Post on 04-Feb-2018
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
HOÀNG HÀ
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỐT RÉT VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP
PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT TẠI MỘT SỐ XÃ BIÊN GIỚI
CỦA HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ
Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số: 62 77 03 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HUẾ - 2014
Người hướng dẫn khoa học:
- PGS. TS Nguyễn Văn Tập
- PGS. TS Lê Xuân Hùng
Phản biện 1: PGS.TS Đỗ Văn Dũng
Phản biện 2: PGS.TS Đoàn Hạnh Nhân
Phản biện 3: PGS.TS Hoàng Trọng Sĩ
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sốt rét hiện nay vẫn còn là một vấn đề sức khoẻ lớn trên thế giới nói
chung và tại Việt Nam nói riêng. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới khoảng
40% dân số thế giới hiện nay đang sống trong vùng có nguy cơ mắc sốt rét. Hàng
năm có khoảng 350-500 triệu người mắc sốt rét và hơn 1 triệu người chết do sốt rét
[30]. Đến năm 2010 ước tính trên thế giới có 216 triệu người mắc sốt rét và 655.000
người chết do sốt rét [122].
Vấn đề sốt rét biên giới đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu.
Đã có nhiều vụ dịch sốt rét được ghi nhận ở các vùng biên giới như ở các huyện của
Uganda nơi có biên giới với Tanzania và Rwanda, vùng biên giới của các nước Ấn
Độ, Sri Lanka, Pakistan. Trong khu vực, vùng biên giới giữa các nước Thái Lan -
Campuchia, Thái Lan-Myanmar luôn có tình hình sốt rét phức tạp [30].
Tại Việt Nam, theo số liệu báo cáo hàng năm của Chương trình phòng chống
sốt rét Quốc gia nhiều tỉnh có mức độ lưu hành sốt rét cao chủ yếu thuộc khu vực
Miền Trung - Tây Nguyên hầu hết các tỉnh có các xã, huyện có đường biên giới với
Lào hoặc Campuchia đều có tỷ lệ bệnh nhân mắc sốt rét cao hơn so với các địa
phương khác trong toàn quốc [28]. Bệnh sốt rét tuy đã giảm nhưng có nguy cơ quay
trở lại lớn; đối tượng dễ mắc bệnh là những người sống ở vùng sâu, vùng xa và đặc
biệt là những người dân sống ở vùng biên giới giữa Việt Nam với Lào và
Campuchia. Tại các vùng này nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp, việc
nhiễm bệnh sốt rét chủ yếu thông qua giao lưu tự do nên rất khó khăn trong việc
giám sát, phát hiện, điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét [42].
Quảng Trị là một tỉnh thuộc khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Tình hình sốt
rét của tỉnh tuy đã được cải thiện nhiều trong những năm qua nhưng tỷ lệ mắc và
nguy cơ sốt rét vẫn còn cao. Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét, ký sinh trùng sốt rét/1.000 dân;
tỷ lệ tử vong do sốt rét/100.000 dân vẫn nằm trong số 6 tỉnh có tỷ lệ mắc sốt rét cao
nhất trong toàn quốc [74]. Tình hình dịch tễ sốt rét vùng biên giới giữa 2 tỉnh Quảng
Trị (Việt Nam) và Savanakhet (Lào) thường diễn biến phức tạp, ký sinh trùng
thường lây lan qua lại giữa các thôn ở 2 bên biên giới. Đặc biệt ở 12 xã thuộc vùng
Lìa của huyện Hướng Hoá giáp biên giới với Lào có tỷ lệ mắc sốt rét cao, có nhiều
ổ sốt rét trọng điểm như: xã Xy, xã Thanh [13], [18].
Hướng Hoá là một huyện trọng điểm sốt rét của tỉnh Quảng Trị , toàn bộ 22 xã
đều nằm trong vùng sốt rét lưu hành nặng, có đường biên giới dài 156 km giáp với
tỉnh Savanakhet (Lào). Theo báo cáo của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Quảng Trị
số bệnh nhân sốt rét hàng năm của huyện Hướng Hoá thường chiếm trên 60% tổng
số bệnh nhân sốt rét của toàn tỉnh và số ký sinh trùng sốt rét luôn trên 50% tổng số
ký sinh trùng được phát hiện trong toàn tỉnh. Trong đó số bệnh nhân sốt rét được
phát hiện từ các xã biên giới luôn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số bệnh nhân sốt rét
toàn huyện [41].
Từ trước đến nay các nghiên cứu về bệnh sốt rét ở nước ta và ngay tại tỉnh
Quảng Trị vẫn tập trung vào dịch tễ sốt rét, phòng chống véc tơ [13], [14], kháng
thuốc sốt rét [42], [58], kiến thức-thái độ-thực hành [17], [41], xây dựng mạng lưới
[12] và cũng đã đạt được nhiều kết quả về phòng chống bệnh sốt rét nhưng vẫn còn
nhiều ổ bệnh dai dẵng chưa được giải quyết triệt để do chưa có một nghiên cứu nào
về mô hình về quản lý, giám sát, phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét ngay tại
hộ gia đình ở vùng biên giới.
Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia
đình ở vùng biên giới với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ sốt rét và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét tại
một số xã biên giới của huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị.
2. Đánh giá kết quả can thiệp phòng chống sốt rét tại một số xã biên giới.
Điểm mới của nghiên cứu này là:
Xây dựng mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng biên giới tỉnh
Quảng Trị với mục tiêu phát hiện, điều trị sớm và quản lý ca bệnh sốt rét tại nhà.
Phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới giữa 2 nước Việt-Lào.
Phát hiện thêm về tác nhân gây bệnh sốt rét (KSTSR) mới ở tỉnh Quảng Trị.
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH SỐT RÉT VÙNG BIÊN GIỚI
1.1.1. Tình hình mắc và chết do sốt rét trên thế giới
Theo số liệu thống kê của Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) đến năm 2009,
bệnh SR vẫn lưu hành ở 108 quốc gia. Ước tính có khoảng 225 triệu người mắc và
781 nghìn người chết do sốt rét (SR), riêng châu Phi chiếm 91%; Đông Nam Á 6%
[115]. Châu Mỹ có khoảng 1 triệu người mắc và khoảng 1 nghìn người chết. Khu
vực Đông Nam Á sốt rét lưu hành ở hầu hết các nước với 88% dân số trong tổng số
1.320 triệu người. Sốt rét trầm trọng hơn ở các nước tiểu vùng sông Mê Kông như
Trung Quốc, Lào, Myanmar, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam [30]; có khoảng 24
triệu người mắc và khoảng 40 nghìn người chết, tính trung bình có 3.000 trẻ chết do
sốt rét ở Châu Phi mỗi năm, ước tính 125 trẻ chết trong 1 giờ và 2 đứa trẻ chết trong
vòng 1 phút. Khu vực Tây Thái Bình Dương có khoảng 2 triệu người mắc và
khoảng 3 nghìn người chết do sốt rét [30].
Mặc dù bệnh sốt rét đã được thanh toán ở nhiều nơi trên thế giới như Châu Âu,
Bắc Mỹ, một số nước Bắc Á và bệnh SR cũng đã giảm nhiều ở một số nước trong
đó có cả Việt Nam. Tuy vậy cho đến năm 2010 vẫn có 216 triệu người mắc sốt rét,
655.000 người chết do bệnh sốt rét, đặc biệt ở châu Phi (91%), Đông Nam Á (6%),
Địa Trung Hải (3%), khoảng 86% trẻ em dưới 5 tuổi chết do sốt rét [115]. Ở các
nước Châu Phi như Kenya, Uganda, Tanzania... bệnh sốt rét luôn ở mức cao [88].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về sốt rét ở các dân tộc thiểu số vùng biên giới
Vấn đề sốt rét biên giới đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu.
Đã có nhiều vụ dịch sốt rét được ghi nhận ở các vùng biên giới như ở các huyện của
Uganda nơi có biên giới với Tanzania và Rwanda, vùng biên giới của các nước Ấn
Độ, Sri Lanka, Pakistan [30]. Trong khu vực, vùng biên giới giữa các nước Thái
Lan - Campuchia, Thái Lan - Myanmar luôn có tình hình sốt rét phức tạp, tỷ lệ mắc
sốt rét trong nhóm dân di cư và gia tăng tỷ lệ P. falciparum kháng thuốc khi họ trở
lại Campuchia để điều trị [112] và cũng đã có nhiều vụ dịch sốt rét xảy ra. Những
nghiên cứu về tình hình sốt rét của vùng biên giới giữa Thái Lan và Myanmar cho
thấy tỷ lệ mắc sốt rét cao ở những người dân di cư đến làm việc ở vùng biên giới
giữa 2 nước này [112] đồng thời sốt rét là một vấn đề nghiêm trọng đối với 39,6%
số hộ gia đình được điều tra, người dân ở vùng này còn nghèo nên còn khó khăn,
thiếu thốn các nguồn phòng chống SR vì vậy người dân còn có nguy cơ mắc sốt rét
cao. Ở Thái Lan, sốt rét là một vấn đề nghiêm trọng ở biên giới [30]. Nghiên cứu
cũng cho thấy nơi ở của người dân ở trong rừng có nguy cơ mắc sốt rét cao 6,29
lần, không ở trong nhà trong vòng 7 ngày trước thời điểm xét nghiệm máu có nguy
cơ mắc sốt rét cao 4,34 lần.
Một nghiên cứu của Xu J (1996) về sốt rét biên giới ở Trung Quốc cho thấy
vùng biên giới của tỉnh Vân Nam với Việt Nam, Lào và Myanmar có một số lượng
lớn bệnh nhân sốt rét ngoại lai là người dân tộc thiểu số với tỷ một tỷ lệ lớn bệnh
nhân nhiễm P. faciparum là do kết quả của việc di biến động dân cư đi lại làm ăn
giữa các tỉnh. Các kết quả nghiên cứu cho thấy còn tồn tại rất nhiều khó khăn, phức
tạp trong vấn đề quản lý sốt rét vùng biên giới do thói quen, tập quán lao động, sinh
hoạt, người dân giao lưu qua lại biên giới nhiều. Giao thông đi lại tới các vùng biên
giới còn nhiều khó khăn nên việc tiếp cận với các dịch vụ y tế còn rất hạn chế và sự
khác nhau về việc áp dụng các biện pháp phòng chống trong Chương trình PCSR
giữa các nước có đường biên giới chung.
Những kết quả và khó khăn trong phòng chống sốt rét tại vùng biên giới giữa
các nước trên thế giới hiện nay như sau:
Tình hình người dân nhập cư và tỷ lệ mắc SR do qua lại vùng biên giới vẫn
không giảm do nhu cầu làm ăn kinh tế, buôn bán hàng lậu qua biên giới [122]. Vùng
biên giới lại là vùng rừng núi, sinh địa cảnh thuận lợi cho bệnh SR phát triển [30].
Việc phối hợp điều tra và phòng chống sốt rét (PCSR) tại vùng biên giới là rất
cần thiết [30] tuy nhiên hiện nay việc phối hợp PCSR tại vùng biên giới giữa các
nước gặp phải khó khăn do nhiều nguyên nhân: thủ tục xuất nhập cảnh để thực hiện
các hoạt động chuyên môn về y tế; chính sách thực hiện các chương trình y tế,
mạng lưới y tế khác nhau ở mỗi nước; vấn đề kinh phí chi trả cho các hoạt động y tế
ở nước khác... và nhiều khó khăn về chính trị, an ninh biên giới... đã làm cho việc
phối hợp điều tra, đặc biệt việc phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới gần
như không thể thực hiện được. Việc phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới
giữa các nước bị thất bại với các lý do nêu trên.
Vì vậy các nghiên cứu về sốt rét tại vùng biên giới phần lớn chỉ thực hiện ở
một một phía biên giới, các báo cáo cũng chỉ ghi nhận ở một phía và một số ít sốt
rét nhập cư bên kia biên giới sang mà họ ghi nhận được.
Từ trước đến nay chưa có một mô hình hợp tác phòng chống sốt rét tại vùng
biên giới nào được thực hiện. Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng
biên giới của nghiên cứu này là mới, nó bao gồm nội dung phối hợp phòng chống
sốt rét cả 2 bên biên giới của 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet (Lào).
1.1.3. Tình hình mắc và chết do sốt rét tại Việt Nam
Việt Nam được đánh giá là nước đang áp dụng và duy trì các biện pháp PCSR
một cách hiệu quả.
Bảng 1.1. Tình hình sốt rét tại Việt Nam trong 5 năm từ 2006-2010
Chỉ số 2006 2007 2008 2009 2010 % giảm
2006/2010
Số BNSR 91635 70910 60547 60867 54296 - 40,75
Tỷ lệ mắc
SR/1000 1,08 0,83 0,70 0,69 0,62 - 42,59
Số KSTSR 22637 16389 11355 16130 17515 - 22,63
Tỷ lệ
KSTSR/1000 0,27 0,19 0,13 0,18 0,20 - 25,93
Số vụ dịch SR 1 1 1 0 1
Số chết SR 41 20 25 27 21 - 48,78
Tỷ lệ chết
SR/100.000 0,05 0,02 0,03 0,03 0,02 - 60,00
Kết quả thực hiện đến năm 2010, theo báo cáo của Dự án quốc gia PCSR như
sau. Tỷ lệ tử vong do SR đạt 0,02/100.000 dân, giảm 60% so với năm 2006. Năm
2010 có 21 người chết do SR so với 41 người chết năm 2006 (giảm 48,7%); Số
người chết do SR từ năm 2006-2009 giảm không ổn định. Tỷ lệ mắc SR năm 2010
là 0,62/1.000 dân (54.296 người), giảm 42,6% so với năm 2006 [74].
Tình hình mắc và chết do sốt rét tại Miền Trung - Tây Nguyên từ 2006-2010.
So sánh 2010 với 2006 giữa miền Trung và Tây Nguyên thấy các chỉ số sốt rét
đều giảm, trong đó BNSR ở Tây Nguyên (-59,15%) giảm nhanh hơn miền Trung
(giảm 29,07%); Tử vong sốt rét tại Tây Nguyên (2 trường hợp), miền Trung (6
trường hợp); tỷ lệ KSTSR ở Tây nguyên giảm 53%, miền Trung tăng 5,11% [67].
Tình hình mắc và chết do sốt rét tại tỉnh Quảng Trị:
Xu hướng diễn biến mắc và chết do sốt rét ở Quảng Trị tương tự ở khu vực
Miền Trung - Tây Nguyên. Số mắc sốt rét hàng năm từ 2006-2007 giảm chậm, năm
2009 có xu hướng tăng trở lại, chết do sốt rét không giảm.
Tình trạng người giao lưu với vùng sốt rét ngày một nhiều, riêng tỉnh Quảng
Trị còn có đặc thù riêng khác biệt so với các tỉnh trong toàn quốc và khu vực đó là
dọc theo đường biên giới của huyện Hướng Hoá và 2 huyện Sê Pôn, Nòng của tỉnh
Savannakhet (CHDCND Lào) có rất nhiều bản của cả 2 bên ở rất gần nhau, giao lưu
qua lại để buôn bán thường xuyên, nhiều người mắc sốt rét do qua lại biên giới,
hàng trăm BNSR từ Lào sang điều trị tại các xã biên giới của huyện Hướng Hoá.
1.1.4. Tình hình nghiên cứu và phòng chống sốt rét tại vùng biên giới Việt Nam
Việt Nam hiện nay có 25 tỉnh có biên giới đất liền với 3 nước là Trung Quốc,
Lào và Campuchia. Hàng năm, số bệnh nhân mắc và chết do sốt rét tại các tỉnh có
biên giới đều cao hơn so với các tỉnh khác trong toàn quốc, trong đó tỷ lệ mắc sốt
rét ở các tỉnh giáp Campuchia là cao, sau đó đến các tỉnh giáp Lào [28]. Theo số
liệu thống kê năm 2007 của chương trình Quốc gia PCSR cho thấy số BNSR của
các tỉnh biên giới tỷ lệ 63,7% tổng số BNSR của toàn quốc (45.191/70.910). Số
bệnh nhân chết do sốt rét ở các tỉnh này khoảng 70% tổng số chết do sốt rét toàn
quốc (14/20).
Một nghiên cứu của Lê Xuân Hùng (2007) về thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng
và biện pháp can thiệp sốt rét ở biên giới Việt Nam từ năm 2002 đến 2006 cho thấy
tỷ lệ mắc sốt rét hàng năm ở các tỉnh biên giới cao hơn so với các tỉnh không có
biên giới và so với cả nước, tỷ lệ hiểu biết của người dân về bệnh sốt rét chỉ từ 63,3
đến 64,5% và số hộ dân có đủ màn nằm còn thấp từ 57% đến 65% [28]. Tại các
vùng biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia, giao lưu biên giới làm cho
nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp, việc kiểm dịch biên giới tập trung
tại các cửa khẩu, nhưng sự giao lưu và nhiễm bệnh lại chủ yếu thông qua nhiều
đường tiểu ngạch dọc theo biên giới nên rất khó khăn trong việc quản lý BNSR.
Hoàng Hà (2004) trong một điều tra cắt ngang tại xã Thanh cho thấy tỷ lệ mắc
sốt rét chung là 4,0% [16] và một điều tra khác tại 2 xã biên giới của huyện Hướng
Hoá tỉnh Quảng Trị (2006) cho thấy tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét tại xã Xy
còn cao 10,8% [18]. Kết quả nghiên cứu của Đoàn Hạnh Nhân (2007) về thực trạng
sốt rét dai dẳng ở 2 huyện Hướng Hoá, Đakrông tỉnh Quảng Trị cho thấy bệnh sốt
rét lan truyền quanh năm đặc biệt tại các xã biên giới có lan truyền mạnh vào mùa
mưa và tỷ lệ mắc sốt rét hàng năm luôn cao từ 17,1 - 38,7/1.000 dân [41], [42].
Những khó khăn trong phòng chống sốt rét tại vùng biên giới của Việt Nam
với các nước Trung Quốc, Lào và Campuchia
Hầu hết dân có nguy cơ mắc sốt rét của nước ta, gần 16 triệu người (khoảng
40% dân số nguy cơ của cả nước) đều sống ở các vùng rừng núi và có biên giới với
Trung Quốc, Lào và Campuchia [28]. Cũng như trên thế giới, việc nghiên cứu và
phòng chống SR do qua lại biên giới, tại vùng biên giới ở Việt Nam cũng gặp phải
những khó khăn, thất bại nói trên. Các kết quả nghiên cứu cũng mới chỉ dừng ở
mức báo cáo số liệu tỷ lệ mắc sốt rét của mỗi nước, không được nghiên cứu cùng
một thời điểm, hoàn cảnh và cùng một nội dung, phương pháp; không thực hiện
việc phối hợp PCSR tại vùng biên giới, chính vì vậy tình hình sốt rét tại các vùng
này vẫn cứ diễn biến phức tạp và dai dẳng không giải quyết được. Việc phối hợp
phòng chống sốt rét vùng biên giới cũng thực hiện ở Việt Nam và trên thế giới.
Chính vì vậy để giải quyết vấn đề khó khăn trên, nghiên cứu này thực hiện mô
hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình, phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên
giới giữa 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet (Lào).
1.2. DỊCH TỄ HỌC BỆNH SỐT RÉT
1.2.1. Định nghĩa về bệnh sốt rét
Bệnh sốt rét (SR) là một bệnh truyền nhiễm, do ký sinh trùng Plasmodium của
người gây nên. Bệnh lây theo đường máu, do muỗi Anopheles truyền. Bệnh lưu
hành ở từng địa phương, trong những điều kiện thuận lợi có thể gây thành dịch.
1.2.2. Đặc điểm chung về sốt rét
Bệnh sốt rét lưu hành chủ yếu ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ký sinh
trùng sốt rét (KSTSR) có thể gây nên bệnh sốt rét cho con người ở tất cả các nhóm
tuổi và được truyền từ người này sang người khác qua trung gian truyền bệnh là
muỗi Anopheles (An) [31].
Có 4 loài KSTSR gây bệnh ở người gồm: Plasmodium falciparum; Plasmodium
vivax; Plasmodium malariae và Plasmodium ovale, trong số đó P. falciparum và P.
vivax là 2 loài thường gặp nhất. Từ năm 1965 ở Malaysia lần đầu tiên đã phát hiện
thêm loài thứ 5 là Plasmodium knowlesi lây từ khỉ sang người [31], [118] sau đó cũng
được phát hiện ở Thái Lan [99] và các khu rừng ở Đông Nam Á [121]. Loài KSTSR
này hiện nay là một vấn đê quan trọng cho sức khoẻ cộng đồng [90], [118]. Như vậy
cho đến nay đã khẳng định là có 5 loài KSTSR gây bệnh ở người [120]
Bệnh sốt rét tồn tại và lan truyền được phải có hội tụ của 3 yếu tố: mầm bệnh
(ký sinh trùng); trung gian truyền bệnh (muỗi sốt rét); khối cảm thụ (con người). Sự
lan truyền bệnh sốt rét khác nhau về cường độ và mức độ thường xuyên phụ thuộc
vào các yếu tố tự nhiên tại chỗ như: lượng mưa, khu vực sinh sản của muỗi và sự có
mặt của loài muỗi truyền bệnh. Ngoài ra yếu tố xã hội cũng là một trong những yếu
tố có tác động quan trọng tới quá trình lan truyền bệnh. Có những vùng bệnh sốt rét
lưu hành quanh năm với số lượng BNSR được phát hiện tương đối ổn định các
tháng trong năm. Trong khi đó, ở một số vùng bệnh nhân mắc SR theo mùa và
thường vào mùa mưa [56].
1.2.3. Tác nhân gây bệnh sốt rét
1.2.3.1. Chủng loài ký sinh trùng sốt rét trên thế giới và ở Việt Nam
Tác nhân gây bệnh sốt rét hay còn gọi là mầm bệnh sốt rét được xác định là ký
sinh trùng Plasmodium [108]. Ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người gây bệnh sốt
rét, quan sát được bằng kính hiển vi [32], KSTSR lần đầu tiên được mô tả bởi
Laveran ở Angeria [35].
Loài KSTSR gây bệnh cho người là P. falciparum (Celli và Marchiafava ở
Italy báo cáo năm 1889-1890); P. vivax và P. malariae (1886 bởi Golgi ở Italy);
P. ovale (Stephens vào năm 1922) [55]. Trong số 4 loài KSTSR gây bệnh ở người
thì P. falciparum, P. vivax là 2 loài thường gặp nhất [35]. Hiện nay là 5 loài [120].
Ở Việt Nam có mặt cả 4 loài KSTSR, trong đó P. falciparum là loài có tỷ lệ
cao nhất 80-85%, sau đó đến P. vivax, loài P. malariae và P. ovale chỉ một tỷ lệ nhỏ
[40]; gần đây đã phát hiện thêm loài thứ 5 là Plasmodium knowlesi [22], [124].
Báo cáo về nhiễm Plasmodium knowlesi là loài ký sinh trùng sốt rét thứ 5 trên
thế giới lây từ khỉ sang người, đã có ở Đông Nam Á [72], [121], đặc biêt là ở
Malaysia [31], [36] và cũng được báo cáo ở Thái Lan [99]. Theo Indra Vythilingam
(taij Kuala Lumpur) thì ký sinh trùng sốt rét ở loài khỉ Malayan lần đầu tiên được
thông báo vào năm 1908 và nó được nhắc lại vào những năm thập kỷ 1960, sau khi
tình cờ phát hiện một loài ký sinh trùng ở khỉ không đuôi có thể truyền bệnh sang
người trong phòng thí nghiệm. Năm 2004, những ca sốt rét P.malariae phát hiện ở
Sarawak Malaysian Borneo được xác định là P.knowlesi bằng kỹ thuật sinh học
phân tử [31]. Đã có 4 bệnh nhân sốt rét bị tử vong do P.knowlesi [11]. Báo cáo gần
đây cho thấy Plasmodium knowlesi có ảnh hưởng đối với sức khoẻ cộng đồng [99].
Plasmodium knowlesi lần đầu tiên đã được phát hiện ở Ninh Thuận Việt Nam,
năm 2007, từ một nghiên cứu hợp tác song phương Việt - Bỉ [22] và lần thứ 2 năm
2010, đã được phát hiện ở vùng biên giới tỉnh Quảng Trị(Việt Nam) và
Savannakhet (Lào) [124]. Chu kỳ phát triển của KSTSR qua hai vật chủ. Giai đoạn
sinh sản hữu tính ở cơ thể muỗi (vật chủ chính) và giai đoạn sinh sản vô tính thực
hiện ở cơ thể người (vật chủ phụ) [72] gây ra những hiện tượng bệnh lý.
Gian đoạn sinh sản vô tính trong cơ thể người: Ký sinh trùng từ tuyến nước bọt
của muỗi vào máu người, lưu thông trong máu. Sau 30 phút toàn bộ thoa trùng xâm
nhập tế bào gan và phát triển ở đó tạo thành thể phân liệt, thể phân liệt vỡ ra giải
phóng ký sinh trùng non từ gan xâm nhập vào hồng cầu, lúc đầu là thể tư dưỡng
(sporozoites) rồi phát triển thành ký sinh trùng non, thể phân liệt (schizont) non rồi
thể phân liệt già, phá vỡ hồng cầu giải phóng ký sinh trùng non, lúc này tương ứng
với cơn sốt rét lâm sàng. Hầu hết những mảnh trùng này quay lại ký sinh trong hồng
cầu mới, một số biệt hoá thành thể hữu tính là giao bào đực và cái, những giao bào
này nếu được muỗi hút vào dạ dày sẽ tiếp tục phát triển trong cơ thể muỗi, nếu
không được muỗi hút, giao bào ở lại trong máu rồi bị tiêu đi.
Hình 1.1. Chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người và muỗi
Nguồn. Bruce - Chwatt’s Esential Malariology.
Thời gian phát triển ký sinh trùng ở người từ khi muỗi đốt (giai đoạn ủ bệnh):
tuỳ thuộc vào loại ký sinh trùng sốt rét: P.falciparum từ 8-12 ngày; P.vivax, P.ovale
từ 11-21 ngày; P.malariae từ 21-42 ngày.
Người mang ký sinh trùng sốt rét có thể có biểu hiện những triệu chứng lâm
sàng điển hình: rét run, nóng, ra mồ hôi và khát nước. Cũng có thể biểu hiện bằng
những triệu chứng không điển hình: Sốt cao, nhức đầu, ớn lạnh, đau toàn thân,
nhưng cũng có thể không biểu hiện gì cả đó là trường hợp người mang ký sinh trùng
lạnh. Tuỳ theo loài ký sinh trùng sốt rét mang trong người mà bệnh nhân sốt mỗi
ngày một cơn (P.falciparum), hai ngày một cơn (P.vivax), ba ngày một cơn
(P.malariae) cơn sốt thường xuất hiện đúng giờ có tính chu kỳ rõ rệt, ăn khớp với
những đợt phát triển của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người.
Nếu không bị tái nhiễm hoặc không được điều trị ký sinh trùng có thể tồn tại
trong người tuỳ chủng loại: P.falciparum từ 1-2 năm; P.vivax (P.ovale) từ 1-5 năm;
P.malariae từ 3-50 năm.
Thêi gian ph¸t triÓn ký sinh trïng ë muçi phô thuéc vµo nhiÖt ®é: P.vivax
(P.malariae; P.ovale) >14,5 °C; P.falciparum >16 °C.
Ở Việt Nam, theo nhiều nghiên cứu trước năm 2000, tỷ lệ cao nhất là
P.falciparum 75-80%, P.vivax 20-25%, P.malariae 1-2%, tỷ lệ P.ovale rất hiếm.
Những năm gần đây, sự phân bố này có sự thay đổi, P.vivax tại địa phương khác, có
chiều hướng trội hơn P.falciparum [65].
Theo Triệu Nguyên Trung, Viện SR - KST - CT Qui Nhơn, cơ cấu KSTSR
khu vực miền Trung - Tây Nguyên giai đoạn 2006-2010, loài P.falciparum 84,03%
(năm 2006) và 76,45% (năm 2010); loài P.vivax. 15,04% (năm 2006) và 21,98%
(năm 2010); P.malariae 0,01-0,2%; loại phối hợp: 0,93-1,36% [67].
1.2.3.2. Ký sinh trùng sốt rét ở tại tỉnh Quảng Trị
Tại tỉnh Quảng Trị từ năm 1989 - 2009, theo báo cáo kết quả soi lam giám sát
dịch tễ sốt rét, lam điều trị, lam nghiên cứu và phân tích bằng kỹ thuật PCR của
Viện SR - KST - CT Trung ương chỉ có 2 loài KSTSR là P.falciparum, P.vivax và
thể phối hợp 2 loại này [46], [57].
Đoàn Hạnh Nhân, Nông Thị Tiến, Hoàng Hà nghiên cứu tình hình sốt rét tỉnh
Quảng Trị trong 10 năm (1997-2006) nhận thấy chỉ số KST là 2,47‰; trong lúc đó
toàn quốc là 0,27‰ [41].
1.2.3.3. Nguồn bệnh sốt rét
Nguồn bệnh sốt rét là người mang KSTSR, có thể là bệnh nhân hoặc người
lành mang ký sinh trùng [43] (ký sinh trùng lạnh - asymptomatic). BNSR là nguồn
bệnh; bệnh nhân khi có thể hữu tính của ký sinh trùng ở máu ngoại vi mới là nguồn
lây bệnh sang người [35].
1.2.4. Tác nhân truyền bệnh sốt rét
1.2.4.1. Véc tơ truyền bệnh sốt rét trên thế giới và ở Việt Nam
Véc tơ truyền bệnh sốt rét đã được xác định là muỗi Anopheles, họ muỗi
Culicidae. Trên thế giới, có khoảng trên 420 loài muỗi thuộc giống Anopheles, trong
đó khoảng 70 loài là véc tơ truyền sốt rét cho người trong điều kiện tự nhiên [59].
Mỗi vùng, mỗi nước có các loại truyền bệnh sốt rét chính khác nhau [55].
Tại Việt Nam cho đến nay phát hiện được 59 loài Anopheles trong đó có 3 loài
truyền bệnh chính là An. minimus, An. dirus và An. sundaicus (nay là An. epiroticus)
[31], [35]. Sự phân bố của An. minimus chủ yếu là ở miền Bắc trong khi đó An. dirus
chủ yếu ở miền Trung và Tây Nguyên [56].
1.2.4.2. Véc tơ truyền bệnh sốt rét tại Quảng Trị
Tại Quảng Trị qua điều tra số loài muỗi Anopheles giai đoạn năm 2000 là 18
loài [54], hiện nay sau nhiều năm phun hóa chất, tẩm màn điều tra hàng năm có 15
loài Anopheles; Véc tơ chính là An. minimus với mật độ 1,25 con/đèn/đêm; các địa
phương có SRLH nặng như xã Thanh, xã Xy đều có mặt 2 loại véc tơ này tuy nhiên
mật độ vào nhà đốt người thấp sau khi phun hóa chất [6]. Thời tiết khí hậu của Miền
Trung-Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Quảng Trị với nhiệt độ trung bình trong năm là
32,20C rất phù hợp cho muỗi Anopheles phát triển.
Lượng mưa trung bình hàng năm ở huyện Hướng Hóa và tỉnh Quảng Trị đo
được thường trên 2065,5 mm rất thuận lợi cho muỗi sốt rét sinh sản [63]. Mùa mưa
có ảnh hưởng đến việc lan truyền bệnh sốt rét, bệnh sốt rét có 2 mùa truyền bệnh là
đầu và cuối mùa mưa, mùa có điều kiện cho muỗi SR phát triển từ tháng 4-10 [6].
Về độ ẩm: ảnh hưởng đến tuổi thọ của muỗi Anopheles, muỗi Anopheles sống
lâu khi có độ ẩm tương đối cao [43]. Độ ẩm đo được trung bình ở huyện Hướng
Hóa, tỉnh Quảng Trị thường trên 80% rất thuận lợi cho muỗi sốt rét sống lâu [63].
Về sinh cảnh: Tỉnh Quảng Trị nằm ở vùng Miền Trung, có dãy Trường Sơn
chạy ở phía Tây tỉnh, địa hình từ biên giới ra biển hẹp, mạng lưới sông, suối dày
đặc, phần lớn là rừng, núi rất phù hợp với sinh địa cảnh phát triển bệnh sốt rét [63].
1.2.5. Cơ thể cảm thụ
Vật chủ hay cơ thể cảm thụ là con người - người khỏe mạnh (người lành),
người chưa có miễn dịch hoặc đã có miễn dịch với bệnh sốt rét nhưng đã giảm thấp.
Khi muỗi Anopheles có thoa trùng đốt người và đưa thoa trùng vào máu, KST
xâm nhập tế bào gan và tạo thành chu kỳ ngoại hồng cầu hay hồng cầu [35].
1.2.6. Dịch tễ học bệnh sốt rét
1.2.6.1. Dịch tễ học bệnh sốt rét là một phức hợp các yếu tố liên quan mắt xích
Dịch tễ học bệnh sốt rét là một phức hợp các yếu tố liên quan mắt xích Mối
liên quan giữa các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội với lan truyền bệnh sốt rét được
thể hiện qua sơ đồ sau [31].
VËt chñ ng−êi
T¸c nh©n
Sơ đồ 1.1. Các yếu tố dịch tễ học sốt rét. Vật chủ, tác nhân và môi trường [31].
1.2.6.2. Đối tượng mắc
Mọi đối tượng từ trẻ em tới người già đều có thể bị mắc sốt rét. Tuy nhiên, trẻ
em đối tượng có tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn hơn người lớn. Bệnh sốt rét không có
miễn dịch sốt rét đặc hiệu [31], tuy nhiên có mối liên quan của mức độ có miễn dịch
Người bệnh Ng−êi cã
ký sinh trïng
Cơ thể cảm thụ
Ký sinh trùng Véctơ
Tự nhiên Sinh học
Môi trường Kinh tế-xã hội
thấp với những người đã từng nhiễm sốt rét [88].
1.2.6.3. Phân bố địa lý theo vùng sốt rét lưu hành
Theo thống kê của TCYTTG, hiện nay bệnh sốt rét lưu hành ở các nước nhiệt
đới và cận nhiệt đới với trên 100 nước và khoảng 40% dân số thế giới với 2,2 tỷ
người có nguy cơ nhiễm sốt rét [30].
1.2.6.4. Phân vùng sốt rét ở một số nước khu vực
Về mục đích, tiêu chí phân vùng của các nước trong khu vực thường đơn giản,
số vùng phân trung bình từ 3 đến 4 vùng, chỉ mức độ, tính chất lưu hành bệnh như:
vùng sốt rét; vùng khả năng dễ có sốt rét; vùng không có hoặc đã hết sốt rét [31].
Hình 1.2. Bản đồ phân bố và mức độ lưu hành sốt rét trên thế giới
1.2.6.5. Phân vùng dịch tễ sốt rét ở Việt Nam
Năm 2009, Dự án quốc gia PCSR đã tiến hành phân vùng dịch tễ SR và can
thiệp để chỉ định hợp lý các biện pháp can thiệp PCSR.
Rất cao
Cao
Trung bình
Thấp
Không có SR
Bảng 1.2. Phân vùng dịch tễ sốt rét và can thiệp 2009
Vùng dịch tễ SR Số xã Dân số Tỷ lệ % dân số
Vùng I. Không có sốt rét lưu hành 5.636 54.530.178 62,5
Vùng II. Nguy cơ SR quay lại 2.798 17.393.146 19,9
Vùng III. SRLH nhẹ 1.527 10.537.391 12,1
Vùng IV. SRLH vừa 810 3.538.473 4,1
Vùng V. SRLH nặng 341 1.203.661 1,3
Kết quả, Việt Nam hiện tại có 05 vùng dịch tễ sốt rét khác nhau. Cả nước có
gần 15,5 triệu người sống trong vùng SR, chiếm 17,5% dân số toàn quốc [33].
1.2.6.6. Phân vùng dịch tễ sốt rét của tỉnh Quảng Trị
Tỉnh Quảng Trị có 10 huyện, thị, thành phố gồm 142 xã phân thành 5 vùng SR
Trong đó huyện Hướng Hoá có 22 xã gồm 18 xã thuộc vùng SRLH nặng và 4
xã vùng SRLH vừa. Các xã nghiên cứu đều nằm trong vùng SRLH nặng [33].
1.2.6.7. Dịch sốt rét
Theo dự án quốc gia PCSR của Việt Nam định nghĩa dịch sốt rét: “Dịch sốt rét
là khi ở một nơi có mức bệnh sốt rét (ca mắc mới) tăng đột ngột so với diễn biến
bình thường trong một quần thể dân cư (tối thiểu một thôn bản, cụm dân cư) và có
lan truyền bệnh tại chỗ” [2], [45].
Sử dụng phương pháp của Cullent. Sử dụng mô hình toán thống kê, 95%
khoảng tin cậy của phân phối thường (mean + 2SD của 5 năm). Phương pháp này
áp dụng trước đây ở Thái Lan, hiện nay ở Việt Nam [2].
Trong 5 năm (2006-2010) cả nước chỉ có 4 vụ dịch ở qui mô nhỏ [74].
1.2.6.8. Lan truyền bệnh sốt rét
Sự lan truyền bệnh sốt rét được quyết định bởi 3 yếu tố gồm: tác nhân gây
bệnh, véc tơ truyền bệnh và con người [32].
Một số yếu tố khác cũng có tác động đến sự lan truyền bệnh như: di biến động
dân cư ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc lan truyền bệnh sốt rét, tỉnh
Quảng Trị có đường biên giới giáp nước bạn Lào dài 206 km, có 2 cửa khẩu Quốc
tế và quốc gia và nhiều cửa khẩu phụ nên vấn đề sốt rét do giao lưu biên giới ngày
càng nhiều và phát hiện bệnh nhân chỉ theo phương thức thụ động [61], [62].
Theo đánh giá của TCYTTG bệnh sốt rét còn phổ biến trên nhiều vùng, các
nguyên nhân chính được xác nhận bao gồm:
Tăng kháng thuốc. Biến động dân cư. Tăng phạm vi các vùng lưu hành bệnh.
Du lịch và buôn bán ngày một nhiều. Giảm các nỗ lực phòng chống muỗi
(phun hoá chất). Khai thác lâm sản và hầm mỏ. Điều kiện thời tiết thay đổi.
1.3. CHIẾN LƯỢC PHÒNG CHỐNG BỆNH SỐT RÉT
Chiến lược phòng chống bệnh sốt rét trên qui mô toàn cầu, với 4 nguyên tắc:
- Phát hiện sớm và điều trị có hiệu quả.
- Dự phòng, bao gồm phòng chống véc tơ.
- Khống chế dịch bệnh, giám sát đánh giá và tái đánh giá thường xuyên và
nghiên cứu thực địa [50].
Phòng chống véc tơ vẫn còn là một biện pháp có hiệu quả nhất để PCSR. Vì
vậy đây là 1 trong 4 yếu tố kỹ thuật cơ bản của Chiến lược PCSR toàn cầu [55]. Các
biện pháp phối hợp: VSMT, dời chuồng gia súc ra xa nhà...
1.3.1. Chiến lược phòng chống sốt rét toàn cầu hiện nay
Do diễn biến phức tạp cũng như những khó khăn ngày càng nhiều, tình hình
SR thay đổi khắp nơi trên thế giới, TCYTTG đã triệu tập Hội nghị Bộ trưởng y tế
các nước thành viên vào tháng 10/1992 tại Amsterdam (Hà Lan). Hội nghị thông
báo tình hình SR thế giới, chấp nhận 1 chiến lược toàn cầu mới là:
Giảm mắc sốt rét, giảm tử vong do sốt rét, giảm thiệt hại về kinh tế - xã hội
thông qua việc cải thiện và củng cố các khả năng của địa phương và quốc gia. Bốn
yếu tố kỹ thuật của chiến lược này:
Cung cấp chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời.
Lập kế hoạch, thực hiện các biện pháp phòng bệnh chọn lọc, có thể duy trì.
Phát hiện sớm, khống chế hoặc ngăn chặn dịch SR.
Củng cố khả năng của địa phương dựa trên các nghiên cứu cơ bản và ứng dụng
cho phép đánh giá đều đặn tình hình SR của đất nước đặc biệt là yếu tố sinh thái, xã
hội và kinh tế có tính quyết định với bệnh SR.
1.3.2. Chiến lược phòng chống sốt rét ở Việt Nam
Chiến lược quốc gia phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét ở Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030
Mục tiêu chung:
Khống chế tỷ lệ người dân mắc bệnh sốt rét dưới 0,15/1.000 dân, tỷ lệ chết do
bệnh sốt rét dưới 0,02/100.000 dân; không còn tỉnh nào trong giai đoạn PCSR tích
cực; 40 tỉnh trong giai đoạn đề phòng bệnh sốt rét quay trở lại; 15 tỉnh trong giai
đoạn loại trừ sốt rét và 8 tỉnh trong giai đoạn tiền loại trừ sốt rét vào năm 2020 [53].
Mục tiêu cụ thể:
Tăng cường quản lý chương trình, nâng cao chất lượng hoạt động và tính bền
vững của chương trình quốc gia phòng chống và loại trừ sốt rét. Tỷ lệ mắc sốt rét
(ca sốt rét lâm sàng và ca sốt rét xác định có ký sinh trùng) xuống dưới 0,33 /1.000
dân vào năm 2015 [53]. Tỷ lệ ca xác định giảm xuống dưới 0,08/1.000 dân. Tỷ lệ ca
xác định được chẩn đoán bằng kính hiển vi và tét chẩn đoán nhanh 70% so với tổng
số ca sốt rét. Tỷ lệ ca sốt rét ác tính giảm xuống dưới 100 ca và tỷ lệ chết do sốt rét
toàn quốc giảm xuống dưới 0,02/100.000 dân vào năm 2015 [53].
1.3.3. Những khó khăn thách thức hiện nay đối với chương trình PCSR
Dân số sống trong vùng có nguy cơ sốt rét lớn với khoảng 37 triệu người hơn
40% dân số của cả nước, trong khi đó độ bao phủ và chất lượng PCSR còn hạn chế.
Số người mắc sốt rét và mang KSTSR còn cao ở một số cộng đồng dân cư ở
vùng vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa
Di biến động dân cư, số người ngủ trong rừng, rẫy; qua lại biên giới còn lớn.
Kinh tế, tập quán, nhận thức, hành vi PCSR của người dân còn thấp.
Màng lưới YTCS còn thiếu, yếu; quản lý y, dược tư nhân còn chưa đầy đủ.
Nguồn lực cho hoạt động PCSR không ổn định.
1.3.4. Các giải pháp của chương trình phòng chống SR trên thế giới, Việt Nam
Để PCSR có hiệu quả và có tính bền vững cần nắm vững các chiến lược và
giải pháp PCSR của chương trình PCSR trên thế giới và Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay và một số giải pháp bổ sung tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng của từng vùng.
Nắm vững quá trình lây truyền bệnh sốt rét và thực hiện đầy đủ có hiệu quả 7
nhóm giải pháp phòng chống sốt rét đó là:
Nhóm giải pháp về quản lý. Nhóm giải pháp về nhân lực. Nhóm giải pháp về
đầu tư. Nhóm giải pháp về truyền thông giáo dục sức khỏe thay đổi hành vi PCSR.
Nhóm giải pháp về chuyên môn kỹ thuật. Nhóm giải pháp về xã hội hóa
PCSR. Nhóm giải pháp về hợp tác quốc tế
Các nhóm giải pháp này không tách rời, thực hiện riêng lẻ mà cần phối hợp
thực hiện một cách đồng bộ mới đạt hiệu quả cao.
Trong đó tập trung vào các nội dung sau: phun, tẩm hóa chất phòng chống
muỗi sốt rét, công tác chẩn đoán sớm và điều trị bệnh sốt rét đúng, kịp thời là một
biện pháp quan trọng để phòng, chống bệnh sốt rét, để diệt mầm bệnh (KSTSR ở
người bệnh và ở người lành mang KST), hạn chế sốt rét ác tính và chết do sốt rét
đồng thời giảm lây lan cho cộng đồng. Bổ sung đào tạo đội ngũ YTTB [9].
Việc phòng chống véc tơ cho đối tượng nguy cơ, phát hiện bệnh sốt rét sớm,
điều trị kịp thời, an toàn và hiệu quả. Bảo vệ người lành bằng mang màn theo để
ngủ, cấp thuốc tự điều trị khi đi vào vùng sốt rét lưu hành, qua lại biên giới.
Tăng cường PCSR dựa vào cộng đồng, xã hội hóa tốt công tác PCSR, phối hợp
quân dân y trong PCSR. Tăng cường công tác TTGDSK về PCSR [9].
1.4. BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT
1.4.1. Sử dụng hóa chất diệt muỗi truyền bệnh sốt rét hiện nay
Có rất nhiều biện pháp phòng, chống muỗi sốt rét hiện nay đang được áp dụng.
Tuy nhiên, hai biện pháp phòng chống véc tơ sốt rét được sử dụng rộng rãi và có
hiệu quả nhất là phun hoá chất tồn lưu và màn tẩm hoá chất. Hiện nay loại hoá chất
được sử dụng rộng rãi là các hoá chất thuộc nhóm Pyrethroid [73].
Phun hóa chất loại Fendona cho vùng có tỷ lệ nằm màn dưới 80%.
Tẩm màn: tẩm màn cho vùng có tỷ lệ nằm màn trên 80%. Các loại hóa chất
tẩm màn những năm 80-90 của thế kỷ 20 là Permethrine thuộc nhóm Pyrethroite,
sau đó người ta sử dụng sang I Con hoặc Fendona cho đến ngày nay [73].
Tuy nhiên cũng cần đánh giá mức độ nhạy, kháng của Anopheles đối với hoá
chất sau một thời gian sử dụng. Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Quang và cs ở khu
vực Miền Trung-Tây Nguyên giai đoạn 2006-2010 cho thấy một số loài Anopheles
như An. Maculatus có thể đã kháng (tỷ lệ chết 73 và 78%) với Fendona và Icon ở
Bình Định và Quảng Trị [47].
1.4.2. Bảo vệ người lành (khối cảm thụ)
Song song với việc diệt muỗi sốt rét vốn chỉ được sử dụng trong nhà và khi đi
ngủ, thì việc bảo vệ khối cảm thụ là rất cần thiết cả khi ở trong nhà cũng như khi ở
trong rừng [31].
Trong giai đoạn tiêu diệt hoặc thanh toán bệnh sốt rét các thập kỷ trước đây,
với việc phát hiện ra thuốc Chloroquine, Mefloquine... người ta cho uống thuốc dự
phòng những đối tượng ở trong vùng sốt rét hoặc đi vào vùng sốt rét lưu hành.
Sau đó với việc bệnh sốt rét đã giảm, việc uống thuốc không đủ liều góp phần
đưa đến việc KSTSR kháng thuốc ngày càng gia tăng, các chương trình PCSR các
quốc gia (trong đó có Việt Nam) không sử dụng uống thuốc phòng SR mà chuyển
sang cấp thuốc tự điều trị đối với đối tượng có nguy cơ mắc SR cao [3], [4].
1.4.3. Chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét
1.4.3.1. Chiến lược chẩn đoán của bệnh sốt rét
Có triệu chứng điển hình của bệnh sốt rét với 3 giai đoạn: sốt, rét run, vã mồ
hôi. và có chu kỳ [40]. Hoặc có triệu chứng không điển hình của cơn sốt rét: Sốt
không thành cơn, hoặc sốt cao liên tục, sốt dao động. Nếu không được điều trị kịp
thời có thể có một hoặc nhiều biến chứng đe doạ tính mạng người bệnh [3], [4].
Các phương pháp chẩn đoán sốt rét
Chẩn đoán bệnh sốt rét dựa vào khám lâm sàng và xét nghiệm máu.
Chẩn đoán lâm sàng dựa vào các triệu chứng của bệnh và yếu tố dịch tễ.
Chẩn đoán sốt rét bằng xét nghiệm máu: hiện nay có nhiều phương pháp được
áp dụng từ phương pháp đơn giản như test chẩn đoán nhanh, xét nghiệm lam máu
tìm ký sinh trùng bằng kính hiển vi đến các phương pháp hiện đại khác như ELISA,
PCR [114]. Tuy nhiên, phương pháp xét nghiệm lam máu tìm KSTSR vẫn được
sử dụng rộng rãi và được coi là “Chuẩn vàng” trong chẩn đoán sốt rét [72]. Tuy
nhiên, với phương pháp này đòi hỏi kỹ thuật viên xét nghiệm có kinh nghiệm, kính
hiển vi tốt.
Kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction) là kỹ thuật sinh học phân tử đã
đến trình độ cao, kỹ thuật có độ nhạy ( trên 90%) và độ đặc hiệu (100%), chính xác
cao, có khả năng phát hiện được những trường hợp có mật độ nhiễm KST thấp
(< 1KST/l máu), xác định chủng loại ký sinh trùng sốt rét [31].
Bùi Quang Phúc khi tiến hành nghiên cứu KSTSR đã sử dụng kỹ thuật PCR.
Tại Quảng Trị chỉ phát hiện hai loài KSTSR, trong đó P.falciparum 68,73%,
P.vivax.1,27%. Chưa phát hiện P.malariae và P.ovale [45], [46].
Tuy nhiên đến năm 2010 Maeno, Tiengkham, Hoàng Hà & cs trong một
nghiên cứu phối hợp sốt rét vùng biên giới Quảng Trị-Savanakhet (Lào) bằng kỹ
thuật PCR đã phát hiện thêm loài ký sinh trùng mới ở Quảng Trị và Savanakhet là
Plasmodium knowlesi lây từ khỉ sang người mà nhiều năm trước đây đã không phát
hiện được [124].
1.4.3.2. Điều trị bệnh nhân sốt rét
Hiện nay trên thế giới (2011) đang áp dụng điều trị nhiễm P.falciparum bằng
thuốc Artemisinin phối hợp (ACTs) và Chloroquine đối với P. vivax [113], [116].
Đến năm 2011 theo TCYTTG đã có 79 nước sử dụng ACTs để điều trị P.f [123].
Tại Việt Nam, theo phác đồ của Bộ Y tế [3], [4], 100% các ca sốt rét lâm sàng và
các ca P.falciparum (bao gồm cả các ca ký sinh trùng lạnh) ở các tỉnh khu vực miền
Trung - Tây Nguyên, Nam bộ và 100% các ca P.falciparum ở các tỉnh phía Bắc
được điều trị bằng thuốc phối hợp có dẫn xuất của Artemisinin ACT (Arterakine;
CV artecan hoặc Coaterm...). Điều trị chống lây lan của P.falciparum bằng
Primaquine [3], [4] và mới nhất phác đồ 2013 [4] đã có điều trị P. knowlesi.
Các ca P.vivax được điều trị bằng Chlorquine ở những vùng còn hiệu quả,
vùng P.vivax đã kháng Chlorquine sử dụng ACT [117], [123]. Kết hợp với điều trị
chống tái phát bằng Primaquine [119]. Phác đồ này hiện vẫn đáp ứng tốt tại tỉnh
Quảng Trị [57].
Duy trì và phát triển hoạt động có hiệu quả của các điểm kính hiển vi tuyến xã,
tăng cường phát hiện bệnh ở tuyến thôn bản và xã bằng lấy lam máu xét nghiệm
kính hiển vi [7] và bằng test chẩn đoán nhanh tại các trọng điểm SR, vùng sâu.
Khi thấy có dấu hiệu sốt rét cần phải điều trị ngay [48]. Điều trị BNSR nhằm
ngăn ngừa diễn biến nặng của bệnh và phòng tử vong đồng thời làm giảm nguồn
bệnh và sự lây lan của bệnh, Bộ Y tế đã ban hành phác đồ điều trị sốt rét năm 2009,
mới nhất là phác đồ năm 2013 [3], [4]. Đối tượng được điều trị bao gồm:
+ Bệnh nhân sốt rét có ký sinh trùng (KSTSR +)
+ Bệnh nhân sốt rét lâm sàng
Nguyên tắc.
Điều trị sớm, đủ liều;
Điều trị cắt cơn sốt kết hợp chống lây lan (P.f), tiệt căn (P.v);
Điều trị sốt rét thể thông thường; Thuốc điều trị ưu tiên (first line)
Sốt rét do P.falciparum, đây là loại sốt rét nặng nhất nếu không được điều trị
sẽ dẫn đến shock, suy gan, suy thận, hôn mê hoặc tử vong [49]: dihydroartemisinin
+ piperaquin uống 3 ngày + primaquin 0,5 mg bazơ/kg liều duy nhất cho tất cả các
trường hợp nhiễm P.f Sốt rét do P.vivax: Chloroquin tổng liều 25 mg bazơ/kg/đợt
điều trị + primaquin 0,25 mg bazơ/kg /ngày x 14 ngày.
Thuốc điều trị thay thế (second line):
Quinine 30 mg/kg/ngày x 7 ngày + doxycyclin 3mg/kg/ngày x 7 ngày;
Quinine 30 mg/kg/ngày x 7 ngày + clidamycine 15mg/kg/ngày x 7 ngày cho
phụ nữ có thai và trẻ em dưới 8 tuổi.
Điều trị đặc hiệu sốt rét ác tính: Artesunate 60mg tiêm tĩnh mạch, liều giờ đầu:
2,4mg/kg, tiêm nhắc lại 2,4mg/kg vào giờ thứ 12. Sau đó mỗi ngày tiêm 1 liều
2,4mg/kg (tối đa 7 ngày) cho đến khi người bệnh tỉnh, có thể uống được chuyển
sang uống Dihydroartemisinin - Piperaquin x 3 ngày.
Hoặc Quinine dihydrochlorite tiêm hoặc chuyền tỉnh mạch với liều 20mg/kg
cho 8 giờ đầu, sau đó 10 mg/kg cho mỗi 8 giờ tiếp theo.
1.4.3.3. Điều trị mở rộng (hay điều trị toàn dân)
Chỉ áp dụng ở các ổ dịch, vụ dịch. Trung tâm PCSR/Y tế dự phòng tỉnh là cơ
quan y tế quyết định chọn đối tượng và phạm vi điều trị mở rộng [4].
1.4.3.4. Cấp thuốc tự điều trị
Cấp thuốc tự điều trị được Chương trình PCSR Quốc gia khuyến cáo sử dụng
cho những người từ vùng không có SR hoặc sốt rét nhẹ vào vùng sốt rét lưu hành
nặng thay thế biện pháp uống thuốc dự phòng sốt rét đã không còn phù hợp [4].
1.5. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ, KINH TẾ, VĂN HOÁ XÃ HỘI, Y TẾ CÁC XÃ
BIÊN GIỚI CỦA HUYỆN HƯỚNG HOÁ
1.5.1. Đặc điểm địa lý, khí hậu thời tiết
Biên giới Quảng Trị của 2 huyện Hướng Hóa, huyện Đakrông gồm có 15 xã,
59 thôn, 3.140 hộ với 15.975 người dân, giáp với 2 tỉnh Savannakhet và Salavan
(CHDCND Lào). Địa bàn nghiên cứu thuộc khu vực phía tây của huyện Hướng
Hóa, tỉnh Quảng Trị, diện tích 11.148 km2, dải Trường Sơn chạy ở phía tây của
tỉnh, với nhiều núi đồi có độ cao phổ biến từ 200-800m, mạng lưới sông suối khá
dày đặc rừng trải đều theo chiều dọc của tỉnh. Hướng Hoá là huyện nằm trong khu
vực này, là vùng cao, biên giới nằm về phía tây của tỉnh Quảng Trị, là một trong 10
đơn vị hành chính của tỉnh. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía Nam và Tây giáp
Lào, phía Đông giáp với huyện Gio Linh, Vĩnh Linh và Đakrông [63].
Huyện Hướng Hóa có 22 đơn vị hành chính gồm: 20 xã và 02 thị trấn, 202
thôn bản; trong đó có 13 xã đặc biệt khó khăn, 12 xã giáp biên giới với Lào; dân số
73.069 người. Người Kinh 52%, Vân Kiều 23% và PaKô 22%.
Huyện có cửa khẩu quốc tế Lao Bảo nằm trên trục đường quốc lộ số 9 nối liền
với các nước trong khu vực: Lào, Thái Lan, Myanmar. Phía tây có đường biên giới
dài 156 km tiếp giáp với 2 huyện Sê Pôn và Nòng của tỉnh Savannakhet (CHDCND
Lào), có sông Sê Pôn (là đường biên giới tự nhiên giữa 2 nước) và nhiều khe suối
nhỏ, rừng rậm rất thuận lợi cho bệnh sốt rét phát triển [63].
Địa thế núi rừng của huyện Hướng Hoá rất đa dạng. Núi và sông xen kẻ nhau,
tạo thành địa hình chia cắt, sông suối đều bắt nguồn từ núi cao. Khí hậu mang
những nét điển hình của khí hậu nhiệt đới - gió mùa, quanh năm nóng ẩm, nhiệt độ
trung bình năm 220C, lượng mưa bình quân 2.262 mm/năm, rất thuận lợi cho muỗi
sốt rét và ký sinh trùng sốt rét phát triển. Riêng huyện Hướng Hoá có 12 xã giáp
tỉnh Savannakhet giữa các bản của Lào sang các bản của Quảng Trị là rất gần và
giao lưu qua lại biên giới nhiều là ở các xã Xy, Thanh, Thuận, A Xing, Pa Tầng.
1.5.2. Đặc điểm kinh tế, văn hoá xã hội
Huyện Hướng Hoá được phân thành 2 vùng kinh tế, văn hoá xã hội rõ rệt.
- Vùng trung tâm của huyện gồm 7 xã nằm dọc đường quốc lộ số 9.
Văn hoá xã hội phát triển, nhà cửa khang trang, ít rừng, đồi thấp, là vùng sốt
rét lưu hành vừa, tỷ lệ mắc sốt rét thấp.
- Vùng các xã ngoại vi của huyện gồm 15 xã nằm giáp biên giới 2 nước Việt -
Lào và các huyện miền núi khác của tỉnh Quảng Trị là vùng sốt rét lưu hành nặng
của tỉnh Quảng Trị tập trung chủ yếu ở huyện Hướng Hoá nơi có đồng bào dân tộc
ít người sinh sống, người dân sống ở đây và các thôn phía Lào đối diện đều là người
dân tộc Vân Kiều, Pa Kô, Tri nên cùng có chung phong tục tập quán sinh hoạt. Điều
kiện kinh tế, văn hoá, xã hội đang gặp nhiều khó khăn.
Vùng này gồm có 12/15 xã giáp biên giới với 2 huyện Sê Pôn, huyện Nòng
của tỉnh Savannakhet, đa số là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số Vân
Kiều, Pa Kô, đa số là vùng rừng rậm, nhiều khe suối có cả 2 véc tơ sốt rét chính là
An.minimus và An.di rus với mật độ cao [97], [98].
Kinh tế: chủ yếu là dựa vào làm nương rẫy, thu nhập thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo
cao. Đa số các hộ gia đình đều ở mức nghèo, chỉ tạm đủ ăn, nhà nước thường phải
hỗ trợ thêm lương thực, tỷ lệ hộ nghèo từ 30-70%.
Nghề nghiệp chính là làm nương rẫy, có đi rừng ngủ rẫy vào mùa thu hoạch.
Các gia đình đều có chăn nuôi, trước đây gia súc, gia cầm như lợn, gà đều nuôi
dưới sàn nhà, là nơi thu hút muỗi đến gần người.
Về cơ cấu nhà cửa: đa số là nhà sàn, vách bằng tre nứa hoặc gỗ, nhiều nhà
vách nhà đã hư hỏng nhiều, thậm chí nhiều nhà coi như không có vách, cửa chính
và các cửa sổ đều mở suốt đêm, nên muỗi có thể bay vào nhà dễ dàng.
Văn hoá, xã hội: dân tộc Vân Kiều, Pa Kô chưa có chữ viết, tỷ lệ mù chữ cao
(63,5%), ở nhà sàn với nhiều nhà sơ sài tạm bợ. Phong tục tập quán lạc hậu: đau ốm
thường cúng bái. Do thời tiết miền núi thường lạnh về ban đêm, nên người dân
thường có thói quen đốt bếp lửa giữa nhà để sưởi (Trước đây có khoảng >90%, hiện
nay trước can thiệp điều tra còn khoảng 14,8% có bếp lữa giữa nhà). Người dân
không có thói quen ngủ màn (Tỷ lệ ngủ màn điều tra được hàng năm chỉ khoảng
50-60%), đây chính là khó khăn cho việc vận động ngủ màn phòng chống sốt rét.
Thanh niên trai, gái các dân tộc này thường có thói quen đi “sim”, tức là tìm
hiểu, yêu nhau. Thường họ ngồi gần các bụi rậm, sau đó thường ngủ theo nhóm
nam/nữ ở nhà các bà goá, tạm gọi là “nhà sim”, thói quen này cũng đã có từ bao đời
nay, rất khó để treo màn trong các nhà “tập thể” như vậy và dễ bị muỗi đốt. Người
dân cả 2 bên biên giới thường qua lại “đi sim” như vậy và kết thông gia với nhau.
Các bản phía Việt Nam đã có điện, có tivi; các bản phía Lào chưa có điện nên
người dân phía Lào thường sang chơi, xem tivi, đi “sim” và ngủ lại. Vấn đề này
cũng góp phần cho việc lan truyền bệnh sốt rét.
Mặc dù có chủ trương của ngành y tế là cấp thuốc tự điều trị sốt rét khi đi rừng
qua biên giới, nhưng theo điều tra của chúng tôi trước thời điểm nghiên cứu thông
qua mạng lưới y tế cơ sở thì đa số người dân chủ quan nên không xin và mang theo
thuốc sốt rét và khi bị sốt không uống thuốc kịp thời.
Do vậy từ trước đến nay để PCSR ngoài việc phun hoá chất và điều trị bệnh
nhân sốt rét còn có các hoạt động phối hợp quan trọng và không thể thiếu là: vận
động người dân tộc nằm màn, dời bếp lửa, dời chuồng gia súc ra xa nhà, phát quang
bụi rậm quanh nhà, khơi thông vũng nước đọng gần nhà để không cho muỗi có nơi
sinh sản và trú đậu, quản lý người giao lưu qua biên giới. Đây cũng là các nội dung
hoạt động của nghiên cứu này.
Dân tộc sống tại 4 xã này là người dân tộc Vân Kiều, Pa Kô sống chủ yếu tại 2
huyện Hướng Hoá và Đakrông là 2 trong số 59 dân tộc thiểu số của Việt Nam.
1.5.3. Tình hình sốt rét tại vùng biên giới của tỉnh Quảng Trị
Tỷ lệ nhiễm KSTSR trong cộng đồng còn khá cao. Theo Đoàn Hạnh Nhân,
Nông Thị Tiến, Hoàng Hà nghiên cứu tình hình sốt rét tỉnh Quảng Trị trong 10 năm
(1997-2006) nhận thấy: chỉ số KST/1000 dân là 2,47‰; trong lúc đó toàn quốc
0,27‰, chủ yếu là P.falciparum (95%) loại ký sinh trùng luôn gây sốt rét ác tính và
kháng thuốc [41].
Tỷ lệ người dân miền núi (dân tộc ít người) nằm màn còn thấp (50%) nên biện
pháp bảo vệ cá nhân phòng chống muỗi chưa tốt.
Giao lưu biên giới Việt - Lào lớn, khó kiểm soát. Đã có hàng trăm bệnh nhân
sốt rét có ký sinh trùng (+) của cả 2 bên biên giới do giao lưu qua lại. Có nhiều bệnh
nhân là người Lào sang Hướng Hóa điều trị. Theo đánh giá của Triệu Nguyên
Trung về thực trạng sốt rét của khu vực Miền Trung-Tây Nguyên giai đoạn 2001-
2006, BNSR của khu vực chiếm 50%, KSTSR chiếm 75%, tử vong do sốt rét chiếm
80% so với cả nước do một số yếu tố làm gia tăng số mắc SR và tử vong sốt rét như
dân đi rừng, ngủ rẫy, dân di cư tự do và giao lưu biên giới rất khó kiểm soát [60].
Bảng 1.3. Số liệu hành chính 12 xã biên giới của huyện Hướng Hoá
TT 12 xã biên giới Số thôn Số hộ Số dân
1 Thuận 15 512 2.576
2 Thanh 10 555 3.050
3 Xy 06 311 1.704
4 A Xing 07 408 2.100
5 Pa Tầng 10 515 3.013
6 A Dơi 12 579 2.781
7 Lao Bảo 12 1.929 9.328
8 Tân Thành 08 716 3.309
9 Tân Long 10 836 3.883
10 Hướng Phùng 15 1.223 4.658
11 Hướng Lập 08 247 1.384
12 Hướng Việt 05 231 1.268
Cộng 118 8.062 39.054
Hiện nay tại Quảng Trị thực hiện đầy đủ 7 nhóm giải pháp của chương trình
PCSR quốc gia và có vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh,
bệnh SR tuy đã giảm nhưng vẫn diễn biến phức tạp tại vùng biên giới do vấn đề
giao lưu qua lại, việc PCSR tại vùng này vẫn chưa đạt kết quả có tính bền vững.
Hiệu quả của các biện pháp PCSR chủ động đã được khẳng định, tuy nhiên
cũng chưa được nghiên cứu và báo cáo đầy đủ.
Từ trước đến nay chưa có một nghiên cứu về mô hình PCSR tại hộ gia đình
phối hợp PCSR tại vùng biên giới giữa 2 nước của các tác giả trong và ngoài nước.
Do vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài này nhằm đưa ra mô hình phát hiện và điều trị
bệnh nhân sốt rét, TTGDSK, VSMT tại hộ gia đình, phối hợp với PCSR ở vùng
biên giới của huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị.
Về mặt địa lý, sinh cảnh cả 4 xã nghiên cứu ở Việt Nam và các thôn phía Lào
đều thuộc vùng có núi rừng, rừng rậm; nước chảy có nhiều khe suối, mùa mưa bắt
đầu sớm từ tháng 4 - 5, rất thuận lợi cho sự phát triển của muỗi sốt rét và bệnh sốt
rét [43]. Địa bàn của mỗi xã đều có từ 3 - 4 con suối nhỏ đổ từ nội địa của xã ra
sông Sê Pôn, mùa hè nước cạn có thể qua sông để sang bên kia biên giới dễ dàng.
Mạng lưới y tế của huyện Hướng Hóa
Có 1 bệnh viện huyện 100 giường bệnh và 2 phòng khám đa khoa khu vực, tại
22 xã đều có trạm y tế xã có từ 5 - 7 cán bộ y tế/xã, nhiều xã có bác sĩ, mỗi thôn
trong xã đều có 1 y tế thôn chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được xây dựng, đào tạo
từ rất sớm năm 1991 [12], trước khi có chương trình PCSR quốc gia năm 1992.
Trong 12 xã giáp biên giới thì 4 xã có tình hình sốt rét diễn biến phức tạp nhất
là: Thuận, Xy, Thanh, A Xing, có vị trí địa lý nằm liền kề nhau và đều có đường
biên giới chung giữa 2 nước Việt - Lào.
1.5.4. Tình hình phòng chống sốt rét của huyện Hướng Hoá
Theo phân vùng dịch tễ sốt rét của Dự án PCSR quốc gia năm 2009, 22 xã của
huyện Hướng Hoá trong đó có 15 xã vùng miền núi thuộc vùng IV (vùng SRLH
nặng), trong 15 xã này có 12 xã biên giới; 7 xã dọc đường quốc lộ số 9 thuộc vùng
sốt rét lưu hành vừa (vùng III) [33].
Phía bên kia biên giới là 2 huyện Sê Pôn, Nòng của tỉnh Savanakhet (Lào) có
sinh địa cảnh và đặc điểm dịch tễ sốt rét tương tự.
Bệnh sốt rét của tỉnh Quảng Trị tập trung chủ yếu tại huyện Hướng Hoá, và là
huyện có sốt rét lưu hành nặng nhất của tỉnh Quảng Trị.
Tỷ lệ BNSR hàng năm của huyện Hướng Hoá từ 60 - 82% tổng số bệnh nhân
mắc sốt rét trong toàn tỉnh (trong đó chủ yếu là Hướng Hoá). Đặc biệt các xã biên
giới chỉ số mắc cao: xã Thanh 98‰, Lao Bảo 30,8‰ [42].
Giai đoạn 5 năm (2000-2005) bệnh sốt rét có giảm: tỷ lệ BNSR trung bình
trong 5 năm 7,05 + 0,75‰; tỷ lệ KST sốt rét là 3,35 + 0,35‰ [80]. Giai đoạn 5
năm gần đây từ 2005-2009 huyện Hướng Hoá vẫn là huyện có tình hình sốt rét nặng
của tỉnh Quảng Trị và của cả khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, BNSR toàn huyện
mắc cao 19,9‰ trong 5 năm.
1.5.5. Đặc điểm của các bản biên giới của 2 huyện Sê Pôn, Nòng thuộc tỉnh
Savannakhet (CHDCND Lào) giáp với 4 xã nghiên cứu
Dọc tuyến biên giới đối diện với tỉnh Quảng Trị là 2 tỉnh Savanakhet và
Salavan (CHDCND Lào) có 112 thôn, thuộc huyện Sê Pôn, huyện Nòng (giáp
huyện Hướng Hoá) và huyện Tù Muồi (giáp huyện Đakrông). Dân số 4.956 hộ,
21.135 khẩu. Gần giáp ngay biên giới về phía Lào có 27 bản với 1.236 hộ - 6.475
khẩu, là những bản nghèo, điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, trình độ
văn hóa thấp, còn nhiều thủ tục lạc hậu, đa số ở rừng sâu đi lại rất khó khăn [59].
Giáp với 4 xã nghiên cứu về phía Lào có 12 thôn, 389 hộ, dân số 2.000 người:
3 thôn gần xã Xy thuộc huyện Mường Nòng; 5 thôn gần xã Thanh và xã A Xing, 4
thôn gần xã Thuận thuộc huyện Sê Pôn. Không có trạm y tế xã, bệnh nhân bị mắc
sốt rét và các bệnh khác thường sang các trạm y tế dọc biên giới của huyện Hướng
Hoá để điều trị. Về phòng chống sốt rét: phía Lào chỉ cấp màn tẩm hoá chất tồn lưu,
tỷ lệ nằm màn còn thấp, không phun hoá chất diệt muỗi. Các thôn chưa có y tế thôn
bản. Hiện tại chỉ có một số bản có tình nguyện viên do phía tỉnh Quảng Trị đào tạo.
Nếu một phía biên giới có phòng chống sốt rét tốt, nhưng phía bên kia lại
không, thì những người không có miễn dịch khi đi vào vùng lan truyền cao rõ ràng
sẽ gặp nguy cơ cao. Điều lý tưởng là sự hợp tác qua biên giới phải dẫn tới sự hợp
tác trong việc cung cấp các biện pháp dự phòng cùng lúc ở hai bên biên giới [31]
1.5.6. Tình hình phòng chống sốt rét tại vùng biên giới tỉnh Quảng Trị
Tỉnh Quảng Trị có đặc thù riêng về sốt rét vùng biên giới nên cần có các giải
pháp hữu hiệu để PCSR cho vùng biên giới giữa 2 tỉnh Quảng Trị và Savanakhet
(Lào) mới có thể làm giảm mắc sốt rét cho cả 2 tỉnh.
Vùng biên giới của tỉnh Quảng Trị mà chủ yếu ở huyện Hướng Hoá có tình
trạng giao lưu biên giới Việt - Lào lớn: có nhiều bệnh nhân sốt rét của huyện Hướng
Hoá và tỉnh Quảng Trị mắc sốt rét sau khi đi Lào trở về, bên cạnh đó mỗi năm có
hàng trăm bệnh nhân sốt rét là người Lào sang điều trị chủ yếu tại dọc theo 7 xã
biên giới giáp sông Sê Pôn của huyện từ xã Thuận đến xã PaTầng; số liệu cho thấy
có tình trạng giao lưu và tình trạng mắc sốt rét do giao lưu biên giới chiếm tỷ lệ
cao. Sốt rét của tỉnh Quảng Trị và huyện Hướng Hoá chủ yếu xảy ra ở vùng này.
Về những hạn chế: tình hình SR tại các xã biên giới của huyện Hướng Hoá,
tỉnh Quảng Trị vẫn diễn biến phức tạp, nhiều năm có nguy cơ xảy ra dịch sốt rét mà
không giải quyết được, kết quả PCSR vẫn bị động theo diễn biến SR hàng năm.
Hiện nay kết quả phòng chống sốt rét theo thường quy vẫn bị hạn chế và bị
động trong điều kiện thực tế PCSR tại các xã biên giới, chưa tiếp cận đến từng hộ
gia đình. Cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào về:
Tình hình sốt rét ở cả 2 bên biên giới của 2 nước trong cùng một thời gian và
địa điểm. Về việc cùng phối hợp điều tra và phòng chống sốt rét tại vùng biên giới
Về mô hình phòng chống sốt rét nhằm phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt
rét cũng như TTGD, VSMT PCSR tại hộ gia đình.
Chúng tôi xây dựng và thực hiện mô hình PCSR tại hộ gia đình phối hợp
PCSR vùng biên giới nhằm giải quyết các vấn đề khó giải quyết của bệnh SR ở tại
vùng có SR lưu hành nặng, vùng biên giới.
Cần có sự chỉ đạo, quan tâm của các cấp chính quyền quản lý chặt chẽ, thường
xuyên việc phòng chống sốt rét tại hộ gia đình, việc phối hợp PCSR tại vùng biên
giới giữa 2 tỉnh mới có kết quả có tính bền vững và lâu dài.
Nghiên cứu này đã thực hiện đầy đủ và cụ thể hoá các nội dung trên, mô hình
phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở biên giới chính là nội dung phòng chống sốt
rét dựa vào cộng đồng, xã hội hóa phòng chống sốt rét và để thực hiện tốt mô hình
cũng rất cần phối hợp với quân y bộ đội biên phòng để có thể thuận lợi khi can thiệp
phòng chống sốt rét ở vùng biên giới.
Hình 1.3. Bản đồ nghiên cứu 4 xã Thuận, Thanh, Xy, A Xing huyện Hướng Hoá
Ban Huc
Ra Leng Cheng
Den Vi Lay Pa Riêng
Pa Lo Co
Pa Lo Nam
Xi Oi Ka Tip
Thuận
A Xing
Pa Tầng
A Dơi
C. H
. D. C
. N. D
LÀ
O
Sê Pôn
Nòng
Hướng Lập
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Người dân sinh sống tại 4 xã là xã Thuận, xã Xy, xã Thanh, xã A Xing, huyện
Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị.
Trung tâm Y tế, bệnh viện huyện, trạm y tế, và quân y đồn biên phòng các xã
biên giới tại huyện Hướng Hóa.
Sổ sách, biểu mẫu, báo cáo của Trung tâm y tế huyện Hướng Hóa, Trung tâm
y tế dự phòng tỉnh Quảng Trị, quân y bộ đội biên phòng tỉnh, Uỷ ban Y tế Hà Lan-
Việt Nam.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu số liệu tình hình sốt rét trong 5 năm từ 2005 - 2009 được thực hiện
trên 22 xã của huyện Hướng Hoá (Phụ lục III.5. Tỷ lệ mắc sốt rét của 22 xã huyện
Hướng Hoá 5 năm 2005-2009)
Điều tra cắt ngang được tiến hành trên 4 xã là xã Thuận, xã Xy, xã Thanh, xã
A Xing do những xã này đáp ứng tiêu chuẩn chọn xã cho nghiên cứu cắt ngang.
Địa điểm tương ứng bên kia biên giới của 4 xã nghiên cứu
Xã Thuận giáp với 2 bản Lào: Ra Leng, Cheng: Số hộ: 94. Số người: 450
người. Khoảng cách 0,9 - 1,1 km. Xã Xy giáp với 2 bản Lào: Xi Ổi, Ka Típ: Số hộ:
98. Số người: 528. Khoảng cách 0,1 - 0,5 km. Hai thôn này có tỷ lệ mắc sốt rét cao.
Xã Thanh và xã A Xing giáp với 4 bản Lào: Denvilay, Paloco, Pa lonam. Số
hộ: 197, số người 922. Khoảng cách 0,3-2 km.
Với khoảng cách giữa các thôn bản Việt - Lào gần nên mọi người dễ dàng giao
lưu qua lại và bản thân muỗi Anopheles truyền bệnh sốt rét cũng dễ dàng bay qua vì
bình thường chúng có thể bay xa 2,5-3 km.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trong 2 năm từ tháng 1/2010 đến tháng 1/2012
2.2. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Là nghiên cứu tại cộng đồng nhằm thực hiện mô hình mới phòng chống sốt rét
tại hộ gia đình ở vùng biên giới, gồm 3 nghiên cứu:
- Nghiên cứu hồi cứu tình hình sốt rét huyện Hướng Hóa và 4 xã. xã Thuận, xã
Xy, xã Thanh, xã A Xing trong 5 năm từ 2005- 2009.
- Nghiên cứu mô tả (cắt ngang) tại 4 xã. xã Thuận, xã Xy, xã Thanh, xã A
Xing trước can thiệp tháng 1 năm 2010 và sau can thiệp tháng 1 năm 2012.
- Nghiên cứu can thiệp cộng đồng thực hiện mô hình mới phòng chống sốt rét
tại hộ gia đình tại 4 xã: xã Thuận, xã Xy, xã Thanh và xã A Xing.
2.2.2. Mô hình thiết kế nghiên cứu
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu mô hình phòng chống sốt rét
tại hộ gia đình ở vùng biên giới.
So sánh
So sánh
Đánh giá Tỉ lệ hiện mắc sốt rét.
Đánh giá Tỉ lệ hiện mắc sốt rét.
Can thiệp: xã Thuận xã Xy
Chứng: xã Thanh, A Xing
Hoạt động phòng chống sốt rét thường quy
Điều tra ngang sau can thiệp
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét và các yếu tố liên quan tại 4 xã Thuận, Xy, Thanh, A xing năm 2010
Can thiệp Can thiệp
Điều tra ngang trước
can thiệp
Nghiên cứu hồi cứu
Tình hình sốt rét tại huyện Hướng Hoá 5 năm từ 2005 - 2009
Tình hình sốt rét tại 4 xã Thuận, Xy, Thanh, A xing 5 năm từ 2005 - 2009
Mô hình can thiệp phòng chống sốt rét
tại hộ gia đình vùng biên giới.
2.3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỒI CỨU
2.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân sốt rét của huyện Hướng Hoá trong 5 năm 2005-2009
Vật liệu nghiên cứu
Toàn bộ số liệu thống kê kết quả các hoạt động phòng chống sốt rét của 22 xã
của Trung tâm y tế, bệnh viện huyện Hướng Hoá, Trung tâm y tế dự phòng tỉnh
trong 5 năm từ 2005 đến 2009, bao gồm:
Báo cáo bệnh nhân sốt rét của 22 xã, bệnh viện huyện, trạm xá quân dân y
phối hợp, quân y 7 đồn biên phòng trên địa bàn huyện Hướng Hoá trong 5 năm từ
2005-2009.
- Báo cáo số liệu sốt rét 5 năm từ 2005 đến 2009 của quân y BĐBP, các đoàn
giám sát Viện SR - KST - CT Trung ương và Viện SR-KST-CT Quy Nhơn.
- Kết quả phun hoá chất, tẩm màn, cấp màn 22 xã trong 5 năm từ 2005-2009.
- Mạng lưới cán bộ y tế: Cán bộ y tế Trung tâm y tế, bệnh viện huyện, trạm y
tế 22 xã và y tế 200 thôn bản, cụm kính hiển vi.
- Số liệu về khí hậu, thời tiết, lượng mưa, độ ẩm của huyện Hướng Hoá thu
thập tại Chi cục thống kê huyện trong 3 năm 2009 - 2011.
- Tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá giáo dục, y tế của huyện từ 2009 - 2011.
2.3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Cỡ mẫu: Tất cả BNSR của huyện Hướng Hóa trong 5 năm 2005-2009.
2.3.3. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu hồi cứu
2.3.3.1 Tình hình sốt rét của huyện Hướng Hóa trong 5 năm từ 2005 - 2009
Có 5 chỉ số theo dõi và đánh giá tình hình sốt rét 5 năm từ 2005 - 2009.
Tỷ lệ mắc mới sốt rét của huyện Hướng Hóa trong 5 năm từ 2005 - 2009.
Tỷ lệ mắc mới ký sinh trùng sốt rét tại huyện Hướng Hóa 5 năm từ 2005-2009.
Tỷ lệ mắc mới sốt rét của huyện Hướng Hoá theo tháng từ 2005-2009.
Kết quả thực hiện các biện pháp phòng chống sốt rét từ 2005 - 2009
Tình hình mạng lưới cán bộ y tế huyện Hướng Hoá và các xã nghiên cứu
Qua số liệu tình hình sốt rét 5 năm từ 2005 - 2009, chọn 4 xã vùng biên giới
có tỷ lệ mắc cao, để phân tích, làm cơ sở để can thiệp , như sau
2.3.3.2. Tình hình phòng chống sốt rét tại 4 xã giáp biên giới: xã Thuận, xã Xy,
xã Thanh, xã A Xing trong 5 năm từ 2005 - 2009
Từ những số liệu sốt rét thu thập được trong 5 năm 2005-2009, những kết quả
PCSR đạt được, những khó khăn trong quản lý và PCSR thường quy tại vùng biên
giới sẽ giúp nhận định và xây dựng mô hình phòng chống SR thích hợp có hiệu quả.
2.3.4. Thu thập số liệu hồi cứu
Thu thập số liệu sốt rét, thống kê các biểu mẫu, các hồ sơ bệnh án trong 5 năm
(2005-2009) tại các đơn vị y tế tỉnh, huyện và xã trong 5 năm từ 2005 đến 2009.
2.4. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA CẮT NGANG
2.4.1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
Người dân sinh sống tại 4 xã biên giới của huyện Hướng Hoá, Quảng Trị.
Tiêu chí chọn xã điều tra:
Lập danh sách 22 xã của huyện Hướng Hoá, chia thành 2 nhóm: 12 xã biên
giới và 10 xã nội địa. Qua số liệu hồi cứu tình hình sốt rét 5 năm từ 2005 - 2009,
chọn 4 xã vùng biên giới có tỷ lệ mắc cao, phân tích để tìm giải pháp can thiệp có
hiệu quả cho những xã vùng biên giới có tỷ lệ mắc sốt rét cao và luôn luôn biến
động phức tạp, không ổn định là mục tiêu quan trọng cần giải quyết trong PCSR của
tỉnh trong nhiều năm qua. Các tiêu chí sau:
Là 4 xã giáp biên giới trong số 12 xã biên giới của huyện Hướng Hoá có tỷ lệ
mắc sốt rét trung bình cao nhất trong 5 năm (2005 - 2009)
Là xã có chung đường biên giới với các huyện của Lào.
Là xã thường có người dân Việt Nam giao lưu biên giới và số người bị mắc
sốt rét trong số họ.
Là xã thường có người dân Lào giao lưu biên giới và số người bị mắc sốt rét,
Sau điều tra hồi cứu với các tiêu chí lựa chọn xã như trên chúng tôi đã chọn
được 4 xã vào nghiên cứu có tỷ lệ mắc sốt rét cao nhất trong số 12 xã biên giới: Xã
Thuận, xã Xy, xã Thanh, xã A Xing của huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị.
Thời gian nghiên cứu
Điều tra trước can thiệp là tháng 1/2010 và điều tra sau can thiệp tháng 1/2012
2.4.2. Cỡ mẫu điều tra cắt ngang
Gồm điều tra tỷ lệ người dân mắc sốt rét và kiến thức, thái độ, thực hành người
dân tại hộ gia đình.
2.4.2.1. Cỡ mẫu điều tra tỷ lệ hiện mắc sốt rét
Theo công thức tính cỡ mẫu ngẫu nhiên đơn [23], [91].
p x (1-p) n = Z²(1-α/2 )
d² X DE
Cỡ mẫu trước can thiệp: Trong đó: n là cỡ mẫu, p = 6,7% là tỷ lệ mắc sốt
rét/dân số trung bình của 4 xã trong 5 năm 2005-2009.
Z²(1-α/2 ): Với độ tin cậy 95% thì giá trị tương ứng của Z²(1-α/2 ) = 1,96
d là sai số chọn, chấp nhận d = 0,01. Hiệu quả thiết kế DE = 1,5
Ta có n = 1.837 người, làm tròn n = 2.000 người.
Thực tế mẫu đã điều tra là 2.421 người dân tại 4 xã nghiên cứu.
Cỡ mẫu điều tra cắt ngang sau can thiệp: Bằng cỡ mẫu trước can thiệp.
Cách chọn mẫu.
+ Chọn xã: Chọn 4 xã có tỷ lệ mắc sốt rét cao nhất theo các tiêu chí ở trên. Kết
quả 4 xã được chọn vào nghiên cứu là xã Thuận, xã Xy, xã Thanh và xã A Xing.
Điều tra tại cộng đồng, chúng tôi sử dụng cụm nghiên cứu là hộ gia đình. Theo
số liệu thống kê về dân số 4 xã cho thấy trung bình mỗi hộ có khoảng 5 người.
Số hộ gia đình cần điều tra 400 hộ. Điều tra 4 xã, mỗi xã điều tra 100 hộ.
+ Chọn hộ gia đình: Lập danh sách hộ gia đình tại 4 xã. Tại mỗi xã, bốc thăm
ngẫu nhiên chọn 100 hộ gia đình, trong các hộ gia đình được chọn, điều tra tất cả
các thành viên trong gia đình.
2.4.2.2. Cỡ mẫu điều tra kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về phòng
chống sốt rét tại hộ gia đình
Đối tượng là người dân từ 18 tuổi trở lên, có thể là chủ hộ hoặc đại diện hộ gia
đình nếu chủ hộ đi vắng, người này biết được tình hình chung trong gia đình mình
trong đó có thông tin về bệnh sốt rét, thường là những người có hiểu biết và trả lời
tốt nhất trong gia đình để tránh những sai sót thông tin do người trả lời đưa ra, dẫn
đến đánh giá sai lệch mức độ đúng sai của kết quả.
Theo công thức tính cỡ mẫu ngẫu nhiên đơn [23], [91].
p x (1-p) n = Z²1-α/2
d²
Trong đó: n là cỡ mẫu, chọn p = 0,5 ước tính tỷ lệ hiểu biết, thái độ hoặc thực
hành đúng của người dân là 50%.
Z21-α/2: Với độ tin cậy 95% thì giá trị tương ứng của Z1-α/2 = 1,96
d là sai số chọn, chấp nhận d = 0,05
n = (1,96)2 × 0,5 × 0,5/(0,05)2 = 384.
Làm tròn số ta có n = 400 người/trên 4 xã, mỗi xã 100 người.
Cỡ mẫu là 100 người dân đại diện hộ gia đình của mỗi xã để điều tra về tỷ lệ
kiến thức, thái độ, thực hành của người dân. Tương ứng với 100 hộ gia đình điều
tra tỷ lệ mắc sốt rét đã chọn mẫu ở trên.
2.4.3. Nội dung và các chỉ số điều tra ngang
2.4.3.1 Các chỉ số về bệnh sốt rét của người dân tại 4 xã nghiên cứu
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét, tỷ lệ người bệnh có KSTSR (+), lách sưng
Tỷ lệ mới mắc sốt rét: số mới mắc sốt rét /Tổng số quần thể có nguy cơ bị sốt
rét giữa thời kỳ nghiên cứu) x 10n = Số BNSR /Dân số x 100
Đặc điểm ký sinh trùng sốt rét của bệnh nhân, thành phần loài KSTSR.
Muỗi: thành phần loài, mật độ của các véc tơ truyền bệnh sốt rét
2.4.3.2. Các chỉ số về kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống bệnh sốt rét
Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về phòng chống sốt rét.
Tỷ lệ người dân có thái độ đúng về phòng chống sốt rét.
Tỷ lệ người dân có thực hành đúng về phòng chống sốt rét.
Các chỉ số về một số yếu tố xã hội: giao lưu biên giới, đi rừng ngủ rẫy.
2.4.3.3. Các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét của người dân
Liên quan mắc sốt rét với các yếu tố:
- Giới, tuổi, nhóm dân tộc, địa dư và khoảng cách từ nhà đến rừng.
- Các yếu tố thời tiết, véc tơ sốt rét tại 4 xã
- Nghề nghiệp, trình độ văn hoá, thực hành của người dân: Ngủ màn, giao lưu
biên giới (đi Lào), đi rừng, ngủ rẫy có ngủ màn.
2.4.3.4. Các biến số trong điều tra ngang
- Các biến số về hành chính:
+ Tuổi: Được chia thành 3 mức như trong điều tra dịch tễ học sốt rét: <5 tuổi,
5-14 tuổi, ≥ 15 tuổi. Giới: Nam, nữ
+ Dân tộc: Theo xếp nhóm của 54 dân tộc Việt Nam và đã được chính quyền
địa phương công nhận, dân tộc hiện đang ở tại nơi nghiên cứu là: Vân Kiều, Pakô.
+ Quốc tịch: Là người có quốc tịch Việt Nam hoặc Lào tại điểm nghiên cứu.
+ Trình độ học vấn: Chia thành 2 mức độ: Mù chữ, biết chữ bao gồm: tiểu học,
THCS, THPT.
+ Nghề nghiệp: Là nghề chủ yếu có liên quan đến bệnh SR như: nghề rừng,
săn bắn... đa số người dân tộc Vân Kiều, Pa Kô làm nương rẫy; Ngoài làm nương
rẫy một số đàn ông còn đi gùi hàng thuê, đi rừng khai thác lâm sản, gỗ; những nghề
này liên quan mật thiết với bệnh sốt rét.
Nghề nghiệp được chia thành 3 nhóm theo thực tế: Làm rẫy, học sinh, nghề
khác: còn nhỏ, già yếu.
- Các biến số về hoạt động kinh tế, xã hội: Giao lưu biên giới, đi rừng ngủ rẫy.
+ Đi rừng, ngủ rẫy: là những người đi làm và ngủ lại trong rừng hoặc rẫy.
+ Giao lưu biên giới: Là những người Việt Nam đi qua biên giới sang Lào
hoặc người Lào sang Việt Nam và có ở lại.
- Các biến số về bệnh sốt rét: Tỷ lệ BNSR, KSTSR, lách sưng.
- Véc tơ sốt rét: Mật độ, thành phần loài véc tơ sốt rét.
- Các biến số về kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống sốt rét của người
dân trước và sau can thiệp: Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng, tỷ lệ người dân có
thái độ đúng, tỷ lệ người dân có thực hành đúng về PCSR.
- Các biến số về tự nhiên: Khí hậu, thời tiết, lượng mưa, độ ẩm, suối, rừng...
2.4.4. Thu thập thông tin
Phỏng vấn trực tiếp người dân theo bộ câu hỏi.
Quan sát, thu thập số liệu của người dân về PCSR tại hộ gia đình:
- Tỷ lệ người dân có đi rừng, ngủ rẫy.
- Hộ gia đình và khoảng cách từ nhà đến rừng
- Hộ gia đình có người đi Lào/không đi Lào, có người đi Lào mắc sốt rét
- Hộ gia đình có ngủ màn, không ngủ màn. Tỷ lệ người dân có ngủ màn.
- Hộ gia đình có bếp lửa giữa nhà, hộ gia đình có dời bếp lửa ra khỏi nhà.
- Hộ gia đình có dời chuồng gia súc ra xa nhà, hộ có chuồng gia súc dưới sàn.
- Hộ gia đình có phát quang bụi rậm quanh nhà, không có bụi rậm gần nhà.
Tổ chức điều tra:
+ Tập huấn, điều tra thử trước khi thực hiện
+ Điều tra viên: là các cán bộ y tế, cán bộ chính quyền xã, thôn phối hợp và đã
được tập huấn hướng dẫn phương pháp điều tra.
2.4.5. Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu
2.4.5.1. Lấy lam máu xét nghiệm để tìm ký sinh trùng sốt rét
Tìm KSTSR bằng phương pháp nhuộm Giemsa 3% và soi bằng kính hiển vi
theo phương pháp chuẩn của chương trình Quốc gia PCSR và đếm KST để tính toán
mật độ KST/mm3 máu. Lấy máu đầu ngón tay làm giọt dày, giọt đàn. Nhuộm
Giemsa và soi dưới vật kính dầu 90...
Kết quả: P.ftg (+); P.vtg (+) hoặc nhiễm phối hợp P. falciparum + P.vivax
Hoặc xét nghiệm máu bằng tét (Parachek F) chẩn đoán nhanh sốt rét, nguyên
lý là phản ứng kháng nguyên - kháng thể. Tét này chỉ phát hiện được P.falciparrum.
Phương pháp lấy máu giống như trên nhỏ giọt máu vào giếng B và nhỏ giọt thuốc
thử vào ô A, sau 15 phút đọc kết quả.
Có 2 vạch đỏ ở ô C và T là (+) với P.falciparum. Chỉ có 1 vạch đỏ ở ô C là (-).
2.4.5.2. Kỹ thuật sinh học phân tử (PCR)
Kỹ thuật PCR là kỹ thuật sinh học phân tử [114], có độ nhạy (>90%) và độ
đặc hiệu (100%), chính xác cao, có khả năng phát hiện được những trường hợp có
mật độ nhiễm KST thấp (<1KST/l máu), có thể phân tích được tất cả các mẫu thu
lượm từ thực địa [46].
Máy và kỹ thuật phân tích PCR: các máy móc, kỹ thuật chuẩn của Nhật Bản.
Mẫu phân tích PCR được gửi sang Trung tâm y học nhiệt đới, trường Đại học
Nagasaki (Nhật Bản) và được các giáo sư theo dõi, phân tích.
2.4.5.3. Khám lâm sàng
Thăm khám lâm sàng: phát hiện sốt, lách sưng theo hướng dẫn chẩn đoán và
điều trị của Bộ Y tế năm 2009 [3].
Thành viên: thành lập các đội điều tra gồm có cán bộ y tế tỉnh, huyện, xã. Các
thành viên được huấn luyện phương pháp thống kê và nội dung, kỹ thuật điều tra,
phân tích số liệu. Mỗi đoàn có 1 bác sĩ, 1 kỹ thuật viên, 1 điều dưỡng.
Nội dung khám: phát hiện bệnh nhân có sốt, phân loại sốt theo nguyên nhân
bệnh lý, ghi nhận bệnh nhân có triệu chứng bị sốt rét lâm sàng.
- Lấy lam máu tất cả những người có sốt và không sốt.
- Người có sốt được xét nghiệm và điều trị theo kết quả.
2.4.5.4. Điều tra muỗi truyền bệnh sốt rét
Theo kỹ thuật chuẩn của TCYTTG và của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương
bằng 7 phương pháp [69]:
Mồi người trong nhà, mồi người ngoài nhà; Bẫy đèn trong và ngoài nhà;
Soi trong nhà ngày, soi trong nhà đêm, soi chuồng gia súc bằng đèn pin để bắt.
Tính mật độ muỗi: con/giờ/người và con/đèn/đêm.
Điều tra mỗi năm 2 đợt liên tục trong các năm nghiên cứu vào đầu và cuối
mùa mưa vào tháng 3-4 và tháng 9-10. Tại xã can thiệp và xã chứng
2.4.5.5. Vật liệu và công cụ thu thập số liệu
Kính hiển vi, lam kính, kim chích máu, bông, cồn, nhiệt kế, Giemsa, dầu soi.
Test chẩn đoán nhanh sốt rét: nhiệt kế, máy đo huyết áp, ống nghe;
Thuốc sốt rét các loại. Tuýp bắt muỗi, đèn pin, bẫy đèn;
Phiếu theo dõi tình hình bệnh nhân sốt rét hàng tháng tại thôn bản, xã;
Phiếu theo dõi tình hình di biến động dân cư tại thôn bản, xã;
Phiếu điều tra KAP. Phiếu điều tra côn trùng. Phiếu hồi cứu số liệu sốt rét.
2.4.6. Định nghĩa các biến số nghiên cứu
2.4.6.1. Bệnh nhân sốt rét
Bệnh nhân xác định là mắc sốt rét và BNSR lâm sàng được xác định và thống
kê theo “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét” của Bộ Y tế năm 2009 [3].
- Bệnh nhân xác định là mắc sốt rét: Xét nghiệm lam máu có ký sinh trùng sốt
rét hoặc các que thử tét nhanh dương tính.
- Bệnh nhân sốt rét lâm sàng: có 4 tiêu chuẩn sau:
Hiện có sốt ( ≥ 37,50C) hoặc sốt trong vòng 3 ngày gần đây.
Không giải thích được nguyên nhân gây sốt khác
Đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét trong vòng 2 năm gần đây. Có cơn sốt rét.
Điều trị bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt trong vòng 3 ngày.
Bệnh nhân sốt rét ác tính: Là bệnh nhân sốt rét có 1 hay các biến chứng: hôn
mê, co giật, xuất huyết dưới da, đái huyết cầu tố, vàng da vàng mắt [3].
- Người có ký sinh trùng sốt rét:
Là những người có hoặc không có SRLS nhưng xét nghiệm có ký sinh trùng
sốt rét trong máu.
- Lách sưng do sốt rét:
Lách sưng do sốt rét được đánh giá từ độ I đến độ IV theo phương pháp khám
lách thường quy [3], [4].
- Bệnh nhân mắc sốt rét có tiền sử đi Lào: Là những người có quốc tịch Việt
Nam ở tại các xã nghiên cứu sang Lào: Trước khi đi họ không bị sốt, KSTSR (-);
Khi trở về cách ngày đi ít nhất 8 ngày họ bị sốt và được xét nghiệm có KSTSR (+).
2.4.6.2. Các biến số về véc tơ sốt rét
Muỗi thu thập được xác định thành phần loài.
Tính mật độ là: số muỗi (con)/giờ/người, cả mồi người hoặc soi bắt; nếu bẩy
đèn thì tính mật độ con/đèn/đêm.
2.4.6.3. Các biến số về kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống sốt rét
- Kiến thức đúng: người dân trả lời đúng theo nội dung sau:
+ Về nguyên nhân gây bệnh sốt rét: Bệnh sốt rét là do muỗi truyền
+ Về tác hại của bệnh sốt rét: Thiếu máu, sẩy thai, chết
+ Về cách phòng chống bệnh sốt rét: Phun thuốc diệt muỗi, ngủ màn
+ Người dân có kiến thức chung đúng: trả lời đúng, đủ 3 nội dung trên
- Kiến thức chưa đúng về phòng chống sốt rét:
Về nguyên nhân gây bệnh sốt rét: Do ruồi, nước độc, do đi rừng
- Thái độ đúng về phòng chống sốt rét: Người dân trả lời đồng ý thực hiện về
ngủ màn, phun thuốc diệt muỗi.
- Thái độ chưa đúng về phòng chống sốt rét:
Người dân chưa trả lời đồng ý thực hiện về ngủ màn, phun thuốc diệt muỗi.
- Thực hành đúng 4 nội dung về phòng chống sốt rét:
+ Người dân có ngủ màn thường xuyên;
+ Trong nhà có phun hoá chất diệt muỗi;
+ Và/ hoặc Khi bị sốt thì họ đi đến cơ sở y tế để khám;
+ Và/ hoặc có uống thuốc điều trị sốt rét đúng liều, khi mắc sốt rét
- Thực hành về phòng chống sốt rét chưa đúng: Người dân tự ra các hiệu thuốc
để mua thuốc uống khi bị sốt, không ngủ màn, không cho phun hoá chất, số người
sang Lào nhưng không hoặc ít ngủ màn, ngủ đêm ở rừng không ngủ màn.
- Người giao lưu: là những người đi vào rừng, qua lại biên giới có ở lại.
2.4.6.4. Các biến số về yếu tố môi trường
Các yếu tố môi trường trong khu vực liên quan đến bệnh sốt rét được nghiên
cứu là: yếu tố sinh địa cảnh, các yếu tố thời tiết.
- Yếu tố sinh địa cảnh: dựa theo phân vùng sốt rét [34], [44]. Xác định vùng
sinh địa cảnh theo các yếu tố: sinh cảnh, độ cao, khe suối.
- Khoảng cách từ nhà đến rừng: Chia 2 mức <500 m và ≥500 m. Rừng càng
gần nhà thì muỗi sốt rét (An.dirus) càng nhiều và tỷ lệ mắc sốt rét càng cao. Chúng
tôi thực hiện bằng quan sát của nhóm điều tra và đánh giá bằng số liệu thực tế chứ
không qua phỏng vấn; Ước lượng khoảng cách bằng: chiều dài của ngôi nhà = 1 lần
x số lần = số m
- Các yếu tố thời tiết: mô tả yếu tố thời tiết theo các tháng trong năm bằng các
chỉ số: lượng mưa (tính bằng mm), độ ẩm (tính bằng %), nhiệt độ (0C)
Các chỉ số là trị số trung bình 12 tháng trong 3 năm (2009-2011).
2.4.6.5. Các biến số về xã hội có liên quan đến bệnh sốt rét
Qui định chung về vệ sinh môi trường:
- Hộ có chuồng gia súc xa nhà: Chuồng gia súc thường là nơi tập trung muỗi
đến đốt gia súc, càng gần nhà thì càng có nguy cơ muỗi đốt người. Tiêu chí chuồng
gia súc phải cách nhà >50m. Chúng tôi thực hiện bằng quan sát của nhóm điều tra
và đánh giá bằng số liệu thực tế chứ không qua phỏng vấn.
Ước lượng khoảng cách bằng: chiều dài của ngôi nhà = 1 lần x số lần = số m
- Hộ không có bụi rậm, nước đọng: Là nơi muỗi trú đậu và sinh sản. Tiêu chí
hộ không có bụi rậm, nước đọng gần nhà, cách nhà >50m. Thực hiện như trên.
2.4.7. Đạo đức nghiên cứu
Đối tượng tham gia trong nghiên cứu (cả 2 nhóm) sẽ được khám, xét nghiệm
chẩn đoán sốt rét và được điều trị miễn phí khi bị mắc sốt rét.
2.4.8. Phân tích xử lý số liệu
Số liệu thu thập được trong nghiên cứu sẽ được nhập và phân tích theo phương
pháp thống kê sinh y học. Mô tả mối liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và bệnh
sốt rét bằng test 2, giá tri p chọn ngưỡng p<0,05.
Xử lý bằng phần mềm SPSS 14.5, EPI-INFO 7.0.
Vẽ biểu đồ ca bệnh bằng GIS, bản đồ địa điểm nghiên cứu bằng Google.
2.5. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CAN THIỆP
2.5.1. Phương pháp, đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.5.1.1. Phương pháp nghiên cứu can thiệp
Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng, gồm
So sánh trước can thiệp của nhóm can thiệp và nhóm chứng.
So sánh trước và sau can thiệp của nhóm chứng.
So sánh trước và sau can thiệp của nhóm can thiệp.
So sánh sau can thiệp của nhóm can thiệp và nhóm chứng.
2.5.1.2. Đối tượng nghiên cứu
Người dân sinh sống tại 4 xã vùng biên giới được chia thành 2 nhóm:
Nhóm can thiệp: đối tượng là người dân tại xã biên giới, nam và nữ, đủ mọi
lứa tuổi, các dân tộc Vân Kiều, Pa Kô và Kinh,....sinh sống liên tục trong 3 năm
(trong thời gian nghiên cứu).
Nhóm chứng: đối tượng là người dân tại xã biên giới cùng các đặc điểm trên
2.5.1.3. Địa điểm nghiên cứu
Tại 4 xã biên giới: xã Xy, xã Thuận; xã Thanh và xã A Xing, huyện Hướng
Hoá, tỉnh Quảng Trị.
2.5.1.4. Thời gian nghiên cứu
Điều tra ngang xác định tỷ lệ hiện mắc sốt rét, kiến thức thái độ, thực hành
phòng chống sốt rét trước can thiệp là tháng 1/2010 và sau can thiệp tháng 1/2012
Điều tra qua theo dõi dọc trong quá trình can thiệp thực hiện mô hình phát hiện
điều trị sốt rét và quản lý người dân đi rừng ngủ rẫy, giao lưu biên giới tại hộ gia
đình của 2 xã can thiệp từ tháng 1/2010 - tháng 1/2012
2.5.2. Cỡ mẫu nghiên cứu can thiệp
Cỡ mẫu được tính theo công thức ước lượng sự khác biệt của 2 tỷ lệ [21].
n = Z² (α,) p1 (1- p1) + p2 (1- p2)
(p1- p2)2
Trong đó: n là cỡ mẫu của mỗi nhóm
= 0,05 tương ứng với độ tin cậy 95%.
= 0,20 tương ứng với hiệu lực mẫu 80%.
Z² (α,) = 7,9 là giá trị tương ứng với các giá trị α và β ở trên.
p1: Tỷ lệ sốt rét của nhóm can thiệp vào cuối thời điểm nghiên cứu.
p2: Tỷ lệ sốt rét của nhóm đối chứng vào cuối thời điểm nghiên cứu.
Dự kiến sau hai năm nghiên cứu.
p1 = 0,01 nhóm can thiệp sẽ giảm tỷ lệ 3,3% xuống còn 1% và
p2 = 0,02 nhóm đối chứng sẽ giảm từ 3,3% xuống còn 2%.
Tính ra n = 2.330, thêm 10% sai số và làm tròn số ta có cỡ mẫu nghiên cứu
cho mỗi nhóm là n1 = n2 = 2.600 người. Thực tế nghiên cứu được thực hiện trên
toàn bộ dân số của nhóm can thiệp (4.271 người) và nhóm chứng (5.150 người).
2.5.3. Kỹ thuật chọn mẫu
Qua điều tra ngang, đã chọn 4 xã biên giới có tỷ lệ mắc sốt rét cao nhất trong
số 12 xã biên giới và theo các tiêu chí của xã biên giới trên.
Chọn 2 xã can thiệp và 2 xã chứng, như sau: bốc thăm ngẫu nhiên 2 xã có tỷ lệ
mắc sốt rét cao nhất và 2 xã có tỷ lệ mắc sốt rét thấp hơn. Kết quả: nhóm can thiệp:
Xã Thuận, xã Xy; nhóm chứng: xã Thanh, xã A Xing.
Nhóm can thiệp là 2 xã Thuận, xã Xy: gồm 17 thôn của với 823 hộ, dân số là
4.271 người và phòng chống sốt rét mở rộng tương ứng sang 7/7 thôn của 2 huyện
Sê Pôn, Nòng, tỉnh Savannakhet (Lào) đối diện với 2 xã.
Nhóm chứng là xã Thanh, xã A Xing với 17 thôn, 996 hộ, dân số 5.150 người.
Chỉ PCSR cho 3/5 thôn đối diện của huyện Sê Pôn, tỉnh Savannakhet (Lào).
2.4.3.4. Các biến số trong nghiên cứu can thiệp
Tỷ lệ mắc
sốt rét Tình hình mắc bệnh SR
- BNSR, SRAT, lách sưng, - KSTSR. - Tình hình mắc sốt rét do giao lưu biên giới
Người dân - Tuổi - Giới - Dân tộc - Trình độ học vấn - Nghề nghiệp - Khí hậu, thời tiết - Giao lưu biên giới. - Đi rừng ngủ rẫy. - Kiến thức, thái độ, thực hành PCSR
BIẾN ĐỘC LẬP
Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống SR: - Tỷ lệ có kiến thức đúng - Tỷ lệ có thái độ đúng
- Tỷ lệ có thực hành đúng về PCSR
BIẾN PHỤ THUỘC
Tổ chức quản lý tại trạm y tế xã PCSR thường quy
- XN lam máu, điều trị tại trạm y tế - Phun hoá chất - Cấp màn toàn dân. - Truyền thông GDSK, VSMT PCSR
Mật độ, loài véc tơ sốt rét
Sơ đồ 2.2. Các biến số nghiên cứu can thiệp phòng chống sốt rét tại hộ gia đình
BIẾN TRUNG GIAN
2.5.5. Xây dựng mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình vùng biên giới và
mở rộng phối hợp phòng chống sốt rét 2 bên biên giới
2.5.5.1. Căn cứ xây dựng mô hình
Theo kế hoạch của chương trình phòng chống sốt rét quốc gia.
Căn cứ tình hình mắc sốt rét tại các xã vùng biên giới của huyện Hướng Hoá.
Căn cứ khả năng nguồn lực và năng lực tổ chức quản lý PCSR của ngành y tế
tỉnh, huyện, trạm y tế các xã và nhân viên y tế thôn bản.
Căn cứ khả năng phối hợp xã hội hoá nguồn lực của các tổ chức đoàn thể,
quân y bộ đội biên phòng; các cơ sở y tế phía Lào.
Phù hợp với nhu cầu thực tế của các xã biên giới: cần thực hiện các hoạt động
quản lý, theo dõi, phát hiện điều trị và phòng sốt rét tại hộ gia đình người dân ở các
xã biên giới; qua thực tế Dự án PCSR quốc gia khi thực hiện tại các trạm y tế xã
chưa quan tâm, chưa giao nhiệm vụ rõ ràng và chưa triển khai thực hiện nhân viên
YTTB quản lý sốt rét tại hộ gia đình một cách hợp lý và khoa học.
Căn cứ văn bản pháp lý ký kết hợp tác giữa 2 Sở Y tế Quảng Trị, Việt Nam và
Savannakhet, Lào về việc phối hợp các hoạt động y tế giữa 2 tỉnh, điều trị cho bệnh
nhân là người Lào sang Quảng Trị để khám và chữa bệnh.
2.5.5.2. Nguyên tắc thực hiện mô hình can thiệp
- Hoạt động can thiệp với vai trò chỉ đạo (không làm thay)
- Can thiệp theo hướng dự phòng (các hoạt động đáp ứng được nhu cầu thực tế
đặc trưng của người đồng bào dân tộc xã biên giới về quản lý, theo dõi giám sát về
phát hiện sớm, điều trị sớm và chủ động tại hộ gia đình).
- Có đủ nguồn lực để thực hiện các hoạt động của YTTB tại hộ gia đình như:
Tổ chức quản lý mạng lưới nhân viên YTTB, kinh phí, phương tiện kỹ thuật cơ bản:
lam kính, kim chích máu, test chẩn đoán nhanh, các loại sổ sách biểu mẫu báo cáo.
- Phù hợp với năng lực và tinh thần trách nhiệm của cán bộ trạm y tế xã, nhân
viên YTTB và sự quan tâm của chính quyền, đoàn thể về xã hội hoá công tác y tế.
- Các hoạt động của mô hình có tính khả thi và duy trì, nhân rộng mô hình cho
các xã khác có cùng điều kiện.
2.5.5.3. Tên mô hình can thiệp
Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình vùng biên giới.
2.5.5.4. Nội dung thực hiện của nhóm can thiệp và nhóm chứng
Nội dung các biện pháp được áp dụng ở nhóm can thiệp
1) Tổ chức truyền thông giáo dục, tư vấn người dân tại hộ gia đình chủ động
phòng chống sốt rét, gồm: Phát hiện sớm bệnh; khai báo sớm; xét nghiệm lam máu
tại nhà; ngủ màn khi đi rẫy và ở lại Lào; VSMT để không có nước đọng gần nhà.
2) Tổ chức quản lý hoạt động mạng lưới y tế thôn bản phòng chống sốt rét tại
hộ gia đình.
3) Trạm y tế xã: Phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét, truyền thông giáo
dục, vệ sinh môi trường và các hoạt động phòng chống sốt rét ngay tại hộ gia đình.
4) Thực hiện các nội dung phối hợp hoạt động phòng chống sốt rét tại các xã
biên giới tỉnh Quảng Trị và các thôn biên giới của 2 huyện Sê Pôn, huyện Nòng,
Lào (nội dung này sẽ lồng ghép vào trong hoạt động của 2 nội dung trên).
Nội dung các biện pháp được áp dụng ở nhóm chứng:
Tại nhóm chứng các hoạt động PCSR được thực hiện theo thường quy: Phát
hiện và điều trị sốt rét tại trạm y tế (thụ động), không phối hợp PCSR ở biên giới,
không quản lý được người giao lưu qua biên giới, chỉ có hoạt động phòng chống
véc tơ là thực hiện tại hộ gia đình, hoạt động truyền thông tập trung ở thôn bằng họp
dân và chỉ làm 1 đợt/năm, hoạt động vệ sinh môi trường cũng chỉ vận động người
dân thực hiện thông qua đợt truyền thông tại cuộc họp thôn.
2.5.5.5. Các hoạt động cụ thể của 4 nội dung mô hình can thiệp như sau:
1) Người dân tại các hộ gia đình thực hiện
Người dân tự giác thực hiện các biện pháp phòng chống sốt rét
1. Khai báo kịp thời trong ngày cho y tế thôn bản đến khám cho những người
có triệu chứng mắc sốt rét trong hộ gia đình mình
2. Báo cáo số người có đi rừng, đi rừng có mang màn. Số người đi sang Lào,
người đi Lào về bị sốt của hộ gia đình, người Lào sang hộ gia đình
3. Báo cáo tình hình ngủ màn, tình hình phun hoá chất của hộ gia đình.
4. Thực hiện vệ sinh môi trường tại hộ gia đình: Khơi thông nước đọng, phát
bụi rậm quanh nhà, dời bếp lữa, dời chuồng gia súc
5. Người dân tham gia các buổi họp dân, nghe YTTB tư vấn về các kiến thức
về bệnh sốt rét, uống thuốc, vệ sinh môi trường
2) Y tế thôn bản thực hiện
1. Phát hiện sớm người có triệu chứng sốt rét tại hộ gia đình, lấy lam máu và
thử tét nhanh.
2. Cấp thuốc điều trị bệnh nhân sốt rét tại hộ gia đình
3. Chuyển bệnh nhân sốt rét lên trạm y tế xã khi cần thiết
4. Tư vấn, kiểm tra và giám sát tại hộ gia đình về: uống thuốc, ngủ màn, dời
bếp lửa, khơi vũng nước đọng, dời chuồng gia súc xa nhà.
5. Truyền thông giáo dục sức khỏe
6. Thực hiện vệ sinh môi trường, dời bếp lửa xa nhà, không có chuồng gia súc
dưới sàn nhà và không có nước đọng quanh nhà.
7. Thu thập và báo cáo thông tin về người dân đi rừng, đi qua Lào và khi về;
việc ngủ màn tại hộ gia đình, bếp lửa xa nhà, không có chuồng gia súc dưới sàn nhà.
So với hoạt động PCSR thường quy nhân viên YTTB chỉ biết cho thuốc những
người có sốt các loại, rất ít lấy lam máu hoặc thử test nhanh, ít họp dân và đi kiểm
tra tư vấn tại hộ gia đình, nội dung hạn chế và kết quả đạt thấp.
3) Trạm y tế xã tổ chức quản lý hoạt động mạng lưới y tế xã, y tế thôn bản
phòng chống sốt rét tại hộ gia đình bao gồm 10 nhiệm vụ
1. Ban chăm sóc sức khoẻ ban đầu của xã bổ sung thêm nội dung hoạt động.
2. Xây dựng thêm nhiệm vụ cụ thể rõ ràng về nhiệm vụ phòng chống sốt rét
cho nhân viên y tế thôn bản: có sổ theo dõi những người dân 2 bên qua lại biên giới
tại hộ gia đình; tư vấn, truyền thông để người dân tự nguyện báo cáo cho y tế thôn
về việc đi rừng ngủ rẫy, giao lưu biên giới trước lúc đi và sau khi về.
3. Xây dựng thêm nhiệm vụ của trạm y tế xã về quản lý hoạt động YTTB thực
hiện mô hình PCSR tại hộ gia đình.
4. Tập huấn cho nhân viên YTTB về thực hiện mô hình PCSR tại hộ gia đình:
theo dõi, giám sát, tư vấn, TTGD trực tiếp, kỹ thuật lấy lam máu, thử test nhanh, kỹ
năng thống kê báo cáo. Theo dõi, điều trị SR tại hộ gia đình những người có đi
rừng, ngủ rẫy và giao lưu biên giới.
5. Cung cấp dụng cụ cho nhân viên YTTB thực hiện nhiệm vụ tại hộ gia đình.
6. Xây dựng chế độ hỗ trợ kinh phí cho nhân viên YTTB.
7. Phối hợp với các đoàn thể xã hội của xã, quân y bộ đội biên phòng các đồn
và y tế 2 huyện Sê Pôn, Nòng (Lào).
8. Họp thống nhất với tỉnh và các huyện của Lào về triển khai hoạt động PCSR,
ký kết văn bản hợp tác giữa Sở Y tế 2 tỉnh Quảng Trị và Savannakhet (Lào): được
phép xét nghiệm, điều trị sốt rét cho người Lào sang Việt Nam và người Việt Nam
sang Lào.
9. Tiến hành điều tra tỷ lệ mắc sốt rét cả 2 bên trong cùng một thời điểm và
phối hợp đồng bộ về phun hoá chất PCSR của các xã 2 bên biên giới tương ứng
vùng một lúc.
10. Nhiệm vụ của trạm y tế xã về quản lý hoạt động của y tế thôn thực hiện mô
hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình, có 7 nhiệm vụ cụ thể:
+ Y tế xã cùng với YTTB trực tiếp đến tại hộ gia đình hàng tuần để hỗ trợ
YTTB phát hiện sớm người có triệu chứng sốt rét, lấy lam máu và thử tét nhanh.
+ Y tế xã giám sát việc cấp thuốc điều trị bệnh nhân sốt rét của YTTB tại hộ
gia đình và chuyển lên trạm y tế điều trị những trường hợp thấy cần thiết.
+ Tổng hợp số liệu từ nhân viên YTTB về người dân đi rừng, đi qua Lào và
khi về; ngủ màn, dời bếp lửa xa nhà, không có chuồng gia súc dưới sàn nhà.
+ Phối hợp cùng YTTB truyền thông giáo dục nâng cao kiến thức, thái độ,
thực hành PCSR.
+ Phối hợp cùng YTTB tư vấn, động viên thực hiện VSMT, dời bếp lửa xa
nhà, dời chuồng gia súc và lấp vũng nước đọng quanh nhà.
+ Tổng hợp số liệu từ nhân viên YTTB về người dân Lào qua Việt Nam và
điều trị bênh nhân người Lào mắc sốt rét.
4) Quản lý sốt rét do giao lưu biên giới và phối hợp phòng chống sốt rét tại
vùng biên giới giữa 2 tỉnh của 2 nước Việt Nam - Lào, gồm có 3 nội dung
1. Quản lý người giao lưu và điều trị bệnh nhân sốt rét do giao lưu biên giới:
Tại Việt Nam:
- Người Việt sang Lào khi trở về bị sốt: nhân viên YTTB, y tế xã giám sát các
đối tượng thường qua lại Lào làm ăn, cấp thuốc tự điều trị sốt rét, ghi chép vào sổ
theo dõi các trường hợp sốt rét do qua lại Lào, tư vấn, lấy lam máu xét nghiệm và
điều trị sớm hạn chế sốt rét nặng và tránh lây lan cho người dân trong thôn.
- Người Lào sang chơi và khám bệnh: YTTB, y tế xã ghi chép vào sổ theo dõi
người Lào sang và số bị sốt rét được xét nghiệm và điều trị SR để hạn chế lây lan
cho người dân cả 2 bên biên giới.
Tại Lào: Tình nguyện viên y tế bản phía Lào phát hiện người có sốt, hướng
dẫn và tư vấn họ sang các trạm y tế phía Việt Nam để điều trị.
2. Phối hợp điều tra sốt rét 2 bên biên giới
Điều tra tỷ lệ hiện mắc sốt rét, KSTSR, lách sưng, véc tơ truyền bệnh sốt rét.
Trung tâm y tế dự phòng tỉnh soi lam tìm KSTSR và điều tra véc tơ sốt rét giúp
Lào. Cả Việt Nam và Lào gửi giấy thấm sang Nhật Bản để làm kỹ thuật PCR.
3. Lập và thực hiện kế hoạch phối hợp PCSR cả 2 biên giới Việt Nam và Lào,
sau khi được sự đồng ý và đề nghị của Sở Y tế tỉnh Savannakhet (Lào), tỉnh Quảng
Trị (Việt Nam) hỗ trợ Lào các hoạt động:
- Phun hoá chất PCSR tồn lưu lên tường nhà tại 10 bản của Lào giáp biên giới
các xã can thiệp và xã chứng có mắc sốt rét cao.
- Điều trị miễn phí cho các bệnh nhân người Lào sang Quảng Trị.
- Phối hợp các hoạt động PCSR khác: TTGDSK, VSMT phòng chống sốt rét.
Ngôn ngữ được sử dụng tại địa bàn can thiệp chủ yếu là tiếng Vân Kiều, Pa Kô
vì đa số người Lào sống dọc biên giới đều hiểu và nói được 2 thứ tiếng này.
2.5.5.6. Đánh giá mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình
1) Đánh giá về tổ chức quản lý phòng chống sốt rét thường quy tại trạm y tế xã
- Chỉ số khám, phát hiện và điều trị bệnh nhân sốt rét tại trạm y tế xã, xét
nghiệm và điều trị tại cơ sở y tế. Tình hình sốt rét 2 xã này vẫn còn biến động.
- Không quản lý được đối tượng đi rừng, giao lưu biên giới. Không nắm được
số lần giao lưu, khi đi và khi về không được ghi chép, quản lý, không được xét
nghiệm máu kịp thời.
- Đi rừng, đi sang Lào về không được xét nghiệm. Hoạt động bình thường, các
hoạt động chủ yếu thực hiện tại trạm y tế xã.
Phòng chống sốt rét thường quy không đạt kết quả tốt trong chiến lược “Phát
hiện sớm, điều trị kịp thời”. Cấp thuốc điều trị sốt rét bệnh nhân mang về nhà uống,
nên có thể quên hoặc uống không đủ liều.
- Các hoạt động truyền thông giáo dục, vệ sinh môi trường chỉ thực hiện ở cấp
thôn ít có thay đổi về kết quả truyền thông và vệ sinh môi trường.
- Chỉ phối hợp tổ chức PCSR ở một vài thôn giáp biên giới của Lào.
2) Đánh giá về tổ chức quản lý mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình
- Y tế thôn bản chủ động khám phát hiện sớm các trường hợp mắc sốt rét tại
hộ gia đình, cấp thuốc điều trị sốt rét kịp thời, biện pháp này đã giúp thực hiện
thành công chiến lược “Phát hiện sớm, điều trị kịp thời” của chương trình phòng
chống sốt rét của thế giới và của Việt Nam. Giám sát việc bệnh nhân uống thuốc
đảm bảo uống đúng thuốc, đủ liều theo qui định của chương trình.
Chỉ số về thực hành: số người dân đi xét nghiệm máu khi bị sốt tăng lên. Số
xét nghiệm có KSTSR (+) được quản lý và điều trị triệt để.
Y tế thôn bản giám sát người dân qua lại biên giới, đi rừng, ngủ rẫy khi bị sốt
rét được xét nghiệm và điều trị kịp thời tại hộ gia đình. Quản lý được đối tượng có
giao lưu biên giới: Số lượng người, số lần giao lưu biên giới, số được cấp và có đem
thuốc tự điều trị sốt rét đi.
Số có sốt rét do giao lưu biên giới, tỷ lệ mắc sốt rét (+) do đi Lào về được
YTTB và y tế xã điều trị, tổng hợp và báo cáo hàng tháng, năm.
- Y tế thôn bản thực hiện các hoạt động truyền thông giáo dục, VSMT trực tiếp
tại hộ gia đình. Kết quả: Số hộ dời chuồng gia súc, hộ dời bếp lửa xa nhà, hộ không
có bụi rậm nước đọng tăng lên; Số hộ, số người nằm màn tăng.
- Phối hợp với các thôn giáp biên giới của Lào để tổ chức các hoạt động
PCSR: phun hoá chất hoặc tẩm màn, điều trị bệnh nhân sốt rét.
2.5.5.7. Các chỉ số mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình vùng biên giới
1/ Mười chỉ số được sử dụng trong tổ chức quản lý mô hình phòng chống sốt
rét tại hộ gia đình
Người dân khai báo cho nhân viên YTTB sớm về bệnh sốt rét, gồm:
- Số người có triệu chứng sốt rét của hộ gia đình.
- Số người trong gia đình có ngủ màn.
- Số hộ có bếp lửa giữa nhà.
- Số hộ có chuồng gia súc dưới sàn nhà.
- Số hộ dời chuồng gia súc xa nhà >50m.
- Số hộ không có bụi rậm cách nhà >50m.
- Số người có qua lại Lào có ngủ lại.
- Số người đi Lào về bị sốt rét.
- Số người Lào sang ngủ lại nhà, số có mắc sốt rét.
- Số người có đi rừng ngủ rẫy.
Tất cả các chỉ số của mô hình can thiệp tại hộ gia đình, bổ sung vào nhiệm vụ
cụ thể của hoạt động phòng chống sốt rét thường quy hiện nay.
2/ Bốn chỉ số được sử dụng trong mô hình phát hiện và điều trị tại hộ gia đình
- Số lượng, tỷ lệ BNSR, KSTSR được phát hiện và xét nghiệm tại nhà.
- Số lượng, tỷ lệ người sốt, có KST được tư vấn và theo dõi, điều trị SR tại nhà
- Số lượng, tỷ lệ người giao lưu và mắc sốt rét do giao lưu biên giới (sang Lào)
được xét nghiệm, điều trị và quản lý tại hộ gia đình.
- Số lượng, tỷ lệ mắc sốt rét do đi rừng, ngủ rẫy được phát hiện và quản lý tại
hộ gia đình.
3/ Ba chỉ số về truyền thông GDSK phòng chống sốt rét tại hộ gia đình:
Số lượng, tỷ lệ hộ gia đình, số người được tuyên truyền trực tiếp tại hộ gia
đình. Khác với PCSR thường quy từ trước đến nay.
Gồm 3 chỉ số sau:
- Tỷ lệ có kiến thức đúng về phòng chống sốt rét: là tỷ lệ % người dân hiểu
nguyên nhân bệnh sốt rét, triệu chứng bệnh SR và cách phòng chống bệnh sốt rét.
- Tỷ lệ có thái độ đúng về phòng chống sốt rét: là tỷ lệ% người dân hiểu
phòng chống bệnh sốt rét là phải ngủ màn, khi bị sốt đến cơ sở y tế để được điều trị.
- Tỷ lệ có thực hành phòng chống sốt rét đúng: Là tỷ lệ % người dân có nằm
màn; có thuốc sốt rét khi qua biên giới, đi rừng; Khi đi rừng ngủ rẫy, qua lại biên
giới có mang theo màn và có ngủ màn.
4/ Năm chỉ số về phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới
- Số người, số lần, số đêm ngủ lại tại Lào. Số lượng, tỷ lệ mắc sốt rét%.
- Số người Lào bị sốt rét, số được điều trị sốt rét tại trạm y tế, tại nhà các gia
đình phía Việt Nam. Số lượng, tỷ lệ mắc sốt rét%.
- Tỷ lệ hiện mắc sốt rét các thôn đối diện 2 bên biên giới.
- Số BNSR, số KSTSR được phát hiện và điều trị 2 bên biên giới.
- Số hộ, số người Lào được bảo vệ bằng biện pháp phun hoá chất. Tỷ lệ%.
2.5.5.8. Các bước tiến hành mô hình
Là can thiệp cộng đồng, có đối chứng. Từ tháng 1/2010 - 1/2012.
Nghiên cứu được chia làm 4 giai đoạn.
- Giai đoạn 1: điều tra thực trạng sốt rét của huyện Hướng Hoá và 4 xã
- Giai đoạn 2: lập kế hoạch can thiệp có địa phương của 2 bên BG tham gia.
- Giai đoạn 3: tiến hành can thiệp.
Chủ động phát hiện và điều trị bệnh nhân SR, KSTSR (+) tại hộ gia đình;
Quản lý và phòng chống sốt rét cho dân giao lưu qua biên giới;
Tăng cường truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét về hộ gia đình;
Tăng cường các hoạt động vệ sinh môi trường PCSR về hộ gia đình;
Phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới giữa 2 nước.
- Giai đoạn 4: Đánh giá sau 2 năm can thiệp.
1) Tổ chức quản lý mô hình.
- Văn bản triển khai thực hiện mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình:
thực hiện dựa trên cơ sở nhiệm vụ của trạm y tế và YTTB được Bộ Y tế phân công,
triển khai chủ động tại hộ gia đình, không thụ động chờ bệnh nhân đến trạm y tế.
- Xây dựng mô hình trên cơ sở giao nhiệm vụ cụ thể cho y tế xã, YTTB trong
từng nội dung chuyên môn.
- Dựa trên khả năng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của YTTB trong xét
nghiệm và điều trị sốt rét và các hoạt động truyền thông, VSMT, giám sát khác.
- Tập huấn lại các nội dung hoạt động và chuyên môn cho y tế xã, YTTB.
- Mạng lưới nhân viên YTTB (Đã được xây dựng).
- Chuẩn bị nguồn lực, trang thiết bị, phương tiện.
- Xây dựng kế hoạch hoạt động.
- Phối hợp đoàn thể: phối hợp với cấp uỷ, chính quyền các ban ngành ở xã.
- Mở rộng phối hợp phòng chống sốt rét với Lào.
- Sơ kết giai đoạn 2 năm nghiên cứu thử nghiệm.
- Đánh giá kết quả, hiệu quả can thiệp của mô hình.
2) Chuyên môn.
- Tư vấn về phát hiện cơn sốt, xét nghiệm và điều trị sốt rét tại nhà.
- Theo dõi, động viên người dân: ngủ màn, dời bếp lửa, dời chuồng gia súc xa
nhà... vệ sinh môi trường để PCSR.
- Phát hiện người có đi rừng ngủ rẫy, qua lại biên giới khi đi và về. Phát hiện
sớm người có sốt.
- Lấy lam máu, thử test nhanh tại nhà.
- Điều trị sốt rét thường tại nhà có sự giám sát hỗ trợ của y tế xã.
3) Đánh giá mô hình.
- Điều tra ngang sau can thiệp.
- Thu thập thông tin số liệu báo cáo của nhân viên YTTB, trạm y tế.
- Tổng kết rút kinh nghiệm.
Phương pháp đánh giá kết quả can thiệp
Kết quả của can thiệp được đánh giá dựa trên mô hình so sánh can thiệp - đối
chứng qua 4 so sánh sau:
- So sánh trước can thiệp của nhóm can thiệp và nhóm chứng về tỉ lệ hiện mắc
SR, KSTSR. Tỷ lệ trả lời đúng về kiến thức, thái độ, thực hành PCSR, véc tơ SR
- So sánh trước và sau can thiệp của nhóm can thiệp về tỉ lệ hiện mắc SR,
KSTSR. Tỷ lệ trả lời đúng về kiến thức, thái độ, thực hành PCSR, véc tơ SR
- So sánh trước và sau can thiệp của nhóm chứng về tỉ lệ hiện mắc SR,
KSTSR. Tỷ lệ trả lời đúng về kiến thức, thái độ, thực hành PCSR, véc tơ SR
- So sánh sau can thiệp giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng về tỉ lệ hiện mắc
SR, KSTSR. Tỷ lệ trả lời đúng về kiến thức, thái độ, thực hành PCSR, véc tơ SR
Đánh giá hiệu quả can thiệp qua 3 so sánh sau: hiệu quả can thiệp của nhóm
chứng, hiệu quả can thiệp nhóm can thiệp và hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp
so với nhóm chứng.
Nội dung đánh giá
- Đánh giá biện pháp can thiệp phát hiện và điều trị chủ động bệnh nhân sốt rét
tại hộ gia đình được áp dụng tại nhóm can thiệp.
- Đánh giá biện pháp can thiệp truyền thông giáo dục, vệ sinh môi trường
PCSR chủ động được áp dụng tại nhóm can thiệp.
- Đánh giá biện pháp can thiệp phối hợp PCSR chủ động tại vùng biên giới
giữa 2 nước được áp dụng tại nhóm can thiệp.
- So sánh hiệu quả can thiệp của nhóm chứng, hiệu quả can thiệp của nhóm
can thiệp, hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp so với nhóm chứng.
4) Nhân rộng mô hình.
2.5.5.9. Nguồn lực can thiệp
- Chương trình phòng chống sốt rét quốc gia, kinh phí địa phương hỗ trợ.
- Các tổ chức quốc tế: Uỷ ban y tế Hà Lan- Việt Nam; Trung tâm y học nhiệt
đới, Đại học Nagasaki Nhật Bản.
- Nhân lực: Cán bộ y tế, quân y tỉnh Quảng Trị, cán bộ y tế tỉnh Savannakhet.
1/ Cung cấp dụng cụ y tế cho nhân viên YTTB: lam kính, kim chích máu,
bông cồn, test chẩn đoán nhanh, túi thuốc YTTB, thuốc điều trị sốt rét, sổ ghi chép,
phiếu báo cáo hàng tháng, mẫu báo cáo đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới, báo cáo
theo dõi nằm màn, hoạt động vệ sinh môi trường.
2/ Hỗ trợ kinh phí thêm cho mỗi nhân viên YTTB 10.000đ/tháng do kinh phí
của trạm y tế xã trả (bên cạnh kinh phí thường quy của Trung tâm y tế huyện trả).
2.6. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP
2.6.1. Đánh giá hiệu quả can thiệp
Chỉ số hiệu quả can thiệp trong nghiên cứu can thiệp theo công thức sau:
Chỉ số hiệu quả của nhóm chứng [21]
P Ch t - P Ch s CSHQ PCh =
PCh t x 100
Chỉ số hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp [21]
P CTt - P CTs CSHQ PCT =
P CTt x 100
Ghi chú . (t) . trước . (s) . sau. (CT) . nhóm can thiệp. (Ch) . nhóm chứng
P Ch t là tỷ lệ hiện mắc sốt rét trước can thiệp của nhóm chứng
P Ch s là tỷ lệ hiện mắc sốt rét sau can thiệp của nhóm chứng
CSHQ PCh là hiệu quả của nhóm chứng (trước và sau)
P CTt là tỷ lệ hiện mắc sốt rét trước can thiệp của nhóm can thiệp
P CTs là tỷ lệ hiện mắc sốt rét sau can thiệp của nhóm can thiệp
CSHQ PCT là hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp.
Hiệu quả can thiệp
HQCT = CSHQ PCT - CSHQ PCh.
Hiệu quả can thiệp của nhóm chứng: Là hiệu quả phòng chống sốt rét thường
quy tại nhóm chứng sau can thiệp so với trước can thiệp.
Hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp: Là hiệu quả của mô hình can thiệp
mới: mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình phối hợp PCSR vùng biên giới.
2.6.2. Các nhóm chỉ số đánh giá hiệu quả can thiệp
1. Tỷ lệ hiện mắc sốt rét.
2. Tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét.
3. Tỷ lệ thực hành đúng về phòng chống sốt rét.
4. So sánh véc tơ truyền bệnh sốt rét trước và sau can thiệp.
5. Tỷ lệ người dân được phát hiện và điều trị sốt rét sớm tại hộ gia đình.
6. Tỷ lệ người dân giao lưu BG được phát hiện và điều trị SR tại hộ gia đình.
2.6.3. Những điểm mạnh của nghiên cứu
Người dân được phát hiện bệnh sốt rét, được tư vấn và điều trị sốt rét sớm
không mất tiền ngay tại nhà. Quản lý được đối tượng giao lưu qua biên giới vì họ
thường ở lại các gia đình quen khi đi qua biên giới, từ đó kiểm soát được những
người giao lưu bị sốt ngay tại hộ gia đình.
2.7. HẠN CHẾ SAI SỐ NGHIÊN CỨU
• Thành lập đoàn giám sát kiểm tra ngay trong lúc thực hiện để điều chỉnh
ngay sự sai sót có thể xảy ra.
• Kiểm soát sai số do chọn mẫu: Tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên hộ gia đình
theo khung mẫu là danh sách các hộ gia đình của mỗi xã.
• Kiểm soát sai số do điều tra viên: Điều tra viên được huấn luyện và tiến hành
điều tra thử trước đó.
• Kiểm soát sai sót do soi lam: Chúng tôi gửi 100% lam (+) và 10% lam (-)
theo qui định vào Viện Sốt rét-KST-CT Qui Nhơn để kiểm tra, kết quả là không có
sai sót. Bên cạnh đó trong đợt phối hợp điều tra sốt rét vùng biên giới Việt-Lào
chúng tôi gửi các lam (+) và 5% lam (-) sang các trường Đại học ở Nhật Bản để
kiểm tra và tìm thêm chủng loại ký sinh trùng sốt rét mới có thể có ở Quảng Trị.
• Các số liệu được phân tầng, chuẩn hóa trước khi xử lý để khử các yếu tố
nhiễu như tuổi, dân tộc, giới tính.
• Kiểm soát sai sót khi ghi phiếu điều tra.
• Kiểm soát sai sót khi người dân trả lời, điều tra viên tránh gợi ý họ trả lời,
2.8. XỬ LÝ SỐ LIỆU NGHIÊN CỨU
Số liệu thu thập được trong nghiên cứu sẽ được nhập và phân tích theo phương
pháp thống kê y sinh học: Mô tả và kiểm định mối liên quan giữa một số yếu tố
nguy cơ và bệnh sốt rét bằng test 2, OR, giá tri p chọn ngưỡng p<0,05 và công
thức tính hiệu quả can thiệp.
Xử lý trên chương trình Excel và bằng phần mềm SPSS 14.5, EPI-INFO 7.0
2.9. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu đã được thực hiện với sự tuân thủ tuyệt đối các quy trình và quy
định về đạo đức trong nghiên cứu.
- Đề cương nghiên cứu đã được Hội đồng y đức xem xét và đánh giá trước khi
được thực hiện.
- Mô hình mang lại kết quả phòng chống sốt rét tốt, sức khỏe cho con người và
vì lợi ích cộng đồng.
- Đối tượng có quyền tham gia hoặc từ chối.
- Mọi người trong cộng đồng đều được hưởng quyền lợi như nhau từ các hoạt
động can thiệp phòng chống sốt rét.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ SỐT RÉT CỦA HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH
QUẢNG TRỊ TRONG 5 NĂM, TỪ 2005 ĐẾN 2009
3.1.1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét của huyện Hướng Hoá 5 năm, từ 2005 - 2009
3.1.1.1. Đặc điểm sốt rét của huyện Hướng Hóa trong 5 năm, từ 2005 - 2009
Bảng 3.1. Tỷ lệ mắc sốt rét của huyện Hướng Hóa trong 5 năm 2005 - 2009
Chỉ số mắc sốt rét 2005 2006 2007 2008 2009 TB
5 năm
Dân số chung 67.089 67.127 69.944 71.206 73.115 69.696
Số BNSR 1.521 1.591 1.631 972 1.223 1.388
Tỷ lệ ‰ BNSR 22,7 23,7 23,3 13,6 16,7 19,9
Số tử vong do SR 00 00 01 01 01 0,6
TV/100.000 dân 0,0 0,0 1,4 1,4 1,4 0,9
Số KSTSR 682 1.052 1.316 914 1.073 1.007
Tỷ lệ ‰ KSTSR 10,2 15,7 18,8 12,8 14,7 14,5
Tỷ lệ % P.falci 93,0 93,2 91,3 88,1 91,6 91,6
16,713,6
23,323,7
22,7
14,712,8
18,815,7
10,2
001,41,41,4
0
5
10
15
20
25
2005 2006 2007 2008 2009Tỷ lệ ‰ BNSR Tỷ lệ ‰ KSTSR TV/100.000 dân
Biểu đồ 3.1. Tình hình mắc sốt rét của huyện Hướng Hoá từ 2005 - 2009
Năm
Tỷ lệ ‰
Nhận xét: Tỷ lệ BNSR trung bình 19,9‰ dân số, xu hướng giảm từ 22,7‰ xuống
13,6‰. Tử vong từ 2007-2009 mỗi năm có một trường hợp do ký sinh trùng
Plasmodium falciparum.
Tỷ lệ người có KSTSR (+) trung bình 14,5‰ dân số, xu hướng dao động từ
10,2‰; 18,8‰; xuống 14,7‰. Ký sinh trùng sốt rét 72,6% số bệnh nhân sốt rét,
trong đó P.falcifarum chiếm ưu thế tỷ lệ 91,6%.
Bảng 3.2. Tỷ lệ BNSR trung bình tháng của Hướng Hoá từ 2005-2009
Tỷ lệ BNSR trung bình các tháng trong 5 năm (‰) Hướng
Hoá 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Dân
số
TB
69.6
96
69.6
96
69.6
96
69.6
96
69.6
96
69.6
96
69.6
96
69.6
96
69.6
96
69.6
96
69.6
96
69.6
96
BNSR 232 176 249 299 362 645 769 993 970 950 690 346
TL‰ 3,3 2,5 3,6 4,3 5,2 9,3 11,0 14,3 13,9 13,6 9,9 5,0
5,0
9,9
13,613,914,3
11,0
9,3
5,2
4,3
3,6
2,5
3,3
0
2
4
6
8
10
12
14
16
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ BNSR của huyện Hướng Hoá theo tháng từ 2005 - 2009
Nhận xét
Trong 5 năm 2005-2009, bệnh nhân mắc sốt rét tăng từ tháng 6 đến tháng 11,
tăng cao vào tháng 8,9,10; giảm từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Tỷ lệ ‰
Tháng
3.1.1.2. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng chống sốt rét từ 2005 - 2009
Bảng 3.3. Tình hình thực hiện các biện pháp dự phòng SR của huyện Hướng Hoá
TT Chỉ số 2005 2006 2007 2008 2009
Số hộ chỉ định phun 7.053 7.322 12.331 10.772 7.452
Số hộ được phun HC 6.994 6.901 12.123 10.667 7.227 1
TL% hộ phun HC 99,16 97,25 98,31 99,02 97,0
Số hộ chỉ định tẩm 9.747 6.559 8.644 7.850 7.855
Số hộ được tẩm màn 9.309 5.831 7.659 6.798 6.708 2
TL% hộ tẩm màn 95,5 88,9 88,6 86,6 85,4
3 Tỷ lệ% hộ phun, tẩm 96,6 98,4 92,9 91,6 91,8
4 Cấp màn PCSR (cái) 0 7.000 10.000 5.100 5.000
Tỷ lệ phun hoá chất trung bình 5 năm đạt cao >97%; tỷ lệ tẩm màn đạt >85%.
3.1.1.3. Tình hình mạng lưới cán bộ y tế huyện Hướng Hoá (năm 2010)
Bảng 3.4. Mạng lưới cán bộ y tế huyện Hướng Hoá và các xã nghiên cứu
Thành phần Toàn huyện Xy Thuận Thanh A Xing
Bác sĩ 33 0 01 02 0
Y sĩ, KTV 71 02 02 02 01
Y tá, ĐD, Ds 120 04 06 02 04
YTTB 202 06 15 10 07
Quân y BĐBP 09 0 02 02 0
Cộng CBYT 435 12 24 18 12
Cụm kính hiển vi 19 01 01 01 01
Toàn huyện có: một bệnh viện và 2 PKĐK với 150 giường bệnh; 22 trạm y tế
xã, 202 y tế thôn bản (100%), 19 cụm KHV/22 xã. Quân y 6 đồn, 4 trạm quân dân y
3.1.2. Đặc điểm dịch tễ sốt rét của 4 xã biên giới. xã Thuận, xã Xy, xã Thanh,
xã A Xing trong 5 năm từ 2005 - 2009
3.1.2.1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét tại 4 xã biên giới trong 5 năm
Bảng 3.5. Tỷ lệ mắc mới SR tại 4 xã: Xy, Thuận, Thanh, A Xing trong 5 năm
Chỉ số mắc sốt rét 2005 2006 2007 2008 2009 TB 5 năm
1. Xã Xy (Dân số) 1.441 1.562 1.570 1.647 1.650 1.558
Tỷ lệ ‰ BNSR/dân số 106,2 126,5 114,6 95,3 188,5 127,6
Tỷ lệ‰ KSTSR/dân số 87,4 123,6 109,0 12,1 171,5 100,7
2. Xã Thuận (Dân số) 2.372 2.212 2.382 2.848 2.576 2.478
Tỷ lệ ‰ BNSR/dân số 37,8 46,1 51,6 27,4 36,5 37,7
Tỷ lệ‰ KSTSR/dân số 24,5 38,2 50,3 4,2 35,7 30,6
3. Xã Thanh (Dân số) 2.656 2.805 2.829 3.009 3.074 2.875
Tỷ lệ ‰ BNSR/dân số 47,1 60,2 58,7 76,1 78,1 64,0
Tỷ lệ‰ KSTSR/dân số 31,6 54,0 53,4 5,0 72,0 43,2
4. Xã A Xing (Dân số) 1.856 1.899 1.936 1.988 2.097 1.955
Tỷ lệ ‰ BNSR/dân số 32,8 42,1 46,0 20,1 32,9 34,8
Tỷ lệ‰ KSTSR/dân số 20,0 26,3 43,3 4,5 32,0 25,2
5. Tỷ lệ ‰ BNSR 4 xã 56,0 68,7 67,7 54,7 84,0 66,1
6. Toàn huyện (Dân số) 67.089 67.127 69.944 71.206 73.115 69.696
Tỷ lệ ‰ BNSR/dân số 22,7 23,7 23,3 13,6 16,7 19,9
Tỷ lệ‰ KSTSR/dân số 10,2 15,7 18,8 12,8 14,7 14,5
Nhận xét
Tỷ lệ mắc sốt rét tại 4 xã biên giới trung bình trong 5 năm 2005-2009 là 66,1‰;
Tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét trung bình 49,9‰. Tỷ lệ mắc sốt rét cao nhất ở xã Xy:
127,6‰; Thấp nhất ở xã A Xing: 34,8‰. Tỷ lệ mắc sốt rét của 4 xã cao nhất trong
12 xã biên giới và cao so với tỷ lệ mắc sốt rét toàn huyện Hướng Hoá (19,9‰).
126,5
106,2114,6
188,5
95,3
78,176,1
58,747,1
60,2
32,946,032,8
0
40
80
120
160
200
2005 2006 2007 2008 2009
BNSR xã Xy BNSR xã Thuận BNSR xã Thanh
BNSR xã A Xing BNSR toàn huyện
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ BNSR của 4 xã trong 5 năm từ 2005-2009
87,4
123,6109,0
171,5
12,131,6
54,0 53,4 72,0
0
40
80
120
160
200
2005 2006 2007 2008 2009
KSTSR xã Xy KSTSR xã Thanh KSTSR xã A Xing
KSTSR toàn huyện KSTSR xã Thuận
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ KSTSR của 4 xã trong 5 năm từ 2005-2009
Nhận xét
Tình hình mắc sốt rét tại 4 xã giáp biên giới trung bình trong 5 năm 2005 - 2009
Tỷ lệ mắc sốt rét cao nhất ở xã Xy: 126,9‰; thấp nhất ở xã A Xing: 34,7‰. Tỷ
lệ mắc sốt rét của 4 xã này cũng cao nhất trong 12 xã biên giới và cao so với tỷ lệ
mắc sốt rét toàn huyện Hướng Hoá (19,9‰). Tỷ lệ mắc KSTSR cũng cao nhất xã
Xy 100,7‰; thấp nhất xã A Xing 25,2‰ (Phụ lục III.6.)
Năm
Năm
Tỷ lệ ‰
Tỷ lệ ‰
3.1.2.2. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi mắc sốt rét của 4 xã biên giới trong 5 năm
49,7
10,3
12,7
23,6
16,7
5,05,55,9
37,5
12,1 14,311,7
0
10
20
30
40
50
60
2005 2006 2007 2008 2009
BNSR <5 tuổi xã Xy BNSR <5 tuổi xã ThuậnBNSR <5 tuổi xã Thanh BNSR <5 tuổi xã A XingBNSR <5 tuổi 4 xã
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét trẻ em dưới 5 tuổi so với dân số của 4 xã
Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét dưới 5 tuổi từ 14,8-18,2% so với tổng số bệnh nhân sốt
rét của mỗi xã nghiên cứu. Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét dưới 5 tuổi so với dân số trung
bình của 4 xã cao từ: 8,2 - 15,0‰ dân số các xã.
3.1.2.3. Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét tại 4 xã theo tháng từ 2005 - 2009
11,3
4,48,6 9,1
12,7
33,1
34,3
45,2
46,3
51,7
42,7
17,6
0
10
20
30
40
50
60
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ BNSR của 4 xã theo tháng trong 5 năm từ 2005 - 2009
Nhận xét
Tỷ lệ BNSR mắc mới của 4 xã theo tháng cao từ 4,4 - 51,7‰, tăng cao từ
tháng 6 đến tháng 11 hàng năm.
Tỷ lệ ‰
Tháng
Tỷ lệ ‰
Năm
3.1.2.4. Tình hình mắc sốt rét ở nhóm người có giao lưu biên giới Việt - Lào
Bảng 3.6. Bệnh nhân là người dân tại 4 xã sang Lào trở về bị sốt rét từ 2005 đến 2009
Nội dung các chỉ số 2005 2006 2007 2008 2009
Bệnh nhân toàn huyện Hướng Hoá SL 1.521 1.591 1.631 972 1.223
SL 471 466 456 391 Tỷ lệ % BNSR toàn huyện sốt
tại Lào TL% 29,6 28,6 46,9 32,0
Tổng số BNSR 4 xã SL 428 544 558 494 714
SL 170 125 236 224 Tỷ lệ % BNSR 4 xã sốt tại Lào so
với tổng số BNSR của 4 xã TL% 31,3 22,4 47,8 31,4
SL 170 125 236 224 Tỷ lệ% BNSR có đi Lào của 4 xã so
với BN có đi Lào toàn huyện TL% 36,1 26,8 51,8 57,3
Nhận xét
Trong 5 năm 2005-2009 có nhiều bệnh nhân tại 4 xã bị mắc sốt rét có đi Lào
về, tỷ lệ BNSR có đi Lào mắc cao so với BNSR của 4 xã: Từ 22,4- 47,8%.
Tỷ lệ BNSR 4 xã có đi Lào mắc cao so với tỷ lệ bệnh nhân sốt rét có đi Lào
của toàn huyện Hướng Hoá: từ 28,6 - 46,9%.
22,4
0
57,351,8
36,1
23,3
16,7
13,623,7
22,7
0
10
20
30
40
50
60
70
2005 2006 2007 2008 2009
BNSR 4 xã sốt tại Lào so với BNSR 4 xã BNSR sốt tại Lào của 4 xã so với BN do đi Lào toàn huyện BNSR sốt tại Lào của huyện so với BNSR toàn huyệnBNSR toàn huyện Hướng Hoá
Biểu đồ 3.7. Bệnh nhân mắc sốt rét có đi Lào về trong 5 năm từ 2005-2009
Tỷ lệ ‰
Năm
Bảng 3.7. Bệnh nhân sốt rét người Lào sang 4 xã điều trị trong 5 năm
Nội dung các chỉ số 2005 2006 2007 2008 2009
Bệnh nhân toàn huyện Hướng
Hoá SL 1.521 1.591 1.631 972 1.223
SL 138 147 202 406 Tỷ lệ% BN người Lào mắc SR
đến huyện Hướng Hoá TL% 8,7 9,0 20,8 33,2
SL 109 107 166 312 Tỷ lệ% BNSR người Lào đến 4
xã so với BNSR người Lào đến
huyện Hướng Hoá TL% 79,0 72,8 82,2 76,8
Bệnh nhân sốt rét tại 4 xã SL 428 544 558 494 714
SL 109 107 166 312 Tỷ lệ% BNSR là người Lào đến
4 xã so với BNSR 4 xã TL% 20,0 19,2 33,6 43,7
Nhận xét
Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét là người Lào sang 4 xã khám và điều trị sốt rét trong 5
năm 2005-2009 từ 20,0 - 43,7% so với tổng số BNSR 4 xã và từ 72,8 - 82,2% so
với BNSR người Lào sang huyện Hướng Hoá mỗi năm. Tỷ lệ BNSR người Lào so
với tổng số bệnh nhân huyện Hướng Hoá khá cao từ 8,7% - 33,2%.
000
16.7
43,7
33,6
19,220,0
76,882,2
72,879,0
33,220,8
9,08,713.6
23,323,722,7
0
20
40
60
80
100
2005 2006 2007 2008 2009
BNSR là người Lào so với BNSR 4 xãBNSR là người Lào sang 4 xã so với BNSR người Lào sang toàn huyệnBNSR người Lào so với BNSR toàn huyệnBNSR toàn huyện Hướng Hoá
Biểu đồ 3.8. Bệnh nhân sốt rét là người Lào sang điều trị tại 4 xã từ 2005 đến 2009
Năm
3.2. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ SỐT RÉT VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
ĐẾN MẮC SỐT RÉT CỦA 4 XÃ THUẬN, XY, THANH, A XING NĂM 2010
3.2.1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét của 4 xã trước can thiệp tháng 1 năm 2010
3.2.1.1. Thông tin chung về 4 xã điều tra
Bảng 3.8. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu trước can thiệp
Nhóm chứng Nhóm can thiệp Các biến số điều tra
SL(n=1.119) TL% SL(n=1.302) TL%
Nam 560 50,0 590 45,3 Giới tính
Nữ 559 50,0 712 54,7
<5 tuổi 306 27,3 438 33,7
5-14 tuổi 351 31,4 425 32,6 Nhóm tuổi
≥ 15 tuổi 462 41,3 439 33,7
Vân Kiều 780 69,7 1.302 100,0 Dân tộc
Pa Kô 339 30,3 0 0
Làm rẫy 720 64,3 836 64,2
Học sinh 165 16,2 212 16,3 Nghề nghiệp
Còn nhỏ, già 218 19,5 254 19,5
Mù chữ 933 83,4 1.040 79,9 Trình độ
học vấn Biết chữ 186 16,6 262 20,1
Kín đáo 886 79,2 1.080 82,9 Điều kiện
nhà ở Sơ sài 233 20,8 222 17,1
< 500m 360 32,2 478 36,7 Khoảng cách
từ nhà- rừng ≥ 500m 759 67,8 824 63,3
Có đi 214 19,1 168 12,9 Đi rừng,
ngủ rẫy Không đi 905 80,9 1.134 87,1
Nhận xét: Cả 2 nhóm đều tương đồng về các đặc điểm: Giới tính, nghề nghiệp: làm
rẫy 64,2 - 64,3%. Tỷ lệ mù chữ khá cao 83,4 - 79,9%; sống gần rừng là 32,2 -
36,7%. Đi rừng, ngủ rẫy: 12,9 - 19,1%.
3.2.1.2. So sánh các đặc điểm về dịch tễ sốt rét trước can thiệp năm 2010
Bảng 3.9. So sánh các đặc điểm dịch tễ sốt rét trước can thiệp năm 2010
Chỉ số đánh giá Tổng số
khám Số mắc sốt rét
Tỷ lệ %
χ2, p
Chứng 1.119 35 3,1
Can thiệp 1.302 29 2,2 χ2= 1,5 p>0,05 Số bệnh nhân
mắc sốt rét Tổng 2.421 64
Chứng 1.119 27 2,2 Số bệnh nhân có KSTSR (+) Can thiệp 1.302 22 1,7
χ2= 1,2 p>0,05
Chứng 1.119 4 0,4 Số người có lách sưng Can thiệp 1.302 4 0,3
-
Số BN BN đi Lào
Chứng 309 114 36,9 Bệnh nhân mắc sốt rét sau khi đi Lào
Can thiệp 405 110 27,2 p>0,05
Nhận xét. Trước can thiệp cả 2 nhóm đều tương đồng về các đặc điểm dịch tễ SR
3.2.1.3. Cơ cấu ký sinh trùng sốt rét trước can thiệp 1/2010
Bảng 3.10. Cơ cấu ký sinh trùng sốt rét của 4 xã năm 2010
Cơ cấu ký sinh trùng sốt rét SL TL%
Số bệnh nhân mắc sốt rét 64 100
Trong đó: - BNSR lâm sàng 15 23,4
- BNSR có ký sinh trùng (+) 49 76,6
P.falciparum (đơn thuần) 23 46,9
P.vivax (đơn thuần) 23 46,9
P.falciparum + P.vivax (phối hợp) 3 6,2
Biểu đồ 3.9. Cơ cấu ký sinh trùng sốt rét tại 4 xã năm 2010
P. falci. & P. vivax6,2%
P. vivax46,9%
P. falciparum46,9%
3.2.2. Kiến thức thái độ, thực hành của người dân tại 4 xã: xã Thuận, xã Xy, xã
Thanh, xã A Xing năm 2010
Bảng 3.11. Hiểu biết, thái độ của người dân về bệnh sốt rét
1. Kiến thức về phòng chống bệnh sốt rét Nhóm chứng Nhóm can thiệp
1.1. Kiến thức đúng về phòng chống sốt rét: SL
n = 200
TL% SL
n = 200
TL%
- Về nguyên nhân gây bệnh SR: sốt rét là do
muỗi truyền
138 69,0 141 70,5
- Về triệu chứng bệnh SR: rét run, sốt nóng... 134 67,0 138 69,0
- Về biện pháp PCSR: Ngủ màn 102 51,0 100 50,0
1.2 Kiến thức không đúng về triệu chứng
bệnh sốt rét
66 33,0 62 31,0
1.3. Kiến thức không đúng về PCSR
Trong đó, cụ thể sau:
Về nguyên nhân: + Do ruồi, nước độc,... 2 1,0 2 1,0
+ Do đi rừng 2 1,0 4 2,0
+ Không biết 52 26,0 59 29,5
2. Thái độ đúng về phòng chống bệnh sốt rét
- Phòng chống SR là phun hoá chất diệt muỗi 158 79,0 163 81,5
- Ngủ màn 102 51,0 100 50,0
- Khi bị sốt đến trạm y tế/bệnh viện, YTTB 198 99,0 197 98,5
Nhận xét: Trước can thiệp cả 2 nhóm đều tương đồng về kiến thức, thái độ, thực
hành phòng chống sốt rét: Kiến thức đúng: sốt rét là do muỗi truyền đạt tỷ lệ 69,0 -
70,5%. Thái độ đúng: Ngủ màn: 50 - 51,0%; Phun hoá chất diệt muỗi: 79,0 - 81,5%.
Thực hành đúng: Khi bị sốt 98,5-99,0% đến các cơ sở y tế.
Bảng 3.12. Thực hành của người dân về phòng chống bệnh sốt rét
Nội dung Nhóm chứng Nhóm can thiệp
1. Thực hành PCSR đúng SL
n = 200TL%
SL
n = 200 TL%
Hộ gia đình có ngủ màn 102 51,0 100 50,0
Hộ gia đình có phun hoá chất diệt muỗi 158 79,0 163 81,5
Hộ gia đình có người uống thuốc sốt rét 140 70,0 142 71,0
Hộ gia đình có tẩm màn, phát quang bụi rậm... 21 10,5 20 10,0
Hộ gia đình có người đi rừng có mang màn 24 12,0 26 13,0
Hộ gia đình có người ngủ đêm ở rừng (Số người) 26 13,0 30 15,0
Hộ gia đình có người ngủ đêm ở rừng có
ngủ màn 10 5,0 8 4,0
Hộ gia đình có người đến trạm y tế/bệnh viện,
đến YTTB 198 99,0 197 98,5
Hộ dời chuồng gia súc xa nhà (> 50m) 118 59,0 123 61,5
Hộ không có nước đọng quanh nhà 60 30,0 62 31,0
Hộ không có bụi rậm quanh nhà 44 22,0 46 23,0
2. Thực hành PCSR không đúng
Hộ gia đình không ngủ màn 98 49,0 100 50,0
Hộ gia đình đi rừng không mang màn 180 90,0 170 85,0
Ngủ đêm ở rừng không ngủ màn 20 10,0 18 9,0
3. Giao lưu biên giới
Hộ gia đình không đi Lào 166 83,0 162 81,0
Hộ gia đình có người sang Lào có ngủ ở Lào 34 17,0 38 19,0
Hộ gia đình có người sang Lào có ngủ ở Lào,
có ngủ màn 7 3,5 10 5,0
Hộ gia đình có người sang Lào có ngủ ở Lào
nhưng không hoặc ít ngủ màn 28 14,0 27 13,5
Nhận xét: Thực hành đúng: Cả 2 nhóm khi bị sốt 98,5% - 99,0 đến các cơ sở y tế.
3.2.3. Một số yếu tố liên quan đến mắc sốt rét tại 4 xã. xã Xy, xã Thuận, xã
Thanh, xã A Xing năm 2010
3.2.3.1. Mối liên quan giữa mắc sốt rét với các đặc điểm xã hội của người dân
Bảng 3.13. Mối liên quan mắc sốt rét với một số đặc điểm của người dân
Mắc sốt rét Không mắc SRYếu tố liên quan
SL TL% SL TL%
Tổng
n=2.421 χ2, p, OR
Nam 38 3,3 1.111 96,7 1.149 Giới
Nữ 26 2,0 1.246 98,0 1.272
χ2 = 3,7
p>0,05
OR = 1,6
<5 tuổi 15 2,0 729 98,0 744
5-14 tuổi 20 2,6 756 97,4 776 Nhóm tuổi
≥ 15 tuổi 29 3,2 872 96,8 901
χ2 = 10,2
p<0,05
OR = 0,8
Vân Kiều 44 2,1 2.038 97,9 2.082
Dân tộc Pa Kô 20 5,9 319 94,1 339
χ2 = 14,8
p<0,05
OR = 0,3
Biết chữ 13 0,5 433 17,9 446 Học vấn
Mù chữ 51 2,1 1.924 79,5 1.975
χ2 = 0,2 p>0,05
OR = 1,3
(0,8-2,3)
Nhận xét
Tỷ lệ mắc sốt rét: Nam 3,3%; nữ 2,0%. Không có mối liên quan giữa mắc sốt
rét với 2 giới nam/nữ, p>0,05.
Tỷ lệ mắc sốt rét giữa các nhóm tuổi: nhóm ≥15 tuổi mắc cao nhất (3,2%),
nhóm <5 tuổi mắc thấp nhất (2,0%). Có mối liên quan giữa mắc sốt rét với các
nhóm tuổi, p<0,05.
Tỷ lệ mắc sốt rét ở nhóm dân tộc Pa Kô (5,9%) cao hơn nhóm dân tộc Vân
Kiều (2,1%). Có mối liên quan giữa mắc sốt rét với 2 nhóm dân tộc, p<0,05.
Không có mối liên quan giữa mắc sốt rét trình độ học vấn, p>0,05.
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa mắc sốt rét với các đặc điểm sinh sống
và hoạt động xã hội của người dân 4 xã nghiên cứu
Mắc sốt rét Không mắcSR Yếu tố liên quan
SL TL% SL TL%
Tổng
n=2.421 χ2, p, OR
Người có nhà ở
cách rừng <500m 31 3,7 807 96,3 838 Khoảng
cách từ
nhà đến
rừng
Người có nhà ở
cách rừng ≥ 500m 33 2,1 1.550 97,9 1.583
χ2 = 5,6
p<0,05
OR = 0,6
(0,3-0,9)
Có đi rừng,
ngủ rẫy 17 4,5 365 95,5 382 Đi
rừng,
ngủ rẫy Không đi rừng,
ngủ rẫy 47 2,3 1.992 97,7 2.039
χ2 = 5,8
p<0,05
OR = 0,5
(0,3-0,9)
Làm rẫy 38 2,4 1.534 97,6 1.572
Học sinh 16 4,2 361 95,8 377 Nghề
nghiệp Còn nhỏ, già yếu 10 2,1 462 97,9 472
χ2 = 4,6
p>0,05
Nhận xét
Qua kết quả phân tích chúng tôi nhận thấy:
Có mối liên quan giữa mắc sốt rét với khoảng cách từ nhà đến rừng, p<0,05.
Có mối liên quan giữa đi rừng, ngủ rẫy với mắc sốt rét, p<0,05.
Chưa tìm thấy mối liên quan giữa mắc sốt rét với nghề nghiệp, p>0,05.
3.2.3.2. Mối liên quan giữa thời tiết, mật độ véc tơ và bệnh nhân sốt rét 4 xã
năm 2010
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa thời tiết, véc tơ và BNSR 4 xã năm 2010
Diễn biến qua các tháng Chỉ số
so sánh 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Nhiệt độ TB 17,5 21,9 23,1 23,7 25,1 26,6 26,1 25,1 24,9 22,7 19,6 20,6
Độ ẩm TB 90 84 88 84 86 84 84 89 88 94 87 92
Lượng mưa TB 14,1 1,6 169,5 57,8 206,5 122 103,6 267 92,8 958,5 335,3 69,6
Mật độ véc tơ 0,2 0,2 1,6 1,6
TL‰ BNSR 2,1 0,9 2,9 2,4 3,9 16,1 7,8 8,2 8,4 10,2 8,0 3,3
0
200
400
600
800
1000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
0
5
10
15
20
Lượng mưa TB Mật độ véc tơ Độ ẩm TB
Nhiệt độ TB TL‰ BNSR
Biểu đồ 3.10. Mối liên quan giữa thời tiết, véc tơ và BNSR 4 xã năm 2010
Nhận xét
Tỷ lệ mắc sốt rét tăng cao từ tháng 6 đến tháng 11, từ 7,8 - 16,1‰. Là thời
điểm lượng mưa tăng: từ 206,5 đến 958,5 mm; độ ẩm cao: từ 84-94%; nhiệt độ khá
cao: 25,1-26,60C. Có ảnh hưởng của khí hậu, thời tiết đến mắc bệnh sốt rét.
Lượng mưa (mm) TL‰
3.2.4. Đặc điểm dịch tễ sốt rét của 2 nhóm trong giai đoạn can thiệp 2010-2011
3.2.4.1. Liên quan giữa ngủ màn và mắc sốt rét qua điều tra
Bảng 3.16. Liên quan giữa ngủ màn và mắc sốt rét
Mắc sốt rét Không mắc sốt rét Nội dung nghiên cứu
SL TL% SL TL% Tổng χ2, p, OR
Ngủ màn 70 4,7 1.420 95,3 1.490
Không ngủ màn 313 28,5 787 71,5 1.100
χ2 = 281,5
p<0,05
OR = 0,12
(0,1-0,16)
Tổng 383 14,8 2.207 85,2 2.590
Nhận xét
Điều tra được tiến hành bằng quan sát thực tế tại các hộ gia đình có bệnh nhân
bị sốt rét trong năm 2010. Tỷ lệ ngủ màn thường xuyên: 57,5% (1.490/2.590). Kết
quả: Tỷ lệ mắc sốt rét ở nhóm có ngủ màn 4,7%; Nhóm không ngủ màn mắc sốt rét
28,5%. Có mối liên quan giữa ngủ màn và mắc sốt rét, p<0,05.
3.2.4.2. Liên quan giữa qua lại biên giới và mắc sốt rét
Bảng 3.17. Liên quan giữa qua lại biên giới và mắc sốt rét
Mắc sốt rét Không mắc sốt rét Nội dung nghiên cứu
SL TL% SL TL% Tổng χ2, p, OR
Đi Lào 100 5,6 1.688 94,4 1.788
Không đi Lào 325 4,3 7.317 95,7 7.642
χ2 = 5,7
p<0,05
OR = 1,3
(1,1-1,7)
Tổng 425 4,5 9.005 95,5 9.430
Nhận xét
Theo số liệu điều tra từ 425 bệnh nhân sốt rét vào điều trị tại trạm y tế của 4 xã
năm 2010, thì tỷ lệ mắc sốt rét trong nhóm có đi Lào so với tổng số bệnh nhân sốt
rét đến trạm là khá cao: 23,5% (100/425).
Số người đi Lào có ngủ lại chiếm tỷ lệ 19% dân số (1.788/9.430), nhưng tỷ lệ
mắc sốt rét cao 5,6% (100/1.788). Không đi sang Lào mắc sốt rét 4,5% (325/7.642)
Nhóm người có đi Lào mắc sốt rét cao hơn nhóm không đi Lào. Có mối liên
quan có ý nghĩa giữa mắc sốt rét với qua lại biên giới (đi sang Lào), p<0,05.
3.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP MÔ HÌNH PHÒNG CHỐNG SỐT
RÉT TẠI HỘ GIA ĐÌNH VÙNG BIÊN GIỚI
3.3.1 Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình phối hợp phòng chống sốt rét
vùng biên giới
3.3.1.1. Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình.
Bảng 3.18. Tình hình tổ chức quản lý phòng chống sốt rét tại 2 nhóm
Trước can thiệp Sau can thiệp
TT Nội dung hoạt động Chứng
Can
thiệp Chứng
Can
thiệp
I Phòng chống sốt rét thường quy
1 Khám phát hiện điều trị tại
trạm y tế xã 287 375 481 321
2 Số hộ chỉ định phun hoá chất 996 731 996 731
Số hộ phun hoá chất hàng năm 990 730 972 731
Số hộ chỉ định tẩm màn 0 92 0 92
Số hộ cấp màn có tẩm màn 996 823 996 823
3 Điều tra côn trùng mỗi năm 2 đợt 2 2 2 2
4 Điều trị BNSR từ Lào sang 103 209 31 63
5 Nguồn lực
Hoá chất, vật tư, kinh phí được cấp
bởi chương trình PCSR quốc gia Đủ Đủ Đủ Đủ
Kinh phí địa phương cho PCSR Đủ Đủ Đủ Đủ
Màng lưới PCSR từ xã, thôn Đủ Đủ Đủ Đủ
Phối hợp quân dân y trong PCSR. Có Có Có Có
Nhận xét
Hoạt động thường quy được tổ chức theo quy định của chương trình PCSR
quốc gia. Phát hiện và điều trị SR chủ yếu tại trạm y tế xã, chưa thực hiện tại hộ GĐ
Bảng 3.19. Kết quả tổ chức quản lý phòng chống sốt rét tại 2 nhóm
Trước can thiệp Sau can thiệp
TT Nội dung hoạt động Chứng
Can
thiệp Chứng
Can
thiệp
II. Mô hình PCSR tại hộ gia đình
1 Phát hiện, điều trị SR tại hộ GĐ Không Không Không Có
Cấp thuốc điều trị có giám sát Không Không Không Có
Số liều cấp thuốc tự điều trị SR 404 1.042 773 297
2 Phòng chống véc tơ: Được giám sát chặt chẻ bằng bảng kiểm
Không Không Không 100% số hộ
3 Vệ sinh môi trường PCSR
Hộ không có nước đọng quanh nhà 601 700 637 800
Hộ dời chuồng gia súc xa nhà 470 540 501 649
Hộ không có bụi rậm quanh nhà 440 580 460 654
Hộ không có bếp lữa giữa nhà 850 700 897 798
4 Truyền thông giáo dục PCSR
Số đợt họp dân ở thôn tuyên
truyền trong 2 năm 2010-2011 34 34 34 136
Số hộ gia đình được TT trực tiếp 170 180 170 347
Số người dân được vận động nằm
màn, dời bếp lữa ra ngoài nhà, dời
chuồng gia súc xa nhà
170 180 340 7.246
Nhận xét
Tình hình tổ chức quản lý về phát hiện, điều trị sốt rét, phòng chống véc tơ,
VSMT, TTGD PCSR tại hộ gia đình của nhóm can thiệp đạt kết quả cao.
Trước can thiệp số liều thuốc sốt rét cấp tự điều trị ở nhóm can thiệp nhiều
hơn nhóm chứng. Sau can thiệp ngược lại nhóm can thiệp thấp hơn do quản lý và
điều trị được đối tượng giao lưu vào rừng, qua lại biên giới, là ưu điểm của nhóm
CT. Nhóm chứng chỉ hoạt động bình thường, khám và điều trị sốt rét ở trạm y tế.
Bảng 3.20. Tình hình công tác tổ chức quản lý sốt rét biên giới tại 2 nhóm
Trước can thiệp Sau can thiệp TT Nội dung hoạt động
Chứng Can thiệp
Chứng Can thiệp
III Mô hình PCSR tại hộ gia đình
phối hợp PCSR vùng biên giới.
1 Quản lý SR giao lưu qua biên giới
YTTB giám sát người dân qua lại
biên giới tại hộ gia đình 0 0 964 1.853
YTTB phát hiện sớm người có sốt,
xét nghiệm lam máu tại nhà 0 0 0 129
Tập huấn mạng lưới YTTB 1 1 2 2
2 Phối hợp PCSR vùng BG Việt-Lào
Phối hợp điều tra tình hình sốt rét
2 bên biên giới Việt-Lào. 0 0 1 2
Đào tạo tình nguyện viên y tế bản
2 huyện Sê Pôn và Nòng (Lào) 0 0 10 12
Phun hoá chất giúp 10 bản ở Lào 0 0 3 7
3 Quản lý được đối tượng có giao
lưu qua biên giới bởi YTTB 0 0 964 1.853
Số người sang Lào về bị sốt được
quản lý, điều trị hàng tháng. 114 110 32 68
Điều trị BNSR người Lào sang tại
hộ gia đình và trạm y tế 103 209 31 63
Nhận xét
Mô hình đã phát hiện và điều trị sớm người mắc sốt rét ngay tại hộ gia đình.
Số người Việt và người Lào qua lại biên giới và bị sốt rét ở nhóm can thiệp giảm và
được quản lý tốt ngay tại hộ gia đình.
3.3.2. Đánh giá kết quả can thiệp về tổ chức quản lý của mô hình phòng chống
sốt rét tại hộ gia đình và phòng chống sốt rét thường quy vùng biên giới
3.3.2.1. Kết quả can thiệp về tổ chức và quản lý tại 4 xã nghiên cứu từ 2010-2011
Bảng 3.21. Tình hình thực hiện các biện pháp PCSR tại 4 xã từ 2010-2011
Nhóm chứng Nhóm can thiệp Chỉ số thực hiện
trong 1 năm SL TL% SL TL% χ2, p, OR
Tổng số hộ các nhóm 996 100,0 823 100,0
Số hộ được cấp màn 996 100,0 823 100,0
Số hộ được giám sát
phun hoá chất, tẩm màn 966 97,0 823 100,0
χ2= 20,7; p<0,05
OR = 0,24
Tổng số hộ được chỉ
định phun 996 100,0 731 100,0 -
Tỷ lệ hộ được phun hoá
chất lần 1 966 97,0 731 100,0
χ2= 20,7; p<0,05
OR= 0,24
Tỷ lệ hộ được phun hoá
chất lần 2 972 97,6 730 99,9
χ2= 13,7; p<0,05
OR = 0,19
Số hộ chỉ định tẩm màn 0 0 92 100,0 -
Tỷ lệ hộ được tẩm màn 0 0 92 100,0 -
Nhận xét
Tỷ lệ hộ gia đình được phun hoá chất tại 4 xã trong mỗi năm từ 2010-2011 đạt
cao từ 97,1-100%. Tỷ lệ số hộ được phun và giám sát phun của nhóm can thiệp:
Thuận, Xy 100% cao hơn nhóm chứng: Thanh, A Xing 96,7%, p<0,05. Số hộ được
tẩm màn: Nhóm can thiệp 92/92 hộ (100%); Nhóm chứng không tẩm màn.
3.3.2.2. Đánh giá kết quả hoạt động phòng chống sốt rét tại 2 nhóm
Bảng 3.22. Kết quả về tổ chức quản lý PCSR của 2 nhóm sau can thiệp
Nhóm chứng Nhóm CT T
T Chỉ số đánh giá
SL TL% SL TL% χ2, p
1 Số bệnh nhân sốt rét 481 450
Tỷ lệ SR phát hiện tại hộ GĐ 0 0 129 25,0 _
Tỷ lệ SR phát hiện tại trạm 481 100 321 75,0 χ2 = 139,4; p<0,05
Tỷ lệ KSTSR phát hiện tại trạm 287 100 282 75,2 p>0,05
2 Số hộ phòng chống véc tơ 996 hộ 823 hộ
Số hộ chỉ định phun hoá chất 996 731
Số hộ được chỉ định tẩm màn 0 0 92
Số hộ được phun lần 1 966 97,0 731 100 χ2= 20,7; p<0,05
Số hộ được phun lần 2 972 97,6 731 100 χ2= 16,1; p<0,05
Số hộ được giám sát phun 910 90,7 823 100 p<0,05
Số hộ được cấp màn có tẩm 996 100 823 100 p<0,05
3 Kết quả vệ sinh môi trường 996 hộ 823 hộ
Số hộ không có nước đọng 637 63,1 800 91,7 χ2=298,3; p<0,05
Số hộ dời chuồng gia súc 501 49,6 649 74,4 χ2=156,8; p<0,05
Số hộ không có bụi rậm 460 65,7 654 75,0 χ2=208,9; p<0,05
Hộ không có bếp lửa giữa nhà 897 90,1 798 97,0 χ2= 32,7; p<0,05
4 Truyền thông PCSR 408 lượt 408 lượt
Số buổi họp dân tại thôn/tổng số thôn x 12 tháng x 2 năm
34 8,3 347 85,0 p<0,05
Số lượt người được nghe/lượt dân số xã 2 năm 2010-2011
340 6,1 7.246 65,2 χ2= 672; p<0,05
Lượt truyền thông đến hộ gia đình/số lượt hộ x 2 năm
34 3,2 459 27,9 χ2= 622,6;p<0,05
Thảo luận nhóm trọng tâm 0 0 6 _
Nhận xét: Tỷ lệ phát hiện và điều trị sốt rét tại hộ gia đình đạt 25% ở nhóm can
thiệp, nhóm chứng không có hoạt động này. Kết quả VSMT, TTGD PCSR của
nhóm can thiệp đạt cao hơn nhóm chứng, p<0,05.
3.3.3. Đánh giá kết quả can thiệp mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình
3.3.3.1. Đánh giá kết quả phòng chống sốt rét tại 2 nhóm trước can thiệp
Bảng 3.23. Đánh giá kết quả phòng chống sốt rét của 2 nhóm trước can thiệp
Chỉ số đánh giá Tổng số SL TL% χ2, p, OR
Chứng 1.119 35 3,1 Tỷ lệ hiện mắc
sốt rét Can thiệp 1.302 29 2,2
χ2= 1,5 p>0,05
Chứng 1.119 27 2,2 Tỷ lệ người bệnh có
ký sinh trùng SR (+) Can thiệp 1.302 24 1,7
χ2= 1,2 p>0,05
Chứng 1.119 4 0,4 Tỷ lệ lách sưng
Can thiệp 1.302 4 0,3 -
Chứng 200 138 69,0 Tỷ lệ có
kiến thức đúng Can thiệp 200 141 70,5
χ2= 0,05 p>0,05
Chứng 200 102 51,0 Tỷ lệ có
thái độ đúng Can thiệp 200 100 50,0
χ2= 0,01 p>0,05
Chứng 200 102 51,0 Tỷ lệ có
thực hành đúng Can thiệp 200 100 50,0
χ2= 0,01 p>0,05
Chứng 287 287 100 Tỷ lệ bệnh nhân
sốt rét đến trạm Can thiệp 375 375 100 p>0,05
Chứng 287 0 0 Tỷ lệ phát hiện BNSR tại hộ GĐ Can thiệp 375 0 0
-
Chứng 287 114 36,9 Bệnh nhân SR có
đi Lào so tổng số Can thiệp 375 110 27,2
χ2= 7,4 p<0,05
OR = 1,6 (1,1-2,2)
Chứng 287 103 33,3 BNSR Lào sang điều trị so với BNSR của xã Can thiệp 375 209 51,6
χ2= 24,9 p<0,05
OR = 0,44 (0,32-0,61)
Nhận xét
Trước can thiệp chưa có mô hình PCSR tại hộ gia đình. Tỷ lệ hiện mắc sốt rét
và thực hành PCSR đúng không có sự khác biệt, p>0,05.
3.3.3.2. Đánh giá kết quả phòng chống sốt rét ở nhóm chứng
Bảng 3.24. Đánh giá kết quả phòng chống sốt rét tại nhóm chứng
Chỉ số đánh giá Tổng số SL TL% χ2, p, OR
Trước CT 1.119 35 3,1 Tỷ lệ mắc sốt rét
Sau CT 1.038 19 1,8
χ2 = 3,2
p>0,05
Trước CT 1.119 27 2,2 Tỷ lệ người bệnh có
ký sinh trùng SR (+) Sau CT 1.038 15 1,4
χ2 = 2,1
p>0,05
Trước CT 1.119 4 0,4 Tỷ lệ lách sưng
Sau CT 1.038 3 0,3 _
Trước CT 200 138 69,0 Tỷ lệ có
kiến thức đúng Sau CT 200 152 76,0
χ2 = 1,3
p>0,05
Trước CT 200 102 51,0 Tỷ lệ có
thái độ đúng Sau CT 200 120 60,0
χ2 = 2,9
p<0,05
Trước CT 200 102 51,0 Tỷ lệ có
thực hành đúng Sau CT 200 164 82,0
χ2 =41,7
p<0,05
Trước CT 287 287 100 Tỷ lệ bệnh nhân
sốt rét đến trạm Sau CT 481 481 100 _
Trước CT 287 0 0 Tỷ lệ phát hiện BNSR tại hộ GĐ Sau CT 481 0 0
_
Trước CT 287 114 39,7 BNSR có đi Lào so
tổng số BNSR xã Sau CT 481 32 6,7
χ2=9,7
p<0,05
Trước CT 287 103 35,9 BNSR Lào sang
điều trị so với
BNSR của xã Sau CT 481 31 6,4
χ2= 106,2 p<0,05
OR = 8,1 (5,3-12,6)
Nhận xét
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét và thực hành đúng về PCSR tại nhóm chứng trước và
sau can thiệp không khác biệt, p>0,05. Không có hoạt động y tế phát hiện và điều trị
sốt rét tại hộ gia đình.
3.3.3.3. Đánh giá kết quả can thiệp mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở
nhóm can thiệp
Bảng 3.25. Đánh giá kết quả phòng chống sốt rét tại nhóm can thiệp
Chỉ số đánh giá Tổng số SL TL% χ2, p, OR
Trước CT 1.302 29 2,2 Tỷ lệ mắc sốt rét
Sau CT 1.026 7 0,7
χ2 = 8,0
p<0,05
Trước CT 1.302 22 1,7 Tỷ lệ người bệnh có
ký sinh trùng SR (+) Sau CT 1.026 5 0,5
χ2 = 6,2
p<0,05
Trước CT 1.302 4 0,3 Tỷ lệ lách sưng
Sau CT 1.026 1 0,1 χ2 = 0,4
p>0,05
Trước CT 200 138 70,5 Tỷ lệ có
kiến thức đúng Sau CT 200 187 93,5
χ2 = 37,8
p<0,05 OR = 0,2
Trước CT 200 100 50,0 Tỷ lệ có
thái độ đúng Sau CT 200 191 95,5
χ2 = 102,1
p<0,05 OR = 0,04
Trước CT 200 100 50,0 Tỷ lệ có
thực hành đúng Sau CT 200 191 95,5
χ2 = 102,1
p<0,05 OR = 0,04
Trước CT 375 375 100 Tỷ lệ bệnh nhân
sốt rét đến trạm Sau CT 450 321 75,0 χ2 = 125,3
p<0,05
Trước CT 375 0 0 Tỷ lệ phát hiện BNSR tại hộ GĐ Sau CT 450 129 25,0
χ2 = 125,3
p<0,05
Trước CT 375 110 29,3 BNSR có đi Lào so
tổng số BNSR xã Sau CT 450 68 15,1
χ2= 13,6 p<0,05
Trước CT 375 209 55,7 BNSR Lào sang điều trị so với BNSR của xã Sau CT 450 63 14,0
χ2= 159,3 p<0,05
OR = 7,7
Nhận xét Sau can thiệp, tại nhóm can thiệp, tỷ lệ hiện mắc sốt rét giảm nhiều so với
trước can thiệp, tỷ lệ người dân có thực hành đúng về PCSR cao hơn. Tỷ lệ BNSR
được phát hiện và điều trị tại hộ gia đình đạt 25% so trước can thiệp 0%, p<0,05.
3.3.3.4. Đánh giá kết quả can thiệp mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở
biên giới, so sánh với phòng chống sốt rét thường quy sau can thiệp
Bảng 3.26. Đánh giá kết quả phòng chống sốt rét tai 2 nhóm sau can thiệp
Chỉ số đánh giá Tổng số SL TL% χ2, p, OR
Chứng 1.038 19 1,8 Tỷ lệ mắc sốt rét
Can thiệp 1.026 7 0,7
χ2 =4,6
p<0,05 OR=2,7
Chứng 1.038 15 1,4 Tỷ lệ người bệnh có
ký sinh trùng SR (+) Can thiệp 1.026 5 0,5
χ2 = 4,0
p<0,05 OR = 3,0
Chứng 1.038 3 0,3 Tỷ lệ lách sưng
Can thiệp 1.026 1 0,1
χ2 = 0,24
p>0,05
Chứng 200 152 76,0 Tỷ lệ có
kiến thức đúng Can thiệp 200 187 93,5
χ2 = 22,4
p<0,05 OR= 0,2
Chứng 200 120 60 Tỷ lệ có
thái độ đúng Can thiệp 200 191 95,5
χ2 = 61,0
p<0,05 OR = 9,6
Chứng 200 164 82,0 Tỷ lệ có
thực hành đúng Can thiệp 200 191 95,5
χ2 = 16,9
p<0,05 OR = 4,7
Chứng 481 481 100 Tỷ lệ bệnh nhân
sốt rét đến trạm Can thiệp 450 321 75,0 p<0,05
Chứng 481 0 0 Tỷ lệ phát hiện
BNSR tại hộ GĐ Can thiệp 450 129 25,0 χ2 = 157,7
p<0,05
Chứng 481 32 6,7 BNSR có đi Lào so
tổng số BNSR xã Can thiệp 450 68 15,1
χ2 = 588,2
p<0,05 OR = 86,2
Chứng 481 31 6,4 BNSR Lào sang điều trị so với BNSR của xã Can thiệp 450 63 14,0
χ2 = 13,8
p<0,05
Nhận xét Sau can thiệp tỷ lệ hiện mắc SR nhóm can thiệp thấp hơn nhóm chứng, ,
p<0,05. Tỷ lệ người dân có thực hành đúng về PCSR của nhóm can thiệp cao hơn
nhóm chứng, p<0,05. Nhóm can thiệp phát hiện và điều trị SR tại hộ gia đình đạt
25%, nhóm chứng 0%.
3.3.3.5. Đặc điểm véc tơ sốt rét tại các xã nghiên cứu trước và sau can thiệp Bảng 3.27. Kết quả điều tra muỗi sốt rét tại các điểm NC trước can thiệp n¨m 2010
Các phương pháp điều tra
Mồi người
trong nhà
Mồi người
ngoài nhà
Soi trong
nhà ngày
Bẩy đèn
trong nhà
Soi chuồng
gia súc
Tên loài
Anopheles
SL MĐ SL MĐ SL MĐ SL MĐ SL MĐ
Anopheles minimus
0 0 0 03 0,9 41 0,6
Anopheles dirus
0 0 0 17 0,5 01 0,01
Chung các loài Anopheles
4 0,04 5 0,05 0 63 2,0 672 10,3
Bảng 3.28. Kết quả điều tra muỗi sốt rét tại các điểm NC sau can thiệp năm 2012
Các phương pháp điều tra
Mồi người trong nhà
Mồi người ngoài nhà
Soi trong nhà ngày
Bẩy đèn trong nhà
Soi chuồng gia súc
Tên loài Anopheles
SL MĐ SL MĐ SL MĐ SL MĐ SL MĐ
An.minimus 0 0 0 1 0,06 3 0,19
An.dirus 0 0 0 4 0,25 0
Chung các loài An 3 0,06 9 0,19 0 13 0,81 240 15,0
Nhận xét
Trước can thiệp: Thành phần loài Anopheles, cả 2 đợt bắt được 1.548 cá thể
muỗi trưởng thành, 18 loài, mật độ 5 con/đèn/đêm; Có An.minimus và An.dirus là 2
véc tơ truyền bệnh sốt rét chính.
Sau can thiệp: Thành phần loài Anopheles giảm, 10 loài; Mật độ 0,81
con/đèn/đêm; Có mặt 2 véc tơ chính là An minimus số lượng 1 con, mật độ 0,06
con/đèn/đêm, mật độ vào nhà đốt người giảm 15 lần (0,9/0,06); An.dirus số lượng 4
con, mật độ 0,25 con/đèn/đêm giảm 2 lần (0,5/0,25).
3.3.4. Đánh giá hiệu quả can thiệp mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình
tại nhóm can thiệp so sánh với nhóm chứng
3.3.4.1. Đánh giá hiệu quả can thiệp về tỷ lệ hiện mắc bệnh nhân sốt rét
Bảng 3.29. Đánh giá hiệu quả can thiệp về tỷ lệ hiện mắc bệnh nhân sốt rét
Mắc sốt rét
Chỉ số đánh giá Tổng SL TL% (95% CI)
χ2,p
OR
HQCT
Trước can thiệp
Nhóm chứng 1.119 35 3,1 (2,2-4,3)
Nhóm can thiệp 1.302 29 2,2 (1,5-3,2)
χ2=1,9
p>0,05
OR = 0,7
Nhóm chứng
Trước can thiệp 1.119 35 3,1 (2,2-4,3)
Sau can thiệp 1.038 19 1,8 (1,1-2,8)
χ2 =3,7
p>0,05
OR = 0,6
CSHQ
41,9%
Nhóm can thiệp
Trước can thiệp 1.302 29 2,2 (1,5-3,2)
Sau can thiệp 1026 7 0,7 (0,3-1,4)
χ2= 8,0
p<0,05
OR = 0,3
CSHQ
68,2%
Sau can thiệp
Nhóm chứng 1.038 19 1,8 (1,1-2,8)
Nhóm can thiệp 1.026 7 0,7(0,3-1,4)
χ2= 4,6
p<0,05
OR = 0,4
HQCT
26,3%
Nhận xét
Chỉ số hiệu quả về tỷ lệ hiện mắc bệnh nhân sốt rét ở nhóm can thiệp sau can
thiệp so với trước can thiệp: CSHQ PCT = 68,2%. Chỉ số hiệu quả về tỷ lệ hiện mắc
bệnh nhân sốt rét ở nhóm chứng so với trước can thiệp: CSHQ PCh = 41,9%.
Hiệu quả can thiệp về tỷ lệ hiện mắc bệnh nhân sốt rét ở nhóm can thiệp so với
nhóm chứng là: HQCT = 68,2% - 41,9% = 26,3%.
3.3.4.2. Đánh giá hiệu quả can thiệp về tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét
Bảng 3.30. Đánh giá hiệu quả can thiệp về tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét
Mắc KSTSR Chỉ số đánh giá Tổng
SL TL% (95% CI)
χ2, p
OR
HQCT
Trước can thiệp
Nhóm chứng 1.119 27 2,4 (1,6-3,5)
Nhóm can thiệp 1.302 22 1,7 (1,1-2,6)
χ2 = 1,2
p>0,05
OR = 0,7
p>0,05
Nhóm chứng
Trước can thiệp 1.119 27 2,4 (1,6-3,5)
Sau can thiệp 1.038 15 1,4 (0,8-2,4)
χ2 = 2,2
p>0,05
OR = 0,6
CSHQ:
41,7%
Nhóm can thiệp
Trước can thiệp 1.302 22 1,7 (1,1-2,6)
Sau can thiệp 1026 5 0,5 (0,3-1,0)
χ2 = 6,2
p<0,05
OR = 0,3
CSHQ
70,6%
2 nhóm sau CT
Nhóm chứng 1.038 15 1,4 (0,8-2,4)
Nhóm can thiệp 1.026 5 0,5 (0,3-1,0)
χ2 = 4,0
p<0,05
OR = 0,3
HQCT
28,9%
Nhận xét
Chỉ số hiệu quả về tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét ở nhóm can thiệp so với
trước can thiệp: CSHQ PCT = 70,6%.
Chỉ số hiệu quả về tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét ở nhóm chứng so với
trước can thiệp: CSHQ PCh = 41,7%.
Hiệu quả can thiệp về tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét ở nhóm can thiệp so
với nhóm chứng là: HQCT = 70,6% - 41,7% = 28,9%.
3.3.4.3. Đánh giá hiệu quả can thiệp về tỷ lệ thực hành phòng chống sốt rét đúng
Bảng 3.31. Đánh giá hiệu quả can thiệp về tỷ lệ thực hành phòng chống sốt rét đúng
Thực hành đúng Chỉ số đánh giá Tổng
SL TL% (95% CI)
χ2, p
OR HQCT
Trước can thiệp
Nhóm chứng 200 102 51,0 (43,8-58,1)
Nhóm CT 200 100 50,0 (42,9-57,1)
χ2 = 0,01
p>0,05
OR = 0,96
-
Nhóm chứng
Trước can thiệp 200 102 51,0 (43,8-58,1)
Sau can thiệp 200 164 82,0 (76,0-97,1)
χ2 = 41,8
p<0,05
OR = 4,4
CSHQ
60,8%
Nhóm can thiệp
Trước can thiệp 200 100 50,0 (42,9-57,1)
Sau can thiệp 200 191 95,5 (91,6-97,9)
χ2 = 102,1
p<0,05
OR = 21,2
CSHQ:
91,0%
Sau can thiệp
Nhóm chứng 200 164 82,0 (76,0-87,1)
Nhóm can thiệp 200 191 95,5(91,6-97,9)
χ2 = 16,9
p<0,05
OR = 4,6
HQCT
30,2%
Nhận xét
Tỷ lệ thực hành đúng ở nhóm chứng sau can thiệp cao hơn trước can thiệp 4,4
lần. CSHQ PCh = 60,8%.
Tỷ lệ thực hành đúng ở nhóm can thiệp sau can thiệp cao hơn trước can thiệp
21,2 lần, p<0,05. CSHQCT = 91,0%.
Tỷ lệ thực hành đúng của nhóm can thiệp sau can thiệp cao hơn nhóm chứng
4,6 lần, p<0,05.
Hiệu quả can thiệp về tỷ lệ thực hành đúng ở nhóm can thiệp so với nhóm
chứng: HQCT = CSHQCT - CSHQ PCh = 91,0-60,8% = 30,2%.
3.3.4.4. Đánh giá hiệu quả can thiệp về véc tơ sốt rét
Bảng 3.32. So sánh mật độ 2 véc tơ sốt rét truyền bệnh chính trước và sau can thiệp
An.minimus An.dirus Tổng Chỉ số đánh giá
SL MĐ SL MĐ SL
Trước can thiệp 18 loài Anopheles: MĐ 2,8 con/đèn/đêm
Nhóm chứng 1 0,1 13 1,6 14
Nhóm can thiệp 2 0,1 4 0,3 6
Nhóm chứng
Trước can thiệp 1 0,1 13 1,6 14
Sau can thiệp 0 0 2 0,3 2
Nhóm can thiệp
Trước can thiệp 2 0,1 4 0,3 6
Sau can thiệp 0 0 2 0,1 2
2 nhóm sau can thiệp 10 loài Anopheles: MĐ 0,8 con/đèn/đêm
Nhóm chứng 0 0 2 0,3 2
Nhóm can thiệp 0 0 2 0,1 2
Nhận xét
Thành phần loài giảm từ 18 loài (năm 2010) xuống còn 10 loài (năm 2012).
Mật độ Anopheles chung, mật độ An.dirus của nhóm chứng giảm so với trước
can thiệp (1,6 giảm xuống 0,3 con/đèn/đêm).
Mật độ Anopheles chung, mật độ An.dirus của nhóm can thiệp giảm so với
trước can thiệp (0,3 giảm xuống 0,1 con/đèn/đêm).
Mật độ Anopheles chung (0,8 con/đèn/đêm), mật độ An.dirus của nhóm can
thiệp có giảm so với nhóm chứng (0,1 so với 0,3 con/đèn/đêm).
3.3.4.5. Đánh giá kết quả phối hợp phòng chống sốt rét tại một số xã biên giới
của 2 tỉnh Quảng Trị, Việt Nam và Savannakhet, Lào.
Bảng 3.33. Các hoạt động phối hợp PCSR tại vùng biên giới của 2 tỉnh
TT Nội dung hoạt động Số lần Thực hiện Kết quả phối hợp
1 Giao ban y tế giữa 2 tỉnh 02 lần 2010-2011 Số liệu báo cáo
2 Giao ban y tế giữa 2 huyện
Hướng Hoá - Sê Pôn (Lào) 8 lần
3 tháng/1
lần
Báo cáo tình hình
sốt rét mỗi bên
3 Đào tạo YTTB giúp Lào 3 lần 2009-2010 26 YTTB
4 Hội nghị phối hợp điều tra và
PCSR vùng biên giới (BG) 03 lần 2009 - 2010
Phối hợp điều tra
SRBG
5 Kết quả điều tra SR 2 bên BG 22 bản ở Việt Nam: tỷ lệ mắc sốt rét 1,8%
15 bản ở Lào: tỷ lệ mắc sốt rét 5,2%
6 Hội nghị báo cáo kết quả điều tra 01 lần 12/2010 Báo cáo số liệu
7 Phát hiện 1 loại KSTSR mới cả 2
bên biên giới Việt - Lào
Việt Nam: phát hiện 3 cas P.k + P.v
Lào: phát hiện 2 cas P.k + P.v và
7 cas phối hợp P.f + P.v + P.k
8 Phối hợp phòng chống SR cho
cả các thôn sốt rét nặng của Lào 01
3/2011
9/2012
Phun cho 10 thôn,
3 thôn của Lào
9 Hội nghị quốc tế về SR lây từ
khỉ sang người 01 lần 9/2011
Báo cáo tình hình
sốt rét lây từ khỉ
10 Hội nghị quốc tế về phòng chống
dịch, phòng chống bệnh sốt rét 03 lần 2010-2011
Báo cáo tình hình
sốt rét 2 bên BG
11 Tiếp tục nghiên cứu SR vùng
biên giới giữa 2 tỉnh 01 lần 7/2012
Lập kế hoạch và
tiến hành điều tra
Nhận xét
Kết quả khảo sát sốt rét cả 2 bên biên giới tháng 11/2010: tỷ lệ mắc sốt rét tại
15 bản của Lào là 5,2% cao hơn 4 xã của Việt Nam là 1,8% (p<0,05). Đã phát hiện
1 loài KSTSR mới Plasmodium knowlesi loài ký sinh trùng sốt rét lây từ khỉ sang
người: Quảng Trị 3 (+)/25 mẫu và Savannakhet 9 (+)/36 mẫu phân tích PCR .
Bảng 3.34. Kết quả điều trị sốt trét tại vùng biên giới Việt-Lào
BNSR Chỉ số đánh giá Tổng
SL TL%
χ2, p OR
1. Số người và BNSR người Lào sang Nhóm chứng 964 356 39,9
Nhóm can thiệp 1.853 374 20,2
χ2 = 125,7 p<0,05
OR = 2,7
2. Số người và BNSR người Việt sau khi đi sang Lào về
Nhóm chứng 1.382 154 11,1
Nhóm can thiệp 2.136 287 13,4
χ2 = 3,8
p<0,05
OR = 1,2
3. Phát hiện KSTSR mới P.knowlesi
Savannakhet (Lào) 65 9 13,8
Quảng Trị (Việt Nam) 31 3 9,7
_
Bảng 3.35. Đánh giá về giảm tỷ lệ mắc KSTSR do giao lưu biên giới trước và sau
can thiệp
Mắc KSTSR Chỉ số đánh giá Tổng
SL TL%
χ2, p OR
HQCT
2 nhóm trước CT
Nhóm chứng 420 25 5,9
Nhóm can thiệp 847 66 7,8
χ2 = 1,2
p>0,05
OR = 1,3
_
Nhóm chứng
Trước can thiệp 420 25 5,9
Sau can thiệp 475 25 5,3
χ2 = 0,09
p>0,05
OR = 1,1
CSHQ
10,2%
Nhóm can thiệp
Trước can thiệp 847 66 7,8
Sau can thiệp 609 16 2,6
χ2 = 16,8
p<0,05
OR = 3,1
CSHQ
66,7%
2 nhóm sau CT
Nhóm chứng 475 25 5,3
Nhóm can thiệp 609 16 2,6
χ2 = 4,4
p<0,05
OR = 0,5
HQCT
56,5%
Nhận xét
Trước can thiệp: Tỷ lệ mắc sốt rét ở nhóm can thiệp 7,8%; sau can thiệp giảm
xuống 2,6%; p<0,05. Trước can thiệp 7,8% cao hơn nhóm chứng 5,9%; p>0,05.
Trước can thiệp: Tỷ lệ mắc sốt rét ở nhóm chứng 5,9%; sau can thiệp chỉ giảm
xuống 5,3%; p>0,05.
Sau can thiệp: Tỷ lệ mắc sốt rét ở nhóm can thiệp 2,6% giảm so với nhóm
chứng 5,3%; p<0,05.
3.3.4.6. Đánh giá hiệu quả can thiệp của mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia
đình phối hợp phòng chống sốt rét ở vùng biên giới.
- Hiệu quả can thiệp (HQCT) về tỷ lệ hiện mắc sốt rét.
Đánh giá HQCT = 26,3%
Hiệu quả can thiệp của mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình phối hợp
với phòng chống sốt rét vùng biên giới tại nhóm can thiệp cao hơn phòng chống sốt
rét thường quy tại nhóm chứng là 26,3%.
- Hiệu quả can thiệp về tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét
Đánh giá HQCT = 28,9%.
Hiệu quả can thiệp của mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình phối hợp
với phòng chống sốt rét ở vùng biên giới tại nhóm can thiệp hơn phòng chống sốt
rét thường quy tại nhóm chứng là 28,9%.
- Hiệu quả can thiệp về tỷ lệ phát hiện và điều trị bệnh nhân sốt rét do giao lưu
biên giới trước và sau can thiệp
Nhóm chứng: Tỷ lệ là 5,9% và 5,3%: CSHQ Pch = 10,2%.
Nhóm can thiệp: Tỷ lệ là 7,8% và 2,6%: CSHQPct = 66,7%.
HQCT = 56,5%.
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ SỐT RÉT TẠI HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH
QUẢNG TRỊ TRONG 5 NĂM, TỪ 2005 ĐẾN 2009
4.1.1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét của huyện Hướng Hoá trong 5 năm từ 2005 -
2009
4.1.1.1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét của huyện Hướng Hoá từ 2005- 2009
Tỷ lệ mắc sốt rét và mắc ký sinh trùng sốt rét
Phân tích kết quả nghiên cứu trên 6.938 bệnh nhân sốt rét, 89.849 lượt đối
tượng xét nghiệm KST sốt rét trong 5 năm (2005-2009) nhận thấy:
Từ năm 2005 đến 2009, huyện Hướng Hoá có 6.938 bệnh nhân mắc sốt rét.
Tỷ lệ mắc sốt rét trung bình trong 5 năm là 19,9‰; trong đó tỷ lệ mắc ký sinh trùng
sốt rét (+) là 14,4‰; gồm 2 loại ký sinh trùng là loại P.falciparum và P. vivax; So
sánh với toàn tỉnh Quảng Trị tỷ lệ mắc sốt rét là 13,1‰ cho thấy huyện Hướng Hoá
có tình hình sốt rét lưu hành nặng hơn 4 huyện khác có sốt rét nặng của tỉnh Quảng
Trị và của khu vực Miền Trung - Tây Nguyên: 0,73‰ và cả nước [67], [74].
So sánh với giai đoạn 1991 - 2000 theo báo cáo của Lê Đình Công năm 2000:
Tỷ lệ mắc sốt rét 3,84‰; tỷ lệ mắc KSTSR 0,97‰ [7], Thì tỷ tỷ lệ mắc sốt rét hiện
nay ở huyện Hướng Hoá vẫn cao hơn nhiều lần mặc dù đã có nhiều năm PCSR.
So sánh với giai đoạn năm 2003-2004 trên toàn quốc tỷ lệ BNSR trung bình
2,04 - 1,58‰ [70]; So sánh với năm 2009 ở khu vực Miền Trung - Tây Nguyên tỷ
lệ mắc sốt rét là 1,41‰ [66], thì tỷ lệ mắc SR trong này của huyện Hướng Hoá
19,9‰ vẫn cao hơn nhiều lần, chứng tỏ tình hình sốt rét của tỉnh Quảng Trị vẫn
đang diễn biến phức tạp, chủ yếu vẫn cao ở 7 xã dọc theo biên giới tự nhiên giữa 2
nước là sông Sê Pôn.
So sánh với giai đoạn 5 năm 2006-2010: Phân tích số liệu tương ứng các năm
2005, 2006, 2007, 2008 tỷ lệ bệnh nhân mắc sốt rét là 22,7‰; 23,7‰; 23,3‰;
13,6‰ và năm 2009 tăng lên là 16,7‰ và có xuất hiện mỗi năm 1 ca tử vong, liên
tiếp trong 3 năm từ 2007 đến 2009; do ký sinh trùng giảm năm 2008 rồi lại tăng
năm 2009, thể hiện xu hướng của vùng SRLH nặng và không ổn định. So sánh với
tỷ lệ mắc sốt rét toàn quốc năm 2009 là 0,69‰ và tỷ lệ mắc KSTSR là 0,18‰ [71]
thì tỷ lệ mắc sốt rét ở huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị là cao hơn nhiều.
So sánh ở khu vực Miền Trung-Tây Nguyên thì tỷ lệ mắc KSTSR ở huyện
Hướng Hoá năm 2009 là 14,7‰ cao hơn các tỉnh lân cận: Quảng Bình (0,97‰),
Thừa Thiên-Huế (0,46‰) [20], cao hơn nhiều lần so với toàn khu vực Miền Trung -
Tây Nguyên (1,03‰) [67]. So sánh với nghiên cứu của Lê Thành Đồng trong cộng
đồng các dân tộc vùng SRLH tỉnh Bình Định giai đoạn 1994-1997, tỷ lệ mắc
KSTSR: 45,3‰ (5,8%) [10] thì tỷ lệ mắc KSTSR tại huyện Hướng Hoá của chúng
tôi thấp hơn. So sánh với báo cáo của Charles Delacollete và cs năm 2007 [83] tỷ lệ
mắc sốt rét ở Campuchia 2,96‰; Lào 3,26‰, Thái Lan 0,53‰ thì tỷ lệ mắc sốt rét
của huyện Hướng Hoá trong giai đoạn này là cao hơn nhiều.
4.1.1.2. Đặc điểm dịch tễ sốt rét của 4 xã biên giới. Xã Thuận, xã Xy, xã Thanh,
xã A Xing, huyện Hướng Hoá từ 2005-2009.
Tình hình sốt rét tại 4 xã giáp biên giới: xã Xy, xã Thuận, xã Thanh, xã A
Xing theo số liệu thu thập được ở 4 trạm y tế xã: Tỷ lệ BNSR trung bình trong 5
năm 63,5‰ dân số của 4 xã có tỷ lệ cao so với toàn huyện: 19,9‰; tỷ lệ KSTSR
trung bình trong 5 năm 40,0‰ dân số 4 xã so với 14,4‰. So sánh với các
nghiên cứu trước đây của chúng tôi thì tỷ lệ BNSR hiện nay thấp hơn, tuy nhiên
so với tỷ lệ BNSR toàn quốc trong giai đoạn này (0,62 - 1,08‰) thì cao hơn
[74]. So sánh với báo cáo của Charles Delacollete và cs năm 2005 về tỷ lệ số ca
xác định mắc sốt rét của các nước tiểu vùng sông Mê Kông là 1,03‰ [82] và so
sánh với năm 2007 tỷ lệ mắc sốt rét từ 0,13‰ (Ở Vân Nam-Trung Quốc) đến
3,55‰ ở Myanmar [83], thì tỷ lệ mắc của 4 xã nghiên cứu thuộc huyện Hướng
Hoá là cao hơn nhiều, có thể coi 4 xã này là vùng sốt rét nặng của tiểu vùng sông
Mê Kông.
Tỷ lệ trung bình BNSR dưới 5 tuổi so với tổng số BNSR của 4 xã nghiên cứu
khá cao: từ 15,6 - 35,3% và từ 8,2-15,0‰ dân số 4 xã, thể hiện có sốt rét lưu hành
tại địa phương (nội địa) cao. So sánh với các nghiên cứu của chúng tôi tại 4 xã trọng
điểm sốt rét của 2 huyện Hướng Hoá, Đakrông năm 2005 tỷ lệ KSTSR 67,2‰ [14]
thì tỷ lệ KSTSR dưới 5 tuổi hiện nay là thấp hơn. So sánh với nghiên cứu của Trần
Trọng Thể ở tỉnh Quảng Bình năm 2008 tỷ lệ KSTSR dưới 5 tuổi là 16,9‰ (2008)
[52] của chúng tôi cao hơn nhiều.
Về cơ cấu ký sinh trùng sốt rét
Tr−íc ®©y ë tỉnh Quảng Trị, sè liÖu ®iÒu tra của Đoàn Hạnh Nhân và cs (1997-
2006) cơ cấu KSTSR chủ yếu là P.falciparum 95% [43] và nghiên cứu của Nguyễn
Văn Dàn ở bệnh viện tỉnh Quảng Trị trong 3 năm 2003-2004 tỷ lệ P.falciparum
93,78% [9]. Ở giai đoạn đầu của nghiên cứu này năm 2010 P.falciparum có tỷ lệ
thấp 46,9%. So sánh về cơ cấu KSTSR toàn quốc giai đoạn 2006-2010
P.falciparum vẫn chiếm ưu thế từ 73-79%, P.vivax 20-25% [32], thì tỷ lệ
P.falciparum ở nghiên cứu này thấp hơn nhiều còn P.vivax lại cao hơn.
P.falciparum là loài KSTSR gây kháng thuốc cao ở Việt Nam cũng như trên
thế giới, tỉ lệ kháng cao đặc biệt với chloroquine, nên luôn được quan tâm điều trị
với các thuốc mới và phối hợp như ACT (Artemisinin phối hợp Piperaquin) [113],
[116]. P.falciparum cũng là loài gây sốt rét ác tính và tử vong cao nhất trong các
vụ dịch. Nghiên cứu của Nông Thị Tiến và cộng sự từ 1998 - 2000 cho thấy
P.falciparum đã kháng chloroquine tại Quảng Trị 22,2%; Đắc Lắc 56,3% [57] và
giai đoạn 2003-2007 tỷ lệ kháng chloroquine tại Quảng Trị là 22,9% [58].
Bùi Quang Phúc khi tiến hành nghiên cứu luận án đã sử dụng kỹ thuật sinh
học phân tử (PCR) để nghiên cứu chủng loại KSTSR. Kết quả cho thấy Quảng Trị
chỉ phát hiện được hai loài, trong đó P.f: 68,73%, P.v: 1,27%, còn lại là thể phối
hợp P.f + P.v. Chưa phát hiện được P.malariae và P.ovale [46]. Nghiên cứu của
Bùi Quang Phúc tại xã Thanh, huyện Hướng Hoá giai đoạn 2001-2005 cũng chỉ có
2 loài KSTSR là P.f: 71%, P.v: 29%, chưa phát hiện được loài KSTSR thứ 3 [45].
Gia Lai tồn tại 4 loài KSTSR, P.f. 57,1%, P.v. 27,7%. Tỷ lệ P.m và P.o
ở tỉnh này cao nhất trong số các tỉnh nghiên cứu 12,6% và 2,6% (p<0,05) [46].
Kết quả phát hiện nhiễm KSTSR ở Quảng Trị bằng kỹ thuật PCR, có 224
trường hợp có KSTSR. Nhiễm đơn có 189 (tỷ lệ 84,8%, trong đó P.f. 63,8%, P.v.
20,5%); 35 trường hợp nhiễm phối hợp 2 loài P.f + P.v (tỷ lệ 15,6%). Chưa phát
hiện được trường hợp nào nhiễm 3 loài và 4 loài [46].
Năm 2010 trong số 54.297 BNSR toàn quốc có 17.515 ca KST (+) tỷ lệ
1,15‰, số còn lại được chẩn đoán là sốt rét lâm sàng [74]. Miền Trung - Tây
Nguyên 12.251 ca KST (+) tỷ lệ 69,9% KST toàn quốc; Tỉnh Quảng Trị 850 KST
ca (+) tỷ lệ 6,9% toàn miền. Tỷ lệ ký sinh trùng/lam soi trên 16,5% mỗi năm, về cơ
cấu ký sinh trùng. P.falciparum vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối: từ 76-84% [67].
Theo kết quả điều tra của chúng tôi 1/2010, tỷ lệ nhiễm P.falciparum là
46,9%; nhiễm P.vivax là 46,9% và kết hợp 2 loài là 6,1%. So với nghiên cứu của Lý
Văn Ngọ cũng tại xã Thanh năm 2006, tỷ lệ P.falciparum là 82% và P.vivax 14%
[40] thì hiện nay P.f là thấp hơn và P.v cao hơn hơn nhiều. Như vậy, so với thời
điểm 2000 - 2006 cơ cấu KST sốt rét hiện nay có thay đổi. Tỷ lệ P.falciparum giảm,
tỷ lệ P.vivax tăng trong tổng số KST sốt rét được phát hiện. Chúng tôi nghĩ rằng, do
tác động của các biện pháp phòng chống sốt rét, nhất là biện pháp điều trị sớm ngay
tại thôn bản bằng lực lượng YTTB được xây dựng rất sớm tại Quảng Trị từ năm
1991 [12] một mặt đã làm giảm tỷ lệ P.falciparum tuyệt đối, một mặt làm giảm tỷ lệ
P.falciparum tương đối trong tổng số KSTSR chung, trong khi đó P.vivax ít bị tác
động do có tái phát xa, điều trị sớm đã góp phần hạn chế tử vong do sốt rét tại tỉnh
Quảng Trị, trong lúc hầu hết các trường hợp tử vong do sốt rét ở tỉnh Đaklak năm
2003 theo nghiên cứu của Lê Xuân Hùng đều có cùng một nguyên nhân là không có
y tế thôn buôn tại nơi cư trú (dân di cư) [24].
Tuy nhiên theo nghiên cứu mới nhất của Wanatabe, Hoàng Hà (2013) tỷ lệ
P.falciparum đã tăng trở lại 74,4%; P.vivax 23,1%.
Véc tơ truyền bệnh sốt rét trước can thiệp
Kết quả điều tra véc tơ sốt rét tháng 1/2010 bắt được: 1.548 cá thể muỗi trưởng
thành, 18 loài Anophelles, có 2 véc tơ chính: An.minimus và An.dirus, trong đó tất
cả các loài Anopheles truyền sốt rét chính và một số loài phụ kết quả cũng giống
như các nghiên cứu trước đây ở khu vực của Vũ Thị Phan và cs [43]; Lê Khánh
Thuận và Trương Văn Có bắt được 19 loài Anophelles ở sinh cảnh rừng [56], tuy
nhiên ở mỗi vùng sinh địa cảnh chỉ bắt gặp một số loài Anopheles nhất định. Thành
phần loài phụ ít hơn, tuy nhiên thành phần loài chính có An. minimus, An.dirus
trong khi ở các sinh địa cảnh rừng ở miền Bắc giai đoạn 2002-2005 chỉ có An.
minimus và mật độ véc tơ chính ở địa bàn nghiên cứu cao hơn nghiên cứu của Vũ
Đức Chính [5], nghiên cứu của Nguyễn Thọ Viễn, Ron P. Marchand ở Khánh Hoà
chỉ bắt được 16 loài [64] thì ở nghiên cứu này thành phần loài nhiều hơn.
Mật độ Anopheles chung ở phương pháp bẫy đèn trong nhà khá cao: 2,0 con/
đèn/đêm. An.minimus số lượng 3 con; mật độ 0,9 con/đèn/đêm. An.dirus số lượng
17 con, mật độ 0,5 con/đèn/đêm.
Kết quả mỗ muỗi: đã mỗ 24 con, số lượng muỗi đã đẻ 11/24 con (tuổi sinh lý
của muỗi trên 1, khả năng truyền bệnh cao).
Qua 6 phương pháp điều tra tại 3 điểm nghiên cứu theo qui trình của Viện SR
- KST - CT Trung ương [69] tại các thôn tiến hành có can thiệp hoá chất chống véc
tơ theo hướng dẫn của chương trình [73] vẫn bắt được véc tơ truyền sốt rét khá
phong phú với 18 loài Anophelles.
Số lượng véc tơ truyền SR tại điểm nghiên cứu trước can thiệp cao, thành
phần loài phong phú. Có mặt 2 véc tơ chính là An.minimus và An.dirus. Trong đó,
An.minimus bắt được ở cả 3 điểm điều tra; mật độ An.dirus vào nhà đốt người cao.
Là vùng SRLH nặng có sự can thiệp hóa chất PCSR nhưng quần thể Anophelles vẫn
phát triển. Chỉ số tấn công của vectơ chính: An.dirus trong nhà cao hơn ngoài nhà
(mật độ bẫy đèn trong nhà so với mật độ bẫy đèn ngoài nhà), trong lúc đó An.minimus
điều tra ở chuồng gia súc cao. Sự có mặt và mật độ cao của véc tơ liên quan chặt chẽ
đến tình hình bệnh nhân SR tại các điểm nghiên cứu.
Phối hợp với Lào điều tra véc tơ truyền bệnh sốt rét tại 2 điểm ở Lào năm
2010. Thành phần loài phong phú với 14 loài Anophelles. Mật độ An chung ở các
phương pháp điều tra cao: 2,56 con/đèn/đêm, có mặt 2 véc tơ chính với mật độ cao.
An.minimus mật độ 0,67 con/đèn/đêm và An.dirus mật độ 2 con/đèn/đêm [97].
Sự lan truyền sốt rét ở vùng biên giới chủ yếu do An. dirus (sốt rét rừng). Đây là véc
tơ truyền bệnh chủ yếu ở Lào và cũng ở Hướng Hoá, mật độ vào nhà đốt người cao,
véc tơ này mật độ thấp ở phía Việt Nam sau khi phun hoá chất tồn lưu.
So sánh thành phần loài và số lượng, mật độ muỗi Anopheles bắt được thì ở
phía Lào cao hơn nhiều, tương tự nghiên cứu của Bounpong Sidayong năm 2007
cũng ở huyện Nong-Savannakhet tỷ lệ 3 véc tơ chính An.minimus, An.dirus và
An.maculatus rất cao 91% tổng số Anophelles bắt được [103], điều này giải thích
cho tỷ lệ mắc sốt rét phía Lào cao hơn phía Việt Nam (5,2% so với 1,8%) và cũng
cho thấy hiệu quả của biện pháp phun tồn lưu hoá chất lên tường nhà so với biện
pháp nằm màn có tẩm hoá chất trong lúc tỷ lệ có màn còn thấp 2,6 người/màn [98].
So sánh với nghiên cứu của Ron P. Marchand ở Nam Trung Bộ cũng cho thấy có 2
yếu tố đóng vai trò chính của bệnh sốt rét mà một yếu tố trong đó tỷ lệ là mức độ
cao của sốt rét rừng [92].
4.1.1.3. Đặc điểm dịch tễ sốt rét ở vùng biên giới 2 tỉnh Quảng Trị - Savannakhet
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét theo kết quả phối hợp điều tra 2 bên biên giới tháng 11-
12/2010: Phía Lào (15 bản) tỷ lệ hiện mắc KSTSR là 5,2%; Phía Quảng Trị tỷ lệ
hiện mắc KSTSR là 1,8%. Điều tra KAP cả 2 bên biên giới, đã có 92% người được
phỏng vấn ở Lào và 17% người được phỏng vấn ở Việt Nam trả lời họ đã qua lại
biên giới trong vòng 12 tháng vừa qua, người dân Lào có xu hướng ở lại qua đêm ở
các xã biên giới của huyện Hướng Hoá.
Có 39,3% người được phỏng vấn ở Lào và 30,5% người được phỏng vấn ở
Việt Nam cho rằng đã có các trường hợp mắc sốt rét trong gia đình của họ trong
vòng 12 tháng qua. Người dân Lào thường sang các xã biên giới phía Việt Nam để
chữa bệnh, còn người Việt Nam sang Lào để làm ăn, buôn bán. Tỷ lệ sử dụng y tế
công tại Lào còn thấp 36,5%, gần 50% sang phía Việt Nam để điều trị. Việc sử
dụng y tế thôn bản còn thấp ở 5,5% ở Lào. Người dân Lào thường qua lại các xã
biên giới của tỉnh Quảng Trị, nhiều trường hợp sốt rét người Lào đã được các cơ sở
y tế phía tỉnh Quảng Trị phát hiện và điều trị [97]. Tương tự với tình hình sốt rét tại
vùng biên giới các nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương: Theo A.P Dash và cs
sốt rét nhập khẩu và giao lưu biên giới ở các nước trong khu vực là một vấn đề quan
trọng [81]. Tương tự nghiên cứu của Amnat Khamsiriwatchara và cs [76], sốt rét
chủ yếu là nhập cư ở đối tượng đi lao động dài ngày. Sốt rét tại vùng biên giới của
tỉnh Quảng Trị cũng giống như đánh giá của Duong Socheat “Sốt rét biên giới: Mối
quan tâm lớn của Campuchia” với 78.696 cas (+), 75% P.falciparum, 23% P.vivax,
và 65% cas P.vivax ở biên giới Thái Lan-Campuchia [104]. Đại diện của Uỷ ban y
tế Hà Lan-Việt Nam Ron P. Marchand cũng đã nhận thấy vai trò của việc phối hợp
quản lý bệnh sốt rét ở biên giới 2 tỉnh Quảng Trị và Savannakhet [92].
Tình hình bệnh nhân là người Việt của 4 xã: Xy, Thuận, Thanh, A Xing sang
Lào trở về bị sốt rét trong 5 năm từ năm 2005 đến năm 2009: Theo số liệu điều tra
từ các bệnh nhân sốt rét 4 xã vào điều trị tại trạm y tế tỷ lệ mắc sốt rét có đi Lào cao
23,5%. Có mối liên quan giữa mắc sốt rét với qua lại biên giới có ý nghĩa thống kê
của người dân 4 xã có qua lại biên giới mắc sốt rét nhiều hơn không qua lại biên
giới, p<0,05. Kết quả của nghiên cứu này tương tự với nghiên cứu của Đặng Hân ở
2 xã Thanh, A Túc năm 2005, nhóm có giao lưu sang Lào mắc SR nhiều hơn nhóm
không giao lưu (7,6% so với 1,8%) [19].
Bệnh nhân người Lào sang điều trị tại các xã Xy, Thanh nhiều và thường
xuyên. Tỷ lệ BNSR là người Lào có KSTSR (+) cao từ 20,0-43,7% và đây cũng là
nguồn lây lan quan trọng cho cộng đồng người Việt. So sánh với tỉnh Thừa Thiên-
Huế [20], tỷ lệ giao lưu và mắc sốt rét do giao lưu qua biên giới ở tỉnh Quảng Trị là
cao hơn nhiều. Tình hình sốt rét các xã, thôn 2 bên biên giới có sự lây lan qua lại
cần được quan tâm và có biện pháp giải quyết.
4.1.2. Một số yếu tố nguy cơ mắc sốt rét
4.1.2.1. Các yếu tố môi trường tự nhiên
Theo Vũ Thị Phan các yếu tố về sinh địa cảnh, khí hậu: nhiệt độ, độ ẩm, lượng
mưa, nghề nghiệp, học vấn, kinh tế đều ảnh hưởng đến mức độ mắc bệnh sốt rét[43]
Quan sát trực tiếp tại thực địa, chúng tôi nhận thấy ở khu vực nghiên cứu là
nơi định cư chủ yếu của 2 cộng đồng dân tộc Vân Kiều và Pa Kô. Các xã đang
nghiên cứu thuộc vùng biên giới của huyện Hướng Hoá có địa hình rừng núi, độ
cao 500 m > mực nước biển, rừng 70% [63], xếp theo phân vùng dịch tễ sốt rét
năm 2009 thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng [33] và cách các bản phía Lào không
xa, khoảng dưới 2 km trong lúc tầm hoạt động của An.dirus có thể xa tới 2,5 km
nên muỗi có thể bay qua biên giới giữa các bản của Lào và Việt Nam dễ dàng và
tất nhiên có thể đốt người mang mầm bệnh làm lan truyền sốt rét qua lại giữa hai
bên. Nghĩa là nếu chưa xét đến vấn đề giao lưu của người dân thì tự bản thân véc
tơ cũng có thể mang KSTSR lan truyền qua biên giới. Cho nên có thể nói sự lan
truyền sốt rét qua biên giới giữa Việt Nam và Lào dọc theo 12 xã của huyện
Hướng Hoá dễ dàng bởi điều kiện giao lưu thuận tiện của cả con người và khoảng
cách trong tầm hoạt động của véc tơ. Như vậy, nguy cơ lan truyền sốt rét qua hai
bên biên giới là cao và để làm giảm tỷ lệ mắc sốt rét cần phải có sự nỗ lực phòng
chống sốt rét của cả hai bên [6].
Theo các nhà nghiên cứu về dịch tễ sốt rét sinh địa cảnh là một yếu tố quan
trọng trong phân vùng sốt rét, trong việc nghiên cứu mùa sốt rét. Vấn đề này lại rất
quan trọng cho việc làm kế hoạch và thực hiện kế hoạch phòng chống sốt rét [43].
Nơi định cư của cộng đồng dân tộc Vân Kiều và dân tộc Pa Kô tại điểm
nghiên cứu là rừng rậm, bìa rừng rậm, nhiều khe suối, độ cao từ 200 - 500m, hiện
nay vùng này rừng tái sinh trở lại ngày một gần nhà dân hơn. Điều tra bắt gặp cả 2
loài véc tơ chính truyền sốt rét là An. minimus và An.dirus [6], tỷ lệ KSTSR cao hơn
ở các vùng sinh địa cảnh khác (p<0,001). Theo Vũ Thị Phan sinh cảnh rừng rậm,
bìa rừng rậm và nhiều khe suối là nơi thuận lợi cho sự phát triển của 2 loài véc tơ
truyền bệnh này [43]. Theo Nguyễn Đức Mạnh và cs ở nhiều điểm sốt rét dai dẳng
ở miền Trung An.dirus đóng vai trò truyền bệnh quan trọng [37].
Cũng giống như các nghiên cứu của Vũ Đức Chính [5], Vũ Thị Phan [43]; Lê
Khánh Thuận [55] và Nguyễn Xuân Quang [47], Lê Thành Đồng [10] thừa nhận có
sự liên quan giữa sốt rét và các điều kiện môi trường sinh địa cảnh khu vực như
thảm thực vật, khe suối, độ cao.
Các yếu tố thời tiết và mùa truyền bệnh sốt rét tại điểm nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu về diễn biến của bệnh sốt rét hàng tháng chung trong 2
nhóm nghiên cứu cho thấy: về thời gian truyền bệnh trong năm là liên tục tháng nào
cũng có BNSR - tương tự như các nghiên cứu khác, nhưng về dao động tạo nên các
đỉnh bệnh. Nghiên cứu về mùa truyền bệnh trước đây ở Miền Trung-Tây Nguyên
của Lê Khánh Thuận có 2 đỉnh bệnh trong năm, đỉnh thứ nhất là vào mùa khô và
đỉnh thứ hai vào mùa mưa [56]; Bệnh sốt rét ở vùng SRLH của tỉnh Quảng Trị xuất
hiện quanh năm nhưng diễn biến tăng giảm hàng tháng khác nhau, diễn biến tăng giảm
của bệnh trùng khớp với diễn biến tăng giảm của lượng mưa và mật độ 2 loài véc tơ
chính (An.minimus và An.dirus), và cao điểm từ tháng 7 - tháng 11.
Tương tự kết quả nghiên cứu của Lý Văn Ngọ ở xã Thanh năm 2006 cho thấy
KSTSR đều có ở tất cả các tháng nhưng tăng từ tháng 8-tháng 12 và các đối tượng
giao lưu biên giới cũng phát hiện thấy có KSTSR từ 1-2% [40].
Nét đặc trưng nhất về yếu tố thời tiết khu vực nghiên cứu là nhiệt độ và ẩm độ
luôn luôn có trị số trung bình rất cao, dao động nhiều (23,08 6,11 oC và 84,0
3,5%), lượng mưa dao động rất lớn (199,9 198,3 mm), phân mùa rõ rệt. Cả 2 yếu
tố nhiệt độ và ẩm độ đều nằm trong giới hạn thuận lợi cho sự phát triển của cả véc
tơ sốt rét và cho sự phát triển liên tục của KSTSR ở giai đoạn hoàn thành chu kỳ
sinh sản hữu tính trong cơ thể muỗi.
Từ tháng 5 đến tháng 10 đã bắt đầu có mưa, độ ẩm cao, nhiệt độ phù hợp cho
muỗi phát triển. Tỷ lệ mắc sốt rét cao nhất trong năm. Từ 3,85 - 16,13%. Mùa khô,
rét từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau tỷ lệ mắc sốt rét giảm từ 8,1% xuống 2,4%.
Qua theo dõi số liệu báo cáo sốt rét trong 5 năm 2005 - 2009 chúng tôi nhận
thấy bệnh nhân sốt rét tăng theo mùa. Tăng đầu và cuối mùa mưa, từ tháng 5 tăng
đến tháng 11, cao nhất từ tháng 8 - 10, giảm dần vào tháng 11, tháng 12.
4.1.2.2. Một số tập quán và hoạt động kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến sự phát
triển của bệnh sốt rét tại điểm nghiên cứu.
Từ những kết quả phỏng vấn các đối tượng nghiên cứu về nhận thức, thái
độ và thực hành PCSR của người dân ở địa bàn nghiên cứu, kết hợp với điều tra
quan sát tại thực địa, chúng tôi thấy rằng ngoài những yếu tố sinh địa cảnh, thời
tiết, mức độ mắc sốt rét trong cộng đồng còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tập
quán sinh hoạt, canh tác và hoạt động kinh tế xã hội liên quan đến phơi nhiễm
với muỗi sốt rét của cộng đồng. Kết quả của nghiên cứu này tương tự nghiên cứu
của Lê Thành Đồng ở tỉnh Bình Định [10] .
Tập quán của đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa Kô ở huyện Hướng Hoá thường
ở nhà sàn với bếp lửa giữa nhà. Một số nhà vẫn còn nuôi gia súc dưới sàn nhà là
điều kiện để thu hút muỗi vào nhà. Người dân ở đây thường canh tác trên nương
rẫy là chính và có đi rừng, ngủ rẫy vào mùa thu hoạch nên dễ mắc sốt rét hơn.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thọ Viễn, Ron P. Marchand ở Khánh Phú cũng
đã cho thấy những người ngủ rừng có người mang KSTSR nên sốt rét lan truyền
trong rừng cao vì mật độ An.dirus cao [64].
Kết quả này cũng giống với kết quả nghiên cứu của Đặng Tự nghiên cứu về
tính đa dạng về dịch tễ sốt rét ảnh hưởng đến hiệu quả các biện pháp can thiệp ở
huyện Hướng Hoá [61].
Người dân ở vùng này thường có thói quen giao lưu đi các bản khác trong
cùng dân tộc, sang Lào để chơi, lập gia đình, gùi hàng thuê, mua bán... [61].
Thời gian gần đây do vấn đề buôn bán gỗ quí và nhiều loại hàng hoá qua
đường tiểu ngạch nên nhiều người dân ở các xã biên giới của Hướng Hoá thường đi
nhiều ngày trong rừng để gùi cõng hàng lậu, gùi gỗ thuê qua đường tiểu ngạch,
nhiều người khi trở về đã mắc SR. Đây cũng là những khó khăn, thách thức trong
PCSR từ trước đến nay. Điều này ở huyện Hướng Hoá, Quảng Trị cũng giống như
trong đánh giá tổng kết PCSR giai đoạn 2001-2005 và các giai đoạn sau của Viện
Sốt rét-KST-CT Trung ương: “Giao lưu đến vùng SRLH và qua biên giới lớn làm
gia tăng SR nơi đến và mang SR trở về quê” [70].
Người Lào gần biên giới phần lớn cũng là người Vân Kiều, PaKô có cùng
ngôn ngữ, phong tục, tập quán nên thường qua lại biên giới thăm nhau, kết tình
thông gia. Khi bị đau ốm, do ở xa các cơ sở y tế của Lào mà lại gần các trạm y tế
nằm dọc biên giới của huyện Hướng Hoá nên thường sang để điều trị, nhiều nhất là
ở trạm y tế các xã Xy, Thanh, Thuận, A Xing. Điều này diễn ra thường xuyên, liên
tục và là đặc điểm riêng của các xã biên giới của huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị
khác với các đặc thù sốt rét ở các vùng biên giới của Việt Nam theo nghiên cứu của
Lê Xuân Hùng [28] và các nghiên cứu khác trên thế giới như nghiên cứu của Sarah
J Moore về sốt rét ở biên giới Trung Quốc chủ yếu ở nhóm làm nông nghiệp và vào
mùa thu hoạch [93].
4.2. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ SỐT RÉT VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI 4
XÃ THUẬN, XY, THANH, A XING CỦA HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH
QUẢNG TRỊ NĂM 2010
4.2.1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét qua điều tra ngang tại 4 xã: Xã Thuận, xã Xy,
xã Thanh và A Xing trước can thiệp (1/2010)
4.2.1.1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét trước can thiệp (1/2010).
Về tỷ lệ hiện mắc sốt rét của 4 xã. Xã Thuận, xã Xy, xã Thanh, xã A Xing
trước can thiệp là: tỷ lệ hiện mắc sốt rét 2,6%, tỷ lệ hiện măc ký sinh trùng sốt rét
2,2%; có 23,4% (15/64) BNSR lâm sàng. Tỷ lệ lách sưng thấp 0,3%. So sánh với
nghiên cứu trong 2 năm 2001-2002 của Hoàng Hà cũng tại 5 xã Xy, Thanh, Thuận,
Hướng Linh, Hướng Phùng tỷ lệ hiện mắc sốt rét 6,1%, KSTSR 9,1% [13] và
nghiên cứu của Nguyễn Minh Hùng cũng tại xã Thanh năm 2004 tỷ lệ KSTSR là
9,8% [34] thì kết quả nghiên cứu hiện nay của chúng tôi là thấp hơn, do hiệu quả
của nhiều năm PCSR, tuy vậy vẫn còn những ổ bệnh sốt rét dai dẵng ở biên giới.
Tỷ lệ bệnh nhân có biểu hiện SRLS thấp hơn tỷ lệ có KSTSR, tương tự nghiên
cứu năm 2001- 2002 cũng tại 5 xã trên [13], trong khi đó trong báo cáo ở những
địa phương trên, những người này thường là những người có biểu hiện sốt lâm sàng
nhưng có thể không được xét nghiệm hoặc xét nghiệm không thấy KSTSR, còn có
nhiều trường hợp mang KSTSR nhưng không có biểu hiện sốt - không chủ động
đến khám và điều trị ở cơ sở y tế do đó một số lượng người mang KSTSR vẫn tiềm
ẩn trong cộng đồng, chỉ có chủ động điều tra thì mới phát hiện được.
Kết quả điều tra trong 3 năm 2010 - 2012 với 90 trường hợp mắc sốt rét, xét
nghiệm có 69 KSTSR, có 21 người có biểu hiện SRLS, tỷ lệ 23,3%, như vậy có tới
76,7% số trường hợp mang KSTSR không có biểu hiện SRLS tại thời điểm điều tra.
Tương tự kết quả của Đoàn Hạnh Nhân điều tra tại các vùng SRLH nặng ở 2 huyện
Hướng Hoá và Đakrông năm 2007, tỷ lệ người mang KSTSR có nhiệt độ 37,5 oC,
75,3% số trường hợp có KSTSR [41]. So sánh với nghiên cứu của Hoàng Hà trong 2
năm 2001 - 2002 tại Hướng Hoá có 32,6% người có mang KSTSR không có biểu
hiện SRLS [13] So sánh với nghiên cứu của Ron P. Marchand, Nguyễn Thọ Viễn và
cs về tỷ lệ người không sốt có ký sinh trùng sốt rét hàng tháng là 69,55-86,4% [38]
thì ở nghiên cứu này là thấp hơn nhiều.
Điều này thể hiện tính đa dạng của tình hình dịch tễ sốt rét của các xã sốt
rét lưu hành nặng mà chủ yếu là các xã biên giới thuộc huyện Hướng Hoá và
cũng tương tự như một số kết quả nghiên cứu khác của Đặng Tự ở huyện Hướng
Hoá năm 2003 [61].
Tình trạng này có thể là do cộng đồng khu vực nghiên cứu đã phơi nhiễm
nhiều với sốt rét và đã có một mức độ miễn dịch chống sốt rét nhất định. Trong kết
quả nghiên cứu này có một số trường hợp mật độ KSTSR ở các đối tượng nhiễm
KSTSR thấp, mật độ KSTSR thấp có thể có ảnh hưởng đến biểu hiện sốt của các
đối tượng mang KSTSR [38].
Theo Ron P.Marchand [38], Lê Thành Đồng [10], khi nghiên cứu về ngưỡng
KST sốt rét có triệu chứng đã cho biết có sự liên quan giữa các mật độ KSTSR khác
nhau với biểu hiện sốt của cơ thể, các kết quả nghiên cứu đều cho thấy tối thiểu mật
độ KSTSR thể vô tính cũng phải trên 200/1 l máu, tương đương với mật độ từ trên
1 (+), đồng thời, các tác giả cũng nhận thấy biểu hiện sốt phụ thuộc vào đối tượng
nghiên cứu, phụ thuộc vào lứa tuổi, loài KSTSR. Nghiên cứu này chỉ định lượng
mật độ bằng đếm KSTSR /vi trường, tính mật độ bằng +, ++... và chưa nghiên cứu
về sự liên quan giữa mật độ KST và triệu chứng sốt lâm sàng nhưng phân tích 69
KSTSR phát hiện được thì thấy chỉ có 21 trường hợp có mật độ KST từ ++ đến
++++, số còn lại mật độ là + và có thể có nhiều trường hợp dưới ngưỡng phát hiện
bằng kính hiển vi.
Về lách sưng.
Trong số 4.485 lượt người được khám lâm sàng trước và sau can thiệp, chúng tôi
chỉ phát hiện được 12 lượt người có lách sưng, tỷ lệ 0,3%, thấp hơn tỷ lệ KSTSR trên
5,6 lần, tỷ lệ lách sưng giảm hơn trước.
Về thành phần và cơ cấu ký sinh trùng sốt rét.
Trong điều tra của chúng tôi trước nghiên cứu có P.falciparum (46,9%),
P.vivax (46,9%), phối hợp 2 loại (6,2%). So sánh với nghiên cứu của Nguyễn Văn
Dàn, bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị 3 năm 2003-2005, trong số 193 bệnh nhân
vào viện có KSTSR chỉ có 2 loại là P.falciparum: 93,8% và P.vivax 6,2% [8], thì ở
nghiên cứu này tỷ lệ P.falciparum thấp hơn và tỷ lệ P.vivax cao hơn nhiều. So sánh
với nghiên cứu của Đoàn Hạnh Nhân và cs ở 6 xã biên giới Việt-Lào của tỉnh
Quảng Trị giai đoạn (1996-2006) tỷ lệ P.falciparum rất cao: 95% [94]. Kết quả của
nghiên cứu này cũng khác với nghiên cứu của Rattanaxay Phetsouvanh và cs về tình
trạng sốt rét lưu hành ở Lào cho thấy có 4 loại KSTSR tìm thấy ở Lào với tỷ lệ
P.falciparum cũng rất cao: 95% , P.vivax chỉ 4% [96].
Theo điều tra của Lê Khánh Thuận ở Việt Nam hiện nay có 4 loại KSTSR là.
P.falciparum; P.vivax, P.malariae và P.ovale [55]. Plasmodium knowlesi (loài ký
sinh trùng gây bệnh ở khỉ) gần đây, lần đầu tiên đã phát hiện tại Việt Nam (Ninh
Thuận năm 2007) trong một nghiên cứu hợp tác song phương Việt - Bỉ [22].
Tại Quảng Trị, báo cáo tổng kết công tác PCSR hàng năm của tỉnh từ 1990 -
2009 và các nghiên cứu của Nông Thị Tiến Viện Sốt rét-KST-CT TƯ [57] và Viện
SR -KST-CT Quy Nhơn [66], nghiên cứu của Bùi Quang Phúc bằng kỹ thuật PCR
chỉ có 2 loại KSTSR là P.falciparum; P.vivax và thể phối hợp của 2 loại này và
chưa phát hiện có P.knowlesi [45], [46]. P.knowlesi được phát hiện lần đầu tiên tại
Quảng Trị trong nghiên cứu này (2010) [124] là trường hợp thứ 2 phát hiện tại Việt
Nam, sau Ninh Thuận năm 2007 [22]. Sau 7 trường hợp P.knowlesi được phát hiện
ở Peninsula Malaysia từ 7/2007-6/2008 bởi Trung tâm y khoa Đại học Malaya [36].
Về muỗi Anopheles: Trước can thiệp: thành phần véc tơ truyền sốt rét khá
phong phú với 18 loài Anophelles, so sánh với nghiên cứu của Nguyễn Thọ Viễn,
Ron P. Marchand ở Khánh Hoà chỉ bắt được 16 loài [64] thì ở nghiên cứu này thành
phần loài nhiều hơn.
Sau can thiệp: thành phần loài giảm, bắt gặp 10 loài Anopheles, vẫn có mặt 2
véc tơ chính là An. minimus và An.dirus.
Mật độ Anopheles ở phương pháp bẫy đèn trong nhà giảm so với trước can
thiệp: Anopheles chung 0,81 con/đèn/đêm. An.minimus số lượng 1 con, mật độ 0,06
con/đèn/đêm. An.dirus số lượng 4 con, mật độ 0,25 con/đèn/đêm.
Nghiên cứu của W. Van Bortel, Hồ Đình Trung ở Miền Nam Việt Nam có 2
loại An.minimus A và C [77], tuy nhiên vai trò gây bệnh là giống nhau là 1 trong 2
véc tơ chính truyền bệnh sốt rét ở khu vực này trong đó có tỉnh Quảng Trị.
Hầu hết các trường hợp mắc sốt rét: tập trung tại vùng nhỏ ở biên giới phù
hợp với hành vi của người dân và kết quả điều tra véc tơ truyền bệnh, véc tơ
truyền bệnh phát hiện trong nhà nhiều hơn ở phía Lào (Lào sử dụng màn tẩm hoá
chất, tỷ lệ nằm màn chưa cao; trong lúc Việt Nam sử dụng phương pháp phun
tồn lưu trong nhà ở vùng đồng bào dân tộc có tỷ lệ nằm màn khoảng 60%) [97].
4.2.1.2. Tỷ lệ hiện mắc sốt rét theo giới, lứa tuổi và nhóm dân tộc
Nhóm nam 3,3%; nữ 2,0%, tương tự kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại xã
Thanh năm 2004 [16].
Nhóm trên 15 tuổi cao nhất 3,2%; nhóm dưới 5 tuổi thấp nhất 2,0%.
Tỷ lệ mắc sốt rét ở nhóm dân tộc Vân Kiều 2,1%; nhóm dân tộc Pa Kô 5,9%.
Kết quả này cao hơn kết quả nghiên cứu tại xã Thanh năm 2004 [16].
4.2.1.3. Tỷ lệ về kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống sốt rét
Trước can thiệp:
- Tỷ lệ có kiến thức đúng về nguyên nhân gây bệnh sốt rét: Do muỗi truyền
69,8%. Về triệu chứng bệnh sốt rét: 68,0%, kết quả tương đương với nghiên cứu
của Sở Y tế tỉnh Atôpơ (Lào) năm 2003 có 65,7% biết lây truyền bệnh sốt rét là do
muỗi đốt, tuy nhiên tỷ lệ hiểu sai là khá cao 20,8% cho là do ma quỷ [100]. So sánh
với nghiên cứu của Nguyễn Văn Tập ở cộng đồng dân tộc ở A Lưới năm 2006 tỷ lệ
có kiến thức chung đúng về phòng chống bệnh sốt rét là 78,13% [50], thì kết quả ở
nghiên cứu này là thấp hơn. So sánh với nghiên cứu của Hoàng Hà ở xã Thanh năm
2006 tỷ lệ có kiến thức đúng về nguyên nhân gây bệnh SR là 86,79% [17], so sánh
với nghiên cứu của Nguyễn Quý Anh ở dân tộc Raglai Khánh Hoà 85,93% biết
nguyên nhân gây bệnh sốt rét, 82,22% biết cách phòng bệnh SR [1], thì ở nghiên
cứu này trước can thiệp là thấp hơn. Nguyên nhân có thể là do hiệu quả của các hoạt
động truyền thông PCSR ở địa phương còn chưa tốt, chưa thường xuyên.
Tỷ lệ có kiến thức không đúng về bệnh sốt rét: do ruồi, nước độc 1%.
- Tỷ lệ có thái độ đúng: phòng chống SR là phun thuốc diệt muỗi 80,2%,
ngủ màn 49,5%. Thấp hơn nghiên cứu tại xã Thanh năm 2006 tỷ lệ ngủ màn là
62,98% [17]. Tỷ lệ có thái độ không đúng: không ngủ màn: 49,5%.
- Tỷ lệ thực hành đúng: ngủ màn thường xuyên 50,5%;
Tỷ lệ thực hành không đúng: không ngủ màn: 49,5%.
So sánh với nghiên cứu của Betty Roosihermiattie và cs ở North Maluku,
Indonesia tỷ lệ sử dụng màn không thường xuyên 6-10% và thường xuyên rất thấp
3-4% [101]. So sánh với nghiên cứu của Tsuyuoka R và cs ở Zimbabwe người dân
biết từ 8,1-24,5% về ngủ màn chống muỗi [106], so với nghiên cứu của
Wagbatsoma VA và cs ở Nigeria tỷ lệ sinh viên biết muỗi truyền bệnh sốt rét chỉ có
55,3% và kiến thức của họ về vai trò của véc tơ sốt rét là ít [111], thì kết quả của
nghiên cứu này cao hơn. Nguyên nhân có thể là do ở địa phương đang nghiên cứu
các hoạt động truyền thông được thực hiện tốt hơn các nghiên cứu ở trên (Châu Phi)
4.2.2. Tình hình nhiễm ký sinh trùng sốt rét mới Plasmodium knowlesi tại 4 xã.
Xy, Thuận, Thanh, A Xing
Trong các nghiên cứu từ trước đến nay của Viện Sốt rét - KST - CT Trung
ương, Viện sốt rét - KST - CT Quy Nhơn, Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Quảng Trị
chỉ phát hiện thấy 2 loài KST sốt rét là P.falciparum và P.vivax. Tuy vậy đến năm
2010, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài với nghiên cứu hợp tác 3 bên Quảng Trị-
Savannakhet - Nhật Bản. Maeno, Tiengkham, Hoàng Hà & cs trong một nghiên cứu
phối hợp sốt rét vùng biên giới Quảng Trị - Savanakhet (Lào) bằng kỹ thuật PCR đã
phát hiện thêm loài ký sinh trùng mới ở Quảng Trị và Savanakhet là Plasmodium
knowlesi lây từ khỉ sang người mà nhiều năm trước đây có thể không có hoặc có rất
ít nên không phát hiện được [45], [46] và hiện nay đang trở thành quan trọng [90],
[118]. Nghiên cứu này đã phát hiện 3 trường hợp nhiễm P.knowlesi phối hợp với
P.vivax, độ tuổi nhiễm từ 4 - 14 tuổi. Đây là loài ký sinh trùng thứ 3 và là loài lần
đầu tiên được phát hiện bằng kỹ thuật PCR tại Quảng Trị [124] mà các nghiên cứu
trước đây của nhiều tác giả nghiên cứu khác, của Viện Sốt rét - KST - CT Trung
ương và Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn trên địa bàn tỉnh Quảng Trị cũng chưa
phát hiện được P.k. Loài KST này lần thứ 2 phát hiện ở Việt Nam [124].
Cùng nghiên cứu trong thời điểm trên tại 15 bản của tỉnh Savannakhet (Lào)
phát hiện có 7 trường hợp nhiễm phối hợp P.f + P.v + P.k và 2 trường hợp nhiễm
phối hợp P.v + P.k [115], [124], nhiều hơn số trường hợp được báo cáo ở Malaysia
[36]. Theo đánh giá của TCYTTG Plasmodium knowlesi là một vấn đề nổi bật, đã
có các trường hợp sốt rét nặng và tử vong xảy ra do nhiễm P.knowlesi và có tầm
quan trọng đối với sức khoẻ cộng đồng hiện nay, cần được quan tâm nhiều hơn
trong thời gian tới [99], [118].
Đây là phát hiện mới lần đầu tiên tại tỉnh Quảng Trị mà các nghiên cứu trước đây
của Nông Thị Tiến [57], Bùi Quang Phúc [46] chưa phát hiện được.
Fujita Health University School of MedicineFujita Health University School of Medicine
Pf: Plasmodium falciparumPv: P. vivaxPm: P. malariaePo: P. ovalePk: P. knowlesi
Quảng Trị
Sốca
Sốca
Biểu đồ 4.1. Số trường hợp nhiễm Plasmodium knowlesi tại 4 xã nghiên cứu
4.2.3. Một số yếu tố liên quan đến mắc sốt rét của người dân
Qua kết quả phân tích các chỉ số về kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống
sốt rét cho chúng tôi các kết quả sau
Mắc sốt rét liên quan với 2 giới nam và nữ
Tỷ lệ mắc sốt rét ở nam: 3,2%; Nữ: 2,0%. Không có mối liên quan giữa mắc
sốt rét với 2 giới nam và nữ, p>0,05.
Mắc sốt rét liên quan với các nhóm dân tộc
Tỷ lệ mắc sốt rét ở nhóm dân tộc Vân Kiều: 2,1%; nhóm dân tộc PaKô: 5,9%.
Có mối liên quan giữa mắc sốt rét với 2 nhóm dân tộc, p<0,05.
Mắc sốt rét liên quan đến ngủ màn.
Tỷ lệ hộ nằm màn ở 2 xã Thuận, Xy cao hơn 2 xã Thanh, A Xing (71,7% so
với 44,7%). Kết quả phân tích cho thấy: tỷ lệ người dân có ngủ màn mắc sốt rét
thấp hơn không ngủ màn (4,7% so với 28,5%), p<0,05. Kết quả này cũng tương tự
kết quả nghiên cứu của Hoàng Hà trên các xã biên giới huyện Hướng Hoá năm
2001-2002 [14], [18].
Tỷ lệ bao phủ màn tương đối cao ở Việt Nam (1,0 người/màn). Ở Lào đủ màn
theo tiêu chuẩn của Lào (2,6 người/màn) [98] nhưng trên thực tế là không đủ, nhất là
với đặc điểm của người dân tộc vùng này họ ít ngủ chung nam/nữ. Có 50% người
được phỏng vấn ở phía Lào và 67% người được phỏng vấn ở phía Việt Nam cho rằng
họ có đủ màn, 83% người được phỏng vấn ở phía Lào và 98% người ở phía Việt
Nam trả lời họ đã sử dụng màn để ngủ trong tối hôm trước (Phụ lục III.7), [97]. Có
mối liên quan giữa mắc sốt rét với ngủ màn và không ngủ màn có ý nghĩa thống kê
tại 4 xã: xã Xy, xã Thuận, xã Thanh, xã A Xing. Nhóm ngủ màn thường xuyên ít bị
mắc sốt rét hơn nhóm không ngủ màn.
Mối liên quan giữa mắc sốt rét với đi rừng, ngủ rẫy tại 4 xã
Chủ yếu là ở dân tộc Vân Kiều và Pa Kô và thường họ không ngủ trong màn.
Mục đích ngủ rẫy thường là trông rẫy thời gian gần thu hoạch và thu hoạch nông
sản, trông gia súc thường là quanh năm. Kết quả điều tra về nhiễm sốt rét và ngủ rẫy
cho thấy có mối liên quan giữa mắc sốt rét với đi rừng, ngủ rẫy, p<0,05. Kết quả
này tương tự với nghiên cứu của Lê Thành Đồng tại tỉnh Bình Định [10] và Ngô
Đức Thắng ở dân tộc Raglai với hoạt động chính của họ ở trong rừng (94%) tỷ lệ
mắc sốt rét là 69‰, người dân ngủ trong rừng có nguy cơ mắc sốt rét lâm sàng cao
có ý nghĩa (OR = 1,7; p<0,001) [51].
Các nghiên cứu của Vũ Thị Phan về tập quán ngủ rẫy ở các cộng đồng trong
các vùng sinh cảnh khác nhau hay nghiên cứu của Nguyễn Thọ Viễn [64] ở 3 nhóm
dân trong cùng một điều kiện sinh cảnh cũng nhận xét. sinh cảnh là yếu tố quan
trọng liên quan nhiễm KSTSR, nhưng tập quán canh tác ngủ rẫy liên quan rất lớn
đến tình hình sốt rét. Kết quả điều tra KAP cho thấy ngủ qua đêm ở rừng ghi nhận
17% số trường hợp ở Lào và 14% ở Việt Nam, hầu hết xảy ra với nam giới [98].
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc sốt rét do đi rừng, ngủ rẫy là 4,5%, có
nghĩa trong quần thể người 18 tuổi ở cộng đồng dân tộc Vân Kiều và Pa Kô, trong
tất cả các nguyên nhân nhiễm sốt rét có 4,5% nhiễm sốt rét là do đi rừng qua đêm
gây nên. Nghiên cứu của chúng tôi đã đo lường được mức độ ảnh hưởng của các
yếu tố đi rừng, ngủ rẫy, giúp cho việc tính toán lập kế hoạch PCSR sát hợp với thực
tiễn hơn.
Bệnh sốt rét liên quan đến rừng ở địa bàn các xã nghiên cứu cũng giống như
nghiên cứu của Guerra C.A. và cộng sự (2006) cũng đã cho thấy cần phải hiểu về
mối quan hệ giữa rừng và sự lan truyền sốt rét và là điều quan trọng để xây dựng
chính sách làm giảm gánh nặng của sốt rét rừng [84].
Mặc dù kết quả nghiên cứu về mối liên quan giữa nhiễm KSTSR và đi rừng
của chúng tôi còn khiêm tốn và quần thể nghiên cứu thuộc vùng SRLH tỷ lệ nhiễm
SR do đi rừng, ngủ rẫy là 4,5%.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, nếu thay đổi tập quán ngủ rẫy hoặc
có biện pháp PCSR thích hợp cho nhóm đối tượng này thì có thể làm giảm được
4,5% trường hợp nhiễm sốt rét trong cộng đồng 2 dân tộc Vân Kiều và Pa Kô.
Mối liên quan giữa mắc sốt rét với khoảng cách từ nhà đến rừng.
Số hộ gia đình ở gần rừng (<500m) mắc sốt rét 3,7%; Hộ gia đình ở xa rừng
(>500m) mắc sốt rét 2,1%. Có mối tương quan có ý nghĩa giữa các trường hợp mắc
sốt rét và khoảng cách từ nhà đến rừng, p<0,05. Kết quả nghiên cứu côn trùng học
và xét nghiệm lam máu cho thấy có mối liên quan rõ rệt giữa khoảng cách từ nhà
đến rừng với các trường hợp mắc sốt rét.
Tương tự nghiên cứu của Jonathan Cox và cs cho thấy có yếu tố xác định nguy
cơ mắc sốt rét và khoảng cách đến rừng ở Campuchia [80].
Liên quan giữa các yếu tố thời tiết, mật độ côn trùng chính vào nhà và bệnh
nhân sốt rét 4 xã nghiên cứu trong năm 2010.
Tỷ lệ mắc sốt rét tăng cao từ tháng 5 đến tháng 10, từ 7,8 - 16,1‰. Là thời
điểm lượng mưa tăng: từ 206,5 đến 958,5 mm; độ ẩm cao: từ 84-94%; nhiệt độ khá
cao: 25,1-26,60C. Có ảnh hưởng giữa khí hậu, thời tiết với mắc sốt rét. Nghiên cứu
của Lê Thành Đồng cũng cho kết quả tương tự [10].
Mối liên quan giữa mắc sốt rét với giao lưu qua biên giới.
Qua điều tra theo dõi dọc số bệnh nhân sốt rét đi Lào vào trạm y tế xã (qua y tế
xã và y tế thôn) năm 2010 số người ở nhóm có đi Lào mắc sốt rét 5,6% cao hơn
nhóm người không đi Lào mắc sốt rét 4,3%. So sánh với nghiên cứu của Đoàn
Hạnh Nhân và cs tỷ lệ mắc sốt rét chiếm 60-82% tổng số ca sốt rét trong tỉnh [94].
Theo đánh giá của Lê Khánh Thuận, sự tập trung sốt rét biên giới là vấn đề
chung của các nước tiểu vùng sông MêKông, khu vực này gồm rừng sâu, bìa rừng
với lan truyền bệnh cao [105]. Nhưng sốt rét do giao lưu qua lại biên giới rất ít được
nghiên cứu và báo cáo, đây là 1 điểm đặc thù riêng của tỉnh Quảng Trị so với các
địa phương có đường biên giới trong cả nước, can thiệp phòng chống sốt rét do giao
lưu biên giới cũng là can thiệp mới ở biên giới Việt Nam [28] và Duong Sochead về
sốt rét ở biên giới Campuchia [104]. Đặc biệt hiện nay vấn đề khai thác, buôn bán vận
chuyển lâm thổ sản tại rừng ở Lào về Việt Nam đang thu hút nhiều nhân lực của 2 cộng
đồng dân tộc này tham gia. Đặc điểm này cũng tương tự với nghiên cứu của Lê Xuân
Hùng về sốt rét nhập cư ở Việt Nam chủ yếu là làm kinh tế 95,5% và thiếu bảo vệ như
ngủ màn 83% và tỷ lệ mắc cao ở người mới nhập cư [86].
4.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ MÔ HÌNH PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT HỘ GIA
ĐÌNH PHỐI HỢP PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT TẠI VÙNG BIÊN GIỚI CỦA
HUYỆN HƯỚNG HOÁ
4.3.1. Kết quả phát hiện và điều trị bệnh nhân sốt rét của hoạt động phòng
chống sốt rét thường quy
Theo đánh giá của Awa Marie Coll-Seck (2007) sự tài trợ cho chương trình
phòng chống sốt rét ngày càng tăng và các chiến lược, chính sách phòng chống sốt
rét được xác định rõ ràng [78] là thuận lợi lớn cho chương trình PCSR [73], [74].
Taị Việt Nam: Chiến lược phát hiện và điều trị sốt rét có thuận lợi là đã có
mạng lưới y tế cơ sở đầy đủ và có đủ thuốc sốt rét ở tất cả các cơ sở y tế, tỷ lệ bệnh
nhân đến khám ở cơ sở y tế 98,8%; tự điều trị 1,2%. So sánh với nghiên cứu của Lê
Xuân Hùng tại 30 huyện trên toàn quốc tỷ lệ đến khám ở cơ sở y tế 90%; 3,7% tự
điều trị [27] thì kết quả ở nghiên cứu của chúng tôi là cao hơn. Mặc dù Viện Sốt rét-
KST-CT Trung ương đã có hướng dẫn cụ thể các biện pháp PCSR cho những người
di cư tự do từ năm 2000, cụ thể là khi có triệu chứng sốt rét cần đến ngay cơ sở y tế
gần nhất để được điều trị [68], tuy nhiên kết quả vẫn còn hạn chế, đòi hỏi cần phải
có mô hình quản lý sốt rét gần người dân hơn.
Phòng chống véc tơ: Phòng chống véc tơ là một trong 4 biện pháp kỹ thuật
quan trọng của chiến lược PCSR và thực hiện theo thường quy từ trước đến nay
[70]. Ở tỉnh Quảng Trị và huyện Hướng Hoá đã thực hiện tốt biện pháp này, nhiều
năm còn được phun hoá chất tăng cường lần 2 ở các xã thường có BNSR tăng, cấp
bổ sung thêm màn.
Hoạt động truyền thông giáo dục và vệ sinh môi trường phòng chống sốt rét: Tiến
hành theo thường quy mỗi năm/một đợt qua hình thức họp dân.
Tuy vậy công tác phát hiện và điều trị BNSR từ trước đến nay chủ yếu khám,
phát hiện và điều trị BNSR tại trạm y tế. Điều này có thể dẫn đến bỏ sót một số
bệnh nhân nằm tại nhà không đi khám.
Chưa thực hiện phát hiện và điều trị sốt rét tại hộ gia đình nên không kịp thời
trong phòng chống và điều trị bệnh sốt rét.
Trong các giải pháp chính cần giải quyết các khó khăn kỹ thuật trong PCSR
như: Sốt rét rừng, sốt rét di biến động dân, sốt rét biên giới [70]. Đánh giá về kết
quả PCSR giai đoạn 2001-2005 của khu vực Miền Trung-Tây Nguyên cũng có nhận
định về những khó khăn trong PCSR tương tự nhưng có khác hơn toàn quốc là tỷ lệ
P.falciparum cao>80%, nguy cơ SR ác tính và tử vong cao [65]. Bên cạnh đó theo
đánh giá của Marc Coosemans (2007) có nhiều điều không thuận lợi làm cản trở
duy trì thành quả do có nhiều thách thức (như kháng thuốc sốt rét, kháng hoá chất
diệt côn trùng, PCSR rừng, sốt rét biên giới...hệ thống dịch vụ y tế...) [79] đòi hỏi
chúng ta phải tìm giải pháp khắc phục trong các nghiên cứu về PCSR.
Giai đoạn trước can thiệp nhiều hoạt động y tế không được tổ chức thực hiện
như: phát hiện và điều trị sốt rét tại hộ gia đình, truyền thông giáo dục, vệ sinh môi
trường PCSR, quản lý người giao lưu và đối tượng có sốt do giao lưu qua biên giới.
Do đó, tỷ lệ BNSR và tỷ lệ KSTSR trong báo cáo của địa phương thấp có thể
là do công tác phát hiện bệnh sốt rét của các tuyến y tế cơ sở thường là thụ động,
BNSR được ghi nhận chủ yếu là những trường hợp bị sốt rét đến khám và điều trị
tại các cơ sở y tế và thường là ít, các trạm y tế lại thường cách xa các thôn, những
nguyên nhân này có lẽ đã hạn chế người dân đến các cơ sở y tế để được khám và
điều trị. Biện pháp phát hiện chủ động chưa được chú trọng do đó vẫn còn bỏ sót
BNSR, tương tự nghiên cứu của Lê Thành Đồng tại tỉnh Bình Định [10].
Bên cạnh đó ở Lào không có trạm y tế xã, các thôn lại ở xa bệnh viện, y tế
thôn bản không có thuốc sốt rét và không tham gia điều trị, nên bệnh nhân bị sốt rét
thường sang các trạm y tế biên giới của huyện Hướng Hoá để điều trị. Đây cũng là
nguồn lây cho tỉnh Quảng Trị.
Tình hình sốt rét vẫn liên tục có biến động gia tăng trong những năm qua, chủ
yếu vào mùa, vào thời điểm có nhiều người giao lưu qua biên giới.
Theo đánh giá của A.P Dash và cộng sự (2012) sốt rét nhập khẩu và xuyên
biên giới là một vấn đề lớn quyết định thành công của việc loại trừ sốt rét và là
nguồn lực quan trọng ở cấp quốc gia và cả cấp vùng [81]. Lê Khánh Thuận khi đánh
giá tình hình sốt rét ở Việt Nam và triển vọng trong thập niên tới cũng đã đưa ra
nhóm giải pháp trong đó có: Cải thiện các biện pháp phòng chống sốt rét cho dân di
biến động, mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực bao gồm vấn đề giao lưu
qua biên giới cũng như kết hợp quân dân y [105].
Sau can thiệp
Tại nhóm chứng thực hiện các biện pháp PCSR thường quy: Chỉ khám phát
hiện, điều trị ca bệnh sốt rét thụ động tại trạm y tế, tỷ lệ 100% (481/481 ca SR).
Không phát hiện và điều trị tại hộ gia đình. Nhóm 2 xã chứng quản lý được 964 lượt
người qua biên giới và đã phát hiện được 434 bệnh nhân sốt rét.
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét qua điều tra cắt ngang của nhóm chứng trước và sau can
thiệp không có sự khác biệt, p>0,05. Kết quả PCSR ít được cải thiện.
Truyền thông giáo dục vệ sinh môi trường ở PCSR thường quy chỉ hoạt động
bình thường, người dân chỉ được truyền thông trực tiếp trung bình 1 đợt/năm nên
kết quả vẫn còn hạn chế, tỷ lệ ngủ màn chống muỗi qua điều tra hộ gia đình còn thấp
57,1%; đặc biệt khi đi rừng, ngủ rẫy, qua lại biên giới ít ngủ màn.
4.3.2. Kết quả của mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình phối hợp phòng
chống sốt rét vùng biên giới
4.3.2.1. Tổ chức thực hiện phòng chống véc tơ
Tại nhóm can thiệp tỷ lệ hộ được phun và giám sát phun bằng bảng kiểm nên
chất lượng phun tẩm được đảm bảo hơn nhóm chứng.
Véc tơ sốt rét sau can thiệp tại nhóm can thiệp giảm nhiều hơn nhóm chứng:
So sánh trước và sau can thiệp: thành phần loài giảm từ 18 xuống còn 10 loài
Sau can thiệp mật độ Anopheles chung của nhóm can thiệp giảm (0,8
con/đèn/đêm), mật độ An.dirus giảm (0,1 so với 0,3 con/đèn/đêm) so với trước can
thiệp và so với nhóm chứng (1,6 và 0,3 con/đèn/đêm). Mật độ véc tơ truyền bệnh sốt
rét giảm cũng ảnh hưởng tốt đến mức độ giảm sốt rét.
Khác với các hoạt động thường quy trước đây và khác với nhiều nghiên cứu
về sốt rét biên giới như nghiên cứu của Sarah J Moore ở biên giới Trung Quốc chỉ
nghiên cứu về kiến thức và sử dụng biện pháp bảo vệ cá nhân [93], can thiệp này đã
có sự phối hợp cả 2 bên biên giới của 2 tỉnh Quảng Trị và Savannakhet (Lào). So
sánh với nghiên cứu cũng tại các xã biên giới của huyện Hướng Hoá năm 2007 của
Lý Văn Ngọ cũng chỉ mới đánh giá tình hình sốt rét các xã biên giới Việt-Lào [40].
Tại nhóm can thiệp số người Việt sang Lào trở về và số bị sốt rét này được
giám sát, phát hiện quản lý và điều trị đầy đủ hơn nhóm chứng, p<0,05.
Số bệnh nhân SR người Lào sang nhóm can thiệp Xy, Thuận được giám sát,
phát hiện quản lý và điều trị đầy đủ, theo đúng phác đồ.
Tại nhóm can thiệp biện pháp phòng chống véc tơ cho các bản đối diện của
Lào được thực hiện 100% so với 60% các bản đối diện của nhóm chứng, p<0,05.
Các nội dung nghiên cứu và hoạt động phối hợp PCSR 2 bên biên giới chưa
được thực hiện ở Việt Nam trong các giai đoạn trước đây từ 1991-2009 [7], [55].
4.3.2.2. Phát hiện và điều trị bệnh nhân sốt rét tại hộ gia đình
Tại nhóm can thiệp thực hiện mô hình PCSR tại hộ gia đình. Thực hiện việc
phát hiện và điều trị ca bệnh chủ động tại hộ gia đình phối hợp với thụ động tại trạm
y tế xã.
Tỷ lệ phát hiện, điều trị sốt rét tại hộ gia đình đạt: 25,0% (129/450 ca mắc sốt
rét, có sự khác biệt với nhóm chứng, p<0,05. Đây cũng là hoạt động mới so với các
nghiên cứu khác, nghiên cứu của Lê Thành Đồng tại tỉnh Bình Định cũng có phát
hiện bệnh chủ động [10] nhưng do các đoàn y tế tuyến trên xuống phát hiện và điều
trị sốt rét.
Hoạt động giám sát, phát hiện và quản lý đối tượng giao lưu qua biên giới và tổ
chức điều trị BNSR cũng được thực hiện tại tại hộ gia đình của nhóm can thiệp.
Kết quả số người Việt và số người bị sốt rét do đi sang Lào. Số BNSR là người
Lào được giám sát, phát hiện và điều trị sớm kết quả tốt hơn nhóm chứng (p<0,05).
So với nghiên cứu của Sarah J Moore ở biên giới Trung Quốc [93] và so với nghiên
cứu của Amnat Khamsiriwatchara ở biên giới Thái Lan-Campuchia chỉ cho biết số
liệu dân di cư qua biên giới 2 nước [76] thì mô hình này cũng có kết quả cụ thể hơn.
Kết quả của biện pháp phát hiện và điều trị sốt rét tại hộ gia đình, đây chính là
ưu điểm của nghiên cứu của đề tài. So sánh với báo cáo kết quả PCSR giai đoạn
2006-2010 của Viện sốt rét-KST-CT Trung ương và Viện sốt rét-KST-CT Quy
Nhơn [67], [74] và so sánh nghiên cứu của trước đây tại Quảng Trị của Nguyễn Văn
Dàn [8], Hoàng Hà [14] thì phần lớn BNSR được phát hiện và điều trị thụ động tại
các cơ sở y tế. So sánh với mô hình điểm phát hiện và quản lý bệnh sốt rét cho cộng
đồng dân di cư đến một vùng sốt rét lưu hành nặng ở Tây Nguyên thì mô hình này
có nhiều ưu điểm hơn và chi phí thấp có thể thực hiện lâu dài hơn [29].
Đây là một biện pháp sáng tạo và tỏ ra rất có hiệu quả. Chúng ta có thể thấy
các gia đình đều có người nhà qua lại với các ổ bệnh ở biên giới phía Lào nên khả
năng tái nhiễm gần như chắc chắn và tần suất tái nhiễm cũng rất cao.
Vì vậy việc phát hiện và điều trị nếu chỉ chờ người bệnh đến khám thì rất
chậm và đã trở thành nguồn lây nguy hiểm.
Hơn nữa việc phát hiện tại gia đình có thể giúp phát hiện những bệnh nhân
quốc tịch Lào không chịu đến điều trị tại trạm. Tất cả những điều này góp lại đã làm
giảm tỉ lệ mắc mới cũng như tỉ lệ mang KST.
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét qua điều tra cắt ngang của nhóm can thiệp trước và sau
can thiệp giảm rõ rệt, p<0,05.
Tỷ lệ mắc mới sốt rét qua theo dõi dọc của nhóm can thiệp trước và sau can
thiệp giảm, p<0,05.
So sánh giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng.
Có sự khác biệt về tỷ lệ hiện mắc sốt rét và tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét sau
can thiệp so với trước can thiệp giữa 2 nhóm.
So sánh năm 2011, năm thứ 2 sau can thiệp so với cùng kỳ 3 năm trước thì đường
biểu diễn BNSR năm này so với Mean + 2 SD của 2 xã can thiệp giảm rõ rệt, 2 xã chứng
cũng có giảm nhưng ít hơn. Tình hình sốt rét đã được ổn định (Phụ lục III.6.)
So sánh với mô hình “Điểm phát hiện và quản lý bệnh sốt rét” cho cộng đồng dân
di cư đến một vùng sốt rét lưu hành nặng ở Tây Nguyên của Lê Xuân Hùng và cs [29],
thì nghiên cứu của chúng tôi dựa vào mạng lưới y tế thôn bản đã được xây dựng phù
hợp hơn nên có thể áp dụng rộng rãi hơn.
4.3.2.3. Tổ chức thực hiện truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét
Sau can thiệp:
Tại nhóm can thiệp: Hoạt động truyền thông giáo dục và vệ sinh môi
trường mô hình phòng chống sốt rét mới cũng được thực hiện và tăng cường đến
tại hộ gia đình, công tác truyền thông giáo dục thực hành phòng chống sốt rét đúng
đạt cao hơn nhiều so với nhóm chứng.
Tỷ lệ hiểu biết đúng: 93,5%, thái độ đúng: 95,5%, thực hành đúng: ngủ màn
95,5% về bệnh sốt rét đạt kết quả cao so với trước can thiệp tại nhóm can thiệp. Kết
quả truyền thông giáo dục PCSR giữa 2 nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa, p<0,05.
Có những hoạt động chỉ được thực hiện ở nhóm can thiệp như: Thảo luận nhóm
trọng tâm. Các tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu của Hoàng Hà ở xã Thanh [17], huyện
Hướng Hoá năm 2006. So sánh với nghiên cứu của Lê Xuân Hùng, Nguyễn Quý
Anh ở dân tộc Racglei tỉnh Ninh Thuận năm 2004: Hiểu biết đúng: 72,6 và 78,2%;
nằm màn 75,3%; đến cơ sở y tế 80,2% [26] thì kết quả của nghiên cứu này cũng cao
hơn. So sánh với nghiên cứu của Hoàng Hà, Đặng Hân ở tỉnh Quảng Trị giai đoạn
2001-2005 tỷ lệ hiểu biết đúng 75,3%, hiểu biết về phòng bệnh 57,2%; nằm màn
58,2% thì kết quả của nghiên cứu này cũng cao hơn [15]. So sánh với nghiên cứu
của Lê Xuân Hùng và cs trên 4 huyện ở 2 tỉnh Hà Giang và Gia Lai năm 2006 tỷ lệ
hiểu về bệnh sốt rét 63,3%, biết phòng bệnh bằng ngủ màn 74,3%; đến cơ sở y tế
khi bị sốt 88,5% [25], thì kết quả của nghiên cứu này là cao hơn.
Có sự khác biệt so với nhiều nghiên cứu khác trước đây là thường xuyên
truyền thông trực tiếp đến hộ gia đình, việc thực hiện các hoạt động truyền thông tại
hộ gia đình là rất cần thiết. Việc kết hợp giữa biện pháp họp dân trước đây kết hợp
với biện pháp truyền thông đến tận hộ gia đình cho kết quả cao hơn, hiệu quả mang
tính bền vững hơn. So sánh với nghiên cứu của Nguyễn Quý Anh ở dân tộc Racglei
tỉnh Khánh Hoà: 85,9% biết nguyên nhân SR, 88,2% biết phòng bệnh SR, 94,6%
đến cơ sở y tế [1] và cũng nghiên cứu của Lê Xuân Hùng, Nguyễn Quý Anh ở dân
tộc Racglei tỉnh Ninh Thuận [26] thì kết quả của chúng tôi vẫn cao hơn và có sự
khác biệt so với các nghiên cứu trước đây. So sánh với nghiên cứu của Johan
Paulender ở Ethiopia năm 2008 tỷ lệ hiểu nguyên nhân lây bệnh SR do muỗi
48,8%; ngủ màn 85,9% [95] và so với nghiên cứu của Habtai và cs ở Eritrea năm
2008 hơn 80% biết sốt rét là do muỗi, 44,6% trả lời có dùng màn [85], thì kết quả
của nghiên cứu này là cao hơn.
Kết quả của chúng tôi tương đương với nghiên cứu của Adedotun ở Nigeria tỷ
lệ hiểu biết đúng về nguyên nhân của sốt rét là do muỗi 93,2% [75]. Nghiên cứu của
Padmawati Tyagi, Arati Roy năm 2005 ở đông Delhi, Ấn Độ tỷ lệ hiểu về bệnh sốt
rét là do muỗi đốt 100% cao hơn nghiên cứu của chúng tôi, nhưng tỷ lệ ngủ màn lại
thấp hơn nhiều chỉ 42,1% [107]. So sánh với nghiên cứu của Ndifreke E.Udonwa và
cs ở Etiopia năm 2009 tỷ lệ trả lời sốt rét là do muỗi mang KSTSR đốt là 77,5%,
nhưng tỷ lệ sử dụng màn tẩm hoá chất chỉ 25,7% [109] thì kết quả của nghiên cứu
này là cao hơn nhiều. So sánh với nghiên cứu của Uza M và cs ở tỉnh
Khammouane, Lào gần Quảng Trị năm 2002 [110] tỷ lệ ngủ màn chỉ 55%. So sánh
với nghiên cứu của Sarah J. Moore và cs về kiến thức và sử dụng các biện pháp bảo
vệ cá nhân của đồng bào thiểu số ở biên giới Trung Quốc năm 2008 tỷ lệ biết về
muỗi sốt rét lây truyền bệnh sốt rét chỉ 31% [93] thì kết quả ở nghiên cứu này cao
hơn. So sánh với nghiên cứu của Safari M Kinung’hi ở huyện Muleba, Tanzania có
92,1% biết sốt rét là do muỗi truyền [87] là cao hơn kết quả của chúng tôi.
4.3.2.4. Hoạt động vệ sinh môi trường phòng chống sốt rét tại hộ gia đình.
Tại xã can thiệp các hoạt động vệ sinh môi trường để PCSR được mở rộng và
thực hiện có kế hoạch chủ động, có tổ chức. Việc thực hành vệ sinh môi trường này
cũng đã tham gia làm giảm số lượng muỗi truyền bệnh bắt được khá rõ, từ 5
con/đèn/đêm còn 0,25 con/đèn đêm.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê xã can thiệp đạt kết quả cao hơn nhiều lần
so với xã chứng, p<0,05.
4.3.2.5. Kết quả phối hợp phòng chống sốt rét tại một số xã ở vùng biên giới giữa
2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet (Lào).
Quản lý người và bệnh nhân sốt rét do giao lưu biên giới tại hộ gia đình.
Do các đặc điểm về xã hội, kinh tế tại vùng biên giới Việt-Lào của tỉnh Quảng
Trị nên người dân cả 2 bên thường qua lại thăm nhau, làm ăn, buôn bán. Tương tự ở
nghiên cứu của Lê Xuân Hùng về “sốt rét ở dân di cư và các hình thức di biến động
dân số ở Việt Nam”, các nguyên nhân chính của di dân là kinh tế (95,5%) và dân di
cư có phơi nhiễm với sốt rét cao, thiếu các phương tiện bảo vệ cá nhân phòng tránh
sốt rét như nằm màn (83,0%) [86].
Tại tỉnh Quảng Trị tỷ lệ mắc sốt rét ở vùng biên giới là khá cao và bệnh sốt rét
thường lây lan qua lại tại vùng này. Đây cũng là yếu tố làm cho tình hình sốt rét tại
vùng biên giới Quảng Trị-Savannakhet thường xuyên tăng cao và diễn biến phức
tạp. Chính vì vậy khi xây dựng mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng
biên giới chúng tôi đã đưa vào nội dung phối hợp PCSR cả 2 bên biên giới.
Tại các xã can thiệp tổ chức quản lý đối tượng giao lưu biên giới, phát hiện
chủ động các trường hợp mắc SR để điều trị, số người Việt sang Lào trở về và số
người bị sốt rét trong nhóm này, so với nhóm chứng có sự khác biệt, p<0,05.
Bệnh nhân sốt rét người Lào sang 4 xã để điều trị từ 2005 - 2009 và 2010-2011
Do điều kiện ở xa các cơ sở y tế của Lào và gần các cơ sở y tế của Việt Nam
nên bệnh nhân sốt rét là người Lào thường sang trạm y tế các trạm y tế các xã biên
giới của huyện Hướng Hoá để khám và điều trị, trong đó có bệnh sốt rét, từ năm
2005 - 2009 Bệnh nhân sốt rét người Lào sang chiếm tỷ lệ trên 19% tổng số bệnh
nhân sốt rét của các xã biên giới mỗi năm. Tương tự với nghiên cứu của Wichai
Satimai (2007), mặc dù chương trình PCSR quốc gia Thái Lan đã thành công trong
việc giảm mắc và giảm chết chết do sốt rét nhưng cho thấy rằng cơ chế hợp tác của
chương trình này vẫn cần được tăng cường, đặc biệt hợp tác với các nước có chung
biên giới để giải quyết hiệu quả hơn các tồn tại [102].
Trong giai đoạn can thiệp (2010-2011) đã giám sát được hàng nghìn lượt
người Lào giao lưu qua biên giới với mục đích khám chữa bệnh, đi thăm bà
con...nhóm 2 xã can thiệp quản lý được 1.853 lượt người qua và đã phát hiện được
267 bệnh nhân sốt rét trong 2 năm 2010 - 2011.
So sánh với các nghiên cứu trước đây của chúng tôi cũng trên địa bàn các xã
biên giới của huyện Hướng Hoá có sự khác biệt lớn vì các nghiên cứu trước đây chỉ
tiến hành ở một bên biên giới, trước đây cũng có người Lào sang nhưng không theo
dõi và quản lý đầy đủ [40]. So với các nghiên cứu của Lê Thành Đồng [10], Lý Văn
Ngọ, Duong Socheat [104] và A.P Dash [81] cũng không có hoạt động này [40].
Mô hình PCSR tại hộ gia đình sử dụng lực lượng y tế thôn bản là người địa phương
biết ngôn ngữ, phong tục tập quán. Hoạt động tư vấn, nhắc nhở trực tiếp tại hộ gia đình
đã có được những kết quả quan trọng: tỷ lệ hộ, người ngủ màn tăng lên, tỷ lệ hộ gia đình
dời chuồng gia súc xa nhà, phát quang bụi rậm, lấp vũng nước đọng tăng lên rõ rệt.
Phối hợp khảo sát sốt rét tại vùng biên giới giữa 2 tỉnh Quảng Trị và Savannakhet
Năm 2010 lần đầu tiên đã có sự phối hợp khảo sát tình hình sốt rét tại vùng
biên giới giữa 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) - Savannakhet (Lào). Tỷ lệ hiện mắc sốt
rét phía Lào (5,2%) cao hơn phía Việt Nam (1,8%) [97]. Các phỏng vấn KAP, thảo
luận nhóm có trọng tâm, điều tra côn trùng cũng được tiến hành cả 2 biên giới [98].
Trong lúc phối hợp điều tra sốt rét vùng biên giới chúng tôi đã phát hiện 1 loại
KSTSR mới lây từ khỉ sang người là Plasmodium knowlesi cả 2 bên biên giới Việt -
Lào [124]. So sánh với các nghiên cứu trước đây của Bùi Quang Phúc [46] và nhiều
tác giả khác ở trong nước thì nghiên cứu của chúng tôi có một phát hiện mới và có
sự khác biệt rất quan trọng, đã được thông báo tại hội nghị quốc tế về sốt rét lây từ
khỉ sang người năm 2011. Kết quả điều tra sốt rét vùng biên giới giữa 2 tỉnh được
đăng trên tạp chí BioMed Central Journal tháng 8/2012 [97]. Sự có mặt của
P.knowlesi ở vùng biên giới càng thể hiện tính phức tạp và đa dạng của tình hình
dịch tễ sốt rét vùng biên giới của tỉnh Quảng Trị, như vậy ở đây bên cạnh sự lây lan
sốt rét giữa người với người còn có sự lây lan bệnh sốt rét giữa khỉ với người. Phác
đồ điều trị P.knowlesi giống với điều trị P.vivax [4].
Phối hợp can thiệp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới 2 tỉnh
Khác với các can thiệp thường quy trước đây, lần đầu tiên can thiệp này đã có
sự phối hợp cả 2 bên biên giới của 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet
(Lào). Tỉnh Quảng Trị giúp tỉnh Savannakhet phun hoá chất PCSR tại một số bản có
tỷ lệ mắc sốt rét cao trong năm 2011: phun hoá chất cho 7/7 bản giáp 2 xã can thiệp
với 191/192 hộ đạt 99,48% - dân số: 99,50% và 3/5 bản giáp 2 xã chứng với 172/179
hộ đạt 96,10% - dân số: 96,31%. Trong 2 năm 2011-2012: Phun hoá chất cho 476 hộ,
2.228 người, tỷ lệ 97,6%.
Sau can thiệp, thành phần loài và mật độ véc tơ tại các bản Lào, số bệnh nhân
người Lào sang điều trị giảm. Khác với nghiên cứu của Amnat Khamsiriwatchara
mới dừng ở mức báo cáo tình hình sốt rét nhập cư qua biên giới của các nước [76].
4.3.3. Đánh giá kết quả can thiệp mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình
tại các xã biên giới sau can thiệp.
4.3.3.1. Kết quả phòng chống sốt rét ở nhóm chứng
Tại nhóm chứng: Tỷ lệ hiện mắc sốt rét của nhóm chứng sau can thiệp giảm ít
so với trước. Không có các hoạt động phát hiện và điều trị sốt rét tại hộ gia đình.
Các hoạt động về truyền thông giáo dục, vệ sinh môi trường phòng chống sốt
rét được tiến hành rất ít, chỉ mỗi năm/một đợt theo thường quy nên kết quả đạt được
không cao: Số người có kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt rét đúng
của nhóm chứng trước và sau can thiệp ít thay đổi, thái độ ứng xử của người dân
trong việc thay đổi phong tục tập quán từ không ngủ màn sang có ngủ màn chưa cao
nên tỷ lệ ngủ màn vẫn thấp. Kết quả ít có sự thay đổi so với trước can thiệp và hiệu
quả đạt thấp hơn nghiên cứu của Hoàng Hà ở xã Thanh năm 2006, điều này chứng
tỏ nếu chúng ta không duy trì những hoạt động truyền thông giáo dục một cách
thường xuyên thì những kết quả trước đó đến năm 2010 vẫn giảm xuống.
4.3.3.2. Kết quả can thiệp của mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình.
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét
So sánh 2 nhóm trước can thiệp: Tỷ lệ hiện mắc sốt rét giữa nhóm can thiệp và
nhóm chứng gần tương đương.
So sánh 2 nhóm sau can thiệp: Tỷ lệ hiện mắc sốt rét nhóm can thiệp thấp hơn
nhóm chứng nhiều và có sự khác biệt. Có các hoạt động phát hiện và điều trị sốt rét
tại hộ gia đình.
Tỷ lệ mắc mới bệnh nhân sốt rét qua theo dõi dọc sau can thiệp của nhóm can
thiệp giảm so với nhóm chứng. Nghiên cứu này có so sánh đối chứng và so sánh
trước sau, khác với nghiên cứu của Hoàng Hà tại 5 xã biên giới cũng ở vùng này
trước đây chỉ so sánh trước sau trên cùng một nhóm can thiệp.
Tại nhóm can thiệp: Tỷ lệ hiện mắc sốt rét của nhóm can thiệp giảm nhiều so
với trước can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ mắc mới sốt rét qua theo
dõi dọc của nhóm can thiệp giảm so với trước can thiệp.
Kết quả thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành về PCSR
Trước can thiệp:
Xã Xy, xã Thuận: Tỷ lệ mù chữ khá cao 62,5%, điều này có ảnh hưởng đến
kết quả truyền thông phòng chống bệnh sốt rét. Tỷ lệ màn có trong dân cao: 1,0
người/màn đôi, đủ để phòng chống muỗi đốt. Tuy vậy còn phụ thuộc vào nhận thức
và hành vi của người dân về hoạt động nằm màn để phòng chống bệnh sốt rét.
Số người có kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt rét đúng giữa 2
nhóm thấp và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
So sánh với nghiên cứu của Lê Xuân Hùng và cs ở dân tộc Racglei tỉnh Ninh
Thuận [26] thì kết quả điều tra KAP của chúng tôi là tương đương.
Sau can thiệp:
Ở nhóm chứng:
Số người có kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt rét đúng sau can
thiệp có thay đổi ít, không có sự khác biệt, p>0,05.
Tại nhóm can thiệp: Truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình, thảo luận nhóm
trọng tâm do các cán bộ y tế xã, thôn thực hiện và nói bằng tiếng địa phương. Các
hoạt động truyền thông PCSR được tổ chức thường xuyên, số lượng thực hiện đạt
cao. Truyền thông cho nhóm đối tượng đích (vào rừng, qua lại biên giới).
Tại nhóm can thiệp, do được thường xuyên tác động về hộ gia đình nên có sự
thay đổi rõ về kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống sốt rét theo hướng tốt
hơn có sự thay đổi về phong tục, tập quán: Thái độ ứng xử với bệnh sốt rét đã theo
hướng tốt hơn, khi bị sốt đã đến trạm y tế, thái độ ứng xử với phong tục tập quán
cũng theo hướng tiến bộ như: ít cúng thầy mo, nhiều hộ gia đình đã dời chuồng gia
súc ra xa nhà, dời bếp lửa ra khỏi nhà và tỷ lệ ngủ màn tăng lên.
Vệ sinh môi trường phòng chống sốt rét
Tại nhóm can thiệp các hoạt động vệ sinh môi trường PCSR được thực hiện tại
hộ gia đình có kế hoạch chủ động, có sự tổ chức, kết quả được cải thiện tốt và
nhanh chóng, có ảnh hưởng đến kết quả PCSR.
Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở nhóm can thiệp
Số người có kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt rét đúng của
nhóm can thiệp sau can thiệp tăng lên nhiều lần, có sự khác biệt so với trước can
thiệp. So sánh với nghiên cứu trước đây của chúng tôi tại xã Thanh, huyện Hướng
Hoá tỷ lệ hiểu đúng nguyên nhân và triệu chứng của bệnh sốt rét 86,8 và 88,2%
[17], nghiên cứu của Lê Xuân Hùng & cs trên nhóm dân tộc Raglei tỉnh Ninh Thuận
tỷ lệ hiểu biết đúng về nguyên nhân và cách phòng bệnh sốt rét 72,6 và 78,2% [26]
và nghiên cứu của Nguyễn Văn Tập ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế tỷ lệ
hiểu biết đúng là 78,13% [50] thì kết quả nghiên cứu hiện nay là cao hơn.
So sánh giữa 2 nhóm
Kết quả truyền thông giáo dục PCSR của nhóm can thiệp đạt kết quả cao hơn
nhóm chứng. Số người có kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt rét đúng
giữa 2 nhóm có sự khác biệt. Có những hoạt động chỉ được thực hiện ở nhóm can
thiệp: Thảo luận nhóm trọng tâm
Vệ sinh môi trường được đẩy mạnh toàn diện, có sự phối hợp của chính
quyền, các ban ngành ở xã một cách đồng bộ. Kết quả vệ sinh môi trường PCSR
nhóm can thiệp đạt kết quả cao hơn nhiều lần so với nhóm chứng. Tỷ suất chênh
giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng từ 6,3 - 15,6, có sự khác biệt.
4.3.3.3. Đánh giá hiệu quả can thiệp của mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia
đình ở biên giới
Đánh giá hiệu quả can thiệp của mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở
nhóm can thiệp. Tại nhóm này thực hiện cả 2 biện pháp: Phát hiện và điều trị sốt rét
tại hộ gia đình và tại trạm y tế xã do đó tỷ lệ mắc sốt rét giảm tốt. Quản lý được đối
tượng giao lưu qua biên giới, phát hiện và điều trị sớm những người mắc sốt rét
trong nhóm đối tượng này. Nhóm can thiệp đạt hiệu quả can thiệp về tỷ lệ hiện mắc
sốt rét 68,2% và tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét 70,6% cao hơn nhóm chứng.
Có kết quả tốt ở nhóm can thiệp sau can thiệp so với trước. Sự thay đổi có ý
nghĩa ở nhóm can thiệp, sau can thiệp tỷ lệ mắc sốt rét giảm 3,3 lần (0,7/2,2) so với
trước can thiệp.
Truyền thông giáo dục trực tiếp về hộ gia đình, chủ động, thường xuyên, với
nhiều đối tượng, nhiều biện pháp thích hợp: CSHQ = 91,0%
Đánh giá hiệu quả ở nhóm chứng
Tại nhóm này chỉ có 1 biện pháp: phát hiện và điều trị tại trạm y tế theo
thường quy do đó tỷ lệ mắc sốt rét giảm ít. Không quản lý đối tượng giao lưu qua
lại biên giới tại hộ gia đình.
Truyền thông giáo dục chỉ thực hiện mỗi năm 1 đợt theo thường quy.
Nhóm chứng chỉ đạt hiệu quả can thiệp 41,5%
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét ở nhóm chứng có giảm, nhưng không có sự khác biệt
trước và sau can thiệp [24].
Đánh giá hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp so với nhóm chứng
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng có sự khác biệt
với. CSHQ của nhóm can thiệp đạt cao hơn nhóm chứng 26,3%.
Tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét của nhóm can thiệp giảm nhiều hơn nhóm
chứng. HQCT của nhóm can thiệp đạt cao hơn nhóm chứng 28,9%.
Mô hình mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình thực hiện ở nhóm can
thiệp có hiệu quả tốt hơn mô hình phòng chống sốt rét thường quy 26,3%.
Sự thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống sốt rét của nhóm can
thiệp tốt hơn nhóm chứng. HQCT của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng 30,2%.
Có sự khác nhau về hiệu quả can thiệp phòng chống sốt rét của nhóm can
thiệp so với nhóm chứng với D = 28,9%.
So sánh với các nghiên cứu trước đây của chúng tôi thường chỉ tác động đến
một lĩnh vực: hoặc là tăng cường biện pháp phòng chống véc tơ, hoặc tăng cường
biện pháp phát hiện và điều trị hoặc tăng cường biện pháp truyền thông thì nghiên
cứu này áp dụng tổng hợp một loạt các biện pháp trên một cách toàn diện.
Khác với các nghiên cứu trước đây về biện pháp phòng chống sốt rét tại 2 xã
trọng điểm vùng biên giới Việt-Lào [18] và của tác giả khác [28], nghiên cứu này
đã áp dụng biện pháp phát hiện và điều trị về đến tận thôn bản, hộ gia đình nhờ vậy
đã phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét, giảm nguồn lây một cách chủ động.
Người dân cả hai bên biên giới thường qua lại qua con đường giao lưu tự do,
chính quyền và y tế xã ít khi kiểm soát được nên nhiều người bị sốt rét đã bị bỏ sót.
Tại nhóm can thiệp do tiến hành quản lý sốt rét tại hộ gia đình nên YTTB đã nắm
được hết những người trong thôn sang Lào và những người trở về bị mắc sốt rét,
bên cạnh đó người Lào sang thôn chơi bị sốt rét cũng được ghi chép, xét nghiệm và
điều trị kịp thời nên ít bỏ sót bệnh nhân. Chỉ số hiệu quả can thiệp về tỷ lệ phát hiện
và điều trị bệnh nhân sốt rét do giao lưu biên giới tại nhóm can thiệp so với trước
can thiệp đạt 66,7% và hiệu quả can thiệp so với nhóm chứng đạt 56,5%.
Lần đầu tiên trong phòng chống sốt rét ở Việt Nam đã có sự phối hợp trong
việc điều tra, đánh giá tình hình sốt rét tại vùng biên giới giữa 2 nước, có sự phối
hợp phòng chống sốt rét cho vùng biên giới giữa 2 quốc gia. Sự hợp tác mang tính
quốc tế và góp phần cũng cố tình hữu nghị giữa 2 dân tộc, có hướng cho tương lai
phối hợp PCSR cho vùng biên giới giữa 2 quốc gia và đã xây dựng một sự hợp tác
có tính bền vững [97].
Tính khả thi của mô hình
Qua các kết quả trên cho thấy mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình phối
hợp với mở rộng phòng chống sốt rét ở vùng biên giới giữa 2 nước được áp dụng
trong nghiên cứu này là có hiệu quả, khả thi có thể áp dụng rộng rãi ở nhiều địa
phương, bổ sung thêm cho chương trình quốc gia phòng chống sốt rét. Mô hình này
có thể áp dụng cho nhiều tỉnh của Việt Nam có chung đường biên giới với các nước
Trung Quốc, Lào, Campuchia và các quốc gia có chung đường biên giới.
Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình có thể thực hiện có hiệu quả nếu
xây dựng được mạng lưới y tế xã, thôn bản hoạt động tốt, nhiệt tình. Có hỗ trợ thêm
nguồn lực: kinh phí, vật tư...
Tính thực tiễn và đóng góp của mô hình mới
Người dân được phát hiện bệnh sốt rét, được tư vấn và điều trị sốt rét sớm
ngay tại nhà. Quản lý được đối tượng giao lưu qua biên giới và người giao lưu bị sốt
ngay tại hộ gia đình. Kết quả đã giảm được số bệnh nhân có ký sinh trùng sôt rét
lưu hành; giảm số bệnh nhân sốt rét tại các xã biên giới của huyện Hướng Hoá. Kết
quả nghiên cứu đưa ra mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình phối hợp phòng
chống sốt rét tại vùng biên giới 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam)-Savannakhet (Lào) và
sẽ trở thành mô hình để bổ sung cho chương trình phòng chống sốt rét quốc gia áp
dụng vào các địa phương trong nước có chung đường biên giới như tỉnh Quảng
Trị.
Điểm mới của mô hình
Từ trước đến nay công tác phòng chống sốt rét chỉ mới thực hiện đầy đủ ở
trạm y tế xã, chưa có mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình.
Chưa có mô hình quản lý và phòng chống sốt rét tại vùng biên giới.
- Với phạm vi đề tài này, chúng tôi xây dựng mô hình quản lý và phòng chống
sốt rét tại hộ gia đình ở vùng biên giới tỉnh Quảng Trị đạt được các kết quả:
+ Quản lý đối tượng có nguy cơ mắc sốt rét cao do giao lưu qua biên giới, đi
rừng, ngủ rẫy. Chẩn đoán, điều trị sớm cho những người bị mắc sốt rét ngay tại hộ
gia đình, góp phần giảm lây lan cho cộng đồng.
+ Áp dụng biện pháp truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình ở các xã biên giới,
tập trung vào đối tượng đích là giao lưu vào rừng và qua lại biên giới.
- Phối hợp khảo sát tình hình sốt rét và phòng chống sốt rét cả hai bên biên
giới của 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet (Lào).
- Phát hiện thêm loài KSTSR mới P.knowlesi ở tỉnh Quảng Trị.
Những bài học kinh nghiệm thực hiên mô hình can thiệp
Phải có sự nhất trí thực hiện giữa y tế và chính quyền, ban ngành các cấp;
Xây dựng đội ngũ y tế xã, thôn bản nhiệt tình hoạt động;
Có kinh phí hỗ trợ, có kiểm tra, giám sát, có thi đua khen thưởng để động viên
liên tục kịp thời của chính quyền địa phương, y tế tuyến trên.
Tính duy trì và nhân rộng
Điều kiện duy trì được mô hình: Có sự nhất trí và chỉ đạo thực hiện của Sở y
tế, có sự nhiệt tình của y tế cơ sở, có đội ngũ y tế thôn bản có trình độ cơ bản tốt.
Có sự phối hợp giữa Sở y tế của 2 tỉnh có chung đường biên giới, ở mức cao
hơn là phối hợp chỉ đạo giữa Bộ Y tế của 2 quốc gia.
Điều kiện nhân rộng
Có sự thống nhất chỉ đạo của Bộ Y tế, Sở Y tế tỉnh. Đưa mô hình phòng chống
sốt rét tại hộ gia đình trở thành mô hình PCSR chính thức của Bộ Y tế.
Có thêm nguồn kinh phí hỗ trợ cho y tế thôn bản để thực hiện mô hình.
Mô hình phòng chống mới này như vậy đã đạt được kết quả rất tốt, có thể nhân
rộng ra các địa phương khác có điều kiện địa lý , kinh tế xã hội và y tế tương tự.
Những điểm hạn chế của nghiên cứu
1) Nghiên cứu chọn 4 xã mắc sốt rét cao nhất có tình hình sốt rét luôn luôn
biến động phức tạp rất cần có các can thiệp có hiệu quả để làm giảm mắc sốt rét.
Chính vì vậy nếu xét về điều tra dịch tễ thì sẽ không đại diện được cho toàn huyện
Hướng Hoá, tuy nhiên sẽ áp dụng thuận lợi cho mô hình PCSR tại hộ gia đình ở
biên giới có hiệu quả và có ý nghĩa thực tiễn về PCSR tại tỉnh Quảng Trị.
2) Nghiên cứu tuân thủ các quy trình của điều tra, điều tra viên được tập huấn
và điều tra thử. Tuy vậy vẫn còn một số hạn chế khi xác định sốt rét do đi rừng, qua
Lào vì có thể bệnh nhân đã bị nhiễm sốt rét trước đó nhưng chưa có biểu hiện sốt và
không được xét nghiệm.
3) Xác định bệnh nhân mắc sốt rét do đi Lào (mắc tại Lào) trên thực tế đã thấy
rõ do tỷ lệ mắc sốt rét tại Lào là cao hơn ở Quảng Trị nhiều lần, tuy nhiên việc xác
định chứng cớ còn gặp nhiều khó khăn do thời gian ủ bệnh của ký sinh trùng sốt rét
ít nhất là 8 ngày (P.falciparum) nên có thể đã mắc ở một trong hai bên biên giới.
4) Ước lượng khoảng cách từ nhà đến rừng bằng: chiều dài của ngôi nhà = 1
lần x số lần = số mét (m) cũng chỉ cho ta độ chính xác tương đối theo khuynh
hướng trội nghĩa là trên thực tế khoảng cách này có thể ngắn hơn.
KẾT LUẬN
1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét tại huyện Hướng Hoá trong 5 năm từ 2005-2009,
năm 2010 và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét tại 4 xã biên giới
1.1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét tại huyện Hướng Hoá trong 5 năm từ 2005-2009
Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét trung bình 19,9‰ dân số, xu hướng giảm từ 22,7‰
xuống 13,6‰. Tử vong 3 ca do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum. Tỷ lệ
người có ký sinh trùng (+) trung bình 14,5‰ dân số, xu hướng dao động từ 10,2‰;
18,8‰; xuống 14,7‰. P.falcifarum tỷ lệ 91,6%.
Tại 4 xã biên giới: xã Thuận, Xy, Thanh và A xing tỷ lệ mắc sốt rét trung bình
là 66,1‰; trong đó, bệnh nhân mắc sốt rét có đi Lào về, tỷ lệ 22,4- 47,8%; bệnh
nhân dưới 5 tuổi sốt rét tỷ lệ từ 14,8-18,2%.
1.2. Đặc điểm dịch tễ sốt rét và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét năm 2010
Tỷ lệ hiện mắc sốt rét là 2,6%; tỷ lệ mắc ký sinh trùng sốt rét là 2,2%. Bệnh nhân
sốt rét có ký sinh trùng tỷ lệ 76,6%, gồm P.falciparum 46,9%; P.vivax 46,9%;
phối hợp 6,2%. Véc tơ truyền bệnh sốt rét có 18 loài Anophelles (An.minimus và
An.dirus); mật độ 5,0 con/đèn/đêm
Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng 69,0%; có thái độ đúng 51%, có thực hành
đúng 50%; Người dân có nằm màn tỷ lệ 57,1 %;
Mắc sốt rét có liên quan với một số yếu tố sau: Đi rừng ngủ rẫy, không ngủ màn,
có đi Lào, nhà gần rừng, mùa mưa, p<0,05.
Người dân ngủ màn mắc sốt rét 4,7%; không ngủ màn mắc sốt rét 28,5%;
Tỷ lệ 4,5% người dân đi rừng, ngủ rẫy mắc sốt rét; không đi rừng, ngủ rẫy mắc
sốt rét 2,3%; Người dân có đi sang Lào ngủ lại mắc sốt rét 5,6%; không đi sang Lào
mắc sốt rét 4,3%. Người dân sống gần rừng mắc sốt rét tỷ lệ 3,7%, người dân ở xa
rừng mắc sốt rét tỷ lệ 2,1%.
2. Đánh giá hiệu quả can thiệp mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình vùng
biên giới
Sau 2 năm can thiệp tại hộ gia đình: Người dân chủ động thực hiện các hoạt
động phòng chống sốt rét: Phát hiện sớm bệnh; khai báo sớm; xét nghiệm lam máu
tại nhà; ngủ màn khi đi rẫy và ở lại Lào; tham gia các buổi tư vấn, truyền thông giáo
dục sức khỏe tại hộ gia đình. Kết quả:
Giảm tỷ lệ mắc sốt rét tại nhóm can thiệp từ 2,2% giảm xuống 0,7% ; so nhóm
chứng, từ 3,1% giảm 1,8%; Hiệu quả can thiệp là 26,3% (p<0,05)
Giảm tỷ lệ người bệnh có ký sinh trùng sốt rét tại nhóm can thiệp từ 1,7% giảm
xuống 0,5%; so nhóm chứng từ 2,4% giảm 1,4%; Hiệu quả can thiệp là 28,9%.
Tăng tỷ lệ phát hiện và điều trị người bệnh sốt rét tại hộ gia đình của nhóm can
thiệp đạt 25%, so nhóm chứng 0%.
Phát hiện và điều trị bệnh nhân sốt rét do giao lưu biên giới: Nhóm can thiệp:
Tỷ lệ mắc sốt rét giảm từ 7,8% xuống 2,6%. So xã chứng hiệu quả can thiệp là
56,5%; p<0,05.
Tăng tỷ lệ người dân thực hành phòng chống sốt rét đúng tại nhóm can
thiệp. Trong đó 81,5% hộ có nằm màn; 91,7% hộ không có nước đọng; 74,4%
hộ dời chuồng gia súc xa nhà: 75% hộ không có bụi rậm quanh nhà: 90% hộ dời
bếp lửa ra ngoài nhà; So với nhóm chứng: Hiệu quả can thiệp là 30,2%.
Phát hiện loài ký sinh trùng sốt rét mới Plasmodium knowlesi, là loài ký
sinh trùng sốt rét thứ 5 trên thế giới, lây từ khỉ sang người ở vùng biên giới của tỉnh
Quảng Trị.
Véc tơ truyền bệnh sốt rét: Trước can thiệp có 18 loài Anophelles, mật độ An
chung 5,0 con/đèn/đêm. Sau can thiệp còn 10 loài, mật độ 0,81 con/đèn/đêm.
Phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới. Tại nhóm can thiệp: Quản lý,
phát hiện, điều trị sớm người Việt Nam qua biên giới và mắc sốt rét: 13,8% bệnh nhân
sốt rét của 2 xã. Điều trị bệnh nhân sốt rét người Lào/số người Lào sang 2 xã: 20,2%.
Phun hoá chất cho 10/10 thôn giáp biên giới của Lào.
KIẾN NGHỊ
1. Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình là có hiệu quả, có tính khả thi và
có thể nhân rộng cho các vùng dịch tễ sốt rét khác có cùng đặc điểm vùng sinh thái ở
biên giới. Cần tổ chức quản lý, giám sát hoạt động mạng lưới y tế xã, YTTB xét
nghiệm và điều trị các trường hợp KSTSR (+) về đến hộ gia đình.
2. Tiếp tục điều tra về tỷ lệ hiện mắc và vai trò gây bệnh của Plasmodium knowlesi tại
tỉnh Quảng Trị.
3. Tiếp tục các nghiên cứu sinh học phân tử, dịch tễ bệnh sốt rét tại tỉnh Quảng
Trị để có thể tìm thêm một số yếu tố liên quan đến bệnh sốt rét, nhất là khi bệnh sốt rét
có đặc thù ở vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi ở biên giới.