Post on 09-Sep-2019
1
Ảnh bìa sách “Trường ca Tiền sử Việt Nam”
2
3
Giới thiệu sách “TRƯỜNG CA TIỀN SỬVIỆT NAM” “TRƯỜNG CA TIỀN SỬVIỆT NAM” [Bàn Cổ Việt Thường - Hồng Bàng thị - Văn Lang Hùng Vương đến thời Hai Bà Trung] của tác giả Đỗ Văn Bình (thành viên của Nhóm sưu tập khảo cứu thời Tiến sử Việt Nam) được biên soạn dưới dạng sử thi, theo thể thơ lục bát viết về thời kỳ dựng Nước Việt Cổ (cách ngày nay hơn 7.000 năm) cho đến Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40~43 sau Công nguyên). Giấy phép xuất bản theo quyết định số:1003-VHTT-KH ngày 28 tháng 7 năm 2014 của Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin với số đăng ký kế hoạch xuất bản in trên ấn phẩm là: ĐKKHXB 1408 – 2014/CXB/23 – 111/VHTT. Mã số sách chuẩn quốc tế : 978-604-50-3512-2 Sách bìa cứng, khuôn khổ (19,5cm x 26 cm), dầy gần 500 trang, giấy tốt; Số lượng in xuất bản lần đầu là 1.000 cuốn; in tại Công ty TNHH MTV in Báo Hà Nội mới (số 35, phố Nhà Chung, Hoàn Kiếm , Hà Nội) Trong ấn phẩm có hơn 600 ảnh tư liệu in mầu (chủ yếu là Ngọc Phả, Tộc Phả, di vật, chứng tích, di tích, Mồ Mả, Đình, Chùa, Đền, Miếu, Quán thờ cúng Tổ Tiên Đất Việt. . . còn lưu dấu đến
4
nay), và đặc biệt là Phần thứ 3 (326 trang) chú giải và giới thiệu các tư liệu, căn cứ và kết quả bước đầu khảo cứu biên soạn nội dung “TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM” Ban biên tập Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin nhận xét như sau: “TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM” của tác giả Đỗ Văn Bình là một thể loại thơ (trường ca lục bát) dựa theo chính sử Việt Nam từ thời dựng nước tới thời Hai Bà Trưng và được bổ sung nhiều tư liệu mới phát triển trong dân gian . Đây là một bộ sách công phu, nghiêm túc ; xuất phát từ lòng yêu Tổ Quốc và Dân Tộc ...” Sách không mang tính thương mại, chủ yếu để bổ sung hồ sơ trình Đảng - Nhà Nước, các cấp, các ngành,các giới và phổ biến trong nhân dân các địa phương để cùng nhau phối hợp - bảo tồn - gìn giứ và minh định những di tích-di vật –di chỉ…; vật thể và phi vật thể liên quan đến thời Tiền sử Việt Nam còn lại đến ngày nay. Sách phát hành được gần một năm và đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi ủng hộ rất tích cực; chúng tôi xin tiếp thu và chân thành cảm ơn tất cả; Do số lượng không đủ đáp ứng và để tiếp tục phổ cập trao đổi rộng rãi hơn; Chúng tôi xin trích giới thiệu 03 phần: Lời nói đầu, Mục lục và phần nội dung thơ của sách “TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM” lên mạng Internet : . . . . . . . . . . . . . . Lần giới thiệu này chúng tôi đưa lên đầy đủ thơ của cả 12 chương (Chương 11: Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt, nhà XB Văn hóa Thông tin chưa cho phép đăng tải vào thời điểm đó) ; Ngoài ra nội dung các chương khác đã có sửa chữa bổ sung hoàn thiện hơn so với sách đã xuất bản lần đầu. Rất mong nhận được nhiều ý kiến trao đổi, góp ý, phản hồi. Xin chân thành cảm ơn tất cả; Mọi người có thể liên hệ trao đổi với chúng tôi qua ĐTD Đ: 0913077099, hoặc qua mail: binhdv51001@gmail.com
5
Trung Tâm Văn Hóa Hội Người Cao Tuổi Việt Nam
Nhóm Sưu Tập Khảo Cứu Thời Tiền Sử
Tác giả: Đỗ Văn Bình - Hà Nội, 2007 - 2014
TRƯỜNG CA
TIỀN SỬ
VIỆT NAM
“Bàn Cổ, Việt Thường - Hồng Bàng Thị
Văn Lang Hùng Vương - Đến Thời Hai Bà Trưng”
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN
6
MỤC LỤC
TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM “BÀN CỔ, VIỆT THƯỜNG - HỒNG BÀNG THỊ
VĂN LANG HÙNG VƯƠNG - ĐẾN THỜI HAI BÀ TRƯNG”
Lời nói đầu
Phần thứ nhất: Nội dung TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM
* Tìm về nơi khởi đầu Cội Nguồn dân tộc Việt
* Chương 1: Địa Mẫu - Đế Thiên Phục Hy - Cực Lạc Quốc - Nước Phật khởi thuỷ
* Chương 2: Nước Viêm Bang - Đế Viêm cùng Hữu Sào - Toại Nhân khai sáng công cụ lao động lần thứ nhất - tăng sức sản xuất xã hội
* Chương 3: Đế Khôi (Đế Thần)mở ra thời đại Thần Nông với Nông nghiệp bản thể căn gốc của mọi sự phát triển nhân sinh
* Chương 4: Từ Đế Tiết - Đế Thừa đến Đế Minh và Tam Toà Đức Chúa Ông - Khởi vận Hồng Bàng, mở mang bờ cõi
* Chương 5: Sa Môn Phật Giáo Việt cổ - Quốc Đạo Nước Xích Quỷ và cách mạng công cụ lần thứ hai - đỉnh cao sức sản xuất xã hội
* Chương 6: Thời đại Kinh Dương Vương - Nối vận Hồng Bàng Thị - mở nước Văn Lang
* Chương 7: Lạc Long Quân - Quốc Mẫu Âu Cơ nối tiếp dòng giống Tiên - Rồng
* Chương 8: Nước Văn Lang trong Thời đại các Vua Hùng
* Chương 9: Lược kể một số huyền thoại, truyện cổ chép trong các ngọc phả và thư tịch về thời Hồng Bàng - Văn Lang
* Chương 10: An Dương Vương và nước Âu Lạc
* Chương 11: Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt
* Chương 12: Hai Bà Trưng Phất cờ khởi nghĩa, khôi phục giang san, Tiếng thơm lừng vang Bách Việt.
