“Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa...

27
Bài trình bày này dựa trên kết quả của một nghiên cứu quy mô được tiến hành từ cuối những năm 1990 tại một ngôi làng miền Trung du (thuộc xã Ninh Dân, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ). Đứng trước những quan niệm văn hóa thường gắn hình ảnh nông thôn với không gian quan hệ đối lập “àng xã/thế giới bên ngoài” với những đặc trưng của “cộng đồng làng xã”, bài toán đặt ra trong khuôn khổ nghiên cứu thực địa này có thể được thể hiện dưới dạng một câu hỏi chính: nghiên cứu về làng xã - vốn được coi là một khoảng không gian mở, có nghĩa là có mối liên hệ qua lại (bổ sung lẫn cho nhau hoặc đối kháng) với các thực thể khác rộng lớn hơn hoặc hạn hẹp hơn – liệu có thể đưa đến kết luận rằng hệ thống các mối quan hệ và trao đổi giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy, làng xã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập trật tự xã hội địa phương? Việc phân tích cấu trúc gia đình kết hợp với các phương thức sản xuất cho thấy có phân đoạn lớn trong phạm vi kinh tế xã hội, tuy nhiên, phân đoạn này vẫn chịu sự chi phối của đơn vị gia đình cơ bản (hạt nhân vợ chồng). Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế xã hội thì nghiên cứu viên ắt sẽ rơi vào tình trạng đánh giá phân tán vì đã tách rời các đơn vị cơ bản, các nhóm gia đình ra khỏi môi trường thực tại hoặc tương lai của họ. Nếu ta lấy tiêu chí khoảng cách rộng hơn đối với đối tượng, ta sẽ xác định được các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng xã: xác định các mạng lưới xã hội thông qua sự lưu thông tài sản vật chất và phi vật chất” Olivier Tessier – Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO) Lời mở đầu: từ khái niệm trao đổi đến hệ chuẩn quà tặng 61 1. Làm chung: các tên gọi của sự trao đổi 64 1.1. Giúp đỡ và đổi công trong nông nghiệp: định nghĩa và các nguyên tắc 64 Trao đổi lao động hay đổi công 64 Làm giúp hay làm hộ: hai thể thức khác biệt nhau 65 1.2. Những phương thức sản xuất gia đình và làm chung 66 Tầm quan trọng của làm chung 67 Làm chung: từ vị trí cá nhân đến vị trí hộ gia đình 67 Đổi công: một sự cần thiết mang tính kỹ thuật? 68 1.3. Làm chung: giữa nghĩa vụ xã hội và làm chủ 69 Kết luận 71 2. Hệ thống giúp đỡ và quan hệ tương hỗ: giữa đoàn kết và phụ thuộc 71 2.1. Tiếp cận hệ thống thông qua hai nghiên cứu trường hợp 72 2.2. Khung chuẩn mực và tính biến đổi của hệ thống 73 Các đặc tính hình thức: một hệ thống trao đổi không-buôn bán 73 Tính biến đổi của hệ thống: sự ra đời và chấm dứt mối liên hệ phụ thuộc 74 Khả năng đòi lại phần đổi lại 75 2.3. Trao đổi - nguồn sản xuất các mạng lưới xã hội 76 2.4. Quan hệ tương hỗ: chu trình mở và liên thế hệ 77 2.5. Hình thức phái sinh của hệ thống giúp đỡ: quà tặng không cần sự qua lại như mong đợi 78 Kết luận 79 3. Hệ thống trao đổi và mạng lưới xã hội 80 Tài liệu tham khảo đã dẫn 80 Trao đổi 81

Transcript of “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa...

Page 1: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

Bài trình bày này dựa trên kết quả của một nghiên cứu quy mô được tiến hành từ cuối những năm 1990 tại một ngôi làng miền Trung du (thuộc xã Ninh Dân, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ). Đứng trước những quan niệm văn hóa thường gắn hình ảnh nông thôn với không gian quan hệ đối lập “àng xã/thế giới bên ngoài” với những đặc trưng của “cộng đồng làng xã”, bài toán đặt ra trong khuôn khổ nghiên cứu thực địa này có thể được thể hiện dưới dạng một câu hỏi chính: nghiên cứu về làng xã - vốn được coi là một khoảng không gian mở, có nghĩa là có mối liên hệ qua lại (bổ sung lẫn cho nhau hoặc đối kháng) với các thực thể khác rộng lớn hơn hoặc hạn hẹp hơn – liệu có thể đưa đến kết luận rằng hệ thống các mối quan hệ và trao đổi

giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy, làng xã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập trật tự xã hội địa phương?Việc phân tích cấu trúc gia đình kết hợp với các phương thức sản xuất cho thấy có phân đoạn lớn trong phạm vi kinh tế xã hội, tuy nhiên, phân đoạn này vẫn chịu sự chi phối của đơn vị gia đình cơ bản (hạt nhân vợ chồng). Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế xã hội thì nghiên cứu viên ắt sẽ rơi vào tình trạng đánh giá phân tán vì đã tách rời các đơn vị cơ bản, các nhóm gia đình ra khỏi môi trường thực tại hoặc tương lai của họ. Nếu ta lấy tiêu chí khoảng cách rộng hơn đối với đối tượng, ta sẽ xác định được các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.

“Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng xã: xác định các mạng lưới xã hội thông qua sự lưu thông tài sản vật chất và phi vật chất”Olivier Tessier – Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO)

Lời mở đầu: từ khái niệm trao đổi đến hệ chuẩn quà tặng 611. Làm chung: các tên gọi của sự trao đổi 64

1.1.Giúpđỡvàđổicôngtrongnôngnghiệp:địnhnghĩavàcácnguyêntắc 64 Traođổilaođộnghayđổicông 64 Làmgiúphaylàmhộ:haithểthứckhácbiệtnhau 651.2.Nhữngphươngthứcsảnxuấtgiađìnhvàlàmchung 66 Tầmquantrọngcủalàmchung 67 Làmchung:từvịtrícánhânđếnvịtríhộgiađình 67 Đổicông:mộtsựcầnthiếtmangtínhkỹthuật? 681.3.Làmchung:giữanghĩavụxãhộivàlàmchủ 69Kếtluận 71

2. Hệ thống giúp đỡ và quan hệ tương hỗ: giữa đoàn kết và phụ thuộc 71

2.1.Tiếpcậnhệthốngthôngquahainghiêncứutrườnghợp 722.2.Khungchuẩnmựcvàtínhbiếnđổicủahệthống 73 Cácđặctínhhìnhthức:mộthệthốngtraođổi không-buônbán 73 Tínhbiếnđổicủahệthống:sựrađờivàchấmdứtmối liênhệphụthuộc 74 Khảnăngđòilạiphầnđổilại 752.3.Traođổi-nguồnsảnxuấtcácmạnglướixãhội 762.4.Quanhệtươnghỗ:chutrìnhmởvàliênthếhệ 772.5.Hìnhthứcpháisinhcủahệthốnggiúpđỡ:quàtặngkhôngcầnsựqualạinhưmongđợi 78Kếtluận 79

3. Hệ thống trao đổi và mạng lưới xã hội 80Tài liệu tham khảo đã dẫn 80Trao đổi 81

Page 2: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

61Hệthốngtraođổivàtínhtươnghỗ

Việc tìm hiểu phân bố nhà ở về mặt không gian cho thấy phương thức tổ chức thường dựa vào quan hệ họ hàng, có nghĩa là quan hệ gia đình rộng mở hơn. Phương thức này được thể hiện bằng việc hình thành các “nhóm nhà ở” với quy mô và gắn kết không gian khác nhau tùy từng nhóm. Sự biến đổi về mật độ phụ thuộc trước tiên vào quy mô tổng thể của dòng họ trong làng, và trong một chừng mực nào đó, phụ thuộc vào thâm niên của dòng họ. So với tổ chức cơ bản là nhóm gia đình, cấp độ tổ chức thứ hai này còn phụ thuộc vào nguyên tắc phả hệ trực tiếp. Con cháu thường có xu hướng sống gần ông bà, và xu hướng này tạo thành các nhóm gia đình. Tuy nhiên, việc phát triển các nhóm nhà ở theo gia đình không phải lúc nào cũng mang tính liên tục, cũng có những hiện tượng tách ra hình thành các nhóm mới.Nghiên cứu hai hệ thống trao đổi giữa các đơn vị gia đình trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau cho phép đánh giá được mức độ liên kết của các nhóm gia đình này và đồng thời chỉ ra cấp độ tổ chức thứ ba : tổ chức theo xóm. Đó chính là cách làm việc theo kiểu hợp tác, được thể hiện dưới hình thức giúp đỡ nhau trong công việc đồng áng hay các công việc khác, lưu thông hàng hóa theo hình thức hệ thống quà tặng/quà tặng lại, giúp đỡ lẫn nhau nhân các sự kiện quan trọng trong đời sống của cá nhân và nhóm gia đình. Hai hệ thống này đã cho thấy tầm quan trọng của hệ thống xã hội vốn không chỉ được hình thành trên mối quan hệ họ hàng mà còn bao gồm cả mối quan hệ láng giềng và bạn bè. Sự giúp đỡ lẫn nhau trong công việc đồng áng đặc biệt làm rõ chủ đề nghiên cứu; mặc dù chúng chiếm ít thời gian cũng như không đòi hỏi nhiều yếu tố kỹ thuật, song nó cho phép thiết lập được sự gắn kết giữa các hộ gia đình trong cùng một thôn xóm. Stéphane LagréeNhư vậy đã gần một năm trôi qua kể từ khi chúng ta được nghe bài nghiên cứu đầu tiên thực hiện theo đơn “đặt hàng”1. Tôi hết sức vui mừng được gặp lại Olivier Tessier tại khóa học mùa hè năm 2008 này.

Olivier Tessier, hiện công tác tại Viện Viễn đông Bác cổ Pháp, sẽ giới thiệu cho chúng ta về các hệ thống trao đổi và tương hỗ mà ông đã tiến hành nghiên cứu ở vùng nông thôn tỉnh Phú Thọ. Một lần nữa xin cảm ơn ông đã có mặt tại đây ngày hôm nay.

Olivier TessierTôi rất vui mừng được tham gia vào khóa học mùa hè lần thứ hai tại Tam Đảo và rộng hơn nữa là tham gia vào dự án FPS2S mà tôi đã rất quen thuộc và vô cùng gắn bó. Do vậy, tôi xin được trình bày ở đây về các hệ thống quà tặng và trao đổi. Trước tiên, tôi xin có đôi lời mở đầu ngắn gọn.

Lời mở đầu: từ khái niệm trao đổi đến hệ chuẩn quà tặng

Nếu như từ đầu thế kỷ XX, khái niệm trao đổi trở nên cần thiết trong nghiên cứu về các hệ thống kinh tế của các xã hội được gọi là “nguyên thủy” hay “cổ đại”, thì chính công trình “Khảo luận về quà tặng” của Mauss2 (1924) đánh dấu một bước ngoặt mang tính quyết định. Dựa vào các công trình nghiên cứu của Malinowski (1922) và của Boas3 (1897), Mauss đã định nghĩa “quà tặng” như mọi cống nạp giữa các nhóm hay giữa các cá nhân được chế định bởi một nghĩa vụ bao hàm ba bình diện: trao, nhận và trả.Khái niệm này từ đó đã bị khước từ trong nhiều công trình nghiên cứu và là nguồn gốc của một cuộc tranh luận mang tính nền tảng xuyên suốt nhiều thập kỷ trong địa hạt các khoa học xã hội là nơi mà những người ủng hộ cho một hệ chuẩn vị lợi chủ nghĩa và những người tuyên bố ủng hộ một nhãn quan mang tính toàn luận về xã hội luôn ở thế quay lưng lại với nhau. Những người theo quan điểm vị lợi đề xuất một lý thuyết về những lựa chọn duy lý, một thứ cá nhân luận phương pháp luận, v.v., thì nhìn thấy trong tính duy lý của những lựa chọn cá nhân, động lực sản xuất các quan hệ xã hội, sự tìm

1OlivierTessier,Nghiêncứuxãhội-nhânhọc“theohợpđồng”:nhữngthônglệvàhạnchếcủađánhgiáchuyêngiatừgócđộkinhnghiệmthựcđịainLagréeStéphane(2008)đãdẫn,tr.103-123(bảntiếngViệt).[BT]

2Đượccôngbốnăm1923-1924trongtạpchíAnnéesociologique,“Tiểuluậnvềquàtặng”làmộttrongnhữngcôngtrìnhnhânhọcnổitiếngnhấtvàđồsộnhất.ĐâylànghiêncứuvềcácxãhộivùngTháiBìnhDương:Polynésie(Samoa,Nouvelle-Zélande)vàMélanésie(Nouvelle-Calédonie,Trobriand,Nouvelle-Guinée),nhữngbộlạcngườiIndienvùngduyênhảiTâyBắcchâuMỹ.[BT]

3NhânhọckinhtếvớitưcáchlàchuyênngànhnghiêncứunhânhọcđãcóthểtrởthànhhiệnthựcvàmangtínhcấpthiếtvàođầuthếkỷXXcùngvớikhámphácủaBoasvàMalinowskivềhìnhthứcpotlachởngườiIndienKwakiultvàkularingcủangườiMélanésieởđảoTrobiand.CầnphảiquaytrởlạivớiKhảoluậnCủa cải của các dân tộccủaAdamSmith(1776):“Ngượclại(vớicácdântộccònởtrongthờikỳhoangdã),trongnhữngxãhộivănminhvàphồnthịnh,thìcónhiềungườichẳnglaođộnggìcảnhưnghọlạitiêuthụsảnphẩmlaođộnggấpmười,gấptrămlầnsovớiđasốnhândânlaođộng.Thếnhưng,sốlượngsảnphẩmdolaođộngcủatoànxãhộilàmranhiềuđếnmứccóthểcungcấprấtđầyđủchomọingười.Mộtngườilaođộngchămchỉvàbiếttiếtkiệmthìcóthểđượchưởngnhữngthứcầnthiếtchođờisốngcủaanhtahơnrấtnhiềulầnsovớibấtkỳmộtngườinàotrongxãhộicònhoangdã.[bổsungcủaNhàxuấtbản][*Ndt:bảndịchtiếngViệtcủaĐỗTrọngHợptừnguyênbảntiếngAnh(AdamSmith:Củacảicủacácdântộc,NxbGiáodục,H.,1997,tr.48]

Page 3: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

62 KhóahọcTamĐảo2008

kiếm một mô hình tối ưu hóa những “lựa chọn ưu tiên”. Còn những người ủng hộ quan điểm toàn luận lại ưu tiên một tiếp cận mang tính liên kết và đạo đức hơn đối với các quan hệ con người, nguyên tắc tổ chức đời sống trong xã hội mang ít lợi ích – mà mỗi một thành phần cấu thành tìm thấy trong nguyên tắc và bảo vệ nó – hơn chính bản thân xã hội, chính từ đây đặt ra vấn đề là việc phân tích các sự kiện xã hội cần phải bắt đầu từ xã hội chứ không phải là từ cá nhân.Nếu như sự thống trị của hệ chuẩn quà tặng đã dấy lên nhiều phê phán thì những lời phê phán của Testart (2001, 2007) đã đặt ra một cái nhìn mang tính cách tân đối với các phương thức chuyển giao được gọi là trao đổi quà tặng. Tác giả nhấn mạnh hai khiếm khuyết chính:- nhầm lẫn giữa những thông lệ không có chung

bản chất, trong khi một số thực tiễn thuộc về lĩnh vực quà tặng thì một số khác lại phù hợp với những dạng thức trao đổi không buôn bán có kèm một điều khoản mang tính pháp lý và đạo đức về khả năng đòi lại;

- mâu thuẫn căn bản giữa tính chất không thể chuyển nhượng của một vật nhất định với chính việc trao một vật.

Mặc dù các phân tích rất đa dạng, song nhìn chung phần lớn những công trình nghiên cứu về quà tặng đều tập trung vào các nhóm bộ lạc hay tộc người sống bó hẹp trong một không gian xã hội xác định và mang một bản sắc riêng nổi bật, nơi không tồn tại sự phân cách rõ nét giữa lĩnh vực buôn bán và những hệ thống trao đổi không buôn bán.Vì vậy, trong lời nói đầu dành cho phần phân loại của ông về các hình thức trao đổi khác nhau, B. Malinowski

đã nhấn mạnh: “Tôi đã chủ ý dùng các thuật ngữ hình thức trao đổi, quà tặng và quà tặng lại, thay vì dùng từ đổi chác hay thương mại, vì nếu như sự đổi chác thuần túy tồn tại, thì giữa nó và món quà tặng đơn thuần là sự đan xen của cả một loạt những kết hợp trung gian và mang tính chuyển tiếp, đến mức không thể nào thiết lập được một điểm xuất phát rõ nét, giữa một bên là thương mại, và một bên là trao đổi quà tặng” (1996 (1922): 237).Trong những nhóm nhỏ hẹp hay những bộ lạc này, M. Sahlins (1965) đã xác định ba dạng tương hỗ đặc trưng cho ba kiểu quan hệ kinh tế-xã hội của sự trao đổi: “khi tương hỗ được phổ biến, cực đoàn kết mở rộng tối đa; khi quan hệ tương hỗ mang tính cân bằng, ta ở điểm trung vị; và cuối cùng, nếu không có tương hỗ, cực phi-giao tiếp xã hội trở thành tối đa.”Tuy nhiên những phân tích này không thể áp dụng vào thực tế của xã hội Việt Nam đương đại, nơi mà những quan hệ trao đổi không buôn bán chỉ là một thứ hiện tượng phụ nằm bên lề của những luồng lưu thông buôn bán. Trong các xã hội làng xã nằm trong một không gian xã hội rộng lớn, hiểu theo định nghĩa của G. Condominas thì hộ gia đình nông dân chỉ là một trong vô vàn tác nhân của các mạng lưới phụ thuộc kinh tế và chính trị mà nó gắn kết vào trong đó, một cách tự nguyện hay không, những mạng lưới mà hộ gia đình cũng chỉ có thể kiểm soát một phần cả về phạm vi lẫn hoạt động.Điểm lưu ý cuối cùng là dù khái niệm trao đổi đóng vai trò quan trọng trong để hiểu rõ các xã hội nông thôn, song các công trình nghiên cứu tập trung vào chủ đề này ở Việt Nam còn rất hiếm.

Làng Hay

Từnhữngquảđồihìnhbátúpcủatrungdu...

...đếnnhữngthunglũng

Page 4: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

63Hệthốngtraođổivàtínhtươnghỗ

Bài trình bày này xem xét hai hệ thống trao đổi dựa trên cơ sở một nghiên cứu thực địa:- Làm chung: đổi công và làm giúp, làm hộ các hoạt động ngoài nông nghiệp.- Một hệ thống giúp đỡ về vật chất cho những dịp đặc biệt.

XÃ NINH DÂN

Chú thíchĐườngĐườngsắtĐịagiớihuyệnĐịagiớixãXãNinhDânSôngHồngHồ

ĐịagiớitỉnhTỉnhPhúThọ

ĐịagiớihuyệnĐịagiới tỉnhPhúThọHuyệnThanhBa

Page 5: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

64 KhóahọcTamĐảo2008

1. Làm chung: các tên gọi của sự trao đổiTương trợ ở làng xã là một chủ đề ưu tiên trong nghiên cứu về các cộng đồng làng xã, bởi lẽ, như G. Condominas đã từng nhấn mạnh, nó diễn ra ở phần lớn các xã hội nông dân. Xã hội nông thôn miền Bắc Việt Nam cũng không nằm ngoài quy tắc này: cấy và gặt, xây nhà hay hái chè, là những hoạt động thường được người ta thích làm theo nhóm gồm các thành viên đến từ các hộ gia đình nông dân khác nhau.Theo tôi được biết, chỉ có hai tác giả (Trần Từ, 1984; Trần Đức, 1994) đã đề cập chủ đề này, song họ chỉ dừng lại mô tả ngắn gọn mà qua đó lộ ra một phong tục mang tính chất giản đơn và độc nhất. Nghiên cứu thực địa cho thấy thực tế hệ thống trao đổi được tổ chức phức tạp hơn, nhìn cả từ góc độ các quan hệ xã hội nằm trong đó, cũng như bản chất của những động cơ khiến mỗi bên đối tác tham gia vào hệ thống.

1.1. Giúp đỡ và đổi công trong nông nghiệp: định nghĩa và các nguyên tắc

Theo cách hiểu rộng rãi, việc đổi công ở làng, nhìn theo quan niệm của những người nông dân và qua thực tế họ làm, chẳng qua chỉ là một trong hai hình thức có thể của việc làm chung, mà trong đó làm giúp hay làm hộ chính là hình thức thứ hai.

