14 Key Strokes

7

description

Fundamentals of Piano playing

Transcript of 14 Key Strokes

Page 1: 14 Key Strokes
Page 2: 14 Key Strokes

14Basic Key Strokes ; Legato, Staccato

The basic keystroke consists of 3 main components, the downstroke, the hold, and the lift. This might sound like a trivially simple thing to learn, but it is not.

The downstroke is what creates the piano sound initially; in the correct motion, it must be a single accelerating motion, yet with control of the volume. The timing of this downstroke must be extremely accurate. The suggestion to "play deeply into the keys" is a good one in the sense that the downstroke must not slow down; it must accelerate as you reach the bottom so that you never lose control over the hammer.

The Steinway "accelerated action" works because it adds acceleration to the hammer motion by use of a round pivot under the center key bushing. This causes the pivot point to move forward with the keydrop thus shortening the front side of the key and lengthening the back side and thereby causing the capstan to accelerate for a constant keydrop. This illustrates the importance piano designers place on accelerating the keydrop in order to produce good tone. The effectiveness of the "accelerated action" is controversial because there are excellent pianos without this feature - the acceleration is entirely controlled by the pianist. In principle, concert pianists must be aware of this difference and compensate for it during a performance depending on which type of piano he is playing. Obviously, it is more important for the pianist to control this acceleration than to depend on the piano. The fast flexor muscles must be developed for the downstroke, as well as rapid relaxation.

The hold component of the keystroke holds the hammer still using the backcheck, to accurately control the note duration. Without the hold, the hammer can flop around, producing extraneous sounds, cause problems with repeated notes, trills, etc. Thus the hold is important in a trill. Beginners will have difficulty with making a smooth transition between the downstroke and hold. Do not push down on the key during the hold in an attempt to "push deeply into the piano", because this will eventually result in stress, then pain, and even injury; gravity is sufficient to keep the key down and hold the damper

Những cách bấm phím cơ bản, legato staccato

Những cách nhấn phím cơ bản đều được hình thành bởi 3 giai đoạn: nhấn xuống, giữ và nâng lên. Nghe có vẻ là một điều vô cùng đơn giản và dễ học, nhưng thực sự thì không.

Sự nhấn xuống là thứ đầu tiên tạo ra tiếng piano. Nếu bạn thực hiện đúng thì đó phải là một chuyển động đơn nhanh dần và có sự nắm giữ, điều khiển âm lượng. Căn chỉnh thời gian thực hiện việc nhấn xuống phải cực kì chính xác. Nói rằng "hãy nhấn phím đàn sâu xuống" sẽ dễ hiểu hơn. Sự nhấn xuống không được chậm dần mà phải tăng tốc khi bạn nhấn tới đáy phím đàn, như vậy thì bạn sẽ luôn điều khiển được những chiếc búa đàn dây đàn.

Bộ cơ Accelerated action trong những cây đàn piano hiệu Steinway có tác dụng vì nó làm cho những chiếc búa đàn phản ứng nhanh hơn bằng cách đặt một điểm tựa tròn ở dưới, chính giữa dạ lót phím; khi nhấn xuống, điểm tựa tròn sẽ chuyển động về trước. Theo đó, những phím đàn có phần trên ngắn hơn và phần dưới dài hơn. Tất cả tạo thành một cơ chế giúp tăng tốc cho mỗi lần nhấn phím nhất định. Đây là một minh họa về tầm quan trọng của những nhà thiết kế piano trong việc tạo ra âm piano hay. Thực tế, hiệu quả của bộ cơ Accelẻated action vẫn còn được đem ra tranh luận bởi vì có những chiếc piano tuyệt vời mà không hề trang bị tính năng này - sự tăng tốc hoàn toàn được điều khiển bởi người chơi đàn. Mọi nghệ sĩ biểu diễn cần biết tới sự khác nhau này và có sự điều chỉnh khi trình diễn tùy theo loại piano đang chơi. Nhưng rõ ràng rằng, người chơi đàn phải chủ động điều khiển được sự tăng tốc hơn là phụ thuộc vào chiếc piano. Những cơ gấp (flexor muscles) cần được phát triển để thực hiện việc nhấn xuống, cũng như là thư giãn nhanh.

