· 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM...

166
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO HÁT TIẾNG VIỆT TRONG NGHTHUẬT HÁT MỚI LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHTHUẬT HÀ NỘI – 2010

Transcript of  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM...

Page 1:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ******************

TRẦN THỊ NGỌC LAN

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO HÁT

TIẾNG VIỆT TRONG NGHỆ THUẬT HÁT MỚI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

HÀ NỘI – 2010

Page 2:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ******************

TRẦN THỊ NGỌC LAN

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO HÁT

TIẾNG VIỆT TRONG NGHỆ THUẬT HÁT MỚI

Chuyên ngành: Lý luận Âm nhạc

Mã số: 62 21 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

PGS – NSND TRUNG KIÊN

HÀ NỘI – 2010

Page 3:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng

đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Ngƣời cam đoan

Trần Thị Ngọc Lan

Page 4:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

4

LỜI CẢM ƠN

Bản luận án này là kết quả nghiên cứu của tác giả tại Khoa Thanh nhạc

Học Viện Âm Nhạc Quốc Gia Việt Nam dƣới sự hƣớng dẫn của PGS – NSND

Nguyễn Trung Kiên.

Tôi xin chân thành cảm ơn các Giáo sƣ, Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ, các nhà

nghiên cứu, các nghệ nhân, các nhạc sĩ, bạn bè, đồng nghiệp… trong và ngoài

Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam đã tận tình chỉ bảo, góp ý, giúp đỡ để

luận án đƣợc hoàn thành. Sự thành công của bản luận án này có đƣợc, một phần

lớn chính nhờ sự giúp đỡ của các Giáo Sƣ, Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ, các nhà nghiên

cứu, các nghệ nhân, các thày và các bạn bè, đồng nghiệp.

Trong luận án chắc sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất

mong nhận đƣợc sự tham gia ý kiến bổ sung hoàn thiện của các thày và đồng

nghiệp.

Trần Thị Ngọc Lan

Page 5:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

5

Giải thích các thuật ngữ, ký hiệu và chữ viết tắt sử dụng

trong luận án

* Thuật ngữ:

1. Âm tố (phone): Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của ngôn ngữ về mặt cấu âm -

thính giác. Nó là một trong những âm riêng biệt đƣợc tạo ra trong chuỗi lời nói.

Khi nói, một số cơ quan phát âm: môi, hàm, ngạc mềm, thanh môn và một vài bộ

phận của lƣỡi chuyển động. kết quả ta nghe đƣợc nhƣ là một chuỗi nối tiếp của

những âm riêng biệt và mỗi âm khác lẫn nhau về một số mặt nhƣ vị trí cấu âm,

phƣơng thức cấu âm, hữu thanh, vô thanh, tính chất mũi, bật hơi… Mỗi một âm

đƣợc lĩnh hội nhƣ thể là một âm tố. Bằng sự phân tích ngữ âm học, các âm tố

đƣợc nhóm lại thành những đơn vị ngữ âm khu biệt của ngôn ngữ, tức là các âm

vị. Âm tố là những cách phát âm khác nhau của âm vị (tr.74, 777 khái niệm

Ngôn Ngữ học - Nguyễn Thiện Giáp)

2. Âm tiết: Âm tiết là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất trong ngôn ngữ.

Trong tiếng Việt, một âm tiết bao giờ cũng đƣợc phát ra với một thanh điệu, và

tách rời với âm tiết khác bằng một khoảng trống. Trên chữ viết, mỗi âm tiết tiếng

Việt đƣợc ghi thành một "chữ" và đọc thành một "tiếng" (Mỗi âm tiết gồm 3

phần: khởi âm, đỉnh âm và kết âm). Ví dụ: từ "hoa hồng bạch" gồm 3 chữ, 3

tiếng hoặc 3 âm tiết. (Google: cau tao am tiet tieng viet)

Page 6:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

6

3. Âm vị: Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của một ngôn ngữ có khả năng khu biệt ý

nghĩa của hai từ. Các âm tố cảu lời nói khác nhau về một số mặt; vị trí cấu âm,

phƣơng thức cấu âm... Nhƣng chỉ 1 số trong những âm khác nhau ấy có giá trị

khu biệt, tức là chúng đƣợc dùng để phân biệt các từ trong một ngôn ngữ (/b/ và

/m/, /i/ và /e/, /n/ và /t/ là có giá trị khu biệt. Thay thế âm này bằng âm khác sẽ

làm thay đổi nghĩa của từ: bà – mà, tìm – têm, tan – tát. Các âm có giá trị khu

biệt nhƣ thế đƣợc gọi là các âm vị.(777 khái niệm Ngôn Ngữ học - Nguyễn Thiện

Giáp)

4. Cấu âm: Toàn bộ hoạt động của các cơ quan phát âm khi thực hiện các

âm. Đó là sự sinh sản các âm tố của lời nói ở trong miệng và họng. Hoạt động

này liên quan đến vị trí cấu âm và phƣơng thức cấu âm (777 khái niệm Ngôn

Ngữ học - Nguyễn Thiện Giáp)

5. Cắn chữ: Chỉ độ chính xác về rõ chữ, cao độ của giọng hát. Hát không

cắn chữ có nghĩa là bị lạc giọng hay chênh phô. Muốn không chênh phô phải biết

lấy hơi, giữ hơi, nén hơi và nhả chữ. Hơi bị hụt hay không đầy đặn sẽ khiến câu

hát bị rời rạc, đứt quãng, giọng dễ bị chênh phô, không đạt độ cao cần thiết.

6. Chữ: Theo Google – Cấu tạo âm tiết tiếng Việt – GOCNHIN.NET: Vì

tiếng Việt đơn âm nên âm tiết cũng chính là chữ.

Chữ trong luận án không có nghĩa là chữ viết nếu đứng về góc độ ngôn ngữ

học (chữ ở đây đƣợc hiểu là âm tiết, đơn vị ngữ âm cơ bản mà truyền thống âm

vị học tiếng Việt gọi là tiếng). Mặt khác âm tiết tiếng Việt (đơn vị của ngữ âm)

lại trùng với hình vị (đơn vị ngữ pháp) và trong nhiều trƣờng hợp lại trùng với từ

đơn (đơn vị từ vựng) nên trong luận án nhiều chỗ chúng tôi dùng chữ thì phải

hiểu rằng đó là âm tiết.

7. Bằng, Trắc: Thanh điệu của tiếng Việt bao gồm sáu thanh. Dựa vào quy

luật cao thấp của 6 thanh ngƣời ta chia ra làm hai phần Bằng và Trắc. Bằng gồm

Page 7:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

7

hai thanh: thanh không dấu gọi là thanh ngang và thanh huyền. Trắc gồm bốn

thanh còn lại: Sắc, Hỏi, Ngã, Nặng.

8. Bẻ bai chữ: Cách diễn đạt của nghệ nhân Chèo, Ca trù khi nói tới

phƣơng cách làm sao cho lời ca đƣợc xử lý tốt nhất, vừa mềm mại, vừa êm tai

ngọt ngào, đúng điệu đúng phách mà vẫn tròn vành rõ chữ. Muốn vậy phải biết

sử dụng luyến, láy, phải biết biến chuyển thanh điệu bằng, trắc (đặc biệt với hai

thanh hỏi và ngã) tạo đƣờng lƣợn nhấp nhô nhằm bảo đảm quy luật của thanh

điệu, vừa rõ chữ vừa mềm mại câu hát, nâng cao chất lƣợng của giọng. Cách làm

này gọi là bẻ bai chữ

9. Bẻ làn nắn điệu: Phƣơng pháp sáng tác truyền thống của âm nhạc Chèo

đƣợc ứng dụng ở hai cấp độ khác nhau.Với làn, tức với các lối hát không có

nhịp, hát tự do (adlibitum) nhƣ hát nói, ngâm, vịnh, vỉa...bẻ làn làm cho nó thay

đổi tƣơng đối về cấu trúc giai điệu, lƣợc bớt hoặc gia tăng nốt trang trí (luyến

láy), buông hơi nhả chữ, nhả chữ mềm mại hoặc cứng cỏi hoặc cợt nhả hài

hƣớc...song vẫn giữ hình bóng của làn gốc. Nắn điệu là phƣơng pháp phát triển

âm nhạc (variation) xa hơn tạo ra các điệu mới từ điệu cũ song không làm mất đi

cốt cách của nguyên bản mà tạo cho nó một hình hài mới, nội dung biểu hiện

mới.

10. Điệp, Đực, Chát: Nếu 4 khái niệm Trại, Bẹ, Hƣớt (hay huốt), dùng để

chỉ những lỗi liên quan đến phát âm nhả chữ thì Điệp, Đực, Chát liên quan đến

nghệ thuật xử lý, thể hiện ca từ.

- Điệp quy định diễn viên khi hát không đƣợc trùng âm thanh, chẳng hạn: em ơi

nghe chăng, 4 thanh không dấu đứng liền nhau phải xử lý có màu sắc khác nhau,

bằng cƣờng độ âm thanh (to nhỏ), sắc thái, luyến láy hay bằng kỹ thuật nhấn chữ

giúp tạo ra sự phong phú cho câu hát, đoạn hát và nêu bật đƣợc nội dung tác

phẩm.

- Đực chỉ lối hát đờ đẫn, vô hồn.

Page 8:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

8

- Chát chỉ lối hát vụng dẫn đến giọng hát thô. Âm thanh xẵng, không ngọt ngào.

11. Giọng: Chỉ giọng nói hoặc giọng hát, những hoạt động miệng của con

ngƣời. Trong âm nhạc và đặc biệt trong dân ca nhạc cổ truyền chỉ nhiều khái

niệm khác nhau: Giọng Đô trƣởng, giọng La thứ, giọng Nam, giọng Xuân, giọng

Bắc, giọng oán (liên quan đến tính điệu-mode), giọng tenor, giọng soprano,

giọng thổ đồng, giọng kim vắt...(liên quan đến chất giọng và phân loại giọng).

Từ Giọng còn dùng để chỉ một tổ hợp làn điệu đƣợc xếp đặt trong trình tự ca hát,

diễn xƣớng: Trong Quan Họ: Giọng lề lối, giọng vặt (giọng lá), giọng giã

bạn…Trong Chèo và hát Xoan, hát Ghẹo Phú Thọ cũng có giọng Sổng, giọng Ví

và giọng Vặt…

12. Giọng thổ: Quan niệm âm dƣơng, ngũ hành chi phối cả trong lĩnh vực

tƣ duy và sáng tạo âm nhạc truyền thống. Ngƣời ta cho rằng hệ thống thang âm 5

âm Hò, Xừ, Xang, Xê, Cống ứng với hệ thống cấu thành vũ trụ Kim, Mộc, Thuỷ,

Hoả, Thổ. Phân loại giọng hát cũng đƣợc dựa trên quan niệm Âm Dƣơng. Giọng

thổ - giọng Nam thuộc về dƣơng, đƣợc phân ra các loại giọng nhƣ sau:

1) Giọng Thổ Đồng. Chất giọng cao, trong, trữ tình (liên tƣởng tới giọng

tenor)

2) Giọng Thổ Lá: cao, chua, nghe nhƣ giọng nữ vì hát hơi mé, giọng óc

(voix de tête). Giọng này thƣờng dùng để đóng thế vai nữ vào thời kì Chèo sân

đình.

3) Giọng Thổ Bùn: Giọng ồ, khàn, và rè, "nát nhƣ bùn". Chuyên dùng cho

các nhân vật đóng vai hề áo dài, lính hầu, ... các vai này ít hát.

13. Hát tiếng một hoặc hát từ nào ra từ nấy: Xuất phát từ trải nghiệm của

nghệ nhân hát Chèo và Ca trù, cũng nhƣ từ bản chất cấu trúc của âm thanh tiếng

Việt (đa thanh, đơn âm tiết, mỗi âm tiết có nghĩa, độc lập) đƣợc ví nhƣ những

viên ngọc xâu lại thành chuỗi. Từ đó đẻ ra kỹ thuật và khái niệm hát tiếng một,

Page 9:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

9

hát từ nào ra từ nấy không phải hát rời rạc, nhát gừng, gẫy khúc mà vẫn vang,

rền, nền, nẩy.

14. Hát khép miệng: Nghệ thuật hát không mở khẩu hình lớn nhƣ lối hát

mở (Bel canto). Miệng phải đóng khép chữ, nhƣng giọng vẫn vang, rền, nền,

nẩy. Ca từ vẫn luôn bảo đảm tròn vành rõ chữ. Gọi nghệ thuật hát khép miệng vì

chúng sinh ra từ tiếng Việt (đóng, khép chữ), và từ quan niệm và tập quán sống

kín đáo của ngƣời Việt.

15. Hơi: Chỉ sự hoạt động của cơ quan hô hấp. Hơi thở có ảnh hƣởng trực

tiếp đến chất lƣợng của nói và hát. Hơi trong ca hát dân gian truyền thống còn

bao hàm nghĩa rộng và trừu tƣợng. Hơi ở đây bao hàm toàn bộ phong cách ngôn

ngữ biểu cảm có tính riêng biệt của từng dòng nghệ thuật hát truyền thống (hơi

Chèo). Nhiều nghệ nhân cho rằng hơi đƣợc tạo ra bởi rung, luyến láy... và dùng

từ hơi để chỉ cấu trúc nhƣ hơi nam, hơi ai, hơi xuân....

16. Khuôn hơi diệu vợi:

Khuôn là cách đàn hát tự khép mình vào khuôn khổ, uốn nắn từng tiếng

cho chính xác, lên xuống đúng bậc, phát âm rõ chữ, không vội vàng.

Hơi bao gồm cả màu sắc, dƣ vị và kỹ thuật giữ hơi, nén hơi để hát tiếng

nào cũng phải có dƣ âm vang rền, phải dụng công lấy tiếng gằn từ trong cổ họng,

vừa sâu vừa đầy đặn vừa không có tiếng nào dƣ thừa.

Diệu là tiếng hát, tiếng phách tiếng đàn phải đạt đến độ chín, độ sang

trọng và tuyệt diệu nhất.

Vợi có thể là ”thổ tận can tràng” tức phải để hết lòng mình trong câu hát.

Cũng có ngƣời giải thích Vợi là tiếng hát cao mà trong sáng. Căn cứ theo các tƣ

liệu cổ chỉ ra 8 chữ để thẩm định một đào nƣơng hát hay: Quán – xuyến – Dằn –

Thét – Diệu - Vợi – Khuôn – Rẫy. Tám chữ này nhấn mạnh vào 4 yếu tố của Ca

trù: Tròn vành – Rõ chữ - Sắc tay – Hay nhịp.

- Xuyến: Tức là hát cho tròn trĩnh, mƣợt, đẹp và vững vàng.

Page 10:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

10

- Dằn: Tiếng tròn, nặng và đều.

- Rẫy: Tiếng dền, giòn.

-Vợi: Tiếng cao mà trong sáng.

17. Làn Điệu: Làn điệu đƣợc dùng rộng rãi để chỉ một câu hát chèo, câu

hát dân ca song thực ra nó mang hai nội dung khác nhau. Làn gồm các câu hát

không nhịp, hát tự do nhƣ các giọng ngâm, vịnh, hát nói. Ngâm, hát nói có vị trí

quan trọng trong ca hát dân gian cũng nhƣ ca hát truyền thống bác học. Điệu là

từ để chỉ các bài hát có cấu trúc âm nhạc hoàn chỉnh (cấu trúc câu, đoạn - trổ,

nhịp ...). Vì Làn thƣờng đi với điệu (hát nói, hát tự do trƣớc khi đổ vào câu hát

chính) đặc biệt trong âm nhạc sân khấu truyền thống nên ngƣời ta hay có thói

quen gọi làn điệu Dân ca hay làn điệu Chèo....

18. Luyến láy: Trong dân ca và ca hát cổ truyền chuyên nghiệp luyến láy

nhƣ một phần da thịt không thể thiếu. Nó mang tính đặc trƣng và mang đậm bản

sắc văn hoá Việt. Luyến láy khó nắm bắt và ghi lại bằng chữ hay bằng nốt nhạc

nên bài bản thƣờng chỉ đƣợc ghi lại phần chính gọi là lòng bản. Trong dân gian

luyến láy đƣợc lƣu truyền qua hơi thở gọi là truyền khẩu. Luyến và láy có nhiệm

vụ, chức năng khá riêng biệt. Luyến làm cho quyện giữa âm này với âm kia

khiến chữ (ca từ) đƣợc mềm và câu hát đƣợc rền và dền. Luyến thƣờng đi liền

với thanh điệu, làm rõ thanh điệu. Luyến có thể diễn ra nhanh hoặc chậm tuỳ

thuộc vào làn điệu, dòng và nghệ thuật ca hát. Luyến đƣợc ứng dụng nhiều trong

sáng tác mới với chủ đích của ngƣời viết muốn tô đậm thêm bản sắc cho tác

phẩm.

19. Petite note: nốt nhỏ, nốt hoa mỹ

20. Phát âm, nhả chữ: Là kết quả của quá trình tạo âm, phát âm, với các

hoạt động của môi, răng, lƣỡi, hàm dƣới, vòm mềm (hàm ếch mềm, ngạc mềm

và miệng). Khẩu hình là hình dáng, cả bên ngoài lẫn bên trong của miệng do

hoạt động phối hợp của môi, lƣỡi, hàm dƣới, vòm mềm tạo ra khi phát âm. Mở

Page 11:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

11

khẩu hình không đúng cách sẽ ảnh hƣởng không chỉ đến chất lƣợng âm thanh,

mà nhất là ảnh hƣởng đến việc rõ lời, là một yêu cầu cơ bản trong thanh nhạc.

21. Tròn vành, rõ chữ: Cụm từ chỉ kỹ năng phát âm nhả chữ và kết quả

của kỹ năng vận động đó. Muốn tròn vành phải hoàn thành một cách tốt nhất qúa

trình tạo thanh. Quá trình tạo thanh giọng nói, cũng nhƣ giọng hát đều trải qua ba

bƣớc:

Bƣớc một: Tạo thanh (khởi thanh): có ý nghĩa quan trọng tạo ra âm thanh

đẹp cho giọng nói, cũng nhƣ giọng hát. Các cơ thanh đới phải đƣợc giữ cân bằng

để giây thanh đƣợc rung lên với tần số tốt nhất.

Bƣớc hai: Tạo âm: Khi dây thanh rung lên, nhờ các xoang phía trên cộng

hƣởng tạo ra các thành phần nhỏ nhất của lời nói gọi là âm tố. Sự kết hợp của âm

thanh (nguyên âm), tiếng động (phụ âm) và độ cao thấp gây ra bởi các thanh (sáu

thanh), âm tiết - từ tiếng Việt hình thành.

Bƣớc ba: Cấu âm: Chính là tiến trình cấu trúc của từ. Vậy đã tròn vành tức

đã hoàn tất tốt đẹp quá trình hình thành lời nói sẽ có kết quả rõ lời trong nói cũng

nhƣ trong hát. Đây là cụm từ thƣờng dùng trong nghệ thuật hát Chèo song nó

ngày một trở nên thông dụng và đƣợc áp dụng cho nhiều ngành nghệ thuật ca hát

khác.

22. Rung giọng: Rung giọng là một biểu hiện tự nhiên của giọng hát khi

hơi đi qua thanh đới tạo thanh. Rung giọng ở lối hát Bel canto sử dụng rung

giọng (tần suất nhanh hoặc chậm) tạo sự riêng biệt và làm tăng độ vang cho

giọng hát. Nghệ thuật ca hát dân ca, truyền thống của Việt Nam, Rung giọng

thiên về biểu cảm, chiều sâu có tính mỹ cảm hơn. Không tạo vang bằng Rung

giọng mà sử dụng nó làm công cụ biểu hiện.

23. Trại, Bẹ, Huốt (hay hƣớt), chớt: 4 khái niệm Trại, Bẹ, Hƣớt (hay

huốt), dùng để chỉ những lỗi liên quan đến phát âm nhả chữ. 4 luật cấm trong

nghệ thuật thanh nhạc Tuồng:

Page 12:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

12

- Trại chỉ lỗi liên quan đến phát âm vần nhƣ Tay thành Tai, nƣớc non thành

nƣớt noong... để chỉ lỗi sai hai thanh điệu hỏi và ngã.

- Bẹ chỉ lỗi phát âm không đúng hoặc không rõ, lẫn lộn thanh điệu: con bò

vàng thành con bó váng, đau khổ thành đau khỗ...

- Hƣớt hay huốt: lỗi phát âm nuốt chữ, dài hoặc ngắn lƣỡi, không đúng vị trí

cấu âm từ. Ví dụ: ngày mai thành ngà ma hay anh đi thành an đi...

24. Vang, Rền, Nền, Nảy: Ngƣời Quan Họ cho rằng đây là tiêu chí do họ

đặt ra và đƣợc nhiều ngành nghệ thuật ca hát khác áp dụng, nhƣng mức độ và kỹ

thuật xử lý không giống nhau.

Vang là tiêu chí đầu tiên, mỗi dòng ca hát truyền thống lại có những quan

niệm, xử lý khác nhau, tuỳ thuộc vào không gian và đối tƣợng thƣởng thức.

Rền là tiêu chí thứ hai. Khi có vang phải đẩy độ vang tới mức cần thiết để

âm thanh lan truyền và vang động tới không gian rộng lớn hơn. Rền còn có ý

nghĩa nữa là dền (legato), âm thanh, giai điệu, ca từ gắn kết chặt chẽ khiến câu

hát trở thành một dòng âm thanh hài hoà, giàu sức biểu cảm.

Nền có thể hiểu giọng hát, câu hát đƣợc diễn đạt một cách tế nhị, nền nã,

không thô bạo, chát, sƣợng. Nền cũng có thể đƣợc hiểu nhƣ là giọng hát giữ

đƣợc độ ngân, độ mở của ca từ để đáp ứng đƣợc với cấu trúc của giai điệu âm

nhạc.

Nẩy là kỹ thuật khá đặc biệt của nghệ thuật ca hát dân tộc. Nó đƣợc thể hiện

và xử lý không giống nhau. Quan họ gọi là hơi hột, nảy hạt, Tuồng gọi là láy

rúc... Để tạo ra hơi hột, nghệ nhân thu hơi vào phía trong đẩy mạnh lên khoang

vòm miệng và mũi, tiếng bật thành các hạt âm thanh liên tiếp. Hột to đƣợc ví

nhƣ hạt đỗ, hột nhỏ gọi là con kiến (đổ con kiến)

* Ký hiệu và chữ viết tắt:

- C: Viết tắt của Consonant - phụ âm;

- V: Viết tắt của Vowel - nguyên âm

Page 13:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

13

- C, D, E, F, G, A, H (B): các nốt đồ, rê, mi, pha, son, la, si (si giáng)

- D2: nốt rê ở quãng 8 thứ 2

- F#: nốt pha thăng

- HVANQGVN: Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.

- GS: Giáo sƣ

- PGS: Phó giáo sƣ.

- TS: Tiến sĩ

- NS: Nghệ sĩ

- NSƢT: Nghệ sĩ ƣu tú

- NGƢT: Nhà giáo ƣu tú

- NSND: Nghệ sĩ nhân dân

- TK.XV: Thế kỷ 15

- TW: Trung ƣơng

- XHCN: Xã hội chủ nghĩa

- Xem bảng 1.4: Bảng 4 của chƣơng I

- Xem hình 1.1: Hình 1 của chƣơng I

- [33, tr14]: 33 là thứ tự của tài liệu tham khảo, tr14 là số trang

Page 14:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

14

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

TT

Số hình,

bảng, biểu

Tên hình

Trang

1 Bảng 1.1 Các thành phần của âm tiết

19

2 Bảng 1.2 Hệ thống âm đầu

19

3 Bảng 1.3 Bảng so sánh nghệ thuật hát cổ truyền và nghệ thuật

hát Mới

79

4 Biểu đồ Cấu tạo của âm tiết tiếng Việt

18

5 Hình Những vị trí phát âm của hệ thống phụ âm

21

Page 15:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

15

MỤC LỤC

Trang

Mở Đầu..………………………………………………………………..............1

Chƣơng 1: Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống và nghệ thuật

hát Mới............................................................................................14

1.1 Những đặc điểm, đặc trƣng cơ bản của tiếng Việt trong nói và hát……..14

1.2 Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống………………………...27

1.3 Tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới…………………………….............59

Chƣơng 2: Một số giải pháp, ứng dụng và bài tập góp phần nâng cao chất

lƣợng hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát ……………………..83

2.1 Một số giải pháp, ứng dụng nhằm nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt...84

2.2 Một số bài tập nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt…...112

Kết luận………..……………………………………………………………...123

Tài liệu tham khảo…………………………………………….......................128

Phụ lục

Page 16:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

16

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trải qua hàng ngàn năm bị đô hộ, với ý chí tự lập, tự cƣờng rất cao của

ngƣời Việt nam nên chúng ta vẫn giữ đƣợc truyền thống văn hoá mang bản sắc

riêng của mình. Duy trì tính đa dạng văn hoá cũng là sự bảo tồn và duy trì bản

sắc dân tộc. Vấn đề khai thác và phát triển, bảo tồn và phát huy vốn âm nhạc

truyền thống đang là mục tiêu xây dựng một nền âm nhạc Việt Nam tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc.

Việc nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới là nhiệm

vụ quan trọng và cần làm. Xây dựng và phát triển nền thanh nhạc Việt nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở nền thanh nhạc do cha ông ta để lại đến

ngày nay, kết hợp với sự tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo kỹ thuật thanh nhạc kinh

điển thế giới làm cho sức biểu hiện của tiếng hát Việt nam ngày càng đẹp hơn,

hay hơn.

Ngôn ngữ - khởi nguồn của văn hoá biểu cảm là cầu nối giữa ngƣời với

ngƣời và thế giới xung quanh. Cùng với quá trình phát triển của kinh tế, khoa

học, kỹ thuật và mối quan hệ xã hội, ngôn ngữ cũng đa dạng và phát triển theo

để đáp ứng những nhu cầu bức thiết của quá trình này. Tuy nhiên ngôn ngữ

không chỉ dừng lại với vai trò giao tiếp mà nó còn là phƣơng tiện sáng tạo của

nhiều loại hình nghệ thuật diễn xƣớng, thi ca…đặc biệt là ca hát. Do chịu sự tác

động trực tiếp của đời sống nên ngôn ngữ mang đậm sắc thái vùng miền. Chính

sắc thái vùng miền này đã định hình thành phong cách mang dấu ấn của từng

vùng văn hoá. Sự khác biệt giữa các vùng ca hát xuất phát từ ngôn ngữ, từ cách

Page 17:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

17

phát âm của vùng miền. Ta có thể thấy rõ điều đó ở các vùng ca hát dân gian

truyền thống của Việt Nam.

Ca hát là nghệ thuật luôn gắn liền với ngôn ngữ. Ngôn ngữ nào cũng có

nghệ thuật ca hát riêng, phù hợp với ngôn ngữ đó.Với 54 dân tộc anh em, nghệ

thuật ca hát truyền thống rất phong phú về số lƣợng, đa dạng về ngôn ngữ và

phong cách thể hiện độc đáo. Mỗi bộ môn nghệ thuật trong ca hát truyền thống,

lại có phong cách, màu sắc, những ứng xử về ngôn ngữ rất riêng, mang tính tƣ

duy và thẩm mỹ độc lập.

Từ nền tảng kiến thức thu lƣợm từ các giáo sƣ, các thày và đồng nghiệp

trong và ngoài khoa thanh nhạc Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam cùng

những kinh nghiệm đúc rút từ thực tiễn giảng dạy và biểu diễn, tác giả luận án

thấy rằng việc hiểu rõ tiếng Việt (nắm rõ đặc điểm, đặc trƣng, quá trình đóng,

mở và cấu trúc âm thanh của ngôn ngữ tiếng Việt) cũng nhƣ các đặc điểm, đặc

trƣng của nghệ thuật ca hát truyền thống (nghệ thuật xuất thân và là sản phẩm

của tiếng Việt) là cơ sở tốt để ứng dụng vào hát Mới mang lại hiệu quả trong

việc Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới.

Trƣớc đây đã có các giáo sƣ, các nhà sƣ phạm hàng đầu của nghệ thuật

thanh nhạc nhƣ PGS-NSND Mai Khanh, PGS-NSND Nguyễn Trung Kiên, PGS-

NGƢT Lô Thanh, NGƢT Hồ Mộ La…đề cập tới những vấn đề về phƣơng pháp

sƣ phạm, kỹ thuật, lịch sử thanh nhạc…Những vấn đề xử lý ngôn ngữ tiếng Việt

trong thanh nhạc cũng đã đƣợc đề cập tới trong các bài báo và các luận văn thạc

sĩ của Ths.Vũ Diệu Linh, Ths.Võ văn Lý, TS.Trƣơng Ngọc Thắng… song chƣa

có một nghiên cứu chuyên sâu nào về vấn đề này. Đây là lý do chính để luận án

của chúng tôi chọn đề tài Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong

nghệ thuật hát Mới với hy vọng bổ sung thêm cho giáo trình giảng dạy thanh

nhạc giúp cải thiện một số hạn chế trong hát tiếng Việt.

Page 18:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

18

Năm 1956 trƣờng Âm nhạc Việt Nam đƣợc thành lập tại Hà Nội và

chuyên ngành thanh nhạc đã đƣợc đƣa vào giảng dạy chính khoá. Có thể coi đây

là cột mốc lịch sử, đánh dấu sự khởi đầu của sự nghiệp đào tạo nền thanh nhạc

chuyên nghiệp Việt Nam.

Trải qua hơn 50 năm hình thành và phát triển, nghệ thuật thanh nhạc Việt

nam đã đạt đƣợc những thành tựu rất đáng tự hào trên cả 2 lĩnh vực đào tạo và

biểu diễn: Chuyên ngành thanh nhạc đã đƣợc đƣa vào giảng dạy tại các cơ sở

đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp ở nƣớc ta nhƣ: Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt

nam, Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Âm nhạc Huế, trƣờng Đại

học Văn hoá Nghệ thuật Quân đội, trƣờng Đại học Sƣ phạm Nghệ thuật TW, các

trƣờng Cao đẳng và Trung cấp Văn hoá Nghệ thuật các địa phƣơng, các khoa âm

nhạc của các trƣờng đại học… Chúng ta đã đào tạo đƣợc nhiều thế hệ nghệ sĩ và

ca sĩ xuất sắc mà bằng tài năng của mình họ đã làm rạng danh cho nền ca hát

Việt nam.

Chúng tôi xin điểm qua đôi nét về những chặng đƣờng phát triển của

thanh nhạc Việt Nam.

Phong trào Tân Nhạc (nhạc Mới) ra đời từ cuối những năm 30 (thế kỷ XX)

do đòi hỏi của xã hội Việt Nam lúc đó và sớm trở thành trào lƣu vào các năm

trƣớc Cách mạng tháng Tám (còn gọi là nhạc Tiền Chiến). Phong trào cách tân

rất mạnh thể hiện ở những thay đổi trong đời sống xã hội (cắt bỏ búi tóc củ hành,

cạo răng trắng, đàn bà bỏ váy mặc quần…) cũng nhƣ thay đổi trong đời sống văn

hoá nghệ thuật: Từ hò, xừ, xang, xê, cống chuyển sang đô, rê, mi, pha, son. Từ

thẩm mỹ nghe đơn thanh chuyển sang thẩm mỹ nghe đa thanh. Từ thói quen

nghe hát bạch thanh, giọng thật với các kỹ thuật hát thuần Việt nhƣ rung, luyến,

đổ hột... chuyển sang nghe hát giọng pha theo cách hát du nhập của phƣơng Tây

(lối hát cộng minh mở rộng âm thanh và mở rộng tầm cữ giọng…). Tân Nhạc ra

đời đòi hỏi phải có ca hát thích hợp để diễn đạt nó, vì vậy hát Mới ra đời. Quá

Page 19:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

19

trình hình thành và phát triển của nghệ thuật hát Mới gắn liền với tiến trình hình

thành và phát triển của sáng tác âm nhạc . Sáng tác âm nhạc (hình thức, thể loại,

ngôn ngữ, nội dung biểu cảm...) càng phát triển, càng phong phú và đa dạng bao

nhiêu thì càng đặt ra cho ca hát nhiều thách thức bấy nhiêu. Trong mỗi giai đoạn,

mỗi thời kỳ do đặc điểm phát triển của sáng tác và sự tác động cũng nhƣ đòi hỏi

của thực tiễn đời sống nên nghệ thuật ca hát hình thành, thay đổi, phát triển và

trƣởng thành theo. Quá trình hình thành và phát triển của hát Mới có thể chia làm

4 giai đoạn:

Giai đoạn một (1938 - 1945): Cùng với sự hình thành và phát triển Tân

Nhạc, hát Mới ra đời. Ca hát giai đoạn này phát triển mang tính tự phát có những

giọng hát nổi tiếng đại diện nhƣ: Mai Khanh, Thƣơng Huyền, Ngọc Bảo, Minh

Trang, Minh Đỗ... Và phần lớn ca khúc lúc này đều phản ánh tâm sự cá nhân,

tình yêu đôi lứa. Giai đoạn này ca hát chỉ dừng ở hát giọng thật còn gọi là hát

bạch thanh hay hát bản năng.

Tân Nhạc (hát Mới) thời kỳ đầu chƣa đƣợc thể hiện bằng phƣơng pháp

thanh nhạc có hệ thống, cụ thể và khoa học, chƣa đƣợc rèn luyện một cách

chuyên nghiệp và bài bản. Ca sĩ thời kỳ đầu xuất hiện cùng phong trào “nhạc

Tây lời ta”, phần lớn đều là các nghệ sĩ của sân khấu cải lƣơng nhƣ Kim Thoa,

Ái Liên, Năm Châu, Kim Tiêu... Cùng với bài hát “Tây lời ta”, những bài hát

hƣớng đạo sinh, những bản hành khúc và dân ca Pháp, cùng những giọng hát của

các ca sĩ Pháp đã có ảnh hƣởng tác động trực tiếp tới sự ra đời của hát Mới.

Giai đoạn hai (1945 - 1954): Giai đoạn phát triển rực rỡ của âm nhạc

cách mạng với những tác phẩm lớn cho đến nay vẫn đƣợc lấy làm mẫu mực cho

sáng tác ca khúc và nghệ thuật thanh nhạc ở thể loại thính phòng nhƣ Ngƣời Hà

Nội (Nguyễn Đình Thi), Sông Lô (Văn Cao), Du Kích Sông Thao (Đỗ Nhuận),

Trƣờng chinh ca (Lƣơng Ngọc Trác)... Giai đoạn này vì những lý do khách

quan: sáng tác âm nhạc ra đời chƣa lâu, tình hình đất nƣớc đang trong giai đoạn

Page 20:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

20

trƣờng kỳ kháng chiến, tƣ duy nghệ thuật còn sơ khai, nên ca hát vẫn hát giọng

thật, bạch thanh nhƣng đã gần hơn với nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp.

Giai đoạn ba (1956 - Trƣờng Âm nhạc Việt Nam ra đời - 1975): Giai

đoạn phát triển cao của sáng tác âm nhạc - giai đoạn âm nhạc chuyên nghiệp

phát triển, trong đó có hát chuyên nghiệp cũng từng bƣớc phát triển theo những

chuẩn mực quốc tế, lấy phƣơng pháp thanh nhạc nƣớc ngoài, chủ yếu từ một số

nƣớc Đông Âu hay còn gọi là nghệ thuật hát Đẹp - Bel canto hay nghệ thuật hát

Mở (sinh ra từ ngôn ngữ đơn thanh, đa âm tiết. Phƣơng pháp hát cộng minh có

âm vang lớn, miệng mở rộng (khẩu hình lớn), tạo sự đồng nhất các nguyên âm.

Lấy hơi, nén hơi, phối hợp các hộp vang đầu và ngực, khuếch đại âm thanh) làm

nền tảng.

Xuất phát từ mục tiêu Dân tộc, Khoa học, Đại chúng (đề cƣơng văn hoá

của Đảng - 1943) và với chủ trƣơng tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế

giới, nhà nƣớc đã thực sự quan tâm nhằm đẩy mạnh và nâng cao tính chuyên

nghiệp cho các loại hình nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng. Cùng với

các lớp đào tạo tại chỗ do chuyên gia thanh nhạc đến từ các nƣớc XHCN, Bộ văn

hoá đã cử nhiều giọng hát có triển vọng ra nƣớc ngoài học tập theo chế độ lƣu

học sinh và thực tập sinh tại các nhạc viện có uy tín nhƣ:

- Liên-xô (cũ): PGS-NSND Mai Khanh (thực tập), PGS-NSND Trung

Kiên, NGƢT Mộ La, NSƢT Quang Hƣng, NGƢT Thuý Huyền (thực tập), NS

Dƣơng Phú, NS Thanh Trì, NS Kiều Hƣng, NSND Lê Dung (thực tập)…

- Bun-ga-ri: NSND Quý Dƣơng (thực tập), NSND Trần Hiếu (thực tập),

NSND Tƣờng Vy, PGS-NGƢT Lô Thanh, NSƢT Quốc Trụ, NSƢT Gia Hội

(thực tập), NGƢT Diệu Thuý (thực tập), NSƢT Quang Phác, NSƢT Thanh

Đính, NS Kim Oanh, NS Tâm Trừng, NSƢT Anh Đào, NS Gia Khánh…

- Trung Quốc: PGS-NSND Mai Khanh, PGS-NGƢT Lô Thanh...

Page 21:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

21

- Hung-ga-ri : NSND Quốc Hƣơng, NSƢT Kim Định (thực tập), NSƢT

Đức Lộc (thực tập), NS Trần Thụ...

Hát Mới đƣợc đào tạo có bài bản giúp nền âm nhạc Việt Nam non trẻ có

đƣợc những gƣơng mặt mới, tài năng mới, từng bƣớc xây dựng nên nền âm nhạc

chuyên nghiệp. Nhiều thế hệ ca sĩ, nghệ sĩ tài năng, ứng dụng linh hoạt và sáng

tạo nghệ thuật hát Bel canto không chỉ đóng góp xây dựng nên sân khấu ca kịch

VN mà còn có những đóng góp xuất sắc xây dựng nền âm nhạc cách mạng.

Những bài ca hùng tráng, những ca khúc trữ tình giàu chất lạc quan, những ca

khúc đƣợm chất dân ca nhƣng gần gũi với ngôn ngữ biểu cảm của Bel canto…

đã đƣợc thể hiện bởi các giọng hát tài năng và đƣợc đào tạo chính quy của nhiều

thế hệ nghệ sĩ nhƣ Mai Khanh, Quốc Hƣơng, Quý Dƣơng, Trần Hiếu, Trung

Kiên, Quang Hƣng, Tƣờng Vi, Thanh Huyền, Tuyết Thanh, Bích Liên, Quang

Thọ, Thuý Hà, Lê Dung... đã vang lên và trở thành những bài ca có sức sống

mãnh liệt, đóng góp tích cực và có hiệu quả trong các cuộc chiến tranh cứu nƣớc

và công cuộc xây dựng đất nƣớc, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc.

Các tác phẩm thanh nhạc sáng tác trong giai đoạn này đã đóng vai trò định

hƣớng cho ca hát chuyên nghiệp phát triển. Tuy nhiên ca hát chuyên nghiệp cũng

mới đƣợc tiếp cận với phƣơng pháp thanh nhạc Bel canto. Vì vậy, nhìn chung

phƣơng pháp hát Mới chƣa giải quyết đƣợc sự kết hợp hài hoà giữa tiêu chí âm

thanh và lời hát (giai đoạn này, đào tạo thanh nhạc chủ yếu ở trình độ trung cấp

và một phần nhỏ ở trình độ đại học). Trong bối cảnh này, tại các trƣờng và các

trung tâm đào tạo cũng nhƣ trong thực tế biểu diễn, tiêu chí âm thanh vang, khoẻ

đƣợc quan tâm nhiều hơn tiêu chí hát rõ lời, do vậy đã có một số ca sĩ chỉ chú ý

đến âm thanh “tròn vành” nhƣng không “rõ chữ” và đã bị dƣ luận phê phán. Một

phần nữa, trong giai đoạn này hệ thống kỹ thuật âm thanh ở các sân khấu biểu

diễn và các phòng thu âm còn lạc hậu, nên ngƣời hát không có kỹ thuật phát âm

Page 22:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

22

nhả chữ tốt sẽ bộc lộ rõ những khiếm khuyết của mình, cộng thêm những nhƣợc

điểm trong sáng tác thanh nhạc gây khó khăn, hạn chế không ít cho ngƣời hát

trong việc thực hiện tiêu chí hát rõ lời.

Giai đoạn thứ tƣ (1975 đến nay - giai đoạn hoà nhập của âm nhạc Nam -

Bắc): Là giai đoạn phát triển đa dạng của hát Mới. Nhạc nhẹ đƣợc gọi là nhạc trẻ

(nhạc giải trí) nhƣ luồng gió mới tràn vào nƣớc ta và đƣợc phát triển rầm rộ. 15

năm đầu của giai đoạn này có thể đƣợc coi là giai đoạn khó khăn, chao đảo của

dòng nhạc thính phòng và ca khúc cách mạng. Với cách hát tự nhiên, nhả chữ

gần gũi với tiếng Việt, đa dạng phong cách, vì giữ đƣợc âm sắc nguyên bản của

giọng nói (ở phƣơng pháp hát Bel canto thực sự còn có khoảng cách) nhạc trẻ đã

lấn lƣớt và đƣợc quần chúng nồng nhiệt đón nhận.

Nhƣng nghệ thuật hát Đẹp - Bel canto cùng với sức sống mãnh liệt của ca

khúc cách mạng, những ca khúc có tính sáng tạo và có nội dung sâu sắc nên

nghệ thuật hát Bel canto đã dần lấy lại vị trí của mình và trở thành một trong ba

dòng hát chính ở Việt Nam:

- Dòng ca hát thính phòng.

- Dòng ca hát theo phong cách dân gian.

- Dòng ca hát nhạc nhẹ.