* SỐNG KHÔN CHẾT THIÊNG
* MẠCH NGUỒN DÒNG GIỐNG RỒNG TIÊN
* TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM PHẦN KẾT
7
Phần thứ 2: Giới thiệu các Trường ca liên quan
* GIỚI THIỆU SÁCH THƠ: “ LỊCH SỬ NƯỚC TA” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
* GIỚI THIỆU PHẦN MỞ ĐẦU: TRƯỜNG CA “CON NGƯỜI VÀ VŨ TRỤ”
của tác giả Đỗ Văn Bình
Phần thứ 3: Chú giải và giới thiệu các tư liệu và kết quả bước đầu khảo cứu
biên soạn “TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM” * Tìm về nơi khởi đầu Cội Nguồn dân tộc Việt – Việt Thường Thị
* Chương 1: Địa Mẫu - Đế Thiên Phục Hy - Cực Lạc Quốc - Nước Phật khởi thuỷ
* Chương 2: Nước Viêm Bang - Đế Viêm cùng Hữu Sào - Toại Nhân khai sáng công cụ lao động lần thứ nhất - tăng sức sản xuất xã hội
* Chương 3: Đế Khôi (Đế Thần)mở ra thời đại Thần Nông với Nông nghiệp bản thể căn gốc của mọi sự phát triển nhân sinh
* Chương 4: Từ Đế Tiết - Đế Thừa đến Đế Minh và Tam Toà Đức Chúa Ông - Khởi vận Hồng Bàng, mở mang bờ cõi
* Chương 5: Sa Môn Phật Giáo Việt cổ - Quốc Đạo Nước Xích Quỹ và cách mạng công cụ lần thứ hai - đỉnh cao sức sản xuất xã hội
* Chương 6: Thời đại Kinh Dương Vương - Nối vận Hồng Bàng Thị - mở nước Văn Lang
* Chương 7: Lạc Long Quân - Quốc Mẫu Âu Cơ nối tiếp dòng giống Tiên - Rồng
* Chương 8: Nước Văn Lang trong Thời đại các Vua Hùng
* Chương 9: Lược kể một số huyền thoại, truyện cổ chép trong các ngọc phả và thư tịch về thời Hồng Bàng - Văn Lang
* Chương 10: An Dương Vương và nước Âu Lạc
* Chương 11: Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt
* Chương 12: Hai Bà Trưng Phất cờ khởi nghĩa, khôi phục giang san, Tiếng thơm lừng vang Bách Việt.
8
Lời nói đầu: Hàng ngàn năm qua, việc khảo cứu thời tiền sử Việt Nam ta đã được các Tiền Nhân thực hiện và đạt nhiều kết quả; Sang đến 10 năm đầu thế kỷ 21 càng được sáng tỏ hơn do những thành tựu nghiên cứu phát hiện mới từ nhiều ngành khoa học tổng hợp soi chiếu. Tiếp bước quá trình này “Nhóm nghiên cứu thời Tiền sử” của chúng tôi do PGS Triết học Đỗ Tòng chủ trì lại tập trung khảo cứu đưa ra những cái “mới” được biết (tính đến 2011) so với những thành tựu đã có (chủ yếu là Ngọc Phả, Tộc Phả, di vật, chứng tích, di tích, Mồ Mả, Đình Chùa Đền Miếu Quán thờ cúng Tổ Tiên Đất Việt. . . còn lưu dấu đến nay). Trước đó, đã có các nhóm của Ông Lê Túc (sách “Cội Nguồn”); Bùi Văn Nguyên (sách “Việt Nam và cội nguồn trăm Họ”); Vũ Tuấn Doanh (sách “Lịch sử Bách Việt thời đại trước công nguyên”); Đỗ Tòng (các sách “Họ Đỗ Việt Nam” 2 tập và “Suy nghĩ về những khoảng trống trong thời kỳ tiền sử nước ta” ... đã có khảo cứu biên dịch một số trong những cái “mới” đó; nhưng còn thiếu và chưa làm rõ được hệ thống mồ mả - di tích - di chỉ - di vật của Tổ Tiên Đất Việt hơn 7.000 năm trên thực địa còn lại đến ngày nay. Trong quá trình trực tiếp tham gia “Nhóm nghiên cứu thời Tiền sử” sưu tập khảo cứu làm Bộ sách “Những khám phá mới, nhận thức mới về nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh Việt cổ” do PGS Triết học Đỗ Tòng làm chủ biên; chúng tôi đã bắt đầu tiến hành biên khảo “Trường ca Bàn Cổ Việt Thường - Hồng Bàng Thị - Văn Lang Hùng Vương đến thời Hai Bà Trưng” ( gọi tắt là “Trường ca Tiền sử Việt Nam”) bằng thơ lục bát, nhằm giới thiệu tóm tắt bước đầu về Thế - Thứ mạch nguồn Tổ Tiên hơn bảy ngàn năm với bao kỳ tích rực rỡ- hùng tráng và những gì còn lại cho đến ngày nay nêu trong nội dung khám phá và nhận thức mới ở bộ sách trên; coi như thêm một kênh thông tin thể loại “sử thi” công khai để bạn đọc gần xa cùng tiếp tục tìm hiểu khảo cứu thời Tiền sử nước nhà. Và vì vây ở đây chung tôi thành Tâm xin tạ lỗi trước Tổ Tiên Đất Việt linh thiêng đại xá cho sự tự tiện trong việc sử dụng các ngôn từ, danh xưng, danh phong, húy kỵ, tư liệu cá nhân và đánh giá, nhận xét... đã viết ra (dù bất kỳ lý do mục đích nào) trong toàn bộ trường ca Tiền sử Việt Nam này !
Nội dung và phần chú giải dưới đây của Trường ca liên quan đến tiền sử nước ta (ghi hoặc không ghi dẫn nguồn) đều khai thác, chọn lọc, tổng hợp từ bộ sách nói trên và các bộ sách (phả, thư tịch, phả ký, chép sử, các bộ kinh Phật...) đang lưu giữ tại nhà thờ “Triệu Tổ Bách Việt” ở Vân Nội, Phú Lãm, Hà Đông, Hà Nội, được ông Nguyễn Vân Tằng là Trưởng Tộc Họ Nguyễn Vân ( Đường Thượng Nguyên Trưởng - dòng Trưởng Bách Việt) đã dày công biên dịch, chú giải, giới thiệu, cung cấp; đồng thời trong 06 năm liên tiếp (2006- 2011) ông Nguyễn Vân Tằng đã trực tiếp hướng dẫn nhóm nghiên cứu khảo sát thực địa tất cả các khu Mộ và di tích tiền sử được nêu ra trong Trường ca này . Chúng tôi đã tham khảo các cuốn sách: “Lịch sử Bách việt thời đại trước công nguyên” do Vũ Tuấn Doanh biên dịch - năm 2000; “Việt Nam và Cội nguồn trăm Họ” tác giả Bùi Văn Nguyên - NXB khoa học Xã hội - 2000; cuốn “Cội nguồn” do nhóm tìm hiểu cội nguồn của Ông Lê Túc biên dịch trước đây; cuốn “Sự thật gốc tích nước nhà Việt Nam - Tổ Tiên Dân Tộc Việt đời đời rực rỡ”do Ông Tạ Việt Dũng (chuyên viên cao cấp, Nhà nghiên cứu Văn minh Việt Cổ ) chủ biên ( 8/2013);”Đạo thờ Tổ Tiên dân tộc Việt-Tích Trời Tích Đất Sử Nhà” của Trung tâm nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt (11/2013). Ngoài ra còn có rất nhiều đình, chùa, đền, miếu-Mộ, các khu di chỉ - di tích phức hợp khác; với tượng thờ, hoành phi, câu đối, di môn, bia đá, phả Tộc, sắc phong ... các di vật, đồ tuỳ táng ở các di chỉ khảo cổ; các cuốn sách, tư liệu, tài liệu liên quan từ nhiều nguồn - lĩnh vực khác qua các thời kỳ và những truyền thuyết dân gian truyền miệng ở các làng quê còn lưu giữ cho đến tận ngày nay được chúng tôi in thành 03 tập “Album ảnh và bản đồ sưu tầm khảo cứu các di tích tiền sử
9