Sự giữ trong quá trình nhấn phím sẽ giữ yên những búa đàn bằng búa kiểm tra (backcheck) để điều khiển chính xác trường độ của nốt nhạc. Nếu không giữ, những chiếc búa đàn không được ổn định có thể tạo ra những âm thanh thừa, khiến bạn gặp vấn đề khi thực hiện những nốt được lặp, láy,... Theo đó thì sự giữ rất quan trọng khi láy. Những người mới bắt đầu có thể khó thực hiện trơn tru việc nhấn xuống rồi giữ. Bạn đừng nhấn phím đàn xuống thêm khi đang giữ vì cố gắng "nhấn sâu xuống phím đàn"; nó sẽ khiến bạn bị căng cơ, sau đó là đau nhức, rồi thậm chí bị chấn thương. Trọng lực đã đủ để giữ phím đàn xuống và giữ phím chặn tiếng (damper) bằng búa kiểm tra (backcheck). Việc bạn giữ bao lâu sẽ quyết định âm sắc và biểu cảm của âm thanh. Như vậy, sự giữ là một phần quan trọng trong việc chơi nhạc, và cũng có thể coi là phần khó nhất để nắm bắt , điều khiển.

Sự nâng lên làm cho phím chặn tiếng rơi ngược lại trên dây đàn và làm tắt tiếng đàn. Như vậy, sự

Page 3: 14 Key Strokes

still with the backcheck. The length of the hold is what controls color and expression; therefore it is an important part of playing musically, and may be the most difficult component to control.

The lift causes the damper to fall onto the strings and terminates the sound. Together with the hold, it determines the note duration. The lift must be fast in order to control the note duration accurately. If the damper is not returned sufficiently rapidly, it will make a buzzing sound with the vibrating string. Therefore, the pianist must make a conscious effort to develop fast extensor muscles. Especially when playing fast, many students forget about the lift entirely, resulting in sloppy play: a run may end up consisting of staccato, legato, and overlapping notes, and fast parallel sets may end up sounding as if they were being played with the pedal.

All 3 components of the basic key stroke must be controlled accurately in order to have complete control over the piano; specifically, over the hammer and the damper, and this control is needed for authoritative play. Differences in the three components of the basic key stroke determine the differences between legato, normal, and staccato play, and the differences among the many types within each.

In normal play, the lift of the previous note coincides with the downstroke of the following note. If you had never practiced these components before, start practice with all 5 fingers, C to G, as you do when playing a C major scale and apply the components to each finger. To exercise the extensor muscles, exaggerate the quick lift stroke; practice rapid lifts with immediate relaxation, not an isometric lift and hold. This practice is much more important than most students realize because, with a minimum of practice, it quickly becomes an automatic part of how you play everything.

Keep all the non-playing fingers on the keys, lightly. When attempting to speed up the down and lift strokes, playing about one note per second, stress may start to build up; practice until the stress can be eliminated. The most important thing to remember about the hold is to relax immediately after the downstroke, but maintaining a downward force roughly equivalent to gravity. Then gradually speed up to some comfortable speed at which you can still

nâng lên và sự giữ đều quyết định trường độ của nốt nhạc. Sự nâng lên cần diễn ra nhanh để điều khiển chính xác trường độ của nốt nhạc. Nếu phím chặn tiếng không quay lại đủ và nhanh chóng, nó sẽ tạo ra những âm thanh rầm rĩ bởi những dây đàn đang rung. Theo đó, người chơi đàn cần ý thức và cố gắng phát triển những cơ duỗi (extensor muscles) nhanh. Đặc biệt khi chơi nhanh, nhiều học viên hoàn toàn quên về việc nâng lên. Điều này dẫn đến một màn trình diễn cẩu thả: một đoạn chạy sẽ gồm cả legato, staccato và những nốt nhạc chồng lên nhau; một parallel set (bộ song song) nhanh sẽ nghe như thể chúng được chơi khi đang giẫm pedal vậy.