Mặc dù đƣợc chia làm 3 dòng và trở thành tiêu chí của các cuộc thi hát

chuyên nghiệp từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trƣớc và những năm

sau này, phƣơng pháp hát Bel canto đã và đang có những ảnh hƣởng tốt, nâng

cao chất lƣợng ca hát cho cả ba dòng và còn tác động đến nhiều khu vực ca hát

truyền thống khác. Mỗi dòng đều có những đại diện xuất sắc, nhƣng ở mỗi dòng

đều có những vấn đề nảy sinh mà trong nhiều năm các thế hệ đi trƣớc giàu tài

năng, kinh nghiệm vẫn trăn trở, nghiên cứu, suy nghĩ và tìm biện pháp khắc

phục: “tròn vành” nhƣng không “rõ chữ”. Có nghĩa là phần nào đánh mất bản sắc

của tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới.

Page 23:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

23

Việt nam với 54 dân tộc anh em, đƣợc thừa hƣởng một kho tàng âm nhạc

dân gian phong phú, một nền kỹ thuật thanh nhạc dân tộc đa dạng, độc đáo và

đạt trình độ thẩm mỹ cao.Việc tiếp thu, học tập tinh hoa trong kho tàng nghệ

thuật ca hát truyền thống của nhân dân ta về kỹ thuật thanh nhạc dân tộc, xử lý

ngôn ngữ tiếng Việt một cách linh hoạt, tinh tế, nhả chữ sao cho vang, rền, nền,

nảy đạt yêu cầu tròn vành, rõ chữ, hát tiếng nào ra tiếng nấy, rõ tiếng một; đồng

thời kết hợp với những kỹ thuật thanh nhạc hát Bel canto là một việc làm hết sức

quan trọng và cần thiết nhằm Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong

nghệ thuật hát Mới.

Từ khi hình thành và phát triển hát Mới sử dụng tiếng Việt phổ thông -

giọng Bắc (lấy chuẩn là giọng Hà Nội) làm cơ sở và trở thành tiêu chí của nghệ

thuật hát Mới. Cũng nhƣ hát Cải lƣơng hay, phải hát đúng giọng Nam bộ. Ca

Huế hay, phải phát âm đúng giọng Huế. Hát Chèo, hát Quan Họ hay, phải hát

bằng giọng Bắc. Một số ca khúc viết theo phong cách dân gian, mang đậm ngôn

ngữ địa phƣơng, ngƣời hát khi trình bày đòi hỏi phải hát rõ phong cách hoặc phát

âm theo tiếng địa phƣơng. Những sáng tác mang phong cách hiện đại, ngƣời hát

lại hát bằng giọng địa phƣơng, sẽ không phù hợp với tai nghe, thẩm mỹ của

ngƣời nghe.Vì vậy muốn hát tốt, hát chuẩn tiếng Việt cần luyện phát âm chuẩn

tiếng Việt phổ thông.

Hát Mới lấy nghệ thuật hát Đẹp - Bel canto làm cơ sở đào tạo, biểu diễn

và làm tiêu chí đánh giá mức độ chuyên nghiệp, cũng nhƣ thẩm mỹ âm thanh

suốt gần 60 năm qua, đã đạt đƣợc những thành công nhất định và cũng gặp

không ít khó khăn. Khó khăn chính nẩy sinh từ tiếng Việt, đa thanh, đơn âm, âm

đóng nhiều hơn âm mở và những đặc thù rất riêng của ca hát thuần Việt. Vì vậy,

nếu không nắm vững quy luật, cấu trúc và phát âm tiếng Việt, ngƣời hát sẽ mắc

lỗi không rõ lời hoặc đánh mất những yếu tố đặc trƣng mang tính thuần Việt nhƣ

rung, luyến, láy... giọng hát trở nên cứng, đuỗn, vô hồn.

Page 24:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

24

Nghệ thuật Bel canto - nghệ thuật hát Mới nếu ngƣời hát vận dụng một

cách máy móc, thiếu sáng tạo vào hát tiếng Việt sẽ “tròn vành” nhƣng không “rõ

chữ”. Vì mở rộng âm vang và tầm cữ giọng nhƣng quá trình đóng, mở, kết thúc

từ không giữ đƣợc những yếu tố cơ bản của tiếng Việt (trái với tai nghe, thẩm

mỹ truyền thống). Ngƣời hát có thể hát rất tốt khi biểu diễn tác phẩm thanh nhạc

nƣớc ngoài nhƣng hát không hay hoặc không thích hát ca khúc tiếng Việt.

Trong quá trình hình thành và phát triển của hát Mới nhiều thế hệ nghệ sĩ,

giảng viên khoa thanh nhạc đã có nhiều sáng tạo, vận dụng nghệ thuật hát Bel

canto vào hát tiếng Việt, đóng góp một phần thành công không nhỏ trong đào tạo

và biểu diễn những tác phẩm thanh nhạc Việt Nam. Nhiều nghệ sĩ - giảng viên

đã rất thành công trong đào tạo và biểu diễn. Mỗi ngƣời mỗi vẻ, mỗi phƣơng

pháp hát khác nhau. Cũng không ít những giọng hát có triển vọng, đƣợc đào tạo

bài bản, chính qui ở trong nƣớc cũng nhƣ ở nƣớc ngoài nhƣng thể hiện bài hát

Việt Nam không đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn, bởi nhiều lý do: Kỹ thuật

Bel canto tốt nhƣng đóng, mở từ không hợp lý, hoặc mở quá hát không rõ lời,

hoặc khép quá hát không có âm thanh, khô, vụn, vận dụng cứng nhắc, máy móc,

“tròn vành” nhƣng “không rõ chữ”... có nghĩa là phần nào đánh mất bản sắc của

tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới.

Sáng tác cho thanh nhạc lúc này không còn đóng vai trò định hƣớng cho

nghệ thuật hát Mới nói chung, thậm chí trong lĩnh vực sáng tác nhạc nhẹ bị lai

căng, pha tạp, đạo nhạc, chạy theo thị hiếu… hoặc những sáng tác mang âm

hƣởng dân tộc vàng vọt, “sến”, thẩm mỹ thấp.

Kỹ thuật về âm thanh phát triển rất mạnh ở cả nơi biểu diễn và trong

phòng thu âm tạo cho ca sĩ nhƣng điều kiện mới vừa tích cực, vừa tiêu cực (hát

“nhép” tràn lan). Tác phẩm cho hát thính phòng hầu nhƣ vắng bóng. Tuy nhiên

trong đào tạo hát Mới vẫn có những kết quả, những cố gắng mới và những điều

kiện mới đó là những kết quả mở rộng giao lƣu văn hoá và hội nhập. Dòng thính

Page 25:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

25

phòng đã có những kết quả đáng khích lệ. Ca hát cách mạng cũng từng bƣớc

đƣợc hồi phục. Tiêu chí hát tốt tiếng Việt trong đào tạo vẫn tiếp tục đƣợc quan

tâm nhƣng đã có những thay đổi không còn bức bách nhƣ trƣớc. Song, yêu cầu

chuẩn hoá những qui trình đào tạo là rất cần thiết và nâng cao chất lƣợng là điều

sống còn trong nhà trƣờng và các trung tâm đào tạo chuyên nghiệp.

2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu

- Luận án dựa trên những nghiên cứu về những đặc trƣng, qui luật cơ bản

của cấu âm tiếng Việt làm cơ sở lý luận để tiếp tục nghiên cứu phƣơng pháp xử

lý ngôn ngữ khôn khéo, tinh tế trong nghệ thuật ca hát truyền thống.

- Nghiên cứu phƣơng pháp xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong dân gian và

một số nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp thuần Việt tiêu biểu gần gũi với tiếng

Việt phổ thông, có ảnh hƣởng trực tiếp đến nghệ thuật ca hát Mới nhƣ: Ngâm

thơ, Hát ru, Dân ca, Ca trù, hát Chèo, hát Tuồng để tìm ra biện pháp phù hợp,

ứng dụng vào đào tạo, giảng dạy thanh nhạc kết hợp giữa kỹ thuật phát âm, nhả

chữ truyền thống với kỹ thuật mở rộng âm thanh của nghệ thuật hát Mới nhằm

tròn vành rõ chữ, rõ tiếng một mà vẫn giữ đƣợc những đặc trƣng cơ bản của

ngôn ngữ tiếng Việt, truyền đạt rõ ràng, đầy đủ thông tin chứa đựng trong ca từ

tới ngƣời nghe, khán giả, đạt đƣợc tiêu chí hát đẹp, hát hay.

3. Phƣơng pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài

* Phƣơng pháp nghiên cứu:

Các dữ liệu đƣợc trình bày theo các phƣơng pháp chính: so sánh, phân

tích, qui nạp kết hợp với kinh nghiệm thực tế giảng dạy, nêu các dẫn chứng, ví

dụ, tài liệu bằng CD, bản phổ minh hoạ… để đi đến kết luận, tổng hợp những

vấn đề đƣợc nêu ra.

* Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài:

Trong quá trình nghiên cứu, tiến hành đề tài, luận án dựa trên những

nghiên cứu từ nhiều nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu Âm nhạc Dân tộc

Page 26:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

26

trong và ngoài nƣớc, các nghệ nhân Chèo, Tuồng, Ca trù…, các nhà nghiên cứu

về ngôn ngữ tiếng Việt và các nhà sƣ phạm trong và ngoài nƣớc. Các công trình

khoa học của các giáo sƣ, nghệ sĩ đƣợc công bố là những tài liệu bổ ích tham

khảo cho luận án nhƣ: Mai Ngọc Chừ - Tiếng Việt và sự tròn vành rõ chữ của

tiếng hát dân tộc [8]; Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Thanh Lan - Cơ sở tiếng Việt [14];

Nhiều tác giả - Đặc khảo Ca trù Việt Nam [16]; Bùi Đức Hạnh - 150 làn điệu

chèo cổ [18]; Phạm Đình Hổ - Vũ Trung Tuỳ Bút [19]; Hoàng Kiều - Thanh điệu

tiếng Việt và Âm nhạc cổ truyền [22]; Tạ Hải Bảo Vƣơng - Các loại giọng hát ở

Châu Âu và Châu Á [49]; Richard Miller - The Structure of singing( System and

art in vocal technique) [53]; Re Koster - Common sense of singing [54]…

Đề tài Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát

Mới là công trình nghiên cứu chuyên sâu ở Việt Nam về cách xử lý ngôn ngữ

tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống, kết hợp với kỹ thuật hát Mới vận

dụng vào tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt để có đƣợc âm thanh theo yêu cầu mà

vẫn giữ đƣợc bản sắc dân tộc của tiếng Việt, không bị biến dạng, sai nghĩa của

từ, đảm bảo tròn vành rõ chữ…Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào công tác

đào tạo thanh nhạc nói riêng và công tác nghiên cứu lý luận, sáng tác và biểu

diễn nghệ thuật ca hát nói chung.

4. Những đóng góp mới của luận án

- Là công trình nghiên cứu chuyên sâu về tìm hiểu cách xử lý ngôn ngữ

tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống để vận dụng vào công tác đào tạo

thanh nhạc giúp ngƣời hát:

+ Sửa những khuyết tật về phát âm. Xác định đƣợc vị trí âm thanh. Cảm

nhận đƣợc màu âm các nguyên âm của từng thể loại ca hát truyền thống, màu âm

của vùng miền.

+ Nhả chữ tiếng nào ra tiếng nấy, nhấn nhá vào từng từ, hát tiếng trƣớc

không trùng tiếng sau, mở tiếng, đóng tiếng gọn, đạt tiêu chí “tròn vành rõ chữ”.

Page 27:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

27

Nhả chữ không làm biến dạng, sai nghĩa của từ mất đi bản sắc dân tộc của ngôn

ngữ, giữ đƣợc chất tự nhiên của giọng hát.

- Đề xuất một số mẫu âm mới, sửa những phát âm chƣa chuẩn góp phần

đào tạo những ca sĩ biểu diễn các tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt đạt yêu cầu về

kỹ thuật, không làm mất đi bản sắc dân tộc của ngôn ngữ tiếng Việt.

- Nắm vững qui luật phát âm và đặc trƣng cơ bản của ngữ âm tiếng Việt,

xử lý một cách linh hoạt, vận dụng cụ thể từng tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt

trong và ngoài giáo trình trung cấp và đại học thanh nhạc.

- Giáo dục học sinh, sinh viên thanh nhạc ý thức giữ gìn, bảo tồn, phát huy

vốn nghệ thuật ca hát truyền thống.

- Làm tài liệu tham khảo cho sáng tác thanh nhạc

- Có tính ứng dụng trong đào tạo, biểu diễn trong nhà trƣờng cũng nhƣ

trên sân khấu ca hát.

5. Bố cục luận án

Luận án gồm: Phần mở đầu, 2 chƣơng, phần kết luận, phụ lục và tài liệu

tham khảo

Chƣơng I: Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống và nghệ

thuật hát Mới

Chƣơng II: Một số giải pháp, ứng dụng và bài tập góp phần nâng cao

chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới

Page 28:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

28

CHƢƠNG I

TIẾNG VIỆT TRONG NGHỆ THUẬT CA HÁT TRUYỀN THỐNG

VÀ NGHỆ THUẬT HÁT MỚI

Ca hát gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ nào có nghệ thuật ca hát của ngôn

ngữ đó. Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm, đa thanh, đa phần là âm khép… không

thuận lợi cho ngƣời hát, nên ngƣời học hát cũng nhƣ ngƣời hát phải nắm vững

kiến thức về cấu âm của ngôn ngữ tiếng Việt để tìm ra nguyên nhân thuận lợi,

khó khăn để phát huy và khắc phục. Nghiên cứu Tiếng Việt trong nghệ thuật ca

hát truyền thống để học tập những kinh nghiệm và kỹ thuật xử lý ngôn ngữ tiếng

Việt của cha ông đã đúc kết từ bao đời nay, ứng dụng vào hát Mới nhằm khắc

phục những khó khăn của ngôn ngữ. Nội dung của chƣơng I bao gồm:

* Những đặc điểm, đặc trƣng cơ bản của tiếng Việt trong nói và hát

* Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống

* Tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới

1.1 Những đặc điểm, đặc trƣng cơ bản của tiếng Việt trong nói và hát

Hàng ngàn năm lịch sử đã trải qua với nhiều giai đoạn biến đổi, phát triển

nối tiếp nhau, cùng với tƣ duy và ngôn ngữ, âm nhạc nói chung và ca hát nói

riêng đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, trở thành bộ phận

không thể thiếu để tạo thành nền văn hóa đa dân tộc của loài ngƣời. Ca hát xuất

hiện nhƣ một nhu cầu không thể thiếu phục vụ đời sống tinh thần của con ngƣời.

Nó phản ánh sâu sắc tâm tƣ, tình cảm của các dân tộc, nó gắn liền với lao động,

sản xuất, chiến đấu của mỗi cộng đồng ngƣời, của từng quốc gia và từng cá

nhân.

Page 29:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

29

Ca hát là hiện thân tiêu biểu của ngôn ngữ. Ngôn ngữ sinh ra từ nhu cầu

giao tiếp và chuyển tải ý nghĩ, tình cảm từ cá nhân này sang cá nhân khác, ngôn

ngữ đã trở thành công cụ phản ánh thế giới khách quan, trở thành phƣơng tiện

giao tiếp và bộc lộ tình cảm của con ngƣời với con ngƣời. Ca hát đƣợc cho là

ngôn ngữ giao tiếp ở mức độ cao hơn.

Tiếng Việt với cấu trúc 6 thanh và đơn âm tiết đã sinh ra các thể loại thơ

độc đáo: Lục bát (6/8), Song thất lục bát (7/7/6/8) và hát Nói (Ca trù), cái nền,

cái cốt lõi của Ca dao Dân ca, của ca hát truyền thống, những hình thức ca hát

đặc biệt thuần Việt nhƣ hát dân ca (lý, hò, vè..), hát Cửa đình, Hát Ca trù, hát

Xoan, hát Chèo, hát Quan họ, hát Dậm, hát ví Dặm, ví Phƣờng Vải, Ca Huế, Bài

Chòi, Cải lƣơng... Nghệ thuật hát Mới đƣợc gọi là Ca mới (hát Mới), mặc dầu

dựa vào phƣơng pháp thanh nhạc du nhập - nghệ thuật thanh nhạc Bel canto,

nhƣng nó đã đƣợc Việt hoá và trở thành truyền thống ca hát hiện đại gắn liền với

tiếng Việt phổ thông - tiếng Hà nội, thƣờng gọi chung là tiếng Bắc.

Trong bài Những Cơ sở khoa học của một nền thanh nhạc dân tộc của

Văn Cẩn cho rằng nghiên cứu ngữ âm học là một trong ba yếu tố quan trọng: “

…những quy luật chuyển động của từng loại từ ngữ điển hình ứng dụng cho ca

hát, lƣợng hơi có thể tác động vào từ ngữ, để khẳng định độ vang của từng từ

ngữ trong nghệ thuật... nó mang tính lịch sử và phản ánh bản sắc văn hoá của

một dân tộc, một tộc ngƣời…”[4]. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, khi hát sử dụng

những kỹ thuật của nghệ thuật Thanh nhạc châu Âu vào những tác phẩm thanh

nhạc cổ điển chúng ta cần phải tìm hiểu “cách chuyển động của từng âm vị, giải

quyết cách kết cấu ngữ âm của từng loại từ ngữ”, ngôn ngữ (thƣờng lấy ngôn

ngữ tiếng Italia làm chuẩn). Khi hát sử dụng kỹ thuật của nghệ thuật thanh nhạc

châu Âu vào tiếng Việt lại cần phải chú ý đến yếu tố xã hội, đến hệ thống âm

thanh của tiếng Việt, và đặc biệt là “những qui luật chuyển động của từng âm vị,

từ ngữ điển hình để ứng dụng trong ca hát”.

Page 30:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

30

Một tác phẩm thanh nhạc luôn đƣợc cấu tạo bởi giai điệu và ngôn ngữ văn

học (còn gọi là lời hát - ca từ). Vì vậy, nội dung và giá trị nghệ thuật của tiếng

hát là sự thống nhất giữa nhạc và lời, luôn gắn bó và hòa quyện với nhau. Từ thế

kỷ XVI. Gioseffo Jarlino (1517 - 1590) thuộc trƣờng phái Venise (Italia) đã yêu

cầu, đòi hỏi các ca sĩ ngoài việc nâng cao chất lƣợng tiếng hát, phải đảm bảo

trung thực với những đặc điểm của tiếng nói, không làm cho ngôn ngữ văn học

của tác phẩm bị bóp méo hoặc biến dạng. Nhƣ vậy, việc xử lý tốt ngôn ngữ trong

một tác phẩm thanh nhạc, từ lâu đã đƣợc coi là một trong những tiêu chuẩn bắt

buộc của mọi phƣơng pháp ca hát có tính dân tộc.

1.1.1 Một số đặc điểm của âm tiết tiếng Việt:

Có hai loại: Âm tiết mở và âm tiết khép.

- Âm tiết mở là âm tiết đƣợc kết thúc bằng nguyên âm (nga, to, thề, thu...)

- Âm tiết khép là âm tiết kết thúc bằng phụ âm (nguyên, biết, bắc, đánh

giặc...)

Âm thanh lời nói cũng nhƣ lời hát đa dạng vì mỗi cá nhân đều có những

đặc điểm riêng, tuỳ thuộc vào cấu trúc của cơ quan phát âm, giới tính hay tuổi

tác. Cƣờng độ tức biên độ dao động rộng hay hẹp của dây thanh. Cao độ tức tần

số dao động nhanh hay chậm của dây thanh của mỗi ngƣời. Sự khác biệt giữa các

giọng nói còn đƣợc thể hiện ở âm sắc do hộp cộng hƣởng của mỗi ngƣời không

giống nhau, hay độ ngắn dài của âm (còn gọi là trƣờng độ) của mỗi ngƣời không

giống nhau. Trong cuốn Cấu trúc giọng hát (The Structure of singing) còn gọi là

Hệ thống và nghệ thuật trong kỹ thuật thanh nhạc (System and art in vocal

technique) cũng quan tâm đến sự khác biệt này: “Sở thích mỗi ngƣời đều khác

nhau và giọng hát đã phản ánh rõ điều này.”[53, tr.8]

Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm tiết. Nói là đơn âm tiết hay đơn vận vì mỗi

tiếng, mỗi chữ, từ chỉ gồm có một vần, không dính kết vào nhau, và không có

nối vần nhƣ một số ngôn ngữ khác nhƣ tiếng Anh hay tiếng Pháp...

Page 31:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

31

- Tiếng Pháp: ami (bạn) gồm 2 âm vị a và mi. Với số nhiều amis (những

ngƣời bạn), phải đọc nối âm : les amis = lê - za - mi.

- Tiếng Anh: danh từ lover (yêu) gồm 2 âm vị lơ - vơ, động từ love chỉ có

1 âm vị lơve và nối âm khi nói : I love you = ai - lơ - vi - u.

1.1.2 Cấu trúc âm tiết tiếng Việt:

Mỗi một âm tiết gồm một tổ hợp của 3 thành phần âm thanh, mô phỏng

một cách tự nhiên chu kì cấu âm của con ngƣời:

- Khởi từ - âm đầu (intense)

- Mở từ - âm chính, đỉnh âm (tense)

- Kết từ - âm cuối (dentense)

Trong công trình nghiên cứu về tiếng Việt tác giả Lê Văn Lý (1948) cho

rằng có bốn loại cấu trúc âm tiết:

1) V (chỉ có nguyên âm): Ở

2) V+C (Nguyên âm + phụ âm): E (V)+ m (C) = Em

3) C+V (phụ âm + nguyên âm): Ng (C) + a (V) = Nga

4) C+V+C (phụ âm + nguyên âm + phụ âm): Tr + ă + ng = Trăng

C (Consonant) là phụ âm; V (Vowel) là nguyên âm. (xem biểu đồ 1.1)

Biểu đồ 1.1 Cấu trúc âm tiết tiếng Việt

Âm tiết tiếng Việt có một cấu trúc chặt chẽ và độc lập và mỗi âm tiết đều

có khả năng biểu hiện ý nghĩa. Vì vậy, ngƣời Việt tạo ra đƣợc nhiều lối chơi chữ

nhƣ trong câu Hò Đồng tháp:

“Ơ... ơ.. ơ..con Cá Đối nằm trên Cối Đá

Page 32:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

32

Con chim La Đà đậu nhánh Lá Đa...”

Hoặc lối đảo từ nhƣ trong câu Lý thƣơng dân ca Nam Trung Bộ:

“Nhớ ai, ai nhớ, nhớ ai.

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai.

Nhớ ai lòng những bồi hồi....”

Âm tiết tiếng Việt có một cấu trúc chặt chẽ và độc lập bởi cao độ, âm sắc

và tiết tấu, mỗi âm tiết đều có khả năng biểu hiện ý nghĩa riêng. Ta có thể thấy

điều này qua cách đánh vần tiếng Việt hoặc trong những bài hát có tiết tấu chậm

và rền (legato), đặc biệt trong các lối ngâm thơ, hát nói... Cảm nhận nhƣ một

băng ghi âm hay băng ghi hình quay chậm lại của quá trình cấu âm.

1.1.3 Thành phần của âm tiết tiếng Việt:

T có : .

.

(gồm: âm đệm, âm chính, âm cuối). Nếu “ ” một từ, t

.

: O + A + N = OAN, T + OAN = TOAN (xem bảng 1.1)

Bảng 1.1 Các thành phần của âm tiết (VNLB - Âm tiết tiếng Việt)

a) Âm đầu (khởi âm):

Khởi thanh gọi là khởi âm bằng âm đầu. Âm đầu là thành phần thứ nhất

của âm tiết tiếng Việt, có chức năng mở đầu âm tiết. Âm đầu (khởi âm) có thể là

phụ âm hoặc nguyên âm, nhƣng đa phần là phụ âm. Trong các âm tiết nhƣ: anh,

Page 33:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

33

an, ung... khi viết không có phụ âm đầu nhƣng thực chất chúng vẫn có một phụ

âm tắc thanh hầu (ký hiệu /?/)

Xuất phát từ các đặc điểm phát âm có thể chia âm đầu là phụ âm thành các

nhóm nhỏ: Âm môi (b, m, f, v), âm bật (th, t, d, n, tr), âm xát (s, r, z, gi), âm mũi

(m, n, ng), âm mặt lƣỡi (c, g), âm gốc lƣỡi (k, g, kh), âm thanh hầu (h, a). Trong

bảng phân loại phát âm của ngƣời Hà Nội và một số vùng lân cận ba âm tr, s và

r, gi phát âm thành các âm ch, x và d.

Tiếng Việt có 27 phụ âm (gồm: B, C, CH, D, Đ, G, GH, GI, H, K, KH, L,

M, N, NH, NG, NGH, PH, Q(U), R, S, T, TH, TR, V, X). Phụ âm đều có thể

đứng trƣớc hoặc sau mỗi âm tiết.

Đặc điểm cơ bản của phụ âm là sự cấu tạo bằng luồng không khí bị cản

trở, song sự cản trở đó đƣợc diễn ra ở những mức độ khác nhau.

- Phụ âm tắc: Đặc trƣng là một tiếng bật, phát sinh bởi luồng không khí từ

phổi đi ra, bị cản trở hoàn toàn, phá vỡ sự cản trở ấy để thoát ra ngoài nhƣ: p, b,

t, đ.

- Phụ âm xát: Phân biệt phụ âm này bởi tiếng cọ xát, phát sinh từ luồng

không khí đi ra bị cản trở không hoàn toàn, phải lách qua một khe hở nhỏ và

trong khi thoát ra, nó xát vào thành bộ máy phát âm nhƣ: v, s, g.

- Phụ âm mũi: là một đặc điểm của ngôn ngữ Việt Nam, liên quan rất

nhiều đến việc rõ lời của tiếng hát, nhất là phụ âm này đƣợc đặt ở cuối âm tiết.

Đặc trƣng của phụ âm này là phát sinh do luồng không khí từ phổi đi lên và thoát

ra qua mũi, nhƣ: m, n, ng, nh...

Bản chất của phụ âm là tiếng động. Khi đọc các phụ âm, làn hơi phải vƣợt

qua một vật cản nào đó do tác động của môi lƣỡi phối hợp, rồi mới đi ra ngoài

theo đƣờng miệng. Muốn đọc rõ các phụ âm thì phải cấu âm cho đúng bằng cách

tạo các điểm cản làn hơi bằng môi hay lƣỡi (xem hình 1.1).

Page 34:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

34

Hình 1.1 Những vị trí phát âm của hệ thống phụ âm

b) Vần : Gồm có Âm đệm, âm chính và âm cuối

Âm đệm:

Âm đệm là thành phần thứ hai của âm tiết, có chức năng làm thay đổi âm

sắc của âm tiết sau lúc mở đầu nhƣ: tốt>tuốt; đống>đuống; tấn>tuấn. Âm đệm

gồm có âm tố u, o. Đây là âm làm tròn môi trƣớc khi đọc âm chính. Âm đệm là

bán nguyên âm, thực ra là nguyên âm, nhƣng không nằm ở đỉnh âm tiết mà nằm

ở sƣờn, trƣớc hoặc sau âm chính, làm trầm âm sắc của âm tiết.

- Nguyên âm o làm bán nguyên âm, khi sau nó là các nguyên âm có độ mở

rộng a, ă, e (họa hoằn; nắng hoe...).

Page 35:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

35

- Nguyên âm u làm bán nguyên âm, khi đứng trƣớc các nguyên âm có độ

mở hẹp: (tuệ, huy, tuấn...). Khi âm đệm u đứng sau phụ âm k thì k sẽ biến thành

qu (quyêt, quy, quyền, quân...)

- Âm đệm là âm tròn môi, sẽ không đứng trƣớc các nguyên âm tròn môi o,

ô, u nữa.

- Khi phát âm, không đƣợc dừng lâu ở âm đệm, mà phải chuyển qua âm

chính ngay (Thủ...y = thủy; Hƣ... ơng = hƣơng)

Âm chính (Âm chính, đỉnh âm)

Âm chính là thành phần thứ ba của âm tiết. Là phần quyết định âm sắc chủ

yếu của âm tiết. Bao giờ cũng là một nguyên âm. Nguyên âm là hạt nhân chính

của âm tiết trong tiếng Việt, nó có cƣờng độ lớn nhất (độ vang của từ) và là đỉnh

của âm tiết. Nguyên âm là những âm phát ra âm thanh, không nhờ tới một âm

nào khác, làn hơi từ phổi ra qua thanh đới mở - đóng tạo cao độ của âm thanh,

hình dạng các khoang họng và khoang miệng khác nhau, do hoạt động của lƣỡi

và hàm dƣới, sẽ tạo ra các nguyên âm khác nhau, trong cuốn Ngữ Âm Tiếng Việt

của Đoàn Thiện Thuật cho biết: “Độ mở của miệng, độ nâng của lƣỡi cho biết

thể tích của hộp cộng hƣởng. Căn cứ vào độ mở (hoặc độ nâng) khác nhau mà ta

có các nguyên âm khác: nguyên âm rộng (hoặc cao) nhƣ a, e; nguyên âm hẹp

(hoặc thấp) nhƣ i, u”. [41, tr.32].

Tiếng Việt có 11 nguyên âm: A, ă, â, e, ê, i /y, o, ô, ơ, u, ƣ. Có hai loại

nguyên âm chính:

- Nguyên âm đơn: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ƣ, e, ê, i/y.

- Nguyên âm phức: ia (iê), ƣa (ƣơ), ua (uô), uya, ƣơi, oai...

* Dựa trên vị trí của lƣỡi có các loại:

+ Nguyên âm hàng trƣớc (lƣỡi đƣa ra trƣớc, âm sắc sáng, bổng, môi bẹt) :

e, ê, i/y, iê (ia).

Page 36:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

36

+ Nguyên âm hàng giữa (lƣỡi nằm ở giữa, âm sắc trung hoà, môi không

bẹt, không tròn) : a (ă), ơ (â), ƣ, ƣơ (ua).

+ Nguyên âm hàng sau (lƣỡi rụt về sau, âm sắc tối, trầm, môi tròn): o, ô, u,

uô (ua).

* Dựa trên độ mở của miệng có 4 loại :

+ Nguyên âm rộng : e, a, o (âm lƣợng lớn)

+ Nguyên âm vừa : ê, ơ, ô (âm lƣợng vừa)

+ Nguyên âm hẹp : i, ƣ, u (âm lƣợng nhỏ)

+ Nguyên âm hẹp mở vừa: iê, ƣơ, uô (âm lƣợng nhỏ và lớn dần đến vừa)

Ghi chú :

- ă là âm ngắn của a.

- â là âm ngắn của ơ

- o và ô đôi lúc có dạng âm dài là : oo, ôô (xoong, bôông) ia, ua, ƣa là âm

phức không có âm cuối (chia, chua, chƣa...).

Âm chính cùng với thanh điệu là hai yếu tố cơ bản, là trục chính của âm

tiết tiếng Việt. Trƣờng hợp bị lẫn lộn âm chính và thanh điệu chỉ xảy ra với

ngƣời nói tiếng địa phƣơng (những = nhửng; tôi = tui; nắng = néng…).

Từ những đặc điểm này phải biết vận dụng kỹ thuật, cùng với luyện tập

phát âm để “nhả chữ” sao cho các nguyên âm không bị biến dạng, vừa đảm bảo

yêu cầu vang, sáng, tròn của âm thanh, vừa đảm bảo rõ lời, rõ nghĩa.

Âm cuối (kết từ - đóng, khép từ):

Âm cuối là thành phần thứ tƣ, có nhiệm vụ kết thúc âm tiết. Vị trí âm cuối

trong tiếng Việt phổ thông do các bán nguyên âm và phụ âm đảm nhiệm (biết,

bao, tay, ca, hợp, khách...).

* Bán âm cuối có 2 loại :

- Bán âm cuối bẹt miệng (lƣỡi đƣa ra trƣớc) đƣợc ghi bằng i hoặc y :

+ Đƣợc ghi bằng y sau các nguyên âm ngắn ă, â : ăy, uây

Page 37:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

37

+ Đƣợc ghi bằng i sau tất cả các nguyên âm còn lại mà không bẹt miệng

(tức là bán âm i không đi sau các nguyên âm hàng trƣớc, bẹt miệng): ai ơi, ƣi,

ƣơi (ai # ay) oi, ôi, ui, uôi.

Chú ý: phân biệt i và y nhƣ tai và tay; lai và lay.

- Bán âm cuối tròn môi (lƣỡi rụt vào trong) đƣợc ghi bằng u hoặc o:

+ Không đi sau các nguyên âm hàng sau (tròn môi)

+ Đƣợc ghi bằng u sau các âm ngắn: âu, au

+ Đƣợc ghi bằng u sau các âm vừa và âm hẹp: ƣu, ƣơu, êu, iu, iêu (yêu)

+ Đƣợc ghi bằng o sau các âm rộng a, e = ao, eo (ao # ău)

* Phụ âm cuối gồm 8 âm, chia làm 4 cặp nhƣ sau:

- Phụ âm môi: m - p (đóng tiếng bằng hai môi): làm đẹp, rập rạp ...

- Phụ âm đầu lƣỡi: n - t (đóng lƣỡi lên chân răng): ban hát, sền sệt…

- Phụ âm mặt lƣỡi: nh - ch (đóng mặt lƣỡi lên vòm miệng): chênh chếch,

rách, rình…

- Phụ âm cuống lƣỡi: ng - c (đóng cuống lƣỡi lên vòm mềm): vang, dốc,

vằng vặc ...

Lƣu ý : khi ng - c đi sau các nguyên âm hàng sau o - ô - u, thì không chỉ

phải đóng cuống lƣỡi, mà còn phải đóng ngay cả 2 môi (phải khép miệng làm

cho 2 má hơi phồng lên để tạo khoảng vang trong miệng. Ví dụ: Ngọc, ngốc,

ngục, cốc, cọc, cúc... )

Ghi chú :

-) Các phụ âm cuối p, t, ch, c chỉ đi với thanh sắc hoặc nặng, làm cho vần

phải đọc dứt sớm hơn các vần đóng cùng loại, thƣờng gọi các vần đó là vần chết

(tử vận). Ví dụ: Hộp, tắt, chếch, phúc...

-) Khi vần có các âm cuối, thì âm chính ít nhiều bị ảnh hƣởng - nó làm cho

độ mở của miệng giảm bớt, ngắn lại: vẫn, nắng, khốc...

-) Các vần có âm cuối là phụ âm gọi là vần đóng: Ngắn, dứt, âm...

Page 38:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

38

-) Các vần không có âm cuối gọi là vần mở: Châu, da, hƣơu, cô, nơ…

c) Thanh điệu:

Thanh điệu là thành phần thứ năm, có chức năng phân biệt các âm tiết.

Tiếng Việt phổ thông có 6 thanh: thanh ngang (thanh không dấu), thanh

huyền(`), thanh sắc ('), thanh hỏi (?), thanh ngã (~) và thanh nặng (.). Trên chữ

viết chỉ thể hiện 5 thanh bằng 5 dấu giọng: Huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Thanh

điệu tác động lên toàn bộ âm vị và có ý nghĩa độc lập nội dung thông tin của từ.

Trong cùng một từ khi (từ biểu thị thời gian, hay thái độ) thêm dấu huyền thành

khì (cƣời khì), thay dấu hỏi thành khỉ (con khỉ, trò khỉ).

Thanh điệu là yếu tố thay đổi cao độ của âm tiết. Nó ảnh hƣởng lên toàn

bộ âm tiết, khi viết nó đƣợc ghi trên hoặc dƣới âm chính là nguyên âm đơn. Gặp

nguyên âm phức không kèm theo âm cuối thì nó đƣợc ghi trên yếu tố đầu của

nguyên âm phức (chúa, chìa, chừa...). Nếu nguyên âm phức có kèm theo phụ âm

cuối thì thƣờng ghi thanh điệu trên yếu tố thứ 2 của âm phức đó (luống tuổi,

tiếng, chuồng, thiếu, muỗng...)

* Phân loại thanh điệu dựa trên âm vực:

Vì thanh điệu có chức năng làm thay đổi cao độ của âm tiết, giúp làm khu

biệt các âm tiết vì vậy có thể phân chia theo độ cao, thấp gọi là âm vực. Thanh

điệu chia thành 2 âm vực cao thấp, lấy thanh ngang (không dấu) làm trục giữa:

- Âm vực trung: thanh ngang.

- Âm vực cao trên thanh ngang: thanh sắc và thanh ngã.

- Âm vực thấp dƣới thanh ngang: thanh huyền, thanh hỏi, thanh nặng.

Có thể diễn đạt bằng âm nhạc:

Page 39:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

39

Dựa trên độ cao của thanh điệu có thể chia 6 thanh tiếng Việt ra làm hai,

lấy thanh không dấu làm trục. Hoặc chia thành 2 loại âm điệu bằng và trắc:

- Âm điệu bằng: thang ngang, thanh huyền.

- Âm điệu trắc: (không bằng phẳng).

+ Có đối hƣớng (gãy): thanh ngã, thanh hỏi.

+ Không đối hƣớng : thanh sắc, thanh nặng.

Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của thanh điệu trong ca hát truyền

thống, tác giả Hoàng Kiều viết: “Thanh điệu tiếng Việt quyết định đến giai điệu

cao độ, sự uốn lƣợn của âm. Tuy nhiên, thanh điệu phải thông qua thơ (lục bát

và song thất lục bát...) để tiến vào nhạc với những quy luật nhƣ thanh, vần, niêm

luật v.v...”[22, tr.7].

Ngoài yếu tố thay đổi cao độ, giai điệu, sự uốn lƣợn của thanh điệu còn

yếu tố tƣợng hình, tƣợng thanh nhƣ: khệnh khạng, khuệnh khoạng, luễnh loãng,

loảng xoảng, uỳnh uỵch, uỳnh oàng, đùng đoàng, ộp oạp, loạt xoạt, leng keng,

công cốc... Trong Tuồng mô tả tiếng trống chiến bằng các từ: tang, thùng, rụp,

cắc. Trong nghệ thuật Ca trù thƣờng gọi nôm na nghệ thuật này là tom, chát.

Tác giả Hoàng Kiều viết: “Trong 6 thanh tiếng Việt của ta lại chia làm

hai nhóm gọi là thanh bằng và thanh trắc… có một quy tắc chặt chẽ và độc đáo

khác thƣờng so với các nƣớc trên thế giới. Vì vậy, nó ảnh hƣởng rất lớn đến cấu

trúc, phân câu, trọng âm và âm kết của câu nhạc và bài hát…, vì trong nhạc cổ

truyền của ta là từ thơ mà phổ nhạc.” [22, tr.15]. Và “Thể văn hát nói (của Ca

trù) cùng với lục bát và song thất lục bát là những văn thể riêng của nƣớc ta”

[22, tr.229].

Thanh điệu tác động mạnh mẽ không chỉ tới sự hoàn thiện tiếng Việt, mà

còn tác động tới các hình thức văn thể độc đáo, cùng các dòng ca hát truyền

thống thuần Việt cũng nhƣ các dòng ca hát đƣơng đại.

Page 40:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

40

Ngoài các yếu tố cấu tạo âm thanh đặc biệt của tiếng Việt nhƣ âm đầu, âm

đệm, âm chính, âm cuối, thanh điệu thì trong tiếng Việt còn một đặc điểm nữa là

hầu hết âm vị, âm tiết đều có nghĩa nhƣ một từ - từ đơn nhƣ trên đã nói. Chính vì

vậy trong dân gian nói tới đơn vị tiếng hay tiếng một, hát rõ tiếng hay hát rõ

tiếng một.

Trong Vũ Trung Tùy bút Phạm Đình Hổ viết: “Âm hƣởng tiếng nói nƣớc

ta khác với nƣớc Trung Hoa, song cung đàn ta có những tiếng: tính, tịnh, tình,

tinh, tung, tang; giọng kèn có những tiếng: ti, um, bo, tịch, tót, tò, le, đại lƣợc

cũng đƣợc cả 7 thanh (cung thƣơng giốc chủy vũ cộng biến cung, biến chủy

tƣơng ứng với c, d, (e), f, g, l, (b), c). Xem vậy ta thấy tiếng nói có ảnh hƣởng sâu

sắc nhƣ thế nào tới âm nhạc nói chung và ca hát nói riêng.” [19, tr.48].

1.2 Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống

Ngƣời Việt có ngôn ngữ riêng, có truyền thống ca hát riêng. Cùng với sự

phát triển của nền văn minh lúa nƣớc, ngƣời Việt đã sáng tạo ra nhiều hình thức

ca hát từ: Nói (kể vè, kể chuyện, nói thơ, đồng dao) ngâm, vịnh, ru, hò, hát nói

đến hát (hát Chèo, hát Xẩm, hát Ca Trù, Ca Huế, hát Tuồng, hát dân ca (Quan

Họ, hát Xoan, hát Trống quân, Cò Lả), Lý, Bài Chòi... Tiếng Việt không chỉ nắm

giữ vai trò thông tin, giao lƣu, chuyển tải nội dung giao tiếp của ngôn ngữ tới đối

tƣợng hay bản thân, mà còn đóng vai trò thúc đẩy sáng tạo trong âm nhạc. Nếu

đem xếp các hình thức ca hát dân gian theo một trình tự từ nói đến hát chúng ta

thấy rõ điều đó. Ví dụ câu ca dao:

“ Con cò bay lả bay la

Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng…”

Cho câu ca dao này vang lên dƣới dạng đọc (nói) thông thƣờng, rồi cho

vang lên dƣới dạng đọc có cách điệu, sau đó cho vang lên với làn điệu Cò Lả sẽ

thấy những thay đổi:

- Nguyên âm mở rộng dần

Page 41:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

41

- Ở cách đọc 2 có cách điệu, thấy rõ tuyến lƣợn sóng của các âm thanh gợi

lên một cảm xúc của cấu trúc âm nhạc sơ khai.

- Ở cách 3 vang lên với điệu Cò Lả, ngôn ngữ đã có sự tham gia tích cực

vào cấu trúc câu hát. Ngoài việc các nguyên âm đƣợc mở rộng tạo ra trƣờng độ

của giai điệu, thì 6 thanh có vai trò tác động quyết định tạo nên hình tƣợng âm

thanh của câu hát.

Cò Lả (dân ca Bắc Bộ)

Trong ca hát truyền thống, mỗi bộ môn nghệ thuật lại có những ứng xử

ngôn ngữ tiếng Việt mang tính tƣ duy và thẩm mỹ độc lập riêng. Và cũng chính

từ những nét riêng biệt đó mà ta thấy rõ sự khác biệt từ phong cách, quy mô, cấu

trúc và cả bản sắc văn hoá của mỗi bộ môn nghệ thuật.

