BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - ctm.edu.vn · BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - ctm.edu.vn
· 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM...
Transcript of · 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM...
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ******************
TRẦN THỊ NGỌC LAN
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO HÁT
TIẾNG VIỆT TRONG NGHỆ THUẬT HÁT MỚI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
HÀ NỘI – 2010
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM ******************
TRẦN THỊ NGỌC LAN
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO HÁT
TIẾNG VIỆT TRONG NGHỆ THUẬT HÁT MỚI
Chuyên ngành: Lý luận Âm nhạc
Mã số: 62 21 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS – NSND TRUNG KIÊN
HÀ NỘI – 2010
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng
đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Ngƣời cam đoan
Trần Thị Ngọc Lan
4
LỜI CẢM ƠN
Bản luận án này là kết quả nghiên cứu của tác giả tại Khoa Thanh nhạc
Học Viện Âm Nhạc Quốc Gia Việt Nam dƣới sự hƣớng dẫn của PGS – NSND
Nguyễn Trung Kiên.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Giáo sƣ, Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ, các nhà
nghiên cứu, các nghệ nhân, các nhạc sĩ, bạn bè, đồng nghiệp… trong và ngoài
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam đã tận tình chỉ bảo, góp ý, giúp đỡ để
luận án đƣợc hoàn thành. Sự thành công của bản luận án này có đƣợc, một phần
lớn chính nhờ sự giúp đỡ của các Giáo Sƣ, Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ, các nhà nghiên
cứu, các nghệ nhân, các thày và các bạn bè, đồng nghiệp.
Trong luận án chắc sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất
mong nhận đƣợc sự tham gia ý kiến bổ sung hoàn thiện của các thày và đồng
nghiệp.
Trần Thị Ngọc Lan
5
Giải thích các thuật ngữ, ký hiệu và chữ viết tắt sử dụng
trong luận án
* Thuật ngữ:
1. Âm tố (phone): Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của ngôn ngữ về mặt cấu âm -
thính giác. Nó là một trong những âm riêng biệt đƣợc tạo ra trong chuỗi lời nói.
Khi nói, một số cơ quan phát âm: môi, hàm, ngạc mềm, thanh môn và một vài bộ
phận của lƣỡi chuyển động. kết quả ta nghe đƣợc nhƣ là một chuỗi nối tiếp của
những âm riêng biệt và mỗi âm khác lẫn nhau về một số mặt nhƣ vị trí cấu âm,
phƣơng thức cấu âm, hữu thanh, vô thanh, tính chất mũi, bật hơi… Mỗi một âm
đƣợc lĩnh hội nhƣ thể là một âm tố. Bằng sự phân tích ngữ âm học, các âm tố
đƣợc nhóm lại thành những đơn vị ngữ âm khu biệt của ngôn ngữ, tức là các âm
vị. Âm tố là những cách phát âm khác nhau của âm vị (tr.74, 777 khái niệm
Ngôn Ngữ học - Nguyễn Thiện Giáp)
2. Âm tiết: Âm tiết là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất trong ngôn ngữ.
Trong tiếng Việt, một âm tiết bao giờ cũng đƣợc phát ra với một thanh điệu, và
tách rời với âm tiết khác bằng một khoảng trống. Trên chữ viết, mỗi âm tiết tiếng
Việt đƣợc ghi thành một "chữ" và đọc thành một "tiếng" (Mỗi âm tiết gồm 3
phần: khởi âm, đỉnh âm và kết âm). Ví dụ: từ "hoa hồng bạch" gồm 3 chữ, 3
tiếng hoặc 3 âm tiết. (Google: cau tao am tiet tieng viet)
6
3. Âm vị: Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của một ngôn ngữ có khả năng khu biệt ý
nghĩa của hai từ. Các âm tố cảu lời nói khác nhau về một số mặt; vị trí cấu âm,
phƣơng thức cấu âm... Nhƣng chỉ 1 số trong những âm khác nhau ấy có giá trị
khu biệt, tức là chúng đƣợc dùng để phân biệt các từ trong một ngôn ngữ (/b/ và
/m/, /i/ và /e/, /n/ và /t/ là có giá trị khu biệt. Thay thế âm này bằng âm khác sẽ
làm thay đổi nghĩa của từ: bà – mà, tìm – têm, tan – tát. Các âm có giá trị khu
biệt nhƣ thế đƣợc gọi là các âm vị.(777 khái niệm Ngôn Ngữ học - Nguyễn Thiện
Giáp)
4. Cấu âm: Toàn bộ hoạt động của các cơ quan phát âm khi thực hiện các
âm. Đó là sự sinh sản các âm tố của lời nói ở trong miệng và họng. Hoạt động
này liên quan đến vị trí cấu âm và phƣơng thức cấu âm (777 khái niệm Ngôn
Ngữ học - Nguyễn Thiện Giáp)
5. Cắn chữ: Chỉ độ chính xác về rõ chữ, cao độ của giọng hát. Hát không
cắn chữ có nghĩa là bị lạc giọng hay chênh phô. Muốn không chênh phô phải biết
lấy hơi, giữ hơi, nén hơi và nhả chữ. Hơi bị hụt hay không đầy đặn sẽ khiến câu
hát bị rời rạc, đứt quãng, giọng dễ bị chênh phô, không đạt độ cao cần thiết.
6. Chữ: Theo Google – Cấu tạo âm tiết tiếng Việt – GOCNHIN.NET: Vì
tiếng Việt đơn âm nên âm tiết cũng chính là chữ.
Chữ trong luận án không có nghĩa là chữ viết nếu đứng về góc độ ngôn ngữ
học (chữ ở đây đƣợc hiểu là âm tiết, đơn vị ngữ âm cơ bản mà truyền thống âm
vị học tiếng Việt gọi là tiếng). Mặt khác âm tiết tiếng Việt (đơn vị của ngữ âm)
lại trùng với hình vị (đơn vị ngữ pháp) và trong nhiều trƣờng hợp lại trùng với từ
đơn (đơn vị từ vựng) nên trong luận án nhiều chỗ chúng tôi dùng chữ thì phải
hiểu rằng đó là âm tiết.
7. Bằng, Trắc: Thanh điệu của tiếng Việt bao gồm sáu thanh. Dựa vào quy
luật cao thấp của 6 thanh ngƣời ta chia ra làm hai phần Bằng và Trắc. Bằng gồm
7
hai thanh: thanh không dấu gọi là thanh ngang và thanh huyền. Trắc gồm bốn
thanh còn lại: Sắc, Hỏi, Ngã, Nặng.
8. Bẻ bai chữ: Cách diễn đạt của nghệ nhân Chèo, Ca trù khi nói tới
phƣơng cách làm sao cho lời ca đƣợc xử lý tốt nhất, vừa mềm mại, vừa êm tai
ngọt ngào, đúng điệu đúng phách mà vẫn tròn vành rõ chữ. Muốn vậy phải biết
sử dụng luyến, láy, phải biết biến chuyển thanh điệu bằng, trắc (đặc biệt với hai
thanh hỏi và ngã) tạo đƣờng lƣợn nhấp nhô nhằm bảo đảm quy luật của thanh
điệu, vừa rõ chữ vừa mềm mại câu hát, nâng cao chất lƣợng của giọng. Cách làm
này gọi là bẻ bai chữ
9. Bẻ làn nắn điệu: Phƣơng pháp sáng tác truyền thống của âm nhạc Chèo
đƣợc ứng dụng ở hai cấp độ khác nhau.Với làn, tức với các lối hát không có
nhịp, hát tự do (adlibitum) nhƣ hát nói, ngâm, vịnh, vỉa...bẻ làn làm cho nó thay
đổi tƣơng đối về cấu trúc giai điệu, lƣợc bớt hoặc gia tăng nốt trang trí (luyến
láy), buông hơi nhả chữ, nhả chữ mềm mại hoặc cứng cỏi hoặc cợt nhả hài
hƣớc...song vẫn giữ hình bóng của làn gốc. Nắn điệu là phƣơng pháp phát triển
âm nhạc (variation) xa hơn tạo ra các điệu mới từ điệu cũ song không làm mất đi
cốt cách của nguyên bản mà tạo cho nó một hình hài mới, nội dung biểu hiện
mới.
10. Điệp, Đực, Chát: Nếu 4 khái niệm Trại, Bẹ, Hƣớt (hay huốt), dùng để
chỉ những lỗi liên quan đến phát âm nhả chữ thì Điệp, Đực, Chát liên quan đến
nghệ thuật xử lý, thể hiện ca từ.
- Điệp quy định diễn viên khi hát không đƣợc trùng âm thanh, chẳng hạn: em ơi
nghe chăng, 4 thanh không dấu đứng liền nhau phải xử lý có màu sắc khác nhau,
bằng cƣờng độ âm thanh (to nhỏ), sắc thái, luyến láy hay bằng kỹ thuật nhấn chữ
giúp tạo ra sự phong phú cho câu hát, đoạn hát và nêu bật đƣợc nội dung tác
phẩm.
- Đực chỉ lối hát đờ đẫn, vô hồn.
8
- Chát chỉ lối hát vụng dẫn đến giọng hát thô. Âm thanh xẵng, không ngọt ngào.
11. Giọng: Chỉ giọng nói hoặc giọng hát, những hoạt động miệng của con
ngƣời. Trong âm nhạc và đặc biệt trong dân ca nhạc cổ truyền chỉ nhiều khái
niệm khác nhau: Giọng Đô trƣởng, giọng La thứ, giọng Nam, giọng Xuân, giọng
Bắc, giọng oán (liên quan đến tính điệu-mode), giọng tenor, giọng soprano,
giọng thổ đồng, giọng kim vắt...(liên quan đến chất giọng và phân loại giọng).
Từ Giọng còn dùng để chỉ một tổ hợp làn điệu đƣợc xếp đặt trong trình tự ca hát,
diễn xƣớng: Trong Quan Họ: Giọng lề lối, giọng vặt (giọng lá), giọng giã
bạn…Trong Chèo và hát Xoan, hát Ghẹo Phú Thọ cũng có giọng Sổng, giọng Ví
và giọng Vặt…
12. Giọng thổ: Quan niệm âm dƣơng, ngũ hành chi phối cả trong lĩnh vực
tƣ duy và sáng tạo âm nhạc truyền thống. Ngƣời ta cho rằng hệ thống thang âm 5
âm Hò, Xừ, Xang, Xê, Cống ứng với hệ thống cấu thành vũ trụ Kim, Mộc, Thuỷ,
Hoả, Thổ. Phân loại giọng hát cũng đƣợc dựa trên quan niệm Âm Dƣơng. Giọng
thổ - giọng Nam thuộc về dƣơng, đƣợc phân ra các loại giọng nhƣ sau:
1) Giọng Thổ Đồng. Chất giọng cao, trong, trữ tình (liên tƣởng tới giọng
tenor)
2) Giọng Thổ Lá: cao, chua, nghe nhƣ giọng nữ vì hát hơi mé, giọng óc
(voix de tête). Giọng này thƣờng dùng để đóng thế vai nữ vào thời kì Chèo sân
đình.
3) Giọng Thổ Bùn: Giọng ồ, khàn, và rè, "nát nhƣ bùn". Chuyên dùng cho
các nhân vật đóng vai hề áo dài, lính hầu, ... các vai này ít hát.
13. Hát tiếng một hoặc hát từ nào ra từ nấy: Xuất phát từ trải nghiệm của
nghệ nhân hát Chèo và Ca trù, cũng nhƣ từ bản chất cấu trúc của âm thanh tiếng
Việt (đa thanh, đơn âm tiết, mỗi âm tiết có nghĩa, độc lập) đƣợc ví nhƣ những
viên ngọc xâu lại thành chuỗi. Từ đó đẻ ra kỹ thuật và khái niệm hát tiếng một,
9
hát từ nào ra từ nấy không phải hát rời rạc, nhát gừng, gẫy khúc mà vẫn vang,
rền, nền, nẩy.
14. Hát khép miệng: Nghệ thuật hát không mở khẩu hình lớn nhƣ lối hát
mở (Bel canto). Miệng phải đóng khép chữ, nhƣng giọng vẫn vang, rền, nền,
nẩy. Ca từ vẫn luôn bảo đảm tròn vành rõ chữ. Gọi nghệ thuật hát khép miệng vì
chúng sinh ra từ tiếng Việt (đóng, khép chữ), và từ quan niệm và tập quán sống
kín đáo của ngƣời Việt.
15. Hơi: Chỉ sự hoạt động của cơ quan hô hấp. Hơi thở có ảnh hƣởng trực
tiếp đến chất lƣợng của nói và hát. Hơi trong ca hát dân gian truyền thống còn
bao hàm nghĩa rộng và trừu tƣợng. Hơi ở đây bao hàm toàn bộ phong cách ngôn
ngữ biểu cảm có tính riêng biệt của từng dòng nghệ thuật hát truyền thống (hơi
Chèo). Nhiều nghệ nhân cho rằng hơi đƣợc tạo ra bởi rung, luyến láy... và dùng
từ hơi để chỉ cấu trúc nhƣ hơi nam, hơi ai, hơi xuân....
16. Khuôn hơi diệu vợi:
Khuôn là cách đàn hát tự khép mình vào khuôn khổ, uốn nắn từng tiếng
cho chính xác, lên xuống đúng bậc, phát âm rõ chữ, không vội vàng.
Hơi bao gồm cả màu sắc, dƣ vị và kỹ thuật giữ hơi, nén hơi để hát tiếng
nào cũng phải có dƣ âm vang rền, phải dụng công lấy tiếng gằn từ trong cổ họng,
vừa sâu vừa đầy đặn vừa không có tiếng nào dƣ thừa.
Diệu là tiếng hát, tiếng phách tiếng đàn phải đạt đến độ chín, độ sang
trọng và tuyệt diệu nhất.
Vợi có thể là ”thổ tận can tràng” tức phải để hết lòng mình trong câu hát.
Cũng có ngƣời giải thích Vợi là tiếng hát cao mà trong sáng. Căn cứ theo các tƣ
liệu cổ chỉ ra 8 chữ để thẩm định một đào nƣơng hát hay: Quán – xuyến – Dằn –
Thét – Diệu - Vợi – Khuôn – Rẫy. Tám chữ này nhấn mạnh vào 4 yếu tố của Ca
trù: Tròn vành – Rõ chữ - Sắc tay – Hay nhịp.
- Xuyến: Tức là hát cho tròn trĩnh, mƣợt, đẹp và vững vàng.
10
- Dằn: Tiếng tròn, nặng và đều.
- Rẫy: Tiếng dền, giòn.
-Vợi: Tiếng cao mà trong sáng.
17. Làn Điệu: Làn điệu đƣợc dùng rộng rãi để chỉ một câu hát chèo, câu
hát dân ca song thực ra nó mang hai nội dung khác nhau. Làn gồm các câu hát
không nhịp, hát tự do nhƣ các giọng ngâm, vịnh, hát nói. Ngâm, hát nói có vị trí
quan trọng trong ca hát dân gian cũng nhƣ ca hát truyền thống bác học. Điệu là
từ để chỉ các bài hát có cấu trúc âm nhạc hoàn chỉnh (cấu trúc câu, đoạn - trổ,
nhịp ...). Vì Làn thƣờng đi với điệu (hát nói, hát tự do trƣớc khi đổ vào câu hát
chính) đặc biệt trong âm nhạc sân khấu truyền thống nên ngƣời ta hay có thói
quen gọi làn điệu Dân ca hay làn điệu Chèo....
18. Luyến láy: Trong dân ca và ca hát cổ truyền chuyên nghiệp luyến láy
nhƣ một phần da thịt không thể thiếu. Nó mang tính đặc trƣng và mang đậm bản
sắc văn hoá Việt. Luyến láy khó nắm bắt và ghi lại bằng chữ hay bằng nốt nhạc
nên bài bản thƣờng chỉ đƣợc ghi lại phần chính gọi là lòng bản. Trong dân gian
luyến láy đƣợc lƣu truyền qua hơi thở gọi là truyền khẩu. Luyến và láy có nhiệm
vụ, chức năng khá riêng biệt. Luyến làm cho quyện giữa âm này với âm kia
khiến chữ (ca từ) đƣợc mềm và câu hát đƣợc rền và dền. Luyến thƣờng đi liền
với thanh điệu, làm rõ thanh điệu. Luyến có thể diễn ra nhanh hoặc chậm tuỳ
thuộc vào làn điệu, dòng và nghệ thuật ca hát. Luyến đƣợc ứng dụng nhiều trong
sáng tác mới với chủ đích của ngƣời viết muốn tô đậm thêm bản sắc cho tác
phẩm.
19. Petite note: nốt nhỏ, nốt hoa mỹ
20. Phát âm, nhả chữ: Là kết quả của quá trình tạo âm, phát âm, với các
hoạt động của môi, răng, lƣỡi, hàm dƣới, vòm mềm (hàm ếch mềm, ngạc mềm
và miệng). Khẩu hình là hình dáng, cả bên ngoài lẫn bên trong của miệng do
hoạt động phối hợp của môi, lƣỡi, hàm dƣới, vòm mềm tạo ra khi phát âm. Mở
11
khẩu hình không đúng cách sẽ ảnh hƣởng không chỉ đến chất lƣợng âm thanh,
mà nhất là ảnh hƣởng đến việc rõ lời, là một yêu cầu cơ bản trong thanh nhạc.
21. Tròn vành, rõ chữ: Cụm từ chỉ kỹ năng phát âm nhả chữ và kết quả
của kỹ năng vận động đó. Muốn tròn vành phải hoàn thành một cách tốt nhất qúa
trình tạo thanh. Quá trình tạo thanh giọng nói, cũng nhƣ giọng hát đều trải qua ba
bƣớc:
Bƣớc một: Tạo thanh (khởi thanh): có ý nghĩa quan trọng tạo ra âm thanh
đẹp cho giọng nói, cũng nhƣ giọng hát. Các cơ thanh đới phải đƣợc giữ cân bằng
để giây thanh đƣợc rung lên với tần số tốt nhất.
Bƣớc hai: Tạo âm: Khi dây thanh rung lên, nhờ các xoang phía trên cộng
hƣởng tạo ra các thành phần nhỏ nhất của lời nói gọi là âm tố. Sự kết hợp của âm
thanh (nguyên âm), tiếng động (phụ âm) và độ cao thấp gây ra bởi các thanh (sáu
thanh), âm tiết - từ tiếng Việt hình thành.
Bƣớc ba: Cấu âm: Chính là tiến trình cấu trúc của từ. Vậy đã tròn vành tức
đã hoàn tất tốt đẹp quá trình hình thành lời nói sẽ có kết quả rõ lời trong nói cũng
nhƣ trong hát. Đây là cụm từ thƣờng dùng trong nghệ thuật hát Chèo song nó
ngày một trở nên thông dụng và đƣợc áp dụng cho nhiều ngành nghệ thuật ca hát
khác.
22. Rung giọng: Rung giọng là một biểu hiện tự nhiên của giọng hát khi
hơi đi qua thanh đới tạo thanh. Rung giọng ở lối hát Bel canto sử dụng rung
giọng (tần suất nhanh hoặc chậm) tạo sự riêng biệt và làm tăng độ vang cho
giọng hát. Nghệ thuật ca hát dân ca, truyền thống của Việt Nam, Rung giọng
thiên về biểu cảm, chiều sâu có tính mỹ cảm hơn. Không tạo vang bằng Rung
giọng mà sử dụng nó làm công cụ biểu hiện.
23. Trại, Bẹ, Huốt (hay hƣớt), chớt: 4 khái niệm Trại, Bẹ, Hƣớt (hay
huốt), dùng để chỉ những lỗi liên quan đến phát âm nhả chữ. 4 luật cấm trong
nghệ thuật thanh nhạc Tuồng:
12
- Trại chỉ lỗi liên quan đến phát âm vần nhƣ Tay thành Tai, nƣớc non thành
nƣớt noong... để chỉ lỗi sai hai thanh điệu hỏi và ngã.
- Bẹ chỉ lỗi phát âm không đúng hoặc không rõ, lẫn lộn thanh điệu: con bò
vàng thành con bó váng, đau khổ thành đau khỗ...
- Hƣớt hay huốt: lỗi phát âm nuốt chữ, dài hoặc ngắn lƣỡi, không đúng vị trí
cấu âm từ. Ví dụ: ngày mai thành ngà ma hay anh đi thành an đi...
24. Vang, Rền, Nền, Nảy: Ngƣời Quan Họ cho rằng đây là tiêu chí do họ
đặt ra và đƣợc nhiều ngành nghệ thuật ca hát khác áp dụng, nhƣng mức độ và kỹ
thuật xử lý không giống nhau.
Vang là tiêu chí đầu tiên, mỗi dòng ca hát truyền thống lại có những quan
niệm, xử lý khác nhau, tuỳ thuộc vào không gian và đối tƣợng thƣởng thức.
Rền là tiêu chí thứ hai. Khi có vang phải đẩy độ vang tới mức cần thiết để
âm thanh lan truyền và vang động tới không gian rộng lớn hơn. Rền còn có ý
nghĩa nữa là dền (legato), âm thanh, giai điệu, ca từ gắn kết chặt chẽ khiến câu
hát trở thành một dòng âm thanh hài hoà, giàu sức biểu cảm.
Nền có thể hiểu giọng hát, câu hát đƣợc diễn đạt một cách tế nhị, nền nã,
không thô bạo, chát, sƣợng. Nền cũng có thể đƣợc hiểu nhƣ là giọng hát giữ
đƣợc độ ngân, độ mở của ca từ để đáp ứng đƣợc với cấu trúc của giai điệu âm
nhạc.
Nẩy là kỹ thuật khá đặc biệt của nghệ thuật ca hát dân tộc. Nó đƣợc thể hiện
và xử lý không giống nhau. Quan họ gọi là hơi hột, nảy hạt, Tuồng gọi là láy
rúc... Để tạo ra hơi hột, nghệ nhân thu hơi vào phía trong đẩy mạnh lên khoang
vòm miệng và mũi, tiếng bật thành các hạt âm thanh liên tiếp. Hột to đƣợc ví
nhƣ hạt đỗ, hột nhỏ gọi là con kiến (đổ con kiến)
* Ký hiệu và chữ viết tắt:
- C: Viết tắt của Consonant - phụ âm;
- V: Viết tắt của Vowel - nguyên âm
13
- C, D, E, F, G, A, H (B): các nốt đồ, rê, mi, pha, son, la, si (si giáng)
- D2: nốt rê ở quãng 8 thứ 2
- F#: nốt pha thăng
- HVANQGVN: Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
- GS: Giáo sƣ
- PGS: Phó giáo sƣ.
- TS: Tiến sĩ
- NS: Nghệ sĩ
- NSƢT: Nghệ sĩ ƣu tú
- NGƢT: Nhà giáo ƣu tú
- NSND: Nghệ sĩ nhân dân
- TK.XV: Thế kỷ 15
- TW: Trung ƣơng
- XHCN: Xã hội chủ nghĩa
- Xem bảng 1.4: Bảng 4 của chƣơng I
- Xem hình 1.1: Hình 1 của chƣơng I
- [33, tr14]: 33 là thứ tự của tài liệu tham khảo, tr14 là số trang
14
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
TT
Số hình,
bảng, biểu
Tên hình
Trang
1 Bảng 1.1 Các thành phần của âm tiết
19
2 Bảng 1.2 Hệ thống âm đầu
19
3 Bảng 1.3 Bảng so sánh nghệ thuật hát cổ truyền và nghệ thuật
hát Mới
79
4 Biểu đồ Cấu tạo của âm tiết tiếng Việt
18
5 Hình Những vị trí phát âm của hệ thống phụ âm
21
15
MỤC LỤC
Trang
Mở Đầu..………………………………………………………………..............1
Chƣơng 1: Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống và nghệ thuật
hát Mới............................................................................................14
1.1 Những đặc điểm, đặc trƣng cơ bản của tiếng Việt trong nói và hát……..14
1.2 Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống………………………...27
1.3 Tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới…………………………….............59
Chƣơng 2: Một số giải pháp, ứng dụng và bài tập góp phần nâng cao chất
lƣợng hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát ……………………..83
2.1 Một số giải pháp, ứng dụng nhằm nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt...84
2.2 Một số bài tập nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt…...112
Kết luận………..……………………………………………………………...123
Tài liệu tham khảo…………………………………………….......................128
Phụ lục
16
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hàng ngàn năm bị đô hộ, với ý chí tự lập, tự cƣờng rất cao của
ngƣời Việt nam nên chúng ta vẫn giữ đƣợc truyền thống văn hoá mang bản sắc
riêng của mình. Duy trì tính đa dạng văn hoá cũng là sự bảo tồn và duy trì bản
sắc dân tộc. Vấn đề khai thác và phát triển, bảo tồn và phát huy vốn âm nhạc
truyền thống đang là mục tiêu xây dựng một nền âm nhạc Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Việc nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới là nhiệm
vụ quan trọng và cần làm. Xây dựng và phát triển nền thanh nhạc Việt nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở nền thanh nhạc do cha ông ta để lại đến
ngày nay, kết hợp với sự tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo kỹ thuật thanh nhạc kinh
điển thế giới làm cho sức biểu hiện của tiếng hát Việt nam ngày càng đẹp hơn,
hay hơn.
Ngôn ngữ - khởi nguồn của văn hoá biểu cảm là cầu nối giữa ngƣời với
ngƣời và thế giới xung quanh. Cùng với quá trình phát triển của kinh tế, khoa
học, kỹ thuật và mối quan hệ xã hội, ngôn ngữ cũng đa dạng và phát triển theo
để đáp ứng những nhu cầu bức thiết của quá trình này. Tuy nhiên ngôn ngữ
không chỉ dừng lại với vai trò giao tiếp mà nó còn là phƣơng tiện sáng tạo của
nhiều loại hình nghệ thuật diễn xƣớng, thi ca…đặc biệt là ca hát. Do chịu sự tác
động trực tiếp của đời sống nên ngôn ngữ mang đậm sắc thái vùng miền. Chính
sắc thái vùng miền này đã định hình thành phong cách mang dấu ấn của từng
vùng văn hoá. Sự khác biệt giữa các vùng ca hát xuất phát từ ngôn ngữ, từ cách
17
phát âm của vùng miền. Ta có thể thấy rõ điều đó ở các vùng ca hát dân gian
truyền thống của Việt Nam.
Ca hát là nghệ thuật luôn gắn liền với ngôn ngữ. Ngôn ngữ nào cũng có
nghệ thuật ca hát riêng, phù hợp với ngôn ngữ đó.Với 54 dân tộc anh em, nghệ
thuật ca hát truyền thống rất phong phú về số lƣợng, đa dạng về ngôn ngữ và
phong cách thể hiện độc đáo. Mỗi bộ môn nghệ thuật trong ca hát truyền thống,
lại có phong cách, màu sắc, những ứng xử về ngôn ngữ rất riêng, mang tính tƣ
duy và thẩm mỹ độc lập.
Từ nền tảng kiến thức thu lƣợm từ các giáo sƣ, các thày và đồng nghiệp
trong và ngoài khoa thanh nhạc Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam cùng
những kinh nghiệm đúc rút từ thực tiễn giảng dạy và biểu diễn, tác giả luận án
thấy rằng việc hiểu rõ tiếng Việt (nắm rõ đặc điểm, đặc trƣng, quá trình đóng,
mở và cấu trúc âm thanh của ngôn ngữ tiếng Việt) cũng nhƣ các đặc điểm, đặc
trƣng của nghệ thuật ca hát truyền thống (nghệ thuật xuất thân và là sản phẩm
của tiếng Việt) là cơ sở tốt để ứng dụng vào hát Mới mang lại hiệu quả trong
việc Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới.
Trƣớc đây đã có các giáo sƣ, các nhà sƣ phạm hàng đầu của nghệ thuật
thanh nhạc nhƣ PGS-NSND Mai Khanh, PGS-NSND Nguyễn Trung Kiên, PGS-
NGƢT Lô Thanh, NGƢT Hồ Mộ La…đề cập tới những vấn đề về phƣơng pháp
sƣ phạm, kỹ thuật, lịch sử thanh nhạc…Những vấn đề xử lý ngôn ngữ tiếng Việt
trong thanh nhạc cũng đã đƣợc đề cập tới trong các bài báo và các luận văn thạc
sĩ của Ths.Vũ Diệu Linh, Ths.Võ văn Lý, TS.Trƣơng Ngọc Thắng… song chƣa
có một nghiên cứu chuyên sâu nào về vấn đề này. Đây là lý do chính để luận án
của chúng tôi chọn đề tài Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong
nghệ thuật hát Mới với hy vọng bổ sung thêm cho giáo trình giảng dạy thanh
nhạc giúp cải thiện một số hạn chế trong hát tiếng Việt.
18
Năm 1956 trƣờng Âm nhạc Việt Nam đƣợc thành lập tại Hà Nội và
chuyên ngành thanh nhạc đã đƣợc đƣa vào giảng dạy chính khoá. Có thể coi đây
là cột mốc lịch sử, đánh dấu sự khởi đầu của sự nghiệp đào tạo nền thanh nhạc
chuyên nghiệp Việt Nam.
Trải qua hơn 50 năm hình thành và phát triển, nghệ thuật thanh nhạc Việt
nam đã đạt đƣợc những thành tựu rất đáng tự hào trên cả 2 lĩnh vực đào tạo và
biểu diễn: Chuyên ngành thanh nhạc đã đƣợc đƣa vào giảng dạy tại các cơ sở
đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp ở nƣớc ta nhƣ: Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt
nam, Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Âm nhạc Huế, trƣờng Đại
học Văn hoá Nghệ thuật Quân đội, trƣờng Đại học Sƣ phạm Nghệ thuật TW, các
trƣờng Cao đẳng và Trung cấp Văn hoá Nghệ thuật các địa phƣơng, các khoa âm
nhạc của các trƣờng đại học… Chúng ta đã đào tạo đƣợc nhiều thế hệ nghệ sĩ và
ca sĩ xuất sắc mà bằng tài năng của mình họ đã làm rạng danh cho nền ca hát
Việt nam.
Chúng tôi xin điểm qua đôi nét về những chặng đƣờng phát triển của
thanh nhạc Việt Nam.
Phong trào Tân Nhạc (nhạc Mới) ra đời từ cuối những năm 30 (thế kỷ XX)
do đòi hỏi của xã hội Việt Nam lúc đó và sớm trở thành trào lƣu vào các năm
trƣớc Cách mạng tháng Tám (còn gọi là nhạc Tiền Chiến). Phong trào cách tân
rất mạnh thể hiện ở những thay đổi trong đời sống xã hội (cắt bỏ búi tóc củ hành,
cạo răng trắng, đàn bà bỏ váy mặc quần…) cũng nhƣ thay đổi trong đời sống văn
hoá nghệ thuật: Từ hò, xừ, xang, xê, cống chuyển sang đô, rê, mi, pha, son. Từ
thẩm mỹ nghe đơn thanh chuyển sang thẩm mỹ nghe đa thanh. Từ thói quen
nghe hát bạch thanh, giọng thật với các kỹ thuật hát thuần Việt nhƣ rung, luyến,
đổ hột... chuyển sang nghe hát giọng pha theo cách hát du nhập của phƣơng Tây
(lối hát cộng minh mở rộng âm thanh và mở rộng tầm cữ giọng…). Tân Nhạc ra
đời đòi hỏi phải có ca hát thích hợp để diễn đạt nó, vì vậy hát Mới ra đời. Quá
19
trình hình thành và phát triển của nghệ thuật hát Mới gắn liền với tiến trình hình
thành và phát triển của sáng tác âm nhạc . Sáng tác âm nhạc (hình thức, thể loại,
ngôn ngữ, nội dung biểu cảm...) càng phát triển, càng phong phú và đa dạng bao
nhiêu thì càng đặt ra cho ca hát nhiều thách thức bấy nhiêu. Trong mỗi giai đoạn,
mỗi thời kỳ do đặc điểm phát triển của sáng tác và sự tác động cũng nhƣ đòi hỏi
của thực tiễn đời sống nên nghệ thuật ca hát hình thành, thay đổi, phát triển và
trƣởng thành theo. Quá trình hình thành và phát triển của hát Mới có thể chia làm
4 giai đoạn:
Giai đoạn một (1938 - 1945): Cùng với sự hình thành và phát triển Tân
Nhạc, hát Mới ra đời. Ca hát giai đoạn này phát triển mang tính tự phát có những
giọng hát nổi tiếng đại diện nhƣ: Mai Khanh, Thƣơng Huyền, Ngọc Bảo, Minh
Trang, Minh Đỗ... Và phần lớn ca khúc lúc này đều phản ánh tâm sự cá nhân,
tình yêu đôi lứa. Giai đoạn này ca hát chỉ dừng ở hát giọng thật còn gọi là hát
bạch thanh hay hát bản năng.
Tân Nhạc (hát Mới) thời kỳ đầu chƣa đƣợc thể hiện bằng phƣơng pháp
thanh nhạc có hệ thống, cụ thể và khoa học, chƣa đƣợc rèn luyện một cách
chuyên nghiệp và bài bản. Ca sĩ thời kỳ đầu xuất hiện cùng phong trào “nhạc
Tây lời ta”, phần lớn đều là các nghệ sĩ của sân khấu cải lƣơng nhƣ Kim Thoa,
Ái Liên, Năm Châu, Kim Tiêu... Cùng với bài hát “Tây lời ta”, những bài hát
hƣớng đạo sinh, những bản hành khúc và dân ca Pháp, cùng những giọng hát của
các ca sĩ Pháp đã có ảnh hƣởng tác động trực tiếp tới sự ra đời của hát Mới.
Giai đoạn hai (1945 - 1954): Giai đoạn phát triển rực rỡ của âm nhạc
cách mạng với những tác phẩm lớn cho đến nay vẫn đƣợc lấy làm mẫu mực cho
sáng tác ca khúc và nghệ thuật thanh nhạc ở thể loại thính phòng nhƣ Ngƣời Hà
Nội (Nguyễn Đình Thi), Sông Lô (Văn Cao), Du Kích Sông Thao (Đỗ Nhuận),
Trƣờng chinh ca (Lƣơng Ngọc Trác)... Giai đoạn này vì những lý do khách
quan: sáng tác âm nhạc ra đời chƣa lâu, tình hình đất nƣớc đang trong giai đoạn
20
trƣờng kỳ kháng chiến, tƣ duy nghệ thuật còn sơ khai, nên ca hát vẫn hát giọng
thật, bạch thanh nhƣng đã gần hơn với nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp.
Giai đoạn ba (1956 - Trƣờng Âm nhạc Việt Nam ra đời - 1975): Giai
đoạn phát triển cao của sáng tác âm nhạc - giai đoạn âm nhạc chuyên nghiệp
phát triển, trong đó có hát chuyên nghiệp cũng từng bƣớc phát triển theo những
chuẩn mực quốc tế, lấy phƣơng pháp thanh nhạc nƣớc ngoài, chủ yếu từ một số
nƣớc Đông Âu hay còn gọi là nghệ thuật hát Đẹp - Bel canto hay nghệ thuật hát
Mở (sinh ra từ ngôn ngữ đơn thanh, đa âm tiết. Phƣơng pháp hát cộng minh có
âm vang lớn, miệng mở rộng (khẩu hình lớn), tạo sự đồng nhất các nguyên âm.
Lấy hơi, nén hơi, phối hợp các hộp vang đầu và ngực, khuếch đại âm thanh) làm
nền tảng.
Xuất phát từ mục tiêu Dân tộc, Khoa học, Đại chúng (đề cƣơng văn hoá
của Đảng - 1943) và với chủ trƣơng tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế
giới, nhà nƣớc đã thực sự quan tâm nhằm đẩy mạnh và nâng cao tính chuyên
nghiệp cho các loại hình nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng. Cùng với
các lớp đào tạo tại chỗ do chuyên gia thanh nhạc đến từ các nƣớc XHCN, Bộ văn
hoá đã cử nhiều giọng hát có triển vọng ra nƣớc ngoài học tập theo chế độ lƣu
học sinh và thực tập sinh tại các nhạc viện có uy tín nhƣ:
- Liên-xô (cũ): PGS-NSND Mai Khanh (thực tập), PGS-NSND Trung
Kiên, NGƢT Mộ La, NSƢT Quang Hƣng, NGƢT Thuý Huyền (thực tập), NS
Dƣơng Phú, NS Thanh Trì, NS Kiều Hƣng, NSND Lê Dung (thực tập)…
- Bun-ga-ri: NSND Quý Dƣơng (thực tập), NSND Trần Hiếu (thực tập),
NSND Tƣờng Vy, PGS-NGƢT Lô Thanh, NSƢT Quốc Trụ, NSƢT Gia Hội
(thực tập), NGƢT Diệu Thuý (thực tập), NSƢT Quang Phác, NSƢT Thanh
Đính, NS Kim Oanh, NS Tâm Trừng, NSƢT Anh Đào, NS Gia Khánh…
- Trung Quốc: PGS-NSND Mai Khanh, PGS-NGƢT Lô Thanh...
21
- Hung-ga-ri : NSND Quốc Hƣơng, NSƢT Kim Định (thực tập), NSƢT
Đức Lộc (thực tập), NS Trần Thụ...
Hát Mới đƣợc đào tạo có bài bản giúp nền âm nhạc Việt Nam non trẻ có
đƣợc những gƣơng mặt mới, tài năng mới, từng bƣớc xây dựng nên nền âm nhạc
chuyên nghiệp. Nhiều thế hệ ca sĩ, nghệ sĩ tài năng, ứng dụng linh hoạt và sáng
tạo nghệ thuật hát Bel canto không chỉ đóng góp xây dựng nên sân khấu ca kịch
VN mà còn có những đóng góp xuất sắc xây dựng nền âm nhạc cách mạng.
Những bài ca hùng tráng, những ca khúc trữ tình giàu chất lạc quan, những ca
khúc đƣợm chất dân ca nhƣng gần gũi với ngôn ngữ biểu cảm của Bel canto…
đã đƣợc thể hiện bởi các giọng hát tài năng và đƣợc đào tạo chính quy của nhiều
thế hệ nghệ sĩ nhƣ Mai Khanh, Quốc Hƣơng, Quý Dƣơng, Trần Hiếu, Trung
Kiên, Quang Hƣng, Tƣờng Vi, Thanh Huyền, Tuyết Thanh, Bích Liên, Quang
Thọ, Thuý Hà, Lê Dung... đã vang lên và trở thành những bài ca có sức sống
mãnh liệt, đóng góp tích cực và có hiệu quả trong các cuộc chiến tranh cứu nƣớc
và công cuộc xây dựng đất nƣớc, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Các tác phẩm thanh nhạc sáng tác trong giai đoạn này đã đóng vai trò định
hƣớng cho ca hát chuyên nghiệp phát triển. Tuy nhiên ca hát chuyên nghiệp cũng
mới đƣợc tiếp cận với phƣơng pháp thanh nhạc Bel canto. Vì vậy, nhìn chung
phƣơng pháp hát Mới chƣa giải quyết đƣợc sự kết hợp hài hoà giữa tiêu chí âm
thanh và lời hát (giai đoạn này, đào tạo thanh nhạc chủ yếu ở trình độ trung cấp
và một phần nhỏ ở trình độ đại học). Trong bối cảnh này, tại các trƣờng và các
trung tâm đào tạo cũng nhƣ trong thực tế biểu diễn, tiêu chí âm thanh vang, khoẻ
đƣợc quan tâm nhiều hơn tiêu chí hát rõ lời, do vậy đã có một số ca sĩ chỉ chú ý
đến âm thanh “tròn vành” nhƣng không “rõ chữ” và đã bị dƣ luận phê phán. Một
phần nữa, trong giai đoạn này hệ thống kỹ thuật âm thanh ở các sân khấu biểu
diễn và các phòng thu âm còn lạc hậu, nên ngƣời hát không có kỹ thuật phát âm
22
nhả chữ tốt sẽ bộc lộ rõ những khiếm khuyết của mình, cộng thêm những nhƣợc
điểm trong sáng tác thanh nhạc gây khó khăn, hạn chế không ít cho ngƣời hát
trong việc thực hiện tiêu chí hát rõ lời.
Giai đoạn thứ tƣ (1975 đến nay - giai đoạn hoà nhập của âm nhạc Nam -
Bắc): Là giai đoạn phát triển đa dạng của hát Mới. Nhạc nhẹ đƣợc gọi là nhạc trẻ
(nhạc giải trí) nhƣ luồng gió mới tràn vào nƣớc ta và đƣợc phát triển rầm rộ. 15
năm đầu của giai đoạn này có thể đƣợc coi là giai đoạn khó khăn, chao đảo của
dòng nhạc thính phòng và ca khúc cách mạng. Với cách hát tự nhiên, nhả chữ
gần gũi với tiếng Việt, đa dạng phong cách, vì giữ đƣợc âm sắc nguyên bản của
giọng nói (ở phƣơng pháp hát Bel canto thực sự còn có khoảng cách) nhạc trẻ đã
lấn lƣớt và đƣợc quần chúng nồng nhiệt đón nhận.
Nhƣng nghệ thuật hát Đẹp - Bel canto cùng với sức sống mãnh liệt của ca
khúc cách mạng, những ca khúc có tính sáng tạo và có nội dung sâu sắc nên
nghệ thuật hát Bel canto đã dần lấy lại vị trí của mình và trở thành một trong ba
dòng hát chính ở Việt Nam:
- Dòng ca hát thính phòng.
- Dòng ca hát theo phong cách dân gian.
- Dòng ca hát nhạc nhẹ.
Mặc dù đƣợc chia làm 3 dòng và trở thành tiêu chí của các cuộc thi hát
chuyên nghiệp từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trƣớc và những năm
sau này, phƣơng pháp hát Bel canto đã và đang có những ảnh hƣởng tốt, nâng
cao chất lƣợng ca hát cho cả ba dòng và còn tác động đến nhiều khu vực ca hát
truyền thống khác. Mỗi dòng đều có những đại diện xuất sắc, nhƣng ở mỗi dòng
đều có những vấn đề nảy sinh mà trong nhiều năm các thế hệ đi trƣớc giàu tài
năng, kinh nghiệm vẫn trăn trở, nghiên cứu, suy nghĩ và tìm biện pháp khắc
phục: “tròn vành” nhƣng không “rõ chữ”. Có nghĩa là phần nào đánh mất bản sắc
của tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới.