Bạn cần điều khiển, nắm giữ chính xác cả 3 phần của cách nhấn phím cơ bản để có thể hoàn toàn điều khiển được cây đàn, cụ thể hơn là điều khiển những chiếc búa đàn và phím chặn tiếng. Sự thay đổi trong 3 phần trên sẽ tạo ra sự khác nhau giữa kiểu chơi legato, bình thường và staccato, cùng với sự khác nhau giữa nhiều loại khác trong từng kiểu chơi trên.

Trong kiểu chơi bình thường, sự nâng (ngón tay) lên của nốt trước xảy ra cùng lúc với sự nhấn xuống của nốt tiếp theo. Nếu bạn chưa từng tập luyện những điều này, hãy bắt đầu với 5 ngón tay của mình: đặt chúng lên các phím từ Đô tới Sol giống như khi bạn chơi gam Đô trưởng và áp dụng điều trên với từng ngón tay. Để tập luyện những cơ duỗi, hãy cường điệu động tác nâng nhanh, tập luyện động tác đó với sự thư giãn (thả lỏng) ngay tức thì, không phải là nâng và giữ đều nhau. Cách luyện tập này quan trọng hơn nhiều so với những gì hầu hết học viên nghĩ vì với sự luyện tập cần thiết ít nhất có thể, nó nhanh chóng biến thành một phần tự động trong cách bạn chơi đàn.

Bạn hãy đặt nhẹ nhàng tất cả những ngón tay không chơi đàn trên phím đàn. Khi bạn cố gắng tăng tốc độ của động tác nhấn xuống và nâng lên, chơi khoảng một nốt mỗi giây, sự căng cơ có thể bắt đầu xuất hiện; bạn hãy tập luyện cho tới khi sự căng cơ biến mất. Luôn ghi nhớ điều quan trọng nhất trong khi giữ phím đàn: hãy thư giãn (thả lỏng) ngay lập tức sau khi nhấn xuống, nhưng phải giữ một lực gần tương đương như trọng lực. Theo đó, bạn hãy dần dần tăng tốc tới những tốc độ mà bạn vẫn có thể thoải mái luyện tập những phần trên (nhấn xuống, giữ và nâng lên). Đương nhiên đây không phải là cách bạn sẽ chơi đàn mà nó chỉ là một phương pháp luyện tập. Điều thực sự kì diệu ở đây là nếu bạn tập luyện tích cực và cẩn thận, những cách nhấn phím cơ bản sẽ tự động trở thành một phần trong cách bạn chơi đàn, khi bạn chơi ở tốc độ thường. Bạn không cần phải lo lắng mình sẽ không nắm bắt được chúng: nếu chúng không được thực hiện đúng, âm nhạc bạn tạo ra sẽ không còn hay nữa.

Giờ bạn hãy tập riêng từng tay (HS) và làm điều tương tự với những bản nhạc chậm mà bạn có thể chơi được, ví dụ như chương I Moonlight Sonata của Beethoven. Nếu bạn chưa từng làm điều này trước đó, tập chung hai tay (HT) lúc ban đầu sẽ rất khó khăn vì

Page 4: 14 Key Strokes

practice each component. Obviously, this is not how you play the piano; it is only a practice method. What is so magical is that if practiced diligently, the basic keystrokes will be automatically incorporated into your play when playing at regular speed. There is no need to worry about losing these motions because the difference is clear: the music will deteriorate if they are not properly executed.

Now do the same with any slow music you can play, such as the 1st movement of Beethoven's Moonlight, HS. If you had never done this before, HT will initially be awkward because so many components in both hands must be coordinated. However, with practice, the music will come out better, with more control over the expression and the music. The performances will be consistent from day to day, and technique will progress more rapidly. Without a good basic keystroke, different pianos, or pianos that are not in good regulation can become impossible to play.