1.2.1 Kinh nghiệm và kỹ thuật xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong dân

gian:

a) Luyện nói - Trò chơi dân gian:

Để phát âm chuẩn, trong dân gian có nhiều hình thức luyện nói, luyện phát

âm đƣợc coi là mẫu mực vẫn lƣu truyền trong đời sống hiện nay dƣới các trò

chơi giải trí nhƣ: Đẻ chữ, Nói lái, hay nói nhanh những từ khó, các trò chơi trẻ

em nhƣ: Thả đỉa ba ba, Tập tầm vông, Rồng rắn lên mây, Nu na nu nống, hay

chơi Chuyền... Mỗi trò chơi đều mang một thông điệp riêng về ngôn ngữ mẹ đẻ,

giúp cho ngƣời chơi:

- Chữa tật nói ngọng, phát âm lẫn lộn giữa hai phụ âm đầu l và n. Tật nói

ngọng này thƣờng gặp ở một số địa phƣơng đồng bằng Bắc bộ và ngoại thành Hà

Nội. Ví dụ: Trò chơi Nu na nu nống. Trong trò chơi này nhấn mạnh đến các từ

Page 42:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

42

làm bộ máy phát âm phải luôn thay đổi vị trí với các âm vị có cấu tạo âm chính

đóng, mở liên tục. Tách các nguyên âm chính ra và xếp thành một dãy theo tuần

tự của câu Đồng dao ta thấy:

“Nu na nu nống (u a u ô)

Cái cống nằm trong (a ô ằ o)

Con ong nằm ngoài (o o ằ à)…”

Các nguyên âm tròn môi (u, o, ô) đan xen với các nguyên âm mở (a) giúp

ngƣời chơi và luyện phát âm có ý thức hơn về các vị trí âm thanh của các nguyên

âm chính, đỉnh của chữ (lƣu ý: ô, ơ, ă, â đều là các nguyên âm ngắn của các

nguyên âm o và a, song vị trí phát âm, vị trí vang và màu sắc khác nhau).

+ Luyện câu Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch,… Phụ âm đầu N giúp cho

những ai nói ngọng, phát âm lẫn lộn giữa hai phụ âm đầu L và N. Nguyên âm

ngắn tròn môi ô khép lại ở nguyên âm i (kết mở), phụ âm đơn c và phụ âm kép

ch buộc ngƣời nói phải vận dụng các vị trí phát âm khác nhau. Vế một Nồi đồng

nấu ốc, lƣỡi thả mềm. Vế hai nồi đất nấu ếch lƣỡi đặt lên ngạc cứng (đất) và

răng (ếch). Ngƣời nói hay bị nhầm lẫn giữa hai cặp đối âm của 2 vế đồng > đất;

ốc> ếch

- Luyện các từ khó : Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch, Buổi trƣa ăn bƣởi

chua… Hai cụm từ tƣởng rất gần nhau về cấu trúc, nhƣng lại rất khác nhau về

nghĩa và cấu âm. Sau phụ âm kêu đầu B bán nguyên âm ƣ và u đã đẩy hai cặp

nguyên âm đôi ôi trong buổi và ơi trong bƣởi ra 2 vị trí âm thanh khác nhau.

Buổi bị đẩy vào phía trong còn bƣởi bị đẩy ra phía cửa miệng và trầm xuống vì

dấu thanh hỏi. Và ngƣời phát âm câu này gặp khó khăn ở 2 cụm từ đối lập:

Buổi>bƣởi. Trƣa>chua (chú ý: 2 phụ âm kép tr và ch phát âm nhƣ nhau theo

ngữ âm phổ thông).

- Luyện nhịp điệu: Trò chơi “Chi chi chành chành”

“Chi chi chành chành

Page 43:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

43

Cái đanh thổi lửa

Con ngựa chết trƣơng

Ba vƣơng ngũ đế

Cấp kế đi tìm

Ù à ù ập.”

Kết thúc trò chơi “Chi chi chành chành”, trò chơi dùng lối nói vần 4 chữ,

xuất hiện hai nguyên âm u và a kéo dài. U tròn môi, a mở rộng. Cả hai nguyên

âm bị hạ độ cao bằng dấu huyền (thanh huyền). Ù à ù (kéo dài tự do) kết thúc là

từ ập (từ đóng). Cấu trúc của trò chơi này giúp ngƣời chơi có ý thức về vị trí của

các nguyên âm tròn môi và mở.

- Luyện các cụm từ điệp: Chơi Chuyền, nhằm luyện phát âm tiếng Việt

bằng các cụm từ điệp:

“Chuyền chuyền một

Một một đôi.

Chuyền chuyền hai

Hai hai đôi...”

Cấu trúc ngữ âm phụ âm tr hoặc ch (chuyển, truyền...). Th (thuyền,

thuyên..) các bán nguyên âm u, y, nguyên âm ê (e ngắn) phụ âm n. Cấu âm vần

uyền là một tổ hợp âm tố khó phát âm trong tiếng Việt, nhƣ các tổ hợp uỷu (khúc

khuỷu), oanh (loanh quanh)... Từ chuyền có cấu trúc tƣơng đối phức tạp về mặt

cấu âm và độ dài về trƣờng độ. Từ phụ âm kép ch hay tr hay th chuyển qua các

bán nguyên âm u (tròn môi), y (âm mũi), đến đỉnh chữ ê (nguyên âm e ngắn)

khép lại bằng phụ âm kêu n. Cao độ của âm vị chuyền hoặc thuyền bị hạ thấp bởi

thanh huyền. Khi phát âm, môi tròn lại, lƣỡi hạ thấp, làn hơi đẩy mạnh ra phía

ngoài, lƣỡi đƣa lên sát ngạc cứng.

- Luyện đóng, mở chữ giúp:

+ Có ý thức về vị trí âm thanh của các nguyên âm (đỉnh của chữ - yếu tố

Page 44:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

44

tạo vang của chữ)

+ Có ý thức về các phụ âm (âm đầu và âm cuối của từ - từ khép).

b) Rao hàng:

Với Rao hàng, những ngƣời bán hàng rong nhiều thế kỷ qua đã sáng tạo

nhiều hình thức độc đáo, gây ấn tƣợng và có sức thu hút sự chú ý nhƣ: Phớ; Tào

phớ; Mỳ nóng đây; Khoá ơ; Bánh khúc đây; Nhôm nát, đồng nát, sắt vụn bán

đây… Từ ngữ đƣợc sử dụng trong Rao hàng đƣợc mở rộng, đƣợc thu hẹp theo

lối kết thúc đột ngột, đôi khi còn thay đổi cả dấu giọng.

Ngƣời bán phở rong có lối rao hàng ngắn nhƣ: Phở, thanh hỏi đƣợc thay

bằng thanh không dấu: Phơ, phụ âm kép ph bật mạnh tạo âm vang lớn cho câu

rao. Đỉnh ơ kéo dài rồi mở rộng sau đó khép vuốt lên cao hơn (quãng 2) thành ớ

và kết thúc từ: Phớ

Vị trí âm thanh của nguyên âm ơ đƣợc đƣa sâu hơn vào phía trong, khẩu

hình đƣợc mở rộng. Màu sắc của nguyên âm ơ cũng vì thế mà tối đi đôi chút

nhƣng ấm và vang hơn khi nói.

Khác với chữ Phở, câu rao Tào phớ của những ngƣời bán tào phở vừa

mang tính cao độ của âm giai tự nhiên vừa mang tính trƣờng độ của lối hát kết tự

do. Ở chữ Tào phụ âm T kêu, bật mạnh tạo độ mở âm thanh cho nguyên âm a

(đỉnh âm) và mở rộng tuỳ ý nhƣ có dấu ngân tự do phía trên. Từ Tào dễ mở rộng

âm thanh vì đƣợc kết ở nguyên âm o (bán nguyên âm - kết mở). Chữ Tào kéo

dài, rồi đột ngột kết ở chữ phớ (thay thanh hỏi bằng thanh sắc: phở thành phớ).

Câu rao Tào phở gây ấn tƣợng mạnh, nghe nhiều thành quen mọi ngƣời gọi luôn

món ẩm thực này là Tào phớ.

Page 45:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

45

Câu rao Bánh khúc đây đƣợc thay bằng Khúc đây. Khác với Tào phở. Từ

khúc là từ đóng không cho phép mở rộng đỉnh chữ ở nguyên âm u, buộc phải kết

thúc từ sớm nên phần âm thanh kéo dài dồn vào từ đây. Trƣờng độ của từ khúc

đƣợc ghi nhƣ một nốt móc đơn còn từ đây đƣợc ghi nhƣ một nốt trắng ngân tự

do.

Câu rao: Đồng nát, sắt vụn bán đi.

“… Nát, sắt vụn” cùng cao độ, các nguyên âm nằm ở vị trí đỉnh chữ, đƣợc

mở rộng và sử dụng các hộp vang vòm và mũi. Vì mục đích thu hút sự chú ý của

khách hàng, nên yếu tố rõ chữ đã bị giảm nhẹ, ba từ diễn ra cùng bậc, rền

(legato). Đặc biệt chữ Bán đƣợc uốn một đƣờng chậm từ trên cao xuống, rồi lại

lƣợn lên cao gần giống nhƣ ngƣời Quan Họ hát Láy vòng. Âm thanh của câu rao

ngân dài ở từ đi. Âm mũi của nguyên âm i kéo dài, xoáy vào tai ngƣời nghe:

* Tiếng Việt trong nghệ thuật Rao hàng của những ngƣời bán hàng rong

có những đặc điểm:

- Rao là hình thức lời nói đƣợc âm nhạc hoá. Theo cách nói của nghệ nhân

là “lồng điệu cho câu nói”. Có thể coi Rao là hình thức dân ca thô sơ, nó đứng

giữa lời nói và âm nhạc.

Page 46:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

46

- Mặc dù phần lớn các từ đƣợc cách điệu, mở rộng song đa phần vẫn giữ

đƣợc những quy luật cấu âm cơ bản (khởi từ - mở từ - khép từ).

- Trƣờng hợp cách điệu có chủ ý thì nguyên âm của các từ trong câu Rao

không thay đổi vị trí cấu âm nguyên bản.

- Ngƣời bán hàng rong không hẳn đã có ý thức về cách phát âm các câu

rao của mình, nhƣng bằng bản năng họ đã tự tìm cho mình vị trí âm vang tốt nhất

để vừa phù hợp với thể lực, thời gian hành nghề, và mở rộng phạm vi nghe, nhận

biết của khách hàng.

c) Hát ru & Ngâm thơ:

Việt Nam có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc lại có ít nhất một làn điệu hát ru và

nhiều làn điệu hát nói, ngâm thơ, kể chuyện. Trong phạm vi luận án, chúng tôi

chỉ đề cập tới đặc điểm “cất thanh, nhả chữ” của một số làn điệu hát ru và ngâm

thơ phổ biến nhất của đồng bào Kinh (Châu thổ sông Hồng), và một số vùng

khác có mối liên hệ gần gũi với tiếng Việt phổ thông có cùng quan niệm hát

vang, rền, nền, nẩy.

Hát ru:

Tìm hiểu phƣơng pháp tạo vang và rền trong nghệ thuật ca hát truyền

thống, bắt đầu từ Hát ru và Ngâm thơ bởi vì ở hai loại hình này quy trình cấu âm

tiếng Việt có nhịp độ khởi từ, đỉnh từ và đóng từ diễn ra chậm nhất. Ba điệu ru

đặc trƣng của 3 vùng văn hoá dân gian Bắc, Trung, Nam:

*Hát ru Bắc Bộ:

“À ơi... À ời.

Cái ngủ mày ngủ cho lâu

Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chƣa về

Bắt đƣợc con chép, con trê

Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn...”

Page 47:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

47

Hát ru Bắc Bộ

*Hát ru Trung bộ:

“ À ơi......

Mẹ rằng lệch gối nghiêng chăn

Đêm trƣờng gối lạnh thiếp biết than cùng với ai...”

Hát ru Quảng Bình

*Hát ru Nam Bộ: “ Ầu ơ ớ…

(Chứ) trách ai trồng chuối dƣới bàu ơ ơ

Trái ăn, lá dập bỏ tàu bơ vơ...”

Hát ru Nam Bộ

Ba điệu ru có những khác biệt về thang âm, điệu tính, cấu trúc giai điệu.

Về cấu âm, nhịp độ triển khai, mở rộng và đóng chữ có nhiều nét giống nhau. Vì

nhịp độ đóng chữ chậm nên đỉnh âm (tức nguyên âm chính) có độ mở rộng và

tạo vang lớn hơn khi các từ mở (kết chữ bằng nguyên âm hoặc bán nguyên âm

nhƣ à ơi, ầu ơ, ví dầu, lâu, về, chợ Cầu...). Khi các từ đóng (các từ có âm cuối -

kết chữ là các phụ âm đơn hoặc kép: c, n, t, p, m, ng, nh…) thì ít nhiều âm chính

cũng bị ảnh hƣởng, nó làm cho độ mở của miệng giảm bớt, ngắn lại, các từ (vần)

đó phải dứt sớm hơn, nên phải chú ý độ mở của nguyên âm trong các từ có âm

kết đóng. Ví dụ: “…Mẹ rằng lệch gối, nghiêng chăn…”, “…Mẹ mày đi cấy

Page 48:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

48

ruộng sâu chƣa về…”, “bắt đƣợc con chép con trê”, “…ngủ cho ngoan…”. Từ

ngoan đƣợc khởi đầu bằng phụ âm kép ng, nguyên âm o làm âm đệm kéo

nguyên âm a vào nửa lƣỡi phía trong, khi hơi đẩy thoát ra ngoài khẩu hình mở

tạo âm a, trung tâm chữ rồi khép lại ở phụ âm n để khẳng định âm vị và thành từ

có nghĩa: ngoan. Vì chữ ngoan khi hát ru có diễn biến dàn trải, nhịp độ chậm và

ở độ cao thích hợp với thanh ngang nên ta có thể nhận thấy rõ màu sắc sáng của

nguyên âm a (âm chính - a đƣợc ƣu tiên hơn).

Ngâm thơ .

Việt Nam có nhiều kiểu ngâm thơ khác nhau nhƣ Xa mạc, Bồng mạc, Lẩy

Kiều, Nói hay kể thơ Bạc Liêu, ngâm thơ mới... Trong sân khấu truyền thống nhƣ

Chèo có nhiều dạng ngâm nhƣ: nói vỉa, ngâm vịnh, trong hát Quan họ Bắc Ninh

có bỉ (bỉ tựa nhƣ vỉa của Chèo)... Có thể gọi chung là Ngâm. Ngâm đƣợc chuyên

nghiệp hoá và đƣợc sử dụng trong nhiều hình thức diễn xƣớng, kịch hát. Ngâm

có cung bậc, có vui, buồn tức có giai điệu, nhƣng tự do không nhịp. Dựa trên

giọng hoặc điệu định sẵn. Giọng ngâm ngân nga lên xuống theo nhịp, theo vần

của thơ nhƣng phải rõ chữ và lột tả đƣợc hồn thơ. Nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ

ngâm thơ đều cho rằng ngâm không chỉ đúng điệu, đúng lề lối ngắt mở, ra vào

mà phải nén hơi, nhả chữ cho gọn để không mất một từ, một chữ nào của thơ. Vì

vậy rõ chữ đƣợc đƣa lên vị trí đầu tiên cần phải quan tâm. Để rõ chữ các nghệ

nhân thƣờng đóng chữ sớm, đóng tiếng không phải làm cộc và chết chữ, bởi âm

của từ đó vẫn đƣợc ngân liền sang chữ sau tạo rền cho câu ngâm hoặc câu hát.

Có hai lối ngâm truyền thống: Ngâm Sổng và Lẩy Kiều.

*Ngâm Sổng: Có cấu trúc quãng rộng, thƣờng sau một vài nốt bình ổn lấy đà,

giai điệu đột ngột nhẩy lên quãng 8 ngân dài rồi đổ xuống:

“ Mình về mình có nhớ chăng ?

Ta về ta nhớ hàm răng mình cƣời...”

Page 49:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

49

Ngâm sổng đòi hỏi phải vang, rền, liền mạch, liền hơi. Khi cất thanh nhả

chữ không đƣợc kéo dài quá trình tạo âm, không đƣợc dừng lâu ở nguyên âm

chính, trừ những từ có cấu âm mở. Chữ mình có thể nhanh, chậm tuỳ theo sở

thích của ngƣời ngâm nhƣng không đƣợc dừng ở nguyên âm i để tạo vang mà

phải đóng chữ và lấy phần ngân ở đuôi chữ làm chính. Nếu nguyên âm i mở theo

cách hát của hát Mới sẽ nghe rõ quá trình tạo âm (khởi từ - mở từ - kết từ:

m.ì...ình), từ hộp vang vòm miệng chuyển sang hộp vang mũi đóng chữ. Cách

hát này không chỉ khiến màu âm thay đổi mà không rõ chữ, rõ lời. Chữ mình (là

từ có âm cuối là phụ âm - từ đóng) theo cách ngâm, cách hát truyền thống, phải

đóng ngay sau khi khởi thanh, hay nói cách khác quá trình tạo âm phải đƣợc

đồng thời diễn ra nhƣ đã nêu ở trên.

Ngâm là ngân nga gần với hát, không phải là nói. Các chữ đƣợc mở rộng

hơn để có vang và rền, sau khi chữ đã đƣợc khẳng định. Nhƣ vậy chữ mình sau

khi đóng âm đƣợc đẩy lên mũi, vẫn nghe thấy âm hƣởng của nguyên âm i nhƣng

không hoàn toàn là nó nữa. Để tạo vang và tránh bẹt cho từ, các nghệ nhân đã sử

dụng lối pha trộn thêm âm thanh cộng hƣởng của hộp vang trán và hộp vang sọ.

Phƣơng pháp này không chỉ áp dụng cho các từ đóng, mà cho cả các từ mở. Ở

cuối câu 1(câu 6-6/8) câu hát Sổng, nguyên âm a có độ mở rộng nhất, chữ ta

phải đóng bằng cách thu dần khẩu hình và biến dạng thành âm ƣ. Cách thay đổi

vị trí vang tạo ra sự đối lập nhằm làm rõ chữ ta. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy với chữ

nhớ ở cuối vế thứ nhất của câu hai. Chữ nhớ đƣợc ngâm từ nhớ, rồi kéo cao lên

quãng 3 cùng thanh sắc để khẳng định chữ nhớ, nguyên âm ơ cuộn vào trong và

đƣa lên hộp vang mũi.

Page 50:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

50

* Lẩy Kiều:

Lẩy Kiều

Lẩy Kiều có lối nhả chữ thủng thẳng, nhấn vào từng từ, trải rộng với giai

điệu bình ổn, hài hoà, không đột biến nhƣ ngâm Sổng. Vì đòi hỏi của Lẩy Kiều

nhƣ vậy nên khi cất thanh nhả chữ, phụ âm đầu phải bật mạnh, không đƣợc thô,

kết hợp đóng chữ, nhả chữ nhịp nhàng. Mỗi từ trong Lẩy Kiều đều độc lập, tròn

trịa, chúng xâu chuỗi vào nhau bằng âm vang đuôi chữ.

Tìm hiểu phƣơng thức cất thanh và nhả chữ trong một số làn điệu hát ru và

ngâm thơ có những đặc điểm:

- Quy trình tạo âm tiếng Việt: khởi - mở rộng âm giữa - kết từ (chú trọng

đến khép chữ, đóng từ).

- Cách vận dụng linh hoạt âm khu vang cho các từ có cấu trúc mở (ta, về,

nhớ...)

- Với từ khép, độ vang nằm ở sau chữ hay nói cách khác là dƣ âm của từ

sau khi khép(…Mình về… mình (ƣ ƣng) cƣời (i)…)

- Đổi nguyên âm hoặc đổi vị trí vang tạo tƣơng phản nhằm làm rõ từ (ta:

âm a thu dần khẩu hình biến dạng thành âm ƣ).

- Lối nhả chữ nhấn nhá vào từng từ. Ngoài ý đồ nghệ thuật và thẩm mỹ, nó

còn làm rõ từ giúp ngâm “ từ nào ra từ nấy”.

d) Dân ca:

Dân ca Việt nam (hát Xoan, hát Ghẹo, hát Quan Họ, hát Dặm, hát Ví, Hò,

Lý...) phong phú. Vừa nhiều về số lƣợng, vừa đa dạng về ngôn ngữ và phong

cách thể hiện.

Page 51:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

51

Những yếu tố tạo nên màu sắc vùng miền nhƣ yếu tố địa lý, phƣơng ngữ,

thói quen cấu tạo từ hay sự biến dạng của thanh điệu đã có nhiều nghiên cứu đề

cập đến, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến vai trò và ảnh hƣởng của thanh điệu

trong một số làn điệu dân ca Việt Nam không chỉ đem đến màu sắc riêng cho dân

ca địa phƣơng ở ca từ, cấu trúc âm nhạc và ở một chừng mực nào đó, có tính

khác biệt trong cất thanh, nhả chữ của nghệ thuật ca hát truyền thống.

Cùng một câu ca dao, Quan Họ có hai làn điệu khác nhau :

“Xe chỉ luồn kim

Thêu khăn nhiễu tím gửi sang cho tình...”

Bản phổ 1:

Dân ca Quan Họ Bắc Ninh

Bản phổ 2:

Dân ca Quan Họ Bắc Ninh

Hai làn điệu mặc dầu có cấu trúc giai điệu khác hẳn nhau, nhƣng thống

nhất trong ngôn ngữ biểu hiện, cùng một phƣơng ngữ Bắc Ninh. Nhƣng trong

bài Xe chỉ luồn kim của hát Ghẹo Phú Thọ lại khác: “...Xe mà chí xe, ố tình mà là

xe chí...”

Dân ca Phú Thọ

Ngƣời Phú Thọ ở Việt Trì, phát âm tiếng Việt không có thanh hỏi gần nhƣ

ngƣời vùng Quốc Oai, Sơn Tây. Thanh hỏi đổi thành thanh sắc

Page 52:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

52

Qua đó, nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ và âm nhạc dân tộc học cho rằng

ca dao là tài sản chung, ít mang tính vùng miền. Nhƣng khi ca dao trở thành dân

ca nó mang đậm dấu ấn địa phƣơng. Cùng câu ca dao:

“Ai đem con sáo sang sông

Để cho con sáo sổ lồng sáo bay.”

Câu ca dao này trở thành điệu Lý con sáo thì lƣu truyền tới 6, 7 dị bản, từ

Lý con sáo Nam bộ, Lý con sáo Gò Công, Lý con sáo Huế, Lý con sáo Quan Họ

Bắc Ninh, Lý con sáo hát ghẹo Phú Thọ...

Câu ca dao nói về con sáo hầu nhƣ đƣợc giữ nguyên khi trở thành câu hát

Lý con sáo kể cả tên gọi, nhƣng cấu trúc âm nhạc của chúng không giống nhau,

chúng không phải là những phiên bản mà là những bản phổ độc lập. Cấu trúc

giai điệu, nhịp điệu của mỗi dị bản phản ánh rõ cảm xúc, thẩm mỹ, nếp sống, văn

hoá của từng vùng. Yếu tố vùng miền còn đƣợc nhân lên nhiều lần khi có sự

tham gia của thanh điệu, sử dụng từ đệm, từ láy (hƣ tự), và đặc biệt trong cách

phát âm cùng một số yếu tố nghệ thuật bổ sung khác nhƣ luyến, láy, rung, nhấn...

Phƣơng pháp mở âm (tạo vang), xử lý vị trí, phối hợp các âm khu vang trở

thành điểm nhấn có tính thẩm mỹ âm thanh rõ nét ở nhiều loại hình, nhiều vùng

dân ca. Ví dụ: Chữ ơ đƣợc sử dụng ở 3 tình huống khác nhau, trong 3 làn điệu

dân ca khác nhau và đƣợc đặt ở một độ cao tƣơng tự:

- Ơ trong hát Ví đồng bằng Bắc Bộ: “Ơ này anh cả anh Hai đấy ơ hời...”

Hát Ví Bắc Bộ

- Ơ trong Hò Mái nhì Trị Thiên Huế: “Ơ ơ ớ ờ ơ ơ ờ ơ ớ...”

Page 53:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

53

Hò Mái Nhì (Huế)

- Ơ trong Hò Đồng Tháp: “Ơ ơ ớ ơ ơ ơ ơ ớ...”

Hò Đồng Tháp

Hát Ví đồng bằng Bắc Bộ, nguyên âm ơ thoát ra ngoài cửa miệng, vị trí

âm thanh đặt ra nửa phần ngoài lƣỡi, khiến cho màu sắc của ơ sáng và gọn hơn.

Để vang xa, toàn bộ câu hát đầu đƣợc đặt ở âm khu cao, hát thẳng, không rung

(non vibrato), để mềm chữ dùng láy ở chữ đấy ơ .

Hò Mái Đẩy (Hò Mái Nhì Trị Thiên Huế) khác với màu sáng của âm ơ

trong hát Ví đồng bằng Bắc Bộ, âm ơ của hò Mái Đẩy cảm giác trầm và ấm hơn

do vị trí âm thanh đặt ở phần giữa lƣỡi và ngạc cứng, pha chút chua của khoang

mũi. Hơi đẩy nhẹ rồi mạnh dần liền mạch, rền. Âm ơ cuối kìm hơi vuốt nhỏ, tạo

cảm giác xa vời, luyến tiếc. Chuỗi âm ơ của Hò Huế rõ nét hơn ở lối rung chậm

âm ơ thứ 2 và thứ 5.

Hò Đồng Tháp cũng chuỗi nguyên âm ơ nhƣ Hò mái Đẩy Trị thiên Huế,

song do cách xử lý âm thanh khi hò có đôi chút khác nên Hò Đồng Tháp mang

mầu sắc đặc biệt của miệt sông nƣớc Nam bộ. Câu hò mở âm ngay vào âm ơ

giống nhƣ cách mở âm của hát Ví (Hò mái Nhì kéo từ quãng 2 lên). Ngƣời hò

phải tập kỹ để có thể bật nhẹ khiến âm ơ đầu bật ra nhẹ nhàng, sau đó nén hơi và

giữ cho âm thanh thẳng, không rung. Âm ơ thứ 5 và thứ 7, vị trí âm thanh của

nguyên âm ơ đƣợc đƣa vào trong, và rung nhẹ. Sau đó trở lại vị trí ban đầu

không rung, âm ơ kết thúc đẩy lên khoang mũi, có màu sắc giả thanh (dân gian

gọi là giọng óc).

Page 54:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

54

Những ví dụ trên cho thấy cách hát (kỹ thuật hát), cách xử lý tiếng Việt

trong kho tàng nghệ thuật ca hát truyền thống, là những yếu tố góp phần tạo nên

bản sắc văn hoá dân tộc.

Âm thanh tiếng Việt đa dạng nhờ các yếu tố cấu âm, tạo từ nhƣ cao độ,

trƣờng độ và sắc độ. Mặc dù đơn âm tiết đòi hỏi chữ nào ra chữ nấy, rõ tiếng

một, không thuận lợi cho việc mở rộng âm thanh song trong ca hát truyền thống,

trong dân ca các vùng miền ta thấy tiếng Việt đƣợc xử lý một cách trân trọng, tế

nhị, khôn khéo và đầy tính nghệ thuật. Ví dụ: chữ Tây trong điệu Lý Chiều chiều

dân ca Nam Bộ:

“Chiều chiều ra đứng

Tây lầu tây, tây lầu tây

Thấy cô (tang tình) gánh nƣớc

Tƣới cây tƣới cây ngô đồng...”

Chữ Tây trong điệu Lý Chiều Chiều đƣợc điệp 4 lần, mỗi lần ở một độ cao

khác nhau. Chữ Tây có cấu âm:

- Khởi âm - T (phụ âm)

- Âm giữa (đỉnh âm) - â (nguyên âm ngắn)

- Kết âm - y (bán nguyên âm)

T là phụ âm vô thanh, khi khởi âm lƣỡi đƣa lên ngạc cứng sát chân răng

phía trên. Nguyên âm â ở vị trí trung tâm, đỉnh âm (nguyên âm chính), khép từ

Page 55:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

55

bằng nguyên âm y (bán nguyên âm). Hình thức cấu âm này không cho phép lạm

dụng kéo dài và mở rộng nguyên âm chính. Từ những đặc tính cấu âm trên, chữ

Tây trong bài đƣợc xử lý: Chữ Tây đầu có màu sáng và rung, vị trí âm thanh

đƣợc đƣa ra phía ngoài vòm miệng. Lặp lại lần hai, nhƣng thấp hơn, màu sắc chữ

Tây hơi tối đi và không rung. Lặp lại lần ba, cũng kỹ thuật hát thẳng, nhƣng có

cƣờng độ và độ vang lớn hơn. Lần thứ tƣ, chữ Tây ở cuối câu cao hơn chữ Tây

đầu, mầu âm sáng, kết thúc chữ cùng với kết câu vuốt nhỏ dần. Vậy là, 4 chữ

Tây đƣợc xử lý khác nhau.

Ví dụ khác Hát Trách dân ca Nam Trung Bộ:

“Nhớ ai, ai nhớ, nhớ ai

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai.

Nhớ ai lòng những bồi hồi

Nhƣ đứng đống lửa, nhƣ ngồi đống than..."

Đó là cách xử lý tinh tế, giàu tính nghệ thuật thƣờng gặp trong dân ca

cũng nhƣ trong các dòng ca hát truyền thống khác. Những nghệ nhân, nghệ sĩ hát

Chèo, Ca Trù, hát Bội, hát Dân ca, hát Xẩm... họ đều rất quan tâm đến nhả chữ,

hát tiếng nào ra tiếng nấy, hát tiếng trƣớc không trùng tiếng sau. Mở tiếng, đóng

tiếng khéo léo để đạt đƣợc tiêu chí “tròn vành rõ chữ”, song câu hát không nhát

gừng mà vang rền, nền nã và sang trọng.

e) Quan Họ Bắc Ninh:

Mặc dù không đƣợc xếp vào hệ thống ca hát chuyên nghiệp (ngƣời Quan

Họ không nói biểu diễn Quan Họ mà là chơi Quan họ. Mục tiêu của hát Quan Họ

không phải để mƣu sinh mà là giải trí, một thú chơi thanh tao).

Quan Họ Bắc Ninh với những giá trị nghệ thuật cao, độc đáo “không đâu

có”, phong phú, giàu về làn điệu, cấu trúc âm nhạc đặc sắc, ca từ sâu sắc giàu

hình ảnh, giàu chất nhân văn. Và đặc biệt lối hát nảy hạt đƣợc xem nhƣ nhân tố

Page 56:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

56

quan trọng nhất đƣa Quan Họ trở thành loại hình dân ca độc đáo.

Trong bài Di sản Quan Họ còn gì để mất, tác giả Nguyễn Mạnh Hà cho

rằng: “...Dù thuộc về thú chơi, nhƣng hát Quan Họ đòi hỏi ngƣời hát phải có sự

rèn luyện tƣơng đƣơng với các thể loại chuyên nghiệp khác nhƣ Ca Trù, Hát

Văn, Chèo...” [17]

Nói tới Quan họ ngƣời ta thƣờng nhắc đến vang, rền, nền, nẩy. Song,

những đặc điểm này không chỉ là của riêng Quan Họ. Theo một số nhà nghiên

cứu cho rằng có thể hai đặc điểm quan trọng nhất là nảy và dứt góp phần làm

Quan Họ trở thành một dòng hát có tính chuyên nghiệp và độc đáo.

Cũng nhƣ nhiều dòng dân ca, ca hát truyền thống khác đều truyền từ thế

hệ này qua thế hệ khác bằng phƣơng thức truyền khẩu. Nhiều nghệ nhân ở

Ngang Nội, Lim, Diềm, Bịu, Vân, Sim...hát Quan Họ, tuy mỗi làng hát có đôi

chút khác nhau nhƣng thuần chất Quan Họ. Nhiều ngƣời thƣờng gọi là Quan Họ

cổ, gồm mấy điểm chính:

- Cách hát độc đáo xuất phát từ những yếu tố kỹ thuật truyền từ đời này

sang đời khác nhƣ: nảy hạt, liền hơi, dứt tiếng, bẻ chữ, lƣợn giọng, láy vòng.

- Phƣơng thức thể hiện hát đôi, nhìn vào mắt nhau mà hát. Một ngƣời hát

chính, một ngƣời hát phụ gọi là hát lồng (luồn).

- Đối tƣợng là bạn hát (không phải khán giả).

- Bẻ làn nắn điệu (yếu tố quan trọng này đã thất truyền từ hơn 50 năm nay

kể từ khi cộng đồng Quan Họ Làng không còn hoạt động. Bẻ làn nắn điệu có

nghĩa là dựa vào làn điệu đã có sáng tạo ra làn điệu mới làm cho hoàn chỉnh hơn,

tinh tế hơn).

Nảy Hạt

Nảy hạt là kỹ thuật hát độc đáo của ngƣời Quan Họ, nó là tiêu chí mang

tính phổ cập, không mang tính đơn lẻ và đã trở thành đặc trƣng của giọng hát

Quan Họ. Nó có truyền thống từ lâu đời còn lƣu truyền cho đến nay qua giọng

Page 57:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

57

hát của các nghệ nhân cao tuổi vẫn còn sống tại các làng Quan Họ gốc nhƣ

Diềm, Vân, Ngang Nội, Lim, Bịu, Sim…

Về kỹ thuật hát của ngƣời Quan Họ, nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc

Nguyễn Thụy Loan cho rằng:“…nảy hạt, hát ngắt - vốn là nét đặc biệt của lối

hát Quan Họ cổ truyền - còn lƣu giữ đƣợc ở một số nghệ nhân”.

Nảy hạt có nhiều dạng: nảy mau, nảy thƣa, đƣợc ví nhƣ hạt vừng, hạt đỗ.

Nảy hạt bao giờ cũng đi sau câu hát, nó đƣợc thay vào vị trí ngân dài trong câu

hát. Nhƣ trong câu hát Bỉ (hát Nói,Vỉa):

“Ừ đôi tay i hi bƣng lấy i hi, i i hi hơ cơi trầu...” (điệu Mời trầu)

Hát Bỉ (Quan Họ Bắc Ninh)

Ừ là âm lấy hơi, lấy đà. Hầu nhƣ câu Quan Họ nào cũng bắt đầu nhƣ vậy.

Câu đầu theo giọng Bỉ của điệu Mời trầu đƣợc ngắt làm ba: Đôi tay/…bƣng

lấy/…cơi trầu…Hạt nảy xuất hiện lần một và lần hai với nguyên âm i, nhƣng lần

hai khi dứt tiếng chuyển sang nguyên âm ơ để hợp với từ cơi có nguyên âm ơ

trung tâm chữ đồng dạng và cuối cùng sau chữ trầu hạt nảy còn xuất hiện lần

nữa với âm ƣ hƣ.

Hoặc trong câu Quan Họ cổ Đƣờng bạn Kim Loan (có nơi gọi là Kim

Lan): Này kim loan ơi ƣ hự là hự là...

Đƣờng bạn Kim Loan

Này là từ lấy hơi không nhấn mà lƣớt nhẹ để vào chữ Kim. Ngay sau chữ

ơi nửa khép, cổ họng bật thanh tạo ra tràng tiếng lăn tăn gọi là hạt sau 2 âm đƣa

Page 58:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

58

hơi ƣ hƣ. Nảy hạt xuất hiện 2 lần ở trùm hƣ tự ƣ hƣ hừ ƣ ngay sau 2 từ chính

Kim Lan.

Quan Họ cổ hay Quan Họ truyền thống thƣờng có nhịp điệu chậm rãi đôi

khi tƣởng nhƣ không nhịp, lời chính bị chia cắt bởi các từ đệm lót. Nảy hạt góp

phần nhƣ một thành tố tạo nhịp sau câu hát. Sự xuất hiện của kỹ thuật nảy hạt

khiến câu hát trở nên sinh động.

Dứt

Dứt (ngắt) là đặc điểm, đặc trƣng thứ hai của nghệ thuật thanh nhạc Quan

Họ. Gọi là dứt vì sau nó có thể có một dấu lặng nghỉ tự do, còn ngắt vẫn nằm

liền trong mạch hơi của câu hát Quan Họ. Nghệ nhân ở Lim hay có lối hát ngắt

để nhấn vào từng chữ, thủng thẳng : “...Rằng tôi ra đứngi i hơ ơ...”:

Ra đứng đầu làng (QHBN)

Từng chữ đƣợc ngắt ra và đƣợc xâu chuỗi bằng dƣ âm và hơi nén liền câu

rồi đột ngột dứt ở cuối câu với âm đệm lót ơ. Ngƣời hát có thể dứt hẳn hơi và

nghỉ tự do. Dứt có thể đứng ngay sau nảy hạt hoặc trực tiếp ngay sau từ đệm lót

hoặc từ chính.

Hát dứt khiến câu Ngƣời ở đừng về trong Giã bạn trở nên tha thiết, kín

đáo, duyên dáng và đằm thắm hơn:

“Ngƣời về em vẫn í i ì í i/ nay có ò ó o mấy khóc nay/ớ ơ khóc thầm là/ đôi

i ơ bên là/bên song mấy vạt áo/ mà này cũng có a ƣớt đầm (hừng hừng-nảy hạt

nhẹ) ƣớt đầm nhƣ mƣa (hơ hơ- nảy hạt)...”

Page 59:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

59

Câu hát này có 7 lần dứt và chỉ có hai lần xuất hiện nảy hạt nhẹ. Câu

Ngƣời ở đừng về hát theo lối cổ - cách hát gần gũi với biểu cảm kín đáo truyền

thống cùng những kỹ thuật mà chỉ riêng Quan Họ mới có.

Giải thích cho lý do hình thành kỹ thuật nảy hạt còn gọi là đổ hột, nhà

nghiên cứu Quan Họ Nguyễn Hùng Vĩ cho rằng: “…vì thanh điệu tiếng

Việt…Kết cấu theo kiểu Phụ âm - Nguyên âm - Phụ âm, nhƣ vậy trong khi nói

bình thƣờng thì không có vấn đề gì, nhƣng khi hát do thiếu mất phần đuôi của

âm điệu nên bắt buộc phải có một số kỹ thuật làm cho đầy và tròn tiếng thì chữ

mới thật chuẩn, thật tròn. Kỹ thuật đổ hột hay nảy hạt sinh ra để làm nhiệm vụ

nhƣ vậy”.

Để hát rõ lời, ngƣời Quan Họ ngoài những chuẩn mực chung thƣờng đƣợc

áp dụng cho các dòng ca hát truyền thống khác nhƣ: tròn vành, rõ chữ, Vang

rền, nền nẩy, kỹ thuật thanh nhạc Quan Họ còn có những nét riêng nhƣ hát nảy

hạt, hát dứt tiếng, hát thủng thẳng nhấn vào từng chữ tạo điều kiện hát rõ tiếng

một. Để nhả chữ không bị cứng thƣờng kèm với luyến, láy (theo kiểu đong đƣa

chữ). Sau các từ có nguyên âm mở, khi nảy hạt, ngân và dứt thƣờng nhắc lại

đúng từ đó hoặc nhắc lại nguyên âm của từ mở nhƣ trong bài Vào chùa: “Vào

chùa chùa mở cửa i í hơ ơ hơ ơ chùa ra ì í a...”

Page 60:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

60

Cùng với hát nảy hạt, hát dứt tiếng (ở chữ dứt tiếng, thƣờng cƣờng độ bật

thanh mạnh), hát thủng thẳng rõ tiếng một, ngƣời Quan Họ còn có khái niệm hát

liền. Liền không hẳn là rền, vì nó tạo cho câu hát có thêm chiều sâu, câu hát nhƣ

chảy từ trong ra.

1.2.2 Kinh nghiệm và kỹ thuật xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong ca hát

truyền thống chuyên nghiệp:

a) Ca Trù:

Ca trù có nhiều tên gọi khác nhau nhƣ Ả Đào, hát Nhà Tơ, hát Cửa Đình,

hát Cửa Quyền, hát Nhà Trò, hát Cô Đầu, hát Ca Công. Mỗi tên gọi đều phản

ánh giá trị, vị trí xã hội và không gian diễn xƣớng riêng của bộ môn nghệ thuật

độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt này trong kho tàng âm nhạc cổ truyền Việt Nam.

Ca Trù ngay từ khi ra đời đã gắn liền với sinh hoạt diễn xƣớng cung đình, lễ hội,

phong tục, tín ngƣỡng, tƣ tƣởng, tập quán của ngƣời Việt.

Ca trù phát triển từ TK. XV và trở thành đỉnh cao nhất của nghệ thuật ca

hát chuyên nghiệp bác học. Nghệ thuật hát Ca Trù đƣợc đúc kết trong 8 chữ phải

đạt đƣợc và 6 chữ cần phải tránh.

* Một giọng Ca Trù phải đạt đƣợc 8 chữ:

+ Quán: Đúng phách, đúng nhịp.

+ Xuyến: Nhả chữ nào ra chữ nấy, tròn trĩnh, đầy đặn.

+ Dằn: Đƣa hơi đều đặn, nén vào phía trong, gằn tiếng đúng chỗ.

+ Thét: Cất thanh mạnh mẽ, vang và rền.

Page 61:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

61

+ Diệu: Giữ cho tiếng hát tự nhiên bay bổng, sang trọng

+ Vợi: Cao mà trong trẻo.

+ Khuôn: Hát theo khuôn bực, uốn nắn từng tiếng, phải “dụng công lấy

tiếng gằn từ trong cổ họng, không có tiếng nào thừa ra ngoài đàn”.

+ Rẫy: Ngân nga, liền hơi, liền tiếng.

* Khi luyện hát Ca Trù cần phải tránh 6 điều:

- Lỏi: Sai nhịp phách và không ăn với tiếng đàn.

- Ngang: Sai giọng, sai cung bậc.

- Cản: Nhả chữ không đúng (ngọng).

- Chặn: Giọng xấu, lí nhí.

- Hụt: Cƣớp nhịp.

- Sa: Lõng thõng đi sau nhạc.