Việt Nam”, 02 tập “Di chỉ, di vật, cổ vật, trống đồng thời tiền- sơ sử Viêt Nam”và 02 tập “Thời tiền sử Việt Nam và thế giới qua bản đồ” đã giúp chúng tôi tổng hợp, chắt lọc, tóm tắt đưa vào chú giải cho Trường ca này. Chúng tôi đã đọc các bài chuyên khảo, từ nhiều lĩnh vực khác nhau, nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc Việt với nền văn minh Việt cổ trong văn hoá phương Đông và lịch sử nhân loại; được đăng tải trên mạng internet đến thời điểm hiện nay; tham khảo một số tác phẩm dạng sử thi có viết về thời Tiền sử Việt Nam (“Đại Viêt sử thi” quyển I của Hồ Đắc Duy; Bát Quái và Đạo Lý Cổ Việt của TĐ Nguyễn Việt Nho; NHỚ VỀ NGUỒN GỐC VĂN HOÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM Nguyễn Thị Thanh, MD.PhD; Hùng Việt sử ca của Bách Việt 18, diễn thơ dựa trên Sử thuyết HÙNG VIỆT. Sử thi các dân tộc Việt Nam; Đại Nam quốc sử diễn ca - Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái; ...) để mở rộng so sánh đối chiếu biên khảo . Bản Trường ca tiền sử Việt nam dự thảo lần thứ 3 đã được đọc trước “Nhóm nghiên cứu thời Tiền sử VN”, xin ý kiến trực tiếp của các ông PGS Đỗ Tòng, ông Nguyễn Vân Tằng, ông Tạ Việt Dũng, ông Nguyễn Mạnh Can và ông Trương Công Thụ (nguyên Giám đốc Sở Văn hoá Thông tin Thanh Hoá)... được tiếp tục nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung; đến 2013 mới chốt nội dung để trình Tổ Tiên Đất Việt linh thiêng soi xét; sau đó cùng các nhà ngoại cảm Tạ Việt Dũng hiện là Trưởng Nhóm Sưu Tập Khảo Cứu
Thời Tiền Sử (chuyên viên cao cấp, Nhà nghiên cứu Văn minh Việt Cổ ), Nguyễn Văn Liên (Cư sĩ Làng Vân là Con Trưởng Ông Nguyễn Vân Tằng- Trưởng Tộc Họ Nguyễn Vân kế thừa Đường Thượng Nguyên trưởng“Thiệu Tổ Bách Việt”) và Tiến sỹ Lã Duy Lan hiệu đính thống nhất hoàn chỉnh đến mức như hiện nay. Nhân dịp “Trường ca Tiền sử Việt Nam” ra mắt lần đầu chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ dẫn, góp ý tận tình của các Ông-Bà nói trên; cảm ơn tất cả các nhà nghiên cứu - khảo cứu - biên dịch ... đi trước tạo nên thành tựu giúp chúng tôi rộng đường nhận thức; cảm ơn các vị Thủ từ; các Sư, Thầy ... trông giữ các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Mộ, Quán,di tích, di chỉ, di vật cùng những người liên quan khác;cảm ơn gia dình, họ tộc nội ngoại và đặc biệt cảm ơn vợ và hai con của tôi đã hỗ trợ, giúp đỡ chúng tôi trong quá trình sưu tập khảo cứu làm các Bộ sách “Những khám phá mới, nhận thức mới về nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh Việt cổ”, ”Sự thật gốc tích nước nhà Việt Nam - Tổ Tiên dân tộc Việt đời đời rực rỡ” và Trường ca Tiền sử Việt Nam này .
Được biên soạn ra trên cơ sở khảo cứu nhiều năm các di sản vật thể và phi vật thể còn lại đến
ngày nay (trong 7 năm lại đây một số di tích di vật năm trước còn năm sau đã bị mất bởi nhiều
lý do); chúng tôi vô cùng lo lắng trước thực trạng di sản vẫn đang tiếp tục bị hủy hoại, biến
dạng ... khiến cho sự minh định giải mã thiếu đi một số cơ sở thực tế. Trong hai thời kỳ nước ta
bị đô hộ; Tiên Hiền Đất Việt đã phải tìm mọi cách che giấu nguỵ trang đánh lạc hướng hoặc chủ
động cho chuyển đi nơi khác để bảo toàn các di sản văn hóa lịch sử dân tộc Việt, khiến kẻ thù
không thể biết để triệt phá hết được (mặc dù chúng đã thực hiện “phá nhầm còn hơn bỏ
sót”);Giặc ngoại xâm và lũ bán nước cầu vinh không những triệt phá, tước đoạt, đánh tráo, bôi
nhọ mà còn chủ động dàn dựng tạo nên mọi cái có thể theo mưu đồ của chúng để làm tê liệt ý
chí quật cường tinh thần dân tộcViệt, để chúng dễ bề cai trị. Việc này dẫn đến ngày nay đã có
nhiều sự nhầm lẫn ngộ nhận gây ra những sai lầm đáng tiếc (ví dụ như Trung tâm kinh đô
Phong Châu của thời kỳ Hồng Bàng-Văn Lang (2882 năm) có rất nhiều dấu hiệu, căn cứ xác
quyết là ở Hà Đông - Thanh Oai, Hà Nội, thì hiện vẫn đang cho là Khu vực Đền Hùng-Việt Trì,
Phú Thọ). Tất nhiên là Tiên Hiền Đất Việt cũng để lại nhiều đầu mối và mã khóa tàng thư ... bí
mật chỉ dẫn trao truyền qua nhiều thế hệ để đời sau tìm đến đúng sự thật; Vậy nên sẽ có nhiều
10
kiến giải từ các nguồn khác nhau cho một vấn đề mà cái nào cũng đều có căn cứ “cơ sở” cả!?;
thành ra phải biết lắng nghe nhau, đừng kỳ thị, phải thành Tâm, tin tưởng Tổ Tiên Đất Việt Anh
Hào Rực Rỡ mà bền bỉ, kiên trì, công Tâm, bác ái, đoàn kết hướng Thiện mở rộng Tâm Thức mà
cùng nhau tìm về mới mong minh định và thống nhất được..
Chúng tôi cũng xin mạn phép đưa nội dung cuốn “Lịch sử nước ta” do Việt Minh tuyên
truyền bộ xuất bản (quyển số 5) tháng 02 năm 1942 bằng thơ lục bát nối vào giai đoạn sau để
độc giả tiện theo dõi toàn bộ lịch sử nước nhà.. Trường ca Tiền sử Việt Nam ra mắt lần này
tính nghệ thuật sử thi còn thấp, nặng về xúc cảm, kể lể, do cố gắng ghép nối để biểu đạt được ý
niệm dòng chảy mạch nguồn thế thứ liên tục theo thời gian. Các nhân vật tiền sử đưa ra với
nhiều tên khác nhau (kể cả khác nhau do dịch thuật) đều có căn cứ ghi chép để lại; nhưng để tiện
gieo vần ghép vận mà nhiều chổ chưa thể hiện rõ được cái nào có trước cái nào có sau, đâu là
danh xưng, đâu là phong tặng hoặc thần thoại hóa lên... Sự kiện thành tựu, tinh hoa đặc tả bằng
ngôn từ chưa thật đắt và đắc địa lại bị mang nội hàm “hiện đại”; điển tích , điển cố đời sau lại
dùng biểu đạt chuyện đời trước;một số ảnh-bản đồ dùng minh họa hoặc tham khảo tự lấy trên
mạng internet .v.v. Tất cả là do chúng tôi chỉ mới tập trung cung cấp và truyền tải những nội dung
thông tin tổng hợp và sử liệu mới; lại không phải là nhà chuyên môn, chưa có nhiều kinh nghiệm
viết lách soạn ra nên còn có nhiều bất cập khiên cưỡng và sỏi sạn; Chúng tôi cũng mạnh dạn xin
giới thiệu thêm một đoạn mở đầu: “Trường ca Con Người và Vũ Trụ” của tác giả Đỗ Văn Bình
tổng hợp từ trong Tri thức cổ xưa của Tiên Hiền Đất Việt +các thông điệp mới trao truyền tiên báo
giai đoạn chuyển đổi hiện nay; đang được soạn thảo dự định đưa vào nội dung xuất bản lần hai.