Trao đổi lao động hay đổi công

Hoạt động của các nhóm đổi công dựa trên một nguyên tắc qua lại tương đương. Cụ thể, một cá nhân nhờ một người khác làm một công việc đồng áng nhất định trên phần ruộng của mình, và sau này anh ta sẽ

“trả nợ” bằng cách làm một công việc cần thời gian tương đương song tính chất công việc không nhất thiết phải như nhau.Các nhóm được hình thành chủ yếu nhằm thực hiện những công việc đồng áng gồm cấy và gặt hái theo nghĩa rộng (gặt, chở lúa, đập lúa) và, ở một mức độ nhỏ hơn là trồng các loại cây hoa màu (lạc, sắn) cũng như thu hái chè. Phần lớn các hoạt động này do phụ nữ đảm nhiệm, việc trao đổi lao động xem ra trước hết là một việc của chị em phụ nữ.Theo thông lệ, công việc nhà nông cũng như phi-nông được đánh giá theo công, một đơn vị tính tương ứng với một ngày lao động và có thể chia nhỏ đến mức nửa công, tương đương một buổi làm việc, sáng hoặc chiều.Một nhóm được hình thành khi người khởi xướng đến gặp từng người trong số những đối tác tương lai tham gia vào việc trao đổi để đưa ra yêu cầu. Cho dù từ ngữ được sử dụng ở đây không rõ ràng vì lời yêu cầu giúp đỡ được diễn tả bằng nhiều từ ngữ khác nhau (làm giúp, làm hộ) song khi việc yêu cầu đã hoàn thành thì phần đổi lại được mong đợi lại không bao giờ lập lờ, như chị Lan đã giải thích:

Dù là gặt, cấy hay là đa phần những việc nhà nông khác, khi nói “giúp” thì ngay lập tức người ta biết là nói về “đổi công”, bởi vì nếu nói thẳng ra là đổi công thì thành ra là quá đáng. Thi thoảng cũng có trường hợp ngoại lệ vì ốm đau hay sinh con mà người ta phải nhờ cậy, nhưng khi đó người ta sẽ nói thẳng ra là không thể làm trả công được và trong trường hợp này người ta sẽ làm một mâm cơm.

Ví dụ dưới đây về một nhóm đổi công gồm 7 phụ nữ thành viên sẽ minh họa những nguyên tắc chung được

GặtlúaCấylúa

Háichè

Page 6: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

65Hệthốngtraođổivàtínhtươnghỗ

trình bày ở trên. Nhóm do chị Bích lập ra để gặt trên một trong những thửa ruộng của chị (có diện tích 2 sào 7 thước1 ), công việc được hoàn thành trong nửa ngày (bằng 1/2 công).

Nếu như nguyên tắc về sự qua lại tương đương được thực thi, thì điều đó không hàm ý là người được yêu cầu phải chính là người sẽ làm trả công sau này (trường hợp chị Quyền), và cũng không phải là phần đổi lại nhất thiết phải cùng một loại việc (trường hợp chị Nam).

Tuy nhiên, thực tế thể hiện qua ví dụ trên không cho phép làm rõ hai khía cạnh quan trọng của hệ thống đổi công. Một mặt, những người tham gia không chỉ giới hạn trong việc trao đổi lao động trong nhóm đổi công và không cùng tham gia vào tất cả nhóm đổi công khác do mỗi thành viên có mặt vào ngày hôm đó tổ chức sau này. Mặt khác, chỉ có chị Bích cùng cô con gái gặt lúa trên hai mảnh ruộng còn lại của chị.Việc tồn tại các nhóm đổi công do vậy chỉ là tạm thời, trong khoảng thời gian diễn ra những công việc vốn là lý do khiến chúng được lập ra, các nhóm được tổ chức rồi lại giải tán căn cứ theo nhu cầu của mỗi người. Các mối liên hệ gắn kết thành viên của nhóm mang tính hai chiều (người yêu cầu <-> người tham gia).

Làm giúp hay làm hộ: hai thể thức khác biệt nhau

Thuật ngữ làm giúp và làm hộ, có nghĩa là “giúp đỡ”, “đem tới sự giúp đỡ của mình” chỉ ra hai phương thức của sự giúp đỡ. Chúng có những nguyên tắc vận hành tương đồng, song về lĩnh vực áp dụng lại khác biệt nhau.

a) Các hoạt động phi-nông có tính chất đặc biệtĐây có thể là việc xây cất nhà ở hay một khu phụ (chuồng bò, nhà bếp), đào ao, lợp lại mái cọ, song cũng có thể là nấu cỗ đám cưới và cỗ đám ma là những dịp có đến hàng trăm người được mời. Trong chừng mực những tiêu chí về sức lực và/hoặc khả năng riêng gắn liền với việc thực hiện những hoạt động này, lĩnh vực giúp đỡ

1 1sào=360m2;1thước=24m2.[BT]

1. ChịBích:chủnhà2. Nhung:congáicủachịBích,chưalậpgiađình3. ChịKim(hàngxóm):ngườitrướcđấyđãtừngnhờchịBích gặt giúp. Như vậy, việc tham gia của chị Kimtươngứngvớimộtsựtrảnợ.

4. ChịNam(hàngxóm): làngườichịBíchnhờgiúpvànhưvậychịBíchnợchịNamnửacông.Việc trảnợđượcthựchiện15ngàysauđó(càyvồng).

5. ChịQuyền (hàng xóm): là người chịBích nhờ giúp.Nhung,congáichịBích,sẽlàmtrảnửacônghaingàysauđókhithamgiavàonhómđổicôngdochịQuyềntổchức.

6. ChịDung(emgáicủachịBích,đãcógiađình):làmviệctrảnợnửacôngchochịBíchđểbùchoviệchômtrướcchịBíchđãđếngặtchomình.

7. ChịThủy(hàngxóm):làngườichịBíchnhờgiúpvàbốnngàysauđóđãđượcchịBíchlàmtrảcôngtrongnhómđổicôngdochịThủytổchức.

Làm giúp trong những việc phi nông

Giúpnhaunấucỗ... vàkhidựngnhà

Page 7: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

66 KhóahọcTamĐảo2008

phi-nông hầu hết là do nam giới đảm nhiệm. Nghĩa vụ của người nhận [sự giúp đỡ] đối với các thành viên của nhóm do anh ta tổ chức là mời họ một bữa cơm ngon với nhiều rượu thịt vào ngày có việc.Thông lệ giúp đỡ phi-nông có nguồn gốc từ biểu tượng mà những người nông dân gán cho những công việc mà nó thể hiện tính hiệu quả, những công việc biểu trưng cho diễn biến cuộc đời của cá nhân trong nhóm và giới thiệu những giai đoạn quan trọng của sự cấu thành và sau đó là diễn tiến của nhóm gia đình.

Anh Tú đã định nghĩa về hình thức làm chung này như sau:

“Cất một cái nhà thì không cần đổi công, vì đây là một việc trọng đại trong đời một người: người ta tới làm giúp và sau này nếu một ai trong số những người đã tham gia đến lượt mình xây nhà thì người ta lại đến giúp. Đây không phải là chuyện công việc mà là một dịp đại hỉ. […]”; mà việc ăn một bữa cơm chung chính là biểu trưng.

Chính tính chất tiền định của các hoạt động được tổ chức chung (đào móng, dựng khung nhà, chuyển đồ đạc vào trong nhà mới) cũng như tính hiệu quả tương đối của công việc đã được thực hiện trong những ngày đó, nhất là khi nó lại gắn liền với việc tiêu thụ một lượng rượu lớn nhân những dịp này, đã đặt sự giúp đỡ vào trong lĩnh vực của biểu trưng xã hội hơn là trong lĩnh vực của tính duy lý kinh tế.Nếu xem xét hình thức làm việc này về lâu dài, ta có thể đánh giá được rằng nó chịu sự chi phối bởi cùng một nguyên lý nền tảng như đổi công, đó là sự qua lại tương đương, vì các nhóm gia đình trong suốt quá trình tồn tại của mình đều có cơ hội kêu gọi sự giúp đỡ phi-nông.

b) Giúp đỡ việc nôngYếu tố quyết định là quan hệ họ hàng giữa người trao và người nhận. Con dâu gần như có nghĩa vụ làm giúp đối với bố mẹ chồng, một nghĩa vụ được thể hiện cụ thể chủ yếu qua việc họ tham gia vào việc cấy và gặt lúa, song việc này không ngầm định là sẽ có một bữa cơm dành cho họ. Anh Thịnh giải thích lý do như sau:

Hai vợ chồng tôi vừa sang gặt vụ chiêm cho bố mẹ tôi. Hôm gặt cũng có cả hai chị của tôi, một trong số các anh em trai của tôi và cả bốn chị em dâu. Song người ta không bao giờ nói đến chuyện đổi công với bố mẹ mình. Giúp bố mẹ là chuyện thường tình. Bản thân tôi cũng đã sang gặt giúp cho ông bà nhạc bên làng Đồng Xa. […]1

Theo nghĩa này, ta có thể nói tới nguồn nhân lực bị bó buộc. Nếu như mối quan hệ con dâu/bố mẹ chồng là mối quan hệ duy nhất qui nạp hình thức giúp đỡ này một cách phổ biến thì mọi quan hệ dòng máu trực hệ hay thông gia khác cũng đều có thể mang tính chất hỗ trợ như vậy.

1.2. Những phương thức sản xuất gia đình và làm chung

Những miêu tả được đưa ra đến lúc này cho phép xác định tính chất của giúp đỡ và đổi công nhưng hai vấn đề quan trọng chưa thấy được đặt ra, hay chỉ được đặt ra một phần. Thứ nhất là câu hỏi mang tính định lượng về tần suất làm chung và phần tham gia của giúp đỡ và đổi công. Thứ hai là câu hỏi về bản chất của các mối quan hệ liên kết các đối tác lại với nhau, những động cơ dẫn tới việc tổ chức ra một nhóm làm giúp hay nhóm đổi công, và theo logic là cả những động cơ khiến các thành viên tham gia vào nhóm.

1 Phỏngvấnthựchiệnngày16/10/1996.

7

2. Nh ng ph ng th c s n xu t gia ình và làm chung

Nh ng miêu t c a ra n lúc này cho phép xác nh tính ch t c a giúp và i công nh nghai v n quan tr ng ch a th y c t ra, hay ch c t ra m t ph n. Th nh t là câu h i mang tính nh l ng v t n su t làm chung và ph n tham gia c a giúp và i công. Th hai là câu h i vb n ch t c a các m i quan h liên k t các i tác l i v i nhau, nh ng ng c d n t i vi c t ch c ra m t nhóm làm giúp hay nhóm i công, và theo logic là c nh ng ng c khi n các thành viên tham gia vào nhóm.

2.1 T m quan tr ng c a làm chung

ánh giá t m quan tr ng c a s c lao ng mà các thành viên c a nhóm gia ình1 dành cho lao ngt p th òi h i tr c h t ph i xác nh các ho t ng c c u nên n n t ng c a kinh t nông dân nh ã

c gi i thi u trong tr ng h p c a làng Hay m i n m sau i m i. làm vi c này, tôi ã ti nhành m t i u tra th ng nh t t i sáu h gia ình c a làng trong vòng m t n m, nh m xác nh tính ch t c a các ho t ng nông nghi p và phi-nông.

B ng 1 Th i gian m i h gia ình dành cho tám lo i hình ho t ng quan tr ng

A. H o A. Th nh C. Oanh A. C ng A. N c A. Phông

Nông nghi p 54% 24% 36% 47% 33% 38%

Ch n nuôi 36% 7% 43% 6% 10% 30%

Ng nghi p 0,3% 2%

L y c i 2% 4% 2% 11% 7% 3%

Làm giúp 1% 6% 4% 1% 1%

i công 2% 5% 4% 28% 3%

Ho t ng xã h i 4% 11% 11% 32% 21% 9%

Ho t ng phi-nông 1% 42% 4% - 1% 14%

B ng trên cho th y ngo i tr tr ng h p h gia ình anh Th nh (làm ngh th m c) thì kinh t gia ình c a các h h u nh ch d a vào nông nghi p theo ngh a r ng (g m tr ng tr t và ch n nuôi).

Liên quan n ch chúng tôi quan tâm, chúng tôi nh n th y th i gian dành cho làm giúp và icông trong các ho t ng này là ít h n c , ó là vì ph n l n u do các thành viên c a chính t ng hgia ình m nhi m. H gia ình anh N c là m t tr ng h p ngo i l ây, vì có n m t ph n t các ho t ng trong n m 1996 c th c hi n d i hình th c i công. Do h gia ình này ch có m t s clao ng là m t ph n tr ch a k t hôn nên h ã ph i dùng n m t chi n l c ti n hành trao i.

i u này cho phép h gia ình bù p tình tr ng thi u nhân l c v n c bi t gây khó kh n i v i m ts lo i hình công vi c nhà nông th ng do nam gi i m nhi m.

2.2 Làm chung: t v trí cá nhân n v trí h gia ình

ti p c n m t cách nh l ng tính a d ng có th có c c a các hình th c làm chung, tôi ã ti nhành m t i u tra h th ng vào t c y v xuân n m 1996 (315 m nh ru ng thu c v 101 trong t ngs 165 nhóm gia ình làng). B ng cách i chi u các thông tin thu c “bên b ru ng” v i ph hc a các nhóm gia ình c l p t i làng, chúng ta có nh ng k t qu sau ây.

1 Nhóm gia ình: toàn th nh ng cá nhân cùng làm chung hàng ngày nh ng công vi c s n xu t c n thi t m b o cho vi cduy trì s t n t i c a h và cùng tiêu th các s n ph m do h làm ra.

Bảng 1: Thời gian mỗi hộ gia đình dành cho tám loại hình hoạt động quan trọng

Page 8: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

67Hệthốngtraođổivàtínhtươnghỗ

Tầm quan trọng của làm chung

Đánh giá tầm quan trọng của sức lao động mà các thành viên của nhóm gia đình2 dành cho lao động tập thể đòi hỏi trước hết phải xác định các hoạt động cơ cấu nên nền tảng của kinh tế nông dân như đã được giới thiệu trong trường hợp của làng Hay mười năm sau Đổi mới. Để làm việc này, tôi đã tiến hành một điều tra thường nhật tại sáu hộ gia đình của làng trong vòng một năm, nhằm xác định tính chất của các hoạt động nông nghiệp và phi-nông.Bảng trên cho thấy ngoại trừ trường hợp hộ gia đình anh Thịnh (làm nghề thợ mộc) thì kinh tế gia đình của các hộ hầu như chỉ dựa vào nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm trồng trọt và chăn nuôi).Liên quan đến chủ đề chúng tôi quan tâm, chúng tôi nhận thấy thời gian dành cho làm giúp và đổi công trong các hoạt động này là ít hơn cả, đó là vì phần lớn đều do các thành viên của chính từng hộ gia đình đảm nhiệm. Hộ gia đình anh Nức là một trường hợp ngoại lệ ở đây, vì có đến một phần tư các hoạt động trong năm 1996 được thực hiện dưới hình thức đổi công. Do hộ gia đình này chỉ có một sức lao động là một phụ nữ trẻ chưa kết hôn nên hộ đã phải dùng đến một chiến lược tiến hành trao đổi. Điều này cho phép hộ gia đình bù đắp tình trạng thiếu nhân lực vốn đặc biệt gây khó khăn đối với một số loại hình công việc nhà nông thường do nam giới đảm nhiệm.

Làm chung: từ vị trí cá nhân đến vị trí hộ gia đình

Để tiếp cận một cách định lượng tính đa dạng có thể có được của các hình thức làm chung, tôi đã tiến hành một điều tra hệ thống vào đợt cấy vụ xuân năm 1996 (315 mảnh ruộng thuộc về 101 trong tổng số

165 nhóm gia đình ở làng). Bằng cách đối chiếu các thông tin thu được “bên bờ ruộng” với phả hệ của các nhóm gia đình được lập tại làng, chúng ta có những kết quả sau đây. (xem Bảng 2)

Trước hết, ta nhận thấy có một sự phong phú đáng kể về các hình thức có thể có của làm chung trong khuôn khổ các nhóm có qui mô khiêm tốn vì phần lớn những nhóm này có không quá ba thành viên. Nói cách khác, việc đôi lúc ta thấy có các nhóm lớn hơn làm chung trên các mảnh ruộng thì tương đối hiếm.Mặt khác, làm chung là một tục lệ khá phổ biến: 67% các hộ đã tổ chức một hoặc nhiều nhóm làm giúp hoặc nhóm đổi công cho việc cấy 58% diện tích ruộng của họ (tổng số các hình thức 2, 3, 4 và 5). Tuy nhiên, thực tế của tục lệ này không cho thấy tính chất hệ thống như những gì người dân làng xã vẫn thích mô tả, vì vậy không thể khái quát để gán cho toàn thể các nhóm gia đình.Cuối cùng, điều tra này cho thấy tính đa dạng của những kiểu kết hợp có thể có. Để tổ chức cấy trên những mảnh ruộng của mình, cùng một gia đình có thể có người sang cấy giúp trong nửa ngày, rồi sáng hôm sau chỉ sử dụng duy nhất nguồn nhân lực của gia đình, và đến buổi chiều cùng ngày lại có một tổ đổi công đến làm. Để hiểu được sự phong phú này của các nhóm, nhất thiết phải tính đến hai yếu tố chủ yếu :- Vì nhiều động cơ khác nhau mà mỗi đối tác quyết

định tham gia vào một nhóm nhất định, việc gia nhập nhóm có thể chỉ là tự do lựa chọn hoặc là một nghĩa vụ.

- Việc tham gia của một cá nhân cần phải được đánh giá theo chu trình thiết lập và diễn tiến của hộ gia đình như được sơ đồ hóa dưới đây.

Bảng 2: Tần suất sủ dụng các hình thức làm chung khác nhau

1 Nhómgiađình:toànthểnhữngcánhâncùnglàmchunghàngngàynhữngcôngviệcsảnxuấtcầnthiếtđảmbảochoviệcduytrìsựtồntạicủahọvàcùngtiêuthụcácsảnphẩmdohọlàmra.

8

B ng 2: T n su t s d ng các hình th c làm chung khác nhau

Tham gia c y có: T lru ng h gia ình

S ng itham gia

1. Nh ng thành viên h hàng s ng trong cùng m t nhà 34% 25,5% 1,5 2. Nh ng nhóm i công: h hàng và/ho c hàng xóm láng gi ng 34,2% 28,5% 3,2 3. Nh ng nhóm làm giúp:ch là các thành viên h hàng 12,7% 12% 3 4. Các nhóm l n l n: làm giúp và i công 10,8% 11% 4,9 5. K ti p nhau:

- t nhóm i công r i t i thành viên h hàng - nhóm làm giúp r i t i thành viên h hàng

--

12% 3 %

6. Nh ng nhóm b t k g m ít nh t m t ng i c tr ti n công 8,3% 8% 5,1 T ng s 100% 100%

Tr c h t, ta nh n th y có m t s phong phú áng k v các hình th c có th có c a làm chung trong khuôn kh các nhóm có qui mô khiêm t n vì ph n l n nh ng nhóm này có không quá ba thành viên. Nói cách khác, vi c ôi lúc ta th y có các nhóm l n h n làm chung trên các m nh ru ng thì t ng ihi m.

M t khác, làm chung là m t t c l khá ph bi n: 67% các h ã t ch c m t ho c nhi u nhóm làm giúp ho c nhóm i công cho vi c c y 58% di n tích ru ng c a h (t ng s các hình th c 2, 3, 4 và 5). Tuy nhiên, th c t c a t c l này không cho th y tính ch t h th ng nh nh ng gì ng i dân làng xã v n thích mô t , vì v y không th khái quát gán cho toàn th các nhóm gia ình.

Cu i cùng, i u tra này cho th y tính a d ng c a nh ng ki u k t h p có th có. t ch c c y trên nh ng m nh ru ng c a mình, cùng m t gia ình có th có ng i sang c y giúp trong n a ngày, r isáng hôm sau ch s d ng duy nh t ngu n nhân l c c a gia ình, và n bu i chi u cùng ngày l i có m t t i công n làm. hi u c s phong phú này c a các nhóm, nh t thi t ph i tính n hai y u t ch y u : - Vì nhi u ng c khác nhau mà m i i tác quy t nh tham gia vào m t nhóm nh t nh, vi c gia nh p nhóm có th ch là t do l a ch n ho c là m t ngh a v .- Vi c tham gia c a m t cá nhân c n ph i c ánh giá theo chu trình thi t l p và di n ti n c a h gia

ình nh c s hóa d i ây.

S n° 1: “Làm chung” và chu trình thi t l p nhóm gia ình

Giai o n 1 - T t m tu i 13-14, tr v thành niên (không phân bi t gi i tính) ã có th là m t i tác

Page 9: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

68 KhóahọcTamĐảo2008

1 GourouP.(1936):Les paysans du delta Tonkinois,ÉtudesdeGéographieHumaine,Éds.d’artetd’histoire,Paris,666p.;DumontR.(1995):La culture du riz dans le delta du Tonkin,Éditionde1935revue,corrigéeetaugmentée,coll.GrandSud,Paris,595p.[BT]

Sơ đồ 1: “Làm chung” và chu trình thiết lập nhóm gia đình

8

B ng 2: T n su t s d ng các hình th c làm chung khác nhau

Tham gia c y có: T l

ru ng h gia ình

S ng i

tham gia

1. Nh ng thành viên h hàng s ng trong cùng m t nhà 34% 25,5% 1,5

2. Nh ng nhóm i công: h hàng và/ho c hàng xóm láng gi ng 34,2% 28,5% 3,2

3. Nh ng nhóm làm giúp:ch là các thành viên h hàng 12,7% 12% 3

4. Các nhóm l n l n: làm giúp và i công 10,8% 11% 4,9

5. K ti p nhau:

- t nhóm i công r i t i thành viên h hàng

- nhóm làm giúp r i t i thành viên h hàng

-

-

12%

3 %

6. Nh ng nhóm b t k g m ít nh t m t ng i c tr ti n công 8,3% 8% 5,1

T ng s 100% 100%

Tr c h t, ta nh n th y có m t s phong phú áng k v các hình th c có th có c a làm chung trong

khuôn kh các nhóm có qui mô khiêm t n vì ph n l n nh ng nhóm này có không quá ba thành viên.

Nói cách khác, vi c ôi lúc ta th y có các nhóm l n h n làm chung trên các m nh ru ng thì t ng i

hi m.

M t khác, làm chung là m t t c l khá ph bi n: 67% các h ã t ch c m t ho c nhi u nhóm làm

giúp ho c nhóm i công cho vi c c y 58% di n tích ru ng c a h (t ng s các hình th c 2, 3, 4 và 5).

Tuy nhiên, th c t c a t c l này không cho th y tính ch t h th ng nh nh ng gì ng i dân làng xã

v n thích mô t , vi# v y không th khái quát gán cho toàn th các nhóm gia ình.

Cu i cùng, i u tra này cho th y tính a d ng c a nh ng ki u k t h p có th có. t ch c c y trên

nh ng m nh ru ng c a mình, cùng m t gia ình có th có ng i sang c y giúp trong n a ngày, r i

sáng hôm sau ch s d ng duy nh t ngu n nhân l c c a gia ình, và n bu i chi u cùng ngày l i có

m t t i công n làm. hi u c s phong phú này c a các nhóm, nh t thi t ph i tính n hai

y u t ch y u :

- Vì nhi u ng c khác nhau mà m i i tác quy t nh tham gia vào m t nhóm nh t nh, vi c gia

nh p nhóm có th ch là t do l a ch n ho c là m t ngh a v .

- Vi c tham gia c a m t cá nhân c n ph i c ánh giá theo chu trình thi t l p và di n ti n c a h gia

ình nh c s hóa d i ây.

S n° 1: “Làm chung” và chu trình thi t l p nhóm gia ình

Giai o n 1 - T t m tu i 13-14, tr v thành niên (không phân bi t gi i tính) ã có th là m t i tác

Cưới

Ra ở riêng

Thiếu niên

Vợ chồng và các con còn nhỏ tuổi

Cưới sau đó con cái dần ra ở riêng

Vợ chồng và các con đến tuổi lao

động

Vợ chồng có tuổi và tất cả con cái đều ở

riêng, trừ con trai út đã lấy vợ

13 - 14 tuổi 20-25 tuổi 35 - 40 tuổi 55 - 60 tuổi tuổi chủ hộ

1 2 3 4 5

Giai đoạn 1 - Từ tầm tuổi 13-14, trẻ vị thành niên (không phân biệt giới tính) đã có thể là một đối tác tiềm năng tham gia vào hệ thống trao đổi. Tình hình này thay đổi hoàn toàn khi họ đến tuổi kết hôn và có gia đình riêng,

Giai đoạn 2 - Đôi vợ chồng trẻ ra ở riêng - 2 - có khả năng tự lựa chọn trong lĩnh vực đổi công (trao và nhận trực tiếp) song đồng thời cũng phải thực hiện những nghĩa vụ giúp đỡ (chỉ thuần túy trao) đối với bố mẹ bên chồng.

Giai đoạn 3 - Khoảng mười lăm năm sau ngày kết hôn - 3 -, tình hình của họ được đánh dấu bởi hai diễn tiến quan trọng kế tiếp nhau. Đầu tiên là việc con cái của họ dần dần đến tuổi tham gia vào sự trao đổi. Việc tham gia trực tiếp của đôi vợ chồng giảm đi, vì họ đồng thời có khả năng là người trao/nhận gián tiếp và ủy thác một phần nghĩa vụ cho con cái. Sau đó con cái của họ bước sang tuổi kết hôn. Đôi vợ chồng trở thành người nhận thuần túy trong khuôn khổ những nghĩa vụ mà cặp vợ chồng trẻ phải đảm đương.

Giai đoạn 4: Đôi vợ chồng già 4 hết mọi nghĩa vụ và thấy mình lúc này ở vị trí của người nhận thuần túy.

Nếu như làm giúp và đổi công đặt ra ở đây như hai phương thức làm chung riêng rẽ, thì chúng không phải vì thế mà kém phần không tách biệt nhau, mọi nhóm gia đình đều có thể được xác định trong một mối quan hệ với hai hình thức này mà tính chất của chúng có thể thay đổi trong suốt quá trình tồn tại của nhóm.

Đổi công: một sự cần thiết mang tính kỹ thuật?

Đâu là những động cơ khiến cho 50% số nhóm gia đình tham gia vào hệ thống đổi công?Những người nông dân tham gia vào việc lập ra các nhóm đổi công thường viện tới những trói buộc của lịch nông vụ cũng như những bất thường của thời tiết để giải thích cho hành động của họ. Hạn chế kép về cả thời gian và nhân lực cũng là giải thích được họ đưa ra. Giải thích này cần phải được đối chứng với cơ cấu của sở hữu ruộng đất hiện nay, và với những bó buộc trong công việc đồng áng của gia đình.Năm 1993, việc phân chia công bằng ruộng đất đã được tiến hành, theo đó mỗi nhân khẩu được chia một sào ruộng(360 m²) và như vậy mỗi hộ gia đình (vợ chồng và ba con) được chia từ 1.440-2.160m² (chưa được 1/4 ha). Mặt khác, theo những quan sát của bản thân tôi trên thực địa, một phụ nữ cấy trung bình một sào ruộng mất một ngày công và trong cùng một đơn vị công nhật có thể gặt được từ 1-1.5 sào, điều này đã được khẳng định trong các nghiên cứu. Thời gian lao động này gần như không hề thay đổi từ đầu thế kỷ XX nếu đối chiếu với những số liệu mà Pierre Gourou và Réné Dumont1 đã đưa ra trong những năm 1930. Cuối cùng, thời gian ươm mạ cũng như làm đòng cần thêm từ 2 - 3 ngày trước khi cấy và gặt. Việc xem xét đồng thời những đặc điểm của cơ cấu sở hữu ruộng đất và trồng lúa như vậy đặt lại vấn đề đối với giả thuyết cho rằng thực tiễn đổi công sẽ chỉ được xem như bị ấn định bởi nghĩa vụ làm các công việc cấy hoặc gặt trong những thời

Page 10: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

69Hệthốngtraođổivàtínhtươnghỗ

hạn bó buộc mà nếu chỉ riêng thành viên hộ gia đình thì không thể đảm đương nổi.Như vậy chúng ta có thể nghĩ đến một giả thuyết thứ hai: một hệ thống lưỡng cực dựa trên sự phân chia các hộ gia đình thành một nhóm “trao” thừa nhân lực và một nhóm “nhận” thiếu hụt nhân lực. Giả thuyết này có thể đứng vững bởi ít nhất hai lý do. Trước hết, tổng số các nhóm gia đình có nguồn nhân lực nông nghiệp nhiều hơn cả - 3 - tham gia vào các nhóm đổi công hoặc các nhóm đổi công và làm giúp thì bằng với tổng số các đôi vợ chồng trẻ - 2 - thực hiện đổi công, những đơn vị thống nhất mà xét về mặt lý thuyết là ít nhân lực hơn cả. Mặt khác, quan hệ tương hỗ, tức là sự trả lại những công đã nhận, thường diễn ra nhiều nhất trong khuôn khổ của cùng một loại hoạt động, và đôi khi trong chính buổi chiều cùng ngày hoặc ngày hôm sau của thời gian diễn ra việc chuyển giao đầu tiên, “người mới hôm qua là người nhận thì đến hôm sau lại trở thành người trao”. Việc sử dụng đến nhân lực được trả tiền thù lao đã khẳng định cho thực tế này: đó là trường hợp những hộ gia đình mà vào một vài thời kỳ của chu trình sản xuất nông nghiệp, thường xuyên ở trong tình trạng thiếu nhân lực và không thể tham gia vào trao đổi lao động, bởi lẽ họ không có khả năng đảm bảo cam kết.Phân tích theo giả thuyết này, có lẽ cần trở lại một khía cạnh trung tâm của hệ thống đổi công: việc tổ chức các quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các đối tác và kéo theo đó là giữa các không gian trao đổi.

1.3. Làm chung: giữa nghĩa vụ xã hội và làm chủ

Tính chất không đủ thỏa mãn của việc phân tích cho rằng có một quyết định luận mang tính kỹ thuật, đã dẫn tới việc áp dụng một nhãn quan kém phần vị lợi chủ nghĩa về đổi công, là chỗ mà làm chung được xem xét như nó là, tức một sự trao đổi, và như cái nó tạo ra, tức những quan hệ giữa các đối tác. Như vậy không gian trao đổi có hai hình thức khác nhau và thể hiện ở hai địa điểm khác biệt, theo lăng kính mà qua đó nó được xem xét.Không gian đầu tiên là cái “mà ta thấy”, đó là ruộng lúa nơi tập hợp những người tham gia vào các nhóm đổi công, chủ yếu là phụ nữ. Đây vừa là không gian làm việc và cũng là một trong những không gian giao tiếp xã hội hiếm hoi của những người phụ nữ hiện lúc này thoát khỏi những bó buộc của nhóm gia đình: và cần phải nhận thấy là phụ nữ tham gia vào kiểu hoạt động này và nói về nó với niềm vui thích. Vì thế mà đối với chị Lan: “thích nhất là được làm việc nhiều người, tới tận năm người, chúng tôi chuyện trò và cười đùa rõ nhiều”. Không gian thứ hai là không gian của những quan hệ xã hội mà đổi công đã kết tinh, là nơi cần phải tính đến nhân cách xã hội của cá nhân, người mà có thể sẽ đề nghị những người tham gia tương lai. Đi theo quan điểm này, J.T Godbout và J. Charbonneau lưu ý, liên quan đến những nghiên cứu về quà tặng, có một sự thiếu sót trong lĩnh vực này “Quà tặng và quà tặng lại ở đây được “đo đếm” tách rời khỏi những liên hệ giữa những người trong cuộc” (1993: 235)1. Để tiếp cận không gian này, tôi đã sử dụng những số liệu rút ra từ

Bảng n° 3: Đổi công (thuần túy hoặc gắn với giúp đỡ): chủ yếu có quan hệ họ hàng(vợ, con gái và con dâu sống cùng một nhà không được ghi công vào sổ)

10

Phân tích theo gi thuy t này, có l c n tr l i m t khía c nh trung tâm c a h th ng i công: vi c tch c các quan h ph thu c l n nhau gi a các i tác và kéo theo ó là gi a các không gian trao i.

3. Làm chung: gi a ngh a v xã h i và làm ch

Tính ch t không th a mãn c a vi c phân tích cho r ng có m t quy t nh lu n mang tính k thu t, ã d n t i vi c áp d ng m t nhãn quan kém ph n v l i ch ngh a v i công, là ch mà làm chung

c xem xét nh nó là, t c m t s trao i, và nh cái nó t o ra, t c nh ng quan h gi a các i tác. Nh v y không gian trao i có hai hình th c khác nhau và th hi n hai a i m khác bi t, theo l ng kính mà qua ó nó c xem xét.

Không gian u tiên là cái “mà ta th y”, ó là ru ng lúa n i t p h p nh ng ng i tham gia vào các nhóm i công, ch y u là ph n . ây v a là không gian làm vi c và c ng là m t trong nh ng không gian giao ti p xã h i hi m hoi c a nh ng ng i ph n hi n lúc này thoát kh i nh ng bó bu c c anhóm gia ình: và c n ph i nh n th y là ph n tham gia vào ki u ho t ng này và nói v nó v ini m vui thích. Vì th mà i v i ch Lan: “thích nh t là c làm vi c nhi u ng i, t i t n n m

ng i, chúng tôi chuy n trò và c i ùa rõ nhi u”.

Không gian th hai là không gian c a nh ng quan h xã h i mà i công ã k t tinh, là n i c n ph itính n nhân cách xã h i c a cá nhân, ng i mà có th s ngh nh ng ng i tham gia t ng lai. itheo quan i m này, J.T Godbout và J. Charbonneau l u , liên quan n nh ng nghiên c u v quà t ng, có m t s thi u sót trong l nh v c này “Quà t ng và quà t ng l i ây c “ o m” tách r i

kh i nh ng liên h gi a nh ng ng i trong cu c” (1993: 235).1 ti p c n không gian này, tôi ã sd ng nh ng s li u rút ra t hai cu c i u tra ã c nói t i trên b ng cách chia t ng s nh ng ng i tham gia thành hai c m: m t là t ng th nh ng i tác có quan h h hàng v i m t trong s hai thành viên c a ôi v ch ng có sáng ki n t ch c nhóm (100 tr ng h p t ng ng 54%) và m t là t ng th nh ng ng i còn l i, c t p h p l i d i tên g i là “hàng xóm láng gi ng” (85 tr ng h p, t ng ng 46%).

B ng n° 3: i công (thu n túy ho c g n v i giúp ): ch y u có quan h h hàng

(v , con gái và con dâu s ng cùng m t nhà không c ghi công vào s )

Ta th y xu t hi n ây s hi n di n mang tính áp o c a ph n có quan h h hàng tr c h v i chh gia ình (ch em gái, m ) ho c b i quan h trung gian qua m t trong nh ng ng i anh em trai

1 Các tác gi này s d ng l i ây l i phê phán c a C. Lévi-Strauss trong ph n l i nói u dành cho tác ph m c a M. Mauss. Cùng v i vi c t tính t ng h vào tâm i m c a h v n , hai tác gi¶ nhËn thÊy r»ng: “Nh v y khi d a vào “hoàn tr ”,

nh ng ngh a v khác ã b b qua: b n thân hành ng t ng quà, và c vi c “nh n” nó, ch c xem xét hàng th y u

[…] H v n ch u nh h ng b i m t m i b n tâm ng m và m t d ng nh ng m nh: nghiên c u v s cân b ng c acác h th ng quà t ng” (Godbout et Charbonneau J. 1993: 235).

1 CáctácgiảnàysửdụnglạiởđâylờiphêpháncủaC.Lévi-StrausstrongphầnlờinóiđầudànhchotácphẩmcủaM.Mauss.Cùngvớiviệcđặttínhtươnghỗvàotâmđiểmcủahệvấnđề,haitácgiảnhậnthấyrằng:“Nhưvậykhidựavào“hoàntrả”,nhữngnghĩavụkhácđãbịbỏqua:bảnthânhànhđộngtặngquà,vàcảviệc“nhận”nó,chỉđượcxemxétởhàngthứyếu[…]Hệvấnđềchịuảnhhưởngbởimộtmốibậntâmngầmvàmộtdạngđịnhđềngầmđịnh:nghiêncứuvềsựcânbằngcủacáchệthốngquàtặng”(GodboutetCharbonneauJ.1993:235).

Page 11: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

70 KhóahọcTamĐảo2008

hai cuộc điều tra đã được nói tới ở trên bằng cách chia tổng số những người tham gia thành hai cụm: một là tổng thể những đối tác có quan hệ họ hàng với một trong số hai thành viên của đôi vợ chồng có sáng kiến tổ chức nhóm (100 trường hợp tương đương 54%) và một là tổng thể những người còn lại, được tập hợp lại dưới tên gọi là “hàng xóm láng giềng” (85 trường hợp, tương đương 46%).Ta thấy xuất hiện ở đây sự hiện diện mang tính áp đảo của phụ nữ có quan hệ họ hàng trực hệ với chủ hộ gia đình (chị em gái, mẹ đẻ) hoặc bởi quan hệ trung gian qua một trong những người anh em trai (vợ và con gái của anh em trai). Xu hướng này cần được xem xét như hai nét đặc biệt của hệ thống quan hệ họ hàng giữ vai trò chỉ đạo đối với việc tổ chức không gian sống:- cách thức cư trú theo bên nhà chồng thống trị trong

xã hội vốn có xu hướng phụ hệ này;- sự cấu thành những nhóm cư trú theo nam giới

cùng chung quan hệ dòng máu.

Chúng tôi coi nhóm cư trú là một xu hướng tập hợp về mặt không gian của các thành viên chủ yếu là nam giới có chung quan hệ huyết thống. Cụ thể, điều này có nghĩa là tập trung trên một tỷ lệ diện tích đáng kể của địa vực làng xã (một quả đồi, nhiều quả đồi sát nhau), các khu đất là nơi một người đàn ông và một số con trai của ông ta sinh sống, hãn hữu mới có trường hợp là con gái, cũng như trong một số trường hợp là những anh em bàng hệ của ông ta. Song cho dù mật độ cư trú có dày đặc đến đâu thì những đơn vị cư trú này vẫn độc lập với nhau: mỗi nhà trong số đó được bao quanh bởi một khoảnh vườn được phân định rõ ràng (lũy tre) và có nhà bếp riêng, biểu trưng cho sự độc lập về mặt kinh tế. (xem Hình 2)

Quy chiếu với hai phương thức cư trú này, khoảng 50% số phụ nữ đã từng tham gia vào một nhóm đổi công

đến từ những nhóm cư trú được tạo nên như vậy, họ có thể là vợ hoặc con gái còn độc thân của một trong những người anh em trai, mẹ hoặc chị em gái chưa lập gia đình của chủ hộ. Nói cách khác, những mạng lưới đổi công được ưu tiên đã phát triển trong chính không gian của gia đình mở rộng, đây là những mạng lưới mà tính ổn định và hoạt động tái sản xuất của chúng được đảm bảo bởi nguyên tắc tương hỗ. Và nếu như những người chị em gái trẻ tuổi chưa kết hôn (con gái của anh em trai, chị em gái), còn chiếm tỷ lệ đông đảo, đảm đương việc cấy thì chính cha mẹ của họ, và chính xác hơn là cha của họ, là những đối tác (gián tiếp) của sự trao đổi. Do vậy, tính hợp thức của mỗi một mạng lưới trong số những mạng lưới này trước hết là thuộc về nam giới, thông qua những quan hệ mà nó cho phép duy trì giữa những chủ hộ là anh em trai. Bằng công việc của mình, các con gái và vợ của họ đã quy những mối dây liên kết này thành vật chất.Song song với cực họ hàng, những phụ nữ hàng xóm láng giềng cũng tham gia vào các mạng lưới đổi công: trong số 85 trường hợp đổi công theo kiểu hàng xóm láng giềng được thống kê, thì có 64% có một người trao và một người nhận là người cùng xóm, mà toàn thôn có bảy xóm và mỗi xóm có từ 10 đến 30 nóc nhà. Như vậy, chính trong nội bộ từng xóm mà các hộ sẽ quan tâm thiết lập và duy trì những quan hệ ưu tiên với những nhóm gia đình bên cạnh những nhóm gia đình “có sẵn” từ quan hệ họ hàng. Song đặc biệt, nếu chúng ta công nhận rằng việc trao đổi lao động không thể được diễn giải như một giải pháp tạm thời cho tình trạng thiếu nhân lực hoặc như là một biện pháp nhằm cải thiện cho việc sản xuất một loại lương thực nào đó, thì cần phải nhận thấy việc tồn tại của chính hình thức đổi công giữa hàng xóm láng giềng với nhau đã khẳng định tính chất xã hội rõ nét của thông lệ này, bên cạnh những bó buộc riêng của lĩnh vực họ hàng.

Hình 2: Nhóm cư trú đơn giản bắt đầu từ ông Ẻn (gồm 3 thế hệ)

11

d'habitation d’un homme (ego) et de certains de ses fils, plus rarement de ses filles, ainsi que dans certains cas celles de ses collatéraux. Mais quelle que soit l'intensité du phénomène, les habitations restent indépendantes : chacune d’entre elles est entourée d’un jardin délimité par des marqueurs physiques (haies) et dispose de sa propre cuisine, symbole d’indépendance économique.

En référence à ces deux modalités résidentielles, 50% environ des femmes ayant participé à un groupe d’échange de travail sont issues des groupes de résidence ainsi formés, qu’elles soient épouses ou fille(s) célibataire(s) d’un des frères, mère ou sœur(s) célibataire(s) du chef de foyer.

Autrement dit, les réseaux privilégiés d’entraide se développent au sein de l’espace de la famille élargie, réseaux dont la stabilité et la reproduction sont assurées par le principe de réciprocité. Et si les jeunes-filles célibataires (filles du frère, sœurs), proportionnellement majoritaires, réalisent effectivement le repiquage, ce sont leurs parents et plus précisément leurs pères qui sont les partenaires (indirects) de l’échange. La légitimité de chacun de ces réseaux est donc avant tout celle des hommes, au travers des relations qu’il permet d’entretenir entre les chefs de foyers qui sont des frères. Par leur travail, les filles et les épouses matérialisent ces liens.

Parallèlement au pôle de la parenté, des femmes du voisinage participent également : sur les 85 cas d’entraide vicinale recensés (enquête de 1996), 64% impliquent un donneur et un receveur résidant dans le même quartier (xóm), sachant que le village compte sept quartiers composés chacun d’une dizaine à une trentaine de maisons. C’est donc à l’intérieur du quartier que les foyers cherchent préférentiellement à établir et à entretenir des relations privilégiées avec des groupes domestiques autres que ceux qui leur sont « donnés » par la parenté. Mais surtout, si l’on admet que l’échange de travail ne peut être interprété comme un palliatif à un déficit de main-d’œuvre ou comme un moyen d’améliorer la production de telle ou telle culture, force est de constater que l’existence même de l’entraide vicinale affirme, en dehors des contraintes propres à la sphère de la parenté, le caractère éminemment social de la pratique.

En définitive, le travail en commun s’articule en deux champs distincts. Le premier, qui procède du mode de l’obligation plus ou moins stricte, est dominé par les rapports de parenté directs du côté du mari et constitue un premier niveau minimum auquel chacun se doit théoriquement de participer. C’est le domaine privilégié des relations forcément préexistantes au sein de l’espace de la famille élargie et qui s’expriment par le biais de l’aide agricole apportée aux ascendants directs ou de l’entraide dans le cadre du réseau du chef de famille. Le second champ représente le pôle opposé, celui de l’adhésion volontaire, du libre arbitre, où s’expriment préférentiellement les rapports au voisinage et à la parenté directe du côté de l’épouse. C’est le champ de l’entraide vicinale, réalisée préférentiellement au sein du quartier, et de l’aide extra-agricole non liée à des rapports de parenté.

Figure n° 2 : Groupe de résidence simple formé par M. n (3 générations)

NÚI M(colline)

1

4

6

GÒ LÁ(colline)

5

23 7 2. Th ch 3. H p 4. Hoà 5. L i Thu n L c Xuân 6. San

7. L

1. n

Rizières

Parcelled’habitation

Ruộng lúa

Các khu nhà

Page 12: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

71Hệthốngtraođổivàtínhtươnghỗ

Sơ đồ 3: Làm chung (làm giúp và đổi công): giữa làm chủ và nghĩa vụ

12

Nh v y, làm chung di n ra trong hai a h t khác bi t nhau. a h t th nh t b t ngu n t ph ng

th c ngh a v ít nhi u thu n túy, ch u s th ng tr c a nh ng quan h h hàng tr c h bên ch ng và t o

nên m t c p t i thi u ban u mà m i ng i xét v m t l thuy t u ph i tham gia vào. ó là l nh

v c u tiên c a các quan h ã có t tr c trong không gian c a gia ình m r ng và c th hi n

thông qua giúp trong nh ng vi c nhà nông i v i ông bà cha m ho c qua i công trong khuôn

kh m ng l i c a ông ch gia ình. a h t th hai th hi n cho c c i l p, ó là s tham d t

nguy n, n i cho th y có s u tiên i v i nh ng quan h hàng xóm láng gi ng và nh ng quan h h

hàng tr c h bên v . ó là l nh v c c a ho t ng i công c u tiên gi a hàng xóm láng gi ng

trong cùng xóm, và c a nh ng vi c làm giúp phi-nông không liên quan gì n quan h h hàng.

S n° 3 Làm chung (làm giúp và i công) : gi a làm ch và ngh a v

Trên th c t , vi c phân bi t gi a hai a h t nói trên không ph i lúc nào c ng rõ ràng. Ví d , vi c tham

gia vào m t nhóm làm giúp phi-nông i v i m t s cá nhân không h có liên h h hàng v i ng i

kh i x ng l i có th là m t ngh a v th c s khi nó nhân danh m t quan h b ng h u tr c kia, v.v.,

song ây, chúng ta ã b c vào l nh v c c a cá nhân. Nh v y, trong su t cu c i c a mình, cá

nhân tham gia vào c hai a h t này. V trí mà anh ta n m gi m t th i k nh t nh ph thu c vào

m t m i quan h ph c t p v a liên quan t i nh ng c i m c a riêng anh ta (gi i tính, tu i, hoàn

c nh gia ình, n i c trú, ngh nghi p) và v a liên quan t i nh ng c i m c a i tác c a anh ta

trong quan h trao i, là nh ng cái có chung b n ch t so v i anh ta và c b sung thêm ây là

y u t “liên h h hàng v i ng i nh n”.

Nói cách khác, ví d nh trong vi c g t lúa, m t ph n 45 tu i, v i t cách là con dâu, s giúp m

ch ng g t lúa; còn v i t cách là m thì s n l t ch ta l i c con dâu giúp ; v i t cách là v ,

ch ta tham gia vào nhóm i công do ch dâu mình l p ra và s g i con gái th ch a l p gia ình c a

mình n làm; v i t cách là ng i bà con l i xóm thì ch ta s tham gia vào nhóm i công do m t

ch hàng xóm t ch c ra hoàn m t công mà tr c ó ch ã ph i nh c y, v.v..

K t lu n

Nh v y, ghi nh n hi n t ng làm chung òi h i ph i tính n nh ng liên h h hàng mà các i tác

c a nhóm có hay không có v i nhau, vì nh ng liên h này t o nên c t lõi t ó có th ánh giá c p

ngh a v hay t do trong vi c tham gia. Trong ti n trình này, xét c v m t th i gian c ng nh ch c

n ng c a i tác tham giao vào s trao i, m t i u hi n nhiên t ra là: các nhóm làm chung ch

c l p ra mang tính nh t th i vì trong th c t ngày th ng nó không th di n ra khác c. M i m t

nhóm làm chung u là m t tr ng h p riêng bi t t n t i trong kho ng th i gian r t ng n, là k t qu

c áo c a t ng s nh ng quan h riêng bi t k t n i m i m t thành viên c a nhóm v i ng i nh n.

Vi c t ch c, cái “khung” ây không ph i là nhóm mang tính hình th c ta quan sát c trên ru ng

lúa mà là quan h ôi bên gi a ng i trao-k nh n (tr c ti p ho c gián ti p) t ra nh là y u t ch

o có th m b o tính n nh và b n lâu c a h th ng trao i.

Như vậy, làm chung diễn ra trong hai địa hạt khác biệt nhau. Địa hạt thứ nhất bắt nguồn từ phương thức nghĩa vụ ít nhiều thuần túy, chịu sự thống trị của những quan hệ họ hàng trực hệ bên chồng và tạo nên một cấp độ tối thiểu ban đầu mà mỗi người xét về mặt lý thuyết đều phải tham gia vào. Đó là lĩnh vực ưu tiên của các quan hệ đã có từ trước trong không gian của gia đình mở rộng và được thể hiện thông qua giúp đỡ trong những việc nhà nông đối với ông bà cha mẹ hoặc qua đổi công trong khuôn khổ mạng lưới của ông chủ gia đình. Địa hạt thứ hai thể hiện cho cực đối lập, đó là sự tham dự tự nguyện, nơi cho thấy có sự ưu tiên đối với những quan hệ hàng xóm láng giềng và những quan hệ họ hàng trực hệ bên vợ. Đó là lĩnh vực của hoạt động đổi công được ưu tiên giữa hàng xóm láng giềng trong cùng xóm, và của những việc làm giúp phi-nông không liên quan gì đến quan hệ họ hàng. (xem Sơ đồ 3)

Trên thực tế, việc phân biệt giữa hai địa hạt nói trên không phải lúc nào cũng rõ ràng. Ví dụ, việc tham gia vào một nhóm làm giúp phi-nông đối với một số cá nhân không hề có liên hệ họ hàng với người khởi xướng lại có thể là một nghĩa vụ thực sự khi nó nhân danh một quan hệ bằng hữu trước kia, v.v., song ở đây, chúng ta đã bước vào lĩnh vực của cá nhân. Như vậy, trong suốt cuộc đời của mình, cá nhân tham gia vào cả hai địa hạt này. Vị trí mà anh ta nắm giữ ở một thời kỳ nhất định phụ thuộc vào một mối quan hệ phức tạp vừa liên quan tới những đặc điểm của riêng anh ta (giới tính, tuổi, hoàn cảnh gia đình, nơi cư trú, nghề nghiệp) và vừa liên quan tới những đặc điểm của đối tác của anh ta trong quan hệ trao đổi, là những cái có chung bản chất so với anh ta và được bổ sung thêm ở đây là yếu tố “liên hệ họ hàng với người nhận”.Nói cách khác, ví dụ như trong việc gặt lúa, một phụ nữ 45 tuổi, với tư cách là con dâu, sẽ giúp đỡ mẹ chồng gặt lúa; còn với tư cách là mẹ thì sẽ đến lượt chị ta lại được con dâu giúp đỡ; với tư cách là vợ, chị ta tham gia vào nhóm đổi công do chị dâu mình lập ra và sẽ gửi con gái thứ chưa lập gia đình của mình đến làm; với tư cách là người bà con lối xóm thì chị ta sẽ tham gia

vào nhóm đổi công do một chị hàng xóm tổ chức ra để hoàn lại một công mà trước đó chị đã phải nhờ cậy...

Kết luận

Như vậy, ghi nhận hiện tượng làm chung đòi hỏi phải tính đến những liên hệ họ hàng mà các đối tác của nhóm có hay không có với nhau, vì những liên hệ này tạo nên cốt lõi để từ đó có thể đánh giá cấp độ nghĩa vụ hay tự do trong việc tham gia. Trong tiến trình này, xét cả về mặt thời gian cũng như chức năng của đối tác tham giao vào sự trao đổi, một điều hiển nhiên đặt ra là: các nhóm làm chung chỉ được lập ra mang tính nhất thời vì trong thực tế ngày thường nó không thể diễn ra khác được. Mỗi một nhóm làm chung đều là một trường hợp riêng biệt tồn tại trong khoảng thời gian rất ngắn, là kết quả độc đáo của tổng số những quan hệ riêng biệt kết nối mỗi một thành viên của nhóm với người nhận.Việc tổ chức, cái “khung” ở đây không phải là nhóm mang tính hình thức ta quan sát được trên ruộng lúa mà là quan hệ đôi bên giữa người trao-kẻ nhận (trực tiếp hoặc gián tiếp) đặt ra như là yếu tố chủ đạo có thể đảm bảo tính ổn định và bền lâu của hệ thống trao đổi.

2. Hệ thống giúp đỡ và quan hệ tương hỗ: giữa đoàn kết và phụ thuộc

Trong tác phẩm mang tính tổng hợp về đồng bằng châu thổ Sông Hồng, nhà dân tộc học Diệp Đình Hoa đã kết luận về khái niệm đoàn kết làng xã như sau: “Tinh thần đoàn kết và cố kết xã hội đã gắn những người nông dân lại với nhau, gắn họ với làng xã và được họ coi là nhu cầu, là lẽ sống, là tình cảm sâu sắc và nghĩa vụ thiêng liêng” (Diệp Đình Hoa, 2000: 544). Hoàn toàn theo hệ chuẩn kinh tế học đạo đức của J. Scott (1976), cái nhìn này thực sự đã được củng cố bởi diễn ngôn mang tính chuẩn mực của dân làng là những người thường viện dẫn những thông lệ làm giúp

Page 13: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

72 KhóahọcTamĐảo2008

và đổi công khi họ nói về quan hệ của họ với các thành viên họ hàng và hàng xóm láng giềng. Họ miêu tả một hoàn cảnh được lý tưởng hóa, nơi mà những người nông dân giúp đỡ nhau. Để đối chứng hình ảnh này về một cộng đồng làng xã hài hòa và lo lắng cho lợi ích chung với những hiện thực trên thực địa, vào cuối những năm 1990, tôi đã tiến hành một chuỗi những điều tra và quan sát tại làng Hay về các phương thức lưu thông tài sản vật chất trong khuôn khổ của một hệ thống hỗ trợ lẫn nhau được gọi là “giúp đỡ”. Từ một quan điểm ngữ nghĩa, từ giúp đỡ hàm nghĩa chính xác tính chức năng kinh tế của một phương tiện được dùng để mang lại một sự ủng hộ về mặt vật chất (bằng tiền mặt hoặc hiện vật) đối với các nhóm gia đình khi họ phải đối diện với ba sự kiện phù hợp với ba thời kỳ quan trọng đánh dấu sự thay đổi tình trạng của cá nhân và sự biến chuyển của hộ gia đình: kết hôn, xây cất nhà cửa, tang lễ.Trước hết, cần phải xác định rõ ở đây hai điểm quan trọng:- Hệ thống giúp đỡ chỉ tính trong phạm vi lưu thông

tài sản trong khuôn khổ các quan hệ tương hỗ mà một hộ gia đình duy trì với những hộ gia đình khác sống gần hoặc xa nhà họ, vì đã loại trừ phần trao đổi hay quà tặng giữa những thành viên trong cùng một hộ gia đình.

- Những món quà được tặng nhân dịp những sự kiện và lễ lạt điểm xuyết toàn bộ đời sống xã hội, tinh thần và nghề nghiệp của các cá nhân và của những thực thể tập thể (gia đình, phường hội) không được tính vào hệ thống giúp đỡ.

2.1. Tiếp cận hệ thống thông qua hai nghiên cứu trường hợp

Trong số mười hai trường hợp đã nghiên cứu có vấn đề hệ thống giúp đỡ, chúng tôi chọn phân tích ở đây hai trường hợp, vì chúng góp phần làm sáng tỏ toàn bộ hoặc một phần sự vận hành của hệ thống này.

1 Ví dụ thứ nhất về mạng lưới giúp đỡ được huy động khi gia đình ông Hạnh xây nhà năm 1995 với tổng số tiền đầu tư là 16 triệu đồng. Mạng lưới này được xem là “đơn giản” bởi lẽ sự kiện xây cất nhà đối với ông Hạnh là dịp đầu tiên mà ông trực tiếp được ở vào vị trí người thụ hưởng của hệ thống. Và sau đây là định nghĩa của ông Hạnh về hệ thống:

“Thực tế là ngay cả khi chúng tôi gọi là “giúp đỡ” thì ai ai cũng đều biết rõ là mình nợ ai và nợ bao nhiêu bởi vì thế nào cũng có ngày phải trả nợ. Khi có việc lớn, không bao giờ người ta lại đến các nhà để nhờ giúp vì người ta đều rõ là những người mà trước đây mình đã từng giúp ắt sẽ đến đề nghị giúp mình.”

Bảng dưới đây là tổng hợp các thành phần khác nhau của mạng lưới giúp đỡ đã được huy động nhân dịp này.

Bảng này xem ra hơi phức tạp, song điều đáng chú ý là vào thời điểm diễn ra cuộc phỏng vấn, ông Hạnh đã nắm rất rõ là ông nợ ai và nợ bao nhiêu, và nhất là vào dịp nào thì người ta đã tới giúp, mà những thông tin này lại không cần bất kỳ một sự ký kết nào.

Bảng n° 4 - Mạng lưới giúp đỡ của ông Hạnh: xây nhà

Giúp đỡ của ông Hạnh trước khi làm nhà

Ông Hạnh nhận giúp đỡ để làm nhà

Quan hệ của người cho với ông Hạnh

Tình hình của ông Hạnh trong mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau

Làm ma chồng : 30 kg gạo sau đó 40kg thóc

Bà Lâm : 70 kg thóc, sau đó 50kg thóc

Chị Nợ 50 kg thóc

Bà Xuất : 1 con lợn 30 kg Chị Nợ: 1 con lợn 30 kgLàm nhà : 40 kg thóc Ông Hiếu: 40 kg thóc Họ hàng Cân bằng

Ông Quang: 20 kg thóc Họ hàng Nợ: 20 kg thócÔng Hợi: 200 000 đồng Họ hàng Nợ: 200 000 đồngÔng Kết: 30 kg thóc Họ hàng Nợ: 30 kg thócÔng Hoạt: 20 kg thóc Họ hàng Nợ: 20 kg thócÔng Biền: 20 kg thóc Họ hàng Nợ: 20 kg thóc

Làm nhà : 40 kg thóc + 1 con lợn (80 kg thóc) + 10 cây tre

Ông Long: 50 kg thóc + 40 công giá 9 000 đồng/công

Hàng xóm Nợ: 40 x 9 000 = 360 000 đồng , 50 kg thóc

Làm nhà: 20 kg thóc + 1 con gà

Ông Rõ: 20 kg thóc + 1 con gà, sau đó 100 kg thóc

Bạn Nợ: 100 kg thóc

Làm nhà: 50 kg thóc Ông Việt: 50 kg thóc, sau đó 50 kg thóc

Bạn Nợ: 50 kg thóc

Ông Tiến: 10 kg thóc Bạn Nợ: 10 kg thócÔng Hà: 100 000 đồng Bạn Nợ: 100 000 đồng

Làm nhà: 20 kg thóc Bà Lý: 20 kg thóc Bạn Cân bằng

Page 14: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

73Hệthốngtraođổivàtínhtươnghỗ

Từ một quan điểm định lượng, tổng số các khoản giúp đỡ đã nhận được nếu quy ra tiền mặt thì tương đương khoảng 2.1 triệu đồng, trong đó có 800.000 vốn là những khoản nợ từ trước và là phần những người vay giờ đem hoàn trả. Giá trị của sự giúp đỡ do vậy chiếm 13% tổng số tiền đầu tư, một tỷ lệ đáng kể song lại không có vai trò cốt yếu đối với việc ra quyết định.

Trong bảng này, từ “sau đó” được dùng để chỉ sự giúp đỡ diễn ra trong hai thời điểm, với một hoặc hai ngày cách biệt, để nhấn mạnh tính kế tiếp của hai giai đoạn tạo nên mối quan hệ phụ thuộc mới được thiết lập. Đây là một yếu tố chủ yếu của hệ thống mà chúng ta sẽ còn quay trở lại bàn tiếp.

Chốt lại, từ tình trạng lúc đầu là chủ nợ, ông Hạnh đã thấy mình trở thành con nợ trong một mạng lưới phụ thuộc mở rộng gồm 14 đối tác.

2 Ví dụ thứ hai là trường hợp ông Vóc (55 tuổi) mà vị trí của ông đối với hệ thống giúp đỡ có thể được đánh giá là phức tạp, kết quả tất yếu của thâm niên của nhóm gia đình. Bảng dưới đây đem lại một cái nhìn tổng hợp về mạng lưới giúp đỡ gồm 22 quan hệ riêng biệt này. (xem bảng no 5)So với trường hợp trước, mạng lưới này có ba điểm độc đáo.Một mặt, so với tổng chi phí lo cho đám cưới (6 triệu đồng), những khoản giúp đỡ nhận được tính ra tiền mặt tương đương 1,8 triệu, bằng khoảng 30% tổng số tiền phải chi. Ngoài bình diện xã hội của hệ thống giúp đỡ, số tiền còn là một phần đóng góp đáng kể đối với việc tổ chức sự kiện này.Khía cạnh thứ hai là tính chất tiền tệ hóa rõ rệt của hệ thống: gần 70% tổng giá trị của sự giúp đỡ mà ông Vóc nhận đã được chuyển thành tiền mặt bởi một số ít người, trong khi những khoản vay của ông ta, vốn chẳng mấy quan trọng, thì lại đều là hiện vật (gạo).Cuối cùng, chúng ta thấy đáng chú ý là tầm quan trọng của sự từ chối. Ông Vóc đã từ chối đề nghị giúp thêm của sáu người trong số những con nợ của mình,

do vậy đã hủy bỏ quan hệ phụ thuộc mà những người này mong muốn lật ngược, và đã từ chối sự giúp đỡ mới của ba đối tác tiềm năng. Một cách lô-gic, từ vị trí của một chủ nợ, sau ngày con trai cưới vợ, ông Vóc thấy mình ở tình trạng của con nợ. Nếu như số đối tác trong mạng lưới của ông Vóc là ổn định (12 người) thì thành phần của nó lại biến đổi sâu sắc: trong số 12 đối tác ban đầu, chỉ còn có bốn người là vẫn còn dính líu tới sự kiện này, trong khi việc từ chối những đề nghị giúp thêm và những đề nghị giúp đỡ mới đã cho phép trung tính hóa các quan hệ phụ thuộc mà tám cá nhân khác muốn khởi động hoặc tiếp tục. Như vậy, dù giữa các đối tác có thể ghi cam kết trong thời gian diễn ra sự kiện, diện mạo của toàn bộ mạng lưới được duy trì bởi từng cá thể trong các nhóm gia đình mang tính diễn tiến và linh hoạt vì nó dựa trên một nguyên tắc nhập/tách là cái chỉ cổ vũ ý chí của người cung cấp sự giúp đỡ và của người nhận chứ không phải toàn thể những thành viên tham gia. Tính linh hoạt này của các mạng lưới dựa trên tổng số những quan hệ đôi bên riêng biệt, gợi lại một cách chính xác sự vận hành của các nhóm đổi công.

2.2. Khung chuẩn mực và tính biến đổi của hệ thống

Các đặc tính hình thức: một hệ thống trao đổi không buôn bán

Từ một quan điểm chức năng, hệ thống dựa trên một nguyên tắc tương hỗ: việc trao tặng một tài sản đòi hỏi phần đổi lại với nó là sự trao lại một tài sản có một giá trị ít ra là tương đương, song điều này chỉ có thể diễn ra khi người nhận sự giúp đỡ đến lượt anh ta phải đối mặt với một trong ba sự kiện đã được nói tới ở trên. Nhận xét này cần được làm rõ bằng một sự đồng nhất hóa những đặc tính hình thức của hệ thống giúp đỡ, khi nó đặc biệt nhấn mạnh những đặc tính đã được các nhà dân tộc học ghi nhận như là biểu hiện cho các thiết chế quà tặng trong những xã hội khác nhau.

Bảng n° 5 - Tổng hợp mạng lưới giúp đỡ của ông Vóc: đám cưới con trai (tháng giêng năm 1997)

H u qu c a s gia t ng tình tr ng nghèo, nghiên c u c a chúng tôi ch ra r ng, dù l a ch nk ch b n nào thì c ng kéo theo s gia t ng b t bình ng gi a khu v c nông thôn /thành th .Chúng tôi c ng quan sát th y s gia t ng b t bình ng gi a ng i lao ng có tay ngh và ng i không có tay ngh . S b t bình ng ây c o b ng ch s Theil, cho phép phân lo i theo hàm c ng nh ng ngu n khác nhau c a s b t bình ng (n i sinh và ngo i sinh gi anông thôn/ ô th , ng i lao ng có tay ngh /lao ng không có tay ngh )

Tr 77 ph n c a Olivier Tessier B ng 4 : M ng l i giúp ông H nh làm nhà

Giúp c a ông H nh tr c khi làm nhà

Ông H nh nh n giúp làm nhà

Quan h c ang i cho v i ông H nh

Tình hình c a ông H nh trong m ng l i phthu c l n nhau

Làm ma ch ng : 30 kg g o sau ó 40kg thóc

Bà Lâm : 70 kg thóc, sau ó 50kg thóc

Ch N 50 kg thóc

Bà Xu t : 1 con l n 30 kg Ch N : 1 con l n 30 kg Làm nhà : 40 kg thóc Ông Hi u: 40 kg thóc H hàng Cân b ng Ông Quang: 20 kg thóc H hàng N : 20 kg thóc Ông H i: 200 000 ng H hàng N : 200 000 ng Ông K t: 30 kg thóc H hàng N : 30 kg thóc Ông Ho t: 20 kg thóc H hàng N : 20 kg thóc Ông Bi n: 20 kg thóc H hàng N : 20 kg thóc Làm nhà : 40 kg thóc + 1 con l n (80 kg thóc) + 10 cây tre

Ông Long: 50 kg thóc + 40 công giá 9 000

ng/công

Hàng xóm N : 40 x 9 000 = 360 000 ng , 50 kg thóc

Làm nhà: 20 kg thóc + 1 con gà

Ông Rõ: 20 kg thóc + 1 con gà, sau ó 100 kg thóc

B n N : 100 kg thóc

Làm nhà: 50 kg thóc Ông Vi t: 50 kg thóc, sau ó 50 kg thóc

B n N : 50 kg thóc

Ông Ti n: 10 kg thóc B n N : 10 kg thóc Ông Hà: 100 000 ng B n N : 100 000 ngLàm nhà: 20 kg thóc Bà L : 20 kg thóc B n Cân b ng

B ng 5: T ng h p m ng l i giúp ông Vóc: ám c i con trai (tháng giêng n m 1997)

Lúc u : Tình hình c aông Vóc tr c ám c i con trai

Ti p theo : nh ng ngh giúp ông Vóc c icon trai

Ti p theo: Tình hình c aông Vóc sau ám c icon trai

3 ng i tr n Cân b ng (3)6 ng i tr n sau ó ngh giúp thêm nh ng ông Vóc t ch i

Cân b ng do t ch i(6)

Ch n cho 12 ng ivay (m i ng i t 10

n 20 kg thóc)

3 ng i tr n sau ó ngh giúp thêm và ông Vóc ch p nh n

N (3)

N (7)10 ng i m i ngh giúp õ : ông Vóc ch pnh n 7 và t ch i 3 T ch i quan h (3)

Page 15: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

74 KhóahọcTamĐảo2008

a) Việc sử dụng hệ thống gắn bó chặt chẽ với ba thời điểm mang tính quyết định (hôn nhân, xây nhà, tang ma) đánh dấu đường đời của một cá nhân và sự thay đổi trạng thái của nhóm gia đình. Xét theo khía cạnh này, xã hội địa phương không thỏa hiệp với chuẩn mực và điều này cho dù xét từ một quan điểm kinh tế thì có những dịp khác lại có thể áp dụng nguyên tắc này, vì đó là khi cần tới một khoản đầu tư lớn.

b) Việc giúp đỡ tạo nên dòng lưu thông các sản phẩm nông nghiệp (lợn, thóc, gia cầm, rượu, v.v..) được sản xuất ngay tại địa phương và được dùng phổ biến, mà các hộ gia đình xét về tiềm năng là đều có, trong khi việc tiền mặt hóa hệ thống mới chỉ diễn ra gần đây (từ đầu những năm 1990). Mục tiêu của sự lưu thông như vậy không phải là để có được những thứ hiếm hay những thứ không có tại địa phương mà là đem lại một sự hỗ trợ vật chất cho gia đình đang phải đối mặt với những khoản chi tiêu lớn.

c) Tính chủ đích của việc chuyển giao ban đầu thường là sự việc người cho vay đến nhà người vay nợ để mang tới cho anh ta sự hỗ trợ của mình. Vì vậy, nếu hai sự chuyển giao hoàn toàn đồng nhất từ góc nhìn vật chất, thì sáng kiến, tức là lời đề nghị ban đầu, đã tạo ra trên thực tế một quan hệ không cân bằng tạm thời giữa hai đối tác tham gia vào sự trao đổi.

d) Người mang nợ luôn có sáng kiến về việc chuyển giao trở lại ngay khi đối tác tham gia trao đổi với anh ta phải lo liệu cho một trong số ba sự kiện đặc biệt. Đây là một nghĩa vụ mang tính nội tại của hệ thống.

e) Phần đối xứng do người mang nợ đem hoàn trả hoàn toàn đồng nhất (cả về tính chất và số lượng) với khoản giúp đỡ mà anh ta đã nhận được trước đó: 10kg thóc để trả cho 10kg thóc. Do vậy, ở đây không đặt ra vấn đề đánh giá mức tương đương của phần đối xứng và do đó đã làm biến mất mọi khả năng có thể xảy ra sự bất bình hoặc mặc cả. Tuy nhiên, tài sản được hoàn trả lại không phải là chính thứ đã nợ lúc đầu, vì nó đã được dùng đến từ nhiều tháng hay nhiều năm trước đó rồi.

f) Một cách lý tưởng thì việc hoàn trả phần đối xứng sẽ đi kèm với một sự giúp thêm. Song khác với thực tế quà tặng thêm, sự việc vốn gây sự chú ý lớn trong nghiên cứu dành cho quà tặng, việc giúp thêm này được tính toán như là một món nợ mới đối với người nhận nó. Do vậy nó đã tiếp tục kéo dài mối quan hệ phụ thuộc gắn kết hai đối tác với nhau bằng cách đảo chiều.

g) Phần bổ sung này thường được đặt tách biệt với phần trả nợ thực tế để nhấn mạnh tính kế tiếp của hai giai đoạn cấu thành mối quan hệ phụ thuộc mới được xác lập.

h) Thời gian kéo dài mối quan hệ trao đổi được xác định bởi tính chất của những sự kiện là những cái đòi hỏi sự giúp đỡ và sau đó là phần đối xứng được hoàn trả: không thể có chuyện trả nợ trước.

Chính bởi những đặc tính này mà hệ thống giúp đỡ thể hiện cho phạm trù trao đổi không buôn bán chứ không phải phạm trù quà tặng, nếu như chúng ta áp dụng ở đây phương thức xác định ranh giới do Alain Testart đề xuất. Tác giả này cố gắng chứng minh cho sự nhầm lẫn vốn rất phổ biển giữa hai thể thức chuyển giao hoàn toàn khác biệt với nhau. Để làm việc này, ông đã thực hiện sự phân tích của mình dưới nhãn kính luật học, “tức là tính chính đáng của người chủ nợ đòi hỏi và nhận lại được phần đối xứng”.

Thuật ngữ mà dân làng sử dụng xét ở điểm này là rõ ràng: phần đối xứng được gọi là trả lại hay hoàn lại, và chỉ rất thi thoảng mới dùng từ giúp lại. Không bao giờ có chuyện dùng từ “cho”, theo nghĩa cho không, vì nó chỉ dành để chỉ việc trao tặng một món quà thực sự, tức là một sự chuyển giao không kèm yêu cầu phải có phần trả lại đối xứng dù người đem cho có mong mỏi hay đợi chờ.

Tính biến đổi của hệ thống: sự ra đời và chấm dứt của mối liên hệ phụ thuộc

Diện mạo tổng quát của hệ thống này có thể được phân giải thành một sự kế tiếp nhau của những đơn vị thống nhất cơ sở của sự trao đổi mà mỗi đơn vị này tạo thành một thực thể được hoàn tất từ quan điểm của nguyên tắc tương hỗ. (xem Sơ đồ 4)

Thông lệ giúp thêm có vai trò giao diện giữa mỗi một đơn vị trao đổi cơ bản này và nó qui định việc tiếp tục hay cắt đứt mối quan hệ phụ thuộc giữa hai đối tác.Trong thực tế, vận hành tổng thể đặt ra một số biến đổi có thể.1. Sự giúp đỡ ban đầu thường được đề xuất từ ảnh

hưởng của người thụ hưởng là người đã khởi xướng một chuỗi những chuyển giao. “Thường thì” chứ không phải là “hoàn toàn” vì nhiều người dân trong làng đã giữ một thái độ thận trọng đối với cái được xem như là một chuẩn mực không thể xâm phạm đến. Họ khẳng định rằng nếu người hưởng lợi (B) của sự chuyển giao ban đầu hoàn toàn có ý trao phần đổi lại cho người thụ hưởng (A) và sẽ không bao giờ phải mang nghĩa vụ trả nợ, thì đôi khi chính người thụ hưởng tương lai là người sẽ đi trước một bước và đề nghị giúp đỡ. Người thụ hưởng như vậy đã sáp nhập vào quyết định đưa ra sự giúp đỡ của mình dù là một cách ngẫu hứng hay không với sự sai biệt về tuổi tác và quan hệ liên thế hệ với người nhận.

2. Các thiết chế quà tặng và trao đổi khác biệt với nhau ở một khía cạnh chính yếu: có hay không khả năng từ chối một sự chuyển giao ban đầu. Từ chối một quà tặng sẽ bị xem như là một thái độ làm mất lòng người trao tặng. Ngược lại, từ chối một lời đề nghị giúp đỡ lại là một chiều kích cấu thành mối quan hệ mang tính trao đổi khi mà chỉ cần người

Page 16: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

75Hệthốngtraođổivàtínhtươnghỗ

1Phỏngvấnthựchiệnngày03/07/1997.

Sơ đồ 4: Hệ thống phức hợp và đơn vị trao đổi cơ bản

nhận được lời đề nghị nêu lý do cho sự từ chối của mình, và nếu được ta có thể nói là “giữ phép”. Trong trường hợp này, quan hệ họ hàng lại một lần nữa được một số người dân trong làng sử dụng như là tiêu chí quyết định khả năng có thể từ chối, tuy nhiên khả năng này lại không được quan niệm và sử dụng theo cùng một phương thức.

3. Tính ưu trội mà hệ thống dành cho giá trị của quan hệ trao đổi so với giá trị sử dụng của tài sản được đem ra trao đổi không có nghĩa là quan hệ phụ thuộc lẫn nhau gắn kết hai đối tác được tái khởi động một cách triệt để do xuất hiện một sự giúp thêm. Do đó, chuỗi liên tiếp của đơn vị trao đổi cơ sở thứ hai và thậm chí là thứ ba không được xem như là một chuẩn tuyệt đối mà như là một thực tiễn lý tưởng. Trong nhiều trường hợp, quan hệ nợ nần kết thúc khi có sự hoàn trả phần đổi lại, hoặc bởi vì người hoàn trả đã không đề nghị một sự giúp thêm, hoặc bởi người thụ hưởng từ chối phần giúp thêm mà người ta đề nghị trao cho anh ta và như vậy là trên thực tế đã xóa bỏ quan hệ phụ thuộc.

Xét đến cùng, nếu như hệ thống thừa nhận một mức độ linh hoạt nhất định, nhất là khi dành cho người nhận sự giúp đỡ tiềm năng quyền tự do từ chối quan hệ mang tính trao đổi mà anh ta được đề nghị, một khi bước qua ngưỡng này, tức là khi anh ta đã chấp nhận sự chuyển giao đầu tiên, những khả năng vi phạm khung chuẩn mực là những cái bị quy trách nhiệm nhiều nhất. Đến mức mà một số kinh nghiệm dàn xếp đã cho phép lách hệ thống, như là ông Quang giải thích về chuyện xây nhà của mình:

“Ông Lưu mang đến giúp đỡ tôi 200.000 đồng. Tôi đã nói với ông ấy là đã lo được đủ tiền. Thế là ông ấy bảo: “Nếu thế thì tớ cho cậu vay 200.000 đồng này, như thế cậu có thể trả lại tớ khi dỡ xong lạc chứ không phải đợi đến khi có việc lớn.” [và ông Quang kết luận] Như thế thì lại là khác hẳn, giúp đỡ là cho những việc lớn, lâu dài còn cho vay thì tôi trả lúc nào cũng được vì cái này thì chỉ phụ thuộc vào chuyện tôi thống nhất với ông Lưu. Nhưng đúng là tôi đã lo liệu đủ hết cả rồi.”1

Lối dàn xếp này kiểm chứng một cách sâu sắc “sức mạnh” của sự trao đổi. Cùng một thứ tài sản được lưu thông vào cùng một thời điểm giữa cùng hai đối tác, được xem như có một giá trị khác đi tùy theo việc người trao và người nhận cùng quyết định thống nhất là giao dịch của họ sẽ cho vay hay giúp đỡ. Nếu là cho vay, thì đây là một giao dịch cá nhân về giá trị sử dụng của một tài sản mà các điều kiện cho vay và trả nợ (thời hạn, lãi suất) chỉ phụ thuộc vào thỏa thuận riêng giữa chủ nợ và con nợ. Còn trong trường hợp thứ hai, những chuẩn mực chi phối hệ thống lại thuộc về lĩnh vực trách nhiệm tập thể trong chừng mực chúng đề ra quy định và hệ thống hóa toàn bộ sự lưu thông của những tài sản thuộc về lĩnh vực giúp đỡ: với tên gọi này, xã hội địa phương có thể có thực hiện chính đáng một loạt những “quyền đánh giá” đối với sự trao đổi.

Khả năng đòi lại phần đổi lại

Như vậy ở đây đặt ra câu hỏi trung tâm về những phương tiện mà xã hội địa phương nắm giữ để cho những luật lệ này được tôn trọng, mà trước hết là khả năng đòi lại được phần đổi lại, tức là người cho vay có

B ng 6

Quan h v i ch h % Giúp i công Máu m (ông, cha, con, cháu ru t th t). 20%Dòng h : ng i cùng thôn. 14%Dòng h : khôgn cùng thôn. 2%

H hàng 36%

H hàng 37%

Thông gia : ng i cùng thôn 2% Thông gia : ng i không cùng thôn. 11%

Thông gia13%

Thông gia 17%

Hàng xóm : cùng xóm 23%B n : cùng thôn 25%B n : không cùng thôn 3%

Hàng xómvà b n51%

Hàng xóm (29%)b n (17%)

46%

T ng s 100% 100%

Ng i cho(ch n

Ng i nh n(mang n )

… Không gi i h nch c n ng ti p t ctrao i

Ng i cho(ch n )

Ng i nh n(mang n )

Trao i1 - giúp l n u : t o ra m i quanh n n n

Trao i 2 - tr l i : ch m d t quan h nn n

Récipiendaire(équilibré)

n v traoi c b nu tiên

Trao i 3 - giúp thêm : t o ra m i quan hn n n m i

Ng i nh n(mang n )

Ng i cho(cân b ng)

Ng i nh n(Cân b ng)

Trao i 4 - tr l i : ch m d t quan h nn n

n v traoi c b n

th 2

Ng i cho(cân b ng)

Ng i cho(ch n )

Th igian dài(tháng, n m)

A B

Trao i 5 : - giúp thêm : t o ra quan h nn n m i

Page 17: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

76 Khóa học Tam Đảo 2008

khả năng phát huy giá trị của quyền anh ta có lại một tài sản đồng nhất với tài sản mà anh ta đã giúp đỡ từ một vài tháng hay một vài năm trước đó. Do đó nhất thiết phải tự vấn về những nghĩa vụ pháp lý và đạo đức là những điều khiến việc hoàn trả phần đối xứng có hiệu quả. Trước tiên là một nhận xét ban đầu: đối với mười hai trường hợp có vai trò của giúp đỡ mà tôi đã nghiên cứu sâu, trong tổng số 169 quan hệ mang tính trao đổi, không một ai trong số những người đã nói chuyện với tôi nói về chuyện nợ không được trả.Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng là phần đổi lại đã không được hoàn trả do người mang nợ cố tình và rằng sự vi phạm này đã dẫn tới xung đột. Liệu người chủ nợ có thể trông cậy vào đâu để giành lại quyền của mình ?a) Từ góc độ pháp lý thì anh ta không thể có hỗ trợ. b) Trong trường hợp của hệ thống “giúp đỡ”, những

chuyển giao được thực hiện trong lĩnh vực cá nhân nhiều ngày trước dịp lễ lạt mà không hề có làm chứng nên không thể giúp chứng thực đã có trao đổi khi xảy ra trường hợp xung đột.

Tuy nhiên, dù thiếu vắng cả hai khả năng đòi lại, xét cả về mặt pháp lý và tập thể, tôi không hề gặp một trường hợp vi phạm nào đối với chuẩn mực tương hỗ. Vì vậy, cần phải ghi nhận rằng nghĩa vụ trả lại phải có một bản chất khác.Qua “giá trị” của việc giúp đỡ đã mang tới, cần phải hiểu trách nhiệm xã hội và tình cảm gắn liền với nó, và nó thể hiện trong hiện thực một “sức mạnh” đòi hỏi người nhận nó phải trả phần tương đương với nó hoặc thậm chí còn hơn thế. Nói rõ hơn là lộ ra chính cái bản chất của sự trao đổi, đó là quan hệ tương hỗ được tạo lập, mà trách nhiệm xã hội được nó truyền tải là độc nhất vì nó là sản phẩm của mối liên hệ đã có từ trước giữa hai đối tác trong cuộc. Ngoài chuyện là những tài sản được lưu thông, thì đó còn là dấu ấn của tình bằng hữu, của nghĩa vụ họ hàng hoặc quan hệ hàng xóm làng giềng thân thiện.

Và bởi vì các tài sản được trao đổi chỉ có một giá trị sử dụng bình thường, được đem ra dùng ngay khi chúng được mang tới, thì nghĩa vụ hoàn trả như vậy xuất phát từ một nghĩa vụ đạo đức mang tính nội tại gắn với sự chấp thuận của hai đối tác về nguyên tắc trao đổi. Do đó cần phải quan tâm tới bản chất của các mối liên hệ có vai trò kích thích nghĩa vụ đạo đức này, tức nghĩa vụ hoàn trả.

2.3. Sự trao đổi - nguồn sản xuất ra các mạng lưới xã hội

Để nghiên cứu các hệ thống trao đổi lao động, tôi đã xác định bản chất của các liên hệ xã hội và gia đình giữ vai trò tập hợp các đối tác của mạng lưới giúp đỡ. Các dữ liệu được giới thiệu trong bảng dưới đây được rút ra từ 12 nghiên cứu trường hợp chi tiết về thành phần của mạng lưới giúp đỡ của từng nhóm gia đình được phỏng vấn, bao gồm trong đó tất cả là 169 quan hệ mang tính trao đổi. (xem Bảng 6)

Trước hết, ta nhận thấy các mối liên hệ trong trao đổi được thiết lập theo tỷ lệ tương đương giữa các cực mà một bên là “quan hệ họ hàng” và một bên là “hàng xóm láng giềng - bằng hữu”. Cấu trúc về thành phần của các mạng lưới này có giá trị cho mọi hệ thống giúp đỡ và hệ thống đổi công, một sự tương đồng khẳng định hai cực này chính là hai trục tạo nên cốt lõi của những quan hệ xã hội ở địa phương. Theo lối nói ở làng xã, việc giúp đỡ được xem như là lan rộng trong khuôn khổ quan hệ họ hàng (“anh em ruột, anh em họ giúp đỡ lẫn nhau”), và như vậy cho thấy trong thực tế một diện mạo rõ ràng ít tập trung hơn. Vì vậy, nếu tỷ lệ trao đổi tổ chức theo quan hệ ruột thịt có tính nổi trội, thì vai trò của quan hệ thông gia trái lại cũng đáng lưu ý (13%); đây là những minh chứng mới về mức độ hỗn hợp mà hệ thống quan hệ họ hàng chủ yếu theo bên chồng cho thấy. Mặt khác, trọng lượng của quan hệ họ hàng được cân bằng bởi sự tham gia tất yếu của các thành viên cùng thân tộc.

Bảng n° 6 - Mạng lưới giúp đỡ: quan hệ họ hàng, làng xóm và tình bằng hữu B ng 6

Quan h v i ch h % Giúp i công Máu m (ông, cha, con, cháu ru t th t). 20%Dòng h : ng i cùng thôn. 14%Dòng h : khôgn cùng thôn. 2%

H hàng 36%

H hàng 37%

Thông gia : ng i cùng thôn 2% Thông gia : ng i không cùng thôn. 11%

Thông gia13%

Thông gia 17%

Hàng xóm : cùng xóm 23%B n : cùng thôn 25%B n : không cùng thôn 3%

Hàng xómvà b n51%

Hàng xóm (29%)b n (17%)

46%

T ng s 100% 100%

Ng i cho(ch n

Ng i nh n(mang n )

… Không gi i h nch c n ng ti p t ctrao i

Ng i cho(ch n )

Ng i nh n(mang n )

Trao i1 - giúp l n u : t o ra m i quanh n n n

Trao i 2 - tr l i : ch m d t quan h nn n

Récipiendaire(équilibré)

n v traoi c b nu tiên

Trao i 3 - giúp thêm : t o ra m i quan hn n n m i

Ng i nh n(mang n )

Ng i cho(cân b ng)

Ng i nh n(Cân b ng)

Trao i 4 - tr l i : ch m d t quan h nn n

n v traoi c b n

th 2

Ng i cho(cân b ng)

Ng i cho(ch n )

Th igian dài(tháng, n m)

A B

Trao i 5 : - giúp thêm : t o ra quan h nn n m i

Page 18: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

77Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ

Cuối cùng, đối nghịch với sự phong phú tương đối của các quan hệ họ hàng là hai nhóm hàng xóm láng giềng và bằng hữu, riêng nhóm bạn bè chiếm hơn một phần tư các quan hệ trao đổi.Cũng như đổi công, hệ thống giúp đỡ phát triển trước hết trong nội bộ làng xã. Việc tham gia của người ngoài xã rất khiêm tốn (16%) và tập trung vào những quan hệ “thông gia” mà nó là thành phần chính. Tuy nhiên, tính song song được thiết lập giữa hai hệ thống lại chỉ có ý nghĩa ở cấp độ quan hệ của làng xã với bên ngoài: trong nội bộ làng xã, các mạng lưới phát triển theo cách khác biệt. Trong trường hợp tương trợ việc nông, các đối tác của các mạng lưới chủ yếu tự tổ chức với nhau theo xóm. Các mạng lưới giúp đỡ thể hiện một diện mạo không gian ít rõ nét hơn, tức là khuyếch tán trong không gian làng xã. Vị trí ưu tiên hàng đầu của xóm được điều hòa bởi sự mở rộng các mạng lưới ra bên ngoài đường biên của nó, nhất là hướng tới bạn bè hay những người bà con sống rải rác trong làng xã hay sống ở ngoài làng.Phần khiêm tốn của lĩnh vực nghĩa vụ do đó để lại một vị trí đáng kể cho cực đối lập với nó, tức là sự tham gia tự nguyện. Điều này được phản ánh qua tính biến động về thành phần của các mạng lưới. Do đó, mỗi một mạng lưới là : 1. duy nhất bởi hình thức, phạm vi cũng như thành phần của nó; 2. biến đổi trong không gian và thời gian: mạng lưới biến đổi qua quá trình thực hiện các chuyển giao; 3. được kiểm soát một phần bởi hai đối tác.

2.4. Quan hệ tương hỗ: chu trình mở và liên thế hệ

Việc tham gia vào hệ thống giúp đỡ với vai trò người cung cấp sự giúp đỡ về tiềm năng là có hiệu quả trong suốt vòng đời của nhóm gia đình, bởi lẽ nhóm gia đình chỉ có thể hưởng lợi từ hệ thống khi đến lượt mình phải đối mặt với một trong số ba sự kiện liên quan.

Ví dụ, ông Hạnh (xem phần trên, nghiên cứu trường hợp thứ nhất) trước khi xây nhà là một chủ nợ: tóm lại, ông đã chuẩn bị trước cho sự gia nhập của mình vào hệ thống như là người hưởng lợi, bằng cách tự đặt mình từ trước vào vị trí là chủ nợ đối với năm đối tác. Lô gic về tính liên tục này thậm chí bắt rễ trước khi đôi vợ chồng trẻ ra ở riêng, thông qua trung gian là cha mẹ họ là những người đã lo tổ chức đám cưới và sau đó lo cho họ ra ở riêng.Quan hệ dính líu này còn tiếp tục cho đến khi qua đời vì đám ma là dịp để người ta đến giúp đỡ và hoàn trả nợ nần cho vợ hoặc chồng của người quá cố hoặc, nếu người vợ hay chồng này cũng đã qua đời trước, thì trả cho con cháu trực tiếp của ông ta hoặc bà ta. Giai

đoạn cuối cùng này của lô gic về tính liên tục đã được chị Nành mô tả qua những lời sau:

“Khi tổ chức đám cưới cho bốn cậu con trai, chúng tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ song chúng tôi đã trả nợ dần dần. Bây giờ chúng tôi đã cao tuổi và chẳng còn cần gì nữa. Song chúng tôi vẫn tiếp tục giúp đỡ người khác. Tôi không biết chính xác là ai vì ông Cương [tức chồng chị Nành] lo những chuyện đó [trả lời cho câu hỏi, tại sao anh chị vẫn tiếp tục giúp đỡ những người khác?]. Vì thế mà Tiến [con trai cả] sẽ yên tâm phần nào khi phải lo liệu ma chay cho tôi… vì chắc chắn là tôi sẽ là người ra đi sau cùng!”1

Như vậy, liệu có phải là đúng đắn khi nói về một chu trình mở vì ở đây tài sản được lưu thông liên tục chứ không hề bị đứt đoạn: các bậc cha mẹ lo liệu cho hai sự kiện quan trọng cho phép con cái của họ tạo lập gia đình riêng, và con cái lại lo liệu việc sang thế giới bên kia của cha mẹ mình, những liên hệ phụ thuộc phân nhánh ra trên hai thế hệ. Do đó chúng ta có thể tóm tắt diễn tiến của tình hình nhóm gia đình đối với hệ thống, dưới hình thức một sơ đồ. (xem Sơ đồ 5)

Sự trình bày này chủ yếu chỉ mang tính hình thức: tuy nhiên nó đã cố gắng tổng hợp những giai đoạn như đã được mô tả. Trong giai đoạn đầu, đám cưới và sau đó là việc ra ở riêng của đôi vợ chồng trẻ không khiến họ trực tiếp tham gia vào trong hệ thống giúp đỡ vì chính cha mẹ bên chồng đảm nhận việc này. Trong những năm đầu tiên của đời sống vợ chồng, nhóm gia đình từng bước tham gia vào hệ thống song chỉ phát triển một mạng lưới quy mô hạn hẹp. Việc xây cất một căn nhà tiện nghi hơn, là điều thường diễn ra trước lễ cưới của người con cả, tạo nên sự đứt đoạn rõ nét hơn cả: từ một vị trí trung tính hay một chủ nợ nhỏ, nhóm gia đình rơi vào tình trạng một con nợ trong một mạng lưới mở rộng. Thời gian cần thiết để tái lập thế cân bằng sẽ còn kéo dài hơn khi chi phí cho việc xây cất nhà cửa thường là khoản chi phí cao nhất mà nhóm gia đình mang nợ trong toàn bộ chu trình. Sau đó, tùy theo mức độ của những sự kiện đặc biệt khác, những dao động của đường cong, thể hiện cho trạng thái phụ thuộc của nhóm đối với hệ thống, sẽ có xu hướng giảm bớt độ lớn và/hoặc xê dịch nhanh hơn về phía trên, các hộ gia đình tham gia vào một mạng lưới trao đổi phức tạp là nơi mà cùng một lúc và kế tiếp nhau họ ở vào tình trạng của con nợ và chủ nợ. Nói cách khác, nhóm gia đình càng tiến nhanh trong khuôn khổ vòng đời của mình bao nhiêu thì tổng giá trị của những giúp đỡ mà nhóm gia đình đã nhận và đã đầu tư sẽ nhanh chóng cân

1 Phỏng vấn thực hiện ngày 19/09/1996.

Page 19: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

78 Khóa học Tam Đảo 2008

S 5

An c

ám c i C p v ch ng có con còn nh

Cón cái l p gia ình và d nn nh cu c s ng

Xây nhà ám tang cham

ám c i 1

ám c i 3

ám c ie 4 ám c i 2

Ch n

Ng i n

Cha m lo li u

ám tang : do con cái lo li u

Ch t

20 – 25 tu i 35 – 40 tu i 55 – 60 tu i

Tu i c a chh

Sơ đồ 5: Chu trình thiết lập nhóm gia đình: tình hình trong hệ thống giúp đỡ

bằng để đi tới chỗ trở thành giá trị dương. Cuối cùng, một khi người con út lập gia đình thì nhóm gia đình sau một vài năm sẽ ở vào vị trí trung tính hoặc chủ nợ, sự cân bằng được tái lập hoàn toàn khi tổ chức lễ tang cho chủ hộ hoặc cho vợ (hoặc chồng) của chủ hộ.

2.5. Hình thức phái sinh của hệ thống giúp đỡ: quà tặng không cần sự qua lại như mong đợi

Những hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn nhất đặt ra một vấn đề với môi trường xã hội trực tiếp xung quanh họ: họ là phần gắn kết của xã hội địa phương gồm họ hàng, hàng xóm và bạn bè, song sự hội nhập của họ vào trong các mạng lưới giúp đỡ lại mang một nguy cơ kinh tế cho các đối tác tiềm năng của họ, những người này cho rằng thiệt hại kinh tế có thể là quá cao và do đó thích sử dụng một giải pháp thay thế khác. Khi những hộ gia đình này đối mặt với một trong số ba sự kiện quan trọng, thì mọi người tham gia vào một sự huy động lớn xét về số lượng quà tặng song lại có giá trị thấp: vài cân gạo, chè, một con gà....Nguyên tắc là một quà tặng không có phần đổi lại được mong đợi, có nghĩa không buộc phải tính chuyện có quà tặng lại. Đây là một một hình thức “biến thể” hay “được dàn xếp” của hệ thống giúp đỡ mà ta không nên nhầm lẫn với những món quà tặng bằng tiền mặt mà tất cả các chủ hộ gia đình khi đến dự tiệc cưới hay viếng đám ma đều đưa cho cha mẹ của cô dâu chú rể hoặc vị chủ tang lễ. Những giải thích của chị Minh cho phép tiếp cận trạng thái tinh thần chi phối tầm mức của tình đoàn kết được toan tính này:

“Song cũng có những người rất nghèo trong thôn như anh Khương [cùng họ] hay chị Xuân. Khi làng nước đến giúp đỡ thì không tính gì đến chuyện được trả nợ. Như khi đám cưới của con gái anh Khương và con gái chị Lịch, cả hai đều đến hầu hết mọi nhà trong thôn để xin được giúp đỡ 20 cân thóc hoặc 20-30.000 đồng. Song phần lớn nhà nào cũng đưa ít hơn, chỉ 5 cân thóc hoặc 10.000 đồng, nhưng mà là “cho” chứ không phải là “giúp” vì mọi người đều rõ là họ không thể trả nợ được. Và khi họ tổ chức đám cưới, dù không có cỗ bàn gì nhưng bà con vẫn đến rất đông. Đám cưới của Biển [cùng họ] cũng vậy, cũng chẳng có cỗ cưới nhưng mà gần như cả đội [đội số 12] đều đến và cùng đi sang bên Thái Ninh để đón dâu.”1

Nếu như chị Minh chú ý không lẫn lộn về mặt từ ngữ giữa giúp và cho, thì đó là vì sự khác biệt này rất quan trọng, khi mỗi một từ đánh dấu một phương thức lưu thông tài sản và một dạng quan hệ trao-nhận. Từ thứ nhất bao hàm một nguyên tắc tương hỗ và một sự bất cân bằng tạm thời trong quan hệ, trong khi vẫn ngầm thừa nhận rằng hai đối tác đủ gần nhau xét về góc độ kinh tế và xã hội để có thể cùng tham gia vào một sự phân hoạch, đó là trao đổi. Còn từ thứ hai thì nhấn mạnh tính bất xứng, từ chối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, và nhấn mạnh về tính ưu trội không thể tiếp cận được của người trao khi anh ta loại trừ quyền hoàn trả của kẻ nhận.Nói cách khác, hệ thống giúp đỡ do bản chất của nó đã tiềm ẩn một quan hệ kép của tình đoàn kết và thế

1 Phỏng vấn thực hiện ngày 10/08/1996.

Page 20: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

79Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ

ưu trội tạm thời1 là điều mở ra một loạt những khả năng chiến lược và vị thế không những cho người cung cấp sự giúp đỡ mà cho cả người nhận nó. Việc nhận cho phép người thụ hưởng trở thành thành phần gắn kết của một mạng lưới trao đổi, là điều sẽ tạo nên một dạng “phân xử” nhất định, và cho phép anh ta đạt được một vị thế xã hội và kinh tế khiến anh ta không còn khác biệt so với những người còn lại của nhóm địa phương; đây chính là điều mà quà tặng không kèm sự tương hỗ được mong đợi cố gắng tránh né khi phương thức này khiến cho người được tặng đứng ở ngoài những chu trình mang tính chuẩn mực. M. Douglas đã không nói điều gì khác hơn khi bà nhận thấy “Điều tồi tệ trong cái tạm gọi là quà tặng không mất tiền mua này, đó chính là ý muốn của kẻ trao là không nhận lại một món quà từ người nhận” (Douglas, 1989).Một cách dùng thuật ngữ quan trọng chính xác nhắc lại rằng thời điểm và các cử chỉ của sự trao đổi hay tặng quà là những yếu tố chủ yếu giúp ta hiểu rõ về mặt xã hội các hệ thống chuyển giao tài sản, dù bất kỳ tài sản nào. Khi trao tài sản, người cho chú ý sử dụng từ “giúp” chứ không phải là từ “cho” ngay cả khi hai bên đều rõ là tài sản được lưu thông theo một chiều duy nhất, rằng đây là một món được đem cho mà không hề có sự mong đợi về tính tương hỗ. Sự cẩn trọng về mặt ngữ nghĩa này cho phép che dấu những thể hiện bề ngoài và trong một khoảng thời gian đưa ra cho người nhận cái ảo tưởng về một chuẩn mực kinh tế-xã hội.Như vậy, các hộ gia đình xét về mặt kinh tế là “bấp bênh” hoặc những người có nguy cơ trở thành như vậy, tự tổ chức hệ thống hỗ trợ riêng của họ, một hệ thống mang tính từ thiện. Hệ thống này có thể được thu nhận như tình đoàn kết được áp đặt trong một xã hội địa phương là nơi mà cả đến những sự kiện và cử chỉ nhỏ nhặt nhất của các bên tham gia cũng đều bị đem ra dò xét và đánh giá. Khi nhấn mạnh đến hai lần là “bà con vẫn đến rất đông” và sau đó là “gần như cả đội đều đến”, chị Minh đã chỉ rõ cái nghĩa vụ đoàn kết chân thành hay mang tính bắt buộc, được thể hiện dưới sức ép của cái nhìn đánh giá của người đời. Một hộ gia đình mà từ chối thuận theo trong khi môi trường xung quanh lại cho gia đình này có khả năng, thì nghiễm nhiên hộ này sẽ bị cho vào tình trạng tế nhị, tất sẽ phải hứng chịu sự phê phán và bất đồng từ một cơ thể xã hội tìm thấy khả năng thể hiện sự thống nhất của nó, trong những dịp có vẻ vô tư này. Sự giúp đỡ miễn phí thực ra chỉ là cái bề ngoài: nếu như lưu thông tài sản xét về mặt vật chất là theo một chiều duy nhất, thì ở một chừng mực, người trao tặng sẽ nhận lại sự ghi nhận của xã hội địa phương, một thứ thặng dư về tên tuổi và uy tín.Cuối cùng, cần phải thừa nhận rằng bộ máy đoàn kết được hình thức quà tặng này tạo nên không hề hướng

tới một sự cải thiện cho tình trạng bấp bênh về mặt kinh tế mà một số hộ gia đình phải đối mặt. Cũng như hệ thống giúp đỡ, nó che phủ cùng một khu vực hạn hẹp và cho phép những người nghèo nhất có thể gắn một phần tối thiểu yếu tố hội hè vào những giai đoạn lớn trong vòng đời của họ, nhờ vậy đem lại cho họ ảo tưởng là không bị cho ra ngoài lề các mạng lưới xã hội dựa trên trao đổi, trong khi họ vốn là như vậy.Để đối mặt với những nhu cầu đời sống thường nhật, song song với sự giúp đỡ đúng thời điểm và nhỏ giọt đầy khôn khéo này, các gia đình khó khăn nhất không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đi vay nặng lãi, khi mà khả năng vay tín dụng đối với họ là bất khả do không có đủ nguồn thế chấp. Vì thế, những gia đình này rơi vào trong những mạng lưới phụ thuộc theo kiểu người nhà, điều khiến họ bị cuốn vào vòng xoáy ốc của tình trạng bần cùng hóa và nợ nần, và như vậy lại đánh dấu một giai đoạn mới trong quá trình họ bị gạt ra ngoài lề. Đối trọng lại hệ thống giúp đỡ là cái truyền tải một hình ảnh hỗ trợ lẫn nhau được mở rộng từ một mạng lưới rộng lớn những quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, sự tồn tại của lệ cho vay nặng lãi (với mức lãi suất có thể lên tới 30 à 40% / 2 tháng) cho thấy điều hoàn toàn ngược lại, đó là một xã hội địa phương bị thiếu hẳn tình đoàn kết. Tuy nhiên, đây vẫn là cùng một làng xã với chính những người dân làng đó.

Kết luận

Hệ thống giúp đỡ đem lại cho các nhóm gia đình một phần phương tiện cần thiết giúp cho quá trình phát triển cũng như tái sản xuất của họ, và mở rộng hơn là cho sự phát triển và tái sản xuất của xã hội địa phương trong tổng thể của nó. Để trong nhiều năm ròng có thể đi ăn cỗ cưới, cỗ đào móng... đây rõ ràng là một yếu tố góp phần cắt đứt tính đơn điệu thường nhật, tạo ra các không gian của giao tiếp xã hội và giải trí. Tuy nhiên, sẽ là ảo tưởng khi chỉ nhìn thấy ở đây sự thể hiện của tình đoàn kết gia đình và làng xã hay phát hiện ra ở đây những dấu tích cuối cùng của các quan hệ kinh tế-xã hội trước kia vốn dựa trên các phương thức sản xuất và tiêu dùng mở rộng. Là công cụ điều tiết xã hội và kinh tế trong chừng mực nó tạo điều kiện và khuyến khích những khoản chi tiêu phô trương để tương xứng với cái điều mà xã hội địa phương khẳng định là cần phải như vậy, trong khi vẫn duy trì các nhóm gia đình trong những mạng lưới địa phương phụ thuộc lẫn nhau thì trong một số trường hợp, nó lại thực sự là một công cụ của sự loại trừ. Bởi tất cả những lý do trên, việc sử dụng công cụ này được hệ thống hóa và khuôn lại một cách chặt chẽ ở ba thời điểm mang tính quyết định (các giai đoạn chuyển tiếp) đánh dấu đường đời của cá nhân và của hộ gia đình.

1 M. Godelier nhấn mạnh tính hai mặt của quan hệ kép này: “quà tặng kéo những chủ sự xích lại gần nhau vì nó được chia sẻ và lại chia tách họ ra về mặt xã hội vì nó khiến cho người này trở thành kẻ chịu ơn của người kia” (Godelier, 1997: 21).

Page 21: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

80 Khóa học Tam Đảo 2008

3. Hệ thống trao đổi và mạng lưới xã hộiTrong các hệ thống khác nhau đã được nghiên cứu, những mối liên hệ trong sự trao đổi được thiết lập ngang bằng tương đương giữa các cực của một bên là “quan hệ họ hàng” và một bên là “hàng xóm láng giềng - bằng hữu”. Sự đồng dạng này nhấn mạnh rằng hai cực này chính là hai trục định ra cốt lõi của những quan hệ xã hội ở địa phương.Các hình thức trao đổi đặc biệt ngầm định hai đối tác: đó là tổng số các quan hệ đôi bên riêng biệt tạo ra ở cấp độ hộ gia đình một mạng lưới trao đổi độc nhất bởi hình thức, phạm vi cũng như thành phần của nó. Trong những điều kiện này, hộ gia đình thường đồng thời là chủ nợ trong quan hệ với một đối tác trong mạng lưới của nó và lại là con nợ của một người khác, và trong suốt cuộc đời của mình, hộ gia đình vừa đồng thời là chủ nợ cũng như con nợ đối với cùng một đối tác.Vì vậy, không thể thiết lập bất kỳ một thứ hạng tôn ti nào ở giữa những mạng lưới như vậy, bởi lẽ cấu trúc bề ngang của nó chỉ tạo ra một gò ép rất nhỏ, thậm chí là không có, đối với những cá nhân là những người lần lượt ở trong một quan hệ không cân bằng tạm thời, trong một tình huống nợ nần lẫn nhau mang tính tích cực. Nói cách khác, cấu trúc dễ linh hoạt và mang tính diễn tiến này ở đây là một cái khung đã được xác định, tức là nó nổi lên từ những tương tác và tự thân nó thì không thể tạo ra những tương tác mới. Diện mạo này ngược lại với diện mạo của những mạng lưới mang tính tôn ti là nơi mà vị trí “trung tâm” do một cá nhân nắm giữ đem lại cho anh ta trên thực tế những đặc ân về mặt địa vị và kinh tế là những cái mà các thành viên khác không thể đòi hỏi, trong chừng mực nhân vật chủ chốt này thấy mình ở giao diện giữa các chủ thể xã hội là những người tự họ lại không hề gắn kết với nhau.Trong chừng mực mà quan hệ trao đổi không củng cố tính bề trên của người trao, thì phải thừa nhận rằng việc thiết lập và duy trì các mạng lưới giao tiếp xã hội nằm ở tâm điểm của các hệ thống trao đổi, dù đó là trao đổi của cải hay thời gian làm việc, và rằng mục đích đầu tiên của chúng là tạo ra và duy trì các mối dây liên hệ. Do đó, trong trường hợp đổi công nhà nông, việc mà sự tương hỗ trở lại mau chóng được thực hiện sau khi có sự giúp công ban đầu và phần đổi lại thường là chính những công việc đồng nhất với công việc trước đây đã được làm công giúp đã tước bỏ mọi tính duy lý kinh tế-kỹ thuật đối với việc trao đổi lao động.

Lô gic tương tác thuần khiết này giữa con người với nhau đem lại sự tán thành cho câu hỏi mà Godelier đặt ra1, khi mà tiếp ngay sau việc trao quà tặng là việc tặng lại, khiến cho người trao tặng lúc đầu nhận lại cùng một thứ như anh ta vừa trao đi: “Ngay khi được trao là được trả, liệu đây có phải là những món quà tặng phi lý?”. Và tác giả đã nhận thấy rằng nếu như thông lệ này có thể là thái quá đối với một nhà quan sát bên ngoài, thì “hai quan hệ xã hội đồng nhất, nhưng theo hai nghĩa đối nghịch, đã được tạo ra và cái này kéo theo sau cái kia, do đó kết nối hai cá nhân hay hai nhóm trong một quan hệ phụ thuộc lẫn nhau”.Cuối cùng, các hệ thống được mô tả ở đây thể hiện trước hết như là những công cụ phục vụ cho trò chơi xã hội mà nhóm gia đình tham gia duy trì. Trong cái xã hội này vốn được đặc trưng bởi một sự chia cắt chằng chịt trong lĩnh vực kinh tế xã hội và là nơi mà sự thống nhất gia đình hạt nhân (gia đình đơn giản) giữ vai trò thống trị, dệt nên và duy trì những liên hệ là một vấn đề cốt tử đối với sự gắn kết của nhóm xã hội trong tổng thể của nó cũng như đối với sự khẳng định cho bản sắc riêng của mỗi nhóm gia đình nói riêng.Tôi xin cám ơn sự quan tâm theo dõi của quý vị.

Tài liệu tham khảo đã dẫn• Caillé A., 2000, Anthropologie du don - Le tiers

paradigme, Paris, Desclée de Brouwer.• Condominas G., 1980, L’espace social à propos de

l’Asie du Sud Est, Paris, Flammarion.• Cordonnier L., 1993, “Normes de réciprocité et

comportements stratégiques”, Ce que donner veut dire, Paris, La Découverte, pp. 139-173.

• Degenne A. et Forsé M., 1994, Les réseaux sociaux. Une analyse structurale en sociologie. Paris, Arnaud Colin.

• Diệp Đình Hoa, 2000, Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ [Les Vietnamiens du delta du Nord], Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội.

• Douglas M.,1989, “Il n’y a pas de don gratuit. Introduction à l’essai de Mauss”, Revue du M.A.U.S.S, n°4, Paris, La Découverte, pp. 99-115

• Godbout J-T. et Charbonneau J., 1993, “La dette positive dans le lien familial”, Ce que donner veut dire, Paris, La Découverte, pp. 235-256.

1 Maurice Godelier bắt đầu vào Trường cao học thực hành với tư cách là phụ trách công việc bên cạnh Fernand Braudel và sau đó là trợ lý cho Claude Lévi-Strauss lúc này giữ ghế giáo sư nhân học tại Pháp quốc học hiệu. Năm 1975, ông được bổ nhiệm làm giám đốc nghiên cứu tại Trường cao học thực hành các khoa học xã hội. Địa bàn được ông tiến hành những nghiên cứu mang tính nền móng về nhân học là Papouasie và Nouvelle-Guinée. Trong quan hệ họ hàng, ông đã làm sáng tỏ mối liên hệ giữa quan niệm được hình dung với hệ thống chuyển tiếp thân tộc. Ông đã học từ Lévi-Strauss phương pháp cấu trúc, mà ông muốn kết hợp với một tiếp cận mác-xít. Đặc biệt từ nền tảng này, ông đã cho ra một sự phê phán đặc biệt chặt chẽ đối với những tiếp cận “hình thức”, “thể từ” áp dụng trong nghiên cứu các nền kinh tế nguyên

Page 22: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

81Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ

• Godbout J-T., 2000, Le don, la dette et l’identité, Homo donator vs homo œconomicus, Paris, La Découverte - M.A.U.S.S.

• Godelier M., 1997, L’énigme du don, Paris, Fayard.

• Gouin E., 1957, Dictionnaire Vietnamien, Chinois, Français, Saigon, Imprimerie d’Extrême-Orient (IDEO)

• Hy Van Luong, 2007, “Gifts, Social Capital, and Class Structure in Two Rural Vietnamese Communities”, International Conference Modernities and Dynamics of Tradition in Vietnam: Anthropological Approaches, 15- 18 December 2007, Ho Chi Minh city, Vietnam

• Latouche S., 1993, “Le don mauritanien, contribution à la critique de l’impérialisme économique”, Ce que donner veut dire, Paris, La Découverte, pp. 117-138.

• Le Roy B. et Mathias R., 1999, L’impact micro-économique du crédit rural au Nord Vietnam, éclairage à partir d’une situation locale, Paris, édition du GRET.

• Lemieux V., 1999, Les réseaux d’acteurs sociaux, Paris, PUF.

• Levi-Strauss C., 1991 (1950), “Introduction à l’œuvre de Marcel Mauss”, Sociolgie et anthropologie, Paris, PUF, pp. IX-LII.

• Malinowski B., 1996 (1922), Les argonautes du pacifique occidental, Paris, Gallimard.

• Mauss M., 1991 (1950), “Essai sur le don, forme et raison de l’échange dans les sociétés archaïques”, Sociolgie et anthropologie, Paris, PUF, pp. 145-279.

• Phan Kế Bính, 1915, Việt Nam Phong Tục, édité en 26 fascicules dans la nouvelle série de la revue Đông Dương Tạp Chí, 2ème semestre 1915. Traduction: Moeurs et coutumes du Viêt-Nam, 1975, Paris, Ecole française d’Extrême-Orient.

• Sahlins M., 1963, “Poor man rich man, chief: political types in Melanezia & Polynesia”, Comparative studies for Society and History, n° 5 1962/ 1963, pp. 285- 303.

• Sahlins M., 1976, Âge de pierre, âge d’abondance, l’économie des sociétés primitives, Paris, Gallimard.

• Scott James C., 1976, The Moral Economy of the Peasant Rebellion and subsistence in Southeast Asia. New Haven and London, Yale University Press.

• Tessier O., 1999, “Aide et entraide agricole dans un village du Nord Vietnam: modalités pratiques et motivations”, revue Aséanie, n°4, Bangkok, pp. 125-159.

• Tessier O. & Papin P. (éd.), 2002, Le village en questions [Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ], Publication du centre de l’EFEO Hanoi, nxb Lao Động - Xã Hội, Hà Nội, 740 p.

• Testart A., 2001, “Echange marchand, échange non marchand”, Revue Française de Sociologie, vol. 42 - n°4, pp. 719-748.

• Testart A., 2007, Critique du don: études sur la circulation non marchande, Paris, Syllepse.

• Trần Đức, 1994, Hợp tác trong nông thôn xưa và nay [La coopération dans les campagnes autrefois et actuellement], Hà Nội, Nhà xuất bản Nông nghiệp.

• Trần Từ, 1984, Cơ cấu tổ chức của làng Việt ở Bắc Bộ [Les structures organisationnelles des villages du Nord Việt Nam], Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội

• Vidal D., 1993, “Les gestes du don, à propos des trois grâces ”, Ce que donner veut dire, Paris, La Découverte, pp. 60-77.

Trao đổi… StéphaneLagrée

Xin cám ơn Olivier Tessier đã cung cấp những tấm bản đồ, bức ảnh và sơ đồ này. Và cũng xin cảm ơn ông đã khiến cho những người nông dân mà ông đã gặp và trao đổi bên bờ ruộng bày tỏ bằng lời về những mảnh đời khác nhau – một điều rất hiếm xảy ra. Olivier Tessier cũng đã giúp chúng ta thấy rõ tính ưu việt của phương pháp tiếp cận xã hội.

Tôi xin nhường lời cho quí vị. Tôi nghĩ rằng quí vị hẳn sẽ có nhiều ý kiến phản hồi về những vấn đề đã được trình bày.

RémyBour,TrungtâmnghiêncứuđôthịvàpháttriểnThànhphốHồChíMinhTrước hết, tôi xin được cảm ơn Olivier Tessier vì bài phát biểu rất thú vị của ông. Câu hỏi của tôi liên quan tới vấn đề thừa kế. Khi một người mất đi thì công nợ của người ấy có để lại cho con cháu họ không ? Để lại cho ai? Có phải là con trai cả không? Hay cả gia đình? Liệu có thể phân biệt giữa việc làm chung, làm giúp, làm hộ cho người khác với quà tặng, làm từ thiện vào những dịp đặc biệt không?

Page 23: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

82 Khóa học Tam Đảo 2008

OlivierTessierCông nợ đúng là được truyền lại cho người còn sống. Hệ thống này có tính chất mở, tang lễ do con cái đứng ra lo liệu. Nếu bố mẹ là người đã giúp người khác thì con cái họ sẽ nhận được sự giúp đỡ từ những người đã “nợ” bố mẹ họ. Cơ chế này được áp dụng ngay trong việc tổ chức đám tang. Có thể nói đám tang là dịp để nhận lại sự đền ơn của những người đã được bố mẹ giúp đỡ. Đúng là có một hệ thống truyền nợ từ thế hệ này sang thế hệ sau.

Về vấn đề đổi công, tôi đã không có cơ hội nghiên cứu về vấn đề này vì quá trình đổi công thực tế diễn ra trong ít ngày và “nợ” được hoàn trả trong một thời gian rất ngắn, thường là ngay ngày hôm sau. Nhưng một lần nữa, đây là một món nợ tích cực, trước hết là một món nợ mang tính xã hội. ở đây không phải là mối quan hệ chủ/khách mà trong một hệ thống quan hệ họ hàng gần gũi trong đó người ta chia sẻ gánh nặng công việc, chứ không phải quan hệ khách chủ.

RémiBourLiệu có tồn tại một thứ hợp đồng bất thành văn giữa các gia đình không?

OlivierTessierKhông có hợp đồng nào cả. Chính tổ chức xã hội ở địa phương đã khiến cho mạng lưới được hình thành và mở rộng. Nhiều chị em nông dân giải thích với tôi là họ biết ai sẽ đề nghị họ cùng làm : họ biết là mỗi năm vào mùa gặt, chị (em) dâu của họ sẽ đến gặp họ. Họ đã đoán biết trước lời đề nghị. Hệ thống này khá ổn định. Ngược lại, đối tượng trao đổi có thể thay đổi vì có sự hoán đổi. Sự ổn định của đối tượng chỉ có được khi người ta hiểu rõ đối tác của mình.

StéphaneLagréeTôi xin đề nghị là cử tọa có thể đặt hai hoặc ba câu hỏi liền một lúc, sau đó diễn giả sẽ trả lời, như vậy diễn giả có thể sắp xếp các câu trả lời một cách hợp lý hơn.

Lê VănNăm, Trung tâmnghiên cứuđô thị vàPháttriểnthànhphốHồChíMinhTôi nghĩ rằng cần phải nghiên cứu thêm nhiều nhân tố khác, chẳng hạn như khái niệm tương đương khả năng. Trong xã hội nông nghiệp nông thôn, phụ nữ biết rõ nhiệm vụ của mình và việc đồng áng như cấy, gặt. ở đây cần phải nói tới kỹ năng. Ở các tỉnh miền Nam cũng đã từng có hiện tượng đổi công nhưng ít lâu nay khi sản xuất nông nghiệp sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại hơn, phương thức này ít được áp dụng. Quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp ở miền Nam đang hạn chế hình thức đổi công này.

PhạmTháiQuốc,ViệnKinhtếvàChínhtrịthếgiớiÔng đã vẽ nên một bức tranh đẹp về văn hóa nông thôn Việt Nam.

Trong phần trình bày, ông đã nêu lên hai cực, đó là quan hệ láng giềng và quan hệ họ hàng. Nhưng tôi nghĩ rằng cần phải bổ sung thêm quan hệ thông gia giữa hai gia đình. Kinh tế thị trường phát triển ở Việt Nam, lực lượng lao động có thể huy động nhiều hơn. Điều đó đã hạn chế hình thức trao đổi. Cơ cấu nông thôn cũng đã thay đổi, người dân nông thôn không chỉ làm nghề nông : họ cũng ra làm việc ở thành phố, làm nhiều công việc khác. Người ta thường chỉ áp dụng phương thức đổi công vào những dịp đặc biệt.

Tôi nghĩ rằng kinh tế thị trường phát triển đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam nhưng nó cũng ảnh hưởng đến những đặc trưng xã hội của cuộc sống nông thôn.

NguyễnThịVăn,ViệnXãhộihọcTôi cũng muốn đóng góp một vài bình luận cho bài tham luận vừa được trình bày. Thứ nhất, liên quan đến việc giúp đỡ nhau trong nông nghiệp và đổi công, các nghiên cứu về lĩnh vực này tại Việt Nam đã cho thấy trước đây đất nông nghiệp thuộc sở hữu cá nhân, sau đó trở thành tài sản của hợp tác xã. Tình hình ở miền Nam khác với miền Bắc. Ở miền Bắc, các thành viên làm việc theo chỉ đạo của hợp tác xã và việc đổi công là cần thiết vì đất đai được phân cho từng gia đình tùy theo lực lượng lao động trong nhà.Việc đổi công và hỗ trợ lẫn nhau trong công việc đồng áng đã phát huy tác dụng trong thời gian từ những năm 70 đến đầu thập niên 90. Nghiên cứu của ông liên quan đến giai đoạn cuối những năm 90 tại môt tỉnh miền trung du. Liệu có sự khác biệt nào giữa các tỉnh miền núi và đồng bằng không? Tôi cũng đồng ý với Phạm Quốc Thái khi anh nhấn mạnh rằng việc phân công lao động và các hình thức làm giúp, hỗ trợ nhau trong sản xuất đã thay đổi nhiều. Hiện tượng di dân ra thành phố gia tăng. Số người lao động trong gia đình giảm, nhiều đàn ông và phụ nữ ra thành thị tìm việc. Tôi tự hỏi liệu việc đổi công đặc biệt vào thời điểm cấy và gặt có tiếp tục được áp dụng không. Những người làm việc ngoài thành phố có trở về làng không? Nghiên cứu này đã được thực hiện cách đây 10 năm, liệu ông có ý định thực hiện một nghiên cứu mới để so sánh tình hình không?

LưuBíchNgọc,Trungtâmdânsố,ĐạihọcKinhtếquốcdânHàNộiCác vấn đề được nêu lên trong nghiên cứu rất hay, đặc biệt là những khái niệm về tương hỗ. Các khái niệm này tồn tại trong các cộng đồng làng xã và

Page 24: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

83Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ

rộng hơn liên quan đến cách nghĩ ở Việt Nam. Điều đó cũng có ở thành phố. Một số khía cạnh có thể liên quan đến tham nhũng. Làm thế nào có thể xác định được đó có phải là tham nhũng ? Điều đó rất khó đánh giá. Cần phải xem xét những đặc trưng văn hóa của đất nước.

HoàngXuânTrường,TrungtâmnghiêncứuvàpháttriểnhệthốngnôngnghiệpTôi xin cảm ơn tác giả về bài tham luận của ông. Tôi sinh ra và lớn lên ở tỉnh Phú Thọ là nơi nghiên cứu của ông được thực hiện. Bản thân tôi cũng đã từng tham gia đổi công, làm giúp, làm hộ.

Tôi chỉ muốn bổ sung thêm một vài điều. Trong các hoạt động đổi công và làm giúp, làm hộ, chính quyền địa phương cũng có vị trí của mình, ví dụ như khi tổ chức đám ma hay xây nhà. Gia đình có liên quan có thể thông báo cho chính quyền địa phương và chính quyền sẽ đứng ra huy động người dân địa phương. Đối với những gia đình nghèo, không có khả năng trả nợ, chính quyền địa phương có thể giúp họ.

Tôi hy vọng tác giả sẽ nghiên cứu sâu hơn khi đề cập tới tính cộng đồng của việc đổi công ở nông thôn và thành thị. Vấn đề này có thể là đề tài cho một nghiên cứu khác về tác động của quá trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa tới việc đổi công. Công nghiệp hóa đang làm giảm đáng kể việc áp dụng các hình thức đổi công và làm giúp, làm hộ.

