì yêu thương con người và vì muốn chia sẻ kiếp

người mà Ngài đã tự chọn lấy một cuộc đời tràn ngập đau khổ. Chúa đã biến thành

“Người đau khổ”(Tv 21,7). Vì vậy, tu sĩ muốn nên giống Chúa, thì chỉ có một con

đường phải theo là con đường đau khổ, con đường thánh giá, con đường chông gai, con

đường đi đến chỗ chết, chết dần chết mòn… đó là con đường mà tu sĩ phải đi theo. Nếu

người tu trì đi con đường khác thì thế nào cũng lạc190. Tóm lại, đau khổ đặc biệt cần

thiết cho tu sĩ quy về chỉ một mình Chúa Giêsu, bởi vì tu sĩ phải chịu đau khổ nhiều nếu

185 Đức Ái Ngọt Ngào. Đan Viện Phước Sơn, Những Bài Tĩnh Tâm Năm, 2010. Lưu hành nội bộ, tr. 195. 186 x. Lm Thái Nguyên, Những Cánh Hoa Tâm Linh. Cuộc Sống Với Những Tương Quan, 2007, tr. 133. 187 x. Dom Andre Gozier, Thập Giá Sự Điên Rồ Của Thiên Chúa. Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Thuỷ, Lagi - Bình Thuận, 2010. Lưu hành nội bộ, tr. 98. 188 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 228. 189 Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007, tr. 92. 190 x. Lm. Antôn Nguyễn Văn Tuyên+DCCT, Ý Nghĩa Sự Đau Khộ, tr. 153-156.

Page 72: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

72

họ muốn Chúa chiếm hữu họ hoàn toàn. Chính đau khổ làm cho người tu trì dấn thân

theo Chúa trở nên giống Chúa hơn. Một vị hôn thê của Chúa Giêsu phải giống như

Giêsu191.

3.2. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ bổ túc những gì còn thiếu sót nơi Nhiệm Thể của Đức Kitô

Vì ơn cứu độ của loài người Chúa Giêsu đã tự huỷ chính mình và chịu đau

khổ đến tột cùng. Chúa để cho mình bị nghiền nát bởi đau thương và chết đi bởi

những vết thương đẫm máu. Nhưng công cuộc cứu chuộc chưa hoàn tất. Nó còn kéo

dài bao lâu còn có những linh hồn cần được cứu độ. Chúa Kitô tiếp tục công việc

này qua những chi thể của Thân Thể Mầu Nhiệm Người192. Thánh Gioan Eudes nói:

“Chúng ta phải tiếp nối và hoàn thành nơi bản thân chúng ta các giai đoạn của

cuộc đời Chúa Giêsu và các mầu nhiệm của Người, và thường xuyên cầu xin Người

hoàn tất và kiện toàn những điều ấy nơi chúng ta, cũng như nơi toàn thể Hội

Thánh... Vì Con Thiên Chúa có ý truyền thông, mở rộng và tiếp tục các mầu nhiệm

của Người trong chúng ta và trong toàn thể Hội Thánh Người, nhờ các ân sủng

Người thông ban cho chúng ta và nhờ những hiệu quả của các mầu nhiệm Người

thực hiện nơi chúng ta. Theo phương thế đó, Người muốn hoàn tất các mầu nhiệm

của người nơi chúng ta”193. Hay như đức giáo hoàng Gioan Phaolô II nói trong tông

thư Salvifici Doloris (Ý Nghĩa Đau Khổ Theo Kitô Giáo) như sau: “Đấng cứu thế đã

chịu đau khổ thay con người và vì con người. Mọi người cách này hay cách khác

đều tham dự vào công trình cứu độ. Mỗi người được mời gọi tham dự vào sự đau

khổ, nhờ đó công cuộc cứu độ được hoàn tất. Khi thực hiện ơn cứu độ bằng đau khổ,

Đức Kitô đồng thời cũng nâng cao đau khổ của con người, đến nỗi thông ban cho nó

một giá trị cứu độ. Như vậy, qua đau khổ của mình, mọi người đều có thể tham dự

vào đau khổ cứu độ của Đức Kitô”194.

Vì vậy, từ đây các tu sĩ là những người bước theo sát con đường Đức Giêsu ở

trần gian để tiếp tụcbổ túc những gì còn thiếu sót nơi Nhiệm Thể của Ngài. Từ đây các

tu sĩ là người đau khổ cho toàn thế giới nhân loại, không những ở chiều kích không

gian, mà còn ở chiều kích thời gian nữa. Nỗi đau của họ không còn là nỗi đau của riêng

191 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 172. 192 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 174. 193 GLTHCG, số 521. 194 Đức Thánh Cha PhaoLô II, Tông Thư salvifici donoris (Ý Nghĩa Đau Khổ Theo Kitô Giáo), 1984. Số 20.

Page 73: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

73

mình, mà biến thành nỗi đau của Đức Kitô, đó là chính nỗi đau của Đức Kitô. Khi chạm

đến nỗi đau của mình, người sống đời tu trì sẽ chạm đến nỗi đau của Đức Kitô. Khi

đụng tới cuộc khổ hình của mình, tu sĩ đụng tới cuộc khổ hình của Đức Kitô, vì lẽ cả hai

cuộc khổ hình chỉ là một, và cũng giống như thân xác là dấu chỉ của hệ thống giao tiếp

(đúng hơn là biểu tượng - con người được coi là một thế giới thu nhỏ), tất cả đau khổ

của loài người đều liên quan tới đau khổ của tu sĩ. Đây đúng là tín điều về các thánh

thông công; thánh Phaolô đã chẳng nói: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình những

đau khổ đưa đến cái chết của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ

nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức

Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng

tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em”

(2Cr 10-12). Lại nữa: “Nhờ thập giá Đức Giêsu Kitô thếgian đã bị đóng đinh vào thập

giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian”(Gl 6,15).