Với tấm lòng chân thành, chúng tôi xin phép trình bày trước những điều trên ngõ hầu đạt được
sự cảm thông, chia sẻ, luận bàn góp ý để lần xuất bản sau được tốt hơn. Đặc biệt cuốn sách này
(nhất là nội dung phần chú giải) chắc chắn còn nhiều sai sót, trùng lặp, thiếu nhất quán và có
các vấn đề tồn nghi cần tiếp tục được minh định; vì vậy chúng tôi rất mong được sự quan tâm
luận bàn, góp ý, phê bình, đóng góp, sửa đổi, bổ sung của quí vị, để cùng nhau tìm về đúng C ộ i
N g u ồ n D â n T ộ c V i ệ t - Sự Thật Hoành Tráng- Huy Hoàng của Thời Tiền Sử Việt Nam và
các vấn đề liên quan.
Thành kính dâng lên “Trường ca Tiền sử Việt Nam” nén Tâm Hương mộc
mạc tri ân Tổ Tiên Đất Việt !
Phúc Lành Anh Linh Tiên Tổ Cội Nguồn Dân Tộc Việt muôn đời toả sáng
và mãi mãi Trường Tồn !!!
Xin chân thành Tạ ơn tất cả ! Hà Nội, tháng 05 năm 2014 (Giáp Ngọ)
Tác giả biên soạn Trường ca:
Đỗ Văn Bình
11
TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM “BÀN CỔ, VIỆT THƯỜNG - HỒNG BÀNG THỊ
VĂN LANG HÙNG VƯƠNG - ĐẾN THỜI HAI BÀ TRƯNG”
Phần thứ nhất: Nội dung TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM
*Tìm về nơi khởi đầu Cội Nguồn dân tộc Việt
Cây có Gốc - Nước có Nguồn Con Người phải có Tổ Tôn giống nòi
Nhân sinh Thiên - Địa ngẫm soi Cây mất gốc rễ, lộc chồi nẩy không ?
Sông dài, biển rộng mênh mông Nguồn mà cạn Nước, biển-sông có còn ?
Xưa nay hậu duệ cháu con Tìm Tông vấn Tổ sắt son “Đạo Nhà”*
* Đạo giữ gìn Mồ Mả và thờ cúng Tổ Tiên
Mạch nguồn cội rễ dân ta Bao đời tuôn chảy gần xa khắp miền
Tìm lại gốc gác Tổ Tiên Hồn quê - Hồn Nước linh thiêng nẻo về
Thành Tâm hướng Thiện xóa Mê Một lòng con cháu tìm về Cội Xưa
Ngoại xâm triệt phá, dối lừa Xuyên tạc, đánh tráo, dẫn đưa sai đường
Hai kỳ đô hộ bi thương Bao lần chuyển đổi cương thường Triều ca
Đúng sai Lịch sử Nước Nhà ? Bốn ngàn năm lẻ hay là vạn năm ?
Rồng - Tiên dòng giống thăng trầm ? Trời Nam mở Nước, Thiện Tâm Nhân Hoà
Hỏi đâu trong cõi Sa Bà*
Cát lầm dâu bể vẫn là sáng trong Lạc Hồng huyết mạch ghi lòng
12
Vẫn là vấn Tổ tìm Tông tỏ bày Kể từ dựng nước tới nay
Ngọt bùi, mặn nhạt, đắng cay vô thường Về Nguồn ngàn vạn con đường
Tiền nhân lớp lớp minh tường thấp cao Tổ Tiên - Dân Việt anh hào
Cháu con đông đúc, lẽ nào dám quyên Nay cơ vận đến diệu huyền
Thiên - Địa - Nhân hội đủ Duyên tỏ tường Đồng Tâm - Trí - Lực mười phương Rõ ra Đức Tổ - Công Tôn bao đời
Hồn thiêng sông núi biển trời Đúc hun, lưu giữ đến thời mở ra Mạch nguồn Tiền Sử Nước Nhà Ẩn trong dân dã để mà đến Duyên
“Cơ sở nhi tri giả” 1.4* tuyên:
( : Cơ sở - nền tảng - nguồn gốc Tổ Tiên xưa để lại)
“Bách Việt Ngọc phả mật truyền Tâm thư” 1.5*
“Cổ Lôi Ngọc Phả” 1.6* cũng như Phổ Đường Nguyễn Tộc Thánh Từ 1.7* còn đây
Chú giải cổ sử đủ đầy “Thánh, Thần, Tiên, Phật” nơi này “Phong Châu”
Bách Việt Thiệu Tổ nhiệm mầu “Đường Thượng Nguyên Trưởng” cao sâu 1.8* vẫn còn ...
Huyền thoại - cổ tích Nước non Ẩn tàng gửi lại cháu con nối dài
Truyền thừa mật ngữ hậu lai Bách Việt Thiệu Tổ 1.9* Nguyên khai huy hoàng ...
13
Chuyện rằng từ thuở Hồng Hoang Vũ Trụ - vô cực, hỗn mang khôn lường
Đến khi Trái Đất định phương Cân bằng động, Hệ Thái Dương qui tàng
Địa cầu nhẫn nại cưu mang Chúng sinh chung sống muôn vàn yêu thương
Thiên - Địa - Nhân, chuyển Vô thường “Đổi cực” 1.9*, “Hồng Thủy” 1.10*, tai ương bao lần
Sinh Linh ba cõi trầm luân Hoà đồng - tương hợp - tự thân giữ mình
Loài người bốn Kỷ quần sinh 1.11*
Trải bao biến đổi chuyển mình đi lên … Đông Nam Á cổ, một miền
Người xưa đã mấy vạn niên ở rồi
Cộng đồng “Bách Việt” 2.1* (百 粵?) một thời
Nối dòng Việt gốc, giữ nòi giống xưa “... Phả ghi: Hơn vạn năm thừa
Ba Vì - Tây Vực 2.2* Người xưa đi về Tản Viên Núi Tổ gốc quê
Biển lùi - Biển tiến 2.3* sơn khê vô thường Nước rút mở rộng quê hương
Dựa sườn đồi, núi mở đường vươn xa ... Bấy giờ người Việt cổ ta
Lôi Bàng - sông Tích 3* lập gia ở rồi
Đá ong - “Thạch Thất” 4* nhà đồi Bình An5* gốc cổ là Nôi “Việt Thừng” 6* (Việt Thường 粤 常)*
Chùa Long Vân 7* vẫn khói hương
Vân Lôi 8* đền cũ tỏ tường dấu xưa Vạn niên mộ cổ - giếng chùa 9*
Đôi tượng voi đá ong 10* xưa vẫn còn ... Nắng mưa chẳng nhạt lòng son
Đình xây ngói đỏ, đa tròn bóng xanh Mạch nguồn giữ mãi trong lành
Làng quê phồn thịnh yên lành nên thơ
14
“Ông Bàn Cổ” (“Ông Tứ Tượng”) 11* dân vẫn thờ Từ trong tâm thức tỏ mờ uyên nguyên12 *
Hẳn rằng vạn cổ hữu duyên
“ĐẾ VƯƠNG LỊCH ĐẠI”13*vĩnh truyền đến nay
Bình Yên 5 * vùng đất xứ này “Cảnh Tiên” 14* Mộ Tổ, nơi đây cội nguồn
[Mộ Ngài “Nguyên Thuỷ Thiên Tôn”
Vạn năm lẻ vẫn trường tồn nước non] Chung quanh trăm (100) đống - gò con
Ẩn tàng cốt tích Tổ Tôn cùng thời ...