23
Việt nam với 54 dân tộc anh em, đƣợc thừa hƣởng một kho tàng âm nhạc
dân gian phong phú, một nền kỹ thuật thanh nhạc dân tộc đa dạng, độc đáo và
đạt trình độ thẩm mỹ cao.Việc tiếp thu, học tập tinh hoa trong kho tàng nghệ
thuật ca hát truyền thống của nhân dân ta về kỹ thuật thanh nhạc dân tộc, xử lý
ngôn ngữ tiếng Việt một cách linh hoạt, tinh tế, nhả chữ sao cho vang, rền, nền,
nảy đạt yêu cầu tròn vành, rõ chữ, hát tiếng nào ra tiếng nấy, rõ tiếng một; đồng
thời kết hợp với những kỹ thuật thanh nhạc hát Bel canto là một việc làm hết sức
quan trọng và cần thiết nhằm Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong
nghệ thuật hát Mới.
Từ khi hình thành và phát triển hát Mới sử dụng tiếng Việt phổ thông -
giọng Bắc (lấy chuẩn là giọng Hà Nội) làm cơ sở và trở thành tiêu chí của nghệ
thuật hát Mới. Cũng nhƣ hát Cải lƣơng hay, phải hát đúng giọng Nam bộ. Ca
Huế hay, phải phát âm đúng giọng Huế. Hát Chèo, hát Quan Họ hay, phải hát
bằng giọng Bắc. Một số ca khúc viết theo phong cách dân gian, mang đậm ngôn
ngữ địa phƣơng, ngƣời hát khi trình bày đòi hỏi phải hát rõ phong cách hoặc phát
âm theo tiếng địa phƣơng. Những sáng tác mang phong cách hiện đại, ngƣời hát
lại hát bằng giọng địa phƣơng, sẽ không phù hợp với tai nghe, thẩm mỹ của
ngƣời nghe.Vì vậy muốn hát tốt, hát chuẩn tiếng Việt cần luyện phát âm chuẩn
tiếng Việt phổ thông.
Hát Mới lấy nghệ thuật hát Đẹp - Bel canto làm cơ sở đào tạo, biểu diễn
và làm tiêu chí đánh giá mức độ chuyên nghiệp, cũng nhƣ thẩm mỹ âm thanh
suốt gần 60 năm qua, đã đạt đƣợc những thành công nhất định và cũng gặp
không ít khó khăn. Khó khăn chính nẩy sinh từ tiếng Việt, đa thanh, đơn âm, âm
đóng nhiều hơn âm mở và những đặc thù rất riêng của ca hát thuần Việt. Vì vậy,
nếu không nắm vững quy luật, cấu trúc và phát âm tiếng Việt, ngƣời hát sẽ mắc
lỗi không rõ lời hoặc đánh mất những yếu tố đặc trƣng mang tính thuần Việt nhƣ
rung, luyến, láy... giọng hát trở nên cứng, đuỗn, vô hồn.
24
Nghệ thuật Bel canto - nghệ thuật hát Mới nếu ngƣời hát vận dụng một
cách máy móc, thiếu sáng tạo vào hát tiếng Việt sẽ “tròn vành” nhƣng không “rõ
chữ”. Vì mở rộng âm vang và tầm cữ giọng nhƣng quá trình đóng, mở, kết thúc
từ không giữ đƣợc những yếu tố cơ bản của tiếng Việt (trái với tai nghe, thẩm
mỹ truyền thống). Ngƣời hát có thể hát rất tốt khi biểu diễn tác phẩm thanh nhạc
nƣớc ngoài nhƣng hát không hay hoặc không thích hát ca khúc tiếng Việt.
Trong quá trình hình thành và phát triển của hát Mới nhiều thế hệ nghệ sĩ,
giảng viên khoa thanh nhạc đã có nhiều sáng tạo, vận dụng nghệ thuật hát Bel
canto vào hát tiếng Việt, đóng góp một phần thành công không nhỏ trong đào tạo
và biểu diễn những tác phẩm thanh nhạc Việt Nam. Nhiều nghệ sĩ - giảng viên
đã rất thành công trong đào tạo và biểu diễn. Mỗi ngƣời mỗi vẻ, mỗi phƣơng
pháp hát khác nhau. Cũng không ít những giọng hát có triển vọng, đƣợc đào tạo
bài bản, chính qui ở trong nƣớc cũng nhƣ ở nƣớc ngoài nhƣng thể hiện bài hát
Việt Nam không đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn, bởi nhiều lý do: Kỹ thuật
Bel canto tốt nhƣng đóng, mở từ không hợp lý, hoặc mở quá hát không rõ lời,
hoặc khép quá hát không có âm thanh, khô, vụn, vận dụng cứng nhắc, máy móc,
“tròn vành” nhƣng “không rõ chữ”... có nghĩa là phần nào đánh mất bản sắc của
tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới.
Sáng tác cho thanh nhạc lúc này không còn đóng vai trò định hƣớng cho
nghệ thuật hát Mới nói chung, thậm chí trong lĩnh vực sáng tác nhạc nhẹ bị lai
căng, pha tạp, đạo nhạc, chạy theo thị hiếu… hoặc những sáng tác mang âm
hƣởng dân tộc vàng vọt, “sến”, thẩm mỹ thấp.
Kỹ thuật về âm thanh phát triển rất mạnh ở cả nơi biểu diễn và trong
phòng thu âm tạo cho ca sĩ nhƣng điều kiện mới vừa tích cực, vừa tiêu cực (hát
“nhép” tràn lan). Tác phẩm cho hát thính phòng hầu nhƣ vắng bóng. Tuy nhiên
trong đào tạo hát Mới vẫn có những kết quả, những cố gắng mới và những điều
kiện mới đó là những kết quả mở rộng giao lƣu văn hoá và hội nhập. Dòng thính
25
phòng đã có những kết quả đáng khích lệ. Ca hát cách mạng cũng từng bƣớc
đƣợc hồi phục. Tiêu chí hát tốt tiếng Việt trong đào tạo vẫn tiếp tục đƣợc quan
tâm nhƣng đã có những thay đổi không còn bức bách nhƣ trƣớc. Song, yêu cầu
chuẩn hoá những qui trình đào tạo là rất cần thiết và nâng cao chất lƣợng là điều
sống còn trong nhà trƣờng và các trung tâm đào tạo chuyên nghiệp.
2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
- Luận án dựa trên những nghiên cứu về những đặc trƣng, qui luật cơ bản
của cấu âm tiếng Việt làm cơ sở lý luận để tiếp tục nghiên cứu phƣơng pháp xử
lý ngôn ngữ khôn khéo, tinh tế trong nghệ thuật ca hát truyền thống.
- Nghiên cứu phƣơng pháp xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong dân gian và
một số nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp thuần Việt tiêu biểu gần gũi với tiếng
Việt phổ thông, có ảnh hƣởng trực tiếp đến nghệ thuật ca hát Mới nhƣ: Ngâm
thơ, Hát ru, Dân ca, Ca trù, hát Chèo, hát Tuồng để tìm ra biện pháp phù hợp,
ứng dụng vào đào tạo, giảng dạy thanh nhạc kết hợp giữa kỹ thuật phát âm, nhả
chữ truyền thống với kỹ thuật mở rộng âm thanh của nghệ thuật hát Mới nhằm
tròn vành rõ chữ, rõ tiếng một mà vẫn giữ đƣợc những đặc trƣng cơ bản của
ngôn ngữ tiếng Việt, truyền đạt rõ ràng, đầy đủ thông tin chứa đựng trong ca từ
tới ngƣời nghe, khán giả, đạt đƣợc tiêu chí hát đẹp, hát hay.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài
* Phƣơng pháp nghiên cứu:
Các dữ liệu đƣợc trình bày theo các phƣơng pháp chính: so sánh, phân
tích, qui nạp kết hợp với kinh nghiệm thực tế giảng dạy, nêu các dẫn chứng, ví
dụ, tài liệu bằng CD, bản phổ minh hoạ… để đi đến kết luận, tổng hợp những
vấn đề đƣợc nêu ra.
* Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài:
Trong quá trình nghiên cứu, tiến hành đề tài, luận án dựa trên những
nghiên cứu từ nhiều nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu Âm nhạc Dân tộc
26
trong và ngoài nƣớc, các nghệ nhân Chèo, Tuồng, Ca trù…, các nhà nghiên cứu
về ngôn ngữ tiếng Việt và các nhà sƣ phạm trong và ngoài nƣớc. Các công trình
khoa học của các giáo sƣ, nghệ sĩ đƣợc công bố là những tài liệu bổ ích tham
khảo cho luận án nhƣ: Mai Ngọc Chừ - Tiếng Việt và sự tròn vành rõ chữ của
tiếng hát dân tộc [8]; Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Thanh Lan - Cơ sở tiếng Việt [14];
Nhiều tác giả - Đặc khảo Ca trù Việt Nam [16]; Bùi Đức Hạnh - 150 làn điệu
chèo cổ [18]; Phạm Đình Hổ - Vũ Trung Tuỳ Bút [19]; Hoàng Kiều - Thanh điệu
tiếng Việt và Âm nhạc cổ truyền [22]; Tạ Hải Bảo Vƣơng - Các loại giọng hát ở
Châu Âu và Châu Á [49]; Richard Miller - The Structure of singing( System and
art in vocal technique) [53]; Re Koster - Common sense of singing [54]…
Đề tài Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát
Mới là công trình nghiên cứu chuyên sâu ở Việt Nam về cách xử lý ngôn ngữ
tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống, kết hợp với kỹ thuật hát Mới vận
dụng vào tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt để có đƣợc âm thanh theo yêu cầu mà
vẫn giữ đƣợc bản sắc dân tộc của tiếng Việt, không bị biến dạng, sai nghĩa của
từ, đảm bảo tròn vành rõ chữ…Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào công tác
đào tạo thanh nhạc nói riêng và công tác nghiên cứu lý luận, sáng tác và biểu
diễn nghệ thuật ca hát nói chung.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Là công trình nghiên cứu chuyên sâu về tìm hiểu cách xử lý ngôn ngữ
tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống để vận dụng vào công tác đào tạo
thanh nhạc giúp ngƣời hát:
+ Sửa những khuyết tật về phát âm. Xác định đƣợc vị trí âm thanh. Cảm
nhận đƣợc màu âm các nguyên âm của từng thể loại ca hát truyền thống, màu âm
của vùng miền.
+ Nhả chữ tiếng nào ra tiếng nấy, nhấn nhá vào từng từ, hát tiếng trƣớc
không trùng tiếng sau, mở tiếng, đóng tiếng gọn, đạt tiêu chí “tròn vành rõ chữ”.
27
Nhả chữ không làm biến dạng, sai nghĩa của từ mất đi bản sắc dân tộc của ngôn
ngữ, giữ đƣợc chất tự nhiên của giọng hát.
- Đề xuất một số mẫu âm mới, sửa những phát âm chƣa chuẩn góp phần
đào tạo những ca sĩ biểu diễn các tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt đạt yêu cầu về
kỹ thuật, không làm mất đi bản sắc dân tộc của ngôn ngữ tiếng Việt.
- Nắm vững qui luật phát âm và đặc trƣng cơ bản của ngữ âm tiếng Việt,
xử lý một cách linh hoạt, vận dụng cụ thể từng tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt
trong và ngoài giáo trình trung cấp và đại học thanh nhạc.
- Giáo dục học sinh, sinh viên thanh nhạc ý thức giữ gìn, bảo tồn, phát huy
vốn nghệ thuật ca hát truyền thống.
- Làm tài liệu tham khảo cho sáng tác thanh nhạc
- Có tính ứng dụng trong đào tạo, biểu diễn trong nhà trƣờng cũng nhƣ
trên sân khấu ca hát.
5. Bố cục luận án
Luận án gồm: Phần mở đầu, 2 chƣơng, phần kết luận, phụ lục và tài liệu
tham khảo
Chƣơng I: Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống và nghệ
thuật hát Mới
Chƣơng II: Một số giải pháp, ứng dụng và bài tập góp phần nâng cao
chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới
28
CHƢƠNG I
TIẾNG VIỆT TRONG NGHỆ THUẬT CA HÁT TRUYỀN THỐNG
VÀ NGHỆ THUẬT HÁT MỚI
Ca hát gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ nào có nghệ thuật ca hát của ngôn
ngữ đó. Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm, đa thanh, đa phần là âm khép… không
thuận lợi cho ngƣời hát, nên ngƣời học hát cũng nhƣ ngƣời hát phải nắm vững
kiến thức về cấu âm của ngôn ngữ tiếng Việt để tìm ra nguyên nhân thuận lợi,
khó khăn để phát huy và khắc phục. Nghiên cứu Tiếng Việt trong nghệ thuật ca
hát truyền thống để học tập những kinh nghiệm và kỹ thuật xử lý ngôn ngữ tiếng
Việt của cha ông đã đúc kết từ bao đời nay, ứng dụng vào hát Mới nhằm khắc
phục những khó khăn của ngôn ngữ. Nội dung của chƣơng I bao gồm:
* Những đặc điểm, đặc trƣng cơ bản của tiếng Việt trong nói và hát
* Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống
* Tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới
1.1 Những đặc điểm, đặc trƣng cơ bản của tiếng Việt trong nói và hát
Hàng ngàn năm lịch sử đã trải qua với nhiều giai đoạn biến đổi, phát triển
nối tiếp nhau, cùng với tƣ duy và ngôn ngữ, âm nhạc nói chung và ca hát nói
riêng đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, trở thành bộ phận
không thể thiếu để tạo thành nền văn hóa đa dân tộc của loài ngƣời. Ca hát xuất
hiện nhƣ một nhu cầu không thể thiếu phục vụ đời sống tinh thần của con ngƣời.
Nó phản ánh sâu sắc tâm tƣ, tình cảm của các dân tộc, nó gắn liền với lao động,
sản xuất, chiến đấu của mỗi cộng đồng ngƣời, của từng quốc gia và từng cá
nhân.
29
Ca hát là hiện thân tiêu biểu của ngôn ngữ. Ngôn ngữ sinh ra từ nhu cầu
giao tiếp và chuyển tải ý nghĩ, tình cảm từ cá nhân này sang cá nhân khác, ngôn
ngữ đã trở thành công cụ phản ánh thế giới khách quan, trở thành phƣơng tiện
giao tiếp và bộc lộ tình cảm của con ngƣời với con ngƣời. Ca hát đƣợc cho là
ngôn ngữ giao tiếp ở mức độ cao hơn.
Tiếng Việt với cấu trúc 6 thanh và đơn âm tiết đã sinh ra các thể loại thơ
độc đáo: Lục bát (6/8), Song thất lục bát (7/7/6/8) và hát Nói (Ca trù), cái nền,
cái cốt lõi của Ca dao Dân ca, của ca hát truyền thống, những hình thức ca hát
đặc biệt thuần Việt nhƣ hát dân ca (lý, hò, vè..), hát Cửa đình, Hát Ca trù, hát
Xoan, hát Chèo, hát Quan họ, hát Dậm, hát ví Dặm, ví Phƣờng Vải, Ca Huế, Bài
Chòi, Cải lƣơng... Nghệ thuật hát Mới đƣợc gọi là Ca mới (hát Mới), mặc dầu
dựa vào phƣơng pháp thanh nhạc du nhập - nghệ thuật thanh nhạc Bel canto,
nhƣng nó đã đƣợc Việt hoá và trở thành truyền thống ca hát hiện đại gắn liền với
tiếng Việt phổ thông - tiếng Hà nội, thƣờng gọi chung là tiếng Bắc.
Trong bài Những Cơ sở khoa học của một nền thanh nhạc dân tộc của
Văn Cẩn cho rằng nghiên cứu ngữ âm học là một trong ba yếu tố quan trọng: “
…những quy luật chuyển động của từng loại từ ngữ điển hình ứng dụng cho ca
hát, lƣợng hơi có thể tác động vào từ ngữ, để khẳng định độ vang của từng từ
ngữ trong nghệ thuật... nó mang tính lịch sử và phản ánh bản sắc văn hoá của
một dân tộc, một tộc ngƣời…”[4]. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, khi hát sử dụng
những kỹ thuật của nghệ thuật Thanh nhạc châu Âu vào những tác phẩm thanh
nhạc cổ điển chúng ta cần phải tìm hiểu “cách chuyển động của từng âm vị, giải
quyết cách kết cấu ngữ âm của từng loại từ ngữ”, ngôn ngữ (thƣờng lấy ngôn
ngữ tiếng Italia làm chuẩn). Khi hát sử dụng kỹ thuật của nghệ thuật thanh nhạc
châu Âu vào tiếng Việt lại cần phải chú ý đến yếu tố xã hội, đến hệ thống âm
thanh của tiếng Việt, và đặc biệt là “những qui luật chuyển động của từng âm vị,
từ ngữ điển hình để ứng dụng trong ca hát”.
30
Một tác phẩm thanh nhạc luôn đƣợc cấu tạo bởi giai điệu và ngôn ngữ văn
học (còn gọi là lời hát - ca từ). Vì vậy, nội dung và giá trị nghệ thuật của tiếng
hát là sự thống nhất giữa nhạc và lời, luôn gắn bó và hòa quyện với nhau. Từ thế
kỷ XVI. Gioseffo Jarlino (1517 - 1590) thuộc trƣờng phái Venise (Italia) đã yêu
cầu, đòi hỏi các ca sĩ ngoài việc nâng cao chất lƣợng tiếng hát, phải đảm bảo
trung thực với những đặc điểm của tiếng nói, không làm cho ngôn ngữ văn học
của tác phẩm bị bóp méo hoặc biến dạng. Nhƣ vậy, việc xử lý tốt ngôn ngữ trong
một tác phẩm thanh nhạc, từ lâu đã đƣợc coi là một trong những tiêu chuẩn bắt
buộc của mọi phƣơng pháp ca hát có tính dân tộc.
1.1.1 Một số đặc điểm của âm tiết tiếng Việt:
Có hai loại: Âm tiết mở và âm tiết khép.
- Âm tiết mở là âm tiết đƣợc kết thúc bằng nguyên âm (nga, to, thề, thu...)
- Âm tiết khép là âm tiết kết thúc bằng phụ âm (nguyên, biết, bắc, đánh
giặc...)
Âm thanh lời nói cũng nhƣ lời hát đa dạng vì mỗi cá nhân đều có những
đặc điểm riêng, tuỳ thuộc vào cấu trúc của cơ quan phát âm, giới tính hay tuổi
tác. Cƣờng độ tức biên độ dao động rộng hay hẹp của dây thanh. Cao độ tức tần
số dao động nhanh hay chậm của dây thanh của mỗi ngƣời. Sự khác biệt giữa các
giọng nói còn đƣợc thể hiện ở âm sắc do hộp cộng hƣởng của mỗi ngƣời không
giống nhau, hay độ ngắn dài của âm (còn gọi là trƣờng độ) của mỗi ngƣời không
giống nhau. Trong cuốn Cấu trúc giọng hát (The Structure of singing) còn gọi là
Hệ thống và nghệ thuật trong kỹ thuật thanh nhạc (System and art in vocal
technique) cũng quan tâm đến sự khác biệt này: “Sở thích mỗi ngƣời đều khác
nhau và giọng hát đã phản ánh rõ điều này.”[53, tr.8]
Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm tiết. Nói là đơn âm tiết hay đơn vận vì mỗi
tiếng, mỗi chữ, từ chỉ gồm có một vần, không dính kết vào nhau, và không có
nối vần nhƣ một số ngôn ngữ khác nhƣ tiếng Anh hay tiếng Pháp...
31
- Tiếng Pháp: ami (bạn) gồm 2 âm vị a và mi. Với số nhiều amis (những
ngƣời bạn), phải đọc nối âm : les amis = lê - za - mi.
- Tiếng Anh: danh từ lover (yêu) gồm 2 âm vị lơ - vơ, động từ love chỉ có
1 âm vị lơve và nối âm khi nói : I love you = ai - lơ - vi - u.
1.1.2 Cấu trúc âm tiết tiếng Việt:
Mỗi một âm tiết gồm một tổ hợp của 3 thành phần âm thanh, mô phỏng
một cách tự nhiên chu kì cấu âm của con ngƣời:
- Khởi từ - âm đầu (intense)
- Mở từ - âm chính, đỉnh âm (tense)
- Kết từ - âm cuối (dentense)
Trong công trình nghiên cứu về tiếng Việt tác giả Lê Văn Lý (1948) cho
rằng có bốn loại cấu trúc âm tiết:
1) V (chỉ có nguyên âm): Ở
2) V+C (Nguyên âm + phụ âm): E (V)+ m (C) = Em
3) C+V (phụ âm + nguyên âm): Ng (C) + a (V) = Nga
4) C+V+C (phụ âm + nguyên âm + phụ âm): Tr + ă + ng = Trăng
C (Consonant) là phụ âm; V (Vowel) là nguyên âm. (xem biểu đồ 1.1)
Biểu đồ 1.1 Cấu trúc âm tiết tiếng Việt
Âm tiết tiếng Việt có một cấu trúc chặt chẽ và độc lập và mỗi âm tiết đều
có khả năng biểu hiện ý nghĩa. Vì vậy, ngƣời Việt tạo ra đƣợc nhiều lối chơi chữ
nhƣ trong câu Hò Đồng tháp:
“Ơ... ơ.. ơ..con Cá Đối nằm trên Cối Đá
32
Con chim La Đà đậu nhánh Lá Đa...”
Hoặc lối đảo từ nhƣ trong câu Lý thƣơng dân ca Nam Trung Bộ:
“Nhớ ai, ai nhớ, nhớ ai.
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai.
Nhớ ai lòng những bồi hồi....”
Âm tiết tiếng Việt có một cấu trúc chặt chẽ và độc lập bởi cao độ, âm sắc
và tiết tấu, mỗi âm tiết đều có khả năng biểu hiện ý nghĩa riêng. Ta có thể thấy
điều này qua cách đánh vần tiếng Việt hoặc trong những bài hát có tiết tấu chậm
và rền (legato), đặc biệt trong các lối ngâm thơ, hát nói... Cảm nhận nhƣ một
băng ghi âm hay băng ghi hình quay chậm lại của quá trình cấu âm.
1.1.3 Thành phần của âm tiết tiếng Việt:
T có : .
.
(gồm: âm đệm, âm chính, âm cuối). Nếu “ ” một từ, t
.
: O + A + N = OAN, T + OAN = TOAN (xem bảng 1.1)
Bảng 1.1 Các thành phần của âm tiết (VNLB - Âm tiết tiếng Việt)
a) Âm đầu (khởi âm):
Khởi thanh gọi là khởi âm bằng âm đầu. Âm đầu là thành phần thứ nhất
của âm tiết tiếng Việt, có chức năng mở đầu âm tiết. Âm đầu (khởi âm) có thể là
phụ âm hoặc nguyên âm, nhƣng đa phần là phụ âm. Trong các âm tiết nhƣ: anh,
33
an, ung... khi viết không có phụ âm đầu nhƣng thực chất chúng vẫn có một phụ
âm tắc thanh hầu (ký hiệu /?/)
Xuất phát từ các đặc điểm phát âm có thể chia âm đầu là phụ âm thành các
nhóm nhỏ: Âm môi (b, m, f, v), âm bật (th, t, d, n, tr), âm xát (s, r, z, gi), âm mũi
(m, n, ng), âm mặt lƣỡi (c, g), âm gốc lƣỡi (k, g, kh), âm thanh hầu (h, a). Trong
bảng phân loại phát âm của ngƣời Hà Nội và một số vùng lân cận ba âm tr, s và
r, gi phát âm thành các âm ch, x và d.
Tiếng Việt có 27 phụ âm (gồm: B, C, CH, D, Đ, G, GH, GI, H, K, KH, L,
M, N, NH, NG, NGH, PH, Q(U), R, S, T, TH, TR, V, X). Phụ âm đều có thể
đứng trƣớc hoặc sau mỗi âm tiết.
Đặc điểm cơ bản của phụ âm là sự cấu tạo bằng luồng không khí bị cản
trở, song sự cản trở đó đƣợc diễn ra ở những mức độ khác nhau.
- Phụ âm tắc: Đặc trƣng là một tiếng bật, phát sinh bởi luồng không khí từ
phổi đi ra, bị cản trở hoàn toàn, phá vỡ sự cản trở ấy để thoát ra ngoài nhƣ: p, b,
t, đ.
- Phụ âm xát: Phân biệt phụ âm này bởi tiếng cọ xát, phát sinh từ luồng
không khí đi ra bị cản trở không hoàn toàn, phải lách qua một khe hở nhỏ và
trong khi thoát ra, nó xát vào thành bộ máy phát âm nhƣ: v, s, g.
- Phụ âm mũi: là một đặc điểm của ngôn ngữ Việt Nam, liên quan rất
nhiều đến việc rõ lời của tiếng hát, nhất là phụ âm này đƣợc đặt ở cuối âm tiết.
Đặc trƣng của phụ âm này là phát sinh do luồng không khí từ phổi đi lên và thoát
ra qua mũi, nhƣ: m, n, ng, nh...
Bản chất của phụ âm là tiếng động. Khi đọc các phụ âm, làn hơi phải vƣợt
qua một vật cản nào đó do tác động của môi lƣỡi phối hợp, rồi mới đi ra ngoài
theo đƣờng miệng. Muốn đọc rõ các phụ âm thì phải cấu âm cho đúng bằng cách
tạo các điểm cản làn hơi bằng môi hay lƣỡi (xem hình 1.1).
34
Hình 1.1 Những vị trí phát âm của hệ thống phụ âm
b) Vần : Gồm có Âm đệm, âm chính và âm cuối
Âm đệm:
Âm đệm là thành phần thứ hai của âm tiết, có chức năng làm thay đổi âm
sắc của âm tiết sau lúc mở đầu nhƣ: tốt>tuốt; đống>đuống; tấn>tuấn. Âm đệm
gồm có âm tố u, o. Đây là âm làm tròn môi trƣớc khi đọc âm chính. Âm đệm là
bán nguyên âm, thực ra là nguyên âm, nhƣng không nằm ở đỉnh âm tiết mà nằm
ở sƣờn, trƣớc hoặc sau âm chính, làm trầm âm sắc của âm tiết.
- Nguyên âm o làm bán nguyên âm, khi sau nó là các nguyên âm có độ mở
rộng a, ă, e (họa hoằn; nắng hoe...).
35
- Nguyên âm u làm bán nguyên âm, khi đứng trƣớc các nguyên âm có độ
mở hẹp: (tuệ, huy, tuấn...). Khi âm đệm u đứng sau phụ âm k thì k sẽ biến thành
qu (quyêt, quy, quyền, quân...)
- Âm đệm là âm tròn môi, sẽ không đứng trƣớc các nguyên âm tròn môi o,
ô, u nữa.
- Khi phát âm, không đƣợc dừng lâu ở âm đệm, mà phải chuyển qua âm
chính ngay (Thủ...y = thủy; Hƣ... ơng = hƣơng)
Âm chính (Âm chính, đỉnh âm)
Âm chính là thành phần thứ ba của âm tiết. Là phần quyết định âm sắc chủ
yếu của âm tiết. Bao giờ cũng là một nguyên âm. Nguyên âm là hạt nhân chính
của âm tiết trong tiếng Việt, nó có cƣờng độ lớn nhất (độ vang của từ) và là đỉnh
của âm tiết. Nguyên âm là những âm phát ra âm thanh, không nhờ tới một âm
nào khác, làn hơi từ phổi ra qua thanh đới mở - đóng tạo cao độ của âm thanh,
hình dạng các khoang họng và khoang miệng khác nhau, do hoạt động của lƣỡi
và hàm dƣới, sẽ tạo ra các nguyên âm khác nhau, trong cuốn Ngữ Âm Tiếng Việt
của Đoàn Thiện Thuật cho biết: “Độ mở của miệng, độ nâng của lƣỡi cho biết
thể tích của hộp cộng hƣởng. Căn cứ vào độ mở (hoặc độ nâng) khác nhau mà ta
có các nguyên âm khác: nguyên âm rộng (hoặc cao) nhƣ a, e; nguyên âm hẹp
(hoặc thấp) nhƣ i, u”. [41, tr.32].
Tiếng Việt có 11 nguyên âm: A, ă, â, e, ê, i /y, o, ô, ơ, u, ƣ. Có hai loại
nguyên âm chính:
- Nguyên âm đơn: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ƣ, e, ê, i/y.
- Nguyên âm phức: ia (iê), ƣa (ƣơ), ua (uô), uya, ƣơi, oai...
* Dựa trên vị trí của lƣỡi có các loại:
+ Nguyên âm hàng trƣớc (lƣỡi đƣa ra trƣớc, âm sắc sáng, bổng, môi bẹt) :
e, ê, i/y, iê (ia).
36
+ Nguyên âm hàng giữa (lƣỡi nằm ở giữa, âm sắc trung hoà, môi không
bẹt, không tròn) : a (ă), ơ (â), ƣ, ƣơ (ua).
+ Nguyên âm hàng sau (lƣỡi rụt về sau, âm sắc tối, trầm, môi tròn): o, ô, u,
uô (ua).
* Dựa trên độ mở của miệng có 4 loại :
+ Nguyên âm rộng : e, a, o (âm lƣợng lớn)
+ Nguyên âm vừa : ê, ơ, ô (âm lƣợng vừa)
+ Nguyên âm hẹp : i, ƣ, u (âm lƣợng nhỏ)
+ Nguyên âm hẹp mở vừa: iê, ƣơ, uô (âm lƣợng nhỏ và lớn dần đến vừa)
Ghi chú :
- ă là âm ngắn của a.
- â là âm ngắn của ơ
- o và ô đôi lúc có dạng âm dài là : oo, ôô (xoong, bôông) ia, ua, ƣa là âm
phức không có âm cuối (chia, chua, chƣa...).
Âm chính cùng với thanh điệu là hai yếu tố cơ bản, là trục chính của âm
tiết tiếng Việt. Trƣờng hợp bị lẫn lộn âm chính và thanh điệu chỉ xảy ra với
ngƣời nói tiếng địa phƣơng (những = nhửng; tôi = tui; nắng = néng…).
Từ những đặc điểm này phải biết vận dụng kỹ thuật, cùng với luyện tập
phát âm để “nhả chữ” sao cho các nguyên âm không bị biến dạng, vừa đảm bảo
yêu cầu vang, sáng, tròn của âm thanh, vừa đảm bảo rõ lời, rõ nghĩa.
Âm cuối (kết từ - đóng, khép từ):
Âm cuối là thành phần thứ tƣ, có nhiệm vụ kết thúc âm tiết. Vị trí âm cuối
trong tiếng Việt phổ thông do các bán nguyên âm và phụ âm đảm nhiệm (biết,
bao, tay, ca, hợp, khách...).
* Bán âm cuối có 2 loại :
- Bán âm cuối bẹt miệng (lƣỡi đƣa ra trƣớc) đƣợc ghi bằng i hoặc y :
+ Đƣợc ghi bằng y sau các nguyên âm ngắn ă, â : ăy, uây
37
+ Đƣợc ghi bằng i sau tất cả các nguyên âm còn lại mà không bẹt miệng
(tức là bán âm i không đi sau các nguyên âm hàng trƣớc, bẹt miệng): ai ơi, ƣi,
ƣơi (ai # ay) oi, ôi, ui, uôi.
Chú ý: phân biệt i và y nhƣ tai và tay; lai và lay.
- Bán âm cuối tròn môi (lƣỡi rụt vào trong) đƣợc ghi bằng u hoặc o:
+ Không đi sau các nguyên âm hàng sau (tròn môi)
+ Đƣợc ghi bằng u sau các âm ngắn: âu, au
+ Đƣợc ghi bằng u sau các âm vừa và âm hẹp: ƣu, ƣơu, êu, iu, iêu (yêu)
+ Đƣợc ghi bằng o sau các âm rộng a, e = ao, eo (ao # ău)
* Phụ âm cuối gồm 8 âm, chia làm 4 cặp nhƣ sau:
- Phụ âm môi: m - p (đóng tiếng bằng hai môi): làm đẹp, rập rạp ...
- Phụ âm đầu lƣỡi: n - t (đóng lƣỡi lên chân răng): ban hát, sền sệt…
- Phụ âm mặt lƣỡi: nh - ch (đóng mặt lƣỡi lên vòm miệng): chênh chếch,
rách, rình…
- Phụ âm cuống lƣỡi: ng - c (đóng cuống lƣỡi lên vòm mềm): vang, dốc,
vằng vặc ...
Lƣu ý : khi ng - c đi sau các nguyên âm hàng sau o - ô - u, thì không chỉ
phải đóng cuống lƣỡi, mà còn phải đóng ngay cả 2 môi (phải khép miệng làm
cho 2 má hơi phồng lên để tạo khoảng vang trong miệng. Ví dụ: Ngọc, ngốc,
ngục, cốc, cọc, cúc... )
Ghi chú :
-) Các phụ âm cuối p, t, ch, c chỉ đi với thanh sắc hoặc nặng, làm cho vần
phải đọc dứt sớm hơn các vần đóng cùng loại, thƣờng gọi các vần đó là vần chết
(tử vận). Ví dụ: Hộp, tắt, chếch, phúc...
-) Khi vần có các âm cuối, thì âm chính ít nhiều bị ảnh hƣởng - nó làm cho
độ mở của miệng giảm bớt, ngắn lại: vẫn, nắng, khốc...
-) Các vần có âm cuối là phụ âm gọi là vần đóng: Ngắn, dứt, âm...
38
-) Các vần không có âm cuối gọi là vần mở: Châu, da, hƣơu, cô, nơ…
c) Thanh điệu:
Thanh điệu là thành phần thứ năm, có chức năng phân biệt các âm tiết.
Tiếng Việt phổ thông có 6 thanh: thanh ngang (thanh không dấu), thanh
huyền(`), thanh sắc ('), thanh hỏi (?), thanh ngã (~) và thanh nặng (.). Trên chữ
viết chỉ thể hiện 5 thanh bằng 5 dấu giọng: Huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Thanh
điệu tác động lên toàn bộ âm vị và có ý nghĩa độc lập nội dung thông tin của từ.
Trong cùng một từ khi (từ biểu thị thời gian, hay thái độ) thêm dấu huyền thành
khì (cƣời khì), thay dấu hỏi thành khỉ (con khỉ, trò khỉ).
Thanh điệu là yếu tố thay đổi cao độ của âm tiết. Nó ảnh hƣởng lên toàn
bộ âm tiết, khi viết nó đƣợc ghi trên hoặc dƣới âm chính là nguyên âm đơn. Gặp
nguyên âm phức không kèm theo âm cuối thì nó đƣợc ghi trên yếu tố đầu của
nguyên âm phức (chúa, chìa, chừa...). Nếu nguyên âm phức có kèm theo phụ âm
cuối thì thƣờng ghi thanh điệu trên yếu tố thứ 2 của âm phức đó (luống tuổi,
tiếng, chuồng, thiếu, muỗng...)
* Phân loại thanh điệu dựa trên âm vực:
Vì thanh điệu có chức năng làm thay đổi cao độ của âm tiết, giúp làm khu
biệt các âm tiết vì vậy có thể phân chia theo độ cao, thấp gọi là âm vực. Thanh
điệu chia thành 2 âm vực cao thấp, lấy thanh ngang (không dấu) làm trục giữa:
- Âm vực trung: thanh ngang.
- Âm vực cao trên thanh ngang: thanh sắc và thanh ngã.
- Âm vực thấp dƣới thanh ngang: thanh huyền, thanh hỏi, thanh nặng.
Có thể diễn đạt bằng âm nhạc:
39
Dựa trên độ cao của thanh điệu có thể chia 6 thanh tiếng Việt ra làm hai,
lấy thanh không dấu làm trục. Hoặc chia thành 2 loại âm điệu bằng và trắc:
- Âm điệu bằng: thang ngang, thanh huyền.
- Âm điệu trắc: (không bằng phẳng).
+ Có đối hƣớng (gãy): thanh ngã, thanh hỏi.
+ Không đối hƣớng : thanh sắc, thanh nặng.
Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của thanh điệu trong ca hát truyền
thống, tác giả Hoàng Kiều viết: “Thanh điệu tiếng Việt quyết định đến giai điệu
cao độ, sự uốn lƣợn của âm. Tuy nhiên, thanh điệu phải thông qua thơ (lục bát
và song thất lục bát...) để tiến vào nhạc với những quy luật nhƣ thanh, vần, niêm
luật v.v...”[22, tr.7].
Ngoài yếu tố thay đổi cao độ, giai điệu, sự uốn lƣợn của thanh điệu còn
yếu tố tƣợng hình, tƣợng thanh nhƣ: khệnh khạng, khuệnh khoạng, luễnh loãng,
loảng xoảng, uỳnh uỵch, uỳnh oàng, đùng đoàng, ộp oạp, loạt xoạt, leng keng,
công cốc... Trong Tuồng mô tả tiếng trống chiến bằng các từ: tang, thùng, rụp,
cắc. Trong nghệ thuật Ca trù thƣờng gọi nôm na nghệ thuật này là tom, chát.
Tác giả Hoàng Kiều viết: “Trong 6 thanh tiếng Việt của ta lại chia làm
hai nhóm gọi là thanh bằng và thanh trắc… có một quy tắc chặt chẽ và độc đáo
khác thƣờng so với các nƣớc trên thế giới. Vì vậy, nó ảnh hƣởng rất lớn đến cấu
trúc, phân câu, trọng âm và âm kết của câu nhạc và bài hát…, vì trong nhạc cổ
truyền của ta là từ thơ mà phổ nhạc.” [22, tr.15]. Và “Thể văn hát nói (của Ca
trù) cùng với lục bát và song thất lục bát là những văn thể riêng của nƣớc ta”
[22, tr.229].
Thanh điệu tác động mạnh mẽ không chỉ tới sự hoàn thiện tiếng Việt, mà
còn tác động tới các hình thức văn thể độc đáo, cùng các dòng ca hát truyền
thống thuần Việt cũng nhƣ các dòng ca hát đƣơng đại.
40
Ngoài các yếu tố cấu tạo âm thanh đặc biệt của tiếng Việt nhƣ âm đầu, âm
đệm, âm chính, âm cuối, thanh điệu thì trong tiếng Việt còn một đặc điểm nữa là
hầu hết âm vị, âm tiết đều có nghĩa nhƣ một từ - từ đơn nhƣ trên đã nói. Chính vì
vậy trong dân gian nói tới đơn vị tiếng hay tiếng một, hát rõ tiếng hay hát rõ
tiếng một.
Trong Vũ Trung Tùy bút Phạm Đình Hổ viết: “Âm hƣởng tiếng nói nƣớc
ta khác với nƣớc Trung Hoa, song cung đàn ta có những tiếng: tính, tịnh, tình,
tinh, tung, tang; giọng kèn có những tiếng: ti, um, bo, tịch, tót, tò, le, đại lƣợc
cũng đƣợc cả 7 thanh (cung thƣơng giốc chủy vũ cộng biến cung, biến chủy
tƣơng ứng với c, d, (e), f, g, l, (b), c). Xem vậy ta thấy tiếng nói có ảnh hƣởng sâu
sắc nhƣ thế nào tới âm nhạc nói chung và ca hát nói riêng.” [19, tr.48].
1.2 Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống
Ngƣời Việt có ngôn ngữ riêng, có truyền thống ca hát riêng. Cùng với sự
phát triển của nền văn minh lúa nƣớc, ngƣời Việt đã sáng tạo ra nhiều hình thức
ca hát từ: Nói (kể vè, kể chuyện, nói thơ, đồng dao) ngâm, vịnh, ru, hò, hát nói
đến hát (hát Chèo, hát Xẩm, hát Ca Trù, Ca Huế, hát Tuồng, hát dân ca (Quan
Họ, hát Xoan, hát Trống quân, Cò Lả), Lý, Bài Chòi... Tiếng Việt không chỉ nắm
giữ vai trò thông tin, giao lƣu, chuyển tải nội dung giao tiếp của ngôn ngữ tới đối
tƣợng hay bản thân, mà còn đóng vai trò thúc đẩy sáng tạo trong âm nhạc. Nếu
đem xếp các hình thức ca hát dân gian theo một trình tự từ nói đến hát chúng ta
thấy rõ điều đó. Ví dụ câu ca dao:
“ Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng…”
Cho câu ca dao này vang lên dƣới dạng đọc (nói) thông thƣờng, rồi cho
vang lên dƣới dạng đọc có cách điệu, sau đó cho vang lên với làn điệu Cò Lả sẽ
thấy những thay đổi:
- Nguyên âm mở rộng dần
41
- Ở cách đọc 2 có cách điệu, thấy rõ tuyến lƣợn sóng của các âm thanh gợi
lên một cảm xúc của cấu trúc âm nhạc sơ khai.
- Ở cách 3 vang lên với điệu Cò Lả, ngôn ngữ đã có sự tham gia tích cực
vào cấu trúc câu hát. Ngoài việc các nguyên âm đƣợc mở rộng tạo ra trƣờng độ
của giai điệu, thì 6 thanh có vai trò tác động quyết định tạo nên hình tƣợng âm
thanh của câu hát.
Cò Lả (dân ca Bắc Bộ)
Trong ca hát truyền thống, mỗi bộ môn nghệ thuật lại có những ứng xử
ngôn ngữ tiếng Việt mang tính tƣ duy và thẩm mỹ độc lập riêng. Và cũng chính
từ những nét riêng biệt đó mà ta thấy rõ sự khác biệt từ phong cách, quy mô, cấu
trúc và cả bản sắc văn hoá của mỗi bộ môn nghệ thuật.