Vì thế, những đau khổ của người dâng hiến giờ đây được liên kết với những đau

khổ của Đức Kitô, cho nên, theo một nghĩa nào đó, trở thành một với cuộc khổ nạn của

Ngài. Vì vậy, những đau khổ của tu sĩ hoàn tất mầu nhiệm khổ nạn của Đức Kitô195.

Hay như thánh Phaolô nói:“Tôi hoàn tất trong thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong

sự đau khổ của Chúa Kitô”(x. Gl 1, 24). Đức Kitô đã chịu đau khổ. Thì giờ đây, các tu

sĩ cũng là những chi thể của Ngài cũng phải thông chia phần đau khổ. Nhờ phương thế

đó, tu sĩ sẽ làm cho công nghiệp và sự đền tội của Chúa Kitô được ứng dụng cho các

linh hồn196.

4. Đau khổ, con đường đạt tới ơn cứu độ

Đã là người, ai cũng sợ hãi khi phải đối diện với đau khổ. Nhưng đau khổ thực

sự là một nhu cầu thiết yếu cho đời sống làm người. Không có đau khổ, hay thiếu vắng

đau khổ trong đời, người ta “sẽ không lớn nổi thành người”, không hoàn thành “định

mệnh” của mình, càng không thể hiểu được giá trị chân thực, sâu xa của đời sống làm

người và làm con Thiên Chúa. Đau khổ có một ý nghĩa và giá trị nhất thiết để đem lại

ơn cứu độ và hoàn thành chính mình theo Thiên ý197. Thật vậy, chính thánh Phaolô quả

quyết: “Không đổ máu, không có ơn tha tội” (Dt 9,22). Ngay Con Một của Chúa Cha,

195 x. Dom Andre Gozier, Thập Giá Sự Điên Rồ Của Thiên Chúa. Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Thuỷ, Lagi - Bình Thuận, 2010, tr. 24-25. 196 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 174. 197 x. Lm Thái Nguyên, Những Cánh Hoa Tâm Linh. Cuộc Sống Với Những Tương Quan, cuốn 1, 2007, tr. 132.

Page 74: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

74

muốn gánh lấy tội chúng ta, Chúa Cha cũng không vì thế dung tha198. Ngài vẫn phải

chấp nhận đổ máu, chết nhục nhã trên thập giá, để biến đổi thế giới, để xuất hiện trong

thế giới, để được chôn cất và bị tổn thương bởi thế giới và để cứu độ thế giới199.

Nếu sự chết của Đức Kitô trên thập giá đã bộc lộ ý nghĩa và sức mạnh cứu độ,

thì con đường đó cũng được khai triển trong đời sống tu trì, là những người muốn tiếp

bước theo Đức Giêsu một cách triệt để hơn, với một đòi hỏi dứt khoát: “Ai muốn theo

ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24)200. Đức Kitô phải qua đau

khổ, mới đạt tới vinh quang. Vinh quang của Ngài, trong cương vị Con Thiên Chúa, là

điều phát sinh từ bản tính thần linh nơi Ngài. Nhưng về phía nhân tính, Ngài đã thủ đắc

nó, bằng sự hạ mình đến quên mình và chết đau thương trên thập giá. Vì “Ngài đã vâng

lời cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã suy tôn Ngài và ban cho Ngài

một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2,8-9)201. Từ con tim bị đâm thâu của Đức

Kitô, một nguồn mạch phong phú ơn cứu độ đã trào ra và tràn xuống cho những ai

muốn thông phần vào đau khổ của Ngài. Và Ngài đã mở rộng đau khổ của Ngài, để mọi

người đều có thể tham dự vào202. Nói cách khác, khi thực hiện công trình cứu độ qua

con đường đau khổ, Đức Kitô, thực sự đã thông truyền cho đau khổ một giá trị cứu độ

đặc biệt và Ngài mời gọi mọi người nói chung và các tu sĩ nói riêng là những người theo

Đức Kitô một cách triệt để, tham dự vào công trình đó, bằng chính đau khổ của mình,

như thánh Phaolô đã từng khuyên anh em tín hữu Corintô: “Anh em hãy tôn vinh Thiên

Chúa nơi thân xác anh em” (1Cr 6,20), cũng như: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình

cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân

mình chúng tôi” (2Cr 4,10). Mỗi khi “Chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức

Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi”(2Cr 1,5)203. Vì vậy,

nhờ đau khổ và qua đau khổ, tu sĩ được thanh luyện, và được thông phần vào công cuộc

cứu chuộc trần gian của Đức Kitô. Đau khổ không chỉ có tính cách thanh luyện, mà còn

để được ơn cứu độ, như lời thánh Phaolô tâm tình: “Những gian nan thử thách Đức

Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người

là Hội Thánh” (Cl 1,24). Như thế, dâng hiến sự đau khổ là cách để tu sĩ trở nên đồng

198 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, tr. 55. 199 x. L. Patrick Carroll, S.J., Tình Yêu Chia Sẻ Phục Vụ: Những Thách Đố Cho Một Tu Sĩ, tr. 141. 200 Dân Chúa Ngày Nay, số: 113, tr. 145. 201 Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, tr. 55. 202 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, tr. 74. 203 Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, tr. 70.