Legato is smooth play. This is accomplished by connecting successive notes — do not lift the first note until the second one is played. Fraser recommends considerable overlap of the two notes. The first moments of a note contain a lot of "noise" so that overlapping notes are not that noticeable. Because legato is a habit that you must build into your playing, experiment with different amounts of overlap to see how much overlap gives the best legato for you. Because this is probably already a habit, it may be difficult to change; be prepared to work on this for a long time. Then practice until the optimized motion becomes a new habit. Chopin considered legato as the most important skill to develop for a beginner. Chopin's music requires special types of legato and staccato (Ballade Op. 23); you should listen to recordings and practice them using this Ballade.

The piano makes a lot of extraneous sounds. To hear them, play on a digital with the sound turned off. Acoustic pianos create even more extraneous sounds than digitals, but they are not audible because you are accustomed to them, and the string sound can not be turned off to hear the extraneous

có quá nhiều thứ phải phối hợp ở cả hai tay. Nhưng với sự luyện tập, bạn sẽ chơi tốt hơn, có sự điều khiển đối với sự diễn cảm và âm nhạc. Màn trình diễn của bạn sẽ luôn giữ được chất lượng, trong khi kĩ thuật của bạn thì đang tiến bộ nhanh hơn. Thiếu đi kĩ năng nhấn phím cơ bản tốt, bạn sẽ không thể chơi được những cây piano lạ hay những cây piano không trong tình trạng tốt.

Legato có nghĩa là chơi liền tiếng, nối liền những nốt nhạc liên tiếp - không nâng lên cho tới khi nốt tiếp theo vang lên. Fraser khuyên chúng ta nên để âm thanh của hai nốt có sự gối lên nhau. Âm thanh của một nốt nhạc được tạo ra khi nhấn phím đàn sẽ còn kèm theo khá nhiều "tiếng ồn" khác, nên âm thanh của nốt trước đang gối lên âm thanh của nốt tiếp theo sẽ khó bị nhận ra. Vì legato là một phần không thể thiếu trong chơi đàn, bạn hãy thử những cách gối lên có độ lớn khác nhau, xem rằng gối lên bao nhiêu sẽ cho bạn kiểu legato tốt nhất. Đây có thể vốn là một thói quen, nên nó sẽ khó mà sửa ngay được - bạn nên chuẩn bị rằng mình sẽ phải dành nhiều thời gian cho nó. Sau đó thì hãy luyện tập cho tới khi chuyển động tối ưu đó trở thành một thói quen mới. Chopin cho rằng legato là kĩ thuật quan trọng nhất mà những người mới bắt đầu cần phải phát triển. Âm nhạc của ông đòi hỏi những kiểu legato và staccato đặc biệt (Ballade Op. 23), bạn nên nghe những bản thu âm và sử dụng tác phẩm này để luyện tập kĩ thuật legato.

Cây đàn piano tạo ra rất nhiều những âm thanh thừa. Để nghe chúng, hãy thử chơi trên một cây đàn điện tử. Đàn cơ còn tạo ra nhiều âm thanh thừa hơn đàn điện tử, nhưng bạn không nghe được vì vốn bạn đã quen tai và âm thanh của dây đàn thì không thể tắt được để bạn có thể nghe thấy chúng. Việc những âm thanh thừa này kéo dài bao lâu sẽ quan trọng trong việc quyết định độ lớn của sự gối lên nhau giữa những nốt nhạc trong kiểu chơi legato.

Staccato: Có một điều đáng ngạc nhiên rằng phần lớn các cuốn dạy chơi đàn đều bàn tới staccato, nhưng lại không hề định nghĩa staccato là gì! Trong kiểu chơi staccato, búa đàn chạm vào dây rồi bật lại và phím chặn tiếng quay lại ngay lập tức. Điều này tạo ra một âm thanh ngắn, không hề tiếp tục kéo dài. Búa kiểm tra (backcheck) không được khớp vào và phím chặn tiếng (damper) "cắt" âm thanh ngay lập tức sau khi nốt nhạc vừa được đánh. Theo đó, kiểu chơi staccato không có giai đoạn "giữ" của cách nhấn phím cơ bản. Và, những ngón tay phải được giữ ở bên trên mà không phải được thả lỏng trên phím đàn. Có hai kí hiệu cho kiểu chơi này: kiểu staccato thường (một dấu chấm bên trên hoặc dưới nốt nhạc) và staccatissimo (hình tam giác). Trong cả hai kiểu thì jack đều không được thả ra. Ở kiểu staccato thường, phím đàn được nhấn sâu xuống một nửa. Ở staccatissimo thì phím đàn được nhấn xuống ít