1.2.1 Kinh nghiệm và kỹ thuật xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong dân
gian:
a) Luyện nói - Trò chơi dân gian:
Để phát âm chuẩn, trong dân gian có nhiều hình thức luyện nói, luyện phát
âm đƣợc coi là mẫu mực vẫn lƣu truyền trong đời sống hiện nay dƣới các trò
chơi giải trí nhƣ: Đẻ chữ, Nói lái, hay nói nhanh những từ khó, các trò chơi trẻ
em nhƣ: Thả đỉa ba ba, Tập tầm vông, Rồng rắn lên mây, Nu na nu nống, hay
chơi Chuyền... Mỗi trò chơi đều mang một thông điệp riêng về ngôn ngữ mẹ đẻ,
giúp cho ngƣời chơi:
- Chữa tật nói ngọng, phát âm lẫn lộn giữa hai phụ âm đầu l và n. Tật nói
ngọng này thƣờng gặp ở một số địa phƣơng đồng bằng Bắc bộ và ngoại thành Hà
Nội. Ví dụ: Trò chơi Nu na nu nống. Trong trò chơi này nhấn mạnh đến các từ
42
làm bộ máy phát âm phải luôn thay đổi vị trí với các âm vị có cấu tạo âm chính
đóng, mở liên tục. Tách các nguyên âm chính ra và xếp thành một dãy theo tuần
tự của câu Đồng dao ta thấy:
“Nu na nu nống (u a u ô)
Cái cống nằm trong (a ô ằ o)
Con ong nằm ngoài (o o ằ à)…”
Các nguyên âm tròn môi (u, o, ô) đan xen với các nguyên âm mở (a) giúp
ngƣời chơi và luyện phát âm có ý thức hơn về các vị trí âm thanh của các nguyên
âm chính, đỉnh của chữ (lƣu ý: ô, ơ, ă, â đều là các nguyên âm ngắn của các
nguyên âm o và a, song vị trí phát âm, vị trí vang và màu sắc khác nhau).
+ Luyện câu Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch,… Phụ âm đầu N giúp cho
những ai nói ngọng, phát âm lẫn lộn giữa hai phụ âm đầu L và N. Nguyên âm
ngắn tròn môi ô khép lại ở nguyên âm i (kết mở), phụ âm đơn c và phụ âm kép
ch buộc ngƣời nói phải vận dụng các vị trí phát âm khác nhau. Vế một Nồi đồng
nấu ốc, lƣỡi thả mềm. Vế hai nồi đất nấu ếch lƣỡi đặt lên ngạc cứng (đất) và
răng (ếch). Ngƣời nói hay bị nhầm lẫn giữa hai cặp đối âm của 2 vế đồng > đất;
ốc> ếch
- Luyện các từ khó : Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch, Buổi trƣa ăn bƣởi
chua… Hai cụm từ tƣởng rất gần nhau về cấu trúc, nhƣng lại rất khác nhau về
nghĩa và cấu âm. Sau phụ âm kêu đầu B bán nguyên âm ƣ và u đã đẩy hai cặp
nguyên âm đôi ôi trong buổi và ơi trong bƣởi ra 2 vị trí âm thanh khác nhau.
Buổi bị đẩy vào phía trong còn bƣởi bị đẩy ra phía cửa miệng và trầm xuống vì
dấu thanh hỏi. Và ngƣời phát âm câu này gặp khó khăn ở 2 cụm từ đối lập:
Buổi>bƣởi. Trƣa>chua (chú ý: 2 phụ âm kép tr và ch phát âm nhƣ nhau theo
ngữ âm phổ thông).
- Luyện nhịp điệu: Trò chơi “Chi chi chành chành”
“Chi chi chành chành
43
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết trƣơng
Ba vƣơng ngũ đế
Cấp kế đi tìm
Ù à ù ập.”
Kết thúc trò chơi “Chi chi chành chành”, trò chơi dùng lối nói vần 4 chữ,
xuất hiện hai nguyên âm u và a kéo dài. U tròn môi, a mở rộng. Cả hai nguyên
âm bị hạ độ cao bằng dấu huyền (thanh huyền). Ù à ù (kéo dài tự do) kết thúc là
từ ập (từ đóng). Cấu trúc của trò chơi này giúp ngƣời chơi có ý thức về vị trí của
các nguyên âm tròn môi và mở.
- Luyện các cụm từ điệp: Chơi Chuyền, nhằm luyện phát âm tiếng Việt
bằng các cụm từ điệp:
“Chuyền chuyền một
Một một đôi.
Chuyền chuyền hai
Hai hai đôi...”
Cấu trúc ngữ âm phụ âm tr hoặc ch (chuyển, truyền...). Th (thuyền,
thuyên..) các bán nguyên âm u, y, nguyên âm ê (e ngắn) phụ âm n. Cấu âm vần
uyền là một tổ hợp âm tố khó phát âm trong tiếng Việt, nhƣ các tổ hợp uỷu (khúc
khuỷu), oanh (loanh quanh)... Từ chuyền có cấu trúc tƣơng đối phức tạp về mặt
cấu âm và độ dài về trƣờng độ. Từ phụ âm kép ch hay tr hay th chuyển qua các
bán nguyên âm u (tròn môi), y (âm mũi), đến đỉnh chữ ê (nguyên âm e ngắn)
khép lại bằng phụ âm kêu n. Cao độ của âm vị chuyền hoặc thuyền bị hạ thấp bởi
thanh huyền. Khi phát âm, môi tròn lại, lƣỡi hạ thấp, làn hơi đẩy mạnh ra phía
ngoài, lƣỡi đƣa lên sát ngạc cứng.
- Luyện đóng, mở chữ giúp:
+ Có ý thức về vị trí âm thanh của các nguyên âm (đỉnh của chữ - yếu tố
44
tạo vang của chữ)
+ Có ý thức về các phụ âm (âm đầu và âm cuối của từ - từ khép).
b) Rao hàng:
Với Rao hàng, những ngƣời bán hàng rong nhiều thế kỷ qua đã sáng tạo
nhiều hình thức độc đáo, gây ấn tƣợng và có sức thu hút sự chú ý nhƣ: Phớ; Tào
phớ; Mỳ nóng đây; Khoá ơ; Bánh khúc đây; Nhôm nát, đồng nát, sắt vụn bán
đây… Từ ngữ đƣợc sử dụng trong Rao hàng đƣợc mở rộng, đƣợc thu hẹp theo
lối kết thúc đột ngột, đôi khi còn thay đổi cả dấu giọng.
Ngƣời bán phở rong có lối rao hàng ngắn nhƣ: Phở, thanh hỏi đƣợc thay
bằng thanh không dấu: Phơ, phụ âm kép ph bật mạnh tạo âm vang lớn cho câu
rao. Đỉnh ơ kéo dài rồi mở rộng sau đó khép vuốt lên cao hơn (quãng 2) thành ớ
và kết thúc từ: Phớ
Vị trí âm thanh của nguyên âm ơ đƣợc đƣa sâu hơn vào phía trong, khẩu
hình đƣợc mở rộng. Màu sắc của nguyên âm ơ cũng vì thế mà tối đi đôi chút
nhƣng ấm và vang hơn khi nói.
Khác với chữ Phở, câu rao Tào phớ của những ngƣời bán tào phở vừa
mang tính cao độ của âm giai tự nhiên vừa mang tính trƣờng độ của lối hát kết tự
do. Ở chữ Tào phụ âm T kêu, bật mạnh tạo độ mở âm thanh cho nguyên âm a
(đỉnh âm) và mở rộng tuỳ ý nhƣ có dấu ngân tự do phía trên. Từ Tào dễ mở rộng
âm thanh vì đƣợc kết ở nguyên âm o (bán nguyên âm - kết mở). Chữ Tào kéo
dài, rồi đột ngột kết ở chữ phớ (thay thanh hỏi bằng thanh sắc: phở thành phớ).
Câu rao Tào phở gây ấn tƣợng mạnh, nghe nhiều thành quen mọi ngƣời gọi luôn
món ẩm thực này là Tào phớ.
45
Câu rao Bánh khúc đây đƣợc thay bằng Khúc đây. Khác với Tào phở. Từ
khúc là từ đóng không cho phép mở rộng đỉnh chữ ở nguyên âm u, buộc phải kết
thúc từ sớm nên phần âm thanh kéo dài dồn vào từ đây. Trƣờng độ của từ khúc
đƣợc ghi nhƣ một nốt móc đơn còn từ đây đƣợc ghi nhƣ một nốt trắng ngân tự
do.
Câu rao: Đồng nát, sắt vụn bán đi.
“… Nát, sắt vụn” cùng cao độ, các nguyên âm nằm ở vị trí đỉnh chữ, đƣợc
mở rộng và sử dụng các hộp vang vòm và mũi. Vì mục đích thu hút sự chú ý của
khách hàng, nên yếu tố rõ chữ đã bị giảm nhẹ, ba từ diễn ra cùng bậc, rền
(legato). Đặc biệt chữ Bán đƣợc uốn một đƣờng chậm từ trên cao xuống, rồi lại
lƣợn lên cao gần giống nhƣ ngƣời Quan Họ hát Láy vòng. Âm thanh của câu rao
ngân dài ở từ đi. Âm mũi của nguyên âm i kéo dài, xoáy vào tai ngƣời nghe:
* Tiếng Việt trong nghệ thuật Rao hàng của những ngƣời bán hàng rong
có những đặc điểm:
- Rao là hình thức lời nói đƣợc âm nhạc hoá. Theo cách nói của nghệ nhân
là “lồng điệu cho câu nói”. Có thể coi Rao là hình thức dân ca thô sơ, nó đứng
giữa lời nói và âm nhạc.
46
- Mặc dù phần lớn các từ đƣợc cách điệu, mở rộng song đa phần vẫn giữ
đƣợc những quy luật cấu âm cơ bản (khởi từ - mở từ - khép từ).
- Trƣờng hợp cách điệu có chủ ý thì nguyên âm của các từ trong câu Rao
không thay đổi vị trí cấu âm nguyên bản.
- Ngƣời bán hàng rong không hẳn đã có ý thức về cách phát âm các câu
rao của mình, nhƣng bằng bản năng họ đã tự tìm cho mình vị trí âm vang tốt nhất
để vừa phù hợp với thể lực, thời gian hành nghề, và mở rộng phạm vi nghe, nhận
biết của khách hàng.
c) Hát ru & Ngâm thơ:
Việt Nam có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc lại có ít nhất một làn điệu hát ru và
nhiều làn điệu hát nói, ngâm thơ, kể chuyện. Trong phạm vi luận án, chúng tôi
chỉ đề cập tới đặc điểm “cất thanh, nhả chữ” của một số làn điệu hát ru và ngâm
thơ phổ biến nhất của đồng bào Kinh (Châu thổ sông Hồng), và một số vùng
khác có mối liên hệ gần gũi với tiếng Việt phổ thông có cùng quan niệm hát
vang, rền, nền, nẩy.
Hát ru:
Tìm hiểu phƣơng pháp tạo vang và rền trong nghệ thuật ca hát truyền
thống, bắt đầu từ Hát ru và Ngâm thơ bởi vì ở hai loại hình này quy trình cấu âm
tiếng Việt có nhịp độ khởi từ, đỉnh từ và đóng từ diễn ra chậm nhất. Ba điệu ru
đặc trƣng của 3 vùng văn hoá dân gian Bắc, Trung, Nam:
*Hát ru Bắc Bộ:
“À ơi... À ời.
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chƣa về
Bắt đƣợc con chép, con trê
Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn...”
47
Hát ru Bắc Bộ
*Hát ru Trung bộ:
“ À ơi......
Mẹ rằng lệch gối nghiêng chăn
Đêm trƣờng gối lạnh thiếp biết than cùng với ai...”
Hát ru Quảng Bình
*Hát ru Nam Bộ: “ Ầu ơ ớ…
(Chứ) trách ai trồng chuối dƣới bàu ơ ơ
Trái ăn, lá dập bỏ tàu bơ vơ...”
Hát ru Nam Bộ
Ba điệu ru có những khác biệt về thang âm, điệu tính, cấu trúc giai điệu.
Về cấu âm, nhịp độ triển khai, mở rộng và đóng chữ có nhiều nét giống nhau. Vì
nhịp độ đóng chữ chậm nên đỉnh âm (tức nguyên âm chính) có độ mở rộng và
tạo vang lớn hơn khi các từ mở (kết chữ bằng nguyên âm hoặc bán nguyên âm
nhƣ à ơi, ầu ơ, ví dầu, lâu, về, chợ Cầu...). Khi các từ đóng (các từ có âm cuối -
kết chữ là các phụ âm đơn hoặc kép: c, n, t, p, m, ng, nh…) thì ít nhiều âm chính
cũng bị ảnh hƣởng, nó làm cho độ mở của miệng giảm bớt, ngắn lại, các từ (vần)
đó phải dứt sớm hơn, nên phải chú ý độ mở của nguyên âm trong các từ có âm
kết đóng. Ví dụ: “…Mẹ rằng lệch gối, nghiêng chăn…”, “…Mẹ mày đi cấy
48
ruộng sâu chƣa về…”, “bắt đƣợc con chép con trê”, “…ngủ cho ngoan…”. Từ
ngoan đƣợc khởi đầu bằng phụ âm kép ng, nguyên âm o làm âm đệm kéo
nguyên âm a vào nửa lƣỡi phía trong, khi hơi đẩy thoát ra ngoài khẩu hình mở
tạo âm a, trung tâm chữ rồi khép lại ở phụ âm n để khẳng định âm vị và thành từ
có nghĩa: ngoan. Vì chữ ngoan khi hát ru có diễn biến dàn trải, nhịp độ chậm và
ở độ cao thích hợp với thanh ngang nên ta có thể nhận thấy rõ màu sắc sáng của
nguyên âm a (âm chính - a đƣợc ƣu tiên hơn).
Ngâm thơ .
Việt Nam có nhiều kiểu ngâm thơ khác nhau nhƣ Xa mạc, Bồng mạc, Lẩy
Kiều, Nói hay kể thơ Bạc Liêu, ngâm thơ mới... Trong sân khấu truyền thống nhƣ
Chèo có nhiều dạng ngâm nhƣ: nói vỉa, ngâm vịnh, trong hát Quan họ Bắc Ninh
có bỉ (bỉ tựa nhƣ vỉa của Chèo)... Có thể gọi chung là Ngâm. Ngâm đƣợc chuyên
nghiệp hoá và đƣợc sử dụng trong nhiều hình thức diễn xƣớng, kịch hát. Ngâm
có cung bậc, có vui, buồn tức có giai điệu, nhƣng tự do không nhịp. Dựa trên
giọng hoặc điệu định sẵn. Giọng ngâm ngân nga lên xuống theo nhịp, theo vần
của thơ nhƣng phải rõ chữ và lột tả đƣợc hồn thơ. Nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ
ngâm thơ đều cho rằng ngâm không chỉ đúng điệu, đúng lề lối ngắt mở, ra vào
mà phải nén hơi, nhả chữ cho gọn để không mất một từ, một chữ nào của thơ. Vì
vậy rõ chữ đƣợc đƣa lên vị trí đầu tiên cần phải quan tâm. Để rõ chữ các nghệ
nhân thƣờng đóng chữ sớm, đóng tiếng không phải làm cộc và chết chữ, bởi âm
của từ đó vẫn đƣợc ngân liền sang chữ sau tạo rền cho câu ngâm hoặc câu hát.
Có hai lối ngâm truyền thống: Ngâm Sổng và Lẩy Kiều.
*Ngâm Sổng: Có cấu trúc quãng rộng, thƣờng sau một vài nốt bình ổn lấy đà,
giai điệu đột ngột nhẩy lên quãng 8 ngân dài rồi đổ xuống:
“ Mình về mình có nhớ chăng ?
Ta về ta nhớ hàm răng mình cƣời...”
49
Ngâm sổng đòi hỏi phải vang, rền, liền mạch, liền hơi. Khi cất thanh nhả
chữ không đƣợc kéo dài quá trình tạo âm, không đƣợc dừng lâu ở nguyên âm
chính, trừ những từ có cấu âm mở. Chữ mình có thể nhanh, chậm tuỳ theo sở
thích của ngƣời ngâm nhƣng không đƣợc dừng ở nguyên âm i để tạo vang mà
phải đóng chữ và lấy phần ngân ở đuôi chữ làm chính. Nếu nguyên âm i mở theo
cách hát của hát Mới sẽ nghe rõ quá trình tạo âm (khởi từ - mở từ - kết từ:
m.ì...ình), từ hộp vang vòm miệng chuyển sang hộp vang mũi đóng chữ. Cách
hát này không chỉ khiến màu âm thay đổi mà không rõ chữ, rõ lời. Chữ mình (là
từ có âm cuối là phụ âm - từ đóng) theo cách ngâm, cách hát truyền thống, phải
đóng ngay sau khi khởi thanh, hay nói cách khác quá trình tạo âm phải đƣợc
đồng thời diễn ra nhƣ đã nêu ở trên.
Ngâm là ngân nga gần với hát, không phải là nói. Các chữ đƣợc mở rộng
hơn để có vang và rền, sau khi chữ đã đƣợc khẳng định. Nhƣ vậy chữ mình sau
khi đóng âm đƣợc đẩy lên mũi, vẫn nghe thấy âm hƣởng của nguyên âm i nhƣng
không hoàn toàn là nó nữa. Để tạo vang và tránh bẹt cho từ, các nghệ nhân đã sử
dụng lối pha trộn thêm âm thanh cộng hƣởng của hộp vang trán và hộp vang sọ.
Phƣơng pháp này không chỉ áp dụng cho các từ đóng, mà cho cả các từ mở. Ở
cuối câu 1(câu 6-6/8) câu hát Sổng, nguyên âm a có độ mở rộng nhất, chữ ta
phải đóng bằng cách thu dần khẩu hình và biến dạng thành âm ƣ. Cách thay đổi
vị trí vang tạo ra sự đối lập nhằm làm rõ chữ ta. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy với chữ
nhớ ở cuối vế thứ nhất của câu hai. Chữ nhớ đƣợc ngâm từ nhớ, rồi kéo cao lên
quãng 3 cùng thanh sắc để khẳng định chữ nhớ, nguyên âm ơ cuộn vào trong và
đƣa lên hộp vang mũi.
50
* Lẩy Kiều:
Lẩy Kiều
Lẩy Kiều có lối nhả chữ thủng thẳng, nhấn vào từng từ, trải rộng với giai
điệu bình ổn, hài hoà, không đột biến nhƣ ngâm Sổng. Vì đòi hỏi của Lẩy Kiều
nhƣ vậy nên khi cất thanh nhả chữ, phụ âm đầu phải bật mạnh, không đƣợc thô,
kết hợp đóng chữ, nhả chữ nhịp nhàng. Mỗi từ trong Lẩy Kiều đều độc lập, tròn
trịa, chúng xâu chuỗi vào nhau bằng âm vang đuôi chữ.
Tìm hiểu phƣơng thức cất thanh và nhả chữ trong một số làn điệu hát ru và
ngâm thơ có những đặc điểm:
- Quy trình tạo âm tiếng Việt: khởi - mở rộng âm giữa - kết từ (chú trọng
đến khép chữ, đóng từ).
- Cách vận dụng linh hoạt âm khu vang cho các từ có cấu trúc mở (ta, về,
nhớ...)
- Với từ khép, độ vang nằm ở sau chữ hay nói cách khác là dƣ âm của từ
sau khi khép(…Mình về… mình (ƣ ƣng) cƣời (i)…)
- Đổi nguyên âm hoặc đổi vị trí vang tạo tƣơng phản nhằm làm rõ từ (ta:
âm a thu dần khẩu hình biến dạng thành âm ƣ).
- Lối nhả chữ nhấn nhá vào từng từ. Ngoài ý đồ nghệ thuật và thẩm mỹ, nó
còn làm rõ từ giúp ngâm “ từ nào ra từ nấy”.
d) Dân ca:
Dân ca Việt nam (hát Xoan, hát Ghẹo, hát Quan Họ, hát Dặm, hát Ví, Hò,
Lý...) phong phú. Vừa nhiều về số lƣợng, vừa đa dạng về ngôn ngữ và phong
cách thể hiện.
51
Những yếu tố tạo nên màu sắc vùng miền nhƣ yếu tố địa lý, phƣơng ngữ,
thói quen cấu tạo từ hay sự biến dạng của thanh điệu đã có nhiều nghiên cứu đề
cập đến, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến vai trò và ảnh hƣởng của thanh điệu
trong một số làn điệu dân ca Việt Nam không chỉ đem đến màu sắc riêng cho dân
ca địa phƣơng ở ca từ, cấu trúc âm nhạc và ở một chừng mực nào đó, có tính
khác biệt trong cất thanh, nhả chữ của nghệ thuật ca hát truyền thống.
Cùng một câu ca dao, Quan Họ có hai làn điệu khác nhau :
“Xe chỉ luồn kim
Thêu khăn nhiễu tím gửi sang cho tình...”
Bản phổ 1:
Dân ca Quan Họ Bắc Ninh
Bản phổ 2:
Dân ca Quan Họ Bắc Ninh
Hai làn điệu mặc dầu có cấu trúc giai điệu khác hẳn nhau, nhƣng thống
nhất trong ngôn ngữ biểu hiện, cùng một phƣơng ngữ Bắc Ninh. Nhƣng trong
bài Xe chỉ luồn kim của hát Ghẹo Phú Thọ lại khác: “...Xe mà chí xe, ố tình mà là
xe chí...”
Dân ca Phú Thọ
Ngƣời Phú Thọ ở Việt Trì, phát âm tiếng Việt không có thanh hỏi gần nhƣ
ngƣời vùng Quốc Oai, Sơn Tây. Thanh hỏi đổi thành thanh sắc
52
Qua đó, nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ và âm nhạc dân tộc học cho rằng
ca dao là tài sản chung, ít mang tính vùng miền. Nhƣng khi ca dao trở thành dân
ca nó mang đậm dấu ấn địa phƣơng. Cùng câu ca dao:
“Ai đem con sáo sang sông
Để cho con sáo sổ lồng sáo bay.”
Câu ca dao này trở thành điệu Lý con sáo thì lƣu truyền tới 6, 7 dị bản, từ
Lý con sáo Nam bộ, Lý con sáo Gò Công, Lý con sáo Huế, Lý con sáo Quan Họ
Bắc Ninh, Lý con sáo hát ghẹo Phú Thọ...
Câu ca dao nói về con sáo hầu nhƣ đƣợc giữ nguyên khi trở thành câu hát
Lý con sáo kể cả tên gọi, nhƣng cấu trúc âm nhạc của chúng không giống nhau,
chúng không phải là những phiên bản mà là những bản phổ độc lập. Cấu trúc
giai điệu, nhịp điệu của mỗi dị bản phản ánh rõ cảm xúc, thẩm mỹ, nếp sống, văn
hoá của từng vùng. Yếu tố vùng miền còn đƣợc nhân lên nhiều lần khi có sự
tham gia của thanh điệu, sử dụng từ đệm, từ láy (hƣ tự), và đặc biệt trong cách
phát âm cùng một số yếu tố nghệ thuật bổ sung khác nhƣ luyến, láy, rung, nhấn...
Phƣơng pháp mở âm (tạo vang), xử lý vị trí, phối hợp các âm khu vang trở
thành điểm nhấn có tính thẩm mỹ âm thanh rõ nét ở nhiều loại hình, nhiều vùng
dân ca. Ví dụ: Chữ ơ đƣợc sử dụng ở 3 tình huống khác nhau, trong 3 làn điệu
dân ca khác nhau và đƣợc đặt ở một độ cao tƣơng tự:
- Ơ trong hát Ví đồng bằng Bắc Bộ: “Ơ này anh cả anh Hai đấy ơ hời...”
Hát Ví Bắc Bộ
- Ơ trong Hò Mái nhì Trị Thiên Huế: “Ơ ơ ớ ờ ơ ơ ờ ơ ớ...”
53
Hò Mái Nhì (Huế)
- Ơ trong Hò Đồng Tháp: “Ơ ơ ớ ơ ơ ơ ơ ớ...”
Hò Đồng Tháp
Hát Ví đồng bằng Bắc Bộ, nguyên âm ơ thoát ra ngoài cửa miệng, vị trí
âm thanh đặt ra nửa phần ngoài lƣỡi, khiến cho màu sắc của ơ sáng và gọn hơn.
Để vang xa, toàn bộ câu hát đầu đƣợc đặt ở âm khu cao, hát thẳng, không rung
(non vibrato), để mềm chữ dùng láy ở chữ đấy ơ .
Hò Mái Đẩy (Hò Mái Nhì Trị Thiên Huế) khác với màu sáng của âm ơ
trong hát Ví đồng bằng Bắc Bộ, âm ơ của hò Mái Đẩy cảm giác trầm và ấm hơn
do vị trí âm thanh đặt ở phần giữa lƣỡi và ngạc cứng, pha chút chua của khoang
mũi. Hơi đẩy nhẹ rồi mạnh dần liền mạch, rền. Âm ơ cuối kìm hơi vuốt nhỏ, tạo
cảm giác xa vời, luyến tiếc. Chuỗi âm ơ của Hò Huế rõ nét hơn ở lối rung chậm
âm ơ thứ 2 và thứ 5.
Hò Đồng Tháp cũng chuỗi nguyên âm ơ nhƣ Hò mái Đẩy Trị thiên Huế,
song do cách xử lý âm thanh khi hò có đôi chút khác nên Hò Đồng Tháp mang
mầu sắc đặc biệt của miệt sông nƣớc Nam bộ. Câu hò mở âm ngay vào âm ơ
giống nhƣ cách mở âm của hát Ví (Hò mái Nhì kéo từ quãng 2 lên). Ngƣời hò
phải tập kỹ để có thể bật nhẹ khiến âm ơ đầu bật ra nhẹ nhàng, sau đó nén hơi và
giữ cho âm thanh thẳng, không rung. Âm ơ thứ 5 và thứ 7, vị trí âm thanh của
nguyên âm ơ đƣợc đƣa vào trong, và rung nhẹ. Sau đó trở lại vị trí ban đầu
không rung, âm ơ kết thúc đẩy lên khoang mũi, có màu sắc giả thanh (dân gian
gọi là giọng óc).
54
Những ví dụ trên cho thấy cách hát (kỹ thuật hát), cách xử lý tiếng Việt
trong kho tàng nghệ thuật ca hát truyền thống, là những yếu tố góp phần tạo nên
bản sắc văn hoá dân tộc.
Âm thanh tiếng Việt đa dạng nhờ các yếu tố cấu âm, tạo từ nhƣ cao độ,
trƣờng độ và sắc độ. Mặc dù đơn âm tiết đòi hỏi chữ nào ra chữ nấy, rõ tiếng
một, không thuận lợi cho việc mở rộng âm thanh song trong ca hát truyền thống,
trong dân ca các vùng miền ta thấy tiếng Việt đƣợc xử lý một cách trân trọng, tế
nhị, khôn khéo và đầy tính nghệ thuật. Ví dụ: chữ Tây trong điệu Lý Chiều chiều
dân ca Nam Bộ:
“Chiều chiều ra đứng
Tây lầu tây, tây lầu tây
Thấy cô (tang tình) gánh nƣớc
Tƣới cây tƣới cây ngô đồng...”
Chữ Tây trong điệu Lý Chiều Chiều đƣợc điệp 4 lần, mỗi lần ở một độ cao
khác nhau. Chữ Tây có cấu âm:
- Khởi âm - T (phụ âm)
- Âm giữa (đỉnh âm) - â (nguyên âm ngắn)
- Kết âm - y (bán nguyên âm)
T là phụ âm vô thanh, khi khởi âm lƣỡi đƣa lên ngạc cứng sát chân răng
phía trên. Nguyên âm â ở vị trí trung tâm, đỉnh âm (nguyên âm chính), khép từ
55
bằng nguyên âm y (bán nguyên âm). Hình thức cấu âm này không cho phép lạm
dụng kéo dài và mở rộng nguyên âm chính. Từ những đặc tính cấu âm trên, chữ
Tây trong bài đƣợc xử lý: Chữ Tây đầu có màu sáng và rung, vị trí âm thanh
đƣợc đƣa ra phía ngoài vòm miệng. Lặp lại lần hai, nhƣng thấp hơn, màu sắc chữ
Tây hơi tối đi và không rung. Lặp lại lần ba, cũng kỹ thuật hát thẳng, nhƣng có
cƣờng độ và độ vang lớn hơn. Lần thứ tƣ, chữ Tây ở cuối câu cao hơn chữ Tây
đầu, mầu âm sáng, kết thúc chữ cùng với kết câu vuốt nhỏ dần. Vậy là, 4 chữ
Tây đƣợc xử lý khác nhau.
Ví dụ khác Hát Trách dân ca Nam Trung Bộ:
“Nhớ ai, ai nhớ, nhớ ai
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai.
Nhớ ai lòng những bồi hồi
Nhƣ đứng đống lửa, nhƣ ngồi đống than..."
Đó là cách xử lý tinh tế, giàu tính nghệ thuật thƣờng gặp trong dân ca
cũng nhƣ trong các dòng ca hát truyền thống khác. Những nghệ nhân, nghệ sĩ hát
Chèo, Ca Trù, hát Bội, hát Dân ca, hát Xẩm... họ đều rất quan tâm đến nhả chữ,
hát tiếng nào ra tiếng nấy, hát tiếng trƣớc không trùng tiếng sau. Mở tiếng, đóng
tiếng khéo léo để đạt đƣợc tiêu chí “tròn vành rõ chữ”, song câu hát không nhát
gừng mà vang rền, nền nã và sang trọng.
e) Quan Họ Bắc Ninh:
Mặc dù không đƣợc xếp vào hệ thống ca hát chuyên nghiệp (ngƣời Quan
Họ không nói biểu diễn Quan Họ mà là chơi Quan họ. Mục tiêu của hát Quan Họ
không phải để mƣu sinh mà là giải trí, một thú chơi thanh tao).
Quan Họ Bắc Ninh với những giá trị nghệ thuật cao, độc đáo “không đâu
có”, phong phú, giàu về làn điệu, cấu trúc âm nhạc đặc sắc, ca từ sâu sắc giàu
hình ảnh, giàu chất nhân văn. Và đặc biệt lối hát nảy hạt đƣợc xem nhƣ nhân tố
56
quan trọng nhất đƣa Quan Họ trở thành loại hình dân ca độc đáo.
Trong bài Di sản Quan Họ còn gì để mất, tác giả Nguyễn Mạnh Hà cho
rằng: “...Dù thuộc về thú chơi, nhƣng hát Quan Họ đòi hỏi ngƣời hát phải có sự
rèn luyện tƣơng đƣơng với các thể loại chuyên nghiệp khác nhƣ Ca Trù, Hát
Văn, Chèo...” [17]
Nói tới Quan họ ngƣời ta thƣờng nhắc đến vang, rền, nền, nẩy. Song,
những đặc điểm này không chỉ là của riêng Quan Họ. Theo một số nhà nghiên
cứu cho rằng có thể hai đặc điểm quan trọng nhất là nảy và dứt góp phần làm
Quan Họ trở thành một dòng hát có tính chuyên nghiệp và độc đáo.
Cũng nhƣ nhiều dòng dân ca, ca hát truyền thống khác đều truyền từ thế
hệ này qua thế hệ khác bằng phƣơng thức truyền khẩu. Nhiều nghệ nhân ở
Ngang Nội, Lim, Diềm, Bịu, Vân, Sim...hát Quan Họ, tuy mỗi làng hát có đôi
chút khác nhau nhƣng thuần chất Quan Họ. Nhiều ngƣời thƣờng gọi là Quan Họ
cổ, gồm mấy điểm chính:
- Cách hát độc đáo xuất phát từ những yếu tố kỹ thuật truyền từ đời này
sang đời khác nhƣ: nảy hạt, liền hơi, dứt tiếng, bẻ chữ, lƣợn giọng, láy vòng.
- Phƣơng thức thể hiện hát đôi, nhìn vào mắt nhau mà hát. Một ngƣời hát
chính, một ngƣời hát phụ gọi là hát lồng (luồn).
- Đối tƣợng là bạn hát (không phải khán giả).
- Bẻ làn nắn điệu (yếu tố quan trọng này đã thất truyền từ hơn 50 năm nay
kể từ khi cộng đồng Quan Họ Làng không còn hoạt động. Bẻ làn nắn điệu có
nghĩa là dựa vào làn điệu đã có sáng tạo ra làn điệu mới làm cho hoàn chỉnh hơn,
tinh tế hơn).
Nảy Hạt
Nảy hạt là kỹ thuật hát độc đáo của ngƣời Quan Họ, nó là tiêu chí mang
tính phổ cập, không mang tính đơn lẻ và đã trở thành đặc trƣng của giọng hát
Quan Họ. Nó có truyền thống từ lâu đời còn lƣu truyền cho đến nay qua giọng
57
hát của các nghệ nhân cao tuổi vẫn còn sống tại các làng Quan Họ gốc nhƣ
Diềm, Vân, Ngang Nội, Lim, Bịu, Sim…
Về kỹ thuật hát của ngƣời Quan Họ, nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc
Nguyễn Thụy Loan cho rằng:“…nảy hạt, hát ngắt - vốn là nét đặc biệt của lối
hát Quan Họ cổ truyền - còn lƣu giữ đƣợc ở một số nghệ nhân”.
Nảy hạt có nhiều dạng: nảy mau, nảy thƣa, đƣợc ví nhƣ hạt vừng, hạt đỗ.
Nảy hạt bao giờ cũng đi sau câu hát, nó đƣợc thay vào vị trí ngân dài trong câu
hát. Nhƣ trong câu hát Bỉ (hát Nói,Vỉa):
“Ừ đôi tay i hi bƣng lấy i hi, i i hi hơ cơi trầu...” (điệu Mời trầu)
Hát Bỉ (Quan Họ Bắc Ninh)
Ừ là âm lấy hơi, lấy đà. Hầu nhƣ câu Quan Họ nào cũng bắt đầu nhƣ vậy.
Câu đầu theo giọng Bỉ của điệu Mời trầu đƣợc ngắt làm ba: Đôi tay/…bƣng
lấy/…cơi trầu…Hạt nảy xuất hiện lần một và lần hai với nguyên âm i, nhƣng lần
hai khi dứt tiếng chuyển sang nguyên âm ơ để hợp với từ cơi có nguyên âm ơ
trung tâm chữ đồng dạng và cuối cùng sau chữ trầu hạt nảy còn xuất hiện lần
nữa với âm ƣ hƣ.
Hoặc trong câu Quan Họ cổ Đƣờng bạn Kim Loan (có nơi gọi là Kim
Lan): Này kim loan ơi ƣ hự là hự là...
Đƣờng bạn Kim Loan
Này là từ lấy hơi không nhấn mà lƣớt nhẹ để vào chữ Kim. Ngay sau chữ
ơi nửa khép, cổ họng bật thanh tạo ra tràng tiếng lăn tăn gọi là hạt sau 2 âm đƣa
58
hơi ƣ hƣ. Nảy hạt xuất hiện 2 lần ở trùm hƣ tự ƣ hƣ hừ ƣ ngay sau 2 từ chính
Kim Lan.
Quan Họ cổ hay Quan Họ truyền thống thƣờng có nhịp điệu chậm rãi đôi
khi tƣởng nhƣ không nhịp, lời chính bị chia cắt bởi các từ đệm lót. Nảy hạt góp
phần nhƣ một thành tố tạo nhịp sau câu hát. Sự xuất hiện của kỹ thuật nảy hạt
khiến câu hát trở nên sinh động.
Dứt
Dứt (ngắt) là đặc điểm, đặc trƣng thứ hai của nghệ thuật thanh nhạc Quan
Họ. Gọi là dứt vì sau nó có thể có một dấu lặng nghỉ tự do, còn ngắt vẫn nằm
liền trong mạch hơi của câu hát Quan Họ. Nghệ nhân ở Lim hay có lối hát ngắt
để nhấn vào từng chữ, thủng thẳng : “...Rằng tôi ra đứngi i hơ ơ...”:
Ra đứng đầu làng (QHBN)
Từng chữ đƣợc ngắt ra và đƣợc xâu chuỗi bằng dƣ âm và hơi nén liền câu
rồi đột ngột dứt ở cuối câu với âm đệm lót ơ. Ngƣời hát có thể dứt hẳn hơi và
nghỉ tự do. Dứt có thể đứng ngay sau nảy hạt hoặc trực tiếp ngay sau từ đệm lót
hoặc từ chính.
Hát dứt khiến câu Ngƣời ở đừng về trong Giã bạn trở nên tha thiết, kín
đáo, duyên dáng và đằm thắm hơn:
“Ngƣời về em vẫn í i ì í i/ nay có ò ó o mấy khóc nay/ớ ơ khóc thầm là/ đôi
i ơ bên là/bên song mấy vạt áo/ mà này cũng có a ƣớt đầm (hừng hừng-nảy hạt
nhẹ) ƣớt đầm nhƣ mƣa (hơ hơ- nảy hạt)...”
59
Câu hát này có 7 lần dứt và chỉ có hai lần xuất hiện nảy hạt nhẹ. Câu
Ngƣời ở đừng về hát theo lối cổ - cách hát gần gũi với biểu cảm kín đáo truyền
thống cùng những kỹ thuật mà chỉ riêng Quan Họ mới có.
Giải thích cho lý do hình thành kỹ thuật nảy hạt còn gọi là đổ hột, nhà
nghiên cứu Quan Họ Nguyễn Hùng Vĩ cho rằng: “…vì thanh điệu tiếng
Việt…Kết cấu theo kiểu Phụ âm - Nguyên âm - Phụ âm, nhƣ vậy trong khi nói
bình thƣờng thì không có vấn đề gì, nhƣng khi hát do thiếu mất phần đuôi của
âm điệu nên bắt buộc phải có một số kỹ thuật làm cho đầy và tròn tiếng thì chữ
mới thật chuẩn, thật tròn. Kỹ thuật đổ hột hay nảy hạt sinh ra để làm nhiệm vụ
nhƣ vậy”.
Để hát rõ lời, ngƣời Quan Họ ngoài những chuẩn mực chung thƣờng đƣợc
áp dụng cho các dòng ca hát truyền thống khác nhƣ: tròn vành, rõ chữ, Vang
rền, nền nẩy, kỹ thuật thanh nhạc Quan Họ còn có những nét riêng nhƣ hát nảy
hạt, hát dứt tiếng, hát thủng thẳng nhấn vào từng chữ tạo điều kiện hát rõ tiếng
một. Để nhả chữ không bị cứng thƣờng kèm với luyến, láy (theo kiểu đong đƣa
chữ). Sau các từ có nguyên âm mở, khi nảy hạt, ngân và dứt thƣờng nhắc lại
đúng từ đó hoặc nhắc lại nguyên âm của từ mở nhƣ trong bài Vào chùa: “Vào
chùa chùa mở cửa i í hơ ơ hơ ơ chùa ra ì í a...”
60
Cùng với hát nảy hạt, hát dứt tiếng (ở chữ dứt tiếng, thƣờng cƣờng độ bật
thanh mạnh), hát thủng thẳng rõ tiếng một, ngƣời Quan Họ còn có khái niệm hát
liền. Liền không hẳn là rền, vì nó tạo cho câu hát có thêm chiều sâu, câu hát nhƣ
chảy từ trong ra.
1.2.2 Kinh nghiệm và kỹ thuật xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong ca hát
truyền thống chuyên nghiệp:
a) Ca Trù:
Ca trù có nhiều tên gọi khác nhau nhƣ Ả Đào, hát Nhà Tơ, hát Cửa Đình,
hát Cửa Quyền, hát Nhà Trò, hát Cô Đầu, hát Ca Công. Mỗi tên gọi đều phản
ánh giá trị, vị trí xã hội và không gian diễn xƣớng riêng của bộ môn nghệ thuật
độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt này trong kho tàng âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
Ca Trù ngay từ khi ra đời đã gắn liền với sinh hoạt diễn xƣớng cung đình, lễ hội,
phong tục, tín ngƣỡng, tƣ tƣởng, tập quán của ngƣời Việt.
Ca trù phát triển từ TK. XV và trở thành đỉnh cao nhất của nghệ thuật ca
hát chuyên nghiệp bác học. Nghệ thuật hát Ca Trù đƣợc đúc kết trong 8 chữ phải
đạt đƣợc và 6 chữ cần phải tránh.
* Một giọng Ca Trù phải đạt đƣợc 8 chữ:
+ Quán: Đúng phách, đúng nhịp.
+ Xuyến: Nhả chữ nào ra chữ nấy, tròn trĩnh, đầy đặn.
+ Dằn: Đƣa hơi đều đặn, nén vào phía trong, gằn tiếng đúng chỗ.
+ Thét: Cất thanh mạnh mẽ, vang và rền.
61
+ Diệu: Giữ cho tiếng hát tự nhiên bay bổng, sang trọng
+ Vợi: Cao mà trong trẻo.
+ Khuôn: Hát theo khuôn bực, uốn nắn từng tiếng, phải “dụng công lấy
tiếng gằn từ trong cổ họng, không có tiếng nào thừa ra ngoài đàn”.
+ Rẫy: Ngân nga, liền hơi, liền tiếng.
* Khi luyện hát Ca Trù cần phải tránh 6 điều:
- Lỏi: Sai nhịp phách và không ăn với tiếng đàn.
- Ngang: Sai giọng, sai cung bậc.
- Cản: Nhả chữ không đúng (ngọng).
- Chặn: Giọng xấu, lí nhí.
- Hụt: Cƣớp nhịp.
- Sa: Lõng thõng đi sau nhạc.
Cách nhả chữ của Ca Trù cho thấy một đặc điểm khá rõ về nhịp độ khởi -
mở - đóng chữ diễn ra tƣơng đối chậm và dàn trải, trong nghệ thuật ca hát cổ
truyền gọi là đai từ. Với cách nhả chữ này - đai từ, nguyên âm - trung tâm chữ
đƣợc mở rộng hơn, nên giọng hát đạt độ vang, mạnh mẽ, rền rĩ hơn.