Cách nhả chữ của Ca Trù cho thấy một đặc điểm khá rõ về nhịp độ khởi -

mở - đóng chữ diễn ra tƣơng đối chậm và dàn trải, trong nghệ thuật ca hát cổ

truyền gọi là đai từ. Với cách nhả chữ này - đai từ, nguyên âm - trung tâm chữ

đƣợc mở rộng hơn, nên giọng hát đạt độ vang, mạnh mẽ, rền rĩ hơn.

Một số đặc điểm chính trong lối nhả chữ của Ca Trù:

- Khởi - mở - kết chữ (Phụ âm - nguyên âm - phụ âm) gần với quy luật của

nói (khép, đóng chữ)

- Câu hát rền vang, độ mở ở đuôi chữ và thƣờng đƣợc chuyển sang nguyên

âm ƣ và phụ âm kép ng (ƣ-ƣng) ngậm miệng và đƣa vào phía trong gọi là “dụng

công nén hơi lấy tiếng gằn từ trong cổ họng” (Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề).

Hoặc “ Đào nƣơng phải nén hơi rồi nhả từng chữ ƣ hƣ”. Hay còn gọi là cách hát

“ậm ự” (Trần Văn Khê).

- Thanh điệu thƣờng đi sau khi đã đóng chữ tạo ra đƣờng cong uyển

chuyển, rồi kéo từ trên xuống hoặc đẩy từ dƣới lên (Hồng Hồng, Tuyết Tuyết.

Nhớ ngày nào... chữ nào đƣợc bắt đầu từ nao rồi kéo xuống thành nào…)

Page 62:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

62

- Sử dụng lối rung chậm tạo thanh, mở rộng giai điệu cho câu hát.

- Cƣờng độ vang thay đổi ở từng chữ tạo sắc thái to nhỏ, làm rõ sự tinh tế

trong cách xử lý nhả chữ, đẩy hơi nông sâu của Ca Trù, khiến ngƣời nghe “cảm

giác câu hát chảy ra từ nơi sâu nhất của tình cảm.”

Nghệ thuật cách điệu tiếng Việt trong Ca Trù đã khiến nó trở thành một bộ

môn nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp, tinh tế, mang tính thẩm mỹ cao, giàu sáng

tạo, đậm đà bản sắc văn hóa riêng của ngƣời Việt.

b) Hát Chèo:

Nhiều nhà nghiên cứu Chèo cho rằng Chèo là sự kết tinh của nhiều loại

hình ca hát và diễn xƣớng dân gian nhƣ hát Cửa đình, hát Xẩm, hát Dậm, Hát

Xoan... Chèo phát triển rực rỡ và cũng chịu nhiều cách tân từ đầu TK.XX.

Với sân khấu kịch hát, giọng hát chiếm vai trò quan trọng trong nghệ thuật

diễn xƣớng. Chèo cũng vậy, tuy nhiên Chèo không lẫn với Tuồng, với Cải

Lƣơng, với Xẩm, với Quan Họ Bắc Ninh, hát Xoan, hát Ghẹo, hát Dậm… mặc

dù Chèo đã tiếp thu không ít các yếu tố, các làn điệu của Xẩm, của Ví, của nhạc

nhà chùa… Các thế hệ nghệ nhân tài năng của Chèo không chỉ giỏi nghệ thuật bẻ

làn nắn điệu mà còn giỏi nghệ thuật ca hát, hay còn gọi là “ hơi chèo”.

Nhà nghiên cứu Chèo Bùi Đức Hạnh cho rằng: “Đặc điểm thanh nhạc

trong Chèo đã góp phần tạo nên nét độc đáo trong cấu trúc giai điệu Chèo

không lẫn vào bất cứ loại hình ca hát dân gian nào.” [18, tr.27].

Tuồng có cách vận khí, nén hơi, khởi từ mạnh đạt độ vang lớn bộc lộ chất

bi hùng, Ca Trù lấy hơi gằn trong cổ họng, dùng âm ƣ nhƣ nuốt chữ vào trong,

Quan Họ chậm rãi nảy hạt, dứt tiếng. Chèo lại đẩy hơi ra phía trƣớc gọi là hơi

ngoài, sử dụng âm i làm âm vang chủ đạo, tạo màu sắc sáng, nhẹ nhàng, hợp với

tính cách trào lộng lạc quan, buồn nhƣng không thảm, vui nhƣng không nhạt,

tình cảm nhƣng không bi lụy.

Theo nhà nghiên cứu Hoàng Kiều, xuất phát từ quy luật tiếng Việt và thẩm

Page 63:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

63

mỹ nghệ thuật truyền thống thì nghệ thuật thanh nhạc Chèo thuộc hệ thống hát

“kín miệng”.

Trong 150 làn điệu Chèo cổ tác giả Bùi Đức Hạnh viết: “Khẩu hình Chèo

gần với khẩu hình tiếng nói tự nhiên (khẩu hình bẹt) không trực tiếp ngân những

âm mở với khẩu hình tròn cộng minh nhƣ lối hát Mới mà ngân bằng những âm

đóng thông qua các nguyên âm i, a, ơi, ƣ khép kín khẩu hình. Chèo gọi là hát kín

miệng bảo đảm sự tròn vành rõ chữ của ca từ trong ngôn ngữ tiếng Việt.”[18,

tr.27].

Giọng hát trong Chèo đƣợc chia làm hai loại giọng Kim và giọng Thổ:

- Giọng Thổ: có Thổ Trung và Thổ Đồng (giọng nam)

+ Giọng Thổ Trung chất giọng trầm ấm nhƣng tầm cữ giọng hẹp

+ Giọng Thổ Đồng vang và có tầm cữ giọng rộng hơn.

- Giọng Kim: có ba loại Kim Mùi, Kim Vắt, Kim Pha (giọng nữ)

+ Giọng Kim Mùi: trong trẻo, ngọt ngào.

+ Giọng Kim Vắt: chói và chua.

+ Giọng Kim Pha Thổ: trầm, tầm cữ hẹp.

Tác giả cuốn 150 làn điệu Chèo [18] đƣa ra sự so sánh giữa cách phân loại

giọng trong Chèo với cách phân chia giọng trong nghệ thuật hát Mới:

- Giọng nam:

+ Thổ Trung = Baritone

+ Thổ Đồng = Tenor (các vai nam chính)

- Giọng nữ:

+ Kim Mùi = Soprano (các vai nữ chính)

+ Kim Vắt = Soprano léger (các vai nữ lệch)

+ Kim Pha Thổ = Alto hoặc Contralto (các vai Tú Bà, Mụ Quán…)

Nghệ thuật hát Chèo làm nên Hơi Chèo. Hơi Chèo theo nhạc sĩ Bùi Đức

Hạnh gồm phát âm, nhả chữ, rung giọng, luyến láy… nhƣng nhiều nghệ nhân

Page 64:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

64

Chèo cho rằng đặc trƣng nhất vẫn là lối hát hơi ngoài. Chèo hát bằng giọng thật,

không hát giọng giả (Falsetto), do kỹ thuật hát hơi ngoài tạo ra âm thanh lanh

lảnh và tạo vang sau chữ bằng nguyên âm i, ơi, a... khởi chữ với thanh môn bật

nhẹ tạo vang, âm vang trau chuốt có sự pha trộn của hơi cổ, hơi mũi và hơi ngực,

không rung giọng ở những từ chính nhƣ:

“ Ta đi í à đi chợ dốc (ƣng) tề tề ngồi i gốc (ƣng), gốc cây đa...”

Lới Lơ

Chữ dốc và chữ gốc đều diễn ra ở âm khu cao, đóng chữ ngậm miệng đẩy

hơi lên mũi, rung và ngân ở âm ƣng. Chữ ngồi đóng chữ chuyển rung giọng và

ngân sang âm i, lần nhắc lại cũng nhƣ vậy. Chữ đa kết câu, không rung giọng mà

nén, vuốt hơi nhỏ dần để đóng miệng kết câu hát.

Ở một số làn điệu Chèo sử dụng kỹ thuật rung giọng, hơi nảy và hơi hột.

Hơi nảy và hơi hột của Chèo gần với kỹ thuật Đổ con kiến trong Ca Trù (theo

mô tả của GS.Trần Quang Hải) hơn là kỹ thuật nảy hạt của Quan Họ: “… Chèo

mở i lái i ra i.i hi hi hi i ì ì hi hi...”

Làn điệu Chèo ra đời, tồn tại và phát triển theo nhu cầu đòi hỏi của tính

kịch, đƣợc chia làm nhiều hệ thống làn điệu khác nhau nhƣ: Nói (vỉa, ngâm,

vịnh), Sắp hề gậy, Hề mồi, Ra trò, Đƣờng trƣờng, Vãn, Thảm, Đối đáp, trữ

tình… Mỗi hệ thống, mỗi làn điệu có một chất riêng, một vị trí và cách thể hiện

riêng đáp ứng cho nội dung diễn xuất của vai diễn cụ thể. Vì vậy hát Chèo cũng

trở nên đa dạng.

Page 65:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

65

Ngƣời hát Chèo phải lấy hơi từ bụng (hơi hột), qua ngực, nhƣ ngƣời vận

sức mà mang cây vác đá, với đặc thù nén hơi nhả chữ chứ không phóng hơi nhƣ

hát Mới.

Trong bài ...Cái yếm điều em... nó hãy còn màu của nhà nghiên cứu Chèo

Khánh Phƣơng viết: “Ngƣời hát không thể có cộng hƣởng của âm phát ra với

luồng âm tự nhiên nhƣ nhạc Mới mà chỉ có thể trổ hết sức vang của giọng bản

năng. Ngƣời nhà nghề gọi là “thổ đồng thổ đất... thổ tận can tràng”. Hát Chèo,

tƣơng tự nhƣ Quan Họ hay Ca Trù, dù có thỏ thẻ oanh vàng cũng phải “kinh

thiên động địa”, đến thủng màng nhĩ ngƣời nghe. Một công phu nghiệt ngã nữa

là ngậm hơi nảy hột, cách để sức vang tự nhiên có thể đạt âm lƣợng và âm sắc

đầy đặn nhất, tạo thành giọng đặc thù của Chèo…”[36]

Nhiều nhà nghiên cứu Chèo cho rằng trong cái nôi dân ca đồng bằng Bắc

Bộ thì gần gũi với hát Chèo hơn cả là hát Xẩm. Chèo không chỉ mƣợn làn điệu

của Xẩm, mà còn dùng đúng tên của nhiều làn điệu Xẩm nhƣ: Xẩm Xoan, Xẩm

Dựng, Xẩm Thầy bói, Xẩm Huê tình, Xẩm Tàu điện... Theo nhà nghiên cứu

Chèo Hoàng Kiều, lối hát của Hề Chèo là lối hát của Xẩm.

Hề Chèo có nhiều làn điệu áp dụng cho từng vai, từng loại hề nhƣ: Sắp hề

Gậy, hề Mồi, hề Nhất, hề Nhị, hề Tam, hề Tứ, hề Chanh, hề Chóp, hề Áo Dài, hề

Cu Sứt, hề Thày Bói, hề Mõ... song đều có chung một phong cách, một phƣơng

pháp hát. Nét nổi bật nhất là cách nhả chữ, vuốt, nhấn, bật chữ, thả hơi nhằm đạt

tính cách điệu hàm chứa trong nội dung diễn xuất. Nhƣ trong điệu Hề Mồi Cu

Cậu, câu cuối hát nói trƣớc khi vào nhịp: “... cho tôi, tôi bƣớc chân đi lấy

chồng...”

Điệu Hề Mồi

Page 66:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

66

Chữ Lấy kéo từ dƣới lên, vuốt giọng, chữ chồng kéo xuống và thả hơi lên

mũi. Khi vào nhịp, thân bài hát (làn điệu), chữ Gái ở phách hai của ô nhịp thứ 5

và chữ chồng kéo trƣợt quãng 3 xuống, thả giọng, mở ngân sang âm a. Làn điệu

nhắc lại cả câu đầu nhƣ một đoạn điệp khúc rồi chuyển điệu sang màu Thảm,

gam hơi tối và buồn. Cách hát thay đổi theo, chất hài đƣợc thay cho chất man

mác, tâm sự. Chữ đƣợc kéo vào trong, không nhấn và vuốt giọng nữa.

Phƣơng pháp hát giống Xẩm trở thành nét đặc trƣng trong hệ thống các

làn điệu hề Chèo mang đậm tính hài hƣớc. Nhƣ trong câu có cô là cô con gái

đƣợc nhắc lại hai lần, mở đầu làn điệu Hề Mồi đồn rằng. Chữ gái đƣợc vuốt

ngƣợc lên phía trên, toàn chữ đƣợc ép đẩy ra phía trƣớc, âm thanh mỏng và

khép.

Điệu Hề Mồi Đồn Rằng

Cách nhả chữ của Xẩm có cƣờng độ mạnh tạo cảm giác thô ráp, thủng

thẳng “hát tiếng một” làm cho Xẩm đặc biệt không giống với bất cứ một loại

hình ca hát dân gian nào.

Muốn bộc lộ đƣợc bản chất của nghệ thuật hát Xẩm phải hát bật thanh và

nhấn vào phụ âm đầu mở chữ, đạt độ cao của giai điệu (dân gian gọi là cắn chữ).

Cũng từ đặc điểm này, Xẩm cho ngƣời nghe có cảm giác về chu kỳ cấu âm tiếng

Việt đƣợc tiến hành đồng thời nhƣ nói, rõ tiếng một.

Hát Tiếng Một của Xẩm thể hiện rất rõ, nốt hoa mỹ và nghệ thuật luyến,

láy, vuốt giọng nhẹ đƣợc giảm tới mức tối đa. Nghệ nhân Xẩm thủng thẳng nhả

chữ giãi bày mộc mạc nhƣ nói. Một đặc trƣng nữa trong nghệ thuật hát Xẩm là

cách hát nhấn vào chữ, kéo âm từ cao xuống thấp hoặc từ thấp lên cao (nó trở

thành nét nổi bật khi đƣợc đƣa vào Chèo).

Page 67:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

67

* Một số đặc điểm chính của Xẩm:

- Hát hơi ngoài giống Chèo

- Vận hơi ngực, cổ họng bật thanh đạt độ vang, rền.

- Thả hơi nhấn chữ

- Không dùng âm i và các nguyên âm phụ trợ khác sau chữ để tạo vang

nhƣ Chèo, mà sau khi đóng chữ giữ dƣ âm của nguyên âm mở (đỉnh chữ) tạo độ

nhuyễn cho câu hát.

- Làm chậm nhịp độ khởi-mở-đóng chữ gọi là đai từ ở một số từ chính.

- Kéo dài quá trình đóng chữ.

- Nhả chữ với cƣờng độ mạnh tạo cảm giác thô ráp, không trau chuốt,

thủng thẳng hát tiếng một làm cho Xẩm đặc biệt không giống với bất cứ một loại

hình ca hát dân gian nào.

- Nếu hát không bật thanh và nhấn vào phụ âm đầu mở chữ, đạt độ cao của

giai điệu (dân gian gọi là cắn chữ) thì sẽ không bộc lộ đƣợc bản chất của nghệ

thuật hát Xẩm.

- Cách hát nhấn vào chữ, kéo âm từ cao xuống thấp hoặc ngƣợc lại.

Những làn điệu trữ tình có nhịp độ vừa phải hoặc chậm (Đƣờng Trƣờng,

Vãn, Thảm...) thƣờng là lối cất thanh, nhả chữ nhẹ nhàng, trau chuốt, liền hơi,

kết hợp với hơi nảy và hơi hạt, đóng chữ, kín miệng, tròn vành, rõ chữ. Những

kỹ thuật này cũng đƣợc áp dụng cho các làn điệu có nhịp độ nhanh (Sử băng, Hát

cách, Cấm giá, Lới lơ...). Những đặc trƣng nêu trên của nghệ thuật hát Xẩm đƣợc

sân khấu Chèo ứng dụng và khai thác triệt để.

Chèo - sân khấu kịch hát truyền thống chứa đựng nhiều dòng, nhiều ngôn

ngữ ca hát dân gian khác nhau từ hát Cửa đình, hát Nhà chùa, Xoan, hát Ghẹo,

hát Dậm, hát Xẩm đến hát Ví, hát Đúm… song có tính cách và ngôn ngữ riêng vì

Chèo có phƣơng pháp hát độc lập dựa trên phát âm tiếng Việt phổ thông cùng

quan niệm thẩm mỹ của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những yếu tố tạo

Page 68:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

68

thành đặc trƣng nghệ thuật hát Chèo nhƣ: Hát hơi ngoài, giọng tự nhiên, khẩu

hình bẹt, hát kín miệng, tạo vang bằng sự pha trộn giữa hơi cổ, hơi ngực và hơi

mũi, rung giọng chỉ xẩy ra ở từ đệm có kết hợp với hơi nảy và hơi hột, lơi nhịp

gọi là Nhịp ngoại, luyến láy, nhƣng tròn vành rõ chữ… Tất cả những yếu tố đó

đƣợc thể hiện trong hai từ Hơi Chèo.

Tóm lại, tìm hiểu cách xử lý tiếng Việt trong nghệ thuật hát Chèo để tìm

ra biện pháp khả thi, kết hợp phƣơng thức nhả chữ truyền thống với phƣơng

pháp thanh nhạc của nghệ thuật hát Mới, ứng dụng vào trong đào tạo, giảng dạy

thanh nhạc trong nhà trƣờng nhằm hát tiếng Việt trong các tác phẩm thanh nhạc

sao cho tròn vành, rõ chữ, bảo đảm đúng yêu cầu của ngôn ngữ tiếng Việt,

truyền đạt đầy đủ thông tin chứa đựng trong ca từ, tới ngƣời nghe, đạt tiêu chí

hát đẹp, giàu sáng tạo và giàu sức biểu cảm của nghệ thuật thanh nhạc Việt Nam.

c) Hát Tuồng:

Tuồng (còn gọi Hát Bội hay Hát Bộ) cho tới nay đã có trên dƣới 7 thế kỷ

hình thành và phát triển. Sân khấu ca kịch Tuồng phát triển rực rỡ nhất vào thế

kỷ XIX. Từ hình thức nghệ thuật cung đình, Tuồng lan rộng trở thành nghệ thuật

ca kịch phổ cập.

Với những phát hiện của các nhà nghiên cứu có thể thấy nghệ thuật hát

Tuồng nảy sinh và phát triển từ tiếng Việt. Cùng với sự phát triển của tiếng Việt,

sự phân hoá thành các phƣơng ngữ đã khiến ngôn ngữ âm nhạc Tuồng có thêm

những phong cách, màu sắc khác nhau. Cũng chính từ những bản ngữ phƣơng

ngữ còn lƣu giữ trong phát âm nhả chữ của hát Tuồng, các nhà nghiên cứu có thể

tìm ra nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của bộ môn nghệ thuật kịch

hát này.

Hát Tuồng có những quy định kỹ thuật chặt chẽ tuy không thành văn,

nhƣng đƣợc lƣu truyền, đƣợc lấy làm “khuôn vàng thƣớc ngọc” để luyện tập cho

các thế hệ nghệ nhân Tuồng từ vài trăm năm nay.

Page 69:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

69

Một số qui định kỹ thuật nhƣ:

- 4 điều cấm kỵ: Trại, Bẹ, Hƣớt, Chát

- 2 diều ghi nhớ để không mắc phải: Đực, Điệp, Đếm, Cấn

Khái niệm Trại, Bẹ liên quan đến thanh điệu. Nghệ thuật hát Tuồng nói

riêng và nghệ thuật ca hát truyền thống nói chung đều coi thanh điệu là yếu tố cơ

bản của tiếng Việt. Với hai thanh dấu hỏi và ngã, ở nghệ thuật Tuồng rất đƣợc đề

cao, thầy Tuồng Nguyễn Nho Tuý cho rằng: “ thanh dấu hỏi... Tuồng đã ấn định

từ xƣa là khi phát âm ra thì xuất phát từ giọng không dấu (thanh ngang) rồi dẫn

lên thanh dấu sắc rồi rảy giọng gọn gàng...

Nói Lối / Đào Tam Xuân

Thanh dấu ngã khi phát âm ra thì nhấn giọng xuống gần hƣớng dấu nặng

rồi dẫn giọng lên hƣớng dấu sắc rồi ngắt giọng trọn vẹn...” [40, tr.3].

“Rảy” đƣợc hiểu là kỹ thuật vuốt giọng lên khi đạt độ cao cần thiết của

thanh dấu hỏi thì vuốt xuống, khép chữ, đóng tiếng đúng quy luật phát âm tiếng

Việt.

Khái niệm Hƣớt, Chát dùng để chỉ những khiếm khuyết khi phát âm

(nguyên âm, phụ âm). Thí dụ: vô duyên > dô duyên. Tƣơi cƣời > tƣ cừ. Thôi thối

> thui thúi. Quất > guất. Tƣơi > tơi. Nó > noá...

Page 70:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

70

- Trại, Bẹ, Hƣớt, Chát là 4 điều cấm kỵ liên quan đến phát âm tiếng Việt

giúp ngƣời hát tránh bệnh ngọng và đạt đƣợc yêu cầu của nghệ thuật ca hát

Tuồng đòi hỏi.

- Đực: hát đờ đẫn, vô hồn, “… nói, hát không đúng với ngữ ngôn và âm

luật sân khấu gọi là Đực.”

- Đếm: hát nói nhƣ đếm, đều đều.

- Cấn và Điệp: hai từ chỉ hai khái niệm giống nhau giúp ngƣời hát xử lý ca

từ chuẩn xác và tinh tế.

Khi nhắc lại - Điệp cùng một từ không đƣợc giống nhau (nhắc lại đơn

điệu). Với khái niệm Cấn (hay mắc), ngƣời hát Tuồng tạo cho câu hát rền, tạo

cảm giác hài hoà trong giai điệu của làn điệu Hát Khách: Ngƣời xƣa đâu…

Hát Khách

Mặc dù không dùng từ đệm (ƣ hƣ hay i hi) song khi nhả chữ, ngƣời hát

biết tạo giai điệu cho câu hát, tránh đƣợc Cấn hoặc mắc, hát không đơn điệu, hát

nhƣ đếm - gọi là Đực.

Để tránh Đực, Điệp, Cấn nghệ thuật biến thanh của hát Tuồng là nghệ

thuật khá đặc trƣng trong nghệ thuật nhả chữ tiếng Việt. Chẳng hạn hai từ mai

ngày một từ ở thanh ngang (thanh không dấu), một từ ở thanh dấu huyền nhƣng

khi hát thƣờng đƣợc bắt đầu từ cao xuống (thƣờng quãng 3, 4)

Nghệ nhân Tuồng hát Dứt (ngắt) với cƣờng độ lớn và dứt khoát thƣờng

dứt trƣớc nhẹ hơn ngắt sau, tuân theo luật Tiền bần hậu phú (trƣớc nhẹ sau

Page 71:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

71

mạnh) để tránh lỗi Điệp - nhắc lại đơn điệu. Kỹ thuật này khiến diễn viên dễ

dàng thể hiện tâm trạng, địa vị, tƣ thế, tính cách của nhân vật.

Trải trên dƣới 700 năm hình thành và phát triển, hƣng thịnh nhất vào TK

18, 19, Tuồng đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật sân khấu kịch hát cách điệu. Để

đạt đỉnh cao đó không chỉ có vũ điệu, hóa trang, phục trang, đạo cụ, động tác

diễn, mà nghệ thuật hát Tuồng có những chuẩn mực khá khắt khe về phát âm nhả

chữ. Cùng những phƣơng pháp luyện cho tròn vành, rõ chữ thì các kỹ thuật gọi

là luyến, láy, rung, ngắt... cũng đã đƣợc đúc kết, phân loại.

Nhƣ vậy muốn hát cho ra Tuồng trƣớc tiên phải luyện tập kỹ tiếng Việt,

phải nắm đƣợc quy luật của thanh điệu, của âm tiết, của nguyên âm, phụ âm. Từ

thanh điệu ngƣời hát sử dụng các kỹ thuật nhả chữ, láy, luyến giúp câu hát không

bị gẫy gọi là Cấn. Không Cấn mới đạt đƣợc độ vang, rền của câu hát. Tuồng

cũng nhƣ các loại hình ca hát truyền thống khác đều không lấy vang của chính từ

đó, có nghĩa là không mở rộng nguyên âm chính của từ, mà tạo vang bằng

nguyên âm đồng dạng hoặc tƣơng xứng dƣới hình thức âm đệm lót (ƣ, hƣ, i,

hi…). Đóng mở âm dựa trên nguyên lý cấu âm tiếng Việt đã đƣợc quy định chặt

chẽ trong Tuồng bằng các điều cấm kỵ: Trại - Bẹ - Hƣớt - Chát, giúp cho diễn

viên Tuồng hát rõ, tròn chữ. Những điều này trở thành mực thƣớc chung khi hát

các làn điệu và bài bản Tuồng.

Để đẩy tính Bi - Hùng và tính hài hƣớc lên mức cao nhất, nghệ nhân sân

khấu Tuồng đã tìm và đặt vị trí âm thanh vào sâu phía trong cổ họng và ngực.

Cũng âm ƣ, hƣ, i Ca Trù gằn trong cổ họng, còn Tuồng nén sâu, tạo màu sắc tối

và thêm kỹ thuật rung giọng chậm. Kỹ thuật thanh nhạc đặc trƣng của nghệ thuật

Tuồng khiến nó trở thành sân khấu kịch hát truyền thống vừa mang tính dân gian

vừa mang tính bác học với những quy định khá chặt chẽ của nghệ thuật ca hát,

dựa trên cách xử lý tiếng Việt một cách tế nhị, tinh tế.

Page 72:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

72

Tìm hiểu những qui định kỹ thuật trong phát âm nhả chữ của nghệ thuật

hát Tuồng với mong muốn qua đó học tập và vận dụng vào nghệ thuật hát Mới

để xử lý tốt ngôn ngữ tiếng Việt trong các tác phẩm thanh nhạc Việt Nam. (Cần

tránh một số nhƣợc điểm của lối hát Tuồng khi áp dụng vào cách hát mới: gằn

tiếng, gào thét…).

1.3 Tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới:

Ca hát ở dân tộc nào trên thế giới cũng phải xử lý tốt ngôn ngữ của dân tộc

ấy, cách phát âm đều kết hợp chặt chẽ, khéo léo đặc điểm của dân tộc ấy. Để

đảm bảo đƣợc rõ lời, phƣơng pháp ca hát của mỗi dân tộc đều phải gắn liền với

tiếng nói dân tộc mình. Tròn vành rõ chữ là sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật

âm nhạc với tiếng nói dân tộc và mọi đặc điểm ngữ âm dân tộc trong nghệ thuật

âm thanh của giọng hát.

Hát Mới ra đời cùng phong trào Tân Nhạc từ cuối những năm 30 và sớm

phát triển thành trào lƣu ở những năm trƣớc Cách mạng tháng Tám.

Tân Nhạc ra đời đòi hỏi phải có lối ca hát thích hợp vì vậy hát Mới ra đời.

Hát Mới sử dụng giọng Bắc - giọng Hà Nội làm cơ sở và giọng Hà Nội trở thành

giọng chuẩn của nghệ thuật hát Mới. Sự công nhận không thành văn này đƣợc

tôn trọng giống nhƣ hát Cải lƣơng bằng giọng Nam Bộ; hát Chèo, Ca Trù, Quan

Họ hát giọng Bắc; ca Huế giọng Huế; Ví dặm giọng Nghệ An - Hà Tĩnh; Hò bài

Chòi giọng Quảng…

Phát âm, nói chuẩn sẽ giúp hát chuẩn. Hát là khuếch đại, cƣờng điệu một

cách nghệ thuật âm thanh lời nói. Nếu giọng nói rè, ngọng, ngắn lƣỡi, lắp, lẫn

lộn vần, lẫn lộn thanh điệu, khi cất tiếng hát, tức khuyếch đại những khuyết tật

ấy lên sẽ cho những âm thanh xấu, không hay. Không ít phát thanh viên, truyền

hình viên, những ngƣời dẫn chƣơng trình trên các sóng phát thanh truyền hình

hiện nay, do không qua các lớp đào tạo về ngữ âm, luyện nói nên thƣờng mắc

phải những khiếm khuyết rất sơ đẳng về phát âm tiếng Việt. Nhiều ca sĩ do

Page 73:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

73

không chú ý, hoặc thiếu kiến thức về phát âm tiếng Việt phổ thông đã nhầm lẫn

phụ âm đầu, rõ nhất là hai phụ âm kép ch và tr (“...thế là chị ơi...” chữ chị thành

chữ trị - Chị tôi của Trọng Đài).

Hát Mới là bộ môn nghệ thuật thanh nhạc non trẻ gắn liền với tiếng Việt

phổ thông lấy kỹ thuật thanh nhạc của ngôn ngữ đa âm, đơn thanh (lối hát mở)

đối lập với ngôn ngữ Việt đơn âm, đa thanh (lối hát khép). Vì vậy để hát "tròn

vành rõ chữ” tiếng Việt cần bắt đầu từ luyện nói tiếng Việt phổ thông. Xử lý

đúng qui luật chuyển động, phối hợp các âm (nguyên âm, phụ âm) đóng mở của

các từ, xử lý phát âm cùng với thanh dấu. Luyện nói, luyện phát âm tiếng Việt là

những bài tập hỗ trợ cho quá trình học hát, giúp cho ngƣời hát nhả chữ đúng,

chuẩn, cách điệu mà không làm biến dạng, mất giọng, sai nghĩa của từ, mất bản

sắc dân tộc của ngôn ngữ.

Trong “Những cơ sở khoa học của một nền thanh nhạc dân tộc” của Văn

Cẩn cũng cho rằng: “các dòng ca hát Việt nam nói chung phải tuân thủ nguyên

lý cấu âm tiếng Việt (ngữ âm học) và phải chống sự lai căng, nô lệ trong phƣơng

pháp và trong cách phát âm ngôn ngữ (tiếng Việt)”[4].

Nhiều lớp học sinh thanh nhạc sau nhiều năm theo học tại các trung tâm

đào tạo âm nhạc và sinh sống ở Hà Nội, không ít ngƣời trong số họ trở thành ca

sĩ nổi tiếng, nhƣng khi hát họ vẫn bộc lộ nhiều nhƣợc điểm về phát âm tiếng Việt

phổ thông. Nguyên nhân có thể vì tiếng địa phƣơng mang tính vùng miền của họ,

cũng có thể do đào tạo chƣa thực sự chú ý đến phát âm tiếng Việt. Để nâng cao

chất lƣợng hát tiếng Việt ngƣời hát cần hiểu, nắm vững những kiến thức cơ bản

về cấu trúc âm thanh của tiếng Việt để giải quyết chúng.

1.3.1 Một số khó khăn của tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới:

a) Cấu âm tiếng Việt:

Tiếng Việt với cấu trúc 6 thanh và đơn âm tiết (chƣơng I). Đơn âm tiết tức

là mỗi âm tiết đứng độc lập, tƣơng ứng với một từ. Không có nối âm, không nuốt

Page 74:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

74

âm nhƣ những ngôn ngữ đa âm tiết. Mỗi âm tiết, hay mỗi từ của tiếng Việt đƣợc

cấu tạo: Âm đầu, âm giữa (đỉnh âm) âm cuối và thanh điệu. Quá trình tạo thành

âm phải diễn ra đồng thời, các thành phần của âm tiết không đƣợc tách rời nhau

(chữ thanh không đƣợc tách rời thành th-a-nh). Để có âm thanh cần phải mở

rộng nguyên âm của từ. Nguyên âm a trong từ thanh nếu mở quá lớn, làm chậm

tiến trình đóng chữ ở phụ âm nh sẽ khiến từ thanh bị biến dạng, có thể đổi nghĩa

(tha--nh hoặc tha-a).

Đóng từ, đóng chữ có ƣu điểm rõ lời, rõ chữ, khi nói không có vấn đề gì,

nhƣng khi hát bị hạn chế, không khuyếch đại âm thanh, bởi nguyên âm quyết

định độ vang của từ, mà phải khép chữ tức phải đóng khẩu hình sớm, nên ảnh

hƣởng nhiều đến độ vang của chữ làm cộc và chết chữ. Đặc điểm nổi bật trong

tiếng Việt dễ nhận thấy nhất là từ đóng chiếm quá nửa. Có thể lấy bất cứ một ví

dụ trong ca từ của bất kỳ ca khúc nào cũng thấy rõ điều đó:

+) “Đêm nay trên đƣờng hành quân ra mặt trận…” (Bác đang cùng

chúng cháu hành quân - Huy Thục). Có 9 từ thì 8 từ đóng, chỉ có 1 từ mở (ra)

nhƣng lại diễn ra với trƣờng độ ngắn (nốt móc dật)

Bác đang cùng chúng cháu hành quân

+) “…Chân em bƣớc nhanh nhanh trên đƣờng làng…” (Em bé đi học

trƣờng làng - Trọng Bằng). Tất cả các từ trong câu đều là từ đóng.

Em bé đi học trƣờng làng

Page 75:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

75

+) “Việt Nam trên đƣờng chúng ta đi…” (Đƣờng chúng ta đi - Huy Du).

Cả câu có 1 từ mở (ta), 1 từ kết bằng nguyên âm nhƣng là nguyên âm đóng thu

đuôi (đi) .

Đƣờng chúng ta đi

Sáu thanh của tiếng Việt tác động lên toàn bộ âm vị và có ý nghĩa quyết

định tới diện mạo cấu trúc và ý nghĩa của từ. Thanh điệu làm thay đổi độ cao

(cao độ) của âm tiết. Trong cùng một từ, nếu thay đổi dấu (thanh điệu) sẽ thay

đổi nghĩa của từ (ca: cá, cà, cả, cã, cạ). Âm chính cùng với thanh điệu là 2 yếu tố

cơ bản, là trục chính của âm tiết tiếng Việt, do vậy trong lời của bài hát nếu đặt

lời ở cao độ không thích hợp sẽ xảy ra tình trạng gọi là trái dấu,“ngô thành

khoai” vì khi hát lên từ bị biến dạng đổi nghĩa.Ví dụ:

+) “Có hàng tre ru khỉ (khi) chiều về…” (Về quê - Phó Đức Phƣơng)

Về quê

+) “Năm anh em trên một chiệc (chiếc) xe tăng…” (Năm anh em trên một

chiếc xe tăng - Doãn Nho)

Năm anh em trên một chiếc xe tăng

+) Đập tan ngay bao đau khố (khổ) và chia ly… (Tình ca - Hoàng Việt)

Tình ca

Page 76:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

76

+) “Dâng cá (cả) bao ngƣời…” (Tình ca - Hoàng Việt)

Tình ca

+) Tiếng ai hò khoan vắng (vẳng) đƣa những câu tình ca… (con kênh xanh

xanh – Ngô Huỳnh)

Con kênh xanh xanh

+) Le bay, tiêu đoàn le báy (Lẻ bảy, tiểu đoàn lẻ bảy)… (Tiểu đoàn 307 -

Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Bính)

Tiểu đoàn 307

* Gây khó khăn cho ngƣời hát:

+) Buổi sáng em làm rẫy… (Bóng cây K’ nia - Phan Huỳnh Điểu)

Bóng cây K’nia

+) Đoàn giải phóng quân một lần ra đi… (Giải phóng quân - Phan Huỳnh

Điểu)

Giải phóng quân

Page 77:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

77

b) Phƣơng ngữ:

Nghệ thuật hát Mới gắn liền với tiếng Việt phổ thông (trừ một số trƣờng

hợp cần nhấn vào yếu tố phƣơng ngữ để làm tăng chất vùng miền do tác phẩm

đòi hỏi). Tiếng Việt phổ thông có nhiều điểm khác biệt với phƣơng ngữ miền

Trung và miền Nam… nhƣ các phụ âm nặng (tr, gi, s) dấu giọng, phụ âm đầu,

phụ âm cuối, nguyên âm chính. Không nắm vững tiếng Việt phổ thông sẽ dẫn tới

lỗi lẫn lộn phụ âm, biến âm, làm ảnh hƣởng đến việc chuyển tải thông tin chính

xác, đầy đủ ý nghĩa, nội dung của tác phẩm:

* Một số phụ âm đƣợc làm nhẹ hoá: S = X, TR = CH, GI - R = D

- “Sao (xao) anh lại ngỏ lời, vào một đêm trăng (chăng) khuyết, để bây

giờ (dờ) thầm tiếc một vầng trăng (chăng) không tròn (chòn)…” (Trăng khuyết -

Huy Thục)

Trăng khuyết

* Phát âm bị lẫn giữa i và y: Lai = Lay; Khay = Khai; Lạy = Lại…

+ “Nào bên nhau cầm tay (tai) ta lên đƣờng hạnh phúc...” (Bài ca hạnh phúc

- Văn An)

+ “Ai (Ay) về Thủ đô tôi gửi vài (vày) lời…” (Sẽ về Thủ đô - Huy Du)

Page 78:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

78

Sẽ về Thủ Đô

*Biến thể phụ âm đầu:

- V = D: Vài = Dài; Vay = Day;…

- H = Gu: Hoạ hoằn = Goạ guằn; Hoe = Guoe; …

- Qu = Gu: Quyền = Guyền; Quê hƣơng = Guê hƣơn;…

+ “Quê hƣơng (Guê hƣơn) là chùm khế ngọt…” (Quê hƣơng - Giáp Văn

Thạch)

Quê hƣơng

+ “Vƣợt (Dƣợt) Trƣờng Sơn bay vọng ra…” ( Miền am ơi! Chúng tôi đã

sẵn sàng – Lƣu Cầu)

Miền Nam ơi! Chúng tôi đã sẵn sàng

+ “Qua (Gua) bao gian (dzan) nguy xe vẫn (dzẫng) vƣợt (đzƣợc) lªn…”

(Tôi ngƣời lái xe – An Chung)

Tôi ngƣời lái xe

* Âm cuối bị biến âm:

Âm cuối là nguyên âm hoặc bán nguyên âm:

- Ao thành Ô: Gạo = Gộ …

Page 79:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

79

- U thành Âu: Đu đủ = Đâu đẩu…

- A thành E: Má = Mé ; Ghi-ta = Ghi-te…

- Oa thành Oe: Loá = Loé; Khoá = Khoé…

- Ô thành U: Tôi = Tui…

- E thành IE, EƠ: Mẹ = Mịe = Mẹơ; Sẽ = Sĩe = Sẽơ…

- EO thành IEO: Theo = Thieo…

+ “Tôi (Tui) lại nhìn nhƣ đôi mắt trẻ thơ…” (Tổ quốc tôi chƣa đẹp thế bao

giờ - Nguyễn Văn Thƣơng)

Tổ quốc tôi chƣa đẹp thế bao giờ

+ “Nắng (Néng) vẫn đỏ mận, hồng, đào cuối vụ…” (Gửi nắng cho em - Phạm

Tuyên)

Gửi nắng cho em

+ “Mẹ (mịe) thƣơng con có hay chăng…” (Mẹ yêu con - Nguyễn Văn Tý)

Mẹ yêu con

+ “Đêm đêm trăng lên theo (thieo) dòng buồm căng gió xuôi…” (Con kênh

xanh xanh - Ngô Huỳnh)

Con kênh xanh xanh

Page 80:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

80

Âm cuối là phụ âm:

- T thành C : Đất = Đấc ; Phất = Phấc…

- Ng thành N: Hƣơng = Hƣơn…

- N thành Ng: Lƣơn = Lƣơng; Nhân dân = Nhâng dâng…

- N thành Nh: Mênh mông = mên mông…

+ “Đất (đấc) nƣớc tôi thon thả giọt đàn bầu…” (Đất nƣớc - Phạm Minh Tuấn)

Đất nƣớc

+ “Vì nhân dân (nhâng dâng) quên mình…” (Vì nhân dân quên mình -Doãn

Quang Khải)

Vì nhân dân quên mình

+ “Ơi mênh mông (mên mông) sóng xô du thuyền ta xa bờ…” ( Xa khơi -

Nguyễn Tài Tuệ)

Xa khơi

* Biến thể cả âm đầu và âm cuối: Vẫn = Dẫng ; Vƣợt = Dƣợc…

+ “Vui (Dui) hát ca hoà vui (dui) hát ca …” (Sông Lô - Văn Cao)

Sông Lô

Page 81:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

81

* Biến thể thanh điệu:

- Dấu hỏi ( ? ) thành dấu ngã ( ~ ) : Những = Nhửng…

- Dấu hỏi (? ) thành dấu nặng ( . ): Ngủ = Ngụ…

- Dấu ngã ( ~ ) thành dấu nặng ( . ): Ngã = ngạ…

- Dấu sắc (’) thành dấu nặng ( . ): Rứa = Rửa…

- Dấu sắc (’) thành dấu hỏi ( ? ): Đó = Đỏ…

+ “Con kênh xanh xanh những (nhửng) chiều êm ả (ã) lƣớt trôi…” (Con

kênh xanh xanh - Ngô Huỳnh)

Con kênh xanh xanh

+ “Ngủ (ngụ) ngoan a kay ơi! Ngủ (ngụ) là ngoan a kay ơi!...” (Lời ru trên

nƣơng - Trần Hoàn)

Lời ru trên nƣơng

+ “Khi hát (hảt) lên tiếng (tiểng) ca gửi (gựi) về ngƣời yêu quê ta…” (Tình

ca - Hoàng Việt)

Tình ca

Chính những điểm khác biệt về phát âm nhƣ vậy nên trong giảng dạy cũng

nhƣ biểu diễn, giảng viên cũng nhƣ ca sĩ khi dạy, khi hát phải sửa tiếng địa

phƣơng, phát âm theo tiếng Việt phổ thông (tiếng Bắc - tiếng Hà Nội) nhằm

nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt.

Page 82:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

82

d) Nhƣợc điểm trong sáng tác cho thanh nhạc:

Tác phẩm thanh nhạc (âm nhạc có lời) gồm âm nhạc và lời ca. Giai điệu

hay, lời ca đẹp kết quả sáng tạo của tác giả lời và tác giả nhạc - thƣờng gọi chung

là ngƣời sáng tạo số một. Song âm nhạc cần phải đƣợc vang lên. Để âm nhạc

vang lên cần đến những ngƣời sáng tạo kế tiếp - Ca sĩ đóng vai trò quan trọng và

đƣợc coi là ngƣời sáng tạo thứ hai.