Để bí mật truyền đời con cháu Tích [ “Lôi Bàng” lưu dấu đồi cây:15*
…“ Bàng Tinh xưa loạn nơi đây Trăm (100) con phá phách, đất này chẳng an
Lạc Long Quân đến dẹp tan Xác chúng Hóa hết, lấp san đồi gò ...”
Truyền nhau bảo vệ chăm lo Cảnh Tiên Đền Tổ, giữ cho muôn đời ...”] 16*. . .
Chương 1: Địa Mẫu - Đế Thiên Phục Hy Cực Lạc Quốc - Nước Phật khởi thuỷ -
Bảy ngàn (7.000) năm trước đổi dời
Chuyển sang Cần Kiệm 17* gặp thời mở mang Buổi đầu Chủ Mẫu 18* đảm đang
Khai sơn phá thạch, sửa hang làm nhà Động đá cổ - dưới gốc đa
Mộ - Đền Địa Mẫu 19* nơi Bà ở xưa Đồi Cực Lạc 20* trải sớm trưa
Che hang, chắn gió, tránh mưa, một thời Mở mang Đế Nghiệp nối đời
Tích xưa “Đội đá vá trời” 21* nơi đây
“Nữ Oa” khăn vấn tóc mây Lỗ hang làm Ổ, dạn dày mưu sinh
15
“Nguyên Thiên Tôn Bà” đăng trình “Tây Vương Mẫu” - Đạo quang minh diệu huyền
“Địa Mẫu Chân Kinh” lưu truyền Đạo hoằng khai mở mọi miền cõi dương
Tam nhật Mậu nén Tâm hương Hư Không Địa Mẫu 22* mười phương An lành …
Tiếp sau Cực Lạc nổi danh Địa Linh - Nhân Kiệt quần anh trong ngoài
“Đế Hoà” 23* xuất chúng thiên tài Phục Hy Đại Đế 24* là Ngài hoằng dương
Cỏ cây bện, tết y thường
“Việt Thừng” 25*(Việt Thường 粤 常) là gốc, tỏ tường dân ta “Thuỷ Tổ nghề lúa nước nhà
Hoà Hy: họ Lúa - cây Đa tích này” 26* Bát Quẻ 27a* vạch - Cửu Cung 27b* xây
Lục Kinh 27c* - Đạo Dịch 28 * của Thầy Phục Hy Minh Triết Việt gốc truyền đi
Thiên - Địa - Nhân, nhất thể vi thái hoà Muôn năm đơm nụ nở hoa
Công lao Khai sáng Ông - Bà, Thánh - Tiên” 29 *
‘Thiên Không Giáo Chủ - Đế Thiên Hư Không Giáo Chủ, lưu truyền đến nay’ 30*
‘Trời cao sánh với Đất dày “Vuông - Tròn” * Đạo Dịch gốc đây “Ông - Bà”
* Lí - Li 31*, chồng - vợ giao hoà Âm - Dương, Thái Cực * một mà là hai’ 32*
Đền Thiên Cổ * ẩn thờ Ngài Hy Sơn Miếu Tổ * hương đài núi mây
“Tây Phương cổ tự” * xưa nay 33* Kim Long - Cực Lạc, vùng này Địa linh
Lôi Bàng gốc tích phát sinh Tây Vực tuệ giác định hình nghiệm ra
Mênh mông trời đất bao la Núi chầu - sông tụ, gần xa yên lành
16
Tản Viên sừng sững vây thành Suối nguồn, sông Tích, uốn quanh dáng Rồng 34*
“Tây Phương - Cực Lạc - Kim Long35” * Núi đồi lớp lớp xa trông chầu về
Thanh Long - Bạch Hổ lưỡng thê 36* Hai bên che chở, án về Sài Sơn 37*
Ngũ hành luân chuyển, vuông - tròn Bốn phương - tám hướng nước non qui về
Đất - Trời hoà quyện sơn khê [72 Bộ tộc 38 * một quê giao hoà
‘Việt Thừng*(Việt Thường粤 常), Tây Vực Tổ ta’ 39* Hoà đồng “Bách Việt”* rộng xa mọi miền
“Trăm bộ Chúa núi” - bình yên
Dân khang vật thịnh, khắp miền âu ca] Trong “Thần Độc Cước” 40* hiếu hoà
Ngoài “Phật Di Đà” 41a * giáo hoá chúng sinh “Đế Thính” 42* bảo vệ dân mình
“Đức Thiên Tôn” 41b * thấu Nghĩa Tình: Từ Bi Bao năm hương khói tụng trì
A Di Đà Phật! nhớ ghi tâm lòng Tây Phương - Cực lạc - Kim Long
Ba ngôi cổ tự bên trong vẫn thờ Tây Phương - chùa Thượng đến giờ Đôi câu đối chẳng phai mờ còn kia:
“Điếm thất truyền Kinh ngưng thử Địa
Tây Phương hữu Phật tín tư sơn” Hậu lai ghi nhớ công ơn
Tháng tư ngày sóc (1/4 âl), Hy Sơn giỗ Ngài Mộ phần Bảo Tháp, Bia cài
Tây Phương – Cực Lạc, lâu dài linh thiêng Phục Hy Đại Đế mối giềng
Muôn sau vẫn vững như Kiềng chẳng sai Tháng mười ngày thứ mười hai (12/10 âl)
Tổ Bà hiển hóa, linh bài: Diệu Vân Câu Lậu sơn đỉnh phong trần
17
Bảy ngàn năm vẫn tri ân Đạo Nhà Mộ Thần Độc Cước tại gia
Trên đồi Cực Lạc nền nhà chùa xây Ông Tứ Tượng Miếu - Mộ đây
Kim Long sang, phía bên này bờ sông Mộ phần Đế Thính đồi trong43*
Tây Phương - Cực Lạc - Kim Long tụ về
Bao ngàn năm một miền quê’ 44*
[Nước Phật khởi thuỷ , sơn khê non bồng
Sắc - không, không sắc - sắc không A Di Đà Phật! niệm trong Ngân Hà
Thái Cực 45* - Ba cõi gần xa Tây Phương - Cực Lạc vẫn là hồn quê
Tử sinh tâm thức đi về Cõi Người bọt sóng bến mê vô thường
Thiện nghiệp tiếp dẫn mười phương Kiên tâm chính niệm mở đường siêu linh
Tây Phương Cực Lạc vãng sinh A Di Đà Phật giảng Kinh Niết Bàn …] 46*
Chương 2: Nước Viêm Bang Đế Viêm cùng Hữu Sào - Toại Nhân
khai sáng công cụ lao động lần thứ nhất-tăng sức sản xuất xã hội
Đế Viêm47* nối nghiệp giang san [Mở nhiều đột phá nhân gian lưu truyền
Dùi gỗ tạo lửa đầu tiên Là “Toại Nhân” đó Thánh Hiền sáng tâm
“Hữu Sào”* sào lỗ* cho dân Nhà trên cây nữa, giữ thân nối đời
Đóng xe, thuyền đi các nơi Đồ Vật thông dụng cử người lo chung
Luyện đất - đá, tạo lửa nung Công cụ thạch khí, đồ dùng gốm thô
Tập trung lớn ở cố Đô
18
Mở mang phát triển cơ đồ khắp nơi] 48* [Quốc Oai đô hội một thời
Hoàng Xá động - xưởng, cứu đời còn đây] 49* Đế Viêm* + “Hoả Đức Tiên” 50* xây
Viêm Bang no đủ, ơn dầy chẳng quyên
Hữu Sào + Toại Nhân Thánh Tiên
Mở nền Kỷ, Nghệ lưu truyền rộng xa
Lửa thiêng biến đổi mọi nhà
Ngàn sau nhân loại ai mà dám quyên ...