Một số đặc điểm chính trong lối nhả chữ của Ca Trù:
- Khởi - mở - kết chữ (Phụ âm - nguyên âm - phụ âm) gần với quy luật của
nói (khép, đóng chữ)
- Câu hát rền vang, độ mở ở đuôi chữ và thƣờng đƣợc chuyển sang nguyên
âm ƣ và phụ âm kép ng (ƣ-ƣng) ngậm miệng và đƣa vào phía trong gọi là “dụng
công nén hơi lấy tiếng gằn từ trong cổ họng” (Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề).
Hoặc “ Đào nƣơng phải nén hơi rồi nhả từng chữ ƣ hƣ”. Hay còn gọi là cách hát
“ậm ự” (Trần Văn Khê).
- Thanh điệu thƣờng đi sau khi đã đóng chữ tạo ra đƣờng cong uyển
chuyển, rồi kéo từ trên xuống hoặc đẩy từ dƣới lên (Hồng Hồng, Tuyết Tuyết.
Nhớ ngày nào... chữ nào đƣợc bắt đầu từ nao rồi kéo xuống thành nào…)
62
- Sử dụng lối rung chậm tạo thanh, mở rộng giai điệu cho câu hát.
- Cƣờng độ vang thay đổi ở từng chữ tạo sắc thái to nhỏ, làm rõ sự tinh tế
trong cách xử lý nhả chữ, đẩy hơi nông sâu của Ca Trù, khiến ngƣời nghe “cảm
giác câu hát chảy ra từ nơi sâu nhất của tình cảm.”
Nghệ thuật cách điệu tiếng Việt trong Ca Trù đã khiến nó trở thành một bộ
môn nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp, tinh tế, mang tính thẩm mỹ cao, giàu sáng
tạo, đậm đà bản sắc văn hóa riêng của ngƣời Việt.
b) Hát Chèo:
Nhiều nhà nghiên cứu Chèo cho rằng Chèo là sự kết tinh của nhiều loại
hình ca hát và diễn xƣớng dân gian nhƣ hát Cửa đình, hát Xẩm, hát Dậm, Hát
Xoan... Chèo phát triển rực rỡ và cũng chịu nhiều cách tân từ đầu TK.XX.
Với sân khấu kịch hát, giọng hát chiếm vai trò quan trọng trong nghệ thuật
diễn xƣớng. Chèo cũng vậy, tuy nhiên Chèo không lẫn với Tuồng, với Cải
Lƣơng, với Xẩm, với Quan Họ Bắc Ninh, hát Xoan, hát Ghẹo, hát Dậm… mặc
dù Chèo đã tiếp thu không ít các yếu tố, các làn điệu của Xẩm, của Ví, của nhạc
nhà chùa… Các thế hệ nghệ nhân tài năng của Chèo không chỉ giỏi nghệ thuật bẻ
làn nắn điệu mà còn giỏi nghệ thuật ca hát, hay còn gọi là “ hơi chèo”.
Nhà nghiên cứu Chèo Bùi Đức Hạnh cho rằng: “Đặc điểm thanh nhạc
trong Chèo đã góp phần tạo nên nét độc đáo trong cấu trúc giai điệu Chèo
không lẫn vào bất cứ loại hình ca hát dân gian nào.” [18, tr.27].
Tuồng có cách vận khí, nén hơi, khởi từ mạnh đạt độ vang lớn bộc lộ chất
bi hùng, Ca Trù lấy hơi gằn trong cổ họng, dùng âm ƣ nhƣ nuốt chữ vào trong,
Quan Họ chậm rãi nảy hạt, dứt tiếng. Chèo lại đẩy hơi ra phía trƣớc gọi là hơi
ngoài, sử dụng âm i làm âm vang chủ đạo, tạo màu sắc sáng, nhẹ nhàng, hợp với
tính cách trào lộng lạc quan, buồn nhƣng không thảm, vui nhƣng không nhạt,
tình cảm nhƣng không bi lụy.
Theo nhà nghiên cứu Hoàng Kiều, xuất phát từ quy luật tiếng Việt và thẩm
63
mỹ nghệ thuật truyền thống thì nghệ thuật thanh nhạc Chèo thuộc hệ thống hát
“kín miệng”.
Trong 150 làn điệu Chèo cổ tác giả Bùi Đức Hạnh viết: “Khẩu hình Chèo
gần với khẩu hình tiếng nói tự nhiên (khẩu hình bẹt) không trực tiếp ngân những
âm mở với khẩu hình tròn cộng minh nhƣ lối hát Mới mà ngân bằng những âm
đóng thông qua các nguyên âm i, a, ơi, ƣ khép kín khẩu hình. Chèo gọi là hát kín
miệng bảo đảm sự tròn vành rõ chữ của ca từ trong ngôn ngữ tiếng Việt.”[18,
tr.27].
Giọng hát trong Chèo đƣợc chia làm hai loại giọng Kim và giọng Thổ:
- Giọng Thổ: có Thổ Trung và Thổ Đồng (giọng nam)
+ Giọng Thổ Trung chất giọng trầm ấm nhƣng tầm cữ giọng hẹp
+ Giọng Thổ Đồng vang và có tầm cữ giọng rộng hơn.
- Giọng Kim: có ba loại Kim Mùi, Kim Vắt, Kim Pha (giọng nữ)
+ Giọng Kim Mùi: trong trẻo, ngọt ngào.
+ Giọng Kim Vắt: chói và chua.
+ Giọng Kim Pha Thổ: trầm, tầm cữ hẹp.
Tác giả cuốn 150 làn điệu Chèo [18] đƣa ra sự so sánh giữa cách phân loại
giọng trong Chèo với cách phân chia giọng trong nghệ thuật hát Mới:
- Giọng nam:
+ Thổ Trung = Baritone
+ Thổ Đồng = Tenor (các vai nam chính)
- Giọng nữ:
+ Kim Mùi = Soprano (các vai nữ chính)
+ Kim Vắt = Soprano léger (các vai nữ lệch)
+ Kim Pha Thổ = Alto hoặc Contralto (các vai Tú Bà, Mụ Quán…)
Nghệ thuật hát Chèo làm nên Hơi Chèo. Hơi Chèo theo nhạc sĩ Bùi Đức
Hạnh gồm phát âm, nhả chữ, rung giọng, luyến láy… nhƣng nhiều nghệ nhân
64
Chèo cho rằng đặc trƣng nhất vẫn là lối hát hơi ngoài. Chèo hát bằng giọng thật,
không hát giọng giả (Falsetto), do kỹ thuật hát hơi ngoài tạo ra âm thanh lanh
lảnh và tạo vang sau chữ bằng nguyên âm i, ơi, a... khởi chữ với thanh môn bật
nhẹ tạo vang, âm vang trau chuốt có sự pha trộn của hơi cổ, hơi mũi và hơi ngực,
không rung giọng ở những từ chính nhƣ:
“ Ta đi í à đi chợ dốc (ƣng) tề tề ngồi i gốc (ƣng), gốc cây đa...”
Lới Lơ
Chữ dốc và chữ gốc đều diễn ra ở âm khu cao, đóng chữ ngậm miệng đẩy
hơi lên mũi, rung và ngân ở âm ƣng. Chữ ngồi đóng chữ chuyển rung giọng và
ngân sang âm i, lần nhắc lại cũng nhƣ vậy. Chữ đa kết câu, không rung giọng mà
nén, vuốt hơi nhỏ dần để đóng miệng kết câu hát.
Ở một số làn điệu Chèo sử dụng kỹ thuật rung giọng, hơi nảy và hơi hột.
Hơi nảy và hơi hột của Chèo gần với kỹ thuật Đổ con kiến trong Ca Trù (theo
mô tả của GS.Trần Quang Hải) hơn là kỹ thuật nảy hạt của Quan Họ: “… Chèo
mở i lái i ra i.i hi hi hi i ì ì hi hi...”
Làn điệu Chèo ra đời, tồn tại và phát triển theo nhu cầu đòi hỏi của tính
kịch, đƣợc chia làm nhiều hệ thống làn điệu khác nhau nhƣ: Nói (vỉa, ngâm,
vịnh), Sắp hề gậy, Hề mồi, Ra trò, Đƣờng trƣờng, Vãn, Thảm, Đối đáp, trữ
tình… Mỗi hệ thống, mỗi làn điệu có một chất riêng, một vị trí và cách thể hiện
riêng đáp ứng cho nội dung diễn xuất của vai diễn cụ thể. Vì vậy hát Chèo cũng
trở nên đa dạng.
65
Ngƣời hát Chèo phải lấy hơi từ bụng (hơi hột), qua ngực, nhƣ ngƣời vận
sức mà mang cây vác đá, với đặc thù nén hơi nhả chữ chứ không phóng hơi nhƣ
hát Mới.
Trong bài ...Cái yếm điều em... nó hãy còn màu của nhà nghiên cứu Chèo
Khánh Phƣơng viết: “Ngƣời hát không thể có cộng hƣởng của âm phát ra với
luồng âm tự nhiên nhƣ nhạc Mới mà chỉ có thể trổ hết sức vang của giọng bản
năng. Ngƣời nhà nghề gọi là “thổ đồng thổ đất... thổ tận can tràng”. Hát Chèo,
tƣơng tự nhƣ Quan Họ hay Ca Trù, dù có thỏ thẻ oanh vàng cũng phải “kinh
thiên động địa”, đến thủng màng nhĩ ngƣời nghe. Một công phu nghiệt ngã nữa
là ngậm hơi nảy hột, cách để sức vang tự nhiên có thể đạt âm lƣợng và âm sắc
đầy đặn nhất, tạo thành giọng đặc thù của Chèo…”[36]
Nhiều nhà nghiên cứu Chèo cho rằng trong cái nôi dân ca đồng bằng Bắc
Bộ thì gần gũi với hát Chèo hơn cả là hát Xẩm. Chèo không chỉ mƣợn làn điệu
của Xẩm, mà còn dùng đúng tên của nhiều làn điệu Xẩm nhƣ: Xẩm Xoan, Xẩm
Dựng, Xẩm Thầy bói, Xẩm Huê tình, Xẩm Tàu điện... Theo nhà nghiên cứu
Chèo Hoàng Kiều, lối hát của Hề Chèo là lối hát của Xẩm.
Hề Chèo có nhiều làn điệu áp dụng cho từng vai, từng loại hề nhƣ: Sắp hề
Gậy, hề Mồi, hề Nhất, hề Nhị, hề Tam, hề Tứ, hề Chanh, hề Chóp, hề Áo Dài, hề
Cu Sứt, hề Thày Bói, hề Mõ... song đều có chung một phong cách, một phƣơng
pháp hát. Nét nổi bật nhất là cách nhả chữ, vuốt, nhấn, bật chữ, thả hơi nhằm đạt
tính cách điệu hàm chứa trong nội dung diễn xuất. Nhƣ trong điệu Hề Mồi Cu
Cậu, câu cuối hát nói trƣớc khi vào nhịp: “... cho tôi, tôi bƣớc chân đi lấy
chồng...”
Điệu Hề Mồi
66
Chữ Lấy kéo từ dƣới lên, vuốt giọng, chữ chồng kéo xuống và thả hơi lên
mũi. Khi vào nhịp, thân bài hát (làn điệu), chữ Gái ở phách hai của ô nhịp thứ 5
và chữ chồng kéo trƣợt quãng 3 xuống, thả giọng, mở ngân sang âm a. Làn điệu
nhắc lại cả câu đầu nhƣ một đoạn điệp khúc rồi chuyển điệu sang màu Thảm,
gam hơi tối và buồn. Cách hát thay đổi theo, chất hài đƣợc thay cho chất man
mác, tâm sự. Chữ đƣợc kéo vào trong, không nhấn và vuốt giọng nữa.
Phƣơng pháp hát giống Xẩm trở thành nét đặc trƣng trong hệ thống các
làn điệu hề Chèo mang đậm tính hài hƣớc. Nhƣ trong câu có cô là cô con gái
đƣợc nhắc lại hai lần, mở đầu làn điệu Hề Mồi đồn rằng. Chữ gái đƣợc vuốt
ngƣợc lên phía trên, toàn chữ đƣợc ép đẩy ra phía trƣớc, âm thanh mỏng và
khép.
Điệu Hề Mồi Đồn Rằng
Cách nhả chữ của Xẩm có cƣờng độ mạnh tạo cảm giác thô ráp, thủng
thẳng “hát tiếng một” làm cho Xẩm đặc biệt không giống với bất cứ một loại
hình ca hát dân gian nào.
Muốn bộc lộ đƣợc bản chất của nghệ thuật hát Xẩm phải hát bật thanh và
nhấn vào phụ âm đầu mở chữ, đạt độ cao của giai điệu (dân gian gọi là cắn chữ).
Cũng từ đặc điểm này, Xẩm cho ngƣời nghe có cảm giác về chu kỳ cấu âm tiếng
Việt đƣợc tiến hành đồng thời nhƣ nói, rõ tiếng một.
Hát Tiếng Một của Xẩm thể hiện rất rõ, nốt hoa mỹ và nghệ thuật luyến,
láy, vuốt giọng nhẹ đƣợc giảm tới mức tối đa. Nghệ nhân Xẩm thủng thẳng nhả
chữ giãi bày mộc mạc nhƣ nói. Một đặc trƣng nữa trong nghệ thuật hát Xẩm là
cách hát nhấn vào chữ, kéo âm từ cao xuống thấp hoặc từ thấp lên cao (nó trở
thành nét nổi bật khi đƣợc đƣa vào Chèo).
67
* Một số đặc điểm chính của Xẩm:
- Hát hơi ngoài giống Chèo
- Vận hơi ngực, cổ họng bật thanh đạt độ vang, rền.
- Thả hơi nhấn chữ
- Không dùng âm i và các nguyên âm phụ trợ khác sau chữ để tạo vang
nhƣ Chèo, mà sau khi đóng chữ giữ dƣ âm của nguyên âm mở (đỉnh chữ) tạo độ
nhuyễn cho câu hát.
- Làm chậm nhịp độ khởi-mở-đóng chữ gọi là đai từ ở một số từ chính.
- Kéo dài quá trình đóng chữ.
- Nhả chữ với cƣờng độ mạnh tạo cảm giác thô ráp, không trau chuốt,
thủng thẳng hát tiếng một làm cho Xẩm đặc biệt không giống với bất cứ một loại
hình ca hát dân gian nào.
- Nếu hát không bật thanh và nhấn vào phụ âm đầu mở chữ, đạt độ cao của
giai điệu (dân gian gọi là cắn chữ) thì sẽ không bộc lộ đƣợc bản chất của nghệ
thuật hát Xẩm.
- Cách hát nhấn vào chữ, kéo âm từ cao xuống thấp hoặc ngƣợc lại.
Những làn điệu trữ tình có nhịp độ vừa phải hoặc chậm (Đƣờng Trƣờng,
Vãn, Thảm...) thƣờng là lối cất thanh, nhả chữ nhẹ nhàng, trau chuốt, liền hơi,
kết hợp với hơi nảy và hơi hạt, đóng chữ, kín miệng, tròn vành, rõ chữ. Những
kỹ thuật này cũng đƣợc áp dụng cho các làn điệu có nhịp độ nhanh (Sử băng, Hát
cách, Cấm giá, Lới lơ...). Những đặc trƣng nêu trên của nghệ thuật hát Xẩm đƣợc
sân khấu Chèo ứng dụng và khai thác triệt để.
Chèo - sân khấu kịch hát truyền thống chứa đựng nhiều dòng, nhiều ngôn
ngữ ca hát dân gian khác nhau từ hát Cửa đình, hát Nhà chùa, Xoan, hát Ghẹo,
hát Dậm, hát Xẩm đến hát Ví, hát Đúm… song có tính cách và ngôn ngữ riêng vì
Chèo có phƣơng pháp hát độc lập dựa trên phát âm tiếng Việt phổ thông cùng
quan niệm thẩm mỹ của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những yếu tố tạo
68
thành đặc trƣng nghệ thuật hát Chèo nhƣ: Hát hơi ngoài, giọng tự nhiên, khẩu
hình bẹt, hát kín miệng, tạo vang bằng sự pha trộn giữa hơi cổ, hơi ngực và hơi
mũi, rung giọng chỉ xẩy ra ở từ đệm có kết hợp với hơi nảy và hơi hột, lơi nhịp
gọi là Nhịp ngoại, luyến láy, nhƣng tròn vành rõ chữ… Tất cả những yếu tố đó
đƣợc thể hiện trong hai từ Hơi Chèo.
Tóm lại, tìm hiểu cách xử lý tiếng Việt trong nghệ thuật hát Chèo để tìm
ra biện pháp khả thi, kết hợp phƣơng thức nhả chữ truyền thống với phƣơng
pháp thanh nhạc của nghệ thuật hát Mới, ứng dụng vào trong đào tạo, giảng dạy
thanh nhạc trong nhà trƣờng nhằm hát tiếng Việt trong các tác phẩm thanh nhạc
sao cho tròn vành, rõ chữ, bảo đảm đúng yêu cầu của ngôn ngữ tiếng Việt,
truyền đạt đầy đủ thông tin chứa đựng trong ca từ, tới ngƣời nghe, đạt tiêu chí
hát đẹp, giàu sáng tạo và giàu sức biểu cảm của nghệ thuật thanh nhạc Việt Nam.
c) Hát Tuồng:
Tuồng (còn gọi Hát Bội hay Hát Bộ) cho tới nay đã có trên dƣới 7 thế kỷ
hình thành và phát triển. Sân khấu ca kịch Tuồng phát triển rực rỡ nhất vào thế
kỷ XIX. Từ hình thức nghệ thuật cung đình, Tuồng lan rộng trở thành nghệ thuật
ca kịch phổ cập.
Với những phát hiện của các nhà nghiên cứu có thể thấy nghệ thuật hát
Tuồng nảy sinh và phát triển từ tiếng Việt. Cùng với sự phát triển của tiếng Việt,
sự phân hoá thành các phƣơng ngữ đã khiến ngôn ngữ âm nhạc Tuồng có thêm
những phong cách, màu sắc khác nhau. Cũng chính từ những bản ngữ phƣơng
ngữ còn lƣu giữ trong phát âm nhả chữ của hát Tuồng, các nhà nghiên cứu có thể
tìm ra nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của bộ môn nghệ thuật kịch
hát này.
Hát Tuồng có những quy định kỹ thuật chặt chẽ tuy không thành văn,
nhƣng đƣợc lƣu truyền, đƣợc lấy làm “khuôn vàng thƣớc ngọc” để luyện tập cho
các thế hệ nghệ nhân Tuồng từ vài trăm năm nay.
69
Một số qui định kỹ thuật nhƣ:
- 4 điều cấm kỵ: Trại, Bẹ, Hƣớt, Chát
- 2 diều ghi nhớ để không mắc phải: Đực, Điệp, Đếm, Cấn
Khái niệm Trại, Bẹ liên quan đến thanh điệu. Nghệ thuật hát Tuồng nói
riêng và nghệ thuật ca hát truyền thống nói chung đều coi thanh điệu là yếu tố cơ
bản của tiếng Việt. Với hai thanh dấu hỏi và ngã, ở nghệ thuật Tuồng rất đƣợc đề
cao, thầy Tuồng Nguyễn Nho Tuý cho rằng: “ thanh dấu hỏi... Tuồng đã ấn định
từ xƣa là khi phát âm ra thì xuất phát từ giọng không dấu (thanh ngang) rồi dẫn
lên thanh dấu sắc rồi rảy giọng gọn gàng...
Nói Lối / Đào Tam Xuân
Thanh dấu ngã khi phát âm ra thì nhấn giọng xuống gần hƣớng dấu nặng
rồi dẫn giọng lên hƣớng dấu sắc rồi ngắt giọng trọn vẹn...” [40, tr.3].
“Rảy” đƣợc hiểu là kỹ thuật vuốt giọng lên khi đạt độ cao cần thiết của
thanh dấu hỏi thì vuốt xuống, khép chữ, đóng tiếng đúng quy luật phát âm tiếng
Việt.
Khái niệm Hƣớt, Chát dùng để chỉ những khiếm khuyết khi phát âm
(nguyên âm, phụ âm). Thí dụ: vô duyên > dô duyên. Tƣơi cƣời > tƣ cừ. Thôi thối
> thui thúi. Quất > guất. Tƣơi > tơi. Nó > noá...
70
- Trại, Bẹ, Hƣớt, Chát là 4 điều cấm kỵ liên quan đến phát âm tiếng Việt
giúp ngƣời hát tránh bệnh ngọng và đạt đƣợc yêu cầu của nghệ thuật ca hát
Tuồng đòi hỏi.
- Đực: hát đờ đẫn, vô hồn, “… nói, hát không đúng với ngữ ngôn và âm
luật sân khấu gọi là Đực.”
- Đếm: hát nói nhƣ đếm, đều đều.
- Cấn và Điệp: hai từ chỉ hai khái niệm giống nhau giúp ngƣời hát xử lý ca
từ chuẩn xác và tinh tế.
Khi nhắc lại - Điệp cùng một từ không đƣợc giống nhau (nhắc lại đơn
điệu). Với khái niệm Cấn (hay mắc), ngƣời hát Tuồng tạo cho câu hát rền, tạo
cảm giác hài hoà trong giai điệu của làn điệu Hát Khách: Ngƣời xƣa đâu…
Hát Khách
Mặc dù không dùng từ đệm (ƣ hƣ hay i hi) song khi nhả chữ, ngƣời hát
biết tạo giai điệu cho câu hát, tránh đƣợc Cấn hoặc mắc, hát không đơn điệu, hát
nhƣ đếm - gọi là Đực.
Để tránh Đực, Điệp, Cấn nghệ thuật biến thanh của hát Tuồng là nghệ
thuật khá đặc trƣng trong nghệ thuật nhả chữ tiếng Việt. Chẳng hạn hai từ mai
ngày một từ ở thanh ngang (thanh không dấu), một từ ở thanh dấu huyền nhƣng
khi hát thƣờng đƣợc bắt đầu từ cao xuống (thƣờng quãng 3, 4)
Nghệ nhân Tuồng hát Dứt (ngắt) với cƣờng độ lớn và dứt khoát thƣờng
dứt trƣớc nhẹ hơn ngắt sau, tuân theo luật Tiền bần hậu phú (trƣớc nhẹ sau
71
mạnh) để tránh lỗi Điệp - nhắc lại đơn điệu. Kỹ thuật này khiến diễn viên dễ
dàng thể hiện tâm trạng, địa vị, tƣ thế, tính cách của nhân vật.
Trải trên dƣới 700 năm hình thành và phát triển, hƣng thịnh nhất vào TK
18, 19, Tuồng đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật sân khấu kịch hát cách điệu. Để
đạt đỉnh cao đó không chỉ có vũ điệu, hóa trang, phục trang, đạo cụ, động tác
diễn, mà nghệ thuật hát Tuồng có những chuẩn mực khá khắt khe về phát âm nhả
chữ. Cùng những phƣơng pháp luyện cho tròn vành, rõ chữ thì các kỹ thuật gọi
là luyến, láy, rung, ngắt... cũng đã đƣợc đúc kết, phân loại.
Nhƣ vậy muốn hát cho ra Tuồng trƣớc tiên phải luyện tập kỹ tiếng Việt,
phải nắm đƣợc quy luật của thanh điệu, của âm tiết, của nguyên âm, phụ âm. Từ
thanh điệu ngƣời hát sử dụng các kỹ thuật nhả chữ, láy, luyến giúp câu hát không
bị gẫy gọi là Cấn. Không Cấn mới đạt đƣợc độ vang, rền của câu hát. Tuồng
cũng nhƣ các loại hình ca hát truyền thống khác đều không lấy vang của chính từ
đó, có nghĩa là không mở rộng nguyên âm chính của từ, mà tạo vang bằng
nguyên âm đồng dạng hoặc tƣơng xứng dƣới hình thức âm đệm lót (ƣ, hƣ, i,
hi…). Đóng mở âm dựa trên nguyên lý cấu âm tiếng Việt đã đƣợc quy định chặt
chẽ trong Tuồng bằng các điều cấm kỵ: Trại - Bẹ - Hƣớt - Chát, giúp cho diễn
viên Tuồng hát rõ, tròn chữ. Những điều này trở thành mực thƣớc chung khi hát
các làn điệu và bài bản Tuồng.
Để đẩy tính Bi - Hùng và tính hài hƣớc lên mức cao nhất, nghệ nhân sân
khấu Tuồng đã tìm và đặt vị trí âm thanh vào sâu phía trong cổ họng và ngực.
Cũng âm ƣ, hƣ, i Ca Trù gằn trong cổ họng, còn Tuồng nén sâu, tạo màu sắc tối
và thêm kỹ thuật rung giọng chậm. Kỹ thuật thanh nhạc đặc trƣng của nghệ thuật
Tuồng khiến nó trở thành sân khấu kịch hát truyền thống vừa mang tính dân gian
vừa mang tính bác học với những quy định khá chặt chẽ của nghệ thuật ca hát,
dựa trên cách xử lý tiếng Việt một cách tế nhị, tinh tế.
72
Tìm hiểu những qui định kỹ thuật trong phát âm nhả chữ của nghệ thuật
hát Tuồng với mong muốn qua đó học tập và vận dụng vào nghệ thuật hát Mới
để xử lý tốt ngôn ngữ tiếng Việt trong các tác phẩm thanh nhạc Việt Nam. (Cần
tránh một số nhƣợc điểm của lối hát Tuồng khi áp dụng vào cách hát mới: gằn
tiếng, gào thét…).
1.3 Tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới:
Ca hát ở dân tộc nào trên thế giới cũng phải xử lý tốt ngôn ngữ của dân tộc
ấy, cách phát âm đều kết hợp chặt chẽ, khéo léo đặc điểm của dân tộc ấy. Để
đảm bảo đƣợc rõ lời, phƣơng pháp ca hát của mỗi dân tộc đều phải gắn liền với
tiếng nói dân tộc mình. Tròn vành rõ chữ là sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật
âm nhạc với tiếng nói dân tộc và mọi đặc điểm ngữ âm dân tộc trong nghệ thuật
âm thanh của giọng hát.
Hát Mới ra đời cùng phong trào Tân Nhạc từ cuối những năm 30 và sớm
phát triển thành trào lƣu ở những năm trƣớc Cách mạng tháng Tám.
Tân Nhạc ra đời đòi hỏi phải có lối ca hát thích hợp vì vậy hát Mới ra đời.
Hát Mới sử dụng giọng Bắc - giọng Hà Nội làm cơ sở và giọng Hà Nội trở thành
giọng chuẩn của nghệ thuật hát Mới. Sự công nhận không thành văn này đƣợc
tôn trọng giống nhƣ hát Cải lƣơng bằng giọng Nam Bộ; hát Chèo, Ca Trù, Quan
Họ hát giọng Bắc; ca Huế giọng Huế; Ví dặm giọng Nghệ An - Hà Tĩnh; Hò bài
Chòi giọng Quảng…
Phát âm, nói chuẩn sẽ giúp hát chuẩn. Hát là khuếch đại, cƣờng điệu một
cách nghệ thuật âm thanh lời nói. Nếu giọng nói rè, ngọng, ngắn lƣỡi, lắp, lẫn
lộn vần, lẫn lộn thanh điệu, khi cất tiếng hát, tức khuyếch đại những khuyết tật
ấy lên sẽ cho những âm thanh xấu, không hay. Không ít phát thanh viên, truyền
hình viên, những ngƣời dẫn chƣơng trình trên các sóng phát thanh truyền hình
hiện nay, do không qua các lớp đào tạo về ngữ âm, luyện nói nên thƣờng mắc
phải những khiếm khuyết rất sơ đẳng về phát âm tiếng Việt. Nhiều ca sĩ do
73
không chú ý, hoặc thiếu kiến thức về phát âm tiếng Việt phổ thông đã nhầm lẫn
phụ âm đầu, rõ nhất là hai phụ âm kép ch và tr (“...thế là chị ơi...” chữ chị thành
chữ trị - Chị tôi của Trọng Đài).
Hát Mới là bộ môn nghệ thuật thanh nhạc non trẻ gắn liền với tiếng Việt
phổ thông lấy kỹ thuật thanh nhạc của ngôn ngữ đa âm, đơn thanh (lối hát mở)
đối lập với ngôn ngữ Việt đơn âm, đa thanh (lối hát khép). Vì vậy để hát "tròn
vành rõ chữ” tiếng Việt cần bắt đầu từ luyện nói tiếng Việt phổ thông. Xử lý
đúng qui luật chuyển động, phối hợp các âm (nguyên âm, phụ âm) đóng mở của
các từ, xử lý phát âm cùng với thanh dấu. Luyện nói, luyện phát âm tiếng Việt là
những bài tập hỗ trợ cho quá trình học hát, giúp cho ngƣời hát nhả chữ đúng,
chuẩn, cách điệu mà không làm biến dạng, mất giọng, sai nghĩa của từ, mất bản
sắc dân tộc của ngôn ngữ.
Trong “Những cơ sở khoa học của một nền thanh nhạc dân tộc” của Văn
Cẩn cũng cho rằng: “các dòng ca hát Việt nam nói chung phải tuân thủ nguyên
lý cấu âm tiếng Việt (ngữ âm học) và phải chống sự lai căng, nô lệ trong phƣơng
pháp và trong cách phát âm ngôn ngữ (tiếng Việt)”[4].
Nhiều lớp học sinh thanh nhạc sau nhiều năm theo học tại các trung tâm
đào tạo âm nhạc và sinh sống ở Hà Nội, không ít ngƣời trong số họ trở thành ca
sĩ nổi tiếng, nhƣng khi hát họ vẫn bộc lộ nhiều nhƣợc điểm về phát âm tiếng Việt
phổ thông. Nguyên nhân có thể vì tiếng địa phƣơng mang tính vùng miền của họ,
cũng có thể do đào tạo chƣa thực sự chú ý đến phát âm tiếng Việt. Để nâng cao
chất lƣợng hát tiếng Việt ngƣời hát cần hiểu, nắm vững những kiến thức cơ bản
về cấu trúc âm thanh của tiếng Việt để giải quyết chúng.
1.3.1 Một số khó khăn của tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới:
a) Cấu âm tiếng Việt:
Tiếng Việt với cấu trúc 6 thanh và đơn âm tiết (chƣơng I). Đơn âm tiết tức
là mỗi âm tiết đứng độc lập, tƣơng ứng với một từ. Không có nối âm, không nuốt
74
âm nhƣ những ngôn ngữ đa âm tiết. Mỗi âm tiết, hay mỗi từ của tiếng Việt đƣợc
cấu tạo: Âm đầu, âm giữa (đỉnh âm) âm cuối và thanh điệu. Quá trình tạo thành
âm phải diễn ra đồng thời, các thành phần của âm tiết không đƣợc tách rời nhau
(chữ thanh không đƣợc tách rời thành th-a-nh). Để có âm thanh cần phải mở
rộng nguyên âm của từ. Nguyên âm a trong từ thanh nếu mở quá lớn, làm chậm
tiến trình đóng chữ ở phụ âm nh sẽ khiến từ thanh bị biến dạng, có thể đổi nghĩa
(tha--nh hoặc tha-a).
Đóng từ, đóng chữ có ƣu điểm rõ lời, rõ chữ, khi nói không có vấn đề gì,
nhƣng khi hát bị hạn chế, không khuyếch đại âm thanh, bởi nguyên âm quyết
định độ vang của từ, mà phải khép chữ tức phải đóng khẩu hình sớm, nên ảnh
hƣởng nhiều đến độ vang của chữ làm cộc và chết chữ. Đặc điểm nổi bật trong
tiếng Việt dễ nhận thấy nhất là từ đóng chiếm quá nửa. Có thể lấy bất cứ một ví
dụ trong ca từ của bất kỳ ca khúc nào cũng thấy rõ điều đó:
+) “Đêm nay trên đƣờng hành quân ra mặt trận…” (Bác đang cùng
chúng cháu hành quân - Huy Thục). Có 9 từ thì 8 từ đóng, chỉ có 1 từ mở (ra)
nhƣng lại diễn ra với trƣờng độ ngắn (nốt móc dật)
Bác đang cùng chúng cháu hành quân
+) “…Chân em bƣớc nhanh nhanh trên đƣờng làng…” (Em bé đi học
trƣờng làng - Trọng Bằng). Tất cả các từ trong câu đều là từ đóng.
Em bé đi học trƣờng làng
75
+) “Việt Nam trên đƣờng chúng ta đi…” (Đƣờng chúng ta đi - Huy Du).
Cả câu có 1 từ mở (ta), 1 từ kết bằng nguyên âm nhƣng là nguyên âm đóng thu
đuôi (đi) .
Đƣờng chúng ta đi
Sáu thanh của tiếng Việt tác động lên toàn bộ âm vị và có ý nghĩa quyết
định tới diện mạo cấu trúc và ý nghĩa của từ. Thanh điệu làm thay đổi độ cao
(cao độ) của âm tiết. Trong cùng một từ, nếu thay đổi dấu (thanh điệu) sẽ thay
đổi nghĩa của từ (ca: cá, cà, cả, cã, cạ). Âm chính cùng với thanh điệu là 2 yếu tố
cơ bản, là trục chính của âm tiết tiếng Việt, do vậy trong lời của bài hát nếu đặt
lời ở cao độ không thích hợp sẽ xảy ra tình trạng gọi là trái dấu,“ngô thành
khoai” vì khi hát lên từ bị biến dạng đổi nghĩa.Ví dụ:
+) “Có hàng tre ru khỉ (khi) chiều về…” (Về quê - Phó Đức Phƣơng)
Về quê
+) “Năm anh em trên một chiệc (chiếc) xe tăng…” (Năm anh em trên một
chiếc xe tăng - Doãn Nho)
Năm anh em trên một chiếc xe tăng
+) Đập tan ngay bao đau khố (khổ) và chia ly… (Tình ca - Hoàng Việt)
Tình ca
76
+) “Dâng cá (cả) bao ngƣời…” (Tình ca - Hoàng Việt)
Tình ca
+) Tiếng ai hò khoan vắng (vẳng) đƣa những câu tình ca… (con kênh xanh
xanh – Ngô Huỳnh)
Con kênh xanh xanh
+) Le bay, tiêu đoàn le báy (Lẻ bảy, tiểu đoàn lẻ bảy)… (Tiểu đoàn 307 -
Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Bính)
Tiểu đoàn 307
* Gây khó khăn cho ngƣời hát:
+) Buổi sáng em làm rẫy… (Bóng cây K’ nia - Phan Huỳnh Điểu)
Bóng cây K’nia
+) Đoàn giải phóng quân một lần ra đi… (Giải phóng quân - Phan Huỳnh
Điểu)
Giải phóng quân
77
b) Phƣơng ngữ:
Nghệ thuật hát Mới gắn liền với tiếng Việt phổ thông (trừ một số trƣờng
hợp cần nhấn vào yếu tố phƣơng ngữ để làm tăng chất vùng miền do tác phẩm
đòi hỏi). Tiếng Việt phổ thông có nhiều điểm khác biệt với phƣơng ngữ miền
Trung và miền Nam… nhƣ các phụ âm nặng (tr, gi, s) dấu giọng, phụ âm đầu,
phụ âm cuối, nguyên âm chính. Không nắm vững tiếng Việt phổ thông sẽ dẫn tới
lỗi lẫn lộn phụ âm, biến âm, làm ảnh hƣởng đến việc chuyển tải thông tin chính
xác, đầy đủ ý nghĩa, nội dung của tác phẩm:
* Một số phụ âm đƣợc làm nhẹ hoá: S = X, TR = CH, GI - R = D
- “Sao (xao) anh lại ngỏ lời, vào một đêm trăng (chăng) khuyết, để bây
giờ (dờ) thầm tiếc một vầng trăng (chăng) không tròn (chòn)…” (Trăng khuyết -
Huy Thục)
Trăng khuyết
* Phát âm bị lẫn giữa i và y: Lai = Lay; Khay = Khai; Lạy = Lại…
+ “Nào bên nhau cầm tay (tai) ta lên đƣờng hạnh phúc...” (Bài ca hạnh phúc
- Văn An)
+ “Ai (Ay) về Thủ đô tôi gửi vài (vày) lời…” (Sẽ về Thủ đô - Huy Du)
78
Sẽ về Thủ Đô
*Biến thể phụ âm đầu:
- V = D: Vài = Dài; Vay = Day;…
- H = Gu: Hoạ hoằn = Goạ guằn; Hoe = Guoe; …
- Qu = Gu: Quyền = Guyền; Quê hƣơng = Guê hƣơn;…
+ “Quê hƣơng (Guê hƣơn) là chùm khế ngọt…” (Quê hƣơng - Giáp Văn
Thạch)
Quê hƣơng
+ “Vƣợt (Dƣợt) Trƣờng Sơn bay vọng ra…” ( Miền am ơi! Chúng tôi đã
sẵn sàng – Lƣu Cầu)
Miền Nam ơi! Chúng tôi đã sẵn sàng
+ “Qua (Gua) bao gian (dzan) nguy xe vẫn (dzẫng) vƣợt (đzƣợc) lªn…”
(Tôi ngƣời lái xe – An Chung)
Tôi ngƣời lái xe
* Âm cuối bị biến âm:
Âm cuối là nguyên âm hoặc bán nguyên âm:
- Ao thành Ô: Gạo = Gộ …
79
- U thành Âu: Đu đủ = Đâu đẩu…
- A thành E: Má = Mé ; Ghi-ta = Ghi-te…
- Oa thành Oe: Loá = Loé; Khoá = Khoé…
- Ô thành U: Tôi = Tui…
- E thành IE, EƠ: Mẹ = Mịe = Mẹơ; Sẽ = Sĩe = Sẽơ…
- EO thành IEO: Theo = Thieo…
+ “Tôi (Tui) lại nhìn nhƣ đôi mắt trẻ thơ…” (Tổ quốc tôi chƣa đẹp thế bao
giờ - Nguyễn Văn Thƣơng)
Tổ quốc tôi chƣa đẹp thế bao giờ
+ “Nắng (Néng) vẫn đỏ mận, hồng, đào cuối vụ…” (Gửi nắng cho em - Phạm
Tuyên)
Gửi nắng cho em
+ “Mẹ (mịe) thƣơng con có hay chăng…” (Mẹ yêu con - Nguyễn Văn Tý)
Mẹ yêu con
+ “Đêm đêm trăng lên theo (thieo) dòng buồm căng gió xuôi…” (Con kênh
xanh xanh - Ngô Huỳnh)
Con kênh xanh xanh
80
Âm cuối là phụ âm:
- T thành C : Đất = Đấc ; Phất = Phấc…
- Ng thành N: Hƣơng = Hƣơn…
- N thành Ng: Lƣơn = Lƣơng; Nhân dân = Nhâng dâng…
- N thành Nh: Mênh mông = mên mông…
+ “Đất (đấc) nƣớc tôi thon thả giọt đàn bầu…” (Đất nƣớc - Phạm Minh Tuấn)
Đất nƣớc
+ “Vì nhân dân (nhâng dâng) quên mình…” (Vì nhân dân quên mình -Doãn
Quang Khải)
Vì nhân dân quên mình
+ “Ơi mênh mông (mên mông) sóng xô du thuyền ta xa bờ…” ( Xa khơi -
Nguyễn Tài Tuệ)
Xa khơi
* Biến thể cả âm đầu và âm cuối: Vẫn = Dẫng ; Vƣợt = Dƣợc…
+ “Vui (Dui) hát ca hoà vui (dui) hát ca …” (Sông Lô - Văn Cao)
Sông Lô
81
* Biến thể thanh điệu:
- Dấu hỏi ( ? ) thành dấu ngã ( ~ ) : Những = Nhửng…
- Dấu hỏi (? ) thành dấu nặng ( . ): Ngủ = Ngụ…
- Dấu ngã ( ~ ) thành dấu nặng ( . ): Ngã = ngạ…
- Dấu sắc (’) thành dấu nặng ( . ): Rứa = Rửa…
- Dấu sắc (’) thành dấu hỏi ( ? ): Đó = Đỏ…
+ “Con kênh xanh xanh những (nhửng) chiều êm ả (ã) lƣớt trôi…” (Con
kênh xanh xanh - Ngô Huỳnh)
Con kênh xanh xanh
+ “Ngủ (ngụ) ngoan a kay ơi! Ngủ (ngụ) là ngoan a kay ơi!...” (Lời ru trên
nƣơng - Trần Hoàn)
Lời ru trên nƣơng
+ “Khi hát (hảt) lên tiếng (tiểng) ca gửi (gựi) về ngƣời yêu quê ta…” (Tình
ca - Hoàng Việt)
Tình ca
Chính những điểm khác biệt về phát âm nhƣ vậy nên trong giảng dạy cũng
nhƣ biểu diễn, giảng viên cũng nhƣ ca sĩ khi dạy, khi hát phải sửa tiếng địa
phƣơng, phát âm theo tiếng Việt phổ thông (tiếng Bắc - tiếng Hà Nội) nhằm
nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt.
82
d) Nhƣợc điểm trong sáng tác cho thanh nhạc:
Tác phẩm thanh nhạc (âm nhạc có lời) gồm âm nhạc và lời ca. Giai điệu
hay, lời ca đẹp kết quả sáng tạo của tác giả lời và tác giả nhạc - thƣờng gọi chung
là ngƣời sáng tạo số một. Song âm nhạc cần phải đƣợc vang lên. Để âm nhạc
vang lên cần đến những ngƣời sáng tạo kế tiếp - Ca sĩ đóng vai trò quan trọng và
đƣợc coi là ngƣời sáng tạo thứ hai.