Vì âm nhạc gắn liền với lời ca nên nội dung và giá trị nghệ thuật của tiếng

hát là sự thống nhất giữa nhạc và lời. Một bài hát hay phụ thuộc vào âm nhạc và

ca từ, phần âm nhạc hay mà phần lời đặt ở những vị trí làm sai dấu giọng, những

từ khó, từ đóng (âm cuối là phụ âm) đặt ở nốt cao, ngƣời hát không phân đƣợc

câu để lấy hơi… gây khó khăn, cản trở cho ngƣời hát, làm sai nghĩa của từ, làm

cho hát ngọng… là giảm giá trị nội dung văn học, ý nghĩa nghệ thuật của tác

phẩm. Ví dụ:

* Trái dấu:

+ “Chiến sĩ ta dầm mƣa dải (dãi) nắng…”(Bài ca may áo - Xuân Hồng)

Bài ca may áo

+ “…Lời hát mến yêu muồn (muôn) đơi (đời)…” (Nắng ấm về trên Tổ quốc -

Trần Khánh)

Nắng ấm về trên Tổ quốc

* Một hơi dài không phân đƣợc câu để lấy hơi:

+ “Làn gió thơm hƣơng đêm về quanh khu nhà tôi mới cất xong chiều qua…”

(Những ánh sao đêm - Phan Huỳnh Điểu)

Page 83:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

83

Những ánh sao đêm

* Từ đặt ở nốt cao làm sai dấu giọng:

+…Xây cho nhà cao cao mái (mãi)… (Những ánh sao đêm - Phan Huỳnh

Điểu)

Những ánh sao đêm

* Từ đóng đặt ở nốt cao

+…Lo nƣớc ấy phải đắp bờ (tình tình ơi này) lo nƣớc ấy phải đắp bờ… (Bài

ca năm tấn - Nguyễn Văn Tý)

Bài ca năm tấn

Nguyên nhân thì có nhiều nhƣng một phần không nhỏ cũng do tác giả

(nhạc và lời) chƣa thật sự lƣu tâm đến tiếng Việt, đến những đặc trƣng cơ bản

của tiến trình đóng, mở âm, cấu trúc âm (Khởi - mở - đóng từ, thanh điệu) cũng

nhƣ một số đặc điểm khác của tiếng Việt nhƣ đóng, khép, bẹt, nhiều âm mũi, vị

trí âm thanh mỏng do phát âm ở ngoài (Chèo gọi là hát hơi ngoài)... Và đó cũng

chính là những khó khăn của nghệ thuật hát Mới. Khi hát, ngƣời hát phải làm sao

khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm của ca từ với giàng buộc của phát âm tiếng

Việt, của những lỗi khó sửa trong nguyên bản tác phẩm để hát tròn vành, rõ chữ

chuyển tải đƣợc cả tình cảm, nội dung mà vẫn đảm bảo âm thanh vang, sáng.

Muốn có đƣợc một tác phẩm hoàn thiện từ sáng tác đến biểu diễn nhƣ vậy, theo

nhạc sĩ Hoàng Kiều, ở Trung Quốc ngƣời học sáng tác (thanh nhạc) phải học cả

Page 84:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

84

hát. Trong trƣờng hợp những tác phẩm có lỗi nhƣ trên thì ngƣời hát cần học

những kinh nghiệm của nghệ nhân cũng nhƣ những kinh nghiệm của bản thân đã

đúc kết đƣợc từ thực tiễn để xử lý.

Nghệ thuật hát Mới (hát Mở), nghệ thuật của khuyếch đại âm thanh, đồng

nhất âm thanh nguyên âm nhằm đạt tới độ vang, khoẻ dễ dàng thể hiện những ca

khúc, những tác phẩm mang tính hùng tráng, ngợi ca. Với những ca khúc nghệ

thuật trữ tình ngƣời hát có thể pha trộn cách phát âm nhả chữ của nghệ thuật ca

hát truyền thống và nghệ thuật hát Mở - phát âm mềm mại, uyển chuyển nhƣng

vẫn thể hiện đƣợc độ vang thích hợp. Những ca khúc mang âm hƣởng dân ca,

mang tính vùng miền ngƣời hát phải tìm hiểu ca khúc đó viết theo thể loại, âm

hƣởng gì để phát âm, nhả chữ, luyến láy, rung, nhấn… theo thể loại và lối phát

âm nhả chữ của địa phƣơng đó để thể hiện ra đƣợc “chất” hay “màu sắc” vùng

miền và tinh thần của tác phẩm.

1.3.2 So sánh kỹ thuật phát âm - nhả chữ của nghệ thuật ca hát truyền

thống và nghệ thuật hát Mới:

a) Kỹ thuật phát âm - nhả chữ của nghệ thuật ca hát truyền thống:

Dân ca, sân khấu kịch hát truyền thống nói chung là sản phẩm của tiếng

Việt. Từ chức năng giao tiếp, chuyển tải thông tin, phản ảnh tƣ duy và cảm xúc,

tiếng Việt đƣợc nhào nặn, tái tạo, cách điệu trở thành ngôn ngữ nghệ thuật mang

những đặc trƣng, tƣ tƣởng, ý tƣởng thẩm mỹ cao. Tiếng Việt trong nghệ thuật ca

hát và tiếng Việt trong đời sống song song tồn tại, bổ sung cho nhau làm cho

tiếng Việt ngày càng phong phú. Cũng từ đó bản sắc văn hoá dân tộc không

ngừng đƣợc nâng cao. Vì vậy với bất kỳ dòng ca hát truyền thống nào từ hát

Xoan, hát Ghẹo, Quan Họ Bắc Ninh, hát Dặm, hát Đúm, hát Ví... đến Ca Trù,

hát Chèo, hát Tuồng, Cải lƣơng... ca từ và diễn đạt ca từ đều đƣợc đặc biệt chú ý,

quan tâm. Để hát tốt tiếng Việt nghệ nhân đặt ra tiêu chí: Tròn vành, rõ chữ. Để

Page 85:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

85

nghệ thuật hoá tiếng nói - ngôn ngữ Việt trong nghệ thuật ca hát, nghệ nhân nói

chung đều dựa trên tiêu chí vang, rền, nền, nảy…

Sáu thanh điệu của tiếng Việt đem lại cho tiếng Việt khả năng tự nhiên tạo

thành giai điệu vì vậy ngƣời nƣớc ngoài thƣờng nói ngƣời Việt “nói nhƣ hát”.

Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của thanh điệu, nghệ nhân Tuồng đã đề ra các

quy định chặt chẽ để xử lý, sáng tạo và biến hoá nó, tạo những nét đặc trƣng

không bị trộn lẫn các loại hình nghệ thuật với nhau…

Ngoài kỹ năng xử lý, sáng tạo, biến hoá thanh điệu, còn có kỹ năng bật từ,

khởi thanh, nhả chữ, đóng chữ:

Khởi từ là bƣớc tạo âm thanh ban đầu, với nghệ nhân khởi thanh, nhả chữ,

đóng chữ (khép từ) có một ý nghĩa đặc biệt. Để có âm thanh ngọt ngào theo lối

hát hơi ngoài của Chèo, âm nén gừ gừ trong cổ họng của Ca Trù, âm bật lớn

nuốt trong lồng ngực tạo chất bi hùng của Tuồng, âm nhấn thô xơ, tự nhiên của

Xẩm, nghệ nhân đã tạo ra những phƣơng thức khởi thanh khác nhau. Phụ âm và

nguyên âm làm nhiệm vụ khởi thanh và xác định đƣợc vị trí âm thanh của từ.

Tuy nhiên để tạo cảm xúc nghệ thuật, nghệ nhân có thể nhấn, có thể bóp méo

chữ ngay từ bƣớc bật hơi khởi thanh. Có thể thấy điều này trong cách nhả chữ

của Xẩm khi áp dụng cho các vai hề trong các vở Chèo.

Mở thanh bƣớc thứ hai của nghệ thuật nhả chữ. Mở thanh đòi hỏi phải biết

vị trí, màu sắc âm thanh của nguyên âm tiếng Việt. Mỗi ngôn ngữ có một màu

sắc riêng. Nguyên âm A, O, I, U... của tiếng Việt không giống với âm A, O, I,

U... trong tiếng Pháp, tiếng Italia... Độ mở của nguyên âm trong tiếng Việt còn

liên quan đến “tròn vành rõ chữ”. Mở thanh tạo vang cho câu hát, nghệ nhân hát

dân ca, Ca Trù, kịch hát truyền thống... nói chung luôn tìm cách giữ trƣờng độ

vang phù hợp với quy luật tạo âm của tiếng Việt. Và để vang rền cho chữ, cho

câu hát, các nghệ nhân đã tìm cách thay thế, bổ sung bằng các âm đệm lót tƣơng

ứng đứng sau từ chính nhƣ a, i, ƣ, u, ơi,...

Page 86:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

86

Ngoài ra nghệ nhân còn tạo ra nhiều kỹ thuật hát đặc biệt nhƣ hát nảy

(Vang, rền, nền, nảy) những kỹ thuật này không chỉ trong Quan Họ, Ca Trù,

Chèo và Tuồng tuy nhiên mức độ, vị trí sử dụng của chúng khác nhau đem lại

những giá trị nghệ thuật và xúc cảm, thẩm mỹ khác nhau của từng loại hình.

Kỹ thuật hát thẳng và rung giọng của nghệ thuật ca hát truyền thống không

bao giờ kết hợp giữa rung giọng với nhả chữ, từ chính của ca từ (kể cả từ đệm lót

nhƣ: tình bằng, này a, phú lý...). Rung giọng trong khi nhả chữ làm cho chữ đó bị

nhoè, không tròn trịa, tròn vành, rõ chữ. Rung giọng xuất hiện và mang màu sắc

khác nhau ở mỗi dòng nghệ thuật ca hát truyền thống nhƣ lối rung giọng chậm

trong Tuồng, rung giọng nhẹ, lăn tăn trong Chèo... Trong hát Quan Họ (cổ) hầu

nhƣ không rung giọng, chỉ có dứt và nảy (nảy hạt) - lối hát cổ truyền hợp với

tiếng Việt và giữ đƣợc chất tự nhiên của giọng hát.

Khép chữ hay đóng tiếng là bƣớc cuối của nhả chữ tiếng Việt. Hầu hết các

nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc và nghệ nhân đều cho rằng khép chữ, kín miệng

là lối hát truyền thống. Khép chữ, đóng tiếng có ƣu điểm rõ chữ, rõ lời, hát tiếng

nào ra tiếng nấy song âm thanh, cƣờng độ vang bị hạn chế, tầm cữ giọng không

đƣợc mở rộng. Âm nhạc truyền thống không có khái niệm mở rộng tầm cữ

giọng, phân loại giọng nhƣ hát Mới. Hát giọng thật và nghe giọng hát thật trở

thành thói quen thƣởng thức nghệ thuật ca hát của ngƣời Việt từ bao đời nay. Từ

nhu cầu tròn vành, rõ chữ, khép chữ, đóng tiếng nên có các quan niệm khác nhau

trong ca hát.

Nghệ thuật ca hát truyền thống có những điểm chính:

* Tròn vành rõ chữ:

- Đóng chữ, kín miệng. Hát tiếng một, khép (đóng) chữ để tròn vành, rõ

chữ nhƣng không lộ miệng.

- Hát thẳng, rung giọng sau nhả chữ.

Page 87:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

87

- Nhịp độ và trƣờng độ (khởi - mở - kết) chữ gần với quy luật của phát âm

lời nói.

- Đặt vị trí âm thanh theo quy định của từng dòng ca hát (hát hơi ngoài của

Chèo, hát hơi gằn trong cổ họng của Ca Trù...)

* Phân loại giọng:

- Hát giọng thật.

- Không mở rộng tầm cữ giọng (vì không có thói quen nghe giọng giả)

- Phân loại giọng theo chất giọng: giọng Kim (vang sáng), giọng Thổ

(trầm ấm...)

* Kỹ thuật (Vang, rền, nền, nẩy):

- Không lạm dụng mở vang ở nguyên âm của mỗi từ.

- Dùng từ đệm lót tƣơng ứng tạo vang sau chữ (i, hi, a, ƣ, hƣ...)

- Hát liền hơi.

- Sử dụng các kỹ thuật phụ trợ nhƣ luyến, láy, nảy hạt (láy rúc - Tuồng), dứt

(ngắt, ngứt tiếng - Quan Họ) tăng độ vang và liền cho câu hát.

- Sử dụng âm khu vang tùy theo đặc điểm cấu trúc hình tƣợng nghệ thuật,

quan niệm thẩm mỹ của từng dòng ca hát dân gian (Chèo thiên về hộp vang trán,

khoang mũi, gọi là hát hơi ngoài. Ca Trù thiên về hộp vang má, vòm họng...).

- Cách điệu, mở rộng âm nhƣng không làm tổn hại đến từ gốc và mầu chữ.

*Hơi:

- Sử dụng hơi bụng và hơi ngực.

- Vận cơ hoành để có hơi thở sâu.

- Lấy hơi nhẹ, không đƣợc thô.

- Không chứa hơi nhiều.

- Nén giữ hơi phù hợp với câu hát.

Page 88:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

88

- Điều khiển hơi hợp lý để cho câu hát đƣợc đầy đặn, tròn căng, câu hát vang,

đẹp, dễ dàng xử lý âm thanh “Tiền bần hậu phú” (trƣớc nhỏ, sau to) theo quan

niệm của nghệ thuật thanh nhạc Tuồng.

b) Kỹ thuật phát âm - nhả chữ của nghệ thuật hát Mới:

Nghệ thuật hát Mới - nghệ thuật hát Mở gắn liền với tiếng Việt phổ thông,

lấy nghệ thuật hát Bel canto làm nền tảng đào tạo cũng nhƣ biểu diễn trong suốt

hơn 50 năm qua.

Nghệ thuật hát Bel canto ra đời ở Italia và một số nƣớc Tây Âu nhƣ Áo,

Đức, Pháp từ TK.XVII nhằm đáp ứng cho nghệ thuật sân khấu kịch hát Opera.

Việc đƣa kỹ thuật hát của một ngôn ngữ hoàn toàn khác vào hát ngôn ngữ nƣớc

mình - tiếng Việt (nghệ thuật hát của ngôn ngữ đơn âm, đa âm tiết) là một quá

trình đòi hỏi nhiều công phu, say mê và sáng tạo.

Nghệ thuật hát Bel canto - Nghệ thuật hát Mở là nghệ thuật hát của ngôn

ngữ đa âm, khi phát âm, nhả chữ quan tâm nhiều hơn đến trọng âm, các thành

phần khác trong một từ, trƣớc và sau trọng âm đều đọc lƣớt. Nối âm tiết này

sang âm tiết kia, nối âm của từ này sang từ kia:

- Like it đọc là Li_kit (Lai_kit)

- Love you đọc là Lo_veyou (lơ_viu)

Khi hát khẩu hình luôn mở (cả nguyên âm và phụ âm), mở rộng khuyếch

đại nguyên âm, kéo dài nguyên âm hết trƣờng độ của nốt rồi mới bật phụ âm nối

vào âm của nốt sau. Trong Những bài tập thực hành của Nicola Vaccaj ghi rất

rõ:

- Ma_nca so_lle_ci_ta (Manca sollecita)

- A_nco_rche s’a_gi_ti (An corche s’agiti)

Page 89:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

89

- Pa_lpi_ta pre_ssoa_lmo_rir (Pal pita presso al morir)

Hát chính xác nốt, không thêm nốt, luyến lên hoặc luyến xuống. Với kỹ

thuật “mở” chữ kết hợp với kỹ thuật hơi thở (thở ngực, ngực kết hợp với bụng,

ngực dƣới và bụng, thở bụng) làm âm lƣợng của âm thanh vang khỏe, tròn xốp

nhờ cộng minh, tầm cữ giọng đƣợc mở rộng có thể hát đƣợc rất cao hoặc rất

trầm, lột tả đƣợc tất cả những tâm trạng của các nhân vật vui, buồn, hài hƣớc…

trong các vở nhạc kịch (Opera) cũng nhƣ những Romance, những tác phẩm thính

phòng. Nghệ thuật hát Mở phân loại giọng và có những tác phẩm, những vai

diễn cho từng loại giọng: Soprano (nữ cao), Tenor (nam cao), Mezzo (nữ trung),

Baritone (nam trung), Alto (nữ trầm), Bass (nam trầm).

Với những đặc điểm trên, nói nghệ thuật hát Mới và nghệ thuật hát cổ

truyền đối lập nhau nhƣ âm với dƣơng là vì vậy. Ngƣời hát nếu không nắm vững

những đặc trƣng cơ bản của ngôn ngữ “đóng” hay ngôn ngữ “mở”, khi hát những

tác phẩm nƣớc ngoài: Italia, Pháp, Đức… (ngôn ngữ đa âm) nghe thành hát tiếng

Việt (ngôn ngữ đơn âm, đa thanh) khiến câu hát bị rời rạc, và không hiểu nghĩa

của từ, nội dung của tác phẩm. Hát tác phẩm tiếng Việt theo lối “mở chữ” sẽ

“tròn vành” nhƣng không “rõ chữ” hoặc đóng, khép chữ quá nhanh làm cho âm

thanh bị cộc, chết chữ, ít vang không hiệu quả về nghệ thuật. Ví dụ:

- Những tác phẩm nƣớc ngoài (ngôn ngữ đa âm):

+ Ba_lza (Balza) hát thành Bán zà (không mở nguyên âm a, khép ngay

phụ âm l, khép từng âm tiết theo lối phát âm tiếng Việt). Hoặc:

+ È du_nbe_lco_re (È dun bel core) hát thành È đun ben cô rê...

Page 90:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

90

- Những tác phẩm tiếng Việt (ngôn ngữ đơn âm, đa thanh):

+ Viê…t Na…m muô… na…m (Việt Nam muôn năm) Hoặc:

+ Ta..ơ đơ..ấng đờ..ù ngò.. so..ó (Ta đứng đầu ngọn sóng)... hát không

khép, đóng chữ theo đúng tiến trình cấu âm tiếng Việt (khởi, mở, khép chữ) mà

mở chữ nhƣ ngôn ngữ đa âm, dẫn đến tròn vành nhƣng không rõ chữ, rõ nghĩa

của từ.

Tuy nhiên những kinh nghiệm, kỹ thuật nhả chữ của dân ca và ca hát cổ

truyền đã có nhiều ảnh hƣởng đến việc hình thành, phát triển, cũng nhƣ thích

nghi, xử lý tiếng Việt của kỹ thuật hát Mới… Ngƣợc lại, kỹ thuật mở thanh, tròn

miệng của hát Bel canto cũng ảnh hƣởng tới nhiều lĩnh vực ca hát dân gian

truyền thống. Sự ảnh hƣởng qua lại của nghệ thuật hát truyền thống và nghệ

thuật hát Mới mang nhiều yếu tố tích cực.

Nghệ thuật hát Mới có những đặc điểm:

*Tròn vành, rõ chữ:

- Mở chữ, tròn môi, lộ miệng

- Chú ý đến trọng âm

- Nối âm này sang âm kia

* Phân loại giọng:

- Hát giọng pha, giọng cộng minh

- Mở rộng tầm cữ giọng

- Phân loại giọng: Soprano, Mezzo, Alto, Tenor, Baritone, Bass

* Vang, rền, nền, nảy:

- Khuyếch đại nguyên âm, tạo độ vang lớn

- Không dùng từ đệm lót, không tự ý thêm nốt luyến lên, luyến xuống

- Dùng hơi thở, cộng minh làm liền câu hát (legato), nảy (stacato)

*Hơi:

- Hơi thở ngực

Page 91:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

91

- Hơi thở ngực kết hợp với bụng

- Hơi thở ngực dƣới và bụng

- Hơi thở bụng

Page 92:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

92

Bảng so sánh

Nghệ thuật cổ truyền và nghệ thuật hát Mới

Kỹ

thuật

Nghệ thuật ca hát cổ truyền

Nghệ thuật hát Mới

Phát

âm,

nhả

chữ

- Đóng chữ kín miệng

- Khẩu hình hẹp

- Tròn vành, rõ chữ

- Khởi - mở - kết chữ gần với qui

luật của phát âm lời nói

- Không nối âm, hát tiếng một

- Lối hát kín miệng (hát khép)

- Mở chữ (cả phụ âm, nguyên

âm)

- Mở rộng khẩu hình

- Tròn vành, khó rõ chữ

- Khuyếch đại âm thanh

- Hát nối âm, chú ý đến trọng âm

- Lối hát lộ miệng (hát mở)

Phân

loại

giọng

- Hát giọng thật

- Không mở rộng tầm cữ giọng

- Phân loại giọng theo chất giọng:

+ Giọng Kim( nữ): vang sáng

+ Giọng Thổ( nam): trầm ấm…

- Hát giọng pha, giọng cộng

minh

- Mở rộng tầm cữ giọng

- Phân loại giọng:

+ Soprano, Mezzo, Alto (nữ).

+ Tenore, Baritone, Bass(nam)

Kỹ

thuật

(vang,

rền,

nền

nảy)

- Không lạm dụng mở vang ở

nguyên âm của từ

- Tạo vang ở sau chữ bằng các

nguyên âm, từ đệm lót (i, hi,a, ƣ,

hƣ, này a…)

- Sử dụng các kỹ thuật phụ trợ:

luyến, láy, nảy hạt ), dứt (ngắt,

ngứt)

- Hát thẳng, rung giọng sau khi

khép chữ (mỗi nghệ thuật có lối

rung khác nhau)

- Không theo khuôn mẫu

- Khuyếch đại nguyên âm, tạo độ

vang lớn

- Không dùng từ đệm lót, không

tự ý thêm nốt luyến, láy

- Dùng cộng minh, hơi thở làm

liền câu hát(legato), nảy(stacto)

- Âm thanh vang, rung cộng

minh trong khi nhả chữ

- Hát theo khuôn mẫu

Hơi

thở

- Sử dụng hơi bụng và hơi ngực

- Vận cơ hoành để có hơi thở sâu

- Không chứa nhiều hơi, nén giữ

hơi phù hợp với câu hát

- Lấy hơi nhẹ, không đƣợc thô

- Hơi thở ngực

- Hơi thở ngực - bụng

- Hơi thở ngực dƣới - bụng

- Hơi thở bụng

Page 93:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

93

TIỂU KẾT CHƢƠNG I

Ca hát sinh ra từ ngôn ngữ, là nghệ thuật gắn liền với ngôn ngữ. Ngôn ngữ

sinh ra từ nhu cầu giao tiếp và chuyển tải ý nghĩ, tình cảm từ cá nhân này sang cá

nhân khác, ngôn ngữ đã trở thành công cụ phản ánh thế giới khách quan, trở

thành phƣơng tiện giao tiếp và bộc lộ tình cảm của con ngƣời với con ngƣời. Ca

hát đƣợc cho là ngôn ngữ giao tiếp ở mức độ cao nhất.

- Đặc điểm, đặc trƣng cơ bản của tiếng Việt trong nói và hát :

+ Nhiều âm đóng, ít âm mở không thuận lợi cho hát

+ Hệ thống thanh điệu phong phú “ảnh hƣởng lớn đến cấu trúc, phân câu,

trọng âm và âm kết của câu nhạc và câu hát”.

- Mỗi ngôn ngữ có nghệ thuật ca hát riêng, màu sắc riêng. Muốn hát tốt

ngôn ngữ nào phải hiểu đặc điểm của ngôn ngữ đó. Vì vậy phải hiểu rõ tiếng

Việt mới khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm của ngôn ngữ tiếng Việt. Xử lý

ngôn ngữ tiếng Việt trong ca hát đóng vai trò quan trọng, quyết định đến việc

làm rõ lời, rõ nghĩa của từ, giúp cho ngƣời hát nhả chữ, nhả lời “tròn vành, rõ

chữ” làm đẹp ngôn ngữ tiếng Việt bằng chính giọng hát của mình, làm cho tiếng

hát Việt Nam có một vẻ đẹp riêng biệt.

- Hát Mới - hát Mở gắn liền với tiếng Việt phổ thông chú trọng đến mở

rộng đỉnh chữ (đỉnh âm) để tạo độ vang lớn theo chuẩn mực của nghệ thuật hát

cổ điển châu Âu và thế giới. Ngƣời hát trình bày những tác phẩm thanh nhạc

tiếng Việt nếu quá lạm dụng kỹ thuật lối hát Mở sẽ dẫn đến không rõ chữ, rõ lời

có nghĩa là phần nào đánh mất bản sắc của tiếng Việt, làm giảm chất lƣợng nghệ

thuật của tác phẩm thanh nhạc.

- Ca hát truyền thống Việt nam rất phong phú về số lƣợng, đa dạng về

ngôn ngữ và phong cách thể hiện độc đáo. Mỗi bộ môn nghệ thuật lại có phong

Page 94:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

94

cách, màu sắc, những ứng xử về ngôn ngữ rất riêng, mang tính tƣ duy và thẩm

mỹ độc lập. Tìm hiểu cách xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong dân gian và một số

nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp thuần Việt có ảnh hƣởng trực tiếp đến hát Mới

nhƣ: Ngâm thơ, Hát ru, Quan họ, Ca trù, hát Chèo, hát Tuồng, ứng dụng vào

giảng dạy, biểu diễn các tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt nhằm khắc phục những

khó khăn của ngôn ngữ bằng kỹ thuật luyến, láy, rung, nhấn... đạt đƣợc mục tiêu

vừa vang rền, vừa “tròn vành, rõ chữ”.

- Gần 60 năm hát Mới lấy nghệ thuật hát Bel canto - nghệ thuật hát của

ngôn ngữ đa âm - nghệ thuật hát Mở làm cơ sở đào tạo và biểu diễn đã đạt đƣợc

những thành tựu đáng khích lệ, song vẫn còn những vấn đề còn phải bàn luận về

xử lý ngôn ngữ tiếng Việt, kết hợp với kỹ thuật hát của ngôn ngữ đối nghịch với

ngôn ngữ nƣớc mình sao cho thích hợp, khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm của

ngôn ngữ và đạt đƣợc hiệu quả cao nhất về nghệ thuật biểu diễn ca hát những tác

phẩm thanh nhạc tiếng Việt.

Ứng dụng kỹ thuật thanh nhạc cổ điển châu Âu và thế giới vào giảng dạy

và biểu diễn những tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt, để tạo ra thanh nhạc Việt

Nam đƣơng đại là hƣớng đi đúng đắn. Song tiến trình thích nghi luôn đặt cho các

thế hệ nghệ sĩ, giáo viên giảng dạy thanh nhạc những thách thức mới, nhƣ nhà sƣ

phạm PGS-NSND Trung Kiên đã nêu: “...Trong việc tiếp thu kinh nghiệm nƣớc

ngoài, chúng ta cần nghiên cứu kỹ càng để áp dụng vào cách hát của ta sao cho

phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ, tập quán, tâm lý, tình cảm của dân tộc... nhƣ

vậy, phƣơng pháp hát của ta mới thực sự khoa học. Tiếng hát hay, đƣợc quần

chúng yêu thích, thừa nhận, phải là tiếng hát mang tâm hồn ngƣời Việt Nam,

phản ánh đƣợc thực tế xã hội, tâm lý, tính cách của ngƣời Việt Nam trong thời

đại mới. Tuyệt nhiên không chỉ là tiếng hát có kỹ thuật đơn thuần, hoặc có cách

xử lý ngôn ngữ xa lạ nào khác...”.

Page 95:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

95

Chƣơng II

MỘT SỐ GIẢI PHÁP, ỨNG DỤNG VÀ BÀI TẬP GÓP PHẦN

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO HÁT TIẾNG VIỆT

TRONG NGHỆ THUẬT HÁT MỚI

Chƣơng hai Luận án đƣa ra Một số giải pháp, ứng dụng và bài tập cụ thể

nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát

Mới. Nội dung của chƣơng II bao gồm:

* Một số giải pháp, ứng dụng nhằm nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt.

* Một số bài tập nhằm nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt.

* Luyện tập một số làn điệu trong ca hát truyền thống để ứng dụng vào

hát Mới.

2.1 Một số giải pháp, ứng dụng nhằm nâng cao chất lƣợng hát tiếng

Việt

2.1.1 Vai trò của cấu trúc âm thanh lời nói (ngôn ngữ) - ca từ trong ca

hát

Ngôn ngữ hay nói cách khác yếu tố ngôn ngữ trong thanh nhạc (phát âm,

ngữ điệu...) đƣợc quan tâm đặc biệt trong phƣơng pháp giảng dạy của các nhạc

viện nƣớc ngoài cũng nhƣ các sách nghiên cứu về phƣơng pháp giảng dạy bộ

môn nghệ thuật này ở trong nƣớc. Trong cuốn Vaccaj (Phƣơng pháp thanh nhạc

thực hành) viết: “...Nếu ai đã từng đọc cuốn sách nổi tiếng “Những qui định

trong ca hát” của tác giả Garcia (tập 2, Ricordi xuất bản) thì có thể thấy rõ sự

quan tâm đặc biệt tới các yếu tố ngôn ngữ của thanh nhạc.” Và “...Tác giả bắt

đầu với vấn đề liên quan đến các nốt luyến ở các quãng nhỏ, sau đó dần dần tới

cách xử lý đúng với việc phát âm các nguyên âm, trƣớc khi chuyển sang các vấn

Page 96:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

96

đề khác nhƣ ngữ điệu...”[55, tr.5]. Trong bài hƣớng dẫn tập hát Các quãng 3 của

Nicola Vaccaj cho rằng: “...học viên... chỉ nên tập trung tới việc phát âm rõ ràng

các âm tiết tƣơng ứng với các nốt” [55, tr.11]

Trong cuốn Commonsense of singing (Cảm nhận chung về ca hát): “T

( -

và “...Ca sĩ phải nắm vững và nhập hồn vào

từng từ để có thể chuyển tải tốt những thông điệp hàm chứa trong đó tới ngƣời

nghe...” [53, tr.16, 33]

Ngƣời hát cần phải chú ý hơn tới ca từ trong những bài hát tiếng Việt, vì

tiếng Việt thuộc ngôn ngữ đa thanh, đơn âm tiết và hầu hết các âm tiết đều có

nghĩa của một từ hoàn chỉnh (chƣơng I). Nhƣ vậy tập nói, tập đọc là một phƣơng

pháp cần thiết trƣớc khi tập hát để có thể cảm nhận đƣợc độ đóng, mở phù hợp

cho từng từ, từng chữ cảm nhận rõ màu âm của từng nguyên âm góp phần giúp

hát đạt đƣợc yêu cầu về kỹ thuật âm thanh, về màu sắc vùng miền, “cất thanh” rõ

chữ, rõ lời…

Nghệ thuật hát mở, mục tiêu tìm sự đồng dạng của âm thanh ngôn ngữ con

ngƣời “...m (Ré Koster)

(Louis Bachner) và vì “cách luyện tập này cũng liên quan

chặt chẽ đến lối phát âm của từng ngôn ngữ” (Larousse) nên hầu hết các nghệ sĩ,

các chuyên gia giảng dạy thanh nhạc quốc tế đều cho rằng học hát, luyện thanh

trên một ngôn ngữ (tốt nhất là tiếng Ý), để cảm nhận ngữ nghĩa, màu âm của

từng từ mà đặt vị trí vang thích hợp cho các từ, sau đó ứng dụng vào ngôn ngữ

khác, hát một ngôn ngữ khác. Trong Dictionnaire de la musique (Từ điển âm

nhạc : “…luyện trên những nốt ngân dài, nhịp độ chậm, không có sự

Page 97:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

97

tham gia của phụ âm và…Tập luyện để các nguyên âm bộc lộ rõ màu sắc của nó

ở những nốt thấp nhất và những nốt cao nhất, cách luyện tập này liên quan chặt

chẽ đến lối phát âm của từng ngôn ngữ. Trong lịch sử ca hát ngƣời ta gọi đây là

lối hát Mở, lối hát mà các nguyên âm đƣợc nhào nặn và trở nên đồng dạng.”[56,

tr.349]

Hát bằng ngôn ngữ tiếng Việt làm cho âm thanh vang rền bằng kỹ thuật

của hát Mới không gặp nhiều khó khăn, nhƣng hát “tròn vành rõ chữ” thì gặp

nhiều khó khăn (nhiều âm đóng, đa thanh, đơn âm…). Vì vậy

điểm, đặc trƣng, sự chuyển động

(chƣơng I) nhằm góp thêm một số biện pháp có tính khả thi

, trong giảng dạy và biểu diễn những tác phẩm thanh

nhạc tiếng Việt vang rền nhƣng vẫn “ ”.

a) Vị trí âm thanh và màu âm của nguyên âm tiếng Việt trong ca hát:

Năm yếu tố tạo thành âm tiết: âm đầu, âm đệm (bán nguyên âm), nguyên

âm, âm cuối và thanh điệu, trong đó nguyên âm giữ vai trò vang của từ, đƣợc hát

Mới lấy làm âm chính để khuếch đại âm thanh.

Nguyên âm: có 3 dạng cấu trúc:

- Nguyên âm đơn: a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ƣ, i/y.

- Nguyên âm đôi (còn gọi là nhị hợp âm): iê, ƣơ, uô…

- Nguyên âm 3 (còn gọi là tam hợp âm): iêu, oai, oay, uây, uya, uyê…

Nguyên âm đôi và nguyên âm 3 đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc vần

- phần sau của âm tiết, song độ vang chính của từ là đỉnh từ - nguyên âm đơn.Ví

dụ: chữ Chiều: 3 nguyên âm hợp thành vần (iêu). Hai nguyên âm i và u ở vị trí

bán nguyên âm. Bán nguyên âm i có tính chất âm lƣớt, bán nguyên âm u làm

nhiệm vụ khép từ. Nguyên âm ê giữ vai trò âm thanh, vì vậy khi hát bán nguyên

âm i chuyển nhanh sang nguyên âm ê đƣợc mở rộng rồi thu về nguyên âm u.

Page 98:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

98

Nhƣ vậy nguyên âm đôi hoặc nguyên âm 3 thực chất âm tiết (từ) của tiếng Việt

chỉ có một nguyên âm đỉnh chữ (tạo vang).

Tƣơng tự trong nhiều bài dân ca, khi gặp từ chuyền, hay thuyền ngƣời hát

có thể mở rộng đỉnh chữ (nguyên âm ê) nhƣng không đƣợc lạm dụng mà phải kết

thúc từ sớm bảo đảm tròn vành rõ chữ vì chuyền, thuyền là từ khép chứ không

phải từ mở.

Nguyên âm â đứng ,

. H của nguyên âm nhằm o

vang, khuếch đại âm thanh tự nhiên, ,

(khoang họng và khoang miệng) , xoang trên

mặt (xoang mũi, xoang vòm mặt, xoang trán v.v...) chiếm vị trí

kỹ thuật thanh nhạc gọi là . Làm cho âm thanh đƣợc cộng hƣởng, khẩu

hình mở rộng, âm vang đầy đặn, giàu âm sắc. Khi hát đƣa âm thanh lên trên cao,

hƣớng ra phía trƣớc để tạo đƣợc vị trí âm thanh trƣớc mặt (âm thanh mặt nạ).

Khi nói, hoặc hát vị trí âm thanh cao, ra phía trƣớc, họng sẽ đỡ mệt và tiếng nói,

hát rõ ràng mà không tốn sức.

Từ sự khác biệt của bộ máy phát âm, phƣơng pháp đào tạo thanh nhạc

cũng thay đổi theo cho phù hợp với từng học sinh nhằm tìm ra một mục đích

chung, đạt đến độ hoàn thiện của giọng hát ở mọi tầm cữ, màu sắc đáp ứng tốt

nhất cho khả năng và biểu hiện mà tác phẩm yêu cầu, đòi hỏi.

Độ mở của nguyên âm

Vị trí và độ mở của các nguyên âm quyết định độ vang của ngôn từ và

giọng hát. Từ tính chất, vị trí cấu âm và màu sắc của chúng có thể chia các

nguyên âm thành:

- Các nguyên âm hàng trƣớc: E-Ê-I/Y

- Các nguyên âm hàng giữa: A-Ơ-Ƣ

- Các nguyên âm hàng sau: O-Ô-U

Page 99:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

99

* Các nguyên âm hàng trƣớc :

+ E: Khẩu hình bẹt ra 2 mép, răng trên hơi lộ ra, lƣỡi hơi đƣa ra phía

trƣớc, khoang miệng hẹp, bẹt.

+ Ê: Khẩu hình gọn hơn E, lƣỡi gà nâng cao hơn E, khoang miệng tròn,

thoáng hơn.

+ I/Y: Khẩu hình hẹp nhất, 2 mép hơi nhành ra nhƣ khi cƣời, răng lộ ra

đôi chút, đầu lƣỡi chạm chân răng dƣới, hai hàm răng gần nhau mà không chạm

nhau. Có vị trí âm thanh cao, âm thanh mỏng, nhọn, bẹt, hơi chua, là nguyên âm

khép.

* Các nguyên âm hàng giữa :

+ A: Đƣợc coi nhƣ nguyên âm chính, khẩu hình mở rộng vừa chiều cao

vừa chiều ngang, cằm hạ xuống, mép hơi bành ra, tạo thành hình dáng bên ngoài

hơi tròn hơn là bẹt. Răng dƣới đƣợc môi che khuất, còn răng cửa phía trên có thể

lộ ra ít nhiều tuỳ ngƣời. Mặt lƣỡi bằng, đầu lƣỡi tiếp giáp nhẹ với răng dƣới, là

nguyên âm mở, màu sáng.

Ă và Â: là nguyên âm ngắn của A, phát âm có âm luyến ở đằng trƣớc,

luôn ở vị trí cao, màu âm không giống nhau. Nguyên âm Ă, trong nói và hát khi

phát âm đều có âm luyến nhấc lên trên. Nguyên âm  gần gũi với nguyên âm Ơ

có dấu sắc. Nếu đặt hai nguyên âm  và Ơ trên cùng cao độ, Ơ sẽ đồng dạng với

Â:

+ Ơ: Là nguyên âm cùng hàng với A, khẩu hình thu gọn hơn, mặt lƣỡi thả

lỏng, hàm trên, lƣỡi gà nâng lên một chút, khoang miệng thoáng, rộng, màu đục,

sâu hơn A.

Page 100:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

100

+ Ƣ: Cũng là nguyên âm cùng hàng với A, khẩu hình gọn, hẹp hơn Ơ, lƣỡi

gà hạ thấp, răng không đụng nhau, khoang miệng hẹp hơn A và Ơ. Ƣ và Ơ có vị

trí gần giống nhau, nhƣng Ƣ rít và tối hơn.

* Các nguyên âm hàng sau :

+ O: Khẩu hình tròn, gọn hơn A, môi hơi nhô ra trƣớc. Lƣỡi rụt vào phía

sau, cuống lƣỡi bật âm.

+ Ô: Môi nhô ra và chúm lại làm cho khẩu hình phía ngoài thu nhỏ hơn O.

Khẩu hình mở, thu môi, phía trong mở dọc hạ lƣỡi và nâng hàm ếch mềm.

+ U: Môi chúm lại, nhô ra nhƣ khi ta muốn huýt sáo : Khẩu hình thu nhỏ

nhất so với O, Ô. Màu tối đục

, nguyên âm 3 (oai, iêu, uyê,

,

.

Vị trí âm thanh, và màu âm của nguyên âm trong ca hát truyền

thống

gi ,

ại độ vang, r

. ƣơng I ơ (o )

trong .

) nên ơ

ơ

ơ - .

Ca hát truyền thống i , nguyên âm a

, nguyên âm ƣ đặc trƣng, của

từng loại hình. N ,

, àu

sắc”

Page 101:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

101

. XaKhơi

,

NS Tân Nhân đã hát rất thành công):

- (i (i)...

Hay Em ở nơi đâu

, NSƢT Kiều Hƣng đã hát thành công)

- Anh đi t m em ( ) ...

Nguyên âm i

, bài Xa Khơi, u tạ

, của hơi trong,

,

, và n cộng

(vibrato i

.

, nhƣ nguyên âm u : Mẹ yêu con -

(NSND Thanh Huyền hát rất thành

công):

- u , ơ hời ru...

Và bài n - Văn Thành Nho h :

- u u …

Nguyên âm u tròn môi khi phát âm, hơi đẩy ra phía trƣớc, nửa phần lƣỡi

trong nhô cao, môi tròn lại. Nguyên âm u khi đƣợc đặt nằm trong câu Hát Ru

đồng bằng Bắc Bộ đƣợc làm nhẹ đi bằng cách môi hơi bẹt ra, cƣờng độ hơi

không lớn và không đột ngột: Con ơi! con ngủ cho ngoan... Và cũng tƣơng tự

nhƣ vậy khi hát câu À ru hời, ơ hời ru... trong ca khúc Mẹ yêu con của nhạc sĩ

Nguyễn Văn Tý. Nhƣng ngƣợc lại nguyên âm u mang âm hƣởng Ca Trù trong ca

Page 102:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

102

khúc Đất nƣớc lời ru của nhạc sĩ Văn Thành Nho lại thu vào phía trong vì Ca

Trù không hát hơi ngoài (mục Ca Trù - chƣơng I)

Sự phong phú trong thanh nhạc truyền thống theo nhạc sĩ Nguyễn Xuân

Khoát:“ Đấy là tính chất cơ bản đã bắt nguồn từ ngôn ngữ tiếng Việt. Âm thanh

của chúng ta nhiều nguyên âm (đơn) và nguyên âm kép… Chúng ta đều biết sắc

thái phụ thuộc vào chỗ vang của âm thanh, mà mỗi thanh lại vang ở ngực, hàm,

mũi, hay trán, tuỳ theo sự cao thấp của thanh (thanh điệu) cũng nhƣ của nguyên

âm phát ra là Ô, O, A, U, Ƣ, Ê, Ê hay I” [23, tr.234; tr.235]

b) Âm đầu:

K tức

quan tâm trong ,

. , ỹ R.Miller

cho rằng có ba cách khởi thanh đều liên quan đến phụ âm đầu:

- Khởi thanh mạnh (the hard attack)

- Khởi thanh nhẹ (the soft onset)

- Khởi thanh cân bằng (the Balanced onset - Dynamic Muscular

Equilibrium).

T ba : .

. .