Page 75: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

75

hình đồng dạng với Đấng mà họ yêu mến204. Tóm lại, đời sống tu trì là một ơn gọi để

mô phỏng sự đau khổ của Chúa Giêsu205.

Vì vậy, tu sĩ phải theo gương Đức Giêsu sống chung với đau khổ và đón nhận

nó như của lễ dâng lên Thiên Chúa nhằm cứu rỗi các linh hồn, và đem lại lợi ích thiêng

liêng cho mọi người cũng như cho chính mình… Khi chấp nhận sống hoà bình với đau

khổ là tu sĩ đã chấp nhận đi con đường của Đức Kitô, con đường qua đau khổ để đến

vinh quang: “Nếu ta đã cùng đau khổ với Đức Kitô, thì nhất định, ta cũng sẽ được

chung hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17)206. Hơn bất kỳ thứ gì khác, đau khổ là

khí cụ cứu rỗi các linh hồn và chính mình: “Không có phần rỗi linh hồn, không có hy

vọng sống đời đời nếu không do ở Thánh Giá”, hay “Hãy vác Thánh Giá và đi theo

Chúa Giêsu bạn sẽ được sống đời đời”207. Và cũng nhờ đau khổ giúp đồng hoá tu sĩ với

Đức Kitô chịu khổ và làm cho tu sĩ trở thành những cộng sự của Ngài trong chương

trình cứu chuộc208.

204 x. Dom Andre Gozier, Thập Giá Sự Điên Rồ Của Thiên Chúa. Đan Viện Xi tô Thánh Mẫu Châu Thuỷ, Lagi - Bình Thuận, 2010. Lưu hành nội bộ, tr. 98. 205 x. L. Patrick Carroll, S.J., Tình Yêu Chia Sẻ Phục Vụ: Những Thách Đố Cho Một Tu Sĩ, tr. 138. 206 x. Dám Đối Diện. Hội Dòng Xit ô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, số 9, 2010, tr. 105. 207 Lm. Le Ba Tu, Gương Chúa Giêsu, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2009, tr. 232. 208 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 227.

Page 76: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

76

XI. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH

Kitô hữu là người mang trong mình niềm tin vào Đức Kitô và là người mô phỏng

cuộc sống của Ngài. Vì vậy, họ phải xác tín rằng: qua đau khổ mới tới vinh quang, hay

thập giá là vinh quang của ta. Theo nghĩa nào đó, người kitô hữu nói chung và người tu sĩ

nói riêng, là những người thuộc về Đức Kitô thì phải mặc lấy Đức Kitô: “Tôi sống nhưng

không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20a). Nhất là chính Đức Kitô

đòi hỏi gắt gao đối với những ai muốn theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính

mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Thập giá chính là những hy sinh,

bắt bớ, đau khổ, chúng ta gặp trong cuộc đời dương thế.

Đã mang kiếp trần ai, thì con người phải đối diện với đau khổ, tuy nhiên mỗi người có

một cái nhìn và có cách phản ứng khác nhau. Người thiếu lạc quan, không tin tưởng, thiếu lòng

phó thác vào Thiên Chúa thì khi gặp đau khổ dễ dẫn tới oán trách, thất vọng, buông xuôi… làm

cho đau khổ trở nên nặng nề hơn, làm cho phận đời hẩm hiu và bi ai hơn. Trái lại, người có niềm

tin sắt đá, lòng cậy vững vàng vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, khi gặp thử thách, đau

khổ họ vẫn bình tĩnh để đón nhận, nhất là họ có thể thăng hoa các đau khổ đó trong sự kết hợp

với đau khổ của Đức Kitô trên Thập giá. Cho dù có những lúc không thể giải thích được tại sao

mình đau khổ? Bởi vậy, bao lâu tu sĩ còn chưa hiểu được giá trị, ý nghĩa của đau khổ, chưa cảm

nếm được vị ngọt trong đau khổ, cũng như chưa kết hợp đau khổ của mình với đau khổ của Đức

Kitô Thập giá, thì bấy lâu tu sĩ chưa thực sự là môn đệ đích thực của Đức Kitô. Vâng, chính Đức

Kitô là Thiên Chúa thật, Ngài được sinh bởi Chúa Cha, Ngài hiện hữu từ đời đời, quyền năng,

phép tắc vô cùng, là Đấng vô tội (trong kinh tin kính). Thế nhưng tại sao Ngài đã trút bỏ vinh

quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế? (x. Pl 2, 6-11). Không những vậy, Ngài còn

đón nhận sự ngược đãi, khinh chê, nhạo báng, tra tấn, hành hung, nhất là chết nhục nhã trên

Thập giá. Chính đức giáo hoàng Lêo Cả đã tôn vinh với cả tâm hồn về cái chết của Đức Giêsu,

khi nói: “Lạ lùng thay, quyền năng của cây Thập giá, nói sao cho cùng, vinh quang cuộc thương

khó! Đây vừa là toà phán xét của Thiên Chúa, vừa là bản án cho thế gian, vừa là quyền năng

của Đấng chịu đóng đinh”.