Vì âm nhạc gắn liền với lời ca nên nội dung và giá trị nghệ thuật của tiếng
hát là sự thống nhất giữa nhạc và lời. Một bài hát hay phụ thuộc vào âm nhạc và
ca từ, phần âm nhạc hay mà phần lời đặt ở những vị trí làm sai dấu giọng, những
từ khó, từ đóng (âm cuối là phụ âm) đặt ở nốt cao, ngƣời hát không phân đƣợc
câu để lấy hơi… gây khó khăn, cản trở cho ngƣời hát, làm sai nghĩa của từ, làm
cho hát ngọng… là giảm giá trị nội dung văn học, ý nghĩa nghệ thuật của tác
phẩm. Ví dụ:
* Trái dấu:
+ “Chiến sĩ ta dầm mƣa dải (dãi) nắng…”(Bài ca may áo - Xuân Hồng)
Bài ca may áo
+ “…Lời hát mến yêu muồn (muôn) đơi (đời)…” (Nắng ấm về trên Tổ quốc -
Trần Khánh)
Nắng ấm về trên Tổ quốc
* Một hơi dài không phân đƣợc câu để lấy hơi:
+ “Làn gió thơm hƣơng đêm về quanh khu nhà tôi mới cất xong chiều qua…”
(Những ánh sao đêm - Phan Huỳnh Điểu)
83
Những ánh sao đêm
* Từ đặt ở nốt cao làm sai dấu giọng:
+…Xây cho nhà cao cao mái (mãi)… (Những ánh sao đêm - Phan Huỳnh
Điểu)
Những ánh sao đêm
* Từ đóng đặt ở nốt cao
+…Lo nƣớc ấy phải đắp bờ (tình tình ơi này) lo nƣớc ấy phải đắp bờ… (Bài
ca năm tấn - Nguyễn Văn Tý)
Bài ca năm tấn
Nguyên nhân thì có nhiều nhƣng một phần không nhỏ cũng do tác giả
(nhạc và lời) chƣa thật sự lƣu tâm đến tiếng Việt, đến những đặc trƣng cơ bản
của tiến trình đóng, mở âm, cấu trúc âm (Khởi - mở - đóng từ, thanh điệu) cũng
nhƣ một số đặc điểm khác của tiếng Việt nhƣ đóng, khép, bẹt, nhiều âm mũi, vị
trí âm thanh mỏng do phát âm ở ngoài (Chèo gọi là hát hơi ngoài)... Và đó cũng
chính là những khó khăn của nghệ thuật hát Mới. Khi hát, ngƣời hát phải làm sao
khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm của ca từ với giàng buộc của phát âm tiếng
Việt, của những lỗi khó sửa trong nguyên bản tác phẩm để hát tròn vành, rõ chữ
chuyển tải đƣợc cả tình cảm, nội dung mà vẫn đảm bảo âm thanh vang, sáng.
Muốn có đƣợc một tác phẩm hoàn thiện từ sáng tác đến biểu diễn nhƣ vậy, theo
nhạc sĩ Hoàng Kiều, ở Trung Quốc ngƣời học sáng tác (thanh nhạc) phải học cả
84
hát. Trong trƣờng hợp những tác phẩm có lỗi nhƣ trên thì ngƣời hát cần học
những kinh nghiệm của nghệ nhân cũng nhƣ những kinh nghiệm của bản thân đã
đúc kết đƣợc từ thực tiễn để xử lý.
Nghệ thuật hát Mới (hát Mở), nghệ thuật của khuyếch đại âm thanh, đồng
nhất âm thanh nguyên âm nhằm đạt tới độ vang, khoẻ dễ dàng thể hiện những ca
khúc, những tác phẩm mang tính hùng tráng, ngợi ca. Với những ca khúc nghệ
thuật trữ tình ngƣời hát có thể pha trộn cách phát âm nhả chữ của nghệ thuật ca
hát truyền thống và nghệ thuật hát Mở - phát âm mềm mại, uyển chuyển nhƣng
vẫn thể hiện đƣợc độ vang thích hợp. Những ca khúc mang âm hƣởng dân ca,
mang tính vùng miền ngƣời hát phải tìm hiểu ca khúc đó viết theo thể loại, âm
hƣởng gì để phát âm, nhả chữ, luyến láy, rung, nhấn… theo thể loại và lối phát
âm nhả chữ của địa phƣơng đó để thể hiện ra đƣợc “chất” hay “màu sắc” vùng
miền và tinh thần của tác phẩm.
1.3.2 So sánh kỹ thuật phát âm - nhả chữ của nghệ thuật ca hát truyền
thống và nghệ thuật hát Mới:
a) Kỹ thuật phát âm - nhả chữ của nghệ thuật ca hát truyền thống:
Dân ca, sân khấu kịch hát truyền thống nói chung là sản phẩm của tiếng
Việt. Từ chức năng giao tiếp, chuyển tải thông tin, phản ảnh tƣ duy và cảm xúc,
tiếng Việt đƣợc nhào nặn, tái tạo, cách điệu trở thành ngôn ngữ nghệ thuật mang
những đặc trƣng, tƣ tƣởng, ý tƣởng thẩm mỹ cao. Tiếng Việt trong nghệ thuật ca
hát và tiếng Việt trong đời sống song song tồn tại, bổ sung cho nhau làm cho
tiếng Việt ngày càng phong phú. Cũng từ đó bản sắc văn hoá dân tộc không
ngừng đƣợc nâng cao. Vì vậy với bất kỳ dòng ca hát truyền thống nào từ hát
Xoan, hát Ghẹo, Quan Họ Bắc Ninh, hát Dặm, hát Đúm, hát Ví... đến Ca Trù,
hát Chèo, hát Tuồng, Cải lƣơng... ca từ và diễn đạt ca từ đều đƣợc đặc biệt chú ý,
quan tâm. Để hát tốt tiếng Việt nghệ nhân đặt ra tiêu chí: Tròn vành, rõ chữ. Để
85
nghệ thuật hoá tiếng nói - ngôn ngữ Việt trong nghệ thuật ca hát, nghệ nhân nói
chung đều dựa trên tiêu chí vang, rền, nền, nảy…
Sáu thanh điệu của tiếng Việt đem lại cho tiếng Việt khả năng tự nhiên tạo
thành giai điệu vì vậy ngƣời nƣớc ngoài thƣờng nói ngƣời Việt “nói nhƣ hát”.
Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của thanh điệu, nghệ nhân Tuồng đã đề ra các
quy định chặt chẽ để xử lý, sáng tạo và biến hoá nó, tạo những nét đặc trƣng
không bị trộn lẫn các loại hình nghệ thuật với nhau…
Ngoài kỹ năng xử lý, sáng tạo, biến hoá thanh điệu, còn có kỹ năng bật từ,
khởi thanh, nhả chữ, đóng chữ:
Khởi từ là bƣớc tạo âm thanh ban đầu, với nghệ nhân khởi thanh, nhả chữ,
đóng chữ (khép từ) có một ý nghĩa đặc biệt. Để có âm thanh ngọt ngào theo lối
hát hơi ngoài của Chèo, âm nén gừ gừ trong cổ họng của Ca Trù, âm bật lớn
nuốt trong lồng ngực tạo chất bi hùng của Tuồng, âm nhấn thô xơ, tự nhiên của
Xẩm, nghệ nhân đã tạo ra những phƣơng thức khởi thanh khác nhau. Phụ âm và
nguyên âm làm nhiệm vụ khởi thanh và xác định đƣợc vị trí âm thanh của từ.
Tuy nhiên để tạo cảm xúc nghệ thuật, nghệ nhân có thể nhấn, có thể bóp méo
chữ ngay từ bƣớc bật hơi khởi thanh. Có thể thấy điều này trong cách nhả chữ
của Xẩm khi áp dụng cho các vai hề trong các vở Chèo.
Mở thanh bƣớc thứ hai của nghệ thuật nhả chữ. Mở thanh đòi hỏi phải biết
vị trí, màu sắc âm thanh của nguyên âm tiếng Việt. Mỗi ngôn ngữ có một màu
sắc riêng. Nguyên âm A, O, I, U... của tiếng Việt không giống với âm A, O, I,
U... trong tiếng Pháp, tiếng Italia... Độ mở của nguyên âm trong tiếng Việt còn
liên quan đến “tròn vành rõ chữ”. Mở thanh tạo vang cho câu hát, nghệ nhân hát
dân ca, Ca Trù, kịch hát truyền thống... nói chung luôn tìm cách giữ trƣờng độ
vang phù hợp với quy luật tạo âm của tiếng Việt. Và để vang rền cho chữ, cho
câu hát, các nghệ nhân đã tìm cách thay thế, bổ sung bằng các âm đệm lót tƣơng
ứng đứng sau từ chính nhƣ a, i, ƣ, u, ơi,...
86
Ngoài ra nghệ nhân còn tạo ra nhiều kỹ thuật hát đặc biệt nhƣ hát nảy
(Vang, rền, nền, nảy) những kỹ thuật này không chỉ trong Quan Họ, Ca Trù,
Chèo và Tuồng tuy nhiên mức độ, vị trí sử dụng của chúng khác nhau đem lại
những giá trị nghệ thuật và xúc cảm, thẩm mỹ khác nhau của từng loại hình.
Kỹ thuật hát thẳng và rung giọng của nghệ thuật ca hát truyền thống không
bao giờ kết hợp giữa rung giọng với nhả chữ, từ chính của ca từ (kể cả từ đệm lót
nhƣ: tình bằng, này a, phú lý...). Rung giọng trong khi nhả chữ làm cho chữ đó bị
nhoè, không tròn trịa, tròn vành, rõ chữ. Rung giọng xuất hiện và mang màu sắc
khác nhau ở mỗi dòng nghệ thuật ca hát truyền thống nhƣ lối rung giọng chậm
trong Tuồng, rung giọng nhẹ, lăn tăn trong Chèo... Trong hát Quan Họ (cổ) hầu
nhƣ không rung giọng, chỉ có dứt và nảy (nảy hạt) - lối hát cổ truyền hợp với
tiếng Việt và giữ đƣợc chất tự nhiên của giọng hát.
Khép chữ hay đóng tiếng là bƣớc cuối của nhả chữ tiếng Việt. Hầu hết các
nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc và nghệ nhân đều cho rằng khép chữ, kín miệng
là lối hát truyền thống. Khép chữ, đóng tiếng có ƣu điểm rõ chữ, rõ lời, hát tiếng
nào ra tiếng nấy song âm thanh, cƣờng độ vang bị hạn chế, tầm cữ giọng không
đƣợc mở rộng. Âm nhạc truyền thống không có khái niệm mở rộng tầm cữ
giọng, phân loại giọng nhƣ hát Mới. Hát giọng thật và nghe giọng hát thật trở
thành thói quen thƣởng thức nghệ thuật ca hát của ngƣời Việt từ bao đời nay. Từ
nhu cầu tròn vành, rõ chữ, khép chữ, đóng tiếng nên có các quan niệm khác nhau
trong ca hát.
Nghệ thuật ca hát truyền thống có những điểm chính:
* Tròn vành rõ chữ:
- Đóng chữ, kín miệng. Hát tiếng một, khép (đóng) chữ để tròn vành, rõ
chữ nhƣng không lộ miệng.
- Hát thẳng, rung giọng sau nhả chữ.
87
- Nhịp độ và trƣờng độ (khởi - mở - kết) chữ gần với quy luật của phát âm
lời nói.
- Đặt vị trí âm thanh theo quy định của từng dòng ca hát (hát hơi ngoài của
Chèo, hát hơi gằn trong cổ họng của Ca Trù...)
* Phân loại giọng:
- Hát giọng thật.
- Không mở rộng tầm cữ giọng (vì không có thói quen nghe giọng giả)
- Phân loại giọng theo chất giọng: giọng Kim (vang sáng), giọng Thổ
(trầm ấm...)
* Kỹ thuật (Vang, rền, nền, nẩy):
- Không lạm dụng mở vang ở nguyên âm của mỗi từ.
- Dùng từ đệm lót tƣơng ứng tạo vang sau chữ (i, hi, a, ƣ, hƣ...)
- Hát liền hơi.
- Sử dụng các kỹ thuật phụ trợ nhƣ luyến, láy, nảy hạt (láy rúc - Tuồng), dứt
(ngắt, ngứt tiếng - Quan Họ) tăng độ vang và liền cho câu hát.
- Sử dụng âm khu vang tùy theo đặc điểm cấu trúc hình tƣợng nghệ thuật,
quan niệm thẩm mỹ của từng dòng ca hát dân gian (Chèo thiên về hộp vang trán,
khoang mũi, gọi là hát hơi ngoài. Ca Trù thiên về hộp vang má, vòm họng...).
- Cách điệu, mở rộng âm nhƣng không làm tổn hại đến từ gốc và mầu chữ.
*Hơi:
- Sử dụng hơi bụng và hơi ngực.
- Vận cơ hoành để có hơi thở sâu.
- Lấy hơi nhẹ, không đƣợc thô.
- Không chứa hơi nhiều.
- Nén giữ hơi phù hợp với câu hát.
88
- Điều khiển hơi hợp lý để cho câu hát đƣợc đầy đặn, tròn căng, câu hát vang,
đẹp, dễ dàng xử lý âm thanh “Tiền bần hậu phú” (trƣớc nhỏ, sau to) theo quan
niệm của nghệ thuật thanh nhạc Tuồng.
b) Kỹ thuật phát âm - nhả chữ của nghệ thuật hát Mới:
Nghệ thuật hát Mới - nghệ thuật hát Mở gắn liền với tiếng Việt phổ thông,
lấy nghệ thuật hát Bel canto làm nền tảng đào tạo cũng nhƣ biểu diễn trong suốt
hơn 50 năm qua.
Nghệ thuật hát Bel canto ra đời ở Italia và một số nƣớc Tây Âu nhƣ Áo,
Đức, Pháp từ TK.XVII nhằm đáp ứng cho nghệ thuật sân khấu kịch hát Opera.
Việc đƣa kỹ thuật hát của một ngôn ngữ hoàn toàn khác vào hát ngôn ngữ nƣớc
mình - tiếng Việt (nghệ thuật hát của ngôn ngữ đơn âm, đa âm tiết) là một quá
trình đòi hỏi nhiều công phu, say mê và sáng tạo.
Nghệ thuật hát Bel canto - Nghệ thuật hát Mở là nghệ thuật hát của ngôn
ngữ đa âm, khi phát âm, nhả chữ quan tâm nhiều hơn đến trọng âm, các thành
phần khác trong một từ, trƣớc và sau trọng âm đều đọc lƣớt. Nối âm tiết này
sang âm tiết kia, nối âm của từ này sang từ kia:
- Like it đọc là Li_kit (Lai_kit)
- Love you đọc là Lo_veyou (lơ_viu)
Khi hát khẩu hình luôn mở (cả nguyên âm và phụ âm), mở rộng khuyếch
đại nguyên âm, kéo dài nguyên âm hết trƣờng độ của nốt rồi mới bật phụ âm nối
vào âm của nốt sau. Trong Những bài tập thực hành của Nicola Vaccaj ghi rất
rõ:
- Ma_nca so_lle_ci_ta (Manca sollecita)
- A_nco_rche s’a_gi_ti (An corche s’agiti)
89
- Pa_lpi_ta pre_ssoa_lmo_rir (Pal pita presso al morir)
Hát chính xác nốt, không thêm nốt, luyến lên hoặc luyến xuống. Với kỹ
thuật “mở” chữ kết hợp với kỹ thuật hơi thở (thở ngực, ngực kết hợp với bụng,
ngực dƣới và bụng, thở bụng) làm âm lƣợng của âm thanh vang khỏe, tròn xốp
nhờ cộng minh, tầm cữ giọng đƣợc mở rộng có thể hát đƣợc rất cao hoặc rất
trầm, lột tả đƣợc tất cả những tâm trạng của các nhân vật vui, buồn, hài hƣớc…
trong các vở nhạc kịch (Opera) cũng nhƣ những Romance, những tác phẩm thính
phòng. Nghệ thuật hát Mở phân loại giọng và có những tác phẩm, những vai
diễn cho từng loại giọng: Soprano (nữ cao), Tenor (nam cao), Mezzo (nữ trung),
Baritone (nam trung), Alto (nữ trầm), Bass (nam trầm).
Với những đặc điểm trên, nói nghệ thuật hát Mới và nghệ thuật hát cổ
truyền đối lập nhau nhƣ âm với dƣơng là vì vậy. Ngƣời hát nếu không nắm vững
những đặc trƣng cơ bản của ngôn ngữ “đóng” hay ngôn ngữ “mở”, khi hát những
tác phẩm nƣớc ngoài: Italia, Pháp, Đức… (ngôn ngữ đa âm) nghe thành hát tiếng
Việt (ngôn ngữ đơn âm, đa thanh) khiến câu hát bị rời rạc, và không hiểu nghĩa
của từ, nội dung của tác phẩm. Hát tác phẩm tiếng Việt theo lối “mở chữ” sẽ
“tròn vành” nhƣng không “rõ chữ” hoặc đóng, khép chữ quá nhanh làm cho âm
thanh bị cộc, chết chữ, ít vang không hiệu quả về nghệ thuật. Ví dụ:
- Những tác phẩm nƣớc ngoài (ngôn ngữ đa âm):
+ Ba_lza (Balza) hát thành Bán zà (không mở nguyên âm a, khép ngay
phụ âm l, khép từng âm tiết theo lối phát âm tiếng Việt). Hoặc:
+ È du_nbe_lco_re (È dun bel core) hát thành È đun ben cô rê...
90
- Những tác phẩm tiếng Việt (ngôn ngữ đơn âm, đa thanh):
+ Viê…t Na…m muô… na…m (Việt Nam muôn năm) Hoặc:
+ Ta..ơ đơ..ấng đờ..ù ngò.. so..ó (Ta đứng đầu ngọn sóng)... hát không
khép, đóng chữ theo đúng tiến trình cấu âm tiếng Việt (khởi, mở, khép chữ) mà
mở chữ nhƣ ngôn ngữ đa âm, dẫn đến tròn vành nhƣng không rõ chữ, rõ nghĩa
của từ.
Tuy nhiên những kinh nghiệm, kỹ thuật nhả chữ của dân ca và ca hát cổ
truyền đã có nhiều ảnh hƣởng đến việc hình thành, phát triển, cũng nhƣ thích
nghi, xử lý tiếng Việt của kỹ thuật hát Mới… Ngƣợc lại, kỹ thuật mở thanh, tròn
miệng của hát Bel canto cũng ảnh hƣởng tới nhiều lĩnh vực ca hát dân gian
truyền thống. Sự ảnh hƣởng qua lại của nghệ thuật hát truyền thống và nghệ
thuật hát Mới mang nhiều yếu tố tích cực.
Nghệ thuật hát Mới có những đặc điểm:
*Tròn vành, rõ chữ:
- Mở chữ, tròn môi, lộ miệng
- Chú ý đến trọng âm
- Nối âm này sang âm kia
* Phân loại giọng:
- Hát giọng pha, giọng cộng minh
- Mở rộng tầm cữ giọng
- Phân loại giọng: Soprano, Mezzo, Alto, Tenor, Baritone, Bass
* Vang, rền, nền, nảy:
- Khuyếch đại nguyên âm, tạo độ vang lớn
- Không dùng từ đệm lót, không tự ý thêm nốt luyến lên, luyến xuống
- Dùng hơi thở, cộng minh làm liền câu hát (legato), nảy (stacato)
*Hơi:
- Hơi thở ngực
91
- Hơi thở ngực kết hợp với bụng
- Hơi thở ngực dƣới và bụng
- Hơi thở bụng
92
Bảng so sánh
Nghệ thuật cổ truyền và nghệ thuật hát Mới
Kỹ
thuật
Nghệ thuật ca hát cổ truyền
Nghệ thuật hát Mới
Phát
âm,
nhả
chữ
- Đóng chữ kín miệng
- Khẩu hình hẹp
- Tròn vành, rõ chữ
- Khởi - mở - kết chữ gần với qui
luật của phát âm lời nói
- Không nối âm, hát tiếng một
- Lối hát kín miệng (hát khép)
- Mở chữ (cả phụ âm, nguyên
âm)
- Mở rộng khẩu hình
- Tròn vành, khó rõ chữ
- Khuyếch đại âm thanh
- Hát nối âm, chú ý đến trọng âm
- Lối hát lộ miệng (hát mở)
Phân
loại
giọng
- Hát giọng thật
- Không mở rộng tầm cữ giọng
- Phân loại giọng theo chất giọng:
+ Giọng Kim( nữ): vang sáng
+ Giọng Thổ( nam): trầm ấm…
- Hát giọng pha, giọng cộng
minh
- Mở rộng tầm cữ giọng
- Phân loại giọng:
+ Soprano, Mezzo, Alto (nữ).
+ Tenore, Baritone, Bass(nam)
Kỹ
thuật
(vang,
rền,
nền
nảy)
- Không lạm dụng mở vang ở
nguyên âm của từ
- Tạo vang ở sau chữ bằng các
nguyên âm, từ đệm lót (i, hi,a, ƣ,
hƣ, này a…)
- Sử dụng các kỹ thuật phụ trợ:
luyến, láy, nảy hạt ), dứt (ngắt,
ngứt)
- Hát thẳng, rung giọng sau khi
khép chữ (mỗi nghệ thuật có lối
rung khác nhau)
- Không theo khuôn mẫu
- Khuyếch đại nguyên âm, tạo độ
vang lớn
- Không dùng từ đệm lót, không
tự ý thêm nốt luyến, láy
- Dùng cộng minh, hơi thở làm
liền câu hát(legato), nảy(stacto)
- Âm thanh vang, rung cộng
minh trong khi nhả chữ
- Hát theo khuôn mẫu
Hơi
thở
- Sử dụng hơi bụng và hơi ngực
- Vận cơ hoành để có hơi thở sâu
- Không chứa nhiều hơi, nén giữ
hơi phù hợp với câu hát
- Lấy hơi nhẹ, không đƣợc thô
- Hơi thở ngực
- Hơi thở ngực - bụng
- Hơi thở ngực dƣới - bụng
- Hơi thở bụng
93
TIỂU KẾT CHƢƠNG I
Ca hát sinh ra từ ngôn ngữ, là nghệ thuật gắn liền với ngôn ngữ. Ngôn ngữ
sinh ra từ nhu cầu giao tiếp và chuyển tải ý nghĩ, tình cảm từ cá nhân này sang cá
nhân khác, ngôn ngữ đã trở thành công cụ phản ánh thế giới khách quan, trở
thành phƣơng tiện giao tiếp và bộc lộ tình cảm của con ngƣời với con ngƣời. Ca
hát đƣợc cho là ngôn ngữ giao tiếp ở mức độ cao nhất.
- Đặc điểm, đặc trƣng cơ bản của tiếng Việt trong nói và hát :
+ Nhiều âm đóng, ít âm mở không thuận lợi cho hát
+ Hệ thống thanh điệu phong phú “ảnh hƣởng lớn đến cấu trúc, phân câu,
trọng âm và âm kết của câu nhạc và câu hát”.
- Mỗi ngôn ngữ có nghệ thuật ca hát riêng, màu sắc riêng. Muốn hát tốt
ngôn ngữ nào phải hiểu đặc điểm của ngôn ngữ đó. Vì vậy phải hiểu rõ tiếng
Việt mới khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm của ngôn ngữ tiếng Việt. Xử lý
ngôn ngữ tiếng Việt trong ca hát đóng vai trò quan trọng, quyết định đến việc
làm rõ lời, rõ nghĩa của từ, giúp cho ngƣời hát nhả chữ, nhả lời “tròn vành, rõ
chữ” làm đẹp ngôn ngữ tiếng Việt bằng chính giọng hát của mình, làm cho tiếng
hát Việt Nam có một vẻ đẹp riêng biệt.
- Hát Mới - hát Mở gắn liền với tiếng Việt phổ thông chú trọng đến mở
rộng đỉnh chữ (đỉnh âm) để tạo độ vang lớn theo chuẩn mực của nghệ thuật hát
cổ điển châu Âu và thế giới. Ngƣời hát trình bày những tác phẩm thanh nhạc
tiếng Việt nếu quá lạm dụng kỹ thuật lối hát Mở sẽ dẫn đến không rõ chữ, rõ lời
có nghĩa là phần nào đánh mất bản sắc của tiếng Việt, làm giảm chất lƣợng nghệ
thuật của tác phẩm thanh nhạc.
- Ca hát truyền thống Việt nam rất phong phú về số lƣợng, đa dạng về
ngôn ngữ và phong cách thể hiện độc đáo. Mỗi bộ môn nghệ thuật lại có phong
94
cách, màu sắc, những ứng xử về ngôn ngữ rất riêng, mang tính tƣ duy và thẩm
mỹ độc lập. Tìm hiểu cách xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong dân gian và một số
nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp thuần Việt có ảnh hƣởng trực tiếp đến hát Mới
nhƣ: Ngâm thơ, Hát ru, Quan họ, Ca trù, hát Chèo, hát Tuồng, ứng dụng vào
giảng dạy, biểu diễn các tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt nhằm khắc phục những
khó khăn của ngôn ngữ bằng kỹ thuật luyến, láy, rung, nhấn... đạt đƣợc mục tiêu
vừa vang rền, vừa “tròn vành, rõ chữ”.
- Gần 60 năm hát Mới lấy nghệ thuật hát Bel canto - nghệ thuật hát của
ngôn ngữ đa âm - nghệ thuật hát Mở làm cơ sở đào tạo và biểu diễn đã đạt đƣợc
những thành tựu đáng khích lệ, song vẫn còn những vấn đề còn phải bàn luận về
xử lý ngôn ngữ tiếng Việt, kết hợp với kỹ thuật hát của ngôn ngữ đối nghịch với
ngôn ngữ nƣớc mình sao cho thích hợp, khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm của
ngôn ngữ và đạt đƣợc hiệu quả cao nhất về nghệ thuật biểu diễn ca hát những tác
phẩm thanh nhạc tiếng Việt.
Ứng dụng kỹ thuật thanh nhạc cổ điển châu Âu và thế giới vào giảng dạy
và biểu diễn những tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt, để tạo ra thanh nhạc Việt
Nam đƣơng đại là hƣớng đi đúng đắn. Song tiến trình thích nghi luôn đặt cho các
thế hệ nghệ sĩ, giáo viên giảng dạy thanh nhạc những thách thức mới, nhƣ nhà sƣ
phạm PGS-NSND Trung Kiên đã nêu: “...Trong việc tiếp thu kinh nghiệm nƣớc
ngoài, chúng ta cần nghiên cứu kỹ càng để áp dụng vào cách hát của ta sao cho
phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ, tập quán, tâm lý, tình cảm của dân tộc... nhƣ
vậy, phƣơng pháp hát của ta mới thực sự khoa học. Tiếng hát hay, đƣợc quần
chúng yêu thích, thừa nhận, phải là tiếng hát mang tâm hồn ngƣời Việt Nam,
phản ánh đƣợc thực tế xã hội, tâm lý, tính cách của ngƣời Việt Nam trong thời
đại mới. Tuyệt nhiên không chỉ là tiếng hát có kỹ thuật đơn thuần, hoặc có cách
xử lý ngôn ngữ xa lạ nào khác...”.
95
Chƣơng II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, ỨNG DỤNG VÀ BÀI TẬP GÓP PHẦN
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO HÁT TIẾNG VIỆT
TRONG NGHỆ THUẬT HÁT MỚI
Chƣơng hai Luận án đƣa ra Một số giải pháp, ứng dụng và bài tập cụ thể
nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát
Mới. Nội dung của chƣơng II bao gồm:
* Một số giải pháp, ứng dụng nhằm nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt.
* Một số bài tập nhằm nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt.
* Luyện tập một số làn điệu trong ca hát truyền thống để ứng dụng vào
hát Mới.
2.1 Một số giải pháp, ứng dụng nhằm nâng cao chất lƣợng hát tiếng
Việt
2.1.1 Vai trò của cấu trúc âm thanh lời nói (ngôn ngữ) - ca từ trong ca
hát
Ngôn ngữ hay nói cách khác yếu tố ngôn ngữ trong thanh nhạc (phát âm,
ngữ điệu...) đƣợc quan tâm đặc biệt trong phƣơng pháp giảng dạy của các nhạc
viện nƣớc ngoài cũng nhƣ các sách nghiên cứu về phƣơng pháp giảng dạy bộ
môn nghệ thuật này ở trong nƣớc. Trong cuốn Vaccaj (Phƣơng pháp thanh nhạc
thực hành) viết: “...Nếu ai đã từng đọc cuốn sách nổi tiếng “Những qui định
trong ca hát” của tác giả Garcia (tập 2, Ricordi xuất bản) thì có thể thấy rõ sự
quan tâm đặc biệt tới các yếu tố ngôn ngữ của thanh nhạc.” Và “...Tác giả bắt
đầu với vấn đề liên quan đến các nốt luyến ở các quãng nhỏ, sau đó dần dần tới
cách xử lý đúng với việc phát âm các nguyên âm, trƣớc khi chuyển sang các vấn
96
đề khác nhƣ ngữ điệu...”[55, tr.5]. Trong bài hƣớng dẫn tập hát Các quãng 3 của
Nicola Vaccaj cho rằng: “...học viên... chỉ nên tập trung tới việc phát âm rõ ràng
các âm tiết tƣơng ứng với các nốt” [55, tr.11]
Trong cuốn Commonsense of singing (Cảm nhận chung về ca hát): “T
( -
và “...Ca sĩ phải nắm vững và nhập hồn vào
từng từ để có thể chuyển tải tốt những thông điệp hàm chứa trong đó tới ngƣời
nghe...” [53, tr.16, 33]
Ngƣời hát cần phải chú ý hơn tới ca từ trong những bài hát tiếng Việt, vì
tiếng Việt thuộc ngôn ngữ đa thanh, đơn âm tiết và hầu hết các âm tiết đều có
nghĩa của một từ hoàn chỉnh (chƣơng I). Nhƣ vậy tập nói, tập đọc là một phƣơng
pháp cần thiết trƣớc khi tập hát để có thể cảm nhận đƣợc độ đóng, mở phù hợp
cho từng từ, từng chữ cảm nhận rõ màu âm của từng nguyên âm góp phần giúp
hát đạt đƣợc yêu cầu về kỹ thuật âm thanh, về màu sắc vùng miền, “cất thanh” rõ
chữ, rõ lời…
Nghệ thuật hát mở, mục tiêu tìm sự đồng dạng của âm thanh ngôn ngữ con
ngƣời “...m (Ré Koster)
(Louis Bachner) và vì “cách luyện tập này cũng liên quan
chặt chẽ đến lối phát âm của từng ngôn ngữ” (Larousse) nên hầu hết các nghệ sĩ,
các chuyên gia giảng dạy thanh nhạc quốc tế đều cho rằng học hát, luyện thanh
trên một ngôn ngữ (tốt nhất là tiếng Ý), để cảm nhận ngữ nghĩa, màu âm của
từng từ mà đặt vị trí vang thích hợp cho các từ, sau đó ứng dụng vào ngôn ngữ
khác, hát một ngôn ngữ khác. Trong Dictionnaire de la musique (Từ điển âm
nhạc : “…luyện trên những nốt ngân dài, nhịp độ chậm, không có sự
97
tham gia của phụ âm và…Tập luyện để các nguyên âm bộc lộ rõ màu sắc của nó
ở những nốt thấp nhất và những nốt cao nhất, cách luyện tập này liên quan chặt
chẽ đến lối phát âm của từng ngôn ngữ. Trong lịch sử ca hát ngƣời ta gọi đây là
lối hát Mở, lối hát mà các nguyên âm đƣợc nhào nặn và trở nên đồng dạng.”[56,
tr.349]
Hát bằng ngôn ngữ tiếng Việt làm cho âm thanh vang rền bằng kỹ thuật
của hát Mới không gặp nhiều khó khăn, nhƣng hát “tròn vành rõ chữ” thì gặp
nhiều khó khăn (nhiều âm đóng, đa thanh, đơn âm…). Vì vậy
điểm, đặc trƣng, sự chuyển động
(chƣơng I) nhằm góp thêm một số biện pháp có tính khả thi
, trong giảng dạy và biểu diễn những tác phẩm thanh
nhạc tiếng Việt vang rền nhƣng vẫn “ ”.
a) Vị trí âm thanh và màu âm của nguyên âm tiếng Việt trong ca hát:
Năm yếu tố tạo thành âm tiết: âm đầu, âm đệm (bán nguyên âm), nguyên
âm, âm cuối và thanh điệu, trong đó nguyên âm giữ vai trò vang của từ, đƣợc hát
Mới lấy làm âm chính để khuếch đại âm thanh.
Nguyên âm: có 3 dạng cấu trúc:
- Nguyên âm đơn: a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ƣ, i/y.
- Nguyên âm đôi (còn gọi là nhị hợp âm): iê, ƣơ, uô…
- Nguyên âm 3 (còn gọi là tam hợp âm): iêu, oai, oay, uây, uya, uyê…
Nguyên âm đôi và nguyên âm 3 đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc vần
- phần sau của âm tiết, song độ vang chính của từ là đỉnh từ - nguyên âm đơn.Ví
dụ: chữ Chiều: 3 nguyên âm hợp thành vần (iêu). Hai nguyên âm i và u ở vị trí
bán nguyên âm. Bán nguyên âm i có tính chất âm lƣớt, bán nguyên âm u làm
nhiệm vụ khép từ. Nguyên âm ê giữ vai trò âm thanh, vì vậy khi hát bán nguyên
âm i chuyển nhanh sang nguyên âm ê đƣợc mở rộng rồi thu về nguyên âm u.
98
Nhƣ vậy nguyên âm đôi hoặc nguyên âm 3 thực chất âm tiết (từ) của tiếng Việt
chỉ có một nguyên âm đỉnh chữ (tạo vang).
Tƣơng tự trong nhiều bài dân ca, khi gặp từ chuyền, hay thuyền ngƣời hát
có thể mở rộng đỉnh chữ (nguyên âm ê) nhƣng không đƣợc lạm dụng mà phải kết
thúc từ sớm bảo đảm tròn vành rõ chữ vì chuyền, thuyền là từ khép chứ không
phải từ mở.
Nguyên âm â đứng ,
. H của nguyên âm nhằm o
vang, khuếch đại âm thanh tự nhiên, ,
(khoang họng và khoang miệng) , xoang trên
mặt (xoang mũi, xoang vòm mặt, xoang trán v.v...) chiếm vị trí
kỹ thuật thanh nhạc gọi là . Làm cho âm thanh đƣợc cộng hƣởng, khẩu
hình mở rộng, âm vang đầy đặn, giàu âm sắc. Khi hát đƣa âm thanh lên trên cao,
hƣớng ra phía trƣớc để tạo đƣợc vị trí âm thanh trƣớc mặt (âm thanh mặt nạ).
Khi nói, hoặc hát vị trí âm thanh cao, ra phía trƣớc, họng sẽ đỡ mệt và tiếng nói,
hát rõ ràng mà không tốn sức.
Từ sự khác biệt của bộ máy phát âm, phƣơng pháp đào tạo thanh nhạc
cũng thay đổi theo cho phù hợp với từng học sinh nhằm tìm ra một mục đích
chung, đạt đến độ hoàn thiện của giọng hát ở mọi tầm cữ, màu sắc đáp ứng tốt
nhất cho khả năng và biểu hiện mà tác phẩm yêu cầu, đòi hỏi.
Độ mở của nguyên âm
Vị trí và độ mở của các nguyên âm quyết định độ vang của ngôn từ và
giọng hát. Từ tính chất, vị trí cấu âm và màu sắc của chúng có thể chia các
nguyên âm thành:
- Các nguyên âm hàng trƣớc: E-Ê-I/Y
- Các nguyên âm hàng giữa: A-Ơ-Ƣ
- Các nguyên âm hàng sau: O-Ô-U
99
* Các nguyên âm hàng trƣớc :
+ E: Khẩu hình bẹt ra 2 mép, răng trên hơi lộ ra, lƣỡi hơi đƣa ra phía
trƣớc, khoang miệng hẹp, bẹt.
+ Ê: Khẩu hình gọn hơn E, lƣỡi gà nâng cao hơn E, khoang miệng tròn,
thoáng hơn.
+ I/Y: Khẩu hình hẹp nhất, 2 mép hơi nhành ra nhƣ khi cƣời, răng lộ ra
đôi chút, đầu lƣỡi chạm chân răng dƣới, hai hàm răng gần nhau mà không chạm
nhau. Có vị trí âm thanh cao, âm thanh mỏng, nhọn, bẹt, hơi chua, là nguyên âm
khép.
* Các nguyên âm hàng giữa :
+ A: Đƣợc coi nhƣ nguyên âm chính, khẩu hình mở rộng vừa chiều cao
vừa chiều ngang, cằm hạ xuống, mép hơi bành ra, tạo thành hình dáng bên ngoài
hơi tròn hơn là bẹt. Răng dƣới đƣợc môi che khuất, còn răng cửa phía trên có thể
lộ ra ít nhiều tuỳ ngƣời. Mặt lƣỡi bằng, đầu lƣỡi tiếp giáp nhẹ với răng dƣới, là
nguyên âm mở, màu sáng.
Ă và Â: là nguyên âm ngắn của A, phát âm có âm luyến ở đằng trƣớc,
luôn ở vị trí cao, màu âm không giống nhau. Nguyên âm Ă, trong nói và hát khi
phát âm đều có âm luyến nhấc lên trên. Nguyên âm  gần gũi với nguyên âm Ơ
có dấu sắc. Nếu đặt hai nguyên âm  và Ơ trên cùng cao độ, Ơ sẽ đồng dạng với
Â:
+ Ơ: Là nguyên âm cùng hàng với A, khẩu hình thu gọn hơn, mặt lƣỡi thả
lỏng, hàm trên, lƣỡi gà nâng lên một chút, khoang miệng thoáng, rộng, màu đục,
sâu hơn A.
100
+ Ƣ: Cũng là nguyên âm cùng hàng với A, khẩu hình gọn, hẹp hơn Ơ, lƣỡi
gà hạ thấp, răng không đụng nhau, khoang miệng hẹp hơn A và Ơ. Ƣ và Ơ có vị
trí gần giống nhau, nhƣng Ƣ rít và tối hơn.
* Các nguyên âm hàng sau :
+ O: Khẩu hình tròn, gọn hơn A, môi hơi nhô ra trƣớc. Lƣỡi rụt vào phía
sau, cuống lƣỡi bật âm.
+ Ô: Môi nhô ra và chúm lại làm cho khẩu hình phía ngoài thu nhỏ hơn O.
Khẩu hình mở, thu môi, phía trong mở dọc hạ lƣỡi và nâng hàm ếch mềm.
+ U: Môi chúm lại, nhô ra nhƣ khi ta muốn huýt sáo : Khẩu hình thu nhỏ
nhất so với O, Ô. Màu tối đục
, nguyên âm 3 (oai, iêu, uyê,
,
.
Vị trí âm thanh, và màu âm của nguyên âm trong ca hát truyền
thống
gi ,
ại độ vang, r
. ƣơng I ơ (o )
trong .
) nên ơ
ơ
ơ - .
Ca hát truyền thống i , nguyên âm a
, nguyên âm ƣ đặc trƣng, của
từng loại hình. N ,
, àu
sắc”
101
. XaKhơi
,
NS Tân Nhân đã hát rất thành công):
- (i (i)...
Hay Em ở nơi đâu
, NSƢT Kiều Hƣng đã hát thành công)
- Anh đi t m em ( ) ...
Nguyên âm i
, bài Xa Khơi, u tạ
, của hơi trong,
,
, và n cộng
(vibrato i
.
, nhƣ nguyên âm u : Mẹ yêu con -
(NSND Thanh Huyền hát rất thành
công):
- u , ơ hời ru...
Và bài n - Văn Thành Nho h :
- u u …
Nguyên âm u tròn môi khi phát âm, hơi đẩy ra phía trƣớc, nửa phần lƣỡi
trong nhô cao, môi tròn lại. Nguyên âm u khi đƣợc đặt nằm trong câu Hát Ru
đồng bằng Bắc Bộ đƣợc làm nhẹ đi bằng cách môi hơi bẹt ra, cƣờng độ hơi
không lớn và không đột ngột: Con ơi! con ngủ cho ngoan... Và cũng tƣơng tự
nhƣ vậy khi hát câu À ru hời, ơ hời ru... trong ca khúc Mẹ yêu con của nhạc sĩ
Nguyễn Văn Tý. Nhƣng ngƣợc lại nguyên âm u mang âm hƣởng Ca Trù trong ca
102
khúc Đất nƣớc lời ru của nhạc sĩ Văn Thành Nho lại thu vào phía trong vì Ca
Trù không hát hơi ngoài (mục Ca Trù - chƣơng I)
Sự phong phú trong thanh nhạc truyền thống theo nhạc sĩ Nguyễn Xuân
Khoát:“ Đấy là tính chất cơ bản đã bắt nguồn từ ngôn ngữ tiếng Việt. Âm thanh
của chúng ta nhiều nguyên âm (đơn) và nguyên âm kép… Chúng ta đều biết sắc
thái phụ thuộc vào chỗ vang của âm thanh, mà mỗi thanh lại vang ở ngực, hàm,
mũi, hay trán, tuỳ theo sự cao thấp của thanh (thanh điệu) cũng nhƣ của nguyên
âm phát ra là Ô, O, A, U, Ƣ, Ê, Ê hay I” [23, tr.234; tr.235]
b) Âm đầu:
K tức
quan tâm trong ,
. , ỹ R.Miller
cho rằng có ba cách khởi thanh đều liên quan đến phụ âm đầu:
- Khởi thanh mạnh (the hard attack)
- Khởi thanh nhẹ (the soft onset)
- Khởi thanh cân bằng (the Balanced onset - Dynamic Muscular
Equilibrium).
T ba : .
. .
Nếu “ ” một từ,
(vd: U + Â + N = UÂN, X + UÂN = XUÂN)
 , đứng ở .