Nếu “ ” một từ,

(vd: U + Â + N = UÂN, X + UÂN = XUÂN)

 , đứng ở .

Trƣờng hợp không có âm đầu, nguyên âm

, tiếng bật đó tƣơng ứng

với một phụ âm . N

ong k c

ẩn: /?/anh, /?/eo, /?/ơi, /?/ấm, /?/êm, /?/yêu, /?/ấy...

Page 103:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

103

Ngôn ngữ tiếng Việt, phụ âm đầu chiếm phần lớn trong câu nói (ví dụ: Tôi

đi ăn cơm; chúng ta đi thôi…). Cách phát âm các phụ âm trong ca hát giống nhƣ

trong tiếng nói hằng ngày, phát âm chính xác nhƣ: môi bật môi, răng đụng môi,

lƣỡi đánh lên răng, chân răng, hàm ếch... làm âm đầu nối kết với vần sẽ rõ ràng.

“Bật môi, đánh lƣỡi” một cách linh hoạt và nhẹ nhàng, đó là bí quyết của các

phụ âm. Cần tránh phát âm bật mạnh, gằn… nói chung không tự nhiên.

Phụ âm đầu giữ vị trí khởi thanh. Trải qua năm tháng, cùng với quá trình

phát triển không ngừng của ngôn ngữ, phụ âm đầu góp phần cho sự xuất hiện

của thanh điệu nét độc đáo của tiếng Việt cũng nhƣ góp phần tạo dấu ấn cho ngữ

điệu vùng miền. Chính cách sử dụng thanh điệu và phụ âm đầu tạo thành phƣơng

ngữ làm đậm thêm màu sắc dân ca địa phƣơng. Ví dụ câu hát: “Anh đón em về

thoả chờ mong…” chữ về nếu nhả chữ theo giọng Hà Nội - tiếng phổ thông, phụ

âm đầu là v, nhả chữ theo giọng Nam Bộ phụ âm v sẽ thành d “Anh đón em dề…

Cũng tƣơng tự nhƣ vậy với phụ âm kh (không) thành h (hổng, hôn)… Trƣờng

hợp lẫn lộn các phụ âm l, N phải coi là khuyết tật - ngọng trong phát âm và cần

phải sửa triệt để.

Việt - :

- S = X (Sông = Xông, Sao = Xao…)

- TR = CH (Tr s = Ch x , Trong tr = Chong ch )

- GI, R = D (Gi r sâu = D d xâu…)

Chính vì những đặc điểm trên ngƣời dạy hát và ngƣời hát phải chú ý đến

phát âm những phụ âm đầu trong ca từ để tránh những sai sót về lỗi “chính tả”

khi hát, phù hợp với thẩm mỹ, thói quen tai nghe của khán giả.

c) Vần:

Ngay sau phụ âm đầu (khởi thanh), phần còn lại của âm tiết đƣợc gọi là

vần. Vần gồm có vần mở và vần đóng (cấu trúc này có ảnh hƣởng đến âm thanh

giọng hát). Vần bao gồm các thành phần: âm đệm, âm giữa (đỉnh âm) và âm cuối

Page 104:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

104

(kết âm). Âm đệm là nguyên âm hay bán nguyên âm. Âm giữa (đỉnh âm) bao giờ

cũng là nguyên âm, nguyên âm quyết định âm vang của từ. Âm cuối (kết âm) là

âm khẳng định từ.

- Vần đầy đủ các thành phần: uyên, uôi, ƣơc, uyêt, oai…

- Vần có âm chính đồng thời là âm kết (vần mở): to, nga, cô, ô tô, có… -

Vần có bán nguyên âm và âm giữa (vần mở): mƣa, giữa, bao, hoá…

- Vần có âm chính và âm cuối (âm cuối là phụ âm - vần đóng): inh, at, êm,

ƣng, úc, ong, ợp, ót…

+ Uyên (Uyê + n): U,Y là bán nguyên âm. Ê là nguyên âm chính với

trƣờng độ vang bị thu hẹp vì phải đóng phụ âm n sớm để rõ chữ.

+ Iêu: I và u 2 bán nguyên âm. Ê mặc dù là nguyên âm giữ vai trò đỉnh

âm tiết nhƣng vì bị đóng bằng nguyên âm tròn môi, ngắn, hẹp nên trƣờng độ

vang ngắn thu về âm u.

+ Oai: chùm nguyên âm phức Oai đứng độc lập thành từ Oai hoặc có phụ

âm đứng trƣớc (ngoài, thoai thoải, xứ Đoài...) có tiến trình mở âm tƣơng tự với

chùm nguyên âm Iêu. O, i hai bán nguyên âm. Nguyên âm i giữ vị trí kết từ

khiến nguyên âm a có đƣợc trƣờng độ vang nhƣng khi đóng chữ có cảm giác âm

i vẫn còn tiếp tục.

+ Uay và Oay: Phụ âm Q hầu nhƣ không đứng độc lập mà bao giờ cũng

phải cộng thêm một bán nguyên âm U (Quả quyết, quên, quê, quý…). Cả hai

trƣờng hợp vần Uay và Oay, mặc dầu là nguyên âm có độ mở lớn nhất a, song

đều phải đóng sớm vì bị khoá từ bởi bán nguyên âm y. Nếu đóng muộn từ sẽ

biến dạng trở thành từ khác mang nghĩa khác.

+ Uôi, Iai: Bán nguyên âm i nằm ở vị trí đóng - kết từ khiến nguyên âm ô

và a có thể mở rộng hơn tuy nhiên các vần có đóng bằng i cần phải khép từ sớm

để bảo đảm tròn vành rõ chữ.

Page 105:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

105

+ Iao: Bán nguyên âm o làm vai trò đóng vần nhƣng vị trí của o nằm

ngoài cửa miệng, miệng tròn lại nên âm sắc của từ trở nên sáng hơn, đóng bằng

bán nguyên âm u có vị trí sâu trong miệng.

+ Ƣa (trƣa), ia (chia), ua (cua): A đứng ở vị trí khép từ, không đem lại

hiệu quả mở của âm a mà có cảm giác biến thành ơ.

Các vần kết bằng i và y có đặc điểm: sau khi từ đóng, khép lại, hơi bị đẩy

lên mũi và còn vang tiếp ở âm đóng. Âm kết y đòi hỏi đóng sớm hơn so với kết ở

âm i. Xét về độ mở của từ, những từ có vần kép kết bằng bán nguyên âm i và y

(ơi, oai, ây, ay) đều bị xếp vào hệ thống từ đóng.

Các vần kép ia (chia tay, Kơ nia), ua (mùa xuân, hoa mua…trƣờng hợp từ

qua, u đứng sau q chỉ để tạo phụ âm ghép). Và ƣa (mƣa đi mƣa đi, mƣa nắng

giãi dầu…) mặc dù kết mở ở âm a, khi khép chữ biến âm sang ơ.

Khi nói ai ( …) thì a là nguyên âm

và i là bán nguyên âm. Nhƣ vậy khi đọc lên chúng ta sẽ nghe [a] đƣợc

kéo dài và kết thúc bằng [i] rất nhanh = [a::i]. Ngƣợc lại nếu nói oa thì o là bán

nguyên âm trong khi a trở thành nguyên âm . Khi đó [o] sẽ bị thu ngắn lại

để nhƣờng chỗ ngân dài cho [a] = [wa::] oa …).

: i-ê-u 3 nguyên âm. Nhƣng ê

(Ch

)

Khi nói, đặc biệt khi hát phải phân biệt rõ đâu là nguyên âm, đâu là bán

nguyên âm (âm lƣớt) để không mở nhầm ở các bán nguyên âm, nếu mở nhầm hát

sẽ không tròn vành, rõ chữ (ngoài = ngo..ài; xuôi = xuô..i…)

Vần Mở:

Là những vần có âm giữa (đỉnh chữ) bao giờ cũng là nguyên âm giữ vai

trò vừa là âm giữa vừa là âm kết. Vần mở là những vần thuận lợi cho mở rộng

âm thanh vì âm giữa - âm kết là nguyên âm (nguyên âm là âm vang của từ),

Page 106:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

106

- Vần mở đơn: có vần kết bằng nguyên âm đơn: A, I, Ô, Ê.

- Vần mở phức (kép): Vần có nguyên âm 2 hoặc 3: OA, UA, UYA…

Với vần mở phức

).

Vần mở đơn hoặc vần mở kép đều đem lại hiệu quả vang thuận lợi cho phát âm

nhả chữ đạt độ vang rền cho giọng hát vì nguyên âm, phần âm thanh của ngôn

ngữ không bị cản bởi các phụ âm hay các bán nguyên âm do vậy quá trình từ mở

thanh (phụ âm) đến đỉnh chữ (nguyên âm) đƣợc thoải mái mở rộng mà vẫn rõ

lời. Các từ có vần kết bằng nguyên âm (đơn hoặc phức, trừ nguyên âm i/y và

u/o) gọi là kết mở. Trong tiếng Việt số từ có vần mở chỉ chiếm một phần nhỏ,

đây chính là điểm bất lợi cho hát Mới khi thể hiện những tác phẩm tiếng Việt.

Vần đóng:

Những từ có âm cuối là phụ âm và bán nguyên âm i/y và u/o gọi là kết

đóng - vần đóng. Khi hát thì các từ có vần đóng đều không thuận lợi cho âm

thanh, cho việc mở âm - cộng minh và buộc phải đóng từ để khẳng định từng từ

(đặc trƣng của tiếng Việt - mỗi âm tiết độc lập và có ý nghĩa riêng). Đa thanh,

đơn âm tiết, số âm tiết đóng chiếm đại đa số.

* Vần đóng bằng bán nguyên âm:

- Vần đóng bằng bán nguyên âm i/y: đóng bằng cách thu đuôi (Tai(i),

xôi(i), khoai(i), hoay(i)…)

- Vần đóng bằng bán nguyên âm u/o: đóng bằng cách thu đuôi (Đau (u),

ngao(u), câu(u)…)

* Vần đóng bằng phụ âm cuối M - P, N - T, NH - CH, NG - C :

Vần đóng bằng các phụ âm làm trƣờng độ vang của nguyên âm đỉnh chữ

bị hạn chế do làn hơi khi phát ra đến cuối chữ thì bị cản lại, bị đóng lại ở môi

hoặc lƣỡi. Đặc điểm này khiến khi hát muốn mở rộng âm thanh - cộng minh phải

tạo vang bằng các hộp vang ở xoang mũi. Tuy nhiên độ đóng nhanh, chậm

Page 107:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

107

không giống nhau tuỳ thuộc vào mức độ đóng (khép) của phụ âm cuối và dấu

thanh làm trầm hoặc bổng âm tiết - từ:

- M - P: khép 2 môi để đóng từ nhƣ (âm, ợp, iêm, ep, âp…)

- N - T: các phụ âm có vị trí đầu lƣỡi (an, ôn, ôt, ân, ât…)

- NH - CH: các phụ âm đóng bằng mặt lƣỡi (oanh, ich, inh, ach, uych…)

- NG - C: các phụ âm cuối đóng bằng cuống lƣỡi (ông, ƣơng, oc, ƣng, ƣc…)

Với những đặc trƣng của tiếng Việt cho thấy sự hạn chế âm vang và làm

rõ chữ chính là ở vần đóng và thanh điệu. Trƣờng độ của chữ diễn ra nhanh

chậm tuỳ thuộc vào âm cuối - âm kết (bán nguyên âm hoặc phụ âm). Giải quyết

đƣợc các vần đóng có nghĩa là giải quyết đƣợc một phần mấu chốt quan trọng

của tròn vành rõ chữ vì từ đóng chiếm 70 - 80 % trong từ vựng tiếng Việt. Với

vần đóng, đều có thể thu đuôi hoặc đóng sớm khi không cần phải ngân vang. Ví

dụ:

*) Đâu:

- Đơ...u (trƣờng độ nguyên âm kéo dài, chữ đóng chậm, ngân vang)

- Đâu.u (trƣờng độ nguyên âm ngắn, chữ đóng nhanh, không vang)

*) Nao:

- Na..ao..u (khép chữ chậm, ngân vang)

- Nao.u (khép chữ nhanh, không vang)

*) Vắng:

- Va…ắng (khép chữ chậm, ngân vang)

-Vắng (khép sớm - nhanh, âm cuối đƣa lên ngạc cứng và xoang mũi,

không vang)

*) Tắt:

- Ta..ắt (khép chữ chậm, ngân vang)

- Tắt (khép sớm - nhanh, âm cuối lƣỡi chặn ở chân răng chặn đứng âm

thanh làm “cộc”, “chết chữ” - “tử vận”, không vang)

Page 108:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

108

*) Hai từ tay và tai khi nói và viết có thể nhận biết dễ dàng (vần ay ngắn, đóng

sớm hơn vần ai). Khi hát, các vần đƣợc ngân nga, kéo dài làm chậm lại, trong

trƣờng hợp này nguyên âm a nếu xử lý không khéo, đóng sớm quá hoặc kéo dài

quá sẽ phát âm tay thành tai hay ngƣợc lại. Vì vậy khi hát, ngƣời hát phải lƣu ý

hai vần ai/ay và nhất là ngƣời hát có phƣơng ngữ phía Nam.

d) Thanh điệu:

Sáu thanh định độ cao cho từng từ, nó không chỉ mang lại tính giai điệu

cao cho tiếng Việt mà còn đổi nghĩa, đổi nội dung thông tin của từ. Các nhà âm

thanh học đã chứng minh độ cao thấp của sáu thanh bằng máy đo âm thanh,

trong âm nhạc chúng ta có thể xếp thành các giai điệu khác nhau:

Nếu dùng một nguyên âm bất kỳ chẳng hạn nguyên âm i rồi cho sáu thanh

theo một trật tự ngẫu nhiên nào đó, ta cũng có một hình tuyến mang tính giai

điệu: i ì í ỉ ị ĩ, hay ĩ ì í ỉ ị i...Có thể ghi thành:

I với thanh nặng và i với thanh ngã khi phát âm đòi hỏi ngƣời nói hay hát

bật mạnh hơi ở thanh môn. Thực ra chúng đƣợc khởi thanh bằng phụ âm ẩn và

kết mở tạo đỉnh âm vang ở khoang mũi. Về cao độ chúng cách nhau quãng 8

theo thang âm tự nhiên. Câu vĩ ở mỗi trổ hát Chèo cũng dùng nguyên âm i và 3

thanh huyền sắc và ngang i ì i i í ì ì:

Xuyên Khung (điệu Đào Liễu - Chèo)

Page 109:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

109

Trong hát Văn cũng dùng 3 thanh dấu cho chùm hƣ tự á a a a ...

Hầu Văn

Từ đệm Ƣ trong Tuồng (Hát Khách):

Ở các sáng tác mới (thanh nhạc), các nguyên âm cùng thanh điệu vang lên,

mở rộng ở những vị trí cấu âm nguyên bản và đƣợc xếp theo cung bậc của thang

âm ngũ cung. Ta thấy 6 thanh điệu tạo cao độ đồng thời cũng tạo màu sắc cho

mỗi con chữ, mỗi âm tiết nên ngƣời nƣớc ngoài thƣờng nói ngƣời Việt Nam “nói

nhƣ hát”

Thanh điệu tác động lên toàn bộ âm tiết và có chức năng phân biệt các âm

tiết, là yếu tố thay đổi cao độ của âm tiết, nếu thay đổi dấu sẽ thay đổi cả nghĩa

của từ [mục thanh điệu, chƣơng I].

Sáu thanh, mỗi thanh có cái khó riêng, qua thực tiễn ca hát nhiều ngƣời

cho rằng thanh ngã và thanh hỏi là các thanh có hình dáng phức tạp và đặt ra

nhiều thách thức nhất cho ngƣời hát. Để hiểu và giải quyết tốt thanh điệu trong

tác phẩm phụ thuộc nhiều vào nhà soạn nhạc cũng nhƣ ngƣời thể hiện tác phẩm

đó.

Thanh Hỏi.

Theo thống kê tiếng Việt có khoảng 1270 âm tiết với dấu hỏi hoặc với dấu

ngã, trong đó có 793 âm tiết (chiếm 62%) dấu hỏi, 477 âm tiết (38%) dấu ngã.

Đặc tính chung của các thanh là luôn gắn liền và diễn ra đồng thời với nguyên

âm, âm mở của âm tiết - từ vai trò quyết định độ cao thấp của từ nên cấu trúc âm

tiết phụ thuộc nhiều vào thanh điệu. Vì vậy khi hát không rõ thanh điệu sẽ làm

Page 110:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

110

chữ - từ bị biến dạng, đổi nghĩa: chữ khi trong câu Tiếng ru khi chiều về (Về quê

- Phó Đức Phƣơng) hát thành Khỉ. Hoặc chữ Cửu trong câu hát Cửu Long Giang

sóng trào nƣớc xoáy (Tiểu đoàn 307 - Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Bính) hát thành

Cứu…

Thanh dấu hỏi có cùng độ cao với thanh dấu nặng, nhƣng có độ nhấn hất

lên (luyến lên). Trong âm nhạc có lời, giải quyết dấu hỏi bằng hai nốt luyến lên

một quãng 2, 3, 4, 5 hoặc quãng 6…Ví dụ:

- “Chỉ có thuyền mới hiểu, Biển mênh mông…” (Phan Huỳnh Điểu - Xuân

Quỳnh)

Thuyền và biển

Có thể lấy nhiều thí dụ khác từ thực tiễn ca hát để rút ra những bài học bổ

ích cho cách giải quyết khéo léo và thật tự nhiên với thanh hỏi. Trong ca hát

truyền thống, nghệ nhân Tuồng cho rằng khi hát thanh dấu hỏi thƣờng bắt đầu từ

thanh huyền rồi vuốt lên thanh sắc.

Do tác động của thanh điệu, trƣờng độ của từ luôn bị rút ngắn lại, âm

thanh vang của đuôi từ thƣờng chuyển sang âm cuối vần:

+ Từ có âm kết là nguyên âm thêm đúng nguyên âm đó: Tỏ-o, cả-a, khổ-ô,

nhở-ơ, chỉ-i, hiểu-u...

+ Từ có vần là bán nguyên âm sẽ biến âm: Lửa-ơ, của-ơ, xua-ơ…

+ Từ có âm kết là phụ âm sẽ đóng chữ và chuyển sang âm khác: Biển-

ƣng, thẳm-ƣm, vẳng-ƣng, xẩm-ƣm, hƣởng-ƣng, Tắt-ƣng…

Thanh ngã:

Dấu ngã có cao độ nằm phía trên thanh ngang - cùng với dấu sắc. So với

thanh dấu sắc, dấu ngã đòi hỏi độ bật hơi mạnh hơn nhƣ có một dấu nhấn khiến

trƣờng độ vang của nguyên âm bị hạn chế.Ví dụ:

Page 111:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

111

- “Đồi anh giữ ngày nào cùng đội ngũ…” (Bế Văn Đàn sống mãi - Huy

Du, Trịnh Đƣờng)

Bế Văn Đàn sống mãi

Hai từ giữ và ngũ có cùng một cao độ F2, tuy chữ giữ trong bản nhạc

không ghi nốt D luyến lên nhƣng khi hát vẫn đƣợc xử lý nhƣ chữ ngũ (chỉ khác

nhau về trƣờng độ, nhanh chậm). Ở đây chữ giữ và chữ ngũ giống với cách xử lý

của nghệ nhân Tuồng: hát rẩy lên cao (từ D lên F).

Thanh ngang, thanh huyền, thanh sắc và thanh nặng:

Là các thanh không có hình dáng phức tạp nên khi nói cũng nhƣ khi hát

đều có cảm giác dễ dàng hơn.

Đặc điểm nói chung của các thanh là luôn gắn liền và diễn ra đồng thời

với nguyên âm. Do độ cao của các thanh đã đƣợc mặc định nên độ cao của

nguyên âm cũng là độ cao của âm tiết. Độ cao thấp của thanh điệu, của từ không

chỉ tạo ra những hình tuyến giai điệu tự nhiên mà còn là yếu tố quyết định ý

nghĩa cụ thể của từ.

Thanh huyền và thanh nặng cùng xếp ở vị trí dƣới thanh ngang nhƣng

thanh nặng có vị trí thấp hơn và cách phát âm cũng nặng hơn thanh huyền.

Thanh huyền nhẹ, hơi thả ra phía ngoài; thanh nặng hơi bị nén và bật dứt khoát

(chầm chậm, rầm rập, rời rợi…)

Để rõ thanh sắc, thanh huyền, thanh nặng, khi hát thƣờng thêm nốt nhỏ

(petite note) trƣớc nốt chính một quãng phù hợp với phong cách của tác phẩm

(vd: Hà Nội đó niềm tin yêu hy vọng hay Hải Phòng đó hiên ngang chỉ biết

ngẩng đầu…Trong ca khúc Nổi lửa lên em nhạc sĩ Huy Du đặt nốt nhỏ hoặc nốt

móc đơn vuốt lên hoặc trƣợt xuống nốt chính giúp ca từ khi hát lên đúng với

Page 112:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

112

thanh điệu giúp cho hát đƣợc rõ lời: chữ Nhé (nốt A nhỏ luyến lên nốt D), Ngày

(nốt G móc đơn luyến lên nốt A đen), Sáng (nốt E móc đơn luyến lên nốt A), chữ

thâu (nốt E luyến xuống nốt D)...

Đôi khi, nguyên âm và thanh điệu đặt ngay vào nốt chính vì giai điệu phù

hợp với quy luật của thanh điệu (Tôi đứng đây bên nhịp cầu Long biên lộng gió).

Trƣờng hợp hai dấu sắc nằm cạnh nhau (gió, dƣới) thì thƣờng phải thêm nốt phụ

vuốt nhẹ lên nốt chính ở chữ có dấu sắc kế tiếp nhằm tách biệt 2 âm tiết (…Long

Biên lộng gió, dƣới chân cầu Hồng Hà đang ngày đêm sóng vỗ). Cụm từ sóng

vỗ, có thanh sắc và thanh ngã cũng đƣợc xử lý nhƣ hai thanh sắc đứng liền kề

nhau.

2.1.2 Ứng dụng những kỹ thuật và kinh nghiệm xử lý ngôn ngữ của ca

hát truyền thống vào hát Mới:

Trong ngôn ngữ tiếng Việt số từ đóng chiếm đa phần và có sáu thanh điệu.

Từ đóng không thuận lợi cho âm thanh hát, đóng sớm, ít vang gây cộc, chết chữ

(tử vận). Phát âm, hát không đúng thanh điệu sẽ làm đổi chữ, đổi nghĩa của từ.

Những khó khăn, hạn chế này đƣợc nhân gấp nhiều lần trong nghệ thuật hát Mới

(nghệ thuật của ngôn ngữ đa âm tiết - nghệ thuật hát Mở). Nhiều ca sĩ, học sinh

thanh nhạc khi hát hoặc không nắm vững kiến thức cơ bản của tiếng Việt, hoặc

quá lạm dụng kỹ thuật hát Bel canto, tất cả các từ lẽ ra phải đóng, khép nhƣng

vẫn mở nên hát không rõ lời, đồng nghĩa không rõ nghĩa, chỉ muốn hát bài nƣớc

ngoài, hay ngại không muốn hát bài Việt Nam… Những khó khăn, hạn chế này

đƣợc ca hát truyền thống (nghệ thuật hát khép - nghệ thuật của ngôn ngữ đơn

âm, đa thanh) xử lý rất khéo léo đầy tính nghệ thuật, đã đúc kết thành những

kinh nghiệm quí báu từ nhiều đời nay.

Từ trƣớc tới nay đã có nhiều thế hệ nghệ sĩ, ca sĩ thành công khi kết hợp

hai nghệ thuật hát Mở và hát Khép nhƣng chỉ dừng ở kinh nghiệm cá nhân, chƣa

hệ thống, tìm nguyên nhân hạn chế ở đâu, thuận lợi ở đâu để khắc phục và phát

Page 113:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

113

huy. Qua tìm hiểu, nghiên cứu một số kỹ thuật của nghệ thuật ca hát truyền

thống chúng tôi mạnh dạn đƣa ra một số ứng dụng những kinh nghiệm xử lý,

khắc phục những khó khăn, hạn chế của tiếng Việt.

a) Xử lý những từ đóng (âm cuối là phụ âm):

Nhƣ đã nói ở mục Vần đóng, các từ có vần đóng đều không thuận lợi cho

việc mở âm - cộng minh vì buộc phải đóng từ để khẳng định từ. Đa thanh, đơn

âm tiết, số từ có vần đóng chiếm đại đa số nên các nghệ nhân nói ca hát cổ

truyền là nghệ thuật hát đóng. Cùng với quan niệm xã hội, phong tục tập quán,

hát kín miệng trở thành tiêu chuẩn của ca hát cổ truyền. Để có độ vang rền, nghệ

nhân đã sáng tạo ra cách tạo vang bằng thay thế các nguyên âm đệm đứng ở sau

từ hoặc sau câu hát:

- Em(ƣm) đi ( i à), đi chợ dốc(ứng)… (Điệu Lới Lơ - Chèo)

- Ngƣời(i) về em(ƣm) vẫn( í i ì í i í i) có (ò ó o)... (Ngƣời ở đừng về - Quan

họ Bắc Ninh).

- Tuyết (ƣ) muốn (ƣ ƣ) lấy (ƣ) ông (ƣng)/ Xƣa (hƣng ƣng) ngày/… (Hồng

Hồng Tuyết Tuyết - Ca Trù).

Trong sáng tác ca khúc chúng ta cũng thấy phƣơng pháp thay thế tƣơng tự

ở nhiều ca khúc, phần lớn trong các bài hát mang hơi thở dân ca. Với hát Mới,

vần đóng thực sự là những thách thức rất lớn. Mở chữ, không đóng chữ, có đƣợc

âm thanh nhƣng không rõ lời, hoặc sai nghĩa của câu hát, ngƣợc lại để rõ lời lại

mất âm thanh vì đóng, khép từ sớm làm tắt âm thanh, không có đƣợc âm vang.

Để khắc phục đƣợc nhƣợc điểm này ta có thể học tập cách xử lý của ca hát

truyền thống thay thế các nguyên âm, hoặc thêm âm đệm sau khi đã khép - đóng

từ (khẳng định từ) rồi đƣa lên ngạc cứng, khoang mũi tạo thành âm ngậm.Ví dụ:

- “Lúa tháng năm kén tằm vàng óng…” (Đóng nhanh lúa tốt - Lê Lôi).

+ Hát mở: “Lú.ơ tha..áng na.am ke..ến ta.àm và.a o.ó o…”

Page 114:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

114

+ Hát khép: Lúa(ớ) tháng(ứng) năm(ƣm) kén(ứng) tằm(ừm) vàng(hƣng) óng

(hứm hƣm)…”

b) Xử lý những từ trái dấu:

Những khó khăn của thanh điệu trong ngôn ngữ tiếng Việt đã nêu trên gây

rất nhiều trở ngại cho ngƣời hát, nhất là hai thanh dấu hỏi và thanh dấu ngã.

Trong một tác phẩm thanh nhạc, để hiểu và giải quyết tốt thanh điệu trong ca từ

lại phụ thuộc vào ngƣời sáng tác và ngƣời hát. Ví dụ trong câu Buổi sáng em làm

rẫy. Dấu hỏi trong từ Buổi và dấu ngã trong từ Rẫy đã gây khó khăn và lúng túng

cho ngƣời hát mỗi khi hát dòng ca từ ấy và ngƣời hát phải đổi từ Buổi thành từ

Trời. Cũng tƣơng tự, câu Đoàn giải phóng quân, phải đổi thành Đoàn vệ quốc

quân.

Trong ca hát truyền thống vì không bắt buộc phải tuân theo khuôn khổ,

cấu trúc âm nhạc có sẵn, các nghệ nhân xử lý thanh điệu bằng cách thêm luyến,

láy để rõ chữ nhƣng vẫn giữ đúng giai điệu câu hát. Nghệ nhân của các dòng ca

hát chuyên nghiệp nhƣ Ca Trù, Chèo, Tuồng, Cải lƣơng đã dành nhiều công phu

khổ luyện phát âm nhả chữ để hát tiếng nào ra tiếng nấy, để tròn vành, rõ chữ.

Thanh điệu trong ca hát truyền thống đƣợc đặc biệt quan tâm và đƣợc coi là

thƣớc đo, đánh giá giọng hát. Nhất là trong nghệ thuật Tuồng đã định ra những

quy tắc, những phƣơng pháp cụ thể xử lý thanh điệu “…thanh dấu hỏi…Tuồng

đã ấn định từ xƣa là khi phát âm ra thì xuất phát từ giọng không dấu (thanh

ngang), rồi dẫn lên thanh dấu sắc, rồi rảy giọng gọn gàng… Thanh dấu ngã, khi

phát âm ra thì nhấn giọng xuống gần hƣớng dấu nặng, rồi dẫn giọng lên hƣớng

dấu sắc, rồi ngắt giọng trọn vẹn…” [49, tr.3]. Những kỹ thuật này đƣợc gọi

chung là luyến và láy, luyến láy vừa làm rõ lời - đúng thanh dấu, vừa làm mềm

câu hát.

Page 115:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

115

Ca từ của nhiều ca khúc có dấu hỏi bị đặt ở cao độ làm sai vị trí gọi là trái

dấu, cách giải quyết tốt nhất thƣờng xử lý theo kinh nghiệm của nghệ nhân đúc

rút từ lâu đời và kinh nghiệm của giảng viên thanh nhạc.Ví dụ:

- Đoàn giải phóng quân một lần ra đi… (Đoàn giải phóng quân - Phan

Huỳnh Điểu)

Đoàn Giải phóng quân

Có bản ghi là Đoàn vệ quốc quân. Là chữ vệ hay chữ giải đều là những từ

bị đặt sai vị trí cao độ của từ vì đứng sau dấu huyền thích hợp nhất chỉ có thanh

sắc (ở quãng xa) và thanh không dấu (ở quãng gần). Trong trƣờng hợp này khắc

phục bằng cách đóng chữ sớm, trƣợt nhanh từ dƣới lên quãng 6 (thêm nốt nhỏ F#

ở trƣớc nốt chính D2 - kinh nghiệm của nghệ nhân).

- Hồn thơ Nguyễn Trãi (Trái) dệt thành vần… (Hà Tây quê lụa - Nhật Lai)

Hà Tây quê lụa

Trên bản nhạc chỉ viết nốt D, hát đúng nốt D chữ Trãi thành chữ Trái. Để

xứ lý dấu sắc thành dấu ngã bằng cách thêm nốt nhỏ C lƣớt lên nốt D (quãng 2)

- “…Dấu (dẫu) có chết ta chẳng lùi… (Tình Bác sáng đời ta - Lƣu Hữu

Phƣớc, Long Hƣng và Minh Tuyền)

Tình Bác sáng đời ta

Page 116:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

116

Trƣờng hợp này tƣơng tự nhƣ trên, thêm nốt nhỏ G luyến lên nốt A (quãng

2) sẽ sửa đƣợc dấu sắc thành dấu hỏi, chữ Dấu thành chữ Dẫu.

- “Ru con mẹ ru con, tiếng ru cà (cả) cuộc đời…(Đất nƣớc lời ru - Văn

Thành Nho)

Đất nƣớc lời ru

Ở câu này thêm nốt nhỏ G luyến lên nốt A (quãng 2) sẽ sửa chữ cà thành

chƣ cả. Tƣơng tự nhƣ vậy, trong các tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt nếu gặp

những từ - chữ ở cao độ khi hát lên làm trái dấu giọng, ngƣời hát đều có thể xử

lý nhƣ các ví dụ trên - thêm nốt nhỏ đặt ở trƣớc nốt làm sai dấu giọng luyến, láy

lên nốt chính, giúp cho vừa làm rõ lời - đúng thanh dấu, vừa làm mềm mại câu

hát, không bị đuỗn, khô cứng. Trong trƣờng hợp thêm nốt vẫn khó khăn, lúng

túng không giải quyết đƣợc, ngƣời hát có thể trao đổi với tác giả đổi chữ hoặc

đổi nốt để khắc phục nhƣ các ví dụ nêu trên.

Thêm các nốt phụ, không đƣợc lạm dụng làm ảnh hƣởng tới giai điệu của

tác phẩm, là việc làm cần thiết và đòi hỏi tới nhiều kiến thức và kinh nghiệm ca

hát. Nhiều trƣờng hợp vì tuân thủ một cách cứng nhắc vào phƣơng pháp thanh

nhạc cơ bản, hoặc hát đúng bản nhạc, thanh điệu đặt ở cao độ làm biến dạng dẫn

đến tình trạng không rõ lời, sai nghĩa hoặc nghe rất ngô nghê, nghe nhƣ ngọng…

c) Xử lý những từ điệp, câu điệp:

Trong nghệ thuật ca hát cổ truyền, các nghệ nhân xử lý rất tinh tế, khôn

khéo những từ điệp, câu điệp, không bao giờ hát từ trƣớc trùng với từ sau, câu

trƣớc trùng với câu sau. Nhƣ ví dụ chữ Tây trong điệu Lý Chiều Chiều ở mục

Dân ca (chƣơng I), lặp lại bốn lần, mỗi lần đƣợc xử lý to nhỏ, mạnh nhẹ, sáng tối

khác nhau, nhả chữ, rung giọng khác nhau đem lại màu sắc và ý nghĩa khác nhau

Page 117:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

117

cho chữ Tây. Trong Tuồng cũng có những qui định những kỹ thuật chặt chẽ cho

ngƣời hát, đƣợc lấy làm “khuôn vàng thƣớc ngọc” để luyện tập không đƣợc mắc

phải nhƣ Điệp, Đực, Đếm, Cấn, Trại, Bẹ, Hƣớt, Chát.

Điệp là nhắc lại cùng một từ không đƣợc giống nhau, nhắc lại một cách

đơn điệu. Ta thấy nghệ thuật hát cổ truyền đòi hỏi ngƣời hát không những hát

tròn vành rõ chữ, mà còn xử lý âm thanh, tình cảm đầy tính nghệ thuật. Từ

những kinh nghiệm, kỹ thuật của nghệ thuật ca hát truyền thống ta có thể ứng

dụng vào nghệ thuật hát Mới để xử lý những từ, câu điệp trong các tác phẩm

thanh nhạc tiếng Việt để tránh từ trƣớc trùng từ sau, câu trƣớc trùng câu sau, đều

đều đơn điệu. Ví dụ:

- Lớp lớp, lớp lớp điệp trùng bƣớc theo Ngƣời… (Bác Hồ sống mãi với

Tây Nguyên - Lê lôi)

Bác Hồ sống mãi với Tây nguyên

Từ điệp Lớp lớp gồm hai cụm từ ( bốn chữ lớp) đƣợc viết trên cùng cao

độ, nhắc lại hai lần. Chữ Lớp đầu ở phách yếu, chữ lớp thứ hai ở phách mạnh,

chữ lớp thứ ba ở phách yếu, chữ lớp thứ tƣ ở phách mạnh vừa. Để tránh đơn

điệu, đều đều, khi hát nhấn vào cụm từ điệp thứ nhất, thông thƣờng cụm thứ hai

không mạnh bằng cụm đầu nhƣng ở đây có thể xử lý nhấn mạnh hơn để tạo cảm

giác dòng ngƣời lớn hơn, nhiều hơn.

- Vui hát ca, hoà vui hát ca hoà dân buông lƣới…(Sông Lô - Văn Cao)

Sông Lô

Page 118:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

118

Đây là một câu hát khó vì tốc độ nhanh, nhiều chữ gây ríu lƣỡi, trƣớc khi

hát nên đọc trƣớc nhiều lần từ chậm đến nhanh để cảm nhận độ đóng mở của các

từ, sau đó mới hát cũng từ chậm đến nhanh, cụm Vui hát ca đầu nhấn mạnh, cụm

hai nhẹ đi, sắc thái theo đúng qui luật của nhịp 2/2 chữ Vui cụm đầu ở phách

mạnh, chữ Vui cụm sau ở phách mạnh vừa, nhƣ vậy câu điệp Vui hát ca không bị

đều đều, nhạt nhẽo.

- Hà Nội vùng đứng lên, Hà Nội vùng đứng lên…(Ngƣời Hà Nội -

Nguyễn Đình Thi)

Ngƣời Hà Nội

Ứng dụng cách xử lý của các nghệ nhân ca hát cổ truyền lặp lại hai lần

không giống nhau, câu Hà nội vùng đứng lên lần một hai từ Hà Nội ở phách nhẹ,

nên cả câu lần một hát nhẹ, nhắc lại lần hai cũng ở phách nhẹ nhƣng hát nhấn

vào từng từ để nhấn mạnh hơn gây cảm giác không khí sục sôi cách mạng của

ngƣời Hà Nội.

Tƣơng tự, gặp các từ điệp, câu điệp ở các tác phẩm thanh nhạc Việt nam

đều có thể ứng dụng một cách linh hoạt vào từng trƣờng hợp cụ thể nhằm nâng

cao chất lƣợng hát các tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt.

d) Xử lý những từ khó ở nốt cao

Ngôn ngữ tiếng Việt với những hạn chế nhiều âm đóng, ít vang, nhiều dấu

thanh. Tác phẩm thanh nhạc bao giờ cũng gắn liền giai điệu âm nhạc với lời -

ngôn ngữ, tác giả có thể chỉ quan tâm đến giai điệu không để ý hoặc chƣa nắm rõ

những đặc điểm, đặc trƣng của ngôn ngữ tiếng Việt nên đặt lời ca cho bài hát đã

gây không ít khó khăn, lúng túng cho ngƣời hát, nhất là đặt những từ đóng -

khép, từ có dấu hỏi, dấu ngã ở nốt cao.

Page 119:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

119

Ca hát truyền thống, thƣờng hát bằng giọng thật, giai điệu bài hát vừa phải

không quá cao, với những đặc điểm, đặc trƣng gây nhiều hạn chế cho âm thanh

hát của tiếng Việt, ông cha ta đã đúc rút những kinh nghiệm thành những kỹ

thuật nhƣ: luyến, láy, rung, nhấn, ngắt (dứt), nảy hạt… để xử lý những hạn chế

của ngôn ngữ tiếng Việt.

Trong hát Mới, hát bằng giọng cộng minh, mở rộng âm vực, đây cũng là

một trong những tiêu chí để đánh giá kỹ thuật của một giọng hát. Những nốt cao

trong tác phẩm thanh nhạc nói chung cần phải có kỹ thuật để thể hiện tốt, với

những tác phẩm tiếng Việt lại là thách thức và thách thức lớn hơn khi nốt cao đặt

từ đóng - khép hay từ có dấu hỏi, dấu ngã. Những trƣờng hợp này có thể kết hợp

kỹ thuật thanh nhạc Bel canto với kỹ thuật thanh nhạc cổ truyền để xử lý. Ví dụ:

+ “…Cùng vào mùa một ngày vui thống nhất…” (Gửi nắng cho em -

Phạm Tuyên và Bùi Văn Dung)

Gửi nắng cho em

Chữ nhất là chữ đóng vì kết bằng phụ âm t và vần buộc phải đóng sớm (từ

chết - tử vận) ât, không vang lại đƣợc đặt ở nốt cao (F#2), không thuận lợi cho

ngƣời hát. Trong trƣờng hợp này nên vận dụng kỹ thuật hát Mở, mở rộng nguyên

âm - đỉnh chữ - â, ngân kéo dài trƣờng độ (dấu nghỉ tự do) sang nốt F#2 của nhịp

sau mới đóng phụ âm t rồi đƣa về ƣng (ngậm). Chữ nhất lúc này vừa có vang,

vừa rõ chữ.

- “…Nhớ chăng đôi mắt…” (Ngƣời con gái sông La - Doãn Nho và

Phƣơng Thuý)

Page 120:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

120

Ngƣời con gái sông La

Chữ mắt tƣơng tự nhƣ chữ nhất ở trên, cũng là chữ không thuận lợi cho

hát (tử vận). Chữ mắt đƣợc đặt ở nốt G2, xử lý bằng cách nguyên âm ă mở rộng,

ngân hai phách rƣỡi, sang móc kép sau mới đóng phụ âm t ngậm ƣng.