Xã hội ngày nay đang bị tha hoá bởi một “nền văn minh sự chết” (Đức thánh cha

Phaolô II, Thông Điệp Tin Mừng Sự Sống), con người lấy hưởng thụ làm lẽ sống, tôn vinh chủ

nghĩa cá nhân làm cùng đích. Vì vậy, họ chủ trương: “Chơi cho liễu chán hoa chê, cho lăn lóc

đá, cho mê mẩn đời” (Nguyễn Du). Với một ý thức hệ như vậy, còn đâu cho tinh thần hy sinh

ngự trị? Họ thích được phục vụ hơn là phục vụ, muốn đầy đủ tiện nghi vật chất hơn là hy sinh

chấp nhận trong sự thiếu thốn, họ lao mình vào những thú vui vô bổ như: đi bar, thuốc lắc, ma

tuý, mại dâm… Vì vậy, tinh thần hy sinh hãm mình và khổ chế trong Tin Mừng đòi hỏi, đó là

Page 77: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

77

những điều nghịch lý và xa xỉ, là một điều gì đó phi lý và hoang tưởng209. Nhưng theo tinh

thần Kitô giáo, khổ chế và hy sinh là con đường cho tu sĩ bước theo Đức Kitô một cách triệt để

hơn, làm chứng cho mọi người biết “con tim chỉ thuộc về một mình Đức Kitô, cũng như không

lấy gì hơn tình yêu Đức Kitô, hay Đức Kitô là hạnh phúc đích thực của đời mình”, nhất là ước

mong nên đồng hình, đồng dạng với Ngài. Bên cạnh đó, hy sinh, khổ chế cũng là phương tiện

để tu sĩ cảm nghiệm, sẻ chia cảnh thiếu thốn với người nghèo khó, bất hạnh hơn mình. Con

đường đau khổ, con đường Thập giá sẽ dẫn người tu sĩ đến với Thiên Chúa. Chính Đức Kitô

đã kinh qua con đường này để thành toàn Thiên ý, mà Chúa Cha đã giao phó cho Ngài. Là

môn đệ Đức Kitô, tu sĩ cũng phải theo vết chân Thầy Chí Thánh của mình “Chính Thầy là con

đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga

14,6).

Các thánh là những người đã đi hết chặng đường mà Đức Kitô đã đi, và đã để lại

cho chúng ta những kinh nghiệm quý giá. Như thánh Têrêxa Hai Đồng Giêsu đã nói:

“Chúng ta hãy ôm chầm lấy đau khổ”210, và thánh nữ còn nhấn mạnh thêm rằng“con luôn

cố gắng yêu mến sự đau khổ và tiếp nhận nó. Khi đau khổ nhiều, khi những điều phiền

toái, đau đớn xảy đến với con, thay vì nhìn cách buồn thảm, con cố gắng tươi cười. Lúc

đầu con không thành công trong việc này nhưng bây giờ nó đã trở thành thói quen. Con

chịu đựng nhiều vì con đang sống trên dương gian, nhưng nếu trong thời thơ ấu, con chịu

đựng bằng sự buồn nản. Giờ đây con chịu đựng bằng hoan lạc và bình an. Con thật sự

hạnh phúc chịu đau khổ”211. Thánh Phaolô nói một cách hùng hồn hơn: “Ước chi tôi

chẳng hãnh diện điều gì, ngoài Thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Gl 6,14). Ngài

nói tiếp: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt

nghèo vì Đức Kitô” (2Cr 12,10a).

Như vậy, ta có thể xác tín rằng: phải trải qua đau khổ mới đạt tới vinh quang, cuối con

đường đau khổ cánh cửa hạnh phúc sẽ mở ra, đó là quy luật của cuộc sống hằng ngày, cũng

như điều phải có dành cho những ai muốn tiến vào Nước Trời. Ví như nhà nông muốn có một

mùa gặt bội thu thì cũng phải, đắng cay, vất vả, giãi nắng dầm sương:

“Cày đồng đang buổi ban trưa, mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi bưng bát cơm đầy,

dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. (Ca dao Việt Nam).

209 x. Lm. Hồng nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, tr. 3. 210 Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 173-174 . 211 Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 223.

Page 78: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

78

Một vận động viên muốn đạt được thứ hạng cao nhất, đứng trên bục vinh quang, thì

trước đó họ phải khổ luyện ngày đêm, kiêng cự đủ điều. Thật vậy, không có đau khổ không có

ngày vinh quang, không có đổ lệ không có tiếng cười… Bên cạnh đó, đau khổ cũng sẽ giúp tu

sĩ biết yêu thương, chia sẻ, và biết cảm thông với người khác. Nhất là nhận ra thân phận yếu

đuối, mỏng giòn của mình, để khiêm tốn cầu xin ơn trên phù giúp, biết cậy trông vào ơn Chúa,

chứ không phải cậy trông vào sức mạnh của chính mình. Đau khổ cũng là phương dược đào

luyện tu sĩ phát triển cá tính, sự khôn ngoan, lòng can đảm. Đau khổ không chỉ huấn luyện cá

tính con người, nhưng còn cần cho sự liên đới, lòng thương xót với người khác. Như thế, đau

khổ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cộng đồng nhân loại.

Qua đau khổ mới biết được ai là người có đức tin vững mạnh, ai là người yêu mến

Thiên Chúa thực sự. Vì vậy, tu sĩ phải là người biết vui mừng đón nhận mọi đau khổ trong

cuộc sống, như thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Bổn phận của tâm hồn quảng đại là say yêu

đón nhận những nghịch cảnh và những đau buồn một cách dũng cảm, là chịu đựng những thử

thách. Nhưng tốc độ của sự dũng cảm và dấu hiệu của một linh hồn tỉnh thức vượt trên mọi

tình cảm nhân loại, là biết ơn Đấng đã cho thử thách xẩy đến”212.

212 J. Gatlot, Đấng Chiến Thắng Nhờ Đau Khổ, tr. 39.

Page 79: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

79

KẾT LUẬN Để kết luận, xin được mượn lời của một tác giả trong cơn khốn quẫn đã thốt lên rằng:

“Hằn sâu trên định mệnh làm người là hai tiếng đau khổ, kể từ khi cất tiếng khóc chào đời.

Hằn sâu trên bộ mặt thế giới là chiến tranh, hận thù, nghèo đói, bệnh tật, tai ương nối tiếp.

Hằn sâu trên trái tim của mỗi người Công giáo, là những khắc khoải day dứt tìm kiếm lời giải

thích cho những hệ luỵ khổ đau tràn ngập trong đời sống”213. Đúng vậy, ai trong chúng ta

cũng đã hơn một lần có kinh nghiệm về đau khổ, vì đau khổ như một phần của cuộc đời. Dù

muốn, dù không, đã mang kiếp phàm nhân thì ai ai cũng phải đối diện. Tuy nhiên, vấn đề là ta

tích cực đón nhận, và tìm ra nơi đau khổ ấy một ý nghĩa, hay chúng ta thất vọng, buông xuôi,

để mặc dòng đời cuốn trôi?Con người và Thập giá là hai hình ảnh không thể tách rời trong

cuộc sống nhân sinh. Ngày nào con người còn hiện hữu ở trần gian, thì Thập giá vẫn còn đó.

Chúng ta nên nhớ rằng, con người chỉ là một thụ tạo hữu hạn, do đó, đau khổ là cái gì phải trả

của đời sống thụ tạo. Khi hiểu được điều này, chúng ta sẽ không còn thắc mắc tại sao con

người lại phải chịu đau khổ? Câu hỏi bấy giờ sẽ là: chúng ta làm gì khi phải đối diện với đau

khổ để nó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống? Có thể chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết được tại

sao chúng ta khổ bằng lý trí, hiểu biết của mình, và sẽ không bao giờ kiểm soát được tất cả

nguyên nhân của mọi đau khổ. Đó là điều chúng ta luôn luôn phải thừa nhận: “Sự dữ mãi mãi

là một huyền nhiệm mà nhân loại không bao giờ lý giải được”214. Tuy vậy, chúng ta chắc chắn

sẽ học được rất nhiều qua những kinh nghiệm đau khổ, nhất là qua các tấm gương của các

thánh để lại cho dương thế khi các ngài đối diện với đau khổ như thế nào.

Nhờ kinh qua đau khổ, chúng ta mới học được bài học trắc ẩn, cảm thông, giúp đỡ,

thương yêu và cùng đồng hành bên những người bất hạnh, cùng họ xây dựng một thế giới hoà

bình, huynh đệ và công bằng hơn. Nhất là giúp chúng ta nhận ra rõ hơn giá trị đích thực của

đời mình, cũng như biết được mối tương quan của mình… Có thể đau khổ chặn đứng những

bước chân của chúng ta, nhưng lại thúc đẩy chúng ta dám đương đầu với những thực tại trong

chính bản thân và trong môi trường sống.

Trong khi chúng ta tìm hết cách để thoát khỏi đau khổ, còn các thánh lại hướng chúng

về Đức Kitô. Trong sự kết hiệp với Đức Kitô, các thánh không còn đau khổ một mình, nhưng

đau khổ của các ngài là đau khổ của Đức Kitô và ngược lại đau khổ của Đức Kitô là đau khổ

của các ngài. Mọi sự đối với các ngài trở thành thân thiết hơn, nếu không thể tránh được. Có

thể nói, các ngài sống trong niềm vui Chúa Kitô giữa các thử thách và đau khổ. Như một hệ

213 Giuse Đinh Thanh Bình, lạy Chúa! Tại Sao Ngài Im Lặng?Tủ Sách Dân Chúa, 1995, tr. 9. 214 x. Tông Thư Đau Khổ Cứu Độ, Đức Gioan Phaolô II gửi cho toàn Giáo hội nhân lễ Đức Mẹ Lộ Đức, ngày 11-201984.

Page 80: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

80

quả, giờ đây, khi chúng ta muốn tìm thấy niềm vui trong Chúa Kitô, chúng ta phải thay đổi

đường lối của mình qua việc bắt chước các thánh bằng lòng, khao khát chịu đau khổ để cộng

tác vào việc đem lại ơn cứu độ thay vì tìm cách tránh né, than thân trách phận khi gặp đau khổ.

Cần phải xác định lại rằng, ngay từ đầu Thiên Chúa không tạo nên đau khổ và sự dữ-

tột đỉnh là cái chết – Ngài cũng chẳng vui gì khi sinh vật tiêu vong; Ngài dựng nên muôn vật

cốt cho chúng được tồn tại. Thật vậy, Thiên Chúa tạo dựng con người để nó sống mãi, Ngài

dựng con người theo hình ảnh của Ngài. Vì vậy, chúng ta đừng đổ lỗi cho Thiên chúa. Thay vì

nói có sự dữ, nên tôi chối bỏ Thiên Chúa, chúng ta phải xác tín rằng: nhờ Thiên Chúa và trong

Thiên Chúa, tôi chiến thắng sự dữ. Chúng ta cũng phải nhìn nhận, chính bởi ác quỷ ghen

tương, và sự lạm dụng tự do của con người, mà đau khổ và sự dữ đã xâm nhập vào thế gian (x.

St 1,13-14; 2,23-24). Thiên Chúa cũng không dùng đau khổ để răn dạy con người, nhưng con

người cần phải lợi dụng đau khổ để học hỏi và thanh luyện chính mình. Chúng ta không thể

coi Thập giá như sự đối chọi nghiệt ngã của đời sống mình, nhưng phải coi như một sự tương

tác để tồn tại và hình thành chính mình trong một sự sống mới mà Chúa Giêsu đã làm nên.

Con người và Thập giá, tuy không tương đồng, tương ứng, nhưng tương khắc, tương sinh theo

cách thức của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã rời Thập giá để cho ta bước lên: không phải Thập giá của hận thù,

nhưng là Thập giá của tình yêu; không phải Thập giá của người tử tội bị ruồng bỏ trong cô

đơn, nhưng là Thập giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của Thiên Chúa. Đó là

Thập giá của niềm vui và ân phúc, Thập giá của tin yêu và hy vọng, vì được hiến thân cho

người mình yêu. Vì vậy, đau khổ đối với chúng ta giờ đây không còn là mất mát, hãi hùng, bi

thương, nhưng chúng ta đón nhận đau khổ với cả tấm lòng kết hiệp với hy tế của Đức Kitô làm

thành của lễ dâng lên Chúa Cha, để đem lại ơn cứu độ cho chính mình và nhân loại.

Thật vậy, khi chúng ta nhìn ra được ý nghĩa của đau khổ, thì chúng ta không cón coi sự

dữ và đau khổ là một điều hoàn toàn xấu, trái lại đó cũng là điều hữu ích: “Đau khổ quả là

điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 118,71). Trong Tông Thư ý nghĩa sự

đau khổ nhân loại theo tinh thần Kitô giáo, ban hành tháng 2-1984, Đức Gioan Phaolô II đã

tuyên bố: “Chúa Kitô đã dạy con người hãy mưu ích bằng đau khổ của họ và làm ích cho

những người đau khổ. Qua hai khía cạnh kép đôi này, Chúa đã mạc khải ý nghĩa trọn vẹn của

đau khổ”215. Chính đời sống của mẹ Têrêxa Calcutta đã minh họa việc sống hai khía cạnh kép

đôi này là một biểu tượng hy vọng giữa bóng tối và cảnh đói khổ đang bao trùm. Mẹ Têrêxa

dạy: “đau khổ có thể mưu ích bằng cách làm phát sinh một niềm vui đích thực nơi tâm hồn

215 Đức Gioan Phaolô II-E; x. Elieen Egan và Kathleen Egan, OSB, Biến Đau Khổ Thành Niềm Vui, tr. 17.

Page 81: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

81

người tín hữu”216. Cuộc sống của mẹ Têrêxa là một chứng từ sâu sắc về cách thức để đau khổ

có thể mưu ích cho gia đình nhân loại. Nói đến cuộc sống của mẹ Têrêxa, chúng ta không thể

không nói tới cuộc sống của Đức Giêsu, vì Ngài đã nếm mùi đau khổ, phải gánh lấy sự dữ cho

nhân loại để nhân loại được nên công chính. Sự dữ đó chính là cuộc khổ nạn, là cái chết nhục

nhã trên Thập Giá. Nhưng chính qua Thập Giá, Ngài đã bước vào vinh quang. Vậy, ước gì khi

gặp đau khổ, chúng ta biết hướng về Thập Giá của Đức Kitô để nơi đó, ta tìm thấy trong ánh

mắt của Ngài, nếu không phải là một lới giải thích về sự dữ mà mình đang gánh chịu, thì ít nữa

nơi đó ta có một sự cảm thông và bình an trong tâm hồn217.

Theo ý nghĩa đó, với niềm tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, tu sĩ giờ

đây không nhìn đau khổ với tâm thức mất mát, thất vọng, bi đát, nấm mồ giam giữ cuộc

đời…, nhưng xác tín rằng: nếu có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ có Chúa Nhật Phục Sinh; nếu

có tủi nhục, sẽ có vinh quang; nếu có chiến đấu, sẽ có chiến thắng; nếu có khao khát, sẽ có

no thoả; nếu dám chết đi, sẽ được sống lại. Vì Chúa Kitô chịu đóng đinh là niềm hy vọng

của tất cả nhân loại. “Bởi vì, nếu chúng ta chịu đau khổ nhiều với Chúa Kitô, chúng ta

cũng sẽ được chứa chan niềm an vui của Ngài” (2Cr1,5).

Như thế, đau khổ hẳn không hoàn toàn vô ích, nhưng nó đang thanh luyện con người,

và có sức mạnh cứu độ con người. Làm sao tu sĩ nhận được phúc lành ngay trong nỗi sầu đau

mất mát? Làm sao người tu sĩ bước trọn cuộc đời dâng hiến với những bước xiêu vẹo, tập tễnh

của phận người? Đó mới là điều quan trọng và ý nghĩa nhất, chứ không phải cố gắng đi tìm lý

do tại sao đời người lại phải đau khổ?