Trƣờng hợp không có âm đầu, nguyên âm
, tiếng bật đó tƣơng ứng
với một phụ âm . N
ong k c
ẩn: /?/anh, /?/eo, /?/ơi, /?/ấm, /?/êm, /?/yêu, /?/ấy...
103
Ngôn ngữ tiếng Việt, phụ âm đầu chiếm phần lớn trong câu nói (ví dụ: Tôi
đi ăn cơm; chúng ta đi thôi…). Cách phát âm các phụ âm trong ca hát giống nhƣ
trong tiếng nói hằng ngày, phát âm chính xác nhƣ: môi bật môi, răng đụng môi,
lƣỡi đánh lên răng, chân răng, hàm ếch... làm âm đầu nối kết với vần sẽ rõ ràng.
“Bật môi, đánh lƣỡi” một cách linh hoạt và nhẹ nhàng, đó là bí quyết của các
phụ âm. Cần tránh phát âm bật mạnh, gằn… nói chung không tự nhiên.
Phụ âm đầu giữ vị trí khởi thanh. Trải qua năm tháng, cùng với quá trình
phát triển không ngừng của ngôn ngữ, phụ âm đầu góp phần cho sự xuất hiện
của thanh điệu nét độc đáo của tiếng Việt cũng nhƣ góp phần tạo dấu ấn cho ngữ
điệu vùng miền. Chính cách sử dụng thanh điệu và phụ âm đầu tạo thành phƣơng
ngữ làm đậm thêm màu sắc dân ca địa phƣơng. Ví dụ câu hát: “Anh đón em về
thoả chờ mong…” chữ về nếu nhả chữ theo giọng Hà Nội - tiếng phổ thông, phụ
âm đầu là v, nhả chữ theo giọng Nam Bộ phụ âm v sẽ thành d “Anh đón em dề…
Cũng tƣơng tự nhƣ vậy với phụ âm kh (không) thành h (hổng, hôn)… Trƣờng
hợp lẫn lộn các phụ âm l, N phải coi là khuyết tật - ngọng trong phát âm và cần
phải sửa triệt để.
Việt - :
- S = X (Sông = Xông, Sao = Xao…)
- TR = CH (Tr s = Ch x , Trong tr = Chong ch )
- GI, R = D (Gi r sâu = D d xâu…)
Chính vì những đặc điểm trên ngƣời dạy hát và ngƣời hát phải chú ý đến
phát âm những phụ âm đầu trong ca từ để tránh những sai sót về lỗi “chính tả”
khi hát, phù hợp với thẩm mỹ, thói quen tai nghe của khán giả.
c) Vần:
Ngay sau phụ âm đầu (khởi thanh), phần còn lại của âm tiết đƣợc gọi là
vần. Vần gồm có vần mở và vần đóng (cấu trúc này có ảnh hƣởng đến âm thanh
giọng hát). Vần bao gồm các thành phần: âm đệm, âm giữa (đỉnh âm) và âm cuối
104
(kết âm). Âm đệm là nguyên âm hay bán nguyên âm. Âm giữa (đỉnh âm) bao giờ
cũng là nguyên âm, nguyên âm quyết định âm vang của từ. Âm cuối (kết âm) là
âm khẳng định từ.
- Vần đầy đủ các thành phần: uyên, uôi, ƣơc, uyêt, oai…
- Vần có âm chính đồng thời là âm kết (vần mở): to, nga, cô, ô tô, có… -
Vần có bán nguyên âm và âm giữa (vần mở): mƣa, giữa, bao, hoá…
- Vần có âm chính và âm cuối (âm cuối là phụ âm - vần đóng): inh, at, êm,
ƣng, úc, ong, ợp, ót…
+ Uyên (Uyê + n): U,Y là bán nguyên âm. Ê là nguyên âm chính với
trƣờng độ vang bị thu hẹp vì phải đóng phụ âm n sớm để rõ chữ.
+ Iêu: I và u 2 bán nguyên âm. Ê mặc dù là nguyên âm giữ vai trò đỉnh
âm tiết nhƣng vì bị đóng bằng nguyên âm tròn môi, ngắn, hẹp nên trƣờng độ
vang ngắn thu về âm u.
+ Oai: chùm nguyên âm phức Oai đứng độc lập thành từ Oai hoặc có phụ
âm đứng trƣớc (ngoài, thoai thoải, xứ Đoài...) có tiến trình mở âm tƣơng tự với
chùm nguyên âm Iêu. O, i hai bán nguyên âm. Nguyên âm i giữ vị trí kết từ
khiến nguyên âm a có đƣợc trƣờng độ vang nhƣng khi đóng chữ có cảm giác âm
i vẫn còn tiếp tục.
+ Uay và Oay: Phụ âm Q hầu nhƣ không đứng độc lập mà bao giờ cũng
phải cộng thêm một bán nguyên âm U (Quả quyết, quên, quê, quý…). Cả hai
trƣờng hợp vần Uay và Oay, mặc dầu là nguyên âm có độ mở lớn nhất a, song
đều phải đóng sớm vì bị khoá từ bởi bán nguyên âm y. Nếu đóng muộn từ sẽ
biến dạng trở thành từ khác mang nghĩa khác.
+ Uôi, Iai: Bán nguyên âm i nằm ở vị trí đóng - kết từ khiến nguyên âm ô
và a có thể mở rộng hơn tuy nhiên các vần có đóng bằng i cần phải khép từ sớm
để bảo đảm tròn vành rõ chữ.
105
+ Iao: Bán nguyên âm o làm vai trò đóng vần nhƣng vị trí của o nằm
ngoài cửa miệng, miệng tròn lại nên âm sắc của từ trở nên sáng hơn, đóng bằng
bán nguyên âm u có vị trí sâu trong miệng.
+ Ƣa (trƣa), ia (chia), ua (cua): A đứng ở vị trí khép từ, không đem lại
hiệu quả mở của âm a mà có cảm giác biến thành ơ.
Các vần kết bằng i và y có đặc điểm: sau khi từ đóng, khép lại, hơi bị đẩy
lên mũi và còn vang tiếp ở âm đóng. Âm kết y đòi hỏi đóng sớm hơn so với kết ở
âm i. Xét về độ mở của từ, những từ có vần kép kết bằng bán nguyên âm i và y
(ơi, oai, ây, ay) đều bị xếp vào hệ thống từ đóng.
Các vần kép ia (chia tay, Kơ nia), ua (mùa xuân, hoa mua…trƣờng hợp từ
qua, u đứng sau q chỉ để tạo phụ âm ghép). Và ƣa (mƣa đi mƣa đi, mƣa nắng
giãi dầu…) mặc dù kết mở ở âm a, khi khép chữ biến âm sang ơ.
Khi nói ai ( …) thì a là nguyên âm
và i là bán nguyên âm. Nhƣ vậy khi đọc lên chúng ta sẽ nghe [a] đƣợc
kéo dài và kết thúc bằng [i] rất nhanh = [a::i]. Ngƣợc lại nếu nói oa thì o là bán
nguyên âm trong khi a trở thành nguyên âm . Khi đó [o] sẽ bị thu ngắn lại
để nhƣờng chỗ ngân dài cho [a] = [wa::] oa …).
: i-ê-u 3 nguyên âm. Nhƣng ê
(Ch
)
Khi nói, đặc biệt khi hát phải phân biệt rõ đâu là nguyên âm, đâu là bán
nguyên âm (âm lƣớt) để không mở nhầm ở các bán nguyên âm, nếu mở nhầm hát
sẽ không tròn vành, rõ chữ (ngoài = ngo..ài; xuôi = xuô..i…)
Vần Mở:
Là những vần có âm giữa (đỉnh chữ) bao giờ cũng là nguyên âm giữ vai
trò vừa là âm giữa vừa là âm kết. Vần mở là những vần thuận lợi cho mở rộng
âm thanh vì âm giữa - âm kết là nguyên âm (nguyên âm là âm vang của từ),
106
- Vần mở đơn: có vần kết bằng nguyên âm đơn: A, I, Ô, Ê.
- Vần mở phức (kép): Vần có nguyên âm 2 hoặc 3: OA, UA, UYA…
Với vần mở phức
).
Vần mở đơn hoặc vần mở kép đều đem lại hiệu quả vang thuận lợi cho phát âm
nhả chữ đạt độ vang rền cho giọng hát vì nguyên âm, phần âm thanh của ngôn
ngữ không bị cản bởi các phụ âm hay các bán nguyên âm do vậy quá trình từ mở
thanh (phụ âm) đến đỉnh chữ (nguyên âm) đƣợc thoải mái mở rộng mà vẫn rõ
lời. Các từ có vần kết bằng nguyên âm (đơn hoặc phức, trừ nguyên âm i/y và
u/o) gọi là kết mở. Trong tiếng Việt số từ có vần mở chỉ chiếm một phần nhỏ,
đây chính là điểm bất lợi cho hát Mới khi thể hiện những tác phẩm tiếng Việt.
Vần đóng:
Những từ có âm cuối là phụ âm và bán nguyên âm i/y và u/o gọi là kết
đóng - vần đóng. Khi hát thì các từ có vần đóng đều không thuận lợi cho âm
thanh, cho việc mở âm - cộng minh và buộc phải đóng từ để khẳng định từng từ
(đặc trƣng của tiếng Việt - mỗi âm tiết độc lập và có ý nghĩa riêng). Đa thanh,
đơn âm tiết, số âm tiết đóng chiếm đại đa số.
* Vần đóng bằng bán nguyên âm:
- Vần đóng bằng bán nguyên âm i/y: đóng bằng cách thu đuôi (Tai(i),
xôi(i), khoai(i), hoay(i)…)
- Vần đóng bằng bán nguyên âm u/o: đóng bằng cách thu đuôi (Đau (u),
ngao(u), câu(u)…)
* Vần đóng bằng phụ âm cuối M - P, N - T, NH - CH, NG - C :
Vần đóng bằng các phụ âm làm trƣờng độ vang của nguyên âm đỉnh chữ
bị hạn chế do làn hơi khi phát ra đến cuối chữ thì bị cản lại, bị đóng lại ở môi
hoặc lƣỡi. Đặc điểm này khiến khi hát muốn mở rộng âm thanh - cộng minh phải
tạo vang bằng các hộp vang ở xoang mũi. Tuy nhiên độ đóng nhanh, chậm
107
không giống nhau tuỳ thuộc vào mức độ đóng (khép) của phụ âm cuối và dấu
thanh làm trầm hoặc bổng âm tiết - từ:
- M - P: khép 2 môi để đóng từ nhƣ (âm, ợp, iêm, ep, âp…)
- N - T: các phụ âm có vị trí đầu lƣỡi (an, ôn, ôt, ân, ât…)
- NH - CH: các phụ âm đóng bằng mặt lƣỡi (oanh, ich, inh, ach, uych…)
- NG - C: các phụ âm cuối đóng bằng cuống lƣỡi (ông, ƣơng, oc, ƣng, ƣc…)
Với những đặc trƣng của tiếng Việt cho thấy sự hạn chế âm vang và làm
rõ chữ chính là ở vần đóng và thanh điệu. Trƣờng độ của chữ diễn ra nhanh
chậm tuỳ thuộc vào âm cuối - âm kết (bán nguyên âm hoặc phụ âm). Giải quyết
đƣợc các vần đóng có nghĩa là giải quyết đƣợc một phần mấu chốt quan trọng
của tròn vành rõ chữ vì từ đóng chiếm 70 - 80 % trong từ vựng tiếng Việt. Với
vần đóng, đều có thể thu đuôi hoặc đóng sớm khi không cần phải ngân vang. Ví
dụ:
*) Đâu:
- Đơ...u (trƣờng độ nguyên âm kéo dài, chữ đóng chậm, ngân vang)
- Đâu.u (trƣờng độ nguyên âm ngắn, chữ đóng nhanh, không vang)
*) Nao:
- Na..ao..u (khép chữ chậm, ngân vang)
- Nao.u (khép chữ nhanh, không vang)
*) Vắng:
- Va…ắng (khép chữ chậm, ngân vang)
-Vắng (khép sớm - nhanh, âm cuối đƣa lên ngạc cứng và xoang mũi,
không vang)
*) Tắt:
- Ta..ắt (khép chữ chậm, ngân vang)
- Tắt (khép sớm - nhanh, âm cuối lƣỡi chặn ở chân răng chặn đứng âm
thanh làm “cộc”, “chết chữ” - “tử vận”, không vang)
108
*) Hai từ tay và tai khi nói và viết có thể nhận biết dễ dàng (vần ay ngắn, đóng
sớm hơn vần ai). Khi hát, các vần đƣợc ngân nga, kéo dài làm chậm lại, trong
trƣờng hợp này nguyên âm a nếu xử lý không khéo, đóng sớm quá hoặc kéo dài
quá sẽ phát âm tay thành tai hay ngƣợc lại. Vì vậy khi hát, ngƣời hát phải lƣu ý
hai vần ai/ay và nhất là ngƣời hát có phƣơng ngữ phía Nam.
d) Thanh điệu:
Sáu thanh định độ cao cho từng từ, nó không chỉ mang lại tính giai điệu
cao cho tiếng Việt mà còn đổi nghĩa, đổi nội dung thông tin của từ. Các nhà âm
thanh học đã chứng minh độ cao thấp của sáu thanh bằng máy đo âm thanh,
trong âm nhạc chúng ta có thể xếp thành các giai điệu khác nhau:
Nếu dùng một nguyên âm bất kỳ chẳng hạn nguyên âm i rồi cho sáu thanh
theo một trật tự ngẫu nhiên nào đó, ta cũng có một hình tuyến mang tính giai
điệu: i ì í ỉ ị ĩ, hay ĩ ì í ỉ ị i...Có thể ghi thành:
I với thanh nặng và i với thanh ngã khi phát âm đòi hỏi ngƣời nói hay hát
bật mạnh hơi ở thanh môn. Thực ra chúng đƣợc khởi thanh bằng phụ âm ẩn và
kết mở tạo đỉnh âm vang ở khoang mũi. Về cao độ chúng cách nhau quãng 8
theo thang âm tự nhiên. Câu vĩ ở mỗi trổ hát Chèo cũng dùng nguyên âm i và 3
thanh huyền sắc và ngang i ì i i í ì ì:
Xuyên Khung (điệu Đào Liễu - Chèo)
109
Trong hát Văn cũng dùng 3 thanh dấu cho chùm hƣ tự á a a a ...
Hầu Văn
Từ đệm Ƣ trong Tuồng (Hát Khách):
Ở các sáng tác mới (thanh nhạc), các nguyên âm cùng thanh điệu vang lên,
mở rộng ở những vị trí cấu âm nguyên bản và đƣợc xếp theo cung bậc của thang
âm ngũ cung. Ta thấy 6 thanh điệu tạo cao độ đồng thời cũng tạo màu sắc cho
mỗi con chữ, mỗi âm tiết nên ngƣời nƣớc ngoài thƣờng nói ngƣời Việt Nam “nói
nhƣ hát”
Thanh điệu tác động lên toàn bộ âm tiết và có chức năng phân biệt các âm
tiết, là yếu tố thay đổi cao độ của âm tiết, nếu thay đổi dấu sẽ thay đổi cả nghĩa
của từ [mục thanh điệu, chƣơng I].
Sáu thanh, mỗi thanh có cái khó riêng, qua thực tiễn ca hát nhiều ngƣời
cho rằng thanh ngã và thanh hỏi là các thanh có hình dáng phức tạp và đặt ra
nhiều thách thức nhất cho ngƣời hát. Để hiểu và giải quyết tốt thanh điệu trong
tác phẩm phụ thuộc nhiều vào nhà soạn nhạc cũng nhƣ ngƣời thể hiện tác phẩm
đó.
Thanh Hỏi.
Theo thống kê tiếng Việt có khoảng 1270 âm tiết với dấu hỏi hoặc với dấu
ngã, trong đó có 793 âm tiết (chiếm 62%) dấu hỏi, 477 âm tiết (38%) dấu ngã.
Đặc tính chung của các thanh là luôn gắn liền và diễn ra đồng thời với nguyên
âm, âm mở của âm tiết - từ vai trò quyết định độ cao thấp của từ nên cấu trúc âm
tiết phụ thuộc nhiều vào thanh điệu. Vì vậy khi hát không rõ thanh điệu sẽ làm
110
chữ - từ bị biến dạng, đổi nghĩa: chữ khi trong câu Tiếng ru khi chiều về (Về quê
- Phó Đức Phƣơng) hát thành Khỉ. Hoặc chữ Cửu trong câu hát Cửu Long Giang
sóng trào nƣớc xoáy (Tiểu đoàn 307 - Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Bính) hát thành
Cứu…
Thanh dấu hỏi có cùng độ cao với thanh dấu nặng, nhƣng có độ nhấn hất
lên (luyến lên). Trong âm nhạc có lời, giải quyết dấu hỏi bằng hai nốt luyến lên
một quãng 2, 3, 4, 5 hoặc quãng 6…Ví dụ:
- “Chỉ có thuyền mới hiểu, Biển mênh mông…” (Phan Huỳnh Điểu - Xuân
Quỳnh)
Thuyền và biển
Có thể lấy nhiều thí dụ khác từ thực tiễn ca hát để rút ra những bài học bổ
ích cho cách giải quyết khéo léo và thật tự nhiên với thanh hỏi. Trong ca hát
truyền thống, nghệ nhân Tuồng cho rằng khi hát thanh dấu hỏi thƣờng bắt đầu từ
thanh huyền rồi vuốt lên thanh sắc.
Do tác động của thanh điệu, trƣờng độ của từ luôn bị rút ngắn lại, âm
thanh vang của đuôi từ thƣờng chuyển sang âm cuối vần:
+ Từ có âm kết là nguyên âm thêm đúng nguyên âm đó: Tỏ-o, cả-a, khổ-ô,
nhở-ơ, chỉ-i, hiểu-u...
+ Từ có vần là bán nguyên âm sẽ biến âm: Lửa-ơ, của-ơ, xua-ơ…
+ Từ có âm kết là phụ âm sẽ đóng chữ và chuyển sang âm khác: Biển-
ƣng, thẳm-ƣm, vẳng-ƣng, xẩm-ƣm, hƣởng-ƣng, Tắt-ƣng…
Thanh ngã:
Dấu ngã có cao độ nằm phía trên thanh ngang - cùng với dấu sắc. So với
thanh dấu sắc, dấu ngã đòi hỏi độ bật hơi mạnh hơn nhƣ có một dấu nhấn khiến
trƣờng độ vang của nguyên âm bị hạn chế.Ví dụ:
111
- “Đồi anh giữ ngày nào cùng đội ngũ…” (Bế Văn Đàn sống mãi - Huy
Du, Trịnh Đƣờng)
Bế Văn Đàn sống mãi
Hai từ giữ và ngũ có cùng một cao độ F2, tuy chữ giữ trong bản nhạc
không ghi nốt D luyến lên nhƣng khi hát vẫn đƣợc xử lý nhƣ chữ ngũ (chỉ khác
nhau về trƣờng độ, nhanh chậm). Ở đây chữ giữ và chữ ngũ giống với cách xử lý
của nghệ nhân Tuồng: hát rẩy lên cao (từ D lên F).
Thanh ngang, thanh huyền, thanh sắc và thanh nặng:
Là các thanh không có hình dáng phức tạp nên khi nói cũng nhƣ khi hát
đều có cảm giác dễ dàng hơn.
Đặc điểm nói chung của các thanh là luôn gắn liền và diễn ra đồng thời
với nguyên âm. Do độ cao của các thanh đã đƣợc mặc định nên độ cao của
nguyên âm cũng là độ cao của âm tiết. Độ cao thấp của thanh điệu, của từ không
chỉ tạo ra những hình tuyến giai điệu tự nhiên mà còn là yếu tố quyết định ý
nghĩa cụ thể của từ.
Thanh huyền và thanh nặng cùng xếp ở vị trí dƣới thanh ngang nhƣng
thanh nặng có vị trí thấp hơn và cách phát âm cũng nặng hơn thanh huyền.
Thanh huyền nhẹ, hơi thả ra phía ngoài; thanh nặng hơi bị nén và bật dứt khoát
(chầm chậm, rầm rập, rời rợi…)
Để rõ thanh sắc, thanh huyền, thanh nặng, khi hát thƣờng thêm nốt nhỏ
(petite note) trƣớc nốt chính một quãng phù hợp với phong cách của tác phẩm
(vd: Hà Nội đó niềm tin yêu hy vọng hay Hải Phòng đó hiên ngang chỉ biết
ngẩng đầu…Trong ca khúc Nổi lửa lên em nhạc sĩ Huy Du đặt nốt nhỏ hoặc nốt
móc đơn vuốt lên hoặc trƣợt xuống nốt chính giúp ca từ khi hát lên đúng với
112
thanh điệu giúp cho hát đƣợc rõ lời: chữ Nhé (nốt A nhỏ luyến lên nốt D), Ngày
(nốt G móc đơn luyến lên nốt A đen), Sáng (nốt E móc đơn luyến lên nốt A), chữ
thâu (nốt E luyến xuống nốt D)...
Đôi khi, nguyên âm và thanh điệu đặt ngay vào nốt chính vì giai điệu phù
hợp với quy luật của thanh điệu (Tôi đứng đây bên nhịp cầu Long biên lộng gió).
Trƣờng hợp hai dấu sắc nằm cạnh nhau (gió, dƣới) thì thƣờng phải thêm nốt phụ
vuốt nhẹ lên nốt chính ở chữ có dấu sắc kế tiếp nhằm tách biệt 2 âm tiết (…Long
Biên lộng gió, dƣới chân cầu Hồng Hà đang ngày đêm sóng vỗ). Cụm từ sóng
vỗ, có thanh sắc và thanh ngã cũng đƣợc xử lý nhƣ hai thanh sắc đứng liền kề
nhau.
2.1.2 Ứng dụng những kỹ thuật và kinh nghiệm xử lý ngôn ngữ của ca
hát truyền thống vào hát Mới:
Trong ngôn ngữ tiếng Việt số từ đóng chiếm đa phần và có sáu thanh điệu.
Từ đóng không thuận lợi cho âm thanh hát, đóng sớm, ít vang gây cộc, chết chữ
(tử vận). Phát âm, hát không đúng thanh điệu sẽ làm đổi chữ, đổi nghĩa của từ.
Những khó khăn, hạn chế này đƣợc nhân gấp nhiều lần trong nghệ thuật hát Mới
(nghệ thuật của ngôn ngữ đa âm tiết - nghệ thuật hát Mở). Nhiều ca sĩ, học sinh
thanh nhạc khi hát hoặc không nắm vững kiến thức cơ bản của tiếng Việt, hoặc
quá lạm dụng kỹ thuật hát Bel canto, tất cả các từ lẽ ra phải đóng, khép nhƣng
vẫn mở nên hát không rõ lời, đồng nghĩa không rõ nghĩa, chỉ muốn hát bài nƣớc
ngoài, hay ngại không muốn hát bài Việt Nam… Những khó khăn, hạn chế này
đƣợc ca hát truyền thống (nghệ thuật hát khép - nghệ thuật của ngôn ngữ đơn
âm, đa thanh) xử lý rất khéo léo đầy tính nghệ thuật, đã đúc kết thành những
kinh nghiệm quí báu từ nhiều đời nay.
Từ trƣớc tới nay đã có nhiều thế hệ nghệ sĩ, ca sĩ thành công khi kết hợp
hai nghệ thuật hát Mở và hát Khép nhƣng chỉ dừng ở kinh nghiệm cá nhân, chƣa
hệ thống, tìm nguyên nhân hạn chế ở đâu, thuận lợi ở đâu để khắc phục và phát
113
huy. Qua tìm hiểu, nghiên cứu một số kỹ thuật của nghệ thuật ca hát truyền
thống chúng tôi mạnh dạn đƣa ra một số ứng dụng những kinh nghiệm xử lý,
khắc phục những khó khăn, hạn chế của tiếng Việt.
a) Xử lý những từ đóng (âm cuối là phụ âm):
Nhƣ đã nói ở mục Vần đóng, các từ có vần đóng đều không thuận lợi cho
việc mở âm - cộng minh vì buộc phải đóng từ để khẳng định từ. Đa thanh, đơn
âm tiết, số từ có vần đóng chiếm đại đa số nên các nghệ nhân nói ca hát cổ
truyền là nghệ thuật hát đóng. Cùng với quan niệm xã hội, phong tục tập quán,
hát kín miệng trở thành tiêu chuẩn của ca hát cổ truyền. Để có độ vang rền, nghệ
nhân đã sáng tạo ra cách tạo vang bằng thay thế các nguyên âm đệm đứng ở sau
từ hoặc sau câu hát:
- Em(ƣm) đi ( i à), đi chợ dốc(ứng)… (Điệu Lới Lơ - Chèo)
- Ngƣời(i) về em(ƣm) vẫn( í i ì í i í i) có (ò ó o)... (Ngƣời ở đừng về - Quan
họ Bắc Ninh).
- Tuyết (ƣ) muốn (ƣ ƣ) lấy (ƣ) ông (ƣng)/ Xƣa (hƣng ƣng) ngày/… (Hồng
Hồng Tuyết Tuyết - Ca Trù).
Trong sáng tác ca khúc chúng ta cũng thấy phƣơng pháp thay thế tƣơng tự
ở nhiều ca khúc, phần lớn trong các bài hát mang hơi thở dân ca. Với hát Mới,
vần đóng thực sự là những thách thức rất lớn. Mở chữ, không đóng chữ, có đƣợc
âm thanh nhƣng không rõ lời, hoặc sai nghĩa của câu hát, ngƣợc lại để rõ lời lại
mất âm thanh vì đóng, khép từ sớm làm tắt âm thanh, không có đƣợc âm vang.
Để khắc phục đƣợc nhƣợc điểm này ta có thể học tập cách xử lý của ca hát
truyền thống thay thế các nguyên âm, hoặc thêm âm đệm sau khi đã khép - đóng
từ (khẳng định từ) rồi đƣa lên ngạc cứng, khoang mũi tạo thành âm ngậm.Ví dụ:
- “Lúa tháng năm kén tằm vàng óng…” (Đóng nhanh lúa tốt - Lê Lôi).
+ Hát mở: “Lú.ơ tha..áng na.am ke..ến ta.àm và.a o.ó o…”
114
+ Hát khép: Lúa(ớ) tháng(ứng) năm(ƣm) kén(ứng) tằm(ừm) vàng(hƣng) óng
(hứm hƣm)…”
b) Xử lý những từ trái dấu:
Những khó khăn của thanh điệu trong ngôn ngữ tiếng Việt đã nêu trên gây
rất nhiều trở ngại cho ngƣời hát, nhất là hai thanh dấu hỏi và thanh dấu ngã.
Trong một tác phẩm thanh nhạc, để hiểu và giải quyết tốt thanh điệu trong ca từ
lại phụ thuộc vào ngƣời sáng tác và ngƣời hát. Ví dụ trong câu Buổi sáng em làm
rẫy. Dấu hỏi trong từ Buổi và dấu ngã trong từ Rẫy đã gây khó khăn và lúng túng
cho ngƣời hát mỗi khi hát dòng ca từ ấy và ngƣời hát phải đổi từ Buổi thành từ
Trời. Cũng tƣơng tự, câu Đoàn giải phóng quân, phải đổi thành Đoàn vệ quốc
quân.
Trong ca hát truyền thống vì không bắt buộc phải tuân theo khuôn khổ,
cấu trúc âm nhạc có sẵn, các nghệ nhân xử lý thanh điệu bằng cách thêm luyến,
láy để rõ chữ nhƣng vẫn giữ đúng giai điệu câu hát. Nghệ nhân của các dòng ca
hát chuyên nghiệp nhƣ Ca Trù, Chèo, Tuồng, Cải lƣơng đã dành nhiều công phu
khổ luyện phát âm nhả chữ để hát tiếng nào ra tiếng nấy, để tròn vành, rõ chữ.
Thanh điệu trong ca hát truyền thống đƣợc đặc biệt quan tâm và đƣợc coi là
thƣớc đo, đánh giá giọng hát. Nhất là trong nghệ thuật Tuồng đã định ra những
quy tắc, những phƣơng pháp cụ thể xử lý thanh điệu “…thanh dấu hỏi…Tuồng
đã ấn định từ xƣa là khi phát âm ra thì xuất phát từ giọng không dấu (thanh
ngang), rồi dẫn lên thanh dấu sắc, rồi rảy giọng gọn gàng… Thanh dấu ngã, khi
phát âm ra thì nhấn giọng xuống gần hƣớng dấu nặng, rồi dẫn giọng lên hƣớng
dấu sắc, rồi ngắt giọng trọn vẹn…” [49, tr.3]. Những kỹ thuật này đƣợc gọi
chung là luyến và láy, luyến láy vừa làm rõ lời - đúng thanh dấu, vừa làm mềm
câu hát.
115
Ca từ của nhiều ca khúc có dấu hỏi bị đặt ở cao độ làm sai vị trí gọi là trái
dấu, cách giải quyết tốt nhất thƣờng xử lý theo kinh nghiệm của nghệ nhân đúc
rút từ lâu đời và kinh nghiệm của giảng viên thanh nhạc.Ví dụ:
- Đoàn giải phóng quân một lần ra đi… (Đoàn giải phóng quân - Phan
Huỳnh Điểu)
Đoàn Giải phóng quân
Có bản ghi là Đoàn vệ quốc quân. Là chữ vệ hay chữ giải đều là những từ
bị đặt sai vị trí cao độ của từ vì đứng sau dấu huyền thích hợp nhất chỉ có thanh
sắc (ở quãng xa) và thanh không dấu (ở quãng gần). Trong trƣờng hợp này khắc
phục bằng cách đóng chữ sớm, trƣợt nhanh từ dƣới lên quãng 6 (thêm nốt nhỏ F#
ở trƣớc nốt chính D2 - kinh nghiệm của nghệ nhân).
- Hồn thơ Nguyễn Trãi (Trái) dệt thành vần… (Hà Tây quê lụa - Nhật Lai)
Hà Tây quê lụa
Trên bản nhạc chỉ viết nốt D, hát đúng nốt D chữ Trãi thành chữ Trái. Để
xứ lý dấu sắc thành dấu ngã bằng cách thêm nốt nhỏ C lƣớt lên nốt D (quãng 2)
- “…Dấu (dẫu) có chết ta chẳng lùi… (Tình Bác sáng đời ta - Lƣu Hữu
Phƣớc, Long Hƣng và Minh Tuyền)
Tình Bác sáng đời ta
116
Trƣờng hợp này tƣơng tự nhƣ trên, thêm nốt nhỏ G luyến lên nốt A (quãng
2) sẽ sửa đƣợc dấu sắc thành dấu hỏi, chữ Dấu thành chữ Dẫu.
- “Ru con mẹ ru con, tiếng ru cà (cả) cuộc đời…(Đất nƣớc lời ru - Văn
Thành Nho)
Đất nƣớc lời ru
Ở câu này thêm nốt nhỏ G luyến lên nốt A (quãng 2) sẽ sửa chữ cà thành
chƣ cả. Tƣơng tự nhƣ vậy, trong các tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt nếu gặp
những từ - chữ ở cao độ khi hát lên làm trái dấu giọng, ngƣời hát đều có thể xử
lý nhƣ các ví dụ trên - thêm nốt nhỏ đặt ở trƣớc nốt làm sai dấu giọng luyến, láy
lên nốt chính, giúp cho vừa làm rõ lời - đúng thanh dấu, vừa làm mềm mại câu
hát, không bị đuỗn, khô cứng. Trong trƣờng hợp thêm nốt vẫn khó khăn, lúng
túng không giải quyết đƣợc, ngƣời hát có thể trao đổi với tác giả đổi chữ hoặc
đổi nốt để khắc phục nhƣ các ví dụ nêu trên.
Thêm các nốt phụ, không đƣợc lạm dụng làm ảnh hƣởng tới giai điệu của
tác phẩm, là việc làm cần thiết và đòi hỏi tới nhiều kiến thức và kinh nghiệm ca
hát. Nhiều trƣờng hợp vì tuân thủ một cách cứng nhắc vào phƣơng pháp thanh
nhạc cơ bản, hoặc hát đúng bản nhạc, thanh điệu đặt ở cao độ làm biến dạng dẫn
đến tình trạng không rõ lời, sai nghĩa hoặc nghe rất ngô nghê, nghe nhƣ ngọng…
c) Xử lý những từ điệp, câu điệp:
Trong nghệ thuật ca hát cổ truyền, các nghệ nhân xử lý rất tinh tế, khôn
khéo những từ điệp, câu điệp, không bao giờ hát từ trƣớc trùng với từ sau, câu
trƣớc trùng với câu sau. Nhƣ ví dụ chữ Tây trong điệu Lý Chiều Chiều ở mục
Dân ca (chƣơng I), lặp lại bốn lần, mỗi lần đƣợc xử lý to nhỏ, mạnh nhẹ, sáng tối
khác nhau, nhả chữ, rung giọng khác nhau đem lại màu sắc và ý nghĩa khác nhau
117
cho chữ Tây. Trong Tuồng cũng có những qui định những kỹ thuật chặt chẽ cho
ngƣời hát, đƣợc lấy làm “khuôn vàng thƣớc ngọc” để luyện tập không đƣợc mắc
phải nhƣ Điệp, Đực, Đếm, Cấn, Trại, Bẹ, Hƣớt, Chát.
Điệp là nhắc lại cùng một từ không đƣợc giống nhau, nhắc lại một cách
đơn điệu. Ta thấy nghệ thuật hát cổ truyền đòi hỏi ngƣời hát không những hát
tròn vành rõ chữ, mà còn xử lý âm thanh, tình cảm đầy tính nghệ thuật. Từ
những kinh nghiệm, kỹ thuật của nghệ thuật ca hát truyền thống ta có thể ứng
dụng vào nghệ thuật hát Mới để xử lý những từ, câu điệp trong các tác phẩm
thanh nhạc tiếng Việt để tránh từ trƣớc trùng từ sau, câu trƣớc trùng câu sau, đều
đều đơn điệu. Ví dụ:
- Lớp lớp, lớp lớp điệp trùng bƣớc theo Ngƣời… (Bác Hồ sống mãi với
Tây Nguyên - Lê lôi)
Bác Hồ sống mãi với Tây nguyên
Từ điệp Lớp lớp gồm hai cụm từ ( bốn chữ lớp) đƣợc viết trên cùng cao
độ, nhắc lại hai lần. Chữ Lớp đầu ở phách yếu, chữ lớp thứ hai ở phách mạnh,
chữ lớp thứ ba ở phách yếu, chữ lớp thứ tƣ ở phách mạnh vừa. Để tránh đơn
điệu, đều đều, khi hát nhấn vào cụm từ điệp thứ nhất, thông thƣờng cụm thứ hai
không mạnh bằng cụm đầu nhƣng ở đây có thể xử lý nhấn mạnh hơn để tạo cảm
giác dòng ngƣời lớn hơn, nhiều hơn.
- Vui hát ca, hoà vui hát ca hoà dân buông lƣới…(Sông Lô - Văn Cao)
Sông Lô
118
Đây là một câu hát khó vì tốc độ nhanh, nhiều chữ gây ríu lƣỡi, trƣớc khi
hát nên đọc trƣớc nhiều lần từ chậm đến nhanh để cảm nhận độ đóng mở của các
từ, sau đó mới hát cũng từ chậm đến nhanh, cụm Vui hát ca đầu nhấn mạnh, cụm
hai nhẹ đi, sắc thái theo đúng qui luật của nhịp 2/2 chữ Vui cụm đầu ở phách
mạnh, chữ Vui cụm sau ở phách mạnh vừa, nhƣ vậy câu điệp Vui hát ca không bị
đều đều, nhạt nhẽo.
- Hà Nội vùng đứng lên, Hà Nội vùng đứng lên…(Ngƣời Hà Nội -
Nguyễn Đình Thi)
Ngƣời Hà Nội
Ứng dụng cách xử lý của các nghệ nhân ca hát cổ truyền lặp lại hai lần
không giống nhau, câu Hà nội vùng đứng lên lần một hai từ Hà Nội ở phách nhẹ,
nên cả câu lần một hát nhẹ, nhắc lại lần hai cũng ở phách nhẹ nhƣng hát nhấn
vào từng từ để nhấn mạnh hơn gây cảm giác không khí sục sôi cách mạng của
ngƣời Hà Nội.
Tƣơng tự, gặp các từ điệp, câu điệp ở các tác phẩm thanh nhạc Việt nam
đều có thể ứng dụng một cách linh hoạt vào từng trƣờng hợp cụ thể nhằm nâng
cao chất lƣợng hát các tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt.
d) Xử lý những từ khó ở nốt cao
Ngôn ngữ tiếng Việt với những hạn chế nhiều âm đóng, ít vang, nhiều dấu
thanh. Tác phẩm thanh nhạc bao giờ cũng gắn liền giai điệu âm nhạc với lời -
ngôn ngữ, tác giả có thể chỉ quan tâm đến giai điệu không để ý hoặc chƣa nắm rõ
những đặc điểm, đặc trƣng của ngôn ngữ tiếng Việt nên đặt lời ca cho bài hát đã
gây không ít khó khăn, lúng túng cho ngƣời hát, nhất là đặt những từ đóng -
khép, từ có dấu hỏi, dấu ngã ở nốt cao.
119
Ca hát truyền thống, thƣờng hát bằng giọng thật, giai điệu bài hát vừa phải
không quá cao, với những đặc điểm, đặc trƣng gây nhiều hạn chế cho âm thanh
hát của tiếng Việt, ông cha ta đã đúc rút những kinh nghiệm thành những kỹ
thuật nhƣ: luyến, láy, rung, nhấn, ngắt (dứt), nảy hạt… để xử lý những hạn chế
của ngôn ngữ tiếng Việt.
Trong hát Mới, hát bằng giọng cộng minh, mở rộng âm vực, đây cũng là
một trong những tiêu chí để đánh giá kỹ thuật của một giọng hát. Những nốt cao
trong tác phẩm thanh nhạc nói chung cần phải có kỹ thuật để thể hiện tốt, với
những tác phẩm tiếng Việt lại là thách thức và thách thức lớn hơn khi nốt cao đặt
từ đóng - khép hay từ có dấu hỏi, dấu ngã. Những trƣờng hợp này có thể kết hợp
kỹ thuật thanh nhạc Bel canto với kỹ thuật thanh nhạc cổ truyền để xử lý. Ví dụ:
+ “…Cùng vào mùa một ngày vui thống nhất…” (Gửi nắng cho em -
Phạm Tuyên và Bùi Văn Dung)
Gửi nắng cho em
Chữ nhất là chữ đóng vì kết bằng phụ âm t và vần buộc phải đóng sớm (từ
chết - tử vận) ât, không vang lại đƣợc đặt ở nốt cao (F#2), không thuận lợi cho
ngƣời hát. Trong trƣờng hợp này nên vận dụng kỹ thuật hát Mở, mở rộng nguyên
âm - đỉnh chữ - â, ngân kéo dài trƣờng độ (dấu nghỉ tự do) sang nốt F#2 của nhịp
sau mới đóng phụ âm t rồi đƣa về ƣng (ngậm). Chữ nhất lúc này vừa có vang,
vừa rõ chữ.
- “…Nhớ chăng đôi mắt…” (Ngƣời con gái sông La - Doãn Nho và
Phƣơng Thuý)
120
Ngƣời con gái sông La
Chữ mắt tƣơng tự nhƣ chữ nhất ở trên, cũng là chữ không thuận lợi cho
hát (tử vận). Chữ mắt đƣợc đặt ở nốt G2, xử lý bằng cách nguyên âm ă mở rộng,
ngân hai phách rƣỡi, sang móc kép sau mới đóng phụ âm t ngậm ƣng.
- “… Xây cho nhà cao cao mãi…” (Những ánh sao đêm - Phan Huỳnh
Điểu)
Những ánh sao đêm
Chữ mãi có thanh dấu ngã, là thanh dấu có cấu hình phức tạp, lại đặt ở
một nốt cao (A2 - trƣờng độ 2 phách rƣỡi), không có nốt nhỏ, nếu hát đúng bản
nhạc sẽ bị đổi dấu thành mái. Để khắc phục, có thể thêm nốt nhỏ G2 trƣớc nốt
A2 (hai phách) đóng chữ mãi, thu đuôi chữ i sang nửa phách sau sẽ đƣợc chữ
mãi vừa rõ dấu, vừa rõ lời.
e) Những nghệ sĩ, ca sĩ thành công bởi kết hợp hài hoà nghệ thuật hát
mở và nghệ thuật hát khép:
Trong quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật hát Mới nhiều thế
hệ nghệ sĩ, ca sĩ tài năng đã có nhiều sáng tạo vận dụng kết hợp nghệ thuật hát
mở và hát khép với những phong cách và phƣơng pháp sáng tạo khác nhau vào
các ca khúc tiếng Việt và đã gặt hái đƣợc những thành công đáng kể nhƣ:
- NSND Quốc Hƣơng đã biết ứng dụng phƣơng pháp hát mở, tròn vành
của Bel canto để thích hợp với lối hát đóng kín đáo của tiếng Việt. Những bài hát
mà nghệ sĩ NSND Quốc Hƣơng đã dồn nhiều tâm sức sáng tạo và hát rất thành
121
công nhƣ: Tình ca (Hoàng Việt), Hà Tây quê lụa (Nhật Lai), Tiểu đoàn 307
(Nguyễn Hữu Trí - Nguyễn Bính)…
- NSND Quý Dƣơng: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giọng hát của
NSND Quí Dƣơng đã vận dụng phƣơng pháp hát Mới một cách điêu luyện vào
hát những ca khúc cách mạng rất thành công nhƣ: Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm
xƣa (Nguyễn Văn Tý), Nhớ (Hoàng Vân - Nguyễn Đình Thi), Bài ca ngƣời thủy
thủ (Hoàng vân), Tôi là ngƣời thợ lò (Hoàng Vân),…
- PGS-NSND Trung Kiên: Đã vận dụng sáng tạo kỹ thuật Bel canto vào
những ca khúc Việt Nam rất “tròn vành” mà vẫn “rõ chữ”: Chào sông Mã anh
hùng (Xuân Giao), Tình ca (Hoàng Việt), Gặp nhau trên đỉnh Trƣờng Sơn
(Hoàng Hà), Đất nƣớc trọn niềm vui (Hoàng Hà),…
- NSƢT Quang Hƣng: Kết hợp sáng tạo kỹ thuật hát Mới phù hợp với
cách “nhả chữ” tiếng Việt vào những ca khúc: Tôi là Lê Anh Nuôi (Đàm Thanh),
Anh quân bƣu vui tính (Đàm Thanh), Chiếc gậy Trƣờng sơn (Phạm Tuyên), Gẩy
đàn lên hỡi ngƣời bạn Mỹ (Phạm Tuyên),…
- NSND Thanh Huyền: Đã kết hợp nhuần nhuyến kỹ thuật hát Mới với
cách hát luyến láy mềm mại của nghệ thuật hát dân gian vào các ca khúc: Đƣờng
cày đảm đang (An Chung), Hà Nội - Huế - Sài Gòn (Hoàng Vân), Trăng sáng
đôi miền (An Chung), Ngƣời ơi ngƣời ở đừng về (dân ca Quan Họ Bắc Ninh - cải
biên Xuân Tứ),…
- NSND Tƣờng Vi: Đã vận dụng một cách thuần thục nghệ thuật hát Mới
vào những ca khúc mang âm hƣởng dân gian cũng nhƣ các ca khúc Việt nam
khác: Phi đội ta xuất kích (Tƣờng Vi), Suối Lê Nin (Hà Té - Hoàng Đạm), Cô
gái vót chông (Hoàng Hiệp), Tháng ba Tây Nguyên (Văn Thắng - Thân Nhƣ
Thơ),…
- NS Bích Liên: Đã vận dụng một cách sáng tạo nghệ thật hát Bel canto
vào những ca khúc Việt Nam rất thành công: Bài ca năm tấn (Nguyễn văn Tý),
122
Ngƣời là niềm tin tất thắng (Chu Minh), Nổi lửa lên em (Huy Du - Giang Lam),
Đƣờng tầu mùa xuân (Phạm Minh Tuấn),…
- NS Mỹ Bình: Ngƣời Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Làng tôi (Hồ Bắc),
Quê em (Nguyễn Đức Toàn),…
- NGƢT Diệu Thuý: Lô Giang (Lƣơng Ngọc Trác), Quê em (Nguyễn Đức
Toàn), Trƣờng ca sông Lô (Văn Cao)…
- NSƢT Kiều Hƣng: Cảm xúc tháng Mƣời (Nguyễn Thành - Tạ Hữu
Yên), Em ở nơi đâu (Phan nhân), Tiếng đàn bầu (Nguyễn Đình Phúc-Lữ
Giang),…
- NSƢT Tuyết Thanh: Nổi trống lên rừng núi ơi (Hoàng Vân), Bài ca Hà
Nội (Vũ Thanh), Miền nam nhớ mãi ơn Ngƣời (Lƣu Cầu), Hẹn mùa mƣời tấn
năm sau (Tô Hải),…
- NSƢT Quang Phác: Hồ trên núi (Phó Đức Phƣơng), Hò biển (Nguyễn
Cƣờng), Huyền thoại hồ núi Cốc (Phó Đức Phƣơng),…
- NSND Quang Thọ: Ta tự hào đi lên, ôi! Việt nam (Chu Minh), Sông Lô
(Văn Cao), Tôi là ngƣời thợ lò (Hoàng Vân), Lá đỏ (Hoàng Hiệp), Tình ca
(Hoàng Việt), Những thành phố bên bờ biển cả (Phạm Đình Sáu)…
- NSƢT Thuý Hà: Cánh chim báo tin vui (Đàm Thanh), Anh bộ đội và
chiếc xe quệt (Nguyễn Lầy - Tuấn Long), Cô Sao (Vai cô Sao trong nhạc kịch
cùng tên của Đỗ Nhuận), Suối Lê - Nin (Phạm Tuyên), …
- NSND Lê Dung: Anh ở đầu sông em cuối sông (Phan Huỳnh Điểu -Hoài
Vũ), Gửi em ở cuối sông Hồng (Thuận Yến - Dƣơng Soái), Bài ca hy vọng (Văn
Ký), Đƣờng chúng ta đi (Huy Du)…
Và rất nhiều nghệ sĩ, ca sĩ các thế hệ sau cũng đã và đang kế thừa, tiếp tục
học tập noi gƣơng các thế hệ nghệ sĩ đi trƣớc và cũng có đƣợc những thành công
nhất định nhƣ: Đăng Dƣơng, Anh Thơ, Trọng Tấn, Lan Anh, Bích Thuỷ…
2.2 Một số bài tập nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt
123
2.2.1. Luyện tập nguyên âm:
Ngôn ngữ nào có màu sắc của ngôn ngữ ấy, nhƣ các nhà sƣ phạm thanh
nhạc nổi tiếng Re Kotster, Richard Miller...đã nói các nguyên âm của các ngôn
ngữ đều có vị trí âm thanh giống nhau, nếu có khác nhau chỉ khác về màu âm
(âm i: tiếng Italia tròn, ấm, đục. Tiếng Pháp mũi, nhọn, chua. Tiếng Việt bẹt,
mỏng, sáng…).
Để sinh viên nhận biết đƣợc vị trí, độ mở và cảm nhận đƣợc màu sắc của
các nguyên âm tiếng Việt có thể chia làm các bƣớc thực hành:
Bƣớc một:
Phát âm chuỗi nguyên âm theo trình tự, rồi đảo vị trí theo nhóm, sau đó
phát âm, đan xen (nói từ chậm, kéo dài, đến nhanh, dứt tiếng):
+ I /Y – E – Ê – A – Ă – Â – O – Ô – U – Ƣ.
+ A – Ơ – Ƣ – E – Ê - I/Y – O – Ô – U.
+ A – U – Ơ – Ƣ – Ê – O – E – I – A.
+ I/Y – Ê – A – Ô – U.
Bƣớc hai:
- Phát âm mở rộng nhƣ - hát kéo dài trên cùng độ cao, lắng nghe, nhận
diện màu sắc nguyên âm:
I – ê – a – ơ – ô – u (khẩu hình mở dần theo chiều dọc) hát ngƣợc lại
U – ô – ơ – a – ê – i (khẩu hình thu dần theo chiều dọc, các nguyên âm
cùng vị trí âm thanh mỏng trƣớc mặt, gần với tiếng nói tự nhiên).
- Luyện tập thang âm 5 (5 âm phổ thông) của âm nhạc đồng bằng Bắc Bộ:
124
1)
2)
Luyện tập thay đổi vị trí nguyên âm tạo sự so sánh vị trí, độ mở và màu
sắc của nguyên âm trên những giai điệu liền bậc, nhảy quãng và chuyển động
chậm.
Bài tập với các quãng phổ thông trong dân ca và ca khúc Việt Nam. Chọn
một số nguyên âm thƣờng đƣợc sử dụng với vai trò mở rộng âm thanh làm
nhiệm vụ thay thế nhƣ A, I, Ô, Ơ, U, Ƣ...
1)
2)
3)
125
4)
5)
6)
7)
8)
9)
Bƣớc ba:
Nghe nghệ nhân hát hoặc tập hát một số làn điệu có nguyên âm thƣờng sử
dụng để mở rộng âm thanh, và làm âm thay thế, đặc trƣng của từng loại hình ca
hát dân gian nhƣ A, I, Ô, Ơ, U, Ƣ… để xác định, cảm nhận màu sắc và vị trí một
số nguyên âm trong các dòng ca hát truyền thống. Hiểu đƣợc những đặc trƣng về
126
màu sắc của nguyên âm, phần nào sẽ thể hiện tốt hơn những ca khúc tiếng Việt
và đặc biệt những ca khúc viết theo phong cách dân gian.
Bắt đầu tập từ phát âm nói chậm đến hát nguyên âm trong những câu dân
ca cổ. Sau đó tìm những nguyên âm tƣơng ứng trong ca khúc Việt Nam để so
sánh, cảm nhận đƣợc màu âm của từng nguyên âm tiếng Việt.
Một số nguyên âm trong những câu dân ca quen thuộc:
a) Nguyên âm A:
- Nguyên âm a trong Chầu Văn:
+ Câu 1:
+ Câu 2:
- Nguyên âm A trong Chèo:
b) Nguyên âm Ô và nguyên âm Ơ:
- Trong Quan Họ BN:
+ Điệu Hoa thơm bƣớm lƣợn:
127
+ Điệu Ngả Nón ra ngồi:
c) Nguyên âm I:
- Trong dân ca Bắc Bộ:
+ Điệu Thoả nỗi nhớ mong - Quan Họ Bắc ninh
+ Điệu Xe chỉ luồn kim – Quan Họ Bắc Ninh
- Trong hát Chèo:
+ Điệu Cách Cú
+ Điệu Trấn thủ lƣu đồn:
d) Nguyên âm U, Ƣ:
+ Điệu Ra ngõ mà trông - Quan Họ BN
128
+ Hát Nam Xuân - Tuồng
2.2.2 Luyện tập phụ âm đầu - kết hợp với vần đóng:
ởi thanh (phát âm âm đầu) đẹp đúng theo
tiếng ần ƣợc
điểm để đƣ
(nhất là phụ âm) do học sinh có lỗi bẩm
sinh, hay nói giọng địa phƣơng hoặc phát âm phụ âm đầu
do t ẹ , không rõ
lời, hát òn , nuốt chữ. Phát âm chuẩn
phụ âm đầu nhƣng không xác định đƣợc độ đóng, mở của từ hợp lý, khi hát sẽ bị
đóng - khép chữ quá nhanh làm cho câu hát không vang, âm thanh bẹt, mỏng,
vụn dời dạc, hoặc mở quá, không đóng chữ nghe nhƣ bị ngọng, “nhồm nhoàm”
không rõ lời. Khắ
âm đầu, kết hợp với vần đóng, vần mở của ca từ (đặc biệt những ngƣời nói giọng
địa phƣơng tập phát âm đúng phụ âm đầu giọng Hà Nội):
Bƣớc một:
Phát âm, đọc chậm ca từ của bài hát (giúp ngƣời hát dễ dàng xác định
đƣợc vị trí đúng của phụ âm đầu) đọc nhiều lần, phát hiện nhƣợc điểm trong phát
âm phụ âm đầu, giáo viên hƣớng dẫn học sinh sửa chữa. Có thể chọn ca khúc có
ca từ chứa nhiều phụ âm đầu cùng loại nhƣ:
“…Em ơi nghe chăng lời trái (chái) tim vọng ra. Rung (dung) trong
không gian (dan) mặt biển sôi (xôi) ầm vang. Qua núi biếc chập trùng (chùng)
129
xa xa. Qua bóng mây che mờ quê ta. Tiếng ca đời đời chung thủy thiết tha…”
(Tình ca - Hoàng Việt).
Dòng ca từ này đầy đủ các dạng phụ âm đầu mang đặc trƣng nhẹ hóa của
giọng nói Hà Nội, tất cả TR, S, GI, R đều đƣợc chuyển thành CH-D-X.
Bƣớc hai:
Đọc chậm dòng ca từ diễn cảm nhƣ đọc thơ có quá trình mở, đóng từ (phụ
âm - nguyên âm - phụ âm) diễn ra chậm nhất nên dễ cảm nhận đƣợc độ đóng, mở
hợp lý của từng từ. Phân biệt từ đóng, từ mở, vần đóng nhanh, vần đóng chậm
(tuỳ thuộc vào từng câu, từng bài cụ thể).
Ví dụ: Cùng một từ “đàn” nhƣng đóng chữ nhanh, chậm khác nhau:
- “Em ơi, vút lên một tiếng đàn (đa..àn)…” (Âm thanh ngày mới - Văn
An).
- “Lắng tai nghe đàn bầu…” (Tiếng đàn bầu - Nguyễn Đình Phúc).
Chữ đàn trong bài Âm thanh ngày mới đóng chậm (nguyên âm a mở rộng
rồi mới đóng) hơn chữ đàn (nguyên âm a không mở, đóng luôn phụ âm n) trong
bài Tiếng đàn bầu.
Bƣớc ba:
Đọc theo tiết tấu, cao độ. Sau cùng là hát.
Tóm lại, để góp phần hát tốt một tác phẩm tiếng Việt nên:
1) Sau khi đã luyện thanh (theo phƣơng pháp hát mở), trƣớc khi hát, ngƣời
hát phát âm, nói, đọc chậm các nguyên âm để cảm nhận rõ màu sắc, vị trí âm
thanh của từng nguyên âm tiếng Việt.
2) Luyện tập phụ âm đầu, khắc phục lỗi bẩm sinh và thói quen phát âm
theo tiếng địa phƣơng (phƣơng ngữ)
3) Phối hợp âm đầu với vần. Phân biệt vần mở, vần đóng, vần đóng nhanh
và vần đóng chậm.
130
4) Khắc phục những ca từ trái dấu bằng cách thêm nốt nhỏ ở trƣớc nốt
chính luyến lên hoặc luyến xuống (không nên quá lạm dụng, chữ nào cũng
luyến).
5) Nghe và học tập các nghệ sĩ hát tốt tiếng Việt với những phong cách và
phƣơng pháp sáng tạo khác nhau.
6) Nghe nghệ nhân và tìm ra các bài học trong nghệ thuật phát âm nhả chữ
tiếng Việt, tròn vành rõ chữ, khép tiếng mà vẫn Vang, rền, nền, nẩy.
7) Nói - Đọc - Hát nên lấy làm phƣơng pháp luyện tập thanh nhạc (trƣớc
khi hát phải đọc kỹ phần lời - ca từ, tập nói từng từ, từng câu).
2.2.3 Luyện tập một số làn điệu trong nghệ thuật ca hát truyền thống để
ứng dụng vào nghệ thuật hát Mới:
a) Một số bài Hát ru & Ngâm thơ - ứng dụng vào những bài gần gũi với
Hát ru & Ngâm thơ
- Ngâm thơ: Dáng đứng bến tre (Nguyễn Văn Tý), Bài ca ngƣời thuỷ thủ
(Hoàng Vân)…
- Ru con (Bắc Bộ): Mẹ yêu con (Nguyễn Văn Tý)…
b) Một số làn điệu dân ca - ứng dụng vào những bài gần gũi với dân ca:
- Quan Họ: Hồ trên núi, Huyền thoại hồ núi Cốc (Phó Đức Phƣơng)...
- Trống Quân: Vui mở đƣờng (Đỗ Nhuận), Từ thủa vua Đinh (Nguyễn
Cƣờng)…
- Miền núi: Cô giáo Tày cầm đàn lên đỉnh núi (Văn Ký), Em chọn lối này
(An Thuyên)…
c) Một số làn điệu trong Chèo, Xẩm, hát Văn - ứng dụng những bài gần
gũi với Chèo, Xẩm, hát Văn:
- Chèo: + Điệu Lới Lơ: Đóng nhanh lúa tốt (Lê Lôi), Đợi (Huy Thục - Vũ
Quần Phƣơng)…
131
+ Điệu “Con gà rừng” (Chèo cổ): Đế quốc Mỹ là cái thân con ruồi
(Trọng Bằng), Em ở nơi đâu (Phan Nhân)…
- Xẩm: Lời ngƣời ra đi (Trần Hoàn), Về quê (Phó Đức Phƣơng)...
- Hát Văn: Tình ngƣời Hà Nội (Văn Thành Nho), Đàn Cầm dây vũ, dây văn
(Nguyễn Cƣờng), Nghe em câu hát Văn chiều nay (Nguyễn Cƣờng) …
d) Ca trù - ứng dụng những bài gần gũi với Ca Trù:
- Hát nói, Miễu: Một thoáng Tây Hồ (Phó đức Phƣơng), Hà Nội linh thiêng
hào hoa (Lê Mây), Một khúc ca trù ngày xuân (Nguyễn Cƣờng),...
- Lẩy Kiều - Ca trù: Trăng khuyết (Huy Thục, thơ Phi Tuyết Nga)…
e) Tuồng - ứng dụng những bài gần gũi với Tuồng:
- Biển mũi (Phó Đức Phƣơng), Hồn đá (Ngọc Quang), Côn Sơn - Nguyễn
Trãi (Lê Mây)…
….Tham khảo thêm ở phần phụ lục.
132
TIỂU KẾT CHƢƠNG II
Hát bằng ngôn ngữ tiếng Việt làm cho âm thanh vang rền với nghệ thuật
hát Mới không gặp nhiều khó khăn, nhƣng hát tròn vành rõ chữ thì gặp nhiều
khó khăn (nhiều âm đóng, đa thanh, đơn âm…) muốn khắc phục những khó khăn
này giảng viên thanh nhạc, ca sĩ cần phải tìm hiểu, nắm rõ tiến trình đóng, mở
của ngôn ngữ tiếng Việt để biết đƣợc những nguyên nhân gây khó khăn, hạn chế
trong ca hát, để tìm hƣớng giải quyết.
Giảng viên phát hiện những nhƣợc điểm phát âm của học sinh, sinh viên
thanh nhạc, đƣa ra một số bài tập cụ thể để sửa chữa những nhƣợc điểm đó. Tìm
học, cảm nhận màu sắc của một số những nguyên âm trong các làn điệu trong
nghệ thuật ca hát cổ truyền thƣờng đƣợc dùng để mở rộng âm thanh và làm âm
thay thế đặc trƣng của từng loại hình ca hát truyền thống (A, I, Ô, U, Ƣ…) để
cảm nhận, tìm ra màu sắc, phong cách, hát vừa “tròn vành”, vừa “rõ chữ” ứng
dụng vào từng bài hát tiếng Việt góp phần thể hiện, biểu diễn tốt hơn những tác
phẩm hát Mới và đặc biệt những ca khúc viết theo phong cách dân gian.
Lấy Nói - Đọc - Hát làm phƣơng pháp luyện tập thanh nhạc sử dụng trong
đào tạo của nhà trƣờng góp phần nâng cao chất lƣợng hát tốt tiếng Việt trong các
tác phẩm thanh nhạc Việt Nam, xoá dần khoảng cách giữa nhà trƣờng và biểu
diễn trên sân khấu ca hát của học sinh thanh nhạc.
133
KẾT LUẬN
Lời (ca từ) và nhạc là hai phần không thể tách rời tạo nên tác phẩm âm
nhạc có lời. Một tác phẩm thanh nhạc (âm nhạc có lời) có giá trị và phẩm chất
nghệ thuật cao, có sức sống lâu bền, vƣợt thời gian không thể có cấu trúc âm
nhạc rời rạc, có lời ca trái dấu, nội dung mờ nhạt, vô cảm. Tác phẩm âm nhạc
cần phải đƣợc vang lên vì vậy vai trò của ngƣời thể hiện - ngƣời hát chính là vai
trò của ngƣời sáng tạo thứ hai có tính quyết định sống còn của tác phẩm đó.
Ca hát phong phú, đa dạng, đa phong cách, đa thể loại. Ngƣời hát muốn
hát tốt tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới, ngoài những yếu tố cần có nhƣ giọng
hát tốt, kỹ thuật thanh nhạc tốt, kiến thức âm nhạc, cảm nhận âm nhạc, kỹ năng
thể hiện, biểu diễn… chọn lựa thể loại, phong cách cho phù hợp với sở thích,
giọng hát, khả năng của mình (thính phòng cổ điển, dân gian, nhạc nhẹ...) còn
cần phải tìm hiểu, đặc điểm, cấu trúc, nắm vững những kiến thức cơ bản chuyển
động đóng, mở âm của ngôn ngữ tiếng Việt.
Kỹ năng cơ bản của nghệ thuật ca hát truyền thống đặc biệt là nghệ thuật
ca hát chuyên nghiệp nhƣ Ca Trù, Chèo, Tuồng đều sinh ra từ tiếng Việt, lấy
tiếng Việt làm bài luyện tập và trau dồi không chỉ cho lúc đầu vào nghề mà trong
suốt đời làm nghề. Những tiêu chí nhƣ tròn vành, rõ chữ, vang, rền, nền, nảy
chính là những mục tiêu mà bất kỳ ngƣời theo nghề nào cũng phải đạt tới. Để
“tròn vành rõ chữ” phải luyện tập phát âm và nhả chữ. Phát âm có khởi âm - mở
âm (âm chính) - đóng chữ. Nhả chữ là quá trình đóng, mở chữ đạt đƣợc Hát
tiếng một, hát từ nào ra từ đó. Kỹ thuật phát âm, nhả chữ này còn gọi là hát khép
hay hát đóng chữ. Nghệ nhân đúc kết kinh nghiệm thành những kỹ thuật, tuy
134
không thành văn, nhƣng những kỹ thuật đó luôn đƣợc các thế hệ kế tiếp lấy làm
“khuôn vàng thƣớc ngọc”, làm phƣơng hƣớng và phƣơng pháp luyện tập.
Hát đƣợc “tròn vành rõ chữ” là do luyện tập cất thanh nhả chữ, “hát từ
một” ứng dụng vào từng câu để “vang, rền” câu hát. Để có “vang, rền” cần phải
mở rộng âm thanh của nguyên âm. Nhƣng nếu mở quá lớn, tiến trình đóng chữ
sẽ bị kéo dài nghe nhƣ ngọng hay không rõ lời. Vì vậy mức độ mở của từ cần
đƣợc cân nhắc kỹ lƣỡng. Mở thanh không thô, không lạm dụng, giọng hát sẽ
vang, rền, nền nã. Và để câu hát thêm sinh động nghệ thuật ca hát dân gian từ hát
Quan Họ, Chèo, Ca Trù, Chầu Văn, Tuồng… đều sáng tạo ra nhiều kỹ thuật phụ
trợ nhƣ hát nảy, luyến, láy, rung. Mức độ và kỹ thuật xử lý ca từ (ngôn ngữ) có
nhiều điểm khác nhau nên đã tạo ra hiệu quả riêng biệt. Các nghệ nhân phải
luyện tập kỹ, đặt vị trí nguyên âm thích hợp nhất để vừa có vang, vừa có màu
âm, gọi là có “giọng”. Giọng trở nên vang, trong sáng, tránh lạm dụng làm ảnh
hƣởng đến nhịp độ, đóng, khép chữ. Thanh điệu tiếng Việt phong phú, quyết
định vị trí âm thanh của từng từ. Vị trí cao thấp của thanh điệu nếu bị đảo ngƣợc
gọi là trái dấu sẽ làm thay đổi ý nghĩa của từng từ. Ngƣời hát phải biết “bẻ bai”
chữ để tìm lại vị trí đúng của thanh điệu, khắc phục lỗi của ca từ không thích ứng
với giai điệu. Trong ca hát dân gian, ngƣời hát đƣợc tự do xử lý hơn so với nghệ
thuật hát Mới, nghệ thuật thể hiện những tác phẩm sáng tác theo một khuôn mẫu
(tất cả nguyên âm, phụ âm đều mở). Nhiều trƣờng hợp, ngƣời hát không khắc
phục đƣợc do lỗi trên bản nhạc thì phải đổi ca từ.
Bên cạnh những yêu cầu nhƣ “tròn vành rõ chữ”, “vang, rền, nền, nảy”, ca
hát dân gian truyền thống còn tạo ra sự khác biệt bởi vị trí âm thanh giọng hát.
Những khái niệm nhƣ hát “hơi ngoài” của Chèo, hát “hơi trong” của Ca trù, hát
“hơi ngực” của Tuồng xuất phát từ nhận thức, tƣ duy thẩm mỹ, nghệ thuật biểu
hiện, từ môi trƣờng và điều kiện diễn xƣớng của từng dòng nghệ thuật. Để phù
hợp với phƣơng pháp thanh nhạc của mình, mỗi dòng ca hát truyền thống lại
135
chọn ra cho mình một hoặc hai nguyên âm đặc trƣng: Chèo nguyên âm i, hát Văn
nguyên âm a và i, Ca trù nguyên âm ƣ đƣợc đẩy lên mũi thành ƣng. Tuồng cũng
là ƣ nhƣng từ cổ họng bật mạnh ra ngoài thành hƣ…
Nghệ thuật hát Bel canto hay nghệ thuật hát Mở sinh ra từ ngôn ngữ đơn
thanh, đa âm tiết nhƣ tiếng Italia, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga…
Những ngôn ngữ đơn thanh, đa âm tiết thƣờng lấy tiếng Ý là ngôn ngữ chuẩn
cho nghệ thuật hát Bel canto vì nguyên âm chiếm phần lớn trong cấu trúc từ
(ngƣợc lại tiếng Việt, từ đóng - từ kết bằng phụ âm chiếm quá nửa tới 70 - 80%
tổng số từ).
Trong thực tiễn giảng dạy, những bài tập luyện thanh theo phƣơng pháp
Bel canto hát tác phẩm thanh nhạc nƣớc ngoài - ca từ tiếng nƣớc ngoài học sinh
thanh nhạc tiếp thu và hát tốt nhƣng ứng dụng vào tác phẩm thanh nhạc Việt
Nam và tác phẩm thanh nhạc nƣớc ngoài lời Việt đều gặp nhiều khó khăn.
Những khó khăn đó chính là kỹ thuật thanh nhạc Bel canto (nghệ thuật của ngôn
ngữ đa âm, hát Mở) đƣợc sử dụng vào hát tiếng Việt (ngôn ngữ đa thanh, đơn
âm, hát khép, nhiều vần đóng). Ngôn ngữ trở thành rào cản, thách thức nếu
không nắm vững những kiến thức về cấu trúc âm thanh của tiếng Việt để giải
quyết chúng. Muốn vƣợt qua thách thức khó khăn của ngôn ngữ cũng nhƣ để
dung hoà phƣơng pháp thanh nhạc Mới để thể hiện tốt những tác phẩm thanh
nhạc tiếng Việt trong biểu diễn và trong đào tạo cần hiểu, nắm vững kiến thức cơ
bản về cấu trúc âm thanh tiếng Việt, so sánh giữa nói và hát, ứng dụng kinh
nghiệm, kỹ thuật của nghệ nhân (đặc biệt các dòng ca hát dân gian chuyên
nghiệp gắn liền với tiếng Việt phổ thông). Đề ra các bài tập vừa có tính lý thuyết
vừa có tính thực hành và ứng dụng. Thống kê, sắp xếp những ca khúc và những
làn điệu dân ca có mối quan hệ gần gũi với nhau để sinh viên có cơ sở so sánh,
học tập và ứng dụng.
136
Những kết quả đóng góp mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của
luận án
1) Là công trình nghiên cứu chuyên sâu về hiểu và nắm vững kiến thức cơ
bản, đặc trƣng, đặc điểm cấu trúc âm thanh, chuyển động đóng, mở của ngôn
ngữ tiếng Việt, học tập phƣơng pháp xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong nghệ thuật
ca hát truyền thống để vận dụng vào trong công tác đào tạo, biểu diễn thanh nhạc
giúp ngƣời hát:
+ Sửa những khuyết tật về phát âm. Xác định đƣợc vị trí âm thanh. Cảm
nhận đƣợc màu âm từng nguyên âm của mỗi thể loại ca hát truyền thống, của các
vùng miền khác nhau.
+ Hiểu rõ nội dung lời ca. Cảm nhận rõ đƣợc hơi thở khi nói để vận dụng
vào hát.
+ Hát rõ lời. Nhả chữ “tiếng nào ra tiếng nấy”, nhấn nhá vào từng từ, hát
tiếng trƣớc không trùng tiếng sau, mở tiếng, đóng tiếng gọn đạt tiêu chí “tròn
vành rõ chữ”. Nhả chữ không làm biến dạng, sai nghĩa của từ mất đi bản sắc dân
tộc của ngôn ngữ, giữ đƣợc “màu” tự nhiên của giọng hát.
2) Nắm vững qui luật phát âm và những đặc trƣng cơ bản của ngữ âm
tiếng Việt, xử lý một cách linh hoạt, vận dụng vào từng tác phẩm thanh nhạc
tiếng Việt trong và ngoài giáo trình trung cấp và đại học thanh nhạc trong nhà
trƣờng.
3) Hệ thống, phân loại, sắp xếp những ca khúc và những làn điệu dân ca
có mối quan hệ gần gũi để sinh viên có cơ sở so sánh, học tập và ứng dụng.
4) Đề xuất những mẫu âm mới, sửa những phát âm chƣa chuẩn, học tập
kinh nghiệm xử lý những từ bị trái dấu, những từ đóng, từ điệp, câu điệp… trong
nghệ thuật ca hát truyền thống, góp phần đào tạo những ca sĩ, nghệ sĩ biểu diễn
các tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt đạt yêu cầu về kỹ thuật cũng nhƣ không làm
137
mất đi bản sắc dân tộc của ngôn ngữ tiếng Việt góp phần rút ngắn khoảng cách
giữa nhà trƣờng và sân khấu ca hát.
5) Giáo dục học sinh, sinh viên thanh nhạc ý thức giữ gìn, bảo tồn, phát
huy vốn nghệ thuật ca hát truyền thống.
6) Có tính ứng dụng trong đào tạo và biểu diễn trong nhà trƣờng cũng nhƣ
trên sân khấu.
7) Làm tài liệu tham khảo cho sáng tác thanh nhạc.
8) Bổ sung thêm cho giáo trình giảng dạy thanh nhạc giúp cải thiện một số
hạn chế trong hát tiếng Việt nhằm Nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt, góp phần
xây dựng nền thanh nhạc Việt Nam “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Một số kiến nghị
1- Các khoa Thanh nhạc và các trung tâm đào tạo thanh nhạc trên toàn
quốc nên đƣa môn học Kiến thức cơ bản về cấu trúc âm thanh của ngôn ngữ
tiếng Việt vào chƣơng trình đào tạo, góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lƣợng
giảng dạy và biểu diễn.
2- Giảng viên thanh nhạc cần phải nắm vững kiến thức cơ bản của ngôn
ngữ tiếng Việt nhằm chỉnh sửa cho học sinh những nhƣợc điểm về phát âm, nhả
chữ trong các tác phẩm tiếng Việt, xác định đúng vị trí, màu âm, hơi thở… của
âm thanh góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo hát những tác phẩm thanh nhạc
tiếng Việt.
3- Sáng tác cho thanh nhạc cần lƣu tâm nhiều hơn đến đặc điểm, đặc
trƣng của ngôn ngữ tiếng Việt, tìm hiểu về tính năng của “nhạc cụ sống” (giọng
hát) giúp ngƣời hát giải quyết, cải thiện một số hạn chế, khó khăn, lúng túng
trong xử lý ngôn ngữ (trái dấu, từ khó, từ đóng đặt ở nốt cao…) cũng nhƣ góp
phần giúp ngƣời hát hát hay hơn, đào tạo đạt đƣợc chất lƣợng cao hơn.
138
Đề tài Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát
Mới là công trình nghiên cứu chuyên sâu về phƣơng cách xử lý ngôn ngữ tiếng
Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống, kết hợp với kỹ thuật hát Mới vận dụng
vào tác phẩm thanh nhạc tiếng Việt để có đƣợc âm thanh đạt yêu cầu mà vẫn giữ
đƣợc bản sắc dân tộc của tiếng Việt, không bị biến dạng, sai nghĩa của từ, đảm
bảo “tròn vành rõ chữ”… Nội dung của luận án thể hiện lòng mong muốn đóng
góp một phần nhỏ bé vào đào tạo thanh nhạc nói riêng và có thể là gợi ý cho các
nghiên cứu tiếp theo về lý luận, sáng tác và biểu diễn nghệ thuật ca hát nói
chung.
139
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
1. Trần Ngọc Lan: “Vài suy nghĩ về nâng cao tính dân tộc trong nghệ thuật
ca hát Việt Nam đƣơng đại”. Tạp chí Âm nhạc Việt Nam & thời đại, số
4, năm 2006.
2. Trần Ngọc Lan: “Tôi thật sự muốn học cách hát từ bụng
lên…”(Thanh nhạc Quan họ Bắc Ninh). Tạp chí Âm nhạc Việt Nam,
1 - 2009
3. Trần Ngọc Lan: “Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát”. Tạp chí Nghệ
thuật biểu diễn, số 7, tháng 6 – 2009.