- “… Xây cho nhà cao cao mãi…” (Những ánh sao đêm - Phan Huỳnh

Điểu)

Những ánh sao đêm

Chữ mãi có thanh dấu ngã, là thanh dấu có cấu hình phức tạp, lại đặt ở

một nốt cao (A2 - trƣờng độ 2 phách rƣỡi), không có nốt nhỏ, nếu hát đúng bản

nhạc sẽ bị đổi dấu thành mái. Để khắc phục, có thể thêm nốt nhỏ G2 trƣớc nốt

A2 (hai phách) đóng chữ mãi, thu đuôi chữ i sang nửa phách sau sẽ đƣợc chữ

mãi vừa rõ dấu, vừa rõ lời.

e) Những nghệ sĩ, ca sĩ thành công bởi kết hợp hài hoà nghệ thuật hát

mở và nghệ thuật hát khép:

Trong quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật hát Mới nhiều thế

hệ nghệ sĩ, ca sĩ tài năng đã có nhiều sáng tạo vận dụng kết hợp nghệ thuật hát

mở và hát khép với những phong cách và phƣơng pháp sáng tạo khác nhau vào

các ca khúc tiếng Việt và đã gặt hái đƣợc những thành công đáng kể nhƣ:

- NSND Quốc Hƣơng đã biết ứng dụng phƣơng pháp hát mở, tròn vành

của Bel canto để thích hợp với lối hát đóng kín đáo của tiếng Việt. Những bài hát

mà nghệ sĩ NSND Quốc Hƣơng đã dồn nhiều tâm sức sáng tạo và hát rất thành

Page 121:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

121

công nhƣ: Tình ca (Hoàng Việt), Hà Tây quê lụa (Nhật Lai), Tiểu đoàn 307

(Nguyễn Hữu Trí - Nguyễn Bính)…

- NSND Quý Dƣơng: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giọng hát của

NSND Quí Dƣơng đã vận dụng phƣơng pháp hát Mới một cách điêu luyện vào

hát những ca khúc cách mạng rất thành công nhƣ: Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm

xƣa (Nguyễn Văn Tý), Nhớ (Hoàng Vân - Nguyễn Đình Thi), Bài ca ngƣời thủy

thủ (Hoàng vân), Tôi là ngƣời thợ lò (Hoàng Vân),…

- PGS-NSND Trung Kiên: Đã vận dụng sáng tạo kỹ thuật Bel canto vào

những ca khúc Việt Nam rất “tròn vành” mà vẫn “rõ chữ”: Chào sông Mã anh

hùng (Xuân Giao), Tình ca (Hoàng Việt), Gặp nhau trên đỉnh Trƣờng Sơn

(Hoàng Hà), Đất nƣớc trọn niềm vui (Hoàng Hà),…

- NSƢT Quang Hƣng: Kết hợp sáng tạo kỹ thuật hát Mới phù hợp với

cách “nhả chữ” tiếng Việt vào những ca khúc: Tôi là Lê Anh Nuôi (Đàm Thanh),

Anh quân bƣu vui tính (Đàm Thanh), Chiếc gậy Trƣờng sơn (Phạm Tuyên), Gẩy

đàn lên hỡi ngƣời bạn Mỹ (Phạm Tuyên),…

- NSND Thanh Huyền: Đã kết hợp nhuần nhuyến kỹ thuật hát Mới với

cách hát luyến láy mềm mại của nghệ thuật hát dân gian vào các ca khúc: Đƣờng

cày đảm đang (An Chung), Hà Nội - Huế - Sài Gòn (Hoàng Vân), Trăng sáng

đôi miền (An Chung), Ngƣời ơi ngƣời ở đừng về (dân ca Quan Họ Bắc Ninh - cải

biên Xuân Tứ),…

- NSND Tƣờng Vi: Đã vận dụng một cách thuần thục nghệ thuật hát Mới

vào những ca khúc mang âm hƣởng dân gian cũng nhƣ các ca khúc Việt nam

khác: Phi đội ta xuất kích (Tƣờng Vi), Suối Lê Nin (Hà Té - Hoàng Đạm), Cô

gái vót chông (Hoàng Hiệp), Tháng ba Tây Nguyên (Văn Thắng - Thân Nhƣ

Thơ),…

- NS Bích Liên: Đã vận dụng một cách sáng tạo nghệ thật hát Bel canto

vào những ca khúc Việt Nam rất thành công: Bài ca năm tấn (Nguyễn văn Tý),

Page 122:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

122

Ngƣời là niềm tin tất thắng (Chu Minh), Nổi lửa lên em (Huy Du - Giang Lam),

Đƣờng tầu mùa xuân (Phạm Minh Tuấn),…

- NS Mỹ Bình: Ngƣời Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Làng tôi (Hồ Bắc),

Quê em (Nguyễn Đức Toàn),…

- NGƢT Diệu Thuý: Lô Giang (Lƣơng Ngọc Trác), Quê em (Nguyễn Đức

Toàn), Trƣờng ca sông Lô (Văn Cao)…

- NSƢT Kiều Hƣng: Cảm xúc tháng Mƣời (Nguyễn Thành - Tạ Hữu

Yên), Em ở nơi đâu (Phan nhân), Tiếng đàn bầu (Nguyễn Đình Phúc-Lữ

Giang),…

- NSƢT Tuyết Thanh: Nổi trống lên rừng núi ơi (Hoàng Vân), Bài ca Hà

Nội (Vũ Thanh), Miền nam nhớ mãi ơn Ngƣời (Lƣu Cầu), Hẹn mùa mƣời tấn

năm sau (Tô Hải),…

- NSƢT Quang Phác: Hồ trên núi (Phó Đức Phƣơng), Hò biển (Nguyễn

Cƣờng), Huyền thoại hồ núi Cốc (Phó Đức Phƣơng),…

- NSND Quang Thọ: Ta tự hào đi lên, ôi! Việt nam (Chu Minh), Sông Lô

(Văn Cao), Tôi là ngƣời thợ lò (Hoàng Vân), Lá đỏ (Hoàng Hiệp), Tình ca

(Hoàng Việt), Những thành phố bên bờ biển cả (Phạm Đình Sáu)…

- NSƢT Thuý Hà: Cánh chim báo tin vui (Đàm Thanh), Anh bộ đội và

chiếc xe quệt (Nguyễn Lầy - Tuấn Long), Cô Sao (Vai cô Sao trong nhạc kịch

cùng tên của Đỗ Nhuận), Suối Lê - Nin (Phạm Tuyên), …

- NSND Lê Dung: Anh ở đầu sông em cuối sông (Phan Huỳnh Điểu -Hoài

Vũ), Gửi em ở cuối sông Hồng (Thuận Yến - Dƣơng Soái), Bài ca hy vọng (Văn

Ký), Đƣờng chúng ta đi (Huy Du)…

Và rất nhiều nghệ sĩ, ca sĩ các thế hệ sau cũng đã và đang kế thừa, tiếp tục

học tập noi gƣơng các thế hệ nghệ sĩ đi trƣớc và cũng có đƣợc những thành công

nhất định nhƣ: Đăng Dƣơng, Anh Thơ, Trọng Tấn, Lan Anh, Bích Thuỷ…

2.2 Một số bài tập nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt

Page 123:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

123

2.2.1. Luyện tập nguyên âm:

Ngôn ngữ nào có màu sắc của ngôn ngữ ấy, nhƣ các nhà sƣ phạm thanh

nhạc nổi tiếng Re Kotster, Richard Miller...đã nói các nguyên âm của các ngôn

ngữ đều có vị trí âm thanh giống nhau, nếu có khác nhau chỉ khác về màu âm

(âm i: tiếng Italia tròn, ấm, đục. Tiếng Pháp mũi, nhọn, chua. Tiếng Việt bẹt,

mỏng, sáng…).

Để sinh viên nhận biết đƣợc vị trí, độ mở và cảm nhận đƣợc màu sắc của

các nguyên âm tiếng Việt có thể chia làm các bƣớc thực hành:

Bƣớc một:

Phát âm chuỗi nguyên âm theo trình tự, rồi đảo vị trí theo nhóm, sau đó

phát âm, đan xen (nói từ chậm, kéo dài, đến nhanh, dứt tiếng):

+ I /Y – E – Ê – A – Ă – Â – O – Ô – U – Ƣ.

+ A – Ơ – Ƣ – E – Ê - I/Y – O – Ô – U.

+ A – U – Ơ – Ƣ – Ê – O – E – I – A.

+ I/Y – Ê – A – Ô – U.

Bƣớc hai:

- Phát âm mở rộng nhƣ - hát kéo dài trên cùng độ cao, lắng nghe, nhận

diện màu sắc nguyên âm:

I – ê – a – ơ – ô – u (khẩu hình mở dần theo chiều dọc) hát ngƣợc lại

U – ô – ơ – a – ê – i (khẩu hình thu dần theo chiều dọc, các nguyên âm

cùng vị trí âm thanh mỏng trƣớc mặt, gần với tiếng nói tự nhiên).

- Luyện tập thang âm 5 (5 âm phổ thông) của âm nhạc đồng bằng Bắc Bộ:

Page 124:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

124

1)

2)

Luyện tập thay đổi vị trí nguyên âm tạo sự so sánh vị trí, độ mở và màu

sắc của nguyên âm trên những giai điệu liền bậc, nhảy quãng và chuyển động

chậm.

Bài tập với các quãng phổ thông trong dân ca và ca khúc Việt Nam. Chọn

một số nguyên âm thƣờng đƣợc sử dụng với vai trò mở rộng âm thanh làm

nhiệm vụ thay thế nhƣ A, I, Ô, Ơ, U, Ƣ...

1)

2)

3)

Page 125:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

125

4)

5)

6)

7)

8)

9)

Bƣớc ba:

Nghe nghệ nhân hát hoặc tập hát một số làn điệu có nguyên âm thƣờng sử

dụng để mở rộng âm thanh, và làm âm thay thế, đặc trƣng của từng loại hình ca

hát dân gian nhƣ A, I, Ô, Ơ, U, Ƣ… để xác định, cảm nhận màu sắc và vị trí một

số nguyên âm trong các dòng ca hát truyền thống. Hiểu đƣợc những đặc trƣng về

Page 126:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

126

màu sắc của nguyên âm, phần nào sẽ thể hiện tốt hơn những ca khúc tiếng Việt

và đặc biệt những ca khúc viết theo phong cách dân gian.

Bắt đầu tập từ phát âm nói chậm đến hát nguyên âm trong những câu dân

ca cổ. Sau đó tìm những nguyên âm tƣơng ứng trong ca khúc Việt Nam để so

sánh, cảm nhận đƣợc màu âm của từng nguyên âm tiếng Việt.

Một số nguyên âm trong những câu dân ca quen thuộc:

a) Nguyên âm A:

- Nguyên âm a trong Chầu Văn:

+ Câu 1:

+ Câu 2:

- Nguyên âm A trong Chèo:

b) Nguyên âm Ô và nguyên âm Ơ:

- Trong Quan Họ BN:

+ Điệu Hoa thơm bƣớm lƣợn:

Page 127:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

127

+ Điệu Ngả Nón ra ngồi:

c) Nguyên âm I:

- Trong dân ca Bắc Bộ:

+ Điệu Thoả nỗi nhớ mong - Quan Họ Bắc ninh

+ Điệu Xe chỉ luồn kim – Quan Họ Bắc Ninh

- Trong hát Chèo:

+ Điệu Cách Cú

+ Điệu Trấn thủ lƣu đồn:

d) Nguyên âm U, Ƣ:

+ Điệu Ra ngõ mà trông - Quan Họ BN

Page 128:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

128

+ Hát Nam Xuân - Tuồng

2.2.2 Luyện tập phụ âm đầu - kết hợp với vần đóng:

ởi thanh (phát âm âm đầu) đẹp đúng theo

tiếng ần ƣợc

điểm để đƣ

(nhất là phụ âm) do học sinh có lỗi bẩm

sinh, hay nói giọng địa phƣơng hoặc phát âm phụ âm đầu

do t ẹ , không rõ

lời, hát òn , nuốt chữ. Phát âm chuẩn

phụ âm đầu nhƣng không xác định đƣợc độ đóng, mở của từ hợp lý, khi hát sẽ bị

đóng - khép chữ quá nhanh làm cho câu hát không vang, âm thanh bẹt, mỏng,

vụn dời dạc, hoặc mở quá, không đóng chữ nghe nhƣ bị ngọng, “nhồm nhoàm”

không rõ lời. Khắ

âm đầu, kết hợp với vần đóng, vần mở của ca từ (đặc biệt những ngƣời nói giọng

địa phƣơng tập phát âm đúng phụ âm đầu giọng Hà Nội):

Bƣớc một:

Phát âm, đọc chậm ca từ của bài hát (giúp ngƣời hát dễ dàng xác định

đƣợc vị trí đúng của phụ âm đầu) đọc nhiều lần, phát hiện nhƣợc điểm trong phát

âm phụ âm đầu, giáo viên hƣớng dẫn học sinh sửa chữa. Có thể chọn ca khúc có

ca từ chứa nhiều phụ âm đầu cùng loại nhƣ:

“…Em ơi nghe chăng lời trái (chái) tim vọng ra. Rung (dung) trong

không gian (dan) mặt biển sôi (xôi) ầm vang. Qua núi biếc chập trùng (chùng)

Page 129:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

129

xa xa. Qua bóng mây che mờ quê ta. Tiếng ca đời đời chung thủy thiết tha…”

(Tình ca - Hoàng Việt).

Dòng ca từ này đầy đủ các dạng phụ âm đầu mang đặc trƣng nhẹ hóa của

giọng nói Hà Nội, tất cả TR, S, GI, R đều đƣợc chuyển thành CH-D-X.

Bƣớc hai:

Đọc chậm dòng ca từ diễn cảm nhƣ đọc thơ có quá trình mở, đóng từ (phụ

âm - nguyên âm - phụ âm) diễn ra chậm nhất nên dễ cảm nhận đƣợc độ đóng, mở

hợp lý của từng từ. Phân biệt từ đóng, từ mở, vần đóng nhanh, vần đóng chậm

(tuỳ thuộc vào từng câu, từng bài cụ thể).

Ví dụ: Cùng một từ “đàn” nhƣng đóng chữ nhanh, chậm khác nhau:

- “Em ơi, vút lên một tiếng đàn (đa..àn)…” (Âm thanh ngày mới - Văn

An).

- “Lắng tai nghe đàn bầu…” (Tiếng đàn bầu - Nguyễn Đình Phúc).

Chữ đàn trong bài Âm thanh ngày mới đóng chậm (nguyên âm a mở rộng

rồi mới đóng) hơn chữ đàn (nguyên âm a không mở, đóng luôn phụ âm n) trong

bài Tiếng đàn bầu.

Bƣớc ba:

Đọc theo tiết tấu, cao độ. Sau cùng là hát.

Tóm lại, để góp phần hát tốt một tác phẩm tiếng Việt nên:

1) Sau khi đã luyện thanh (theo phƣơng pháp hát mở), trƣớc khi hát, ngƣời

hát phát âm, nói, đọc chậm các nguyên âm để cảm nhận rõ màu sắc, vị trí âm

thanh của từng nguyên âm tiếng Việt.

2) Luyện tập phụ âm đầu, khắc phục lỗi bẩm sinh và thói quen phát âm

theo tiếng địa phƣơng (phƣơng ngữ)

3) Phối hợp âm đầu với vần. Phân biệt vần mở, vần đóng, vần đóng nhanh

và vần đóng chậm.

Page 130:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

130

4) Khắc phục những ca từ trái dấu bằng cách thêm nốt nhỏ ở trƣớc nốt

chính luyến lên hoặc luyến xuống (không nên quá lạm dụng, chữ nào cũng

luyến).

5) Nghe và học tập các nghệ sĩ hát tốt tiếng Việt với những phong cách và

phƣơng pháp sáng tạo khác nhau.

6) Nghe nghệ nhân và tìm ra các bài học trong nghệ thuật phát âm nhả chữ

tiếng Việt, tròn vành rõ chữ, khép tiếng mà vẫn Vang, rền, nền, nẩy.

7) Nói - Đọc - Hát nên lấy làm phƣơng pháp luyện tập thanh nhạc (trƣớc

khi hát phải đọc kỹ phần lời - ca từ, tập nói từng từ, từng câu).

2.2.3 Luyện tập một số làn điệu trong nghệ thuật ca hát truyền thống để

ứng dụng vào nghệ thuật hát Mới:

a) Một số bài Hát ru & Ngâm thơ - ứng dụng vào những bài gần gũi với

Hát ru & Ngâm thơ

- Ngâm thơ: Dáng đứng bến tre (Nguyễn Văn Tý), Bài ca ngƣời thuỷ thủ

(Hoàng Vân)…

- Ru con (Bắc Bộ): Mẹ yêu con (Nguyễn Văn Tý)…

b) Một số làn điệu dân ca - ứng dụng vào những bài gần gũi với dân ca:

- Quan Họ: Hồ trên núi, Huyền thoại hồ núi Cốc (Phó Đức Phƣơng)...

- Trống Quân: Vui mở đƣờng (Đỗ Nhuận), Từ thủa vua Đinh (Nguyễn

Cƣờng)…

- Miền núi: Cô giáo Tày cầm đàn lên đỉnh núi (Văn Ký), Em chọn lối này

(An Thuyên)…

c) Một số làn điệu trong Chèo, Xẩm, hát Văn - ứng dụng những bài gần

gũi với Chèo, Xẩm, hát Văn:

- Chèo: + Điệu Lới Lơ: Đóng nhanh lúa tốt (Lê Lôi), Đợi (Huy Thục - Vũ

Quần Phƣơng)…

Page 131:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

131

+ Điệu “Con gà rừng” (Chèo cổ): Đế quốc Mỹ là cái thân con ruồi

(Trọng Bằng), Em ở nơi đâu (Phan Nhân)…

- Xẩm: Lời ngƣời ra đi (Trần Hoàn), Về quê (Phó Đức Phƣơng)...

- Hát Văn: Tình ngƣời Hà Nội (Văn Thành Nho), Đàn Cầm dây vũ, dây văn

(Nguyễn Cƣờng), Nghe em câu hát Văn chiều nay (Nguyễn Cƣờng) …

d) Ca trù - ứng dụng những bài gần gũi với Ca Trù:

- Hát nói, Miễu: Một thoáng Tây Hồ (Phó đức Phƣơng), Hà Nội linh thiêng

hào hoa (Lê Mây), Một khúc ca trù ngày xuân (Nguyễn Cƣờng),...

- Lẩy Kiều - Ca trù: Trăng khuyết (Huy Thục, thơ Phi Tuyết Nga)…

e) Tuồng - ứng dụng những bài gần gũi với Tuồng:

- Biển mũi (Phó Đức Phƣơng), Hồn đá (Ngọc Quang), Côn Sơn - Nguyễn

Trãi (Lê Mây)…

….Tham khảo thêm ở phần phụ lục.

Page 132:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

132

TIỂU KẾT CHƢƠNG II

Hát bằng ngôn ngữ tiếng Việt làm cho âm thanh vang rền với nghệ thuật

hát Mới không gặp nhiều khó khăn, nhƣng hát tròn vành rõ chữ thì gặp nhiều

khó khăn (nhiều âm đóng, đa thanh, đơn âm…) muốn khắc phục những khó khăn

này giảng viên thanh nhạc, ca sĩ cần phải tìm hiểu, nắm rõ tiến trình đóng, mở

của ngôn ngữ tiếng Việt để biết đƣợc những nguyên nhân gây khó khăn, hạn chế

trong ca hát, để tìm hƣớng giải quyết.

Giảng viên phát hiện những nhƣợc điểm phát âm của học sinh, sinh viên

thanh nhạc, đƣa ra một số bài tập cụ thể để sửa chữa những nhƣợc điểm đó. Tìm

học, cảm nhận màu sắc của một số những nguyên âm trong các làn điệu trong

nghệ thuật ca hát cổ truyền thƣờng đƣợc dùng để mở rộng âm thanh và làm âm

thay thế đặc trƣng của từng loại hình ca hát truyền thống (A, I, Ô, U, Ƣ…) để

cảm nhận, tìm ra màu sắc, phong cách, hát vừa “tròn vành”, vừa “rõ chữ” ứng

dụng vào từng bài hát tiếng Việt góp phần thể hiện, biểu diễn tốt hơn những tác

phẩm hát Mới và đặc biệt những ca khúc viết theo phong cách dân gian.

Lấy Nói - Đọc - Hát làm phƣơng pháp luyện tập thanh nhạc sử dụng trong

đào tạo của nhà trƣờng góp phần nâng cao chất lƣợng hát tốt tiếng Việt trong các

tác phẩm thanh nhạc Việt Nam, xoá dần khoảng cách giữa nhà trƣờng và biểu

diễn trên sân khấu ca hát của học sinh thanh nhạc.

Page 133:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

133

KẾT LUẬN

Lời (ca từ) và nhạc là hai phần không thể tách rời tạo nên tác phẩm âm

nhạc có lời. Một tác phẩm thanh nhạc (âm nhạc có lời) có giá trị và phẩm chất

nghệ thuật cao, có sức sống lâu bền, vƣợt thời gian không thể có cấu trúc âm

nhạc rời rạc, có lời ca trái dấu, nội dung mờ nhạt, vô cảm. Tác phẩm âm nhạc

cần phải đƣợc vang lên vì vậy vai trò của ngƣời thể hiện - ngƣời hát chính là vai

trò của ngƣời sáng tạo thứ hai có tính quyết định sống còn của tác phẩm đó.

Ca hát phong phú, đa dạng, đa phong cách, đa thể loại. Ngƣời hát muốn

hát tốt tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới, ngoài những yếu tố cần có nhƣ giọng

hát tốt, kỹ thuật thanh nhạc tốt, kiến thức âm nhạc, cảm nhận âm nhạc, kỹ năng

thể hiện, biểu diễn… chọn lựa thể loại, phong cách cho phù hợp với sở thích,

giọng hát, khả năng của mình (thính phòng cổ điển, dân gian, nhạc nhẹ...) còn

cần phải tìm hiểu, đặc điểm, cấu trúc, nắm vững những kiến thức cơ bản chuyển

động đóng, mở âm của ngôn ngữ tiếng Việt.

Kỹ năng cơ bản của nghệ thuật ca hát truyền thống đặc biệt là nghệ thuật

ca hát chuyên nghiệp nhƣ Ca Trù, Chèo, Tuồng đều sinh ra từ tiếng Việt, lấy

tiếng Việt làm bài luyện tập và trau dồi không chỉ cho lúc đầu vào nghề mà trong

suốt đời làm nghề. Những tiêu chí nhƣ tròn vành, rõ chữ, vang, rền, nền, nảy

chính là những mục tiêu mà bất kỳ ngƣời theo nghề nào cũng phải đạt tới. Để

“tròn vành rõ chữ” phải luyện tập phát âm và nhả chữ. Phát âm có khởi âm - mở

âm (âm chính) - đóng chữ. Nhả chữ là quá trình đóng, mở chữ đạt đƣợc Hát

tiếng một, hát từ nào ra từ đó. Kỹ thuật phát âm, nhả chữ này còn gọi là hát khép

hay hát đóng chữ. Nghệ nhân đúc kết kinh nghiệm thành những kỹ thuật, tuy

Page 134:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

134

không thành văn, nhƣng những kỹ thuật đó luôn đƣợc các thế hệ kế tiếp lấy làm

“khuôn vàng thƣớc ngọc”, làm phƣơng hƣớng và phƣơng pháp luyện tập.

Hát đƣợc “tròn vành rõ chữ” là do luyện tập cất thanh nhả chữ, “hát từ

một” ứng dụng vào từng câu để “vang, rền” câu hát. Để có “vang, rền” cần phải

mở rộng âm thanh của nguyên âm. Nhƣng nếu mở quá lớn, tiến trình đóng chữ

sẽ bị kéo dài nghe nhƣ ngọng hay không rõ lời. Vì vậy mức độ mở của từ cần

đƣợc cân nhắc kỹ lƣỡng. Mở thanh không thô, không lạm dụng, giọng hát sẽ

vang, rền, nền nã. Và để câu hát thêm sinh động nghệ thuật ca hát dân gian từ hát

Quan Họ, Chèo, Ca Trù, Chầu Văn, Tuồng… đều sáng tạo ra nhiều kỹ thuật phụ

trợ nhƣ hát nảy, luyến, láy, rung. Mức độ và kỹ thuật xử lý ca từ (ngôn ngữ) có

nhiều điểm khác nhau nên đã tạo ra hiệu quả riêng biệt. Các nghệ nhân phải

luyện tập kỹ, đặt vị trí nguyên âm thích hợp nhất để vừa có vang, vừa có màu

âm, gọi là có “giọng”. Giọng trở nên vang, trong sáng, tránh lạm dụng làm ảnh

hƣởng đến nhịp độ, đóng, khép chữ. Thanh điệu tiếng Việt phong phú, quyết

định vị trí âm thanh của từng từ. Vị trí cao thấp của thanh điệu nếu bị đảo ngƣợc

gọi là trái dấu sẽ làm thay đổi ý nghĩa của từng từ. Ngƣời hát phải biết “bẻ bai”

chữ để tìm lại vị trí đúng của thanh điệu, khắc phục lỗi của ca từ không thích ứng

với giai điệu. Trong ca hát dân gian, ngƣời hát đƣợc tự do xử lý hơn so với nghệ

thuật hát Mới, nghệ thuật thể hiện những tác phẩm sáng tác theo một khuôn mẫu

(tất cả nguyên âm, phụ âm đều mở). Nhiều trƣờng hợp, ngƣời hát không khắc

phục đƣợc do lỗi trên bản nhạc thì phải đổi ca từ.

Bên cạnh những yêu cầu nhƣ “tròn vành rõ chữ”, “vang, rền, nền, nảy”, ca

hát dân gian truyền thống còn tạo ra sự khác biệt bởi vị trí âm thanh giọng hát.

Những khái niệm nhƣ hát “hơi ngoài” của Chèo, hát “hơi trong” của Ca trù, hát

“hơi ngực” của Tuồng xuất phát từ nhận thức, tƣ duy thẩm mỹ, nghệ thuật biểu

hiện, từ môi trƣờng và điều kiện diễn xƣớng của từng dòng nghệ thuật. Để phù

hợp với phƣơng pháp thanh nhạc của mình, mỗi dòng ca hát truyền thống lại

Page 135:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

135

chọn ra cho mình một hoặc hai nguyên âm đặc trƣng: Chèo nguyên âm i, hát Văn

nguyên âm a và i, Ca trù nguyên âm ƣ đƣợc đẩy lên mũi thành ƣng. Tuồng cũng

là ƣ nhƣng từ cổ họng bật mạnh ra ngoài thành hƣ…

Nghệ thuật hát Bel canto hay nghệ thuật hát Mở sinh ra từ ngôn ngữ đơn

thanh, đa âm tiết nhƣ tiếng Italia, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga…

Những ngôn ngữ đơn thanh, đa âm tiết thƣờng lấy tiếng Ý là ngôn ngữ chuẩn

cho nghệ thuật hát Bel canto vì nguyên âm chiếm phần lớn trong cấu trúc từ

(ngƣợc lại tiếng Việt, từ đóng - từ kết bằng phụ âm chiếm quá nửa tới 70 - 80%

tổng số từ).

Trong thực tiễn giảng dạy, những bài tập luyện thanh theo phƣơng pháp

Bel canto hát tác phẩm thanh nhạc nƣớc ngoài - ca từ tiếng nƣớc ngoài học sinh

thanh nhạc tiếp thu và hát tốt nhƣng ứng dụng vào tác phẩm thanh nhạc Việt

Nam và tác phẩm thanh nhạc nƣớc ngoài lời Việt đều gặp nhiều khó khăn.

Những khó khăn đó chính là kỹ thuật thanh nhạc Bel canto (nghệ thuật của ngôn

ngữ đa âm, hát Mở) đƣợc sử dụng vào hát tiếng Việt (ngôn ngữ đa thanh, đơn

âm, hát khép, nhiều vần đóng). Ngôn ngữ trở thành rào cản, thách thức nếu

không nắm vững những kiến thức về cấu trúc âm thanh của tiếng Việt để giải

quyết chúng. Muốn vƣợt qua thách thức khó khăn của ngôn ngữ cũng nhƣ để

dung hoà phƣơng pháp thanh nhạc Mới để thể hiện tốt những tác phẩm thanh

nhạc tiếng Việt trong biểu diễn và trong đào tạo cần hiểu, nắm vững kiến thức cơ

bản về cấu trúc âm thanh tiếng Việt, so sánh giữa nói và hát, ứng dụng kinh

nghiệm, kỹ thuật của nghệ nhân (đặc biệt các dòng ca hát dân gian chuyên

nghiệp gắn liền với tiếng Việt phổ thông). Đề ra các bài tập vừa có tính lý thuyết

vừa có tính thực hành và ứng dụng. Thống kê, sắp xếp những ca khúc và những

làn điệu dân ca có mối quan hệ gần gũi với nhau để sinh viên có cơ sở so sánh,

học tập và ứng dụng.

Page 136:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

136

Những kết quả đóng góp mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của

luận án

1) Là công trình nghiên cứu chuyên sâu về hiểu và nắm vững kiến thức cơ

bản, đặc trƣng, đặc điểm cấu trúc âm thanh, chuyển động đóng, mở của ngôn

ngữ tiếng Việt, học tập phƣơng pháp xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong nghệ thuật

ca hát truyền thống để vận dụng vào trong công tác đào tạo, biểu diễn thanh nhạc

giúp ngƣời hát:

+ Sửa những khuyết tật về phát âm. Xác định đƣợc vị trí âm thanh. Cảm

nhận đƣợc màu âm từng nguyên âm của mỗi thể loại ca hát truyền thống, của các

vùng miền khác nhau.

+ Hiểu rõ nội dung lời ca. Cảm nhận rõ đƣợc hơi thở khi nói để vận dụng

vào hát.

+ Hát rõ lời. Nhả chữ “tiếng nào ra tiếng nấy”, nhấn nhá vào từng từ, hát

tiếng trƣớc không trùng tiếng sau, mở tiếng, đóng tiếng gọn đạt tiêu chí “tròn

vành rõ chữ”. Nhả chữ không làm biến dạng, sai nghĩa của từ mất đi bản sắc dân

tộc của ngôn ngữ, giữ đƣợc “màu” tự nhiên của giọng hát.

2) Nắm vững qui luật phát âm và những đặc trƣng cơ bản của ngữ âm

tiếng Việt, xử lý một cách linh hoạt, vận dụng vào từng tác phẩm thanh nhạc

tiếng Việt trong và ngoài giáo trình trung cấp và đại học thanh nhạc trong nhà

trƣờng.

3) Hệ thống, phân loại, sắp xếp những ca khúc và những làn điệu dân ca

có mối quan hệ gần gũi để sinh viên có cơ sở so sánh, học tập và ứng dụng.

4) Đề xuất những mẫu âm mới, sửa những phát âm chƣa chuẩn, học tập

kinh nghiệm xử lý những từ bị trái dấu, những từ đóng, từ điệp, câu điệp… trong

nghệ thuật ca hát truyền thống, góp phần đào tạo những ca sĩ, nghệ sĩ biểu diễn

các tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt đạt yêu cầu về kỹ thuật cũng nhƣ không làm

Page 137:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

137

mất đi bản sắc dân tộc của ngôn ngữ tiếng Việt góp phần rút ngắn khoảng cách

giữa nhà trƣờng và sân khấu ca hát.

5) Giáo dục học sinh, sinh viên thanh nhạc ý thức giữ gìn, bảo tồn, phát

huy vốn nghệ thuật ca hát truyền thống.

6) Có tính ứng dụng trong đào tạo và biểu diễn trong nhà trƣờng cũng nhƣ

trên sân khấu.

7) Làm tài liệu tham khảo cho sáng tác thanh nhạc.

8) Bổ sung thêm cho giáo trình giảng dạy thanh nhạc giúp cải thiện một số

hạn chế trong hát tiếng Việt nhằm Nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt, góp phần

xây dựng nền thanh nhạc Việt Nam “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.

Một số kiến nghị

1- Các khoa Thanh nhạc và các trung tâm đào tạo thanh nhạc trên toàn

quốc nên đƣa môn học Kiến thức cơ bản về cấu trúc âm thanh của ngôn ngữ

tiếng Việt vào chƣơng trình đào tạo, góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lƣợng

giảng dạy và biểu diễn.

2- Giảng viên thanh nhạc cần phải nắm vững kiến thức cơ bản của ngôn

ngữ tiếng Việt nhằm chỉnh sửa cho học sinh những nhƣợc điểm về phát âm, nhả

chữ trong các tác phẩm tiếng Việt, xác định đúng vị trí, màu âm, hơi thở… của

âm thanh góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo hát những tác phẩm thanh nhạc

tiếng Việt.

3- Sáng tác cho thanh nhạc cần lƣu tâm nhiều hơn đến đặc điểm, đặc

trƣng của ngôn ngữ tiếng Việt, tìm hiểu về tính năng của “nhạc cụ sống” (giọng

hát) giúp ngƣời hát giải quyết, cải thiện một số hạn chế, khó khăn, lúng túng

trong xử lý ngôn ngữ (trái dấu, từ khó, từ đóng đặt ở nốt cao…) cũng nhƣ góp

phần giúp ngƣời hát hát hay hơn, đào tạo đạt đƣợc chất lƣợng cao hơn.

Page 138:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

138

Đề tài Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát

Mới là công trình nghiên cứu chuyên sâu về phƣơng cách xử lý ngôn ngữ tiếng

Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống, kết hợp với kỹ thuật hát Mới vận dụng

vào tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt để có đƣợc âm thanh đạt yêu cầu mà vẫn giữ

đƣợc bản sắc dân tộc của tiếng Việt, không bị biến dạng, sai nghĩa của từ, đảm

bảo “tròn vành rõ chữ”… Nội dung của luận án thể hiện lòng mong muốn đóng

góp một phần nhỏ bé vào đào tạo thanh nhạc nói riêng và có thể là gợi ý cho các

nghiên cứu tiếp theo về lý luận, sáng tác và biểu diễn nghệ thuật ca hát nói

chung.

Page 139:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

139

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ

1. Trần Ngọc Lan: “Vài suy nghĩ về nâng cao tính dân tộc trong nghệ thuật

ca hát Việt Nam đƣơng đại”. Tạp chí Âm nhạc Việt Nam & thời đại, số

4, năm 2006.

2. Trần Ngọc Lan: “Tôi thật sự muốn học cách hát từ bụng

lên…”(Thanh nhạc Quan họ Bắc Ninh). Tạp chí Âm nhạc Việt Nam,

1 - 2009

3. Trần Ngọc Lan: “Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát”. Tạp chí Nghệ

thuật biểu diễn, số 7, tháng 6 – 2009.

4. Trần Ngọc Lan: “Tìm hiểu kỹ thuật hát Tuồng”. Tạp chí Văn hoá

Nghệ thuật, 10- 2009

Page 140:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

140

PHỤ LỤC

HỆ THỐNG MỘT SỐ CA KHÚC MANG ÂM HƢỞNG DÂN GIAN

TT Âm

hƣởng

Tên bài Tên tác giả

I

Hát ru

-Câu hát mẹ ru

-Khúc hát ru của ngƣời K’ho

-Mẹ yêu con

-Ru con trong mƣa mùa xuân

-Suối nguồn

-Từ trên đỉnh núi

-Tiếng ru đêm

Phạm Tuyên

Trần Hoàn, Trần Ngọc

Nguyễn Văn Tý

Đặng Hữu Phúc

Trƣơng Ngọc Ninh

Nguyên nhung

Tuấn Phƣơng

II

Thơ

-Dáng đứng Bến Tre

-Tâm tình của ngƣời thuỷ thủ

-Trăng khuyết (lẩy Kiều)