Page 5: 14 Key Strokes

sounds. The duration of this extraneous sound is important for determining the amount of note overlap for legato play.

Staccato: Astonishingly, most books on learning piano discuss staccato, but never define it! In staccato, the hammer is bounced off the strings and the damper is returned immediately so as to produce a brief sound with no sustain. The backcheck is not engaged and the damper cuts off the sound immediately after the note is played. Therefore, the "hold" component of the basic keystroke is missing and the hand is held above the keys after playing the note, not resting on the keys. There are two notations for staccato, the normal (dot) and hard (filled triangle) ( em có tra thử thì không thấy cái gọi là "hard staccato", mà theo em biết thì đây là kí hiệu của staccatissimo nên để thế nhé) . In both, the jack is not released. In normal staccato, the key drop is about half way down. In hard staccato, it is less than half way; in this way, the damper is returned to the strings faster, resulting in shorter note duration. The finger moves down and up much more rapidly. Because the backcheck is not engaged, the hammer can "bounce around", making staccato repetitions tricky at certain speeds. Thus if you have trouble with rapidly repeated staccatos, don't immediately blame yourself -- it may be the wrong frequency at which the hammer bounces the wrong way. By changing the speed, amount of key drop, etc., you may be able to eliminate the problem.

In normal staccato, gravity quickly returns the damper onto the strings (grand pianos; in uprights, springs are used). In hard staccato, the damper is actually bounced off the damper top rail, so that it returns even more quickly. At string contact, the hammer shank flex can be negative, which makes the effective mass of the hammer lighter; thus a considerable variety of tones can be produced with staccato. Therefore, the motions of the hammer, backcheck, jack, and damper are all changed in staccato. Clearly, in order to play staccato well, it helps to understand how the piano works so that you don't blame yourself when something unexpected happens and you know all the details of how to produce certain types of sounds -- staccato is not just

hơn một nửa; theo đó thì phím chặn tiếng quay lại dây nhanh hơn khiến nốt nhạc còn ngắn hơn. Các ngón tay di chuyển lên xuống cũng nhanh hơn rất nhiều. Vì búa kiểm tra không khớp vào, nhũng búa đàn có thể sẽ di chuyển, khiến cho việc lặp lại staccato khó khăn ở một số tốc độ nhất định. Theo đó, nếu bạn gặp vấn đề với việc lặp lại liên tục những nốt staccato nhanh, đừng ngay lập tức chê trách bản thân mình - đó có thể là do tần suất mà những chiếc búa đàn gõ không đúng cách. Bằng việc điều chỉnh tốc độ, độ sâu nhấn phím đàn xuống,... bạn sẽ giải quyết được vấn đề.

Ở kiểu staccato thường, trọng lực nhanh chóng đưa phím chặn tiếng rơi xuống dây đàn (đối với grand piano; còn đàn upright thì sử dụng lò xo). Ở kiểu staccatissimo, phím chặn tiếng nảy lại từ thanh dừng phím chặn tiếng (damper stop rail) nên thậm chí nó quay lại còn nhanh hơn ..... Như vậy, chuyển động của búa đàn, backcheck, jack và phím chặn tiếng đều thay đổi khi bạn chơi staccato. Rõ ràng rằng để thực hiện kĩ thuật staccato tốt, hiểu cách piano hoạt động sẽ giúp bạn không đổ lỗi cho mình khi điều gì đó không mong muốn xảy ra. Đồng thời, bạn cũng biết cách tạo những loại âm thanh nhất định - staccato không chỉ là một legato rất ngắn.