4. Trần Ngọc Lan: “Tìm hiểu kỹ thuật hát Tuồng”. Tạp chí Văn hoá
Nghệ thuật, 10- 2009
140
PHỤ LỤC
HỆ THỐNG MỘT SỐ CA KHÚC MANG ÂM HƢỞNG DÂN GIAN
TT Âm
hƣởng
Tên bài Tên tác giả
I
Hát ru
-Câu hát mẹ ru
-Khúc hát ru của ngƣời K’ho
-Mẹ yêu con
-Ru con trong mƣa mùa xuân
-Suối nguồn
-Từ trên đỉnh núi
-Tiếng ru đêm
Phạm Tuyên
Trần Hoàn, Trần Ngọc
Nguyễn Văn Tý
Đặng Hữu Phúc
Trƣơng Ngọc Ninh
Nguyên nhung
Tuấn Phƣơng
II
Thơ
-Dáng đứng Bến Tre
-Tâm tình của ngƣời thuỷ thủ
-Trăng khuyết (lẩy Kiều)
Nguyễn Văn Tý
Hoàng Vân
Huy Thục
III Dân ca
1
Quan họ
-Bắc Ninh – Kinh Bắc
-Hồ trên núi
-Khi xe tăng qua miền Quan họ
-Những cô gái Quan họ
-Ngày xuân Quan họ
-Nghe câu Quan họ trên cao
nguyên
-Tôi về ngẩn ngơ
-Từ phƣơng em, từ phƣơng anh
-Qua lới nọ Hạ Long
Lê Mây
Phó Đức Phƣơng
An Thuyên
Phó Đức Phƣơng
Lê Mây
Vũ Thiết, Hữu Chỉnh
Nguyễn Cƣờng
Văn Thành Nho
Trƣơng Ngọc Ninh
2 Trống
quân
-Từ thủa vua Đinh
-Vui mở đƣờng
Nguyễn Cƣờng
Đỗ Nhuận
3
Dân ca
miền núi
phía Bắc
-Ánh trăng hồ núi Cốc
-Âm vang Điện biên
-Bác Hồ ở Tân Trào năm ấy
-Bài ca mùa xuân
-Bài ca trên núi
Đặng An Nguyên
Lê Mây
Đinh Tiến Bình
Mông Lợi Chung
Nguyễn Văn thƣơng,Tô
141
3
Dân ca
miền núi
phía Bắc
-Bài ca bên suối
-Bản Mƣờng trong nắng mới
-Bảy sắc cầu vồng
-Bảy dòng suối hát
-Bức tranh xứ Lạng
-Bác Hồ ở Tân trào năm ấy
-Biến đất ma thành ra đất cày
-Bình minh sông Đà
-Bông hoa tám cánh
-Cầu về bản em
-Câu Sli xứ Lạng
-Câu Sli mùa xuân xứ Lạng
-Cây đào Sơn La
-Chuyện tình Trƣờng Sa
-Chào Sơn La
-Chào Yên Bái thành phố mùa
xuân
-Cô giáo đến bản Mƣờng
-Cô giáo Tày cầm đàn lên đỉnh
Núi
-Cô giáo vùng cao
-Con dao làm nƣơng cây súng
giữ bản
-Con trai ngƣời Pa Dí
-Con trai, con gái bản em
-Con trâu sắt
-Chị Mai đi chợ
-Chín bậc tình yêu
-Chiều trên bản Mèo
-Chợ xuân Bắc Hà
-Chú bò vàng
-Cung văn hoá thiếu nhi Lạng
Sơn
-Dấu chân trên rừng
-Đàn tính bên sàn
-Đêm trên Cha – Lo
-Đêm Mộc Châu
-Đi tìm bóng núi
-Địu con đi nhà trẻ
Hoài
Trịnh Lại
Nhật Lai
Nguyễn Lầy, Tuấn Long
Vi Tơ
Lê Mây
Đinh Tiến Bình
Trọng Bằng
Văn Thành Nho
An Chung
Bàng Thúc Hiệp
Đinh Quang Khải
Lê Tịnh
Đặng Đình Lâm
Lê Mây
Trần Hoàn
Trọng Bằng
Lƣơng Hải, Nghiêm Nhan
Văn Ký
Hoàng Lân – Hoàng Long
Phan Nhân
Lê Trọng Hùng,Pờ Xảo Mìn
Lê Mây
Trần Chƣơng
Lê Lan
An Thuyên
Vƣơng Vình, Mai Liễu
Lê Mây,Phùng Ngọc Hùng
Hoàng Vân
Lê Mây
Vĩnh An
Vƣơng Khon
Phạm Tuyên
Trần Hoàn
An Thuyên
Đào Ngọc Dung
142
3
Dân ca
miền núi
phía Bắc
-Điện Biên mùa lúa
-Điều chƣa thấy trong văn tự
ngƣời Dao
-Đợi nàng
-Đợi chờ anh em vẫn chờ
-Đƣờng về Tân Trào
-Đƣờng về xứ hoa đào
-Em bé Mƣờng La
-Em ca Sơn La
-Em chọn lối này
-Gửi về Bắc Kạn em ơi
-Gió Chiềng đi
-Gió Ô quy hồ
-Giữ cho em mùa hoa đào
-Hà Giang quê tôi
-Hát về nguồn suối
-Hát từ thủ đô gió ngàn
-Hạt thóc hạt tình
-Hoa hồng trên điểm tựa
-Hoa sim biên giới
-Hƣơng hồi xứ Lạng
-Kim Bon bản Mèo đổi mới
-Khâu áo
-Lạng Sơn lung linh mƣa ngàn
-Lời cây đàn tính quê em
-Lòng mẹ
-Lời ca của núi
-Mã Pì Lèng
-Mùa xuân ấy anh ra đi
-Mở đƣờng qua Mã Pì Lèng
-Mẹ đảm con ngoan
-Mời anh lên Mộc Châu
-Mộng mị Sa pa
-Mùa trẩy lê
-Mùa xuân gọi bạn
-Nao nao Thác Bà
-Nổi trống lên rừng núi ơi
-Nỗi băn khoăn của chị Lả
-Nơi áo chàm hồ xanh Ba Bể
Hoàng Hà
Lê Tịnh
Phó Đức Phƣơng
Văn Thành Nho
Lê Mây
An Thuyên
Trần Ngọc Xƣơng
Hoàng Tạo
An Thuyên
Phan Nhân
Lê Tịnh
Phó Đức Phƣơng
Bảo Chung
Thanh Phúc
Cầm Minh Thuận
Tuấn Phƣơng
Mào Ết
Hồ Bắc
Minh Quang, Đặng Ái
Ngô Quốc Tính
Trịnh Lại
Nguyễn Văn Tý
Lê Mây
Nguyễn Đức Toàn
Hoàng Tú
- - - - - - -
Lê Mây, Phùng Ngọc Hùng
Tân Huyền
Hoành Nguyễn
Lê Mây
Trần Hoàn
Phó Đức Phƣơng
Nguyễn Trọng Tạo,Tùng
Linh
Huyền Tuân
Phó Đức Phƣơng
Hoàng Vân
Nguyễn Tài Tuệ
Phó Đức Phƣơng
143
3
Dân ca
miền núi
phía Bắc
-Ngôi sao Khun Lú-Nàng Ủa
-Ngọn lửa Pác Bó
-Ngƣời Châu Yên em bắn máy
Bay
-Ngƣời Mèo ơn Đảng
-Ngƣời Mèo có chữ
-Nhịp chày hƣơng cốm
-Nhớ về Pác Bó
-Núi rừng hát về anh
-Ở rừng nhớ anh
-Phiên chợ lòng hồ
-Phố núi
-Rừng biên cƣơng âm vang
điệu Then mới
-Rừng Tuyên Quang in bóng
Tân Trào
-Sa pa - Sa pa
-Sao cô em chƣa về
-Sơn La mùa xuân lại về
-Suối làng
-Suối Lê – nin
-Suối Lê – nin
-Suối Mƣờng Hum còn chảy
Mãi
-Suối nguồn
-Sơn La ơi, cho tôi ở lại
-Tây bắc sáng lại
-Tây Bắc quê hƣơng em
-Tên lửa về sông Đà
-Tôi đã phải lòng em
-Tôi mang giấc mơ của những
đại ngàn
-Tình ca ngƣời gác rừng
-Tình ca Tây Bắc
-Tình ca Lều nƣơng
-Tình ca tây Bắc
-Tình Sa Pa
-Tiếng kèn đêm trăng
-Tiếng hát bản Mèo
Cầm Bích
Hoàng Vân, Nông Quốc
Chấn
Trọng Loan
Cầm Phong
Nguyễn Tài Tuệ
Lƣ Nhất Vũ
Phan Nhân
Tuấn Phƣơng
An Thuyên
Phó Đức Phƣơng
Nguyễn Mạnh Thƣờng
Nguyễn Cƣờng
Vƣơng Ngọc Vấn
Lê Mây
Lê Lan, Minh Tiến
Đặng An Nguyên
Tăng Thình, Mai Liễu
Phạm Tuyên,Trần Văn Loa
Hoàng Đạm, Hà Té
Nguyễn Tài Tuệ, Vƣơng
Hữu Văn
Trƣơng Ngọc Linh
Lê Mây
Ngô Đông Hải
Mộng Lân, La Thăng
Hoàng Tạo
Lê Mây
Cát Vận
Tân Điều
Bùi Đức Hạnh, Cầm Giang
Tăng Thình
Bùi Đức Hạnh, Cầm Giang
Lê Mây
Phùng Chiến
Phạm Tuyên,Nông Quốc
144
3
Dân ca
miền núi
phía Bắc
-Tiếng gọi từ Pác Bó
-Tiếng cồng xứ Mƣờng
-Tiếng gọi rừng xanh Sơn
Dƣơng
-Tiếng hát trên sông Nậm Na
-Tiếng khèn đêm trăng
-Tiếng hát giữa rừng hoa ban
-Tiếng hát trên đỉnh Hoàng
Liên
-Tiếng sáo gọi ngƣời yêu
-Tiếng đàn nhớ thƣơng
-Tiếng đàn Then
-Tiếng hát giữa rừng Pác Bó
-Từ Ra-dơ-líp đến Pác bó
-Trăng sáng trên rừng quế
-Trở lại Cao Bằng
-Trƣớc ngày hội bắn
-U ủ la hay
-Việt Bắc nhớ Bác Hồ
-Về bản em
-Về quê em nhé anh
-Vợ chồng H’Nhí về buôn mới
-Vùng cao mến yêu
-Xuân về trên bản Nhắng
-Xuân biên cƣơng
-Xuân chiến khu
-Xôn xao rừng quế
-Xốn xang chiêng cồng Hoà
Bình
-Xuống chợ
Chấn
Trƣơng Tuyết Mai, Bùi Văn
Bồng
Trần Hoàn
Tân Huyền
Lê Việt Hoà, Hà Thị Khiết
Phùng Chiến
Nông Văn Nhủng, Hữu Tiệp
Ngọc Quang
Trịnh Quý
Nguyễn Đình Tấn
Hoàng Thím
Nguyễn Tài Tuệ
Phan Long
Trọng Loan
Vƣơng Khon
Trần Quý
Lê Mây, Bùi Tuyết Mai
Phạm Tuyên
Đào Thế Y
Tuấn Phƣơng
Phạm Tuyên
Lầu A Sa
Trƣơng Mai
Lê Mây
Xuân Hồng
Phó Đức Phƣơng
Đinh Trọng Tuấn
Trƣơng Ngọc Ninh
4
Bắc Bộ
-Ao làng
-Anh đƣa em về thƣa với mẹ
cha
-À í a
-Bà tôi
-Bài ca năm tấn
-Bài ca may áo
-Bài thơ biển
Lê Mây
Nguyễn Cƣờng
Lê Minh Sơn
Nguyễn Vĩnh Tiến
Nguyễn Văn Tý
Xuân Hồng
Văn Thành Nho
145
4
Bắc Bộ
-Bằng lăng tím
-Bên bờ ao nhà mình
-Bến sông xƣa
-Buổi sáng trên đồng
-Cảm xúc tháng Mƣời
-Cánh cò trong câu hát mẹ ru
-Câu hát bên sông
-Chảy đi sông ơi
-Chị tôi
-Chơi Ô ăn quan
-Chú Cuội chơi trăng
-Chiều sông Thƣơng
-Chuyện làng tôi
-Chuyện xƣa
-Con kênh ta đào
-Cũng một con đò
-Dòng sông quê anh, dòng sông
quê em
-Đá trông chồng
-Đàn tỳ bà
-Đón anh về hội mùa xuân
-Gửi em ở cuối sông Hồng
-Gởi anh đi đầu quân
-Hò biển
-Hoa cau vƣờn trầu
-Hƣng Yên ngày mới
-Khúc hát ru của ngƣời mẹ trẻ
-Khúc mơ màng của đá
-Làn môi em hình hạt lúa
-Lời ru mùa xuân
-Lời ru của đêm
-Mẹ tôi
-Mƣa tháng Ba
-Mùa xuân trên sông Tô
-Mùa xuân con én liệng
-Nghiêng nghiêng câu hát
-Nuôi con một mình
-Ngàn lần tôi hát Việt nam ơi
-Ngƣời ở ngƣời về
-Ngƣời đàn bà hoá mƣa
Văn Thành Nho
Lê Minh Sơn
Tuấn Phƣơng
Trần Tất Toại
Nguyễn Thành, Tạ Hữu Yên
Phạm Tuyên
Tuấn Phƣơng
Phó Đức Phƣơng
Trọng Đài
Lê Mây
An Thuyên
- - - - - - - -, Hữu Thỉnh
Tuấn Phƣơng
Tuấn Phƣơng
Phạm Tuyên, Bùi Văn Dung
Phó Đức Phƣơng
Đoàn Bổng, Lai Vu
Lê Minh Sơn
An Thuyên, Dƣ Thị Hoài
Lê Việt Hoà
Thuận Yến
Nguyễn Đình Phúc
Nguyễn Cƣờng
Nguyễn Tiến
Lê Mây
Phạm Tuyên
Huy Thục, Phạm Ngọc Cảnh
An Thuyên
Phạm Tuyên
Phạm Tuyên
Đoàn Bổng
Đoàn Bổng
Lê Việt Hoà
Văn Thành Nho
Lê Mây
Lê Mây
Lê Mây
Lê Minh Sơn
An Thuyên, Phan Thị
146
4
Bắc Bộ
-Ngƣời ơi hãy về
-Nhịp máy khoan
-Những ngƣời con gái đồng
chiêm
-Những cánh đồng tuổi 20
-Nhớ xứ Đoài
-Nón trắng đồng quê
-Ông vua đi cày
-Ôi quê tôi
-Rừng và biển
-Sông Lô chiều cuối năm
-Sóng đàn Hà Nội
-Tình đất
-Tình ngƣời Hà Nội
-Tiếng đàn bầu
-Trăng sáng đôi miền
-Việt Nam quê hƣơng tôi
-Võng đây trƣa hè
Thƣờng Đoan
Tuấn Phƣơng
Trọng Bằng
Phạm Tuyên
An Thuyên
Lê Việt Hoà
An Thuyên
An Thuyên
Lê Minh Sơn
Huy Thục,Nguyễn Xuân
Quỳnh
Minh Quang
An Thuyên, Nguyễn Chính
Tuấn Phƣơng
Văn Thành Nho
Nguyễn Đình Phúc
An Chung
Đỗ Nhuận
Lê Mây
5
Trung Bộ
-Bác Hồ một tình yêu bao la
-Bài ca thống nhất
-Ca dao em và tôi
-Cây lúa Hàm Rồng
-Chào sông Mã anh hùng
-Chỉ tại dòng sông đa tình
-Cô gái Pa Kô
-Chiều Hiền Lƣơng
-Dựng nên quê mới
-Đẹp màu xanh Quảng Trị
-Đêm nghe hát đò đƣa nhớ Bác
-Đƣa em qua trận bão ngƣời
-Em thƣơng ngƣời trong Huế
đấu tranh
-Gởi sông La
-Gửi Huế
-Gửi em chiếc nón bài thơ
-Gửi nắng cho em
Thuận Yến
Võ Văn Di
An Thuyên
Đôn Truyền
Xuân Giao
An Thuyên
Huy Thục
AnThuyên
Trọng Bằng
Trần Hoàn
An Thuyên
Tuấn Phƣơng
-Em thƣơng ngƣời trong
Huế đấu tranh
Lê Việt Hoà, Sơn Tùng
Trần Hoàn
Lê Việt Hoà
Phạm Tuyên
147
5
Trung Bộ
-Giận mà thƣơng
-Giữ lấy giọt nƣớc vàng
-Giữa Mạc Tƣ Khoa nghe câu
hò Ví dặm
-Hà Nội - Huế - Sài Gòn
-Huế tình yêu của tôi
-Huế thƣơng
-Huế thƣơng ơi
-Huế Trong bão lửa càng đẹp
hơn nhiều
-Hoan hô ô tô
-Khúc hò khoan trên sông
Hƣơng
-Làng Chăm ơn Bác
-Lời cô gái Lệ Ninh
-Lời Bác dặn trƣớc lúc đi xa
-Lồng lộng quê Thanh
-Mai em về
-Mai em về Hà Tĩnh
-Mẹ tôi
-Miền Trung nhớ Bác
-Một thoáng Nghệ An
-Một khúc tâm tình của ngƣời
Hà Tĩnh
-Một mùa xuân nho nhỏ
-Một thoáng Nghệ An
-Mời anh về thăm thành Huế
-Mời anh về Hà Tĩnh
-Mƣa rơi
-Neo đậu bến quê
-Noi gƣơng anh Cù Chính Lan
-Những dũng sĩ núi Thành
-Nhịp hành quân mùa xuân
chiến thắng
-Nhớ về Nhật Lệ
-Nhớ về quê mẹ
-Nhớ về mẹ Suốt
-Nghe em hát lý tang tình
-Những cô gái Vân Dƣơng
Trần Hoàn
Trọng Bằng
Trần Hoàn
Hoàng Vân
Trƣơng Tuyết Mai, Đỗ thị
Thanh Bình
An Thuyên
Trần Hoàn
Trọng Bằng
Trọng Bằng
Trần Hoàn
Amƣ Nhân
Trần Hoàn
Trần Hoàn
Trọng Bằng
Tuấn Phƣơng
Trần Hoàn
Thuận Yến
Thuận Yến
Trọng Bằng
Trần Hoàn
Trần Hoàn
Trọng Bằng
Trần Hoàn
Trần Hoàn
Trần Hoàn
An Thuyên
Trọng Bằng
Trọng Bằng
Nguyễn Văn Tý
Trần Hoàn
Vân Đông
An Thuyên
Văn Thành Nho
Trần Hoàn
148
5
Trung bộ
-Núi rừng hát về anh
-Phố huyện quê tôi
-Quảng Bình quê ta ơi
-Quảng Nam yêu thƣơng
-Quê tôi miền Trung
-Sông Hƣơng gửi sông Đà
-Sông Gianh chín nhịp cầu
-Sông Hàn tình yêu của tôi
-Sông Ngà sâu
-Thanh Hoá anh hùng
-Tình yêu Pônnaga
-Tình ca mặt trời
-Tiếng hò trên đất Nghệ An
-Tiếng hát sông Lam
-Tiếng hò trên đất Nghệ An
-Tiếng trống hội Ktê
-Tiếng đàn Ta Lƣ
-Tiếng hát đêm nhà Rông
-Thƣơng lắm miền Trung
-Trên bến Giang Đình
-Vầng trăng Ba đình
-Về đồng Lê
-Về thành Vinh
-Vỗ bến Lam chiều
-Xa khơi
-Xin ngƣời chớ bỏ dòng sông
Tuấn Phƣơng
Đôn Truyền
Hoàng Vân
Phan Huỳnh Điểu
Trần Hoàn
Trần Hoàn
Phó Đức Phƣơng
An Thuyên
An Thuyên
Hoàng Đạm
Vũ Trọng Tƣờng
An Thuyên
Tân Huyền
Đinh Quang Hợp
Tân Huyền
Amƣ Nhân
Huy Thục
Ngọc Tƣờng
Trần Hoàn
An Thuyên
Thuận Yến
Trần Hoàn
Tuấn Phƣơng
Trần Hoàn
Nguyễn Tài Tuệ
Tuấn Phƣơng
6
Tây
Nguyên
-Âm vang cao nguyên
-Bác Hồ sống mãi với Tây
Nguyên
-Bài ca quê hƣơng
-Ban Mê chiều ráng đỏ
-Bình minh rừng cao su
-Bóng cây Kơ nia
-Cánh chim báo tin vui
-Chim Phí bay về nguồn cội
-Chim Pong-Kle
-Chiều Đak-ơ
-Cô gái vót chông
-Đàn T’Rƣng
-Đất nƣớc đứng lên (nhạc kịch)
Xuân Hồng
Lê Lôi
Ymoan, Quang Dũng
Cát Vận
Linh Nga Niêk Đam
Phan Huỳnh Điểu,Ngọc Anh
Đàm Thanh
Yphôn Ksor
Nhật Lai
Trí Thanh
Hoàng Hiệp, Môlôyclavi
Nguyễn Viêm, Huy Cận
An Thuyên, Nguyên Ngọc
149
6
Tây
Nguyên
-Đêm trăng buôn mới
-Đêm thao thức
-Em là hoa Pơ – lang
-Em đẹp nhƣ sao băng
-Gặt lúa
-Hát mừng anh hùng Núp
-Khúc ca H’rê
-Khát vọng Đan Kia
-Lak quê ta
-Lôông oô (ru em)
-Lời tƣợng mồ Tây Nguyên
-Mùa xuân Tây Nguyên
-Mƣa cao nguyên
-Mừng chiến thắng TâyNguyên
-Nắng gió cao nguyên
-Ngƣời lái đò trên sông Pô – cô
-Ngƣời con gái Pa – Kô
-Ngọn lửa cao nguyên
-Ngợi ca anh hùng Pinăng -
Thạnh
-Nhớ
-Nhƣ gió cao nguyên
-Nƣớc về Tây Nguyên
-Nu mê nu nơi (Lời mẹ ru)
-Ơ chim Kơ tia
-Ơi M’Đrăk, M’Đrăk
-Ơn Bác Hồ với Tây Nguyên
-Phum Sróc nhớ Bác
-Rừng xanh từ đây bừng sáng
-Rừng núi Tây Nguyên chiến
công hoa nở
-Sim Kring
-Sông Đăk kông mùa xuân về
-Tạm biệt suối nguồn
-Tây Nguyên bất khuất
-Tây Nguyên chiến thắng
-Tây Nguyên mừng đón thơ
Bác
-Tây nguyên quê em
-Tháng ba Tây Nguyên
Kpa Ylăng, Trần Quang Huy
Kpa Púi
Đức Minh
Y Yơn
Y Yơn
Trần Quý
Phan Ngọc
Dƣơng Toàn Thiên
Ama Nô, Linh Nga
A Đũh
Tân Huyền
Trần Hoàn
Linh Nga Niêk Đam
Xuân Giao
Tân Huyền
Cầm Phong, Mai Trang
Huy Thục
Trần Tiến
Giáp Văn Thạch
Lê Yên
Phan Ngọc
Tô Hải
Đình Nghi
Y Sơn Niê
Nguyễn Cƣờng
Võ Mạnh Trí
Sơn Lƣơng, ĐaRa
Nguyễn Viêm
Chu Minh
KrajanĐik
Tố Hải
KrajanĐik
Văn Ký
Mai Đức Vƣợng
Doãn Nho
Thạch Rƣơng, Trí Thanh
Văn Thắng, Thân Nhƣ Thơ
150
6
Tây
Nguyên
-Tình ca Tây Nguyên
-Tình khúc Đăm’bri
-Tiếng cồng Plây Gi-răng
-Tiếng cồng giải phóng, tiếng
cồng chiến thắng
-Tiếng hát giữa rừng đại ngàn
-Tiếng chim bên dòng Krông
Ana
-Tiếng chày trên sóc Bom Bo
-Tiếng hát Mơ nông Tibri
-Tiếng hát ban mai
-Tiếng cồng Plây Gi-răng
-Trên những nẻo đƣờng xuân
-Thƣơng mãi, thƣơng hoài,
Yaly ơi!
-Vòng tay cao nguyên
-Vòng tay Đam San
Hoàng Vân
Văn Thành Nho
Hồ Bắc
Hoàng Vân
Dƣơng Thụ
Kpa Púi
Xuân Hồng
Nhật Lai
Thanh Anh
Hồ Bắc
Kpa Ylăng, Trọng Thuỷ
Huy Du
A Đũh
Trƣơng Ngọc Ninh
7
Nam bộ
-Bài ca Hƣng Yên
-Biển vẫn còn ru
-Câu hò bên bờ Hiền Lƣơng
-Câu Lý và ngƣời thƣơng
- Đi tìm ngƣời hát Lý thƣơng
Nhau
-Dáng đứng Bến Tre
-Đi trong hƣơng tràm
-Hai ngƣời mẹ (nhạc kịch)
-Hồ Chí Minh đẹp nhất tên
Ngƣời
-Huế tình yêu của tôi
-Huyền thoại mẹ
-Hƣơng thầm
-Lên ngàn
-Mùa chim én bay
-Miền Nam nhớ mãi ơn Ngƣời
-Ở hai đầu nỗi nhớ
- Rặng Trâm bầu
-Sợi nhớ sợi thƣơng
-Thăm Bến nhà Rồng
-Trên quê hƣơng Minh Hải
Lê Mây
Lê Mây
Hoàng Hiệp, Đằng Giao
Lê mây
Vĩnh An
Nguyễn Văn Tý
Thuận Yến
An Thuyên, Anh Đức
Trần Kiết Tƣờng
Trƣơng Tuyết Mai
Trịnh Công Sơn
Vũ Hoàng
Hoàng Việt
Hoàng Hiệp
Lƣu Cầu
Phan Huỳnh Điểu
Thái Cơ
Phan Huỳnh Điểu
Trần Hoàn
Phan Nhân
151
IV
Ca hát
truyền
thống
chuyên
nghiệp
1
Ca trù
-Bến Âu Lâu
-Cho tôi về Hồng Lĩnh
-Du thuyền trên sóng Hạ Long
-Đàn cầm dây vũ dây văn
-Đất nƣớc lời ru
-Đợi
-Đêm trăng Cát bà
-Hà nội linh thiêng hào hoa
-Hạt mƣa mùa xuân
-Mái đình làng biển
-Một nét Ca trù ngày xuân
-Một thoáng Tây hồ
-Phủ Tây Hồ
-Tình vẫn thế
-Thì thầm mùa xuân
-Trăng khuyết
-Trăng về phố
- Trên đỉnh Phù Vân
-Về Ninh Bình
Nguyễn Cƣờng
Lê Mây, Hiền Mặc Chất
Nguyễn Cƣờng
Nguyễn Cƣờng
Văn Thành Nho
Huy Thục, Vũ Quần Phƣơng
Lê Mây, Hà châu
Lê Mây
Trƣơng Ngọc Ninh
Nguyễn Cƣờng
Nguyễn Cƣờng
Phó Đức Phƣơng
Phú Quang
Lê Mây
Ngọc Châu
Huy Thục, Phi Tuyết Ba
Lê Mây
Phó Đức Phƣơng
Trọng Bằng
2
Chèo
-Cô Nụ quê tôi
-Chuyện cái cột tre của chiến sĩ
thông tin
-Chuyện tình Ba Bể
-Dang dở
-Đế quốc Mỹ là cái thân con
ruồi
-Đóng nhanh lúa tốt
-Đƣờng cày đảm đang
-Em bé đi học trƣờng làng
-Em ở nơi đâu
-Liên khúc Thị Màu (5 bài)
+Say trăng
+Độc thoại Thị Mầu
+Theo em lên chùa
+Gió lộng cái con sông Trà
Phó Đức Phƣơng
Đôn Truyền, Phạm Văn
Lê Mây
Duy Quang
Trọng Bằng
Lê Lôi
An Chung
Trọng Bằng
Phan Nhân
Nguyễn Cƣờng
- - - - - - - - - -
- - - - - - - - - -
- - - - - - - - - -
- - - - - - - - - -
152
2
Chèo
+Rung rinh ngai vàng
-Mùa cói
-Mƣa xuân
-Nhịp cầu nối những bờ vui
-Những cô gái Quan Họ
-Say trăng
-Tình dẫu mà tình tôi
-Tình quê hƣơng
-Tôi về ngẩn ngơ
- - - - - - - - - -
Hoàng Hà
Huy Thục, Nguyễn Bính
Văn An
Phó Đức Phƣơng
Nguyễn Cƣờng
Nguyễn Cƣờng
Trọng Bằng
Nguyễn Cƣờng
3 Xẩm -Lời Ngƣời ra đi
-Về quê
Trần Hoàn
Phó Đức Phƣơng
4
Hát Văn
-Cảm hứng Phủ Giầy
-Đàn cầm dây vũ dây văn
-Đây là quê em Ninh Bình
-Nghe em, câu hát Văn chiều
nay
-Tình ngƣời Hà Nội
-Trẩy hội đền Trần
Nguyễn Cƣờng
- - - - - - - - - - -
- - - - - - - - - - -
- - - - - - - - - - -
Văn Thành Nho
Phó Đức Phƣơng
5
Tuồng
- Biển Mũi
-Chiếu dời đô
- Không thể và có thể
- Hồn đá
- Nguyễn Trãi, Côn Sơn
- Ngũ Hoành Sơn
Phó Đức Phƣơng
Nguyễn Tiến
Phó Đức Phƣơng
Ngọc Quang
Lê Mây
Phó Đức Phƣơng
153
HÌNH CÁC CƠ QUAN CẤU ÂM
Hình 1.1 Các cơ quan hô hấp
Hình 1.2 Thanh đới và khe thanh đới
154
Hình 1.3 Bốn trạng thái đóng - mở của thanh đới
Hình 1.4
Các cơ quan phát âm, các xoang cộng hƣởng và hƣớng đi của làn hơi.
155
Các bảng hệ thống: Âm đầu, âm giữa (âm chính ), âm cuối và
trục thanh điệu trong
Biểu đồ độ mở của nguyên âm
Bảng biểu các nguyên âm
Bảng biểu thanh điệu
156
a) Hệ thống âm đầu(Khởi âm):
Hệ thống âm đầu
b) Hệ thống âm chính (Âm đầu-Âm giữa):
-Tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi:
Hệ thống âm chính
-Tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi:
Hệ thống âm chính
157
c) Hệ thống nguyên âm tiếng Việt
Hệ thống nguyên âm tiếng Việt
c) Hệ thống âm cuối (kết âm):
Hệ thống âm cuối tiếng Việt
e) Sơ đồ thanh điệu:
158
Những nghệ sĩ, ca sĩ thành công bởi kết hợp hài hoà
nghệ thuật hát mở và nghệ thuật hát khép:
Trong quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật hát Mới
nhiều thế hệ nghệ sĩ, ca sĩ tài năng đã có nhiều sáng tạo vận dụng kết hợp
nghệ thuật hát mở và hát khép với những phong cách và phƣơng pháp
sáng tạo khác nhau vào các ca khúc tiếng Việt và đã gặt hái đƣợc những
thành công đáng kể nhƣ:
- NSND Quốc Hƣơng đã biết ứng dụng phƣơng pháp hát mở, tròn
vành của Bel canto để thích hợp với lối hát đóng kín đáo của tiếng Việt.
Những bài hát mà nghệ sĩ NSND Quốc Hƣơng đã dồn nhiều tâm sức
sáng tạo và hát rất thành công nhƣ: Tình ca (Hoàng Việt), Hà Tây quê
lụa (Nhật Lai), Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí - Nguyễn Bính) Khai
phá miền Tây (Bửu Huyền), Bài ca ngƣời thợ rừng của Phạm Tuyên,
Đất quê ta mênh mông (Hoàng Hiệp – Bùi Minh Quốc), Những ánh sao
đêm (Phan Huỳnh Điểu), Cùng hành quân giữa mùa xuân (Cẩm La), Mẹ
đào hầm (Hoàng Hiệp – Dƣơng Hƣơng ly), Cuộc đời vẫn đẹp sao ( Phan
Huỳnh Điểu)…
- NSND Quý Dƣơng: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giọng hát
của NSND Quí Dƣơng đã vận dụng phƣơng pháp hát Mới một cách điêu
luyện vào hát những ca khúc cách mạng rất thành công nhƣ: Tấm áo
chiến sĩ mẹ vá năm xƣa (Nguyễn Văn Tý), Nhớ (Hoàng Vân - Nguyễn
Đình Thi), Bài ca ngƣời thuỷ thủ (Hoàng vân), Tôi là ngƣời thợ lò
159
(Hoàng Vân), Tôi ngƣời lái xe (An chung), Ngọn đèn đứng gác (Hoàng
Hiệp – Chính Hữu), Tiếng nói ngƣời Hà Nội (Văn An - Cảnh Trà), Dáng
đứng Việt Nam (Nguyễn Chí vũ – Lê Anh Xuân), Hà Nội những đêm
không ngủ (Phạm Tuyên), Cùng anh tiến quân trên đƣờng dài (Huy Du –
Xuân Sách), Đƣờng Trƣờng Sơn xe anh qua (Văn Dung), Chào em cô
gái Lam Hồng (Ánh Dƣơng), Vàm cỏ Đông (Trƣơng Quang Lục – Hoài
Vũ), Xe ta đi trong đêm Trƣờng Sơn (Tân Huyền), Tình đất đỏ miền
Đông (Trần Long Ẩn), Tình em (Huy Du - Ngọc Sơn), Chiều trên bến
cảng (Nguyễn Đức Toàn)…
- NSND Trần Hiếu: Đã rất thành công với cách hát các ca khúc gần
với nghệ thuật hát Nói của nghệ thuật hát dân gian: Con Voi (Đỗ Nhuận),
Đế quốc Mỹ là cái thân con ruồi (Trọng Bằng), Lỳ và Sáo (Văn Chung),
Anh quân bƣu vui tính (Đàm Thanh), Tôi là Lê Anh Nuôi (Đàm Thanh),
Chiếc khăn Piêu (Trần Tiến), Hò kéo pháo (Hoàng Vân)…
- PGS-NSND Trung Kiên: Đã vận dụng sáng tạo kỹ thuật Bel canto
vào những ca khúc Việt Nam rất “tròn vành” mà vẫn “rõ chữ”: Chào
sông Mã anh hùng (Xuân Giao), Tình ca (Hoàng Việt), Gặp nhau trên
đỉnh Trƣờng Sơn (Hoàng Hà), Bài ca Trƣờng Sơn (Trần Chung - Gia
Dũng), Đất nƣớc trọn niềm vui (Hoàng Hà), Ngƣời chiến sĩ ấy (Hoàng
Vân), Thành phố hoa phƣợng đỏ (Lƣơng Vĩnh - Hải Nhƣ), Bác Hồ sống
mãi với Tây Nguyên (Lê Lôi), Sông Đak’rông mùa xuân về (Tô Hải),
Tiếng hát từ thành phố mang tên Ngƣời (Cao Việt Bách – Đăng Trung),
Hà Nội niềm tin và hy vọng (Phan Nhân), Dáng đứng Việt Nam (Nguyễn
Chí Vũ – Lê Anh Xuân), Ca ngợi Hồ Chủ Tịch (Văn Cao), Bài ca hy
vọng (Văn Ký), Em có nghe âm thanh ngày mới (Nguyễn An), Ngƣời lái
đò trên sông Pô-cô (Cầm Phong), Bài ca trƣờng Sơn (Trần Chung), Lời
thề sắt son (Nguyễn Đình Tấn)…
160
- NSƢT Quang Hƣng: Kết hợp sáng tạo kỹ thuật hát Mới phù hợp
với cách “nhả chữ” tiếng Việt vào những ca khúc: Tôi là Lê Anh Nuôi
(Đàm Thanh), Anh quân bƣu vui tính (Đàm Thanh), Mơ đời chiến sĩ
(Lƣơng Ngọc Trác), Chiếc gậy Trƣờng sơn (Phạm Tuyên), Gẩy đàn lên
hỡi ngƣời bạn Mỹ (Phạm Tuyên), Hà Nội những đêm không ngủ (Phạm
Tuyên), Chiếc khăn Piêu (Trần Tiến), Ngọn đèn đứng gác (Hoàng Hiệp
– Chính Hữu), Sông Lô (Văn Cao), Lỳ và Sáo (Văn Chung), Hát mừng
các cụ dân quân (Đỗ Nhuận), Quê hƣơng anh bộ đội (Xuân Oanh), Cuộc
đời vẫn đẹp sao (Phan Huỳnh Điểu)…
- NSND Thanh Huyền: Đã kết hợp nhuần nhuyến kỹ thuật hát Mới
với cách hát luyến láy mềm mại của nghệ thuật hát dân gian vào các ca
khúc: Xuân chiến khu (Xuân Hồng), Đƣờng cày đảm đang (An Chung),
Hà nội - Huế - Sài Gòn (Hoàng Vân), Trăng sáng đôi miền (An Chung),
Ngƣời ơi ngƣời ở đừng về (dân ca Quan họ Bắc Ninh - cải biên Xuân
Tứ), Quảng Bình quê ta ơi (Hoàng Vân), Trông cây lại nhớ đến Ngƣời
(Hò Ví dặm - cải biên Đỗ Nhuận), Tiếng hò trên đất Nghệ An (Tân
Huyền), Tiếng hát sông Lam (Đinh Quang Hợp), Mẹ yêu con (Nguyễn
văn Tý)…
- NSND Tƣờng Vi: Đã vận dụng một cách thuần thục nghệ thuật hát
Mới vào những ca khúc mang âm hƣởng dân gian cũng nhƣ các ca khúc
Việt Nam khác: Nhớ (Lê Yên – Thanh Hải), Phi đội ta xuất kích (Tƣờng
Vi), Suối Lê Nin (Hà té – Hoàng Đạm), Tiếng hát sông Lam (Đinh
Quang Hợp), Tiếng đàn Ta Lƣ (Huy Thục), Tích tà tích tích tiếng hát
thông tin (Huy Thục), Ngƣời con gái sông La (Doãn Nho – Phƣơng
Thuý), Ngƣời lái đò trên sông Pô Kô (Cầm Phong), Cô gái vót chông
(Hoàng Hiệp), Em là hoa Pơ Lang (Đức Minh), Tháng ba Tây Nguyên
161
(Văn Thắng - Thân Nhƣ Thơ), Gửi sông La (Lê Việt Hoà – Minh
Khanh), Cánh chim báo tin vui (Đàm Thanh)…
- NS Bích Liên: Đã vận dụng một cách sáng tạo nghệ thật hát Bel
canto vào những ca khúc Việt Nam rất thành công: Bài ca năm tấn
(Nguyễn văn Tý), Ngƣời là niềm tin tất thắng (Chu Minh), Chào anh
giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng (Hoàng Vân), Nổi lửa lên em
(Huy Du – Giang Lam), Đƣờng tầu mùa xuân (Phạm Minh Tuấn),
Đƣờng tôi đi dài theo đất nƣớc (Vũ trọng Hối), Biết ơn chị Võ Thị Sáu
(Nguyễn Đức Toàn), Bế Văn Đàn sống mãi (Huy Du), Lời anh vọng mãi
ngàn năm (Vũ Thanh), Em bé Bảo Ninh (Trần Hữu Pháp - Nguyễn Văn
Dinh), Ngƣời lái đò trên sông Pô Kô (Cầm Phong – Mai Trang)…
- NS Mỹ Bình: Ngƣời Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Làng tôi (Hồ
Bắc), Quê em (Nguyễn Đức Toàn),…
- NGƢT Diệu Thuý: Lô Giang (Lƣơng Ngọc Trác), Quê em
(Nguyễn Đức Toàn), Trƣờng ca sông Lô (Văn Cao)…
- NSƢT Kiều Hƣng: Cảm xúc tháng Mƣời (Nguyễn Thành - Tạ Hữu
Yên), Tình ca (Hoàng Việt), Em ở nơi đâu (Phan nhân), Tiếng đàn bầu
(Nguyễn Đình Phúc - Lữ Giang), Tổ quốc tôi chƣa đẹp thế bao giờ
(Nguyễn Văn Thƣơng - Tố Hữu), Chiếc nón bài thơ (Lê Việt Hoà – Sơn
Tùng), Gửi nắng cho em (Phạm Tuyên – Bùi Văn Dung), Cung đàn mùa
xuân (Cao Việt Bách – Lƣu Trọng Lƣ), Sông Đak’Rông mùa xuân về (Tố
Hải), Bài ca trên núi (Nguyễn Văn Thƣơng), Hồ Chí Minh đẹp nhất tên
Ngƣời (Trần Kiết Tƣờng)…
- NSƢT Tuyết Thanh: Nổi trống lên rừng núi ơi (Hoàng Vân), Bài
ca Hà Nội (Vũ Thanh), Miền nam nhớ mãi ơn Ngƣời (Lƣu cầu), Bông
hoa tám cánh (An Chung), Hẹn mùa mƣời tấn năm sau (Tô hải), Bà mẹ
miền Nam tay không bắt giặc (Thuận Yến), Bác hồ sống mãi với Tây
162
Nguyên (Lê Lôi), Tình ta biển bạc đồng xanh (Hoàng Sông), Chợ chờ
em vẫn chờ ai (Huy Du), Trăng sáng trên rừng quế (Trọng Loan), Hoa
sen Tháp Mƣời (Trƣơng Quang Lục), Việt Bắc nhớ bác Hồ (Phạm
Tuyên), Tiếng hò trên đất Nghệ An (Tân Huyền), Bài ca phụ nữ Việt
Nam (Nguyễn Văn Tý), Nghe câu hát Văn chiều nay (Nguyễn Cƣờng)…
- NSƢT Quang Phác: Hồ trên núi (Phó Đức Phƣơng), Hò biển
(Nguyễn Cƣờng), Huyền thoại hồ núi Cốc (Phó Đức Phƣơng), Đi dọc
Việt nam (Cát Vận), Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó (Nguyễn Tài Tuệ),
Ngƣời về thăm quê (Thuận Yến), Dòng sông tuổi thơ (Hoàng Hiệp),
Chiều Hồ gƣơm (Đặng An Nguyên), Hà nội những kỷ niệm trong tôi
(Đoàn Bổng), Mặt trời bé con (Trần Tiến)…
- NSND Quang Thọ: Ta tự hào đi lên ôi Việt nam (Chu minh),
Sông Lô (Văn Cao), Tôi là ngƣời thợ lò (Hoàng Vân), Lá đỏ (Hoàng
Hiệp), Sơn nữ ca (Trần Hoàn), Tình ca (Hoàng Việt), Tâm tình ngƣời
thủy thủ (Hoàng Vân), Hƣớng về Hà Nội (Hoàng Dƣơng), Những thành
phố bên bờ biển cả (Phạm Đình Sáu)…
- NSƢT Thuý Hà: Bến cảng quê hƣơng tôi (Hồ Bắc), Cánh chim
báo tin vui (Đàm Thanh), Anh bộ đội và chiếc xe quệt (Nguyễn Lầy -
Tuấn Long), Cô Sao (Vai cô Sao trong nhạc kịch cùng tên của Đỗ
Nhuận), Cây lúa Hàm Rồng (Đôn Truyền), Vui mở Đƣờng (Đỗ Nhuận),
Suối Lê-Nin (Phạm Tuyên), Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân
đại thắng (Hoàng Vân)…
- NSND Lê Dung: Anh ở đầu sông em cuối sông (Phan Huỳnh
Điểu – Hoài Vũ), Gửi em ở cuối sông Hồng (Thuận Yến – Dƣơng Soái),
Bài ca hy vọng (Văn Ký), Đêm đông (Nguyễn Văn Thƣơng), Cô gái vót
chông (Hoàng Hiệp), Ngƣời Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Hoạ mi hót
trong mƣa (Dƣơng Thụ), Sơn nữ ca (Trần Hoàn), Bác Hồ sống mãi với
163
Tây Nguyên (Lê Lôi), Em là hoa Pơ Lang (Đức Minh), Trăng sáng đôi
miền (An Chung), Đƣờng chúng ta đi (Huy Du)…
164
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Dƣơng Viết Á (2005), Âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hoá (tập I,
II), NXB Hà Nội.
2. Nguyễn Trọng Ánh (2007), Những giá trị âm nhạc trong hát Quan họ,
Luận án tiến sĩ nghệ thuật học.
3. Nguyễn Bách (2006), “Âm nhạc trong tiếng rao hàng của ngƣời Việt”,
Trang web.Trần Quang Hải.
4. Văn Cẩn (2003), “Những cơ sở khoa học của một nền thanh nhạc dân
tộc”, thông báo khoa học (số 8),Viện âm nhạc.
5. Lê Ngọc Cầu (1983), “Từ Ca trù Đến hát Bội”, Nghiên cứu nghệ thuật (số
2).
6. Lê Ngọc Cầu (1985), “Lại bàn về đặc trƣng hát Bội”, Nghiên cứu nghệ
thuật (số 4).
7. Trần Chính (1994), “Tính chất ngẫu hứng trong nghệ thuật Chèo cổ”, Văn
hoá dân gian (số 2).
8. Mai Ngọc Chừ (1982), “Tiếng Việt và sự tròn vành rõ chữ của tiếng hát
dân tộc”, Thông tin khoa học chuyên san Ngôn ngữ, ĐHTH Hà Nội (số
5).
9. Nguyễn Đức Côn (1966), “Múa và hát là linh hồn của nghệ thuật Chèo”,
Văn nghệ (số 174).
10. Võ Dần (1960), “Bàn về hát Bội”, Văn hoá (số 11).
11. Kính Dân (1981), “Một số băn khoăn chung quanh vấn đề “dân tộc - Hiện
đại””, Văn hoá nghệ thuật (số 5).
12. Hà Minh Đức (2005), “ Một nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân
tộc”, NXB KHXH.
13. Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề (1994), Việt Nam Ca trù biên khảo, Nxb
TP HCM.
14. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, Nxb Giáo
dục.
15. Nhiều tác giả (2003), Ca trù nhìn từ nhiều phía, NXB VHTT.
16. Nhiều tác giả (2006), Đặc khảo Ca trù Việt Nam, Viện Âm Nhạc.
17. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ, ĐHKH Xã hội và
Nhân văn - ĐHQGHN
18. Nguyễn Mạnh Hà (29/3/2006), “Di sản Quan Họ còn gì để mất”, Báo
Tiền Phong.
165
19. Bùi Đức Hạnh (1972), 150 làn điệu chèo cổ, Nxb VH DT.
20. Phạm Đình Hổ (1989), Vũ Trung Tuỳ Bút, Nxb Trẻ.
21. Hội Nhạc Sĩ Việt Nam (1997), “Nhạc Sĩ Việt Nam Hiện Đại”, Hà Nội.
22. Hội Ngôn Ngữ Học Hà Nội (2010), Hà Nội những vấn đề Ngôn ngữ Văn
hoá, NXB Thời Đại.
23. Đam Kịch Khách (1936), “Tuồng hát Bộ và đặc điểm của nó”, Tuần báo
Tân văn (số 42).
22. Hoàng Kiều (2001), Thanh điệu tiếng Việt và Âm nhạc cổ truyền, Viện
Âm Nhạc.
23. Nguyễn Xuân Khoát, Ca trù nhìn từ nhiều phía, Nxb - VHTT
24. Nguyễn Thúc Khiêm (1929), “Khảo về hát Tuồng và hát Chèo”, Tạp chí
Nam phong (số 144).
25. Hoàng Châu Ký (1973), Sơ khảo lịch sử Tuồng, Nxb Văn hoá.
26. Hoàng Châu Ký (1973), “Nghệ thuật Tuồng thế kỷ XIX”, Nghiên cứu
nghệ thuật (số 1).
27. Nguyễn Trung Kiên (2004), Nghệ thuật Opera, Viện Âm nhạc
28. Nguyễn Trung Kiên (2001), Phƣơng pháp sƣ phạm thanh nhạc,Viện Âm
nhạc.
29. Hồ Mộ La (2008), Phƣơng pháp dạy thamh mhạc, Nxb Từ điển bách khoa
30. Vũ Tự Lân (1997), Những ảnh hƣởng của âm nhạc Châu Âu trong ca
khúc Việt Nam giai đoạn 1930-1950, Nxb Thế giới.
31. Trần ngọc Linh phỏng vấn GS. Trần văn Khê, “Đổ hột có phải kỹ thuật
đặc trƣng của Ca trù”, trang web Việt Báo.
32. Nguyễn Minh (1978), “Trống và Chèo”, Sân khấu (số 1).
33. Đỗ Nhuận (2003), Hồi ký Âm thanh cuộc đời, Nxb Âm nhạc.
34. Trần Việt Ngữ (1983), “Về những đặc điểm nghệ thuật của Chèo cổ”
Nghiên cứu nghệ thuật (số 3).
35. Nguyễn Thị Nhung (1986), “Sự phân cách về mặt thể loại giữa kịch Đram
và Chèo truyền thống”, Nghiên cứu nghệ thuật (số 6).
36. Khánh Phƣơng (7/2006), “…Cái yếm điều em…nó hãy còn màu”, Tạp
chí VHNT.
37. Vũ Ngọc Thảo, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ, Từ điển văn hoá dân gian.
38. Nghiêm Thanh (1991), “Kế thừa và phát huy nghệ thuật Tuồng truyền
thống”, Nhân dân (số 50).
39. Vũ Nhật Thăng (2008), “Âm nhạc Ca trù” đăng trong Đặc khảo Ca trù
Việt nam, Nxb VHTT.
40. Nguyễn Nho Tuý (3.1970), Hát Tuồng, Tài liệu nghiên cứu Viện Sân
Khấu TL.
41. Đoàn Thiện Thuật (1957), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học & THCN.
166
42. Trƣơng Ngọc Thắng (2008), Quá trình hình thành và phát triển nghệ
thuật hát chuyên nghiệp Việt nam, Luận án Tiến sĩ nghệ thuật học.
43. Từ điển tiếng Việt (1999),– Nxb Đà Nẵng.
44. Tô Vũ (2002), Âm nhạc Việt Nam truyền thống và hiện đại, Viện Âm
Nhạc.
45. Lƣ Nhất Vũ, Lê Minh Trung (2004), Hò trong dân ca của ngƣời Việt,
Viện Âm Nhạc.
46. Tô Vũ (1957), “Âm nhạc Chèo cổ”, Âm nhạc (số 1,2,3).
47. Minh Vũ (1983), “Góp phần tìm hiểu lịch sử nghệ thuật hát Bội ở miền
Nam”, Nghiên cứu nghệ thuật (số 4).
48. Tạ Hải Bảo Vƣơng, “Các loại giọng hát ở Châu Âu và Châu Á”, trang
web wwwtranquanghai.
49. Lê Yên (1994), Những vấn đề cơ bản trong Tuồng, Nxb Thế giới.
Tiếng Anh
50. Faborg Anderson (1964), Research Potentials in Voice Physiology, New
York.
51. Luchsinger và Arnold (1953), Physiologie and Pathologie of the speech
organs, Berlin.
52. Louis Bachner (1996), Dynamic singing, London: Dobson.
53. Richard Miller (1999), The Structure of singing( System and art in vocal
technique), Printed in the United States of America.
54. Re Koster (1990), Common sense of singing, Leyerle.
55. Vaccaj (1886), Metodo Paratico di canto Italiano da camera, Ricordi.
Tiếng Pháp
56. Dictionaire de la musique (1996), Larousse. France.
57. Le petit larousse (1995), Larousse.