Nguyễn Văn Tý

Hoàng Vân

Huy Thục

III Dân ca

1

Quan họ

-Bắc Ninh – Kinh Bắc

-Hồ trên núi

-Khi xe tăng qua miền Quan họ

-Những cô gái Quan họ

-Ngày xuân Quan họ

-Nghe câu Quan họ trên cao

nguyên

-Tôi về ngẩn ngơ

-Từ phƣơng em, từ phƣơng anh

-Qua lới nọ Hạ Long

Lê Mây

Phó Đức Phƣơng

An Thuyên

Phó Đức Phƣơng

Lê Mây

Vũ Thiết, Hữu Chỉnh

Nguyễn Cƣờng

Văn Thành Nho

Trƣơng Ngọc Ninh

2 Trống

quân

-Từ thủa vua Đinh

-Vui mở đƣờng

Nguyễn Cƣờng

Đỗ Nhuận

3

Dân ca

miền núi

phía Bắc

-Ánh trăng hồ núi Cốc

-Âm vang Điện biên

-Bác Hồ ở Tân Trào năm ấy

-Bài ca mùa xuân

-Bài ca trên núi

Đặng An Nguyên

Lê Mây

Đinh Tiến Bình

Mông Lợi Chung

Nguyễn Văn thƣơng,Tô

Page 141:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

141

3

Dân ca

miền núi

phía Bắc

-Bài ca bên suối

-Bản Mƣờng trong nắng mới

-Bảy sắc cầu vồng

-Bảy dòng suối hát

-Bức tranh xứ Lạng

-Bác Hồ ở Tân trào năm ấy

-Biến đất ma thành ra đất cày

-Bình minh sông Đà

-Bông hoa tám cánh

-Cầu về bản em

-Câu Sli xứ Lạng

-Câu Sli mùa xuân xứ Lạng

-Cây đào Sơn La

-Chuyện tình Trƣờng Sa

-Chào Sơn La

-Chào Yên Bái thành phố mùa

xuân

-Cô giáo đến bản Mƣờng

-Cô giáo Tày cầm đàn lên đỉnh

Núi

-Cô giáo vùng cao

-Con dao làm nƣơng cây súng

giữ bản

-Con trai ngƣời Pa Dí

-Con trai, con gái bản em

-Con trâu sắt

-Chị Mai đi chợ

-Chín bậc tình yêu

-Chiều trên bản Mèo

-Chợ xuân Bắc Hà

-Chú bò vàng

-Cung văn hoá thiếu nhi Lạng

Sơn

-Dấu chân trên rừng

-Đàn tính bên sàn

-Đêm trên Cha – Lo

-Đêm Mộc Châu

-Đi tìm bóng núi

-Địu con đi nhà trẻ

Hoài

Trịnh Lại

Nhật Lai

Nguyễn Lầy, Tuấn Long

Vi Tơ

Lê Mây

Đinh Tiến Bình

Trọng Bằng

Văn Thành Nho

An Chung

Bàng Thúc Hiệp

Đinh Quang Khải

Lê Tịnh

Đặng Đình Lâm

Lê Mây

Trần Hoàn

Trọng Bằng

Lƣơng Hải, Nghiêm Nhan

Văn Ký

Hoàng Lân – Hoàng Long

Phan Nhân

Lê Trọng Hùng,Pờ Xảo Mìn

Lê Mây

Trần Chƣơng

Lê Lan

An Thuyên

Vƣơng Vình, Mai Liễu

Lê Mây,Phùng Ngọc Hùng

Hoàng Vân

Lê Mây

Vĩnh An

Vƣơng Khon

Phạm Tuyên

Trần Hoàn

An Thuyên

Đào Ngọc Dung

Page 142:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

142

3

Dân ca

miền núi

phía Bắc

-Điện Biên mùa lúa

-Điều chƣa thấy trong văn tự

ngƣời Dao

-Đợi nàng

-Đợi chờ anh em vẫn chờ

-Đƣờng về Tân Trào

-Đƣờng về xứ hoa đào

-Em bé Mƣờng La

-Em ca Sơn La

-Em chọn lối này

-Gửi về Bắc Kạn em ơi

-Gió Chiềng đi

-Gió Ô quy hồ

-Giữ cho em mùa hoa đào

-Hà Giang quê tôi

-Hát về nguồn suối

-Hát từ thủ đô gió ngàn

-Hạt thóc hạt tình

-Hoa hồng trên điểm tựa

-Hoa sim biên giới

-Hƣơng hồi xứ Lạng

-Kim Bon bản Mèo đổi mới

-Khâu áo

-Lạng Sơn lung linh mƣa ngàn

-Lời cây đàn tính quê em

-Lòng mẹ

-Lời ca của núi

-Mã Pì Lèng

-Mùa xuân ấy anh ra đi

-Mở đƣờng qua Mã Pì Lèng

-Mẹ đảm con ngoan

-Mời anh lên Mộc Châu

-Mộng mị Sa pa

-Mùa trẩy lê

-Mùa xuân gọi bạn

-Nao nao Thác Bà

-Nổi trống lên rừng núi ơi

-Nỗi băn khoăn của chị Lả

-Nơi áo chàm hồ xanh Ba Bể

Hoàng Hà

Lê Tịnh

Phó Đức Phƣơng

Văn Thành Nho

Lê Mây

An Thuyên

Trần Ngọc Xƣơng

Hoàng Tạo

An Thuyên

Phan Nhân

Lê Tịnh

Phó Đức Phƣơng

Bảo Chung

Thanh Phúc

Cầm Minh Thuận

Tuấn Phƣơng

Mào Ết

Hồ Bắc

Minh Quang, Đặng Ái

Ngô Quốc Tính

Trịnh Lại

Nguyễn Văn Tý

Lê Mây

Nguyễn Đức Toàn

Hoàng Tú

- - - - - - -

Lê Mây, Phùng Ngọc Hùng

Tân Huyền

Hoành Nguyễn

Lê Mây

Trần Hoàn

Phó Đức Phƣơng

Nguyễn Trọng Tạo,Tùng

Linh

Huyền Tuân

Phó Đức Phƣơng

Hoàng Vân

Nguyễn Tài Tuệ

Phó Đức Phƣơng

Page 143:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

143

3

Dân ca

miền núi

phía Bắc

-Ngôi sao Khun Lú-Nàng Ủa

-Ngọn lửa Pác Bó

-Ngƣời Châu Yên em bắn máy

Bay

-Ngƣời Mèo ơn Đảng

-Ngƣời Mèo có chữ

-Nhịp chày hƣơng cốm

-Nhớ về Pác Bó

-Núi rừng hát về anh

-Ở rừng nhớ anh

-Phiên chợ lòng hồ

-Phố núi

-Rừng biên cƣơng âm vang

điệu Then mới

-Rừng Tuyên Quang in bóng

Tân Trào

-Sa pa - Sa pa

-Sao cô em chƣa về

-Sơn La mùa xuân lại về

-Suối làng

-Suối Lê – nin

-Suối Lê – nin

-Suối Mƣờng Hum còn chảy

Mãi

-Suối nguồn

-Sơn La ơi, cho tôi ở lại

-Tây bắc sáng lại

-Tây Bắc quê hƣơng em

-Tên lửa về sông Đà

-Tôi đã phải lòng em

-Tôi mang giấc mơ của những

đại ngàn

-Tình ca ngƣời gác rừng

-Tình ca Tây Bắc

-Tình ca Lều nƣơng

-Tình ca tây Bắc

-Tình Sa Pa

-Tiếng kèn đêm trăng

-Tiếng hát bản Mèo

Cầm Bích

Hoàng Vân, Nông Quốc

Chấn

Trọng Loan

Cầm Phong

Nguyễn Tài Tuệ

Lƣ Nhất Vũ

Phan Nhân

Tuấn Phƣơng

An Thuyên

Phó Đức Phƣơng

Nguyễn Mạnh Thƣờng

Nguyễn Cƣờng

Vƣơng Ngọc Vấn

Lê Mây

Lê Lan, Minh Tiến

Đặng An Nguyên

Tăng Thình, Mai Liễu

Phạm Tuyên,Trần Văn Loa

Hoàng Đạm, Hà Té

Nguyễn Tài Tuệ, Vƣơng

Hữu Văn

Trƣơng Ngọc Linh

Lê Mây

Ngô Đông Hải

Mộng Lân, La Thăng

Hoàng Tạo

Lê Mây

Cát Vận

Tân Điều

Bùi Đức Hạnh, Cầm Giang

Tăng Thình

Bùi Đức Hạnh, Cầm Giang

Lê Mây

Phùng Chiến

Phạm Tuyên,Nông Quốc

Page 144:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

144

3

Dân ca

miền núi

phía Bắc

-Tiếng gọi từ Pác Bó

-Tiếng cồng xứ Mƣờng

-Tiếng gọi rừng xanh Sơn

Dƣơng

-Tiếng hát trên sông Nậm Na

-Tiếng khèn đêm trăng

-Tiếng hát giữa rừng hoa ban

-Tiếng hát trên đỉnh Hoàng

Liên

-Tiếng sáo gọi ngƣời yêu

-Tiếng đàn nhớ thƣơng

-Tiếng đàn Then

-Tiếng hát giữa rừng Pác Bó

-Từ Ra-dơ-líp đến Pác bó

-Trăng sáng trên rừng quế

-Trở lại Cao Bằng

-Trƣớc ngày hội bắn

-U ủ la hay

-Việt Bắc nhớ Bác Hồ

-Về bản em

-Về quê em nhé anh

-Vợ chồng H’Nhí về buôn mới

-Vùng cao mến yêu

-Xuân về trên bản Nhắng

-Xuân biên cƣơng

-Xuân chiến khu

-Xôn xao rừng quế

-Xốn xang chiêng cồng Hoà

Bình

-Xuống chợ

Chấn

Trƣơng Tuyết Mai, Bùi Văn

Bồng

Trần Hoàn

Tân Huyền

Lê Việt Hoà, Hà Thị Khiết

Phùng Chiến

Nông Văn Nhủng, Hữu Tiệp

Ngọc Quang

Trịnh Quý

Nguyễn Đình Tấn

Hoàng Thím

Nguyễn Tài Tuệ

Phan Long

Trọng Loan

Vƣơng Khon

Trần Quý

Lê Mây, Bùi Tuyết Mai

Phạm Tuyên

Đào Thế Y

Tuấn Phƣơng

Phạm Tuyên

Lầu A Sa

Trƣơng Mai

Lê Mây

Xuân Hồng

Phó Đức Phƣơng

Đinh Trọng Tuấn

Trƣơng Ngọc Ninh

4

Bắc Bộ

-Ao làng

-Anh đƣa em về thƣa với mẹ

cha

-À í a

-Bà tôi

-Bài ca năm tấn

-Bài ca may áo

-Bài thơ biển

Lê Mây

Nguyễn Cƣờng

Lê Minh Sơn

Nguyễn Vĩnh Tiến

Nguyễn Văn Tý

Xuân Hồng

Văn Thành Nho

Page 145:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

145

4

Bắc Bộ

-Bằng lăng tím

-Bên bờ ao nhà mình

-Bến sông xƣa

-Buổi sáng trên đồng

-Cảm xúc tháng Mƣời

-Cánh cò trong câu hát mẹ ru

-Câu hát bên sông

-Chảy đi sông ơi

-Chị tôi

-Chơi Ô ăn quan

-Chú Cuội chơi trăng

-Chiều sông Thƣơng

-Chuyện làng tôi

-Chuyện xƣa

-Con kênh ta đào

-Cũng một con đò

-Dòng sông quê anh, dòng sông

quê em

-Đá trông chồng

-Đàn tỳ bà

-Đón anh về hội mùa xuân

-Gửi em ở cuối sông Hồng

-Gởi anh đi đầu quân

-Hò biển

-Hoa cau vƣờn trầu

-Hƣng Yên ngày mới

-Khúc hát ru của ngƣời mẹ trẻ

-Khúc mơ màng của đá

-Làn môi em hình hạt lúa

-Lời ru mùa xuân

-Lời ru của đêm

-Mẹ tôi

-Mƣa tháng Ba

-Mùa xuân trên sông Tô

-Mùa xuân con én liệng

-Nghiêng nghiêng câu hát

-Nuôi con một mình

-Ngàn lần tôi hát Việt nam ơi

-Ngƣời ở ngƣời về

-Ngƣời đàn bà hoá mƣa

Văn Thành Nho

Lê Minh Sơn

Tuấn Phƣơng

Trần Tất Toại

Nguyễn Thành, Tạ Hữu Yên

Phạm Tuyên

Tuấn Phƣơng

Phó Đức Phƣơng

Trọng Đài

Lê Mây

An Thuyên

- - - - - - - -, Hữu Thỉnh

Tuấn Phƣơng

Tuấn Phƣơng

Phạm Tuyên, Bùi Văn Dung

Phó Đức Phƣơng

Đoàn Bổng, Lai Vu

Lê Minh Sơn

An Thuyên, Dƣ Thị Hoài

Lê Việt Hoà

Thuận Yến

Nguyễn Đình Phúc

Nguyễn Cƣờng

Nguyễn Tiến

Lê Mây

Phạm Tuyên

Huy Thục, Phạm Ngọc Cảnh

An Thuyên

Phạm Tuyên

Phạm Tuyên

Đoàn Bổng

Đoàn Bổng

Lê Việt Hoà

Văn Thành Nho

Lê Mây

Lê Mây

Lê Mây

Lê Minh Sơn

An Thuyên, Phan Thị

Page 146:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

146

4

Bắc Bộ

-Ngƣời ơi hãy về

-Nhịp máy khoan

-Những ngƣời con gái đồng

chiêm

-Những cánh đồng tuổi 20

-Nhớ xứ Đoài

-Nón trắng đồng quê

-Ông vua đi cày

-Ôi quê tôi

-Rừng và biển

-Sông Lô chiều cuối năm

-Sóng đàn Hà Nội

-Tình đất

-Tình ngƣời Hà Nội

-Tiếng đàn bầu

-Trăng sáng đôi miền

-Việt Nam quê hƣơng tôi

-Võng đây trƣa hè

Thƣờng Đoan

Tuấn Phƣơng

Trọng Bằng

Phạm Tuyên

An Thuyên

Lê Việt Hoà

An Thuyên

An Thuyên

Lê Minh Sơn

Huy Thục,Nguyễn Xuân

Quỳnh

Minh Quang

An Thuyên, Nguyễn Chính

Tuấn Phƣơng

Văn Thành Nho

Nguyễn Đình Phúc

An Chung

Đỗ Nhuận

Lê Mây

5

Trung Bộ

-Bác Hồ một tình yêu bao la

-Bài ca thống nhất

-Ca dao em và tôi

-Cây lúa Hàm Rồng

-Chào sông Mã anh hùng

-Chỉ tại dòng sông đa tình

-Cô gái Pa Kô

-Chiều Hiền Lƣơng

-Dựng nên quê mới

-Đẹp màu xanh Quảng Trị

-Đêm nghe hát đò đƣa nhớ Bác

-Đƣa em qua trận bão ngƣời

-Em thƣơng ngƣời trong Huế

đấu tranh

-Gởi sông La

-Gửi Huế

-Gửi em chiếc nón bài thơ

-Gửi nắng cho em

Thuận Yến

Võ Văn Di

An Thuyên

Đôn Truyền

Xuân Giao

An Thuyên

Huy Thục

AnThuyên

Trọng Bằng

Trần Hoàn

An Thuyên

Tuấn Phƣơng

-Em thƣơng ngƣời trong

Huế đấu tranh

Lê Việt Hoà, Sơn Tùng

Trần Hoàn

Lê Việt Hoà

Phạm Tuyên

Page 147:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

147

5

Trung Bộ

-Giận mà thƣơng

-Giữ lấy giọt nƣớc vàng

-Giữa Mạc Tƣ Khoa nghe câu

hò Ví dặm

-Hà Nội - Huế - Sài Gòn

-Huế tình yêu của tôi

-Huế thƣơng

-Huế thƣơng ơi

-Huế Trong bão lửa càng đẹp

hơn nhiều

-Hoan hô ô tô

-Khúc hò khoan trên sông

Hƣơng

-Làng Chăm ơn Bác

-Lời cô gái Lệ Ninh

-Lời Bác dặn trƣớc lúc đi xa

-Lồng lộng quê Thanh

-Mai em về

-Mai em về Hà Tĩnh

-Mẹ tôi

-Miền Trung nhớ Bác

-Một thoáng Nghệ An

-Một khúc tâm tình của ngƣời

Hà Tĩnh

-Một mùa xuân nho nhỏ

-Một thoáng Nghệ An

-Mời anh về thăm thành Huế

-Mời anh về Hà Tĩnh

-Mƣa rơi

-Neo đậu bến quê

-Noi gƣơng anh Cù Chính Lan

-Những dũng sĩ núi Thành

-Nhịp hành quân mùa xuân

chiến thắng

-Nhớ về Nhật Lệ

-Nhớ về quê mẹ

-Nhớ về mẹ Suốt

-Nghe em hát lý tang tình

-Những cô gái Vân Dƣơng

Trần Hoàn

Trọng Bằng

Trần Hoàn

Hoàng Vân

Trƣơng Tuyết Mai, Đỗ thị

Thanh Bình

An Thuyên

Trần Hoàn

Trọng Bằng

Trọng Bằng

Trần Hoàn

Amƣ Nhân

Trần Hoàn

Trần Hoàn

Trọng Bằng

Tuấn Phƣơng

Trần Hoàn

Thuận Yến

Thuận Yến

Trọng Bằng

Trần Hoàn

Trần Hoàn

Trọng Bằng

Trần Hoàn

Trần Hoàn

Trần Hoàn

An Thuyên

Trọng Bằng

Trọng Bằng

Nguyễn Văn Tý

Trần Hoàn

Vân Đông

An Thuyên

Văn Thành Nho

Trần Hoàn

Page 148:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

148

5

Trung bộ

-Núi rừng hát về anh

-Phố huyện quê tôi

-Quảng Bình quê ta ơi

-Quảng Nam yêu thƣơng

-Quê tôi miền Trung

-Sông Hƣơng gửi sông Đà

-Sông Gianh chín nhịp cầu

-Sông Hàn tình yêu của tôi

-Sông Ngà sâu

-Thanh Hoá anh hùng

-Tình yêu Pônnaga

-Tình ca mặt trời

-Tiếng hò trên đất Nghệ An

-Tiếng hát sông Lam

-Tiếng hò trên đất Nghệ An

-Tiếng trống hội Ktê

-Tiếng đàn Ta Lƣ

-Tiếng hát đêm nhà Rông

-Thƣơng lắm miền Trung

-Trên bến Giang Đình

-Vầng trăng Ba đình

-Về đồng Lê

-Về thành Vinh

-Vỗ bến Lam chiều

-Xa khơi

-Xin ngƣời chớ bỏ dòng sông

Tuấn Phƣơng

Đôn Truyền

Hoàng Vân

Phan Huỳnh Điểu

Trần Hoàn

Trần Hoàn

Phó Đức Phƣơng

An Thuyên

An Thuyên

Hoàng Đạm

Vũ Trọng Tƣờng

An Thuyên

Tân Huyền

Đinh Quang Hợp

Tân Huyền

Amƣ Nhân

Huy Thục

Ngọc Tƣờng

Trần Hoàn

An Thuyên

Thuận Yến

Trần Hoàn

Tuấn Phƣơng

Trần Hoàn

Nguyễn Tài Tuệ

Tuấn Phƣơng

6

Tây

Nguyên

-Âm vang cao nguyên

-Bác Hồ sống mãi với Tây

Nguyên

-Bài ca quê hƣơng

-Ban Mê chiều ráng đỏ

-Bình minh rừng cao su

-Bóng cây Kơ nia

-Cánh chim báo tin vui

-Chim Phí bay về nguồn cội

-Chim Pong-Kle

-Chiều Đak-ơ

-Cô gái vót chông

-Đàn T’Rƣng

-Đất nƣớc đứng lên (nhạc kịch)

Xuân Hồng

Lê Lôi

Ymoan, Quang Dũng

Cát Vận

Linh Nga Niêk Đam

Phan Huỳnh Điểu,Ngọc Anh

Đàm Thanh

Yphôn Ksor

Nhật Lai

Trí Thanh

Hoàng Hiệp, Môlôyclavi

Nguyễn Viêm, Huy Cận

An Thuyên, Nguyên Ngọc

Page 149:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

149

6

Tây

Nguyên

-Đêm trăng buôn mới

-Đêm thao thức

-Em là hoa Pơ – lang

-Em đẹp nhƣ sao băng

-Gặt lúa

-Hát mừng anh hùng Núp

-Khúc ca H’rê

-Khát vọng Đan Kia

-Lak quê ta

-Lôông oô (ru em)

-Lời tƣợng mồ Tây Nguyên

-Mùa xuân Tây Nguyên

-Mƣa cao nguyên

-Mừng chiến thắng TâyNguyên

-Nắng gió cao nguyên

-Ngƣời lái đò trên sông Pô – cô

-Ngƣời con gái Pa – Kô

-Ngọn lửa cao nguyên

-Ngợi ca anh hùng Pinăng -

Thạnh

-Nhớ

-Nhƣ gió cao nguyên

-Nƣớc về Tây Nguyên

-Nu mê nu nơi (Lời mẹ ru)

-Ơ chim Kơ tia

-Ơi M’Đrăk, M’Đrăk

-Ơn Bác Hồ với Tây Nguyên

-Phum Sróc nhớ Bác

-Rừng xanh từ đây bừng sáng

-Rừng núi Tây Nguyên chiến

công hoa nở

-Sim Kring

-Sông Đăk kông mùa xuân về

-Tạm biệt suối nguồn

-Tây Nguyên bất khuất

-Tây Nguyên chiến thắng

-Tây Nguyên mừng đón thơ

Bác

-Tây nguyên quê em

-Tháng ba Tây Nguyên

Kpa Ylăng, Trần Quang Huy

Kpa Púi

Đức Minh

Y Yơn

Y Yơn

Trần Quý

Phan Ngọc

Dƣơng Toàn Thiên

Ama Nô, Linh Nga

A Đũh

Tân Huyền

Trần Hoàn

Linh Nga Niêk Đam

Xuân Giao

Tân Huyền

Cầm Phong, Mai Trang

Huy Thục

Trần Tiến

Giáp Văn Thạch

Lê Yên

Phan Ngọc

Tô Hải

Đình Nghi

Y Sơn Niê

Nguyễn Cƣờng

Võ Mạnh Trí

Sơn Lƣơng, ĐaRa

Nguyễn Viêm

Chu Minh

KrajanĐik

Tố Hải

KrajanĐik

Văn Ký

Mai Đức Vƣợng

Doãn Nho

Thạch Rƣơng, Trí Thanh

Văn Thắng, Thân Nhƣ Thơ

Page 150:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

150

6

Tây

Nguyên

-Tình ca Tây Nguyên

-Tình khúc Đăm’bri

-Tiếng cồng Plây Gi-răng

-Tiếng cồng giải phóng, tiếng

cồng chiến thắng

-Tiếng hát giữa rừng đại ngàn

-Tiếng chim bên dòng Krông

Ana

-Tiếng chày trên sóc Bom Bo

-Tiếng hát Mơ nông Tibri

-Tiếng hát ban mai

-Tiếng cồng Plây Gi-răng

-Trên những nẻo đƣờng xuân

-Thƣơng mãi, thƣơng hoài,

Yaly ơi!

-Vòng tay cao nguyên

-Vòng tay Đam San

Hoàng Vân

Văn Thành Nho

Hồ Bắc

Hoàng Vân

Dƣơng Thụ

Kpa Púi

Xuân Hồng

Nhật Lai

Thanh Anh

Hồ Bắc

Kpa Ylăng, Trọng Thuỷ

Huy Du

A Đũh

Trƣơng Ngọc Ninh

7

Nam bộ

-Bài ca Hƣng Yên

-Biển vẫn còn ru

-Câu hò bên bờ Hiền Lƣơng

-Câu Lý và ngƣời thƣơng

- Đi tìm ngƣời hát Lý thƣơng

Nhau

-Dáng đứng Bến Tre

-Đi trong hƣơng tràm

-Hai ngƣời mẹ (nhạc kịch)

-Hồ Chí Minh đẹp nhất tên

Ngƣời

-Huế tình yêu của tôi

-Huyền thoại mẹ

-Hƣơng thầm

-Lên ngàn

-Mùa chim én bay

-Miền Nam nhớ mãi ơn Ngƣời

-Ở hai đầu nỗi nhớ

- Rặng Trâm bầu

-Sợi nhớ sợi thƣơng

-Thăm Bến nhà Rồng

-Trên quê hƣơng Minh Hải

Lê Mây

Lê Mây

Hoàng Hiệp, Đằng Giao

Lê mây

Vĩnh An

Nguyễn Văn Tý

Thuận Yến

An Thuyên, Anh Đức

Trần Kiết Tƣờng

Trƣơng Tuyết Mai

Trịnh Công Sơn

Vũ Hoàng

Hoàng Việt

Hoàng Hiệp

Lƣu Cầu

Phan Huỳnh Điểu

Thái Cơ

Phan Huỳnh Điểu

Trần Hoàn

Phan Nhân

Page 151:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

151

IV

Ca hát

truyền

thống

chuyên

nghiệp

1

Ca trù

-Bến Âu Lâu

-Cho tôi về Hồng Lĩnh

-Du thuyền trên sóng Hạ Long

-Đàn cầm dây vũ dây văn

-Đất nƣớc lời ru

-Đợi

-Đêm trăng Cát bà

-Hà nội linh thiêng hào hoa

-Hạt mƣa mùa xuân

-Mái đình làng biển

-Một nét Ca trù ngày xuân

-Một thoáng Tây hồ

-Phủ Tây Hồ

-Tình vẫn thế

-Thì thầm mùa xuân

-Trăng khuyết

-Trăng về phố

- Trên đỉnh Phù Vân

-Về Ninh Bình

Nguyễn Cƣờng

Lê Mây, Hiền Mặc Chất

Nguyễn Cƣờng

Nguyễn Cƣờng

Văn Thành Nho

Huy Thục, Vũ Quần Phƣơng

Lê Mây, Hà châu

Lê Mây

Trƣơng Ngọc Ninh

Nguyễn Cƣờng

Nguyễn Cƣờng

Phó Đức Phƣơng

Phú Quang

Lê Mây

Ngọc Châu

Huy Thục, Phi Tuyết Ba

Lê Mây

Phó Đức Phƣơng

Trọng Bằng

2

Chèo

-Cô Nụ quê tôi

-Chuyện cái cột tre của chiến sĩ

thông tin

-Chuyện tình Ba Bể

-Dang dở

-Đế quốc Mỹ là cái thân con

ruồi

-Đóng nhanh lúa tốt

-Đƣờng cày đảm đang

-Em bé đi học trƣờng làng

-Em ở nơi đâu

-Liên khúc Thị Màu (5 bài)

+Say trăng

+Độc thoại Thị Mầu

+Theo em lên chùa

+Gió lộng cái con sông Trà

Phó Đức Phƣơng

Đôn Truyền, Phạm Văn

Lê Mây

Duy Quang

Trọng Bằng

Lê Lôi

An Chung

Trọng Bằng

Phan Nhân

Nguyễn Cƣờng

- - - - - - - - - -

- - - - - - - - - -

- - - - - - - - - -

- - - - - - - - - -

Page 152:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

152

2

Chèo

+Rung rinh ngai vàng

-Mùa cói

-Mƣa xuân

-Nhịp cầu nối những bờ vui

-Những cô gái Quan Họ

-Say trăng

-Tình dẫu mà tình tôi

-Tình quê hƣơng

-Tôi về ngẩn ngơ

- - - - - - - - - -

Hoàng Hà

Huy Thục, Nguyễn Bính

Văn An

Phó Đức Phƣơng

Nguyễn Cƣờng

Nguyễn Cƣờng

Trọng Bằng

Nguyễn Cƣờng

3 Xẩm -Lời Ngƣời ra đi

-Về quê

Trần Hoàn

Phó Đức Phƣơng

4

Hát Văn

-Cảm hứng Phủ Giầy

-Đàn cầm dây vũ dây văn

-Đây là quê em Ninh Bình

-Nghe em, câu hát Văn chiều

nay

-Tình ngƣời Hà Nội

-Trẩy hội đền Trần

Nguyễn Cƣờng

- - - - - - - - - - -

- - - - - - - - - - -

- - - - - - - - - - -

Văn Thành Nho

Phó Đức Phƣơng

5

Tuồng

- Biển Mũi

-Chiếu dời đô

- Không thể và có thể

- Hồn đá

- Nguyễn Trãi, Côn Sơn

- Ngũ Hoành Sơn

Phó Đức Phƣơng

Nguyễn Tiến

Phó Đức Phƣơng

Ngọc Quang

Lê Mây

Phó Đức Phƣơng

Page 153:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

153

HÌNH CÁC CƠ QUAN CẤU ÂM

Hình 1.1 Các cơ quan hô hấp

Hình 1.2 Thanh đới và khe thanh đới

Page 154:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

154

Hình 1.3 Bốn trạng thái đóng - mở của thanh đới

Hình 1.4

Các cơ quan phát âm, các xoang cộng hƣởng và hƣớng đi của làn hơi.

Page 155:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

155

Các bảng hệ thống: Âm đầu, âm giữa (âm chính ), âm cuối và

trục thanh điệu trong

Biểu đồ độ mở của nguyên âm

Bảng biểu các nguyên âm

Bảng biểu thanh điệu

Page 156:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

156

a) Hệ thống âm đầu(Khởi âm):

Hệ thống âm đầu

b) Hệ thống âm chính (Âm đầu-Âm giữa):

-Tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi:

Hệ thống âm chính

-Tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi:

Hệ thống âm chính

Page 157:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

157

c) Hệ thống nguyên âm tiếng Việt

Hệ thống nguyên âm tiếng Việt

c) Hệ thống âm cuối (kết âm):

Hệ thống âm cuối tiếng Việt

e) Sơ đồ thanh điệu:

Page 158:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

158

Những nghệ sĩ, ca sĩ thành công bởi kết hợp hài hoà

nghệ thuật hát mở và nghệ thuật hát khép:

Trong quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật hát Mới

nhiều thế hệ nghệ sĩ, ca sĩ tài năng đã có nhiều sáng tạo vận dụng kết hợp

nghệ thuật hát mở và hát khép với những phong cách và phƣơng pháp

sáng tạo khác nhau vào các ca khúc tiếng Việt và đã gặt hái đƣợc những

thành công đáng kể nhƣ:

- NSND Quốc Hƣơng đã biết ứng dụng phƣơng pháp hát mở, tròn

vành của Bel canto để thích hợp với lối hát đóng kín đáo của tiếng Việt.

Những bài hát mà nghệ sĩ NSND Quốc Hƣơng đã dồn nhiều tâm sức

sáng tạo và hát rất thành công nhƣ: Tình ca (Hoàng Việt), Hà Tây quê

lụa (Nhật Lai), Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí - Nguyễn Bính) Khai

phá miền Tây (Bửu Huyền), Bài ca ngƣời thợ rừng của Phạm Tuyên,

Đất quê ta mênh mông (Hoàng Hiệp – Bùi Minh Quốc), Những ánh sao

đêm (Phan Huỳnh Điểu), Cùng hành quân giữa mùa xuân (Cẩm La), Mẹ

đào hầm (Hoàng Hiệp – Dƣơng Hƣơng ly), Cuộc đời vẫn đẹp sao ( Phan

Huỳnh Điểu)…

- NSND Quý Dƣơng: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giọng hát

của NSND Quí Dƣơng đã vận dụng phƣơng pháp hát Mới một cách điêu

luyện vào hát những ca khúc cách mạng rất thành công nhƣ: Tấm áo

chiến sĩ mẹ vá năm xƣa (Nguyễn Văn Tý), Nhớ (Hoàng Vân - Nguyễn

Đình Thi), Bài ca ngƣời thuỷ thủ (Hoàng vân), Tôi là ngƣời thợ lò

Page 159:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

159

(Hoàng Vân), Tôi ngƣời lái xe (An chung), Ngọn đèn đứng gác (Hoàng

Hiệp – Chính Hữu), Tiếng nói ngƣời Hà Nội (Văn An - Cảnh Trà), Dáng

đứng Việt Nam (Nguyễn Chí vũ – Lê Anh Xuân), Hà Nội những đêm

không ngủ (Phạm Tuyên), Cùng anh tiến quân trên đƣờng dài (Huy Du –

Xuân Sách), Đƣờng Trƣờng Sơn xe anh qua (Văn Dung), Chào em cô

gái Lam Hồng (Ánh Dƣơng), Vàm cỏ Đông (Trƣơng Quang Lục – Hoài

Vũ), Xe ta đi trong đêm Trƣờng Sơn (Tân Huyền), Tình đất đỏ miền

Đông (Trần Long Ẩn), Tình em (Huy Du - Ngọc Sơn), Chiều trên bến

cảng (Nguyễn Đức Toàn)…

- NSND Trần Hiếu: Đã rất thành công với cách hát các ca khúc gần

với nghệ thuật hát Nói của nghệ thuật hát dân gian: Con Voi (Đỗ Nhuận),

Đế quốc Mỹ là cái thân con ruồi (Trọng Bằng), Lỳ và Sáo (Văn Chung),

Anh quân bƣu vui tính (Đàm Thanh), Tôi là Lê Anh Nuôi (Đàm Thanh),

Chiếc khăn Piêu (Trần Tiến), Hò kéo pháo (Hoàng Vân)…

- PGS-NSND Trung Kiên: Đã vận dụng sáng tạo kỹ thuật Bel canto

vào những ca khúc Việt Nam rất “tròn vành” mà vẫn “rõ chữ”: Chào

sông Mã anh hùng (Xuân Giao), Tình ca (Hoàng Việt), Gặp nhau trên

đỉnh Trƣờng Sơn (Hoàng Hà), Bài ca Trƣờng Sơn (Trần Chung - Gia

Dũng), Đất nƣớc trọn niềm vui (Hoàng Hà), Ngƣời chiến sĩ ấy (Hoàng

Vân), Thành phố hoa phƣợng đỏ (Lƣơng Vĩnh - Hải Nhƣ), Bác Hồ sống

mãi với Tây Nguyên (Lê Lôi), Sông Đak’rông mùa xuân về (Tô Hải),

Tiếng hát từ thành phố mang tên Ngƣời (Cao Việt Bách – Đăng Trung),

Hà Nội niềm tin và hy vọng (Phan Nhân), Dáng đứng Việt Nam (Nguyễn

Chí Vũ – Lê Anh Xuân), Ca ngợi Hồ Chủ Tịch (Văn Cao), Bài ca hy

vọng (Văn Ký), Em có nghe âm thanh ngày mới (Nguyễn An), Ngƣời lái

đò trên sông Pô-cô (Cầm Phong), Bài ca trƣờng Sơn (Trần Chung), Lời

thề sắt son (Nguyễn Đình Tấn)…

Page 160:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

160

- NSƢT Quang Hƣng: Kết hợp sáng tạo kỹ thuật hát Mới phù hợp

với cách “nhả chữ” tiếng Việt vào những ca khúc: Tôi là Lê Anh Nuôi

(Đàm Thanh), Anh quân bƣu vui tính (Đàm Thanh), Mơ đời chiến sĩ

(Lƣơng Ngọc Trác), Chiếc gậy Trƣờng sơn (Phạm Tuyên), Gẩy đàn lên

hỡi ngƣời bạn Mỹ (Phạm Tuyên), Hà Nội những đêm không ngủ (Phạm

Tuyên), Chiếc khăn Piêu (Trần Tiến), Ngọn đèn đứng gác (Hoàng Hiệp

– Chính Hữu), Sông Lô (Văn Cao), Lỳ và Sáo (Văn Chung), Hát mừng

các cụ dân quân (Đỗ Nhuận), Quê hƣơng anh bộ đội (Xuân Oanh), Cuộc

đời vẫn đẹp sao (Phan Huỳnh Điểu)…

- NSND Thanh Huyền: Đã kết hợp nhuần nhuyến kỹ thuật hát Mới

với cách hát luyến láy mềm mại của nghệ thuật hát dân gian vào các ca

khúc: Xuân chiến khu (Xuân Hồng), Đƣờng cày đảm đang (An Chung),

Hà nội - Huế - Sài Gòn (Hoàng Vân), Trăng sáng đôi miền (An Chung),

Ngƣời ơi ngƣời ở đừng về (dân ca Quan họ Bắc Ninh - cải biên Xuân

Tứ), Quảng Bình quê ta ơi (Hoàng Vân), Trông cây lại nhớ đến Ngƣời

(Hò Ví dặm - cải biên Đỗ Nhuận), Tiếng hò trên đất Nghệ An (Tân

Huyền), Tiếng hát sông Lam (Đinh Quang Hợp), Mẹ yêu con (Nguyễn

văn Tý)…

- NSND Tƣờng Vi: Đã vận dụng một cách thuần thục nghệ thuật hát

Mới vào những ca khúc mang âm hƣởng dân gian cũng nhƣ các ca khúc

Việt Nam khác: Nhớ (Lê Yên – Thanh Hải), Phi đội ta xuất kích (Tƣờng

Vi), Suối Lê Nin (Hà té – Hoàng Đạm), Tiếng hát sông Lam (Đinh

Quang Hợp), Tiếng đàn Ta Lƣ (Huy Thục), Tích tà tích tích tiếng hát

thông tin (Huy Thục), Ngƣời con gái sông La (Doãn Nho – Phƣơng

Thuý), Ngƣời lái đò trên sông Pô Kô (Cầm Phong), Cô gái vót chông

(Hoàng Hiệp), Em là hoa Pơ Lang (Đức Minh), Tháng ba Tây Nguyên

Page 161:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

161

(Văn Thắng - Thân Nhƣ Thơ), Gửi sông La (Lê Việt Hoà – Minh

Khanh), Cánh chim báo tin vui (Đàm Thanh)…

- NS Bích Liên: Đã vận dụng một cách sáng tạo nghệ thật hát Bel

canto vào những ca khúc Việt Nam rất thành công: Bài ca năm tấn

(Nguyễn văn Tý), Ngƣời là niềm tin tất thắng (Chu Minh), Chào anh

giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng (Hoàng Vân), Nổi lửa lên em

(Huy Du – Giang Lam), Đƣờng tầu mùa xuân (Phạm Minh Tuấn),

Đƣờng tôi đi dài theo đất nƣớc (Vũ trọng Hối), Biết ơn chị Võ Thị Sáu

(Nguyễn Đức Toàn), Bế Văn Đàn sống mãi (Huy Du), Lời anh vọng mãi

ngàn năm (Vũ Thanh), Em bé Bảo Ninh (Trần Hữu Pháp - Nguyễn Văn

Dinh), Ngƣời lái đò trên sông Pô Kô (Cầm Phong – Mai Trang)…

- NS Mỹ Bình: Ngƣời Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Làng tôi (Hồ

Bắc), Quê em (Nguyễn Đức Toàn),…

- NGƢT Diệu Thuý: Lô Giang (Lƣơng Ngọc Trác), Quê em

(Nguyễn Đức Toàn), Trƣờng ca sông Lô (Văn Cao)…

- NSƢT Kiều Hƣng: Cảm xúc tháng Mƣời (Nguyễn Thành - Tạ Hữu

Yên), Tình ca (Hoàng Việt), Em ở nơi đâu (Phan nhân), Tiếng đàn bầu

(Nguyễn Đình Phúc - Lữ Giang), Tổ quốc tôi chƣa đẹp thế bao giờ

(Nguyễn Văn Thƣơng - Tố Hữu), Chiếc nón bài thơ (Lê Việt Hoà – Sơn

Tùng), Gửi nắng cho em (Phạm Tuyên – Bùi Văn Dung), Cung đàn mùa

xuân (Cao Việt Bách – Lƣu Trọng Lƣ), Sông Đak’Rông mùa xuân về (Tố

Hải), Bài ca trên núi (Nguyễn Văn Thƣơng), Hồ Chí Minh đẹp nhất tên

Ngƣời (Trần Kiết Tƣờng)…

- NSƢT Tuyết Thanh: Nổi trống lên rừng núi ơi (Hoàng Vân), Bài

ca Hà Nội (Vũ Thanh), Miền nam nhớ mãi ơn Ngƣời (Lƣu cầu), Bông

hoa tám cánh (An Chung), Hẹn mùa mƣời tấn năm sau (Tô hải), Bà mẹ

miền Nam tay không bắt giặc (Thuận Yến), Bác hồ sống mãi với Tây

Page 162:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

162

Nguyên (Lê Lôi), Tình ta biển bạc đồng xanh (Hoàng Sông), Chợ chờ

em vẫn chờ ai (Huy Du), Trăng sáng trên rừng quế (Trọng Loan), Hoa

sen Tháp Mƣời (Trƣơng Quang Lục), Việt Bắc nhớ bác Hồ (Phạm

Tuyên), Tiếng hò trên đất Nghệ An (Tân Huyền), Bài ca phụ nữ Việt

Nam (Nguyễn Văn Tý), Nghe câu hát Văn chiều nay (Nguyễn Cƣờng)…

- NSƢT Quang Phác: Hồ trên núi (Phó Đức Phƣơng), Hò biển

(Nguyễn Cƣờng), Huyền thoại hồ núi Cốc (Phó Đức Phƣơng), Đi dọc

Việt nam (Cát Vận), Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó (Nguyễn Tài Tuệ),

Ngƣời về thăm quê (Thuận Yến), Dòng sông tuổi thơ (Hoàng Hiệp),

Chiều Hồ gƣơm (Đặng An Nguyên), Hà nội những kỷ niệm trong tôi

(Đoàn Bổng), Mặt trời bé con (Trần Tiến)…

- NSND Quang Thọ: Ta tự hào đi lên ôi Việt nam (Chu minh),

Sông Lô (Văn Cao), Tôi là ngƣời thợ lò (Hoàng Vân), Lá đỏ (Hoàng

Hiệp), Sơn nữ ca (Trần Hoàn), Tình ca (Hoàng Việt), Tâm tình ngƣời

thủy thủ (Hoàng Vân), Hƣớng về Hà Nội (Hoàng Dƣơng), Những thành

phố bên bờ biển cả (Phạm Đình Sáu)…

- NSƢT Thuý Hà: Bến cảng quê hƣơng tôi (Hồ Bắc), Cánh chim

báo tin vui (Đàm Thanh), Anh bộ đội và chiếc xe quệt (Nguyễn Lầy -

Tuấn Long), Cô Sao (Vai cô Sao trong nhạc kịch cùng tên của Đỗ

Nhuận), Cây lúa Hàm Rồng (Đôn Truyền), Vui mở Đƣờng (Đỗ Nhuận),

Suối Lê-Nin (Phạm Tuyên), Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân

đại thắng (Hoàng Vân)…

- NSND Lê Dung: Anh ở đầu sông em cuối sông (Phan Huỳnh

Điểu – Hoài Vũ), Gửi em ở cuối sông Hồng (Thuận Yến – Dƣơng Soái),

Bài ca hy vọng (Văn Ký), Đêm đông (Nguyễn Văn Thƣơng), Cô gái vót

chông (Hoàng Hiệp), Ngƣời Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Hoạ mi hót

trong mƣa (Dƣơng Thụ), Sơn nữ ca (Trần Hoàn), Bác Hồ sống mãi với

Page 163:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

163

Tây Nguyên (Lê Lôi), Em là hoa Pơ Lang (Đức Minh), Trăng sáng đôi

miền (An Chung), Đƣờng chúng ta đi (Huy Du)…

Page 164:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

164

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Dƣơng Viết Á (2005), Âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hoá (tập I,

II), NXB Hà Nội.

2. Nguyễn Trọng Ánh (2007), Những giá trị âm nhạc trong hát Quan họ,

Luận án tiến sĩ nghệ thuật học.

3. Nguyễn Bách (2006), “Âm nhạc trong tiếng rao hàng của ngƣời Việt”,

Trang web.Trần Quang Hải.

4. Văn Cẩn (2003), “Những cơ sở khoa học của một nền thanh nhạc dân

tộc”, thông báo khoa học (số 8),Viện âm nhạc.

5. Lê Ngọc Cầu (1983), “Từ Ca trù Đến hát Bội”, Nghiên cứu nghệ thuật (số

2).

6. Lê Ngọc Cầu (1985), “Lại bàn về đặc trƣng hát Bội”, Nghiên cứu nghệ

thuật (số 4).

7. Trần Chính (1994), “Tính chất ngẫu hứng trong nghệ thuật Chèo cổ”, Văn

hoá dân gian (số 2).

8. Mai Ngọc Chừ (1982), “Tiếng Việt và sự tròn vành rõ chữ của tiếng hát

dân tộc”, Thông tin khoa học chuyên san Ngôn ngữ, ĐHTH Hà Nội (số

5).

9. Nguyễn Đức Côn (1966), “Múa và hát là linh hồn của nghệ thuật Chèo”,

Văn nghệ (số 174).

10. Võ Dần (1960), “Bàn về hát Bội”, Văn hoá (số 11).

11. Kính Dân (1981), “Một số băn khoăn chung quanh vấn đề “dân tộc - Hiện

đại””, Văn hoá nghệ thuật (số 5).

12. Hà Minh Đức (2005), “ Một nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân

tộc”, NXB KHXH.

13. Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề (1994), Việt Nam Ca trù biên khảo, Nxb

TP HCM.

14. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, Nxb Giáo

dục.

15. Nhiều tác giả (2003), Ca trù nhìn từ nhiều phía, NXB VHTT.

16. Nhiều tác giả (2006), Đặc khảo Ca trù Việt Nam, Viện Âm Nhạc.

17. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ, ĐHKH Xã hội và

Nhân văn - ĐHQGHN

18. Nguyễn Mạnh Hà (29/3/2006), “Di sản Quan Họ còn gì để mất”, Báo

Tiền Phong.

Page 165:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

165

19. Bùi Đức Hạnh (1972), 150 làn điệu chèo cổ, Nxb VH DT.

20. Phạm Đình Hổ (1989), Vũ Trung Tuỳ Bút, Nxb Trẻ.

21. Hội Nhạc Sĩ Việt Nam (1997), “Nhạc Sĩ Việt Nam Hiện Đại”, Hà Nội.

22. Hội Ngôn Ngữ Học Hà Nội (2010), Hà Nội những vấn đề Ngôn ngữ Văn

hoá, NXB Thời Đại.

23. Đam Kịch Khách (1936), “Tuồng hát Bộ và đặc điểm của nó”, Tuần báo

Tân văn (số 42).

22. Hoàng Kiều (2001), Thanh điệu tiếng Việt và Âm nhạc cổ truyền, Viện

Âm Nhạc.

23. Nguyễn Xuân Khoát, Ca trù nhìn từ nhiều phía, Nxb - VHTT

24. Nguyễn Thúc Khiêm (1929), “Khảo về hát Tuồng và hát Chèo”, Tạp chí

Nam phong (số 144).

25. Hoàng Châu Ký (1973), Sơ khảo lịch sử Tuồng, Nxb Văn hoá.

26. Hoàng Châu Ký (1973), “Nghệ thuật Tuồng thế kỷ XIX”, Nghiên cứu

nghệ thuật (số 1).

27. Nguyễn Trung Kiên (2004), Nghệ thuật Opera, Viện Âm nhạc

28. Nguyễn Trung Kiên (2001), Phƣơng pháp sƣ phạm thanh nhạc,Viện Âm

nhạc.

29. Hồ Mộ La (2008), Phƣơng pháp dạy thamh mhạc, Nxb Từ điển bách khoa

30. Vũ Tự Lân (1997), Những ảnh hƣởng của âm nhạc Châu Âu trong ca

khúc Việt Nam giai đoạn 1930-1950, Nxb Thế giới.

31. Trần ngọc Linh phỏng vấn GS. Trần văn Khê, “Đổ hột có phải kỹ thuật

đặc trƣng của Ca trù”, trang web Việt Báo.

32. Nguyễn Minh (1978), “Trống và Chèo”, Sân khấu (số 1).

33. Đỗ Nhuận (2003), Hồi ký Âm thanh cuộc đời, Nxb Âm nhạc.

34. Trần Việt Ngữ (1983), “Về những đặc điểm nghệ thuật của Chèo cổ”

Nghiên cứu nghệ thuật (số 3).

35. Nguyễn Thị Nhung (1986), “Sự phân cách về mặt thể loại giữa kịch Đram

và Chèo truyền thống”, Nghiên cứu nghệ thuật (số 6).

36. Khánh Phƣơng (7/2006), “…Cái yếm điều em…nó hãy còn màu”, Tạp

chí VHNT.

37. Vũ Ngọc Thảo, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ, Từ điển văn hoá dân gian.

38. Nghiêm Thanh (1991), “Kế thừa và phát huy nghệ thuật Tuồng truyền

thống”, Nhân dân (số 50).

39. Vũ Nhật Thăng (2008), “Âm nhạc Ca trù” đăng trong Đặc khảo Ca trù

Việt nam, Nxb VHTT.

40. Nguyễn Nho Tuý (3.1970), Hát Tuồng, Tài liệu nghiên cứu Viện Sân

Khấu TL.

41. Đoàn Thiện Thuật (1957), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học & THCN.

Page 166:  · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ****************** TRẦN THỊ NGỌC LAN NÂNG CAO

166

42. Trƣơng Ngọc Thắng (2008), Quá trình hình thành và phát triển nghệ

thuật hát chuyên nghiệp Việt nam, Luận án Tiến sĩ nghệ thuật học.

43. Từ điển tiếng Việt (1999),– Nxb Đà Nẵng.

44. Tô Vũ (2002), Âm nhạc Việt Nam truyền thống và hiện đại, Viện Âm

Nhạc.

45. Lƣ Nhất Vũ, Lê Minh Trung (2004), Hò trong dân ca của ngƣời Việt,

Viện Âm Nhạc.

46. Tô Vũ (1957), “Âm nhạc Chèo cổ”, Âm nhạc (số 1,2,3).

47. Minh Vũ (1983), “Góp phần tìm hiểu lịch sử nghệ thuật hát Bội ở miền

Nam”, Nghiên cứu nghệ thuật (số 4).

48. Tạ Hải Bảo Vƣơng, “Các loại giọng hát ở Châu Âu và Châu Á”, trang

web wwwtranquanghai.

49. Lê Yên (1994), Những vấn đề cơ bản trong Tuồng, Nxb Thế giới.

Tiếng Anh

50. Faborg Anderson (1964), Research Potentials in Voice Physiology, New

York.

51. Luchsinger và Arnold (1953), Physiologie and Pathologie of the speech

organs, Berlin.

52. Louis Bachner (1996), Dynamic singing, London: Dobson.

53. Richard Miller (1999), The Structure of singing( System and art in vocal

technique), Printed in the United States of America.

54. Re Koster (1990), Common sense of singing, Leyerle.

55. Vaccaj (1886), Metodo Paratico di canto Italiano da camera, Ricordi.

Tiếng Pháp

56. Dictionaire de la musique (1996), Larousse. France.

57. Le petit larousse (1995), Larousse.