Thông thường staccato được phân loại thành ba kiểu dựa trên cách thực hiện: (I) Staccato chơi bằng ngón tay, (II) Staccato chơi bằng cổ tay và (III) staccato chơi bằng cả cánh tay, bao gồm cả chuyển động lên-xuống và sự xoay cổ tay. Khi bạn tiến dần từ (I) đến (III), bạn sẽ thêm nhiều trọng lượng hơn đằng sau những ngón tay. Kiểu (I) tạo ra những staccato nhẹ và nhanh nhất, có ích để chơi các nốt đơn, nhẹ nhàng. Trong khi đó, kiểu (III) mang đến cảm giác mạnh nhất, được sử dụng để chơi những đoạn nhạc mạnh mẽ với âm lượng lớn, các hợp âm nhiều nốt; nhưng đây lại là kiểu chậm nhất. Còn kiểu (II) thì nằm ở giữa hai thái cực trên. Trong thực tế, phần lớn chúng ta sẽ kết hợp cả ba kiểu trên với nhau. Do cổ tay và cánh tay thì chậm hơn nên biên độ của chúng cần phải giảm xuống để chơi những staccato nhanh. Một vài giáo viên phản đối việc sử dụng cổ tay để chơi staccato, chỉ dùng phần lớn ngón tay để chơi do tốc độ và cánh tay do sức mạnh mà nó đem lại. Nhưng sẽ tốt hơn khi có sự lựa chọn (hay kết hợp) cả ba kiểu. Ví dụ, bạn sẽ có thể giảm cảm giác mỏi bằng cách chuyển từ kiểu này sang kiểu khác, mặc dù phương pháp giảm cảm giác mỏi tiêu chuẩn là thay đổi ngón tay. Khi tập staccato, bạn hãy luyện cả ba kiểu trên (chơi bằng ngón tay, chơi bằng cổ tay, chơi bằng cánh tay) trước khi quyết định mình sẽ dùng kiểu nào, hoặc mình sẽ kết hợp chúng như thế nào.

Vì trọng lượng cánh tay không thể dùng trong việc chơi staccato, cách tốt nhất ở đây là có một cơ thể vững chãi. Như vậy cơ thể có một vai trò quan trọng trong việc choi staccato. Tốc độ lặp lại staccato được điều khiển bởi động tác lên-xuống: biên độ động

Page 6: 14 Key Strokes

a very short legato.Staccato is generally divided into three types

depending on how it is played: (i) finger staccato, (ii) wrist staccato, and (iii) arm staccato, which includes both up-down motion and arm rotation. As you progress from (i) to (iii) you add more mass behind the fingers; therefore, (i) gives the lightest, fastest staccato and is useful for single, soft notes, and (iii) gives the heaviest feeling and is useful for loud passages and chords with many notes, but is also the slowest. (ii) is in between. In practice, most of us probably combine all three. Since the wrist and arm are slower, their amplitudes must be correspondingly reduced in order to play faster staccato. Some teachers frown on the use of wrist staccato, preferring mostly finger staccato because of its speed or arm staccato for its power; however, it is better to have a choice (or combination) of all three. For example, you might be able to reduce fatigue by changing from one to the other, although the standard method of reducing fatigue is to change fingers. When practicing staccato, practice the three (finger, hand, arm) staccatos first before deciding on which one to use, or on how to combine them.

Because the arm weight can not be used for staccato, the best reference is a steady body. Thus the body plays a more important role in staccato play. Speed of staccato repetition is controlled by the amount of up-down motion: the smaller the motion, the faster the repetition rate, in exactly the same way as a basketball dribble. Relaxation is important in order to avoid over-exerting opposing muscles to hold the arm in mid air, or to play fast.

tác càng nhỏ thì tần suất lặp lại càng lớn, giống như khi bạn thực hiện động tác dẫn bóng trong bóng rổ vậy. Sự thư giãn rất quan trọng để tránh việc sử dụng quá độ những cơ để giữ cánh tay giữa không trung, hoặc để chơi đàn với tốc độ nhanh.