Nguyễn Thị Thu Hằng, Viện Nghiên cứu tôngiáoXin cảm ơn diễn giả vì công trình nghiên cứu rất cụ thể của ông đã cho phép chúng tôi có được cái nhìn chính xác về các công trình nghiên cứu tương lai của mình. Tôi xin hỏi diễn giả là trong quá trình thực hiện nghiên cứu của mình, ông có nghĩ tới khả năng đền ơn sự giúp đỡ thông qua các quan hệ xã hội không. Theo những quan sát của tôi và những trao đổi mà tôi đã thực hiện, một số người dân quê đã bỏ lại đất đai và không thể trở lại làng để thu hoạch mùa màng. Họ có thể nhờ người làng gặt cho ruộng của họ. Khi chúng tôi hỏi họ sẽ trả ơn sự giúp đỡ này như thế nào, họ nói có thể giúp con cái người làng tìm việc. Tôi muốn biết liệu ông có tìm hiều vấn đề này trong các cuộc điều tra của mình.

OlivierTessierTrong phần phát biểu của quí vị có nhiều bình luận. Tôi xin phép được trình bày cảm nhận của mình về những điều tôi được nghe thay vì trả lời cho từng câu hỏi được đặt ra.

Thực tế là nghiên cứu này đã thực hiện cách đây 10 năm. Vấn đề công nghiệp hóa, di dân ra thành

phố là một điểm mấu chốt. Liệu các phương thức trao đổi tương hỗ này có tiếp tục tồn tại không ? Emmanuel Pannier hiện đang làm luận án tiến sĩ với những đối tượng nghiên cứu tương tự ở một làng quê vùng châu thổ sông Hồng. Việc xem xét quá trình phát triển lịch sử của vấn đề có thể là một ý tưởng hay. Tôi rất muốn trở lại ngôi làng nơi tôi đã thực hiện nghiên cứu và dành ra ba tuần để nghiên cứu về chủ đề này, một chủ đề rất hấp dẫn tôi vì phạm vi xã hội của nó.

Trong các cuộc trao đổi đầu tiên với những người nông dân, họ đều đưa ra những câu trả lời có tính khuôn mẫu : mọi người đều hỗ trợ nhau, mọi người thường xuyên giúp đỡ nhau. Vì vậy, tôi đã tiến hành điều tra ngay bên bờ ruộng trên cơ sở ghi rõ ai là ai và làm việc gì. Tôi đã may mắn vì trước đó đã xây dựng được một cơ sở dữ liệu đầy đủ về phả hệ của các dòng họ trong làng. Cái hay là được trở lại gặp gỡ các gia đình sau khi đã xử lý các kết quả điều tra và nói: “Ông (bà) nói là mọi người giúp đỡ lẫn nhau, nhưng thực tế không phải vậy vì…”. Người ta trả lời tôi ngay rằng : “Đúng là thế, cần phải hiểu là đối với một số gia đình điều đó không dễ dàng”. Sự đối chiếu so sánh rất có ý nghĩa: so sánh các nguồn thông tin, bắt đầu đối chiếu phân tích các câu nói, câu trả lời theo khuôn mẫu với một phương tiện thống kê khác, tức là cuộc điều tra trực tiếp bên bờ ruộng. Mục đích không phải là đặt những người nông dân vào tình trạng khó xử mà để mọi người hiểu rằng thực tế mà anh mô tả không hẳn là thực tế mà tôi đã thấy trên thực địa.

Về đội ngũ những người làm thuê và hiện tượng di dân, khi tôi làm luận văn tiến sĩ, gần như tất cả các gia đình trong làng đều có ít nhất một thành viên đang đi làm ở Hà Nội, Phú Thọ hay ở huyện Thanh Ba. Không có gia đình nào bỏ ruộng cả, đã có một chiến lược di dân hợp lý ở từng gia đình: thường thì người ta đưa thanh niên còn độc thân, nam hoặc nữ ra thành thị, tận dụng mạng lưới đồng hương đã được thiết lập ở các thành phố như Hà Nội. Chẳng hạn, tôi còn nhớ một hàng cơm bình dân ở gần Văn Miếu, trong một lần đến ăn cơm ở đó, tôi đã gặp 13 người dân của làng. Tôi đã thực hiện luận văn của mình ở Phú Thọ cách Hà Nội 130 km. Những mạng lưới đồng hương đã phát huy tác dụng. Các gia đình đều có một chiến lược di dân hợp lý, họ không để đất hoang. Đúng hơn là họ có một chiến lược sử dụng lao động hợp lý. Thanh niên thường tự hào vì được ra Hà Nội hay Phú thọ, coi đó như một chặng đường phải qua. Họ thường trở về làng sau 3 hoặc 4 năm với một chiếc xe máy Trung Quốc và với những khoản tiền mà họ đã tích luỹ được. Nhìn chung, những gia đình này đều có dàn nghe nhạc, có nhiều khoản chi tiêu đình đám và nhiều hoạt động giải trí.

Page 25: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

84 Khóa học Tam Đảo 2008

Hiện nay, trào lưu đi xa nhà làm thuê đã gia tăng, nhiều chủ gia đình cũng rời bỏ làng quê. Khi thiếu lực lượng lao động, nhiều gia đình không đổi công mà đi thuê người. Một vài gia đình mà tôi đã gặp đã phải thuê lao động để cấy hay gặt vì không thể “hoàn trả” điều người khác giúp mình, họ không thể chấp hành các điều kiện trao đổi. Sự tương đương trong trao đổi rất quan trọng. Người ta trao đổi những thứ giản đơn và có thể lượng hóa. Quí vị có nói, tất cả các phụ nữ trong làng đều biết cấy và gặt. Hoàn toàn đúng vậy : tôi đã thấy nhiều thiếu nữ trẻ làm việc trên đồng ruộng và được giải thích là ngay từ 13, 14 tuổi, con gái đã phải sản xuất và làm việc như một phụ nữ 25 tuổi và cứ như vậy cho đến 70 tuổi. Nguyên tắc trao đổi tương đương cũng được áp dụng đối với hàng hóa được sử dụng như phương tiện trợ giúp. Gạo, lợn, gà đều là tiền nên có thể là một sự tương đương. Có thể nói tương đương là một khái niệm quan trọng trong hệ thống trợ giúp. Người ta biết cái gì là tương đương vì phụ nữ trong làng đều biết cấy hái. Có thể người này cấy tốt hơn người khác nhưng cái đem trao đổi là như nhau. Rất ít khi người ta tranh cãi nhau xung quanh vấn đề làm giúp hay đổi công

Về lịch sử của việc đổi công. Trong thời kỳ hợp tác xã, từ năm 1954 đến 1960, việc đổi công đã được thể chế hoá. Để chuẩn bị cho phong trào hợp tác hoá, Đảng cộng sản Việt Nam đã khuyến khích việc hình thành các nhóm lao động. Người ta đã dựa theo các phương thức đổi công truyền thống để chính thức hóa chúng thông qua việc yêu cầu các gia đình làm việc chung trong một khuôn khổ chuẩn mực trong đó mục đích không phải là việc tạo ra và duy trì quan hệ xã hội mà là sản xuất kinh tế. ý định này đã hoàn toàn thất bại. Trong 6 năm thể chế hoá, hầu hết các nhóm lao động đều là ảo. Người ta đã cố gắng chính thức hóa một phương thức có kết cấu duy nhất và tổ chức duy nhất là mối liên kết xã hội. Người ta đã muốn xây dựng phương thức này thành một thông lệ. Điều này hoàn toàn trái ngược với hình thức đổi công, tương hỗ, trong đó các đối tác trao đổi được gắn kết với nhau bằng những mối quan hệ đôi bên đơn giản, riêng biệt và có thể kết thúc bất kỳ lúc nào. Cụ thể, một khi anh đã hoàn trả cho tôi “nửa ngày công” nợ, thì mọi việc coi như xong. Nếu anh không muốn tiếp tục quan hệ trao đổi nữa, anh có thể dừng lại mà không để lại hậu quả gì khác.

Về vấn đề tham nhũng, Bayard, một nhà xã hội học của Pháp đã viết cuốn “La politique du ventre” (Chính sách dạ dày)1. Đây là một cuốn sách rất hay

về hệ thống tái phân phối liên quan đến vấn đề các bạn đã nêu. Cuốn sách đề cập đến vấn đề của Cộng hòa dân chủ Công gô (Zaïre cũ). Nó phân tích tất cả các phương thức tái phân phối, hỗ trợ và hệ thống mạng lưới trên quan điểm xã hội học. Tôi nhớ đến một giai thoại. ở Công gô, nạn tham nhũng tràn lan. Bayard đã tiến hành nghiên cứu công ty hàng không Air Zaïre trên góc độ tham nhũng. Air Zaïre có ba hay bốn máy bay được đưa vào khai thác, các đường bay nhìn chung được đảm bảo. Phi công lái máy bay có hiện tượng ăn bớt xăng dầu. Lúc đó có một người Zaïre được đào tạo ở châu Âu về làm việc. Anh ta nắm quyền lãnh đạo công ty và muốn lập lại kỷ cương (đảm bảo minh bạch, quản lý hiệu quả). Kết quả là một năm sau, hai máy bay của hãng đã bị tai nạn. Trong xã hội châu Phi, chúng ta không thể đánh giá một cách rành mạch tham nhũng là hoàn toàn tốt hay xấu. Có một phương thức tái phân bổ tồn tại trong lòng những hệ thống phức tạp và tôi không chắc rằng các phương thức trợ giúp đổi công sẽ giúp các bạn hiểu được những hệ thống mạng lưới này. Đây là những mạng lưới có tính phe phái, có tôn ti trật tự, và tương đối khác với những mạng lưới đơn giản được hình hành ở vùng nông thôn Việt Nam.

EmmanuelPannier,nghiêncứusinhthuộcdựánFSP,ViệnXãhộihọc/ĐạihọcProvence

Hiện nay, tôi không thể đưa ra một bức tranh hoàn chỉnh về tình hình hiện tại vì tôi vẫn đang ở giai đoạn thu thập dữ liệu. Đúng là tôi đang nghiên cứu về hệ thống quà tặng, quà tặng lại và đổi công. Hoàn cảnh đã thay đổi: thời đại đã khác và địa phương được nghiên cứu cũng khác. Nhưng trên cơ sở các nguyên tắc nghiên cứu cơ bản, tôi vẫn có cùng một nhận xét mặc dù có nhiều điểm khác biệt về hình thức do tác động của quá trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa.

Tôi vừa trở về sau chín ngày thực hiện điều tra bên bờ ruộng. Tôi có cảm giác là việc áp dụng hình thức đổi công đang gia tăng. Nguyên nhân vì sao? Các ông chồng ra thành phố, chỉ còn lại các bà vợ ở nhà. Nếu mỗi gia đình có bốn sào ruộng, người đàn ông trong gia đình lại vắng nhà và con gái lớn đi học ngoài thành phố, thì người vợ ở nhà buộc phải sử dụng hình thức “đổi công”. Người ta có thể tranh luận về mức độ bắt buộc, nhưng thực tế thì có nhiều phụ nữ tiếp tục làm ruộng và thực hiện đổi công. Một nhân tố có ý nghĩa quyết định là họ hàng sống quanh họ, nhóm dân cư đã được Olivier Tessier nhắc tới. Ở miền Bắc, máy móc vẫn chưa thay thế

1 Bayard J.F. (1989) : L’Etat en Afrique, La Politique du ventre, Éds Fayard, Paris. [BT]

Page 26: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

85Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ

hoàn toàn lao động chân tay. Nhu cầu sử dụng lao động vẫn có. Chúng tôi nhận thấy có sự gia tăng lực lượng làm thuê. Xu thế này diễn ra song song với trào lưu tiền tệ hóa nền kinh tế. Chúng ta có thể giải thích hiện tượng này như thế nào ? Tôi đã lưu ý thấy các gia đình sử dụng lao động làm thuê vào mùa thu hoạch hay cấy hái không nhất thiết là những gia đình có người ra thành phố. Họ là những gia đình có xu thế bỏ nghề nông và thường mở cửa hàng buôn bán nhỏ tại địa phương. Họ có thu nhập từ những hoạt động phi nông nghiệp và thuê người trồng trọt trên đất của họ. Tôi đã thống kê tất cả những gia đình có cửa hàng ở địa phương. Họ thường giúp bố mẹ, họ hàng vào mùa gặt. Họ đóng cửa hàng buổi sáng, nhưng không gặt cho phần ruộng của mình mà gặt giúp mẹ già hoặc giúp bố mẹ vợ.

Về hình thức quà tặng và quà tặng lại, tôi đã ghi nhận một xu thế tiền tệ hóa các trao đổi: người ta chủ yếu đưa tiền cho nhau. Tính tương hỗ không giống như trước. Cùng với Đặng Việt Phương, chúng tôi đã nghiên cứu vấn đề này, đặc biệt về việc tổ chức ma chay. Ở đây, có quá nhiều sự trao đổi và các cá nhân không còn nhớ họ nợ bao nhiêu người và nợ bao nhiêu. Họ có những cuốn sổ chỉ chuyên để ghi họ nợ ai và nợ mỗi người bao nhiêu.

Về hiện tượng “giúp thêm”, thực tế hơi khác một chút. Tôi không thấy có trường hợp người ta trả lại hay tặng lại “phần thêm”. Tại sao người ta lại giúp thêm? Vì lạm phát, vì đời sống đắt đỏ hơn. Phần thêm được tính toán. Sự trao đổi qua lại quả thật rất cụ thể.

Một hình thức trao đổi khác đang dần biến mất. Khi người ta xây nhà, ít ra là ở huyện Giao Thủy (tỉnh Nam Định) nơi tôi thực hiện nghiên cứu, các gia đình đều thuê người làm nhà vì đó là nhà cao tầng, bê tông. Một công trình như vậy đòi hỏi phải có những kỹ năng đặc biệt. Chủ nhà giúp công nhân những việc lặt vặt, bố mẹ và có thể cả anh chị em trong gia đình cũng đến làm giúp. Đây không phải là chuyện “đổi công” mà đơn giản là “làm giúp”, một sự giúp đỡ thường không được hoàn trả ngày một ngày hai. Ở đây, không có sự giúp đỡ của hàng xóm láng giềng.

OlivierTessierKhi xây nhà, người ta thường giúp nhau những công việc đơn giản không vượt quá một ngày công như: đào móng, lắp đặt khung nhà, sắp xếp đồ đạc. Không có những hệ thống giúp đỡ cho toàn bộ quá trình xây dựng nhà trong nhiều ngày. Ở đây sự giúp đỡ hoàn toàn có tính biểu trưng xã hội.

Vấn đề tiền tệ hóa mà Emmanuel nói đến rất quan trọng: lạm phát cao đến mức người ta phải ghi lại những gì nợ người khác. Thực ra không có yêu cầu luật pháp nào bắt người ta phải trả nợ nhưng đây là vấn đề tình nghĩa, trách nhiệm. Trong xã hội nông thôn, người ta luôn chú ý theo dõi những gì được lưu thông trong hệ thống. Nếu một người vi phạm qui định, thì những người khác cũng sẽ không muốn tôn trọng các điều khoản trao đổi. Việc vi phạm, tức là không hoàn trả phần nợ của mình, sẽ không chỉ ảnh hưởng đến phía đối tác mà toàn bộ cộng đồng địa phương vì tất cả các gia đình đều có tài sản, có những giá trị được lưu thông trong hệ thống.

EmmanuelPannierỞ tỉnh Nam Định, có rất nhiều người ra thành phố. Nhiều người đàn ông vắng nhà vào mùa gặt. Phụ nữ phải cáng đáng mọi việc. Họ tự tìm đối tác trao đổi. Quan hệ giữa chị em, mẹ con luôn được ưu tiên. Về vấn đề học hành của con cái, ngày càng có nhiều thanh niên nông thôn được vào đại học, nên họ cũng ra thành phố học. Thực tế này đã dẫn đến sự thiếu hụt lao động ở nông thôn. Đây cũng là một yếu tố quyết định làm gia tăng việc đổi công.

PhạmVănCựTôi xin đóng góp một vài nhận xét ngay cả khi tôi là người ngoại đạo. Về việc đổi công, một người trong số quí vị đã nói đến “một nét đẹp của văn hóa nông thôn” nhưng tôi tin rằng điều đó cũng cho thấy một nền kinh tế ở trình độ phát triển thấp. Tôi đã sinh ra trong một làng quê nông nghiệp và hiện giờ tôi sống ở Hà Nội. Sau khi nghe phần trình bày này, tôi vẫn thấy mình là một nông dân. Tôi đã cho và nhận quà tặng và trong thâm tâm tôi luôn nghĩ có nghĩa vụ phải hoàn trả.

Còn về tác động của việc học đại học, nên chăng phải tiến hành nghiên cứu so sánh đối chiếu theo các mô hình kinh tế?

NguyễnXuânHoảnTôi nghĩ rằng phần trình bày của Olivier Tessier đã nhận diện rõ các nhóm tham gia đổi công, làm giúp, làm hộ trong cộng đồng làng xã.

Các nhóm này luôn tồn tại, đặc biệt ở những địa phương có các hoạt động sản xuất đòi hỏi chuyên môn hóa cao. Lợi nhuận lại không cao. Đổi công cho phép phát huy và tận dụng tối đa thời gian lao động. Người ta cũng sử dụng phương thức này đối với các công việc thời vụ như trồng cây ăn quả vì những việc này cần đầu tư nhiều thời gian và sử dụng nhiều lao động để thu hoạch trong thời gian ngắn. Việc đổi công vì thế rất cần thiết.

Page 27: “Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng ... · giữa người dân tự nảy nở và phát triển trong khuôn khổ làng xã, do vậy,

86 Khóa học Tam Đảo 2008

StéphaneLagréeXin mời Olivier trả lời cho hai phần phát biểu trên và có lẽ kết luận luôn cho phần trao đổi này.

OlivierTessierTôi sẽ làm cả hai việc cùng một lúc vì vấn đề mở ra có vẻ rất hấp dẫn. Trong các nghiên cứu loại này, không có phần đánh giá. Tôi không đánh giá giá trị tinh thần của các hiện tượng. Tôi mô tả một thực tế. Tôi có gắng phân tích và mổ xẻ thực tế đó. Sau đó quí vị có thể thấy thực tế đó là tích cực hay tiêu cực. Tôi xin để quí vị đưa ra đánh giá riêng của mình.

Nhìn từ góc độ định lượng, phần trợ giúp chỉ là một phần không đáng kể so với chi phí thuê nhân công của mỗi gia đình. Sự giúp đỡ mang ý nghĩa biểu trưng và xã hội nhiều hơn. Không có sự hoang phí. Người ta có thể tìm thấy những biểu hiện tiêu cực của các hoạt động trao đổi hiện nay. Đúng là có rất nhiều sự kiện được tổ chức chỉ để nhận quà tặng và quà tặng lại, những đám cưới mời tới 300, 400, 500 khách. Từ khoảng 15 năm trở lại đây, người ta nhận thấy có hiện tượng lạm phát các dịp đặc biệt và các khoản chi tiêu đình đám. Con người không chỉ là một chủ thể kinh tế mà là cả xã hội. Con người có nhu cầu được hài lòng và làm hài lòng người khác,

cho người khác thấy là mình thích được hài lòng và có khả năng tài chính để cho mình điều đó. Tôi hiểu ý nghĩa của việc tự an ủi mình : tiếc là không thể đầu tư số tiền hàng triệu, thậm chí hàng tỉ đồng này vào một hoạt động sản xuất kinh doanh mà lại tổ chức một đám cưới linh đình cũng mang lại lợi ích về mặt xã hội. Để kết luận, có thể nói việc mở rộng việc áp dụng phương pháp tiếp cận này hay công trình nghiên cứu kiểu này là một ý tưởng hay. Vấn đề tham nhũng có thể là một chủ đề. Có rất nhiều thứ phải tìm hiểu về quá trình lưu thông các tài sản vật chất và phi vật chất ở Việt Nam hiện nay. Cần phải mở rộng nghiên cứu ở khu vực thành thị nơi có nhiều thói quen, thông lệ gắn với loại hệ thống trao đổi này. Tôi nghĩ rằng cần phải thành lập một ê-kíp nghiên cứu hay ít ra một nhóm nghiên cứu để tìm hiểu về việc lưu thông những thứ không có ý nghĩa hàng hóa và các quà tặng trong xã hội Việt Nam. Chúng ta thường quá coi trọng bình diện kinh tế. Tuy nhiên, có nhiều thứ lưu thông trong hệ thống mà không thuộc về thế giới kinh tế hàng hoá.

Tôi xin cảm ơn các bạn.