Chính lúc tu sĩ kinh nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa bên đời và thực sự Ngài

đang cùng lầm lũi đồng hành với mình trong đau khổ, thì lúc đó tu sĩ sẽ cảm nhận được trong

đau khổ và sự dữ mang một ý nghĩa và có vị ngọt của vinh quang: “Nếu cùng chịu đau khổ với

Đức Kitô, thì cũng sẽ được cùng hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17).

216 Trích mẹ Têrêxa, Ibid, tr. 18. 217 x. Jacques Lacourt, Tuổi Trẻ Đức Tin Và Cuộc Sống, Nxb Lion de Juda, 1990, Tủ sách chuyên đề, tr. 89.

Page 82: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

82

SÁCH THAM KHẢO 1. Thomas Aquinô. Tổng Luận Thần Học: Thiên Chúa Tạo Thành Và Các Thiên Thần. Người dịch Joachim Nguyên Văn Liêm. Op. 2. Augustino,Thần Luận. Người dịch. Nguyễn Đăng Trực.

3. Tủ Sách Tôi Biết - Tôi Tin. La Souffrance, Pourquoi? Đau Khổ Tại Sao? Bản tiếng Việt: Trần Thiên Ân. Antôn Và Đuốc Sáng, 2012.

4. Giuse Đinh Thanh Bình, Lạy Chua! Tại Sao Ngài Im Lặng? Tủ Sách Dân Chúa, 1995. 5. B. Bro, Quyền Lực Sự Dữ, Paris, 1976.

6. Jacques Bur, Les Editios du Cerf, Giáo Hội Nói Gì Về Nguyên Tổ (Lưu Hành Nội Bộ).

7. L. Patrick Carroll, S.J, Tình Yêu Chia Sẻ Phục Vụ: Những Thách Đố Cho Một Tu Sĩ. 8. Sư Huynh Phan Văn Chức, It Phút Suy Tư Thần Lý, Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo TPHCM, 1994. 9. Trần Thái Đỉnh,Triết Học Hiện Sinh, Nxb Văn Hoá, 2008

10. Trần Thái Đỉnh,Triết Hoc Hiện Sinh, thời mới xuất bản, Nxb Sài Gòn, 1967. 11. Durrwell, Đức Kitô, Con Người Và Cái Chết. Dịch giả: Vân Thuý.

12. C. Geffré,“La Crise Moderne Du Théisme”, Op. 13.Dom Andre Gozier, Thập Giá Sự Điên Rồ Của Thiên Chúa. Lưu hành nội bộ. Đan Viện Xit ô Thánh Mẫu Châu Thuỷ, Lagi- Bình Thuận, 2010.

14. Nguyễn Văn Hạnh. Thiên Chúa Sáng Tạo. Học Viện Đa Minh, 2005.

15. John Hick, Triết Học Tôn Giáo. Dịch giả. Lm. Nguyện Thịnh Phước. 16. Gm. Nguyễn Thái Hợp, OP, Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo. Nxb Phương Đông, 2010. 17. Irénée, Bài viết của Phạm Đại Quang, SDB.

18. Herbert MC Kayes OP. SR. MariaBolding OSB. Qua Thập Giá Đến Vinh Quang. Nxb Tôn Giáo, 2013.

19. Joseph - Louis Lebret, Tình Yêu Không Biên Giới. 20. Jacques Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo, 2008. Chuyển ngữ: Lm Trần Văn Khuê, aa. 21. George A. Maloney, S..J., Nơi Chúa Giêsu Chúng Con Tín Thác.

22. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search Of True Religion A Philosophy Of Religion. Nxb Phương Đông, 2013. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị. 23. Dominique Morin, Gọi Tên Thượng Đế, Nxb Phương Đông, 2008. Dịch giả: Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành; Luy Nguyễn Anh Tuấn. 24. Nedoncelle, “La Réciprocité des Consciens»,Paris, Aubier, 1942.

25. Lm. Nguyễn Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời. 26. Lm. Thái Nguyên, Những Cánh Hoa Tâm Linh 1.Cuộc Sống Với Những Tương Quan, 2007. 27. Lm. Hồng Nguyên. Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007.

Page 83: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

83

28. Lm. Thái Nguyên, Những Cánh Hoa Tâm Linh. Cuộc Sống Với Những Tương Quan, 2007.

29.Lm. Hồng Phúc. CSsR, Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo, mục: quan phòng. 30. Jean Potin. Đức Giêsu Tư Tưởng Và Hành Động Của Ngài, Paris, 1973.

31. Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật: Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa, 2007. 32. Thiên Phúc, Lời Gọi Yêu Thương, 30 Câu Chuyện Suy Niệm Và Cầu Nguyện, Nxb Tôn Giáo, 2011. 33. Thiên Phúc,Tình Yêu Mạnh Hơn Sự Chết, 30 Câu Chuyện Suy Niệm Và Cầu Nguyện, NxbTôn Giáo, 2011.

34. Thiên Phúc, Nữ Thánh Giữa Đời Thường. 30 Câu Chuyện, Suy Niệm và Cầu Nguyện, 1997. 35. Michel Rondet S.J., Lời Thì Thầm Của Chúa Hay Những Nẻo Đường Khác Nhau Trong Hành Trình Tâm Linh, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Đặng Xuân Thành. 36. Joseph Raszinger, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, Nxb Tôn Giáo, 2011. Người dịch. Phạm Hồng Lam. 37. Stan Rougier, Những Cuộc Hẹn Của Thiên Chúa, 2013. Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết. 38. M. Vinh sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Sáng Tạo và Quan Phòng, Đan Viện Phước Lý, 2012. 39. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, Lm. Giuse Nguyễn Hữu An, Lm. Fx Vũ Phan Long, Jac. Vũ Thế Hanh, Hậu Nhi, Hoa Trang, Tuấn Anh, Đức Giêsu Với Cái Chết. 40. Xavier Thevenot. Tội Lỗi Trình Bày Về Tội Cho Con Người Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo, 2008. 41. Xavier Thévenot, Đau Khổ Và Hạnh Phúc, Nxb Tôn Giáo, 2008.

42. Nguyễn Đăng Trực, Lý Học Về Thượng Đế, Học Viện Đa Minh. 43. Lm. Le Ba Tu, Gương Chúa Giêsu, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2009.

44. Lm. Antôn Nguyễn Văn Tuyên DCCT, Ý Nghĩa Sự Đau Khổ, 2003. 45. Gioan Phaolô II, Là Tất Cả Trong Mọi Sự, Đaminh Cao Tấn Tĩnh dịch.

46. Hoc Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, 2011. Gia Đình Têrêsa.

47. Thiên Chúa Là Cha Và Là Đấng Tạo Thành, Giáo Lý Dựa Trên Kinh Tin Kính Do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Chuyển Ngữ : Nguyễn Đức Tuyên, Ngưỡng Nhân Ấu Nhi.

48. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP, Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, 2009. 49. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sự Triết Học Tây Phương, Học Viện Đa Minh, 1998, tâp 2. 50. Hương Việt, Tôi Tin Có Một Thiên Chúa.Quyển II, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2006.

51.Hương Việt. Truyện Các Thánh, quyển III, tháng 7,8,9. Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2008. 52. John Na Vone, S.J. Thất Bại Và Tình Yêu. Những suy tu thần học về sự thất bại, Nxb Tôn Giáo, 2009. Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist Chuyển ngữ.

Page 84: hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN

84

53. Herbert Vorgrimler, dẫn nhập, tuyển chọn và giới thiệu trong bộ Texte Zur Theologie Dogmatik, Thiên Chúa Luận Qua Các Tác Giả. 54. Paul Jaegher. S.J, Đức Ái. Chuyển ngữ. Lm. Bênađô Maria, C.M.C. 55. Tác giả: Guy Joal, Tình Yêu và Đau khổ, Nxb Tôn Giáo, 2007. Chuyển Dịch: Trần Khánh Hưng, AA. 56. Mauric Zundel. Lắng Nghe Tiếng Nói Của Thinh Lặng. Uỷ ban đoàn kết công giáo TPHCM, 1993. Dịch Giả: nữ tu Nguyễn Thị Chung. 57. Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển 1, Nxb Tôn Giáo, 2008.

58. Các Bài Đọc Kinh Sách. Quyển 2, Mùa Thường Niên, tuần VI- XXXIV. Bản dịch do: Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ thực hiện. Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2008.

59. Con Người Và Những Vấn Đề Của Con Người Trong Ánh Sáng Đức Kitô (Lưu hành nội bộ).

60. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Nội San Linh Đạo Đan Tu, Dám Đối Diện. Số 9, 2010.

61. Dân Chúa Ngày Nay, số 113. 62. Di NgônCha Biển Đức Thuận (Hội Dòng Xitô Thánh Gia).

63. Đây Là Những Người Lấy Sự Đau Khổ Làm Niềm Vui: Họ Ham Mê Sự Đau Khổ Và Cố Tình Làm Cho Thân Thể Bị Đau Đớn.

64. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Giáo hoàng học viện Pio X dịch, 1974. 65. Đức Ái Ngọt Ngào. Đan Viện Phước Sơn, Những Bài Tĩnh Tâm Năm, 2010 (Lưu hành nội bộ). 66. Dân Chúa Ngày Nay, Đứng Gần Thập Giá Chúa Giêsu, số 106 (Lưu hành nội bộ). 67. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.

68. Công đồng Vatican II, hiến chế Lumen Gentium. 69. Giải Thích Thần Học. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Tạo Thành, 1996.

70.Giải Thích Thần Học, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Tạo Thành, 1995.

71. Thiên Phúc, Nữ Thánh Giữa Đời Thường. 30 Câu Chuyện, Suy Niệm và Cầu Nguyện, 1997. 72. Tài Liệu Học Tập Năm Thánh Phaolô, số 2. 73. Những Trái Khuấy Và Đôi Lời Góp Ý Về Đời Sống Tu Trì, số 24.

74. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiên Niệm, Nội San Linh Đạo Đan Tu, Thử Thách. số 7, 2009.

75. Trích trong bài “Tình Yêu Thầm Lặng Của Người Cha”. 76. Tội Lỗi Đau Khổ Theo Cựu Ước.

77. Đức Thánh Cha Phaolô II, Tông Thư Salvifici Doloris (Ý Nghĩa Đau Khổ Theo Kitô Giáo), 1984.

78. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Nội San Linh Đạo Đan Tu, Trên Nền Tảng Đức Kitô, số 10, 2011.