*** Bấy giờ đệ tử “Hiến Viên” 51a*
Họ Hoàng, quê gốc ở miền Sơn Tây Theo Đế Viêm học nghệ 51b* hay
Ham nghề, hiếu học - người này trí cơ Trong ngoài tin tưởng ai ngờ
Hiến Viên đã tính trở cờ lâu nay
[Thấy Đế 47* già yếu, mưu bày
Cướp Ngôi thoán nghịch định gây cơ đồ “Hữu Sào”+ “Toại Nhân” hồi Đô *
Hiến Viên* hoảng sợ “giương cờ Đế Viêm”* “Tuần du phương Bắc viễn biên!” *
Nên đi thoát được; đến miền Thiểm Tây47* Đế Viêm mất tại nơi này] 52*
Người nằm đâu? hỡi Đất dày Trời cao ! ? [Vân du Hồn Đế lên cao
Cổ Nam về Tổ, nhập vào Động thiêng ‘Mây vàng’ Hoàng Xá sơn miên
Ba ngày vẫn phủ đỉnh Thiên non bồng Đền Mộ vọng, trước Cửa Đông
Khói hương tưởng nhớ, dằn lòng nguôi ngoai?! . . .] 53* Tháng tư mồng bốn (4/4 âl) giỗ Ngài
Sâu trong Tâm thức, Hương Đài lưu danh... Hoàng Hậu sau đến Phượng Thành Ở cùng con Cả, đất lành dựng xây...
19
Kể tiếp Cố Đô nơi đây “Chùa Vàng” dựa núi nơi này chẳng sai
[Hoàng Kim tự * - Cổ Phật đài Có tượng Viêm Đế thờ Ngài anh linh “...Về sau “Tam Tạng thỉnh Kinh”
Qua đây lễ để đăng trình Tây Phương...”* Trải bao biến đổi vô thường
Chùa Vàng* còn đó, tỏ tường chuyện xưa . . .] 54* [Sài Sơn 34* dầu dãi nắng mưa
“Thiên Phúc tự”* với hồ xưa, thuỷ Đình * Nơi đây giáo hoá nhân sinh
Ba năm tu học thoát mình lập gia
Lạc Hầu, Lạc Tướng của ta Muốn làm quan, vẫn phải qua lệ này…] 55*
Cực Lạc - Hoàng Xá - Chùa Thầy
Thuở ấy luôn tụ đủ đầy quần anh Một vùng non nước như tranh
Quốc Oai 49* xưa chính Đô thành “Viêm Bang” 56*…
Chương 3: Đế Khôi (Đế Thần) mở ra thời đại Vua Thần Nông với Nông nghiệp bản
thể - căn gốc của mọi sự phát triển nhân sinh
Thăng trầm là cõi nhân gian Những năm sau nữa, phía Nam chuyển dời
Tiên Lữ - Đình Sở 57*- đất trời Phụng Châu 58* linh địa, một thời dân đông
Thần Nông 59* nối tiếp cha ông Vô Vi tự 60*, chùa Tiên Rồng 61* là đây Trầm Sơn 62*, chùa động 63* bên này
Bên kia Thổ Ngoã 64* sau này “Trăm gian” 65a*. . . Thần Nông khi nhỏ chẳng an
Cha bị phản; Mẹ nguy nan khôn lường Chợ Rồng Đất65 b*, chốn náu nương
Hữu Sào cùng Vợ yêu thương nuôi Ngài
20
Lớn lên nối nghiệp chí trai Trăm bộ Chúa núi, phò Ngài tiến công
Đuổi Hiến Viên, định non sông Lập nên thời đại Thần Nông huy hoàng “Thổ Long”- Trung Vực65c * nhìn sang
Còn gò-Miếu, với ruộng làng Thần Nông Khu Mộ - Miếu cạnh bờ sông
Hữu Sào yên nghỉ + cộng đồng tư gia
Đình - Đền thờ nữa, chẳng xa Bên kia bờ rạch, nhìn ra sông này
Bộ Vũ Ninh65 d* ấy đến nay Đổi thành Chương Mỹ65 e *, vẫn đây thôn làng ...
Đế Thần 66* mộ giữa đồng quang “Cây Hoàng Anh” 67* toả lọng vàng chở che
Núi, đồi, sông, rạch chầu về Giữ “Mả Ông Kép” 68* nhạc quê yên bình
Mộ “Lão Long Cát” 69* đinh ninh
Cũng gần bên đó, nghĩa tình sóng đôi 70* Thầy Cha, Thầy cả con rồi
“Vô Vi tự” đấy là Nôi học hành Kể rằng: Nguồn cội lưu danh
Nơi đây chùa Đọ 71* đất lành bình yên Mộ Phật Mẫu -“Thích Quyền Quyền” 72*
Mẹ Đế Thần, vẫn an nhiên giữa Trời “Ân Quang Tháp”73* đá truyền đời
Tháng tư mồng một (1/4 âl) giỗ Người thiên thu ... Mạch Núi ấy còn nơi khí tụ
Cây xum xuê tán rủ tháng năm Đồi Thổ Ngõa 74* Tổ Mẫu nằm
Giữa làng “Tiên Lữ” 75* bao năm vơi đầy
Vợ Cả Thần Nông Mộ đây Hai chín tháng chín (29/9 âl) hóa ngày khói hương
Trải bao dâu bể vô thường Dòng Đế Thần 76*vẫn Triều Cương nối dài . . .
21
“Tịch Điền” 77* lễ trọng chẳng sai “Văn minh lúa nước” * thờ Ngài Thần Nông
Từ xa xưa - Lễ xuống đồng Mà nay vẫn giữ, giống dòng Việt ta
Phương Nam bầu trời bao la “Sao Thần Nông” 78* ngự, giúp ta định thời
Chiêm - mùa phát triển nơi nơi Nền Nông nghiệp gốc, muôn đời âu ca
“Thần Nông bản thảo kinh” 79* nhà Luyện thuốc chữa bệnh, bôn ba cứu người
Nếm lá, tìm ra chè tươi Nay thành trà uống - công Người đầu tiên
Thuốc Nam 80*, “Trà Đạo” 81* - Tiên - Hiền
Gốc Thần Nông đó lưu truyền đến nay
“Chùa Trầm Hang” đó, xưa đây Giữa Kinh Đô Cổ 82a* đến nay vẫn còn
Mồng một tháng sáu (1/6 âl), dấu son Là ngày Ngài (Thần Nông) hoá, Phả còn khắc ghi
“Chính Nhân Minh Sứ”82b* trị vì Ngàn sau Bia miệng truyền đi chẳng mòn
Đế Thần - rạng rỡ nước non Thời Thần Nông ấy vàng son muôn đời . . .
Chương 4 : Từ Đế Tiết - Đế Thừa
đến Đế Minh và Tam Toà Đức Chúa Ông Khởi vận Hồng Bàng, mở mang bờ cõi.
Mạch nguồn tiếp nối chẳng ngơi Nghiệp Cha: Đế Tiết 83* xây đời vinh quang
Cùng em trai mở rộng sang Qua Chu Diên 84*, nhánh Hát giang đấy rồi
Đất Tương 85* đầm phá, bãi bồi Trị thuỷ ngăn mặn, gò đồi mở mang
22
Công Người khai khẩn đất hoang Tôn Đức Thánh Cả - Thành Hoàng làng “Đôi” 86*
Con trai không có truyền ngôi Chuyển em kế nghiệp tiếp rồi mở mang
Đế Thừa 87* phát triển vinh quang
Sở Minh Công 88* chỉ gốc làng Sở (楚) xưa Mộ phần Đế Tiết (Thánh Kỳ) nắng mưa Hoa Vàng Thuần Lãm, nay chưa xây gì !?
Đế Thừa hai (2) Vợ - Phả ghi Tiên Châu khu Mộ, giờ thì còn đâu ?!
Trường học, cột điện lấn đầu Hai khu Mộ ấy tầng sâu vẫn còn ...
Dân Thuần Lãm (Phú Lãm) vẫn sắt son Tháng Giêng mồng chín (09/01) lễ tròn cả hai*
Đại Tế Lễ, đám rước dài
Mở mang bờ cõi, Đức - Tài dấu in Nơi đây sâu lắng niềm tin
Đền - Chùa vẫn đó uy nghiêm phụng thờ Thánh Kỳ - Thánh Hai 90* chuyển cơ Để con cháu mở cõi bờ mênh mông ...
* * * Ba con của Sở Minh Công
Nghi Nhân - Minh Khiết - cặp Rồng sinh đôi Nguyễn Long Cảnh nữa út rồi 91*
Tam hùng hào kiệt đến hồi định minh Đông -Tây chẳng sợ Nghê, Kình
Bắc - Nam phát triển, nước mình an bang Ba Ngài giúp Cha mở mang
Hồng Bàng đến vận ẩn tàng sinh sôi “Đế Minh” 92* anh Cả nối ngôi
“Đế Nghi” - “Cổ Bắc” đôi hồi lại qua 93* “Ba Công Long” gắng phò Vua 94* Yên bình thuở ấy bốn mùa núi sông
“Bách Việt Thiệu Tổ” 95* giống dòng
23
Tôn Vinh “Tam Phủ Công Đồng” 96* nước ta [“Định Công” - có “chùa Liên Hoa” Đế Minh phần mộ chính là nơi đây
“Khương Đình”, quê vợ hai xây Đất vườn Chùa cổ - khu này Mộ Vua] 97*
“Thái Khương Công Pháp” chẳng thua Là “Phong Lôi trận” kế thừa về sau ...
“Phúc Đình” tên tự nhiệm màu
Thờ “Phúc-Lộc-Thọ”** chữ đầu là đây
Ba Vương: “Xích Quỹ” thời này
“Minh Khiết Dực Thánh” đến nay vẫn thờ ... “Nghi Nhân” đảm lược trí cơ
Mở mang phía Bắc cõi bờ dài lâu
Cổ Bắc Đế Nghi mở đầu Làm Vua nước Sở - Ô Châu*, ít về 98*
Đế Lai con Cả hồi quê 99*
[Đế Ai là cháu, cận kề nôi ngôi Nhánh Đế Nghi cũng luân hồi
“Cổ Bắc” truyền nối, lâu rồi thành quê “Sở Hùng Thông* dựng sơn khê
Xuân Thu chiến quốc nghĩ về lương dân” Rồi Lão Lai tử* Hiền nhân...
Vẫn dòng dõi ấy nay lần về đâu? Tiên Hiền Bách Việt cơ cầu
Cổ Nam - Cổ Bắc ai sầu chuyện xưa
Thăng trầm trải mấy nắng mưa Muôn đời ghi nhớ Người xưa Tiên Hiền ...
Còn “Nam Thiên Vương” 101* Phả biên
“Đại Lý Vương Quốc” an nhiên Chúa vùng Tự nhập “Xích Quỷ” lo chung
Thái Sư - thao lược tận trung Nước nhà “Công - Chính - Nghiêm - Minh” hùng ca
Vững bền non Nước Phúc Nhà Tổ Tiên Một đời Vua Sáng - Tôi Hiền
24
Vợ Cả, La Nội mộ yên khu Đền
Ba trai đều bậc Tiên Hiền “Ngài” (Nguyễn Long Cảnh) về qui ẩn ở miền đầm, ao
Thanh Trì Đất rộng - Trời cao Sông Tô uốn lượn hoà vào Nhuệ giang
Xuôi về Đại Áng phía Nam Mộ - Đền Cổ Nguyệt (Nguyệt Áng) 102a* ở làng, cửa Tây
Thờ Nguyễn Long Cảnh nơi này Lý Lang Công Đại Vương 102 b* đây lưu truyền ...
Ngàn sau Bia - Phả không quyên Tượng Ba Ngài* ngự các Đền suy tôn
Trải bao bĩ thái Càn - Khôn “Tam Giới Thiên Chúa”103 a* Quốc hồn “Thượng Tiên”
Mười hai, tháng hai (12/2 âl) thường niên Các Đền tế lễ, lưu truyền đến nay
Hai mươi tháng hai (20/2 âl): Đản ngày “Tam Toà Đức Chúa Ông”103 b* đây trường tồn ...
Chương 5: Sa Môn Phật Giáo Việt cổ Quốc Đạo Nước Xích Quỷ và cách mạng công cụ lần thứ
hai - đỉnh cao sức sản xuất xã hội
Trở lại thời ấy mạch nguồn Cha truyền con nối sắt son định rồi
Đế Minh khi mới ở ngôi Có vợ chính thất, tên Người “Ngoan Nguy” 104*
Dòng “Thần Long Đỗ” 105* ân - uy “Vân Lôi” 106* quê gốc, thiên di Tây Hồ
Nghi Tàm - Xuân Đỉnh điểm tô Nông - Ngư phát triển Ngõa Hồ lâu nay
Đạo sinh Tạo Hóa sắp bày Khuê Thư Nguyễn Đỗ, đến ngày chuyển cơ
Duyên Trời kết tóc xe tơ Sao Ông Nguyệt Lão lập lờ anh - em? ! 107*
Lòng ngay gửi chốn cửa Thiền
25
Trung trinh hướng thiện, dẫu duyên bẽ bàng Nguyễn Minh Khiết - Đỗ Đoan Trang 108* Ông - Bà sinh một Hoàng nam khác người
Nguyễn Quảng - Lộc Tục 109* ra đời Tiết rằm tháng tám (15/8 âl)* sáng ngời ánh trăng
Gió Thu nâng cánh Chim Bằng
Đung đưa trái bưởi tròn căng , trĩu cành
Động Tiên núi đá mây xanh *Ngày sinh 15/8 âl là theo sưu tầm khảo cứu của Tiến sĩ Lã Duy Lan
[Hai mươi ngày Đản, rạng ngời tháng hai (20/2 âl) Khí Xuân dung dưỡng Anh Tài
Đi qua rét lộc, rét đài vẫn xanh
Động Tiên 200* núi đá mây lành
*Ngày sinh 20/02 âl là theo biên dịch của dịch giả Hà Khắc Khoan…] Tuổi thơ nhuần thấm Đạo hành Thiện Duyên ...
Mẹ cùng các Cậu quan chiêm Cửa Thiền Khai Ngộ một miền Linh Quang
Gốc từ “Đạo Dịch” ánh vàng Nâng tầm Tuệ Giác Pháp Đàn độ sinh
Sa Môn Phật Giáo Việt 201* mình Sa Bà Giáo Chủ 202* đăng trình từ đây
Phú Lão-Lạc Thủy Duyên may Hoà Bình gốc cổ nơi này truyền xa
Xưa đến nay niệm Phật Bà Bồ Tát Hương Vân Cái 203* - dân ta theo Người ... [Bài khai Hương/tán lư hương trong các kinh điển Phật Giáo :
“Lô hương sạ nhiệt Pháp giới mông huân
Chư Phật hải hội tất giao vân Truy xứ kết tường vân Thành ý phương ân
Tri Phật hiện toàn thân”
“Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha tát” ! (3 lần) ] 204*
Niệm chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết Đế ! Yết Đế ! Ba La Yết Đế ! Ba La Tăng Yết Đế !Bồ Đề Sa Bà Ha ! Ma Ha Bát Nhã Ba La
Mật Đa !”(3 lần)
26
Thuở ấy Xích Quỷ đẹp tươi Ba Vương hòa hợp, Đạo - Đời hỗ tương
“Ốc Tổ” là bậc Thánh Vương Phong Đô đắc địa muôn phương tụ về
Bồi hồi Cực Lạc nhớ quê Đến nay Đạo Việt nẻo về Giác Tâm
Hoằng khai gốc phải ươm mầm Kinh Dương Vương quyết nâng tầm dựng xây
“Đại Bi tự” 223* Ba La đây “Lôi âm Bảo Sái” nơi này “Đế Kinh” 224*
Vua muốn Giáo hoá quần sinh 202* Thỉnh Mẹ từ Động Tiên linh200* Đạo hành
Mênh mông mây trắng - đồng xanh Chùa xưa hiển hiện Cửa Lành mở ra
Bao người theo “Bụt” (Buda) 226* lại qua
“Sa Bà Giáo Chủ” 202* chính Bà nơi đây
“Bà La Môn” 227* cũng Đạo này Đất “Tam La”cổ 228* - chùa nay đâu rồi?!
Còn đây Miếu - Mộ Người thôi
“Bát Nhã Ba La Mật” 229* muôn đời Tâm Kinh
“Yết Đế, Yết Đế” Đạo mình “Ba La Yết Đế” Tâm Minh Ngộ rồi
“Ba La Tăng Yết Đế” thôi Bên kia Bờ Giác, luân hồi sạch không
“Bồ Đề Sa Bà Ha” đồng Thành tựu Tuệ Giác liên thông Niết Bàn
“Ma Ha Bát Nhã” siêu phàm “Ba La Mật”, Phật Mẫu đàm “Tâm Kinh”
Vô Thượng Thần Chú Đại Minh Chuyển Pháp Mật Tạng: Tâm mình “Úm Lam!”
Rằng “Nam mô” sạch cõi phàm “Tát đa nẫm tam miệu tam một đà”
“Câu đê nẫm đát điệt tha”
“Án Chiết Lệ Chủ Lệ” ta sáng lòng
27
“Chuẩn Đề Sa Bà ha!” thông “Bộ Lâm!” Minh Định sắc không Tịnh Đàn . . .
*Mật Tạng bộ 3-No1077-tr185-tr186: Phật thuyết “Pháp Thất câu đê Phật Mấu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh” nói chú là: - “Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam một đà câu đê nẫm.Đát điệt tha: Án chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề Sa Bà Ha !”
Chúng sinh chẳng kể hèn sang Tín thành Tâm niệm, vẻ vang nẻo về
Qua được bến Giác - bờ mê Nhờ Hương Vân Cái - Chuẩn Đề Mẫu đây
Biết bao Chư Phật sau này Thành tựu Tuệ Giác, tỏ bày tri ân
Tháng tư ngày tám (8/4 âl) xoay vần
Đản sinh Phật Mẫu Hương Vân đến ngày Hoá nhật rằm tháng bảy (15/7 âl) nay “Vu Lan” – “xá tội” tích này mà ra ...
Phật Mẫu còn tám (8) em mà 230* Phò Vua dựng Nước mở ra đổi đời
(“Con cóc là Cậu Ông Trời Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho !”) 231 *
“Bát Bộ Kim Cương” 230* công to
Pháp - Bảo - Điền khí luyện lò dụng công Đánh Ma Mạc, giữ non sông
Tử Di Sơn có góp công tám (8) Ngài
Vũ khí đồng kết đức tài Trong ngoài phối hợp nối dài chiến công
Trống Đồng báu vật Tổ Tông Quốc - Nhân - Thiên - Địa, đủ trong đấy rồi
Bốn bên mặt trống cóc ngồi Dấu Tổ nghề đó, 232* cứu đời nghĩa nhân
Kính [“Thượng báo tứ trọng ân” “Hạ ... tam trừ khổ”] 233* cho dân muôn nhà
“Gò Thiềm Thừ” đất Ba La 234* [“Phương phần bảo vật” đây là Mộ xưa
28
“Nghiễm nhiên Vạn cổ” nắng mưa Hai bia con cóc Đền xưa câu thề “Chi hạng Lưu hương” sơn khê
“Thiên thu thường tại”] 235* Kinh đề Kim Cương 236*
Cứu khổ Ba La mở đường Phổ cúng Giàng ấy bốn phương tụng trì “Bát Bộ Kim Cương” (niệm) thỉnh đi
“Quyến - Sách - Ái - Ngữ”, gia trì yêu thương ...
Chương 6: Thời đại Kinh Dương Vương Nối vận Hồng Bàng Thị - mở nước Văn Lang
Nhân sinh Thiên - Địa hoằng dương
Lộc Tục 120* khôn lớn, lên đường giúp Cha Tử Di Sơn đánh Mạc Ma 205*
Kinh Châu – Dương Việt đất là phong “Vương” Tài cao chí lớn mở đường
Lập nhiều công tích lo lường gần xa Tận Tâm tận lực phò Cha
“Chú + Cậu” 206* trợ giúp Nước - Nhà bình an
Thuở ấy cương vực mênh mang Cha - Chú - Cậu - Cháu - họ - hàng chung lo
“Dương Tử giang” 207* Bắc cõi bờ Mênh mông Nam Hải dương cờ phía Đông
Cực Tây - Ba Thục cộng đồng 208* Phía Nam giáp với Chiêm - dòng Hồ Tôn 209*
Đế Minh truyền ngôi cho con Cha - Chú - Bách tộc đồng tôn Đức – Tài
“Xích Quỷ” 210* ( ) núi lớn - sông dài Địa cầu mạch chủ chẳng sai đất lành
Mười lăm Bộ 211* tụ quần anh
“Kinh Dương Vương” (涇陽王) “Phúc Lộc” danh muôn đời 212*
“Tam Đa” chữ “Lộc” này thôi
29
Tranh , Tượng thờ tự, đến hồi định minh
Tam Đa hiển hóa anh linh
Phúc – Lộc – Thọ , Tổ Tiên mình Người ơi !… Kể rằng khi ở Ngôi Trời 213*
“Phong Châu” 214*, Người định Đô rồi an bang
Địa giới Bắc: Chu Diên giang
Phía Nam giáp với Nam Sang hoà hài Đông: Bể Nam Hải chẳng sai
Tây: sông kéo dài giáp nẻo Trầm Sơn
Đồng bằng – Rừng – Biển, đâu hơn ? Sông ngòi chằng chịt, ruộng vườn, đồi, ao
Nông - Lâm - Thuỷ sản dồi dào Phong Châu cẩm tú với bao thôn làng [Bến Ong, Bạch Hạc, Ngân Giang *
Xuôi xuống Động Lãm vòng sang Huyền Kỳ Chinh Lương, Nhân Trạch nhớ ghi] 215*
“Bến, Bãi Ong” 216* - chữ là gì ? : “Phong Châu” ! Bác Lãm - Quang Lãm qui chầu 217*
“Nhà Trên” “Hoa Cái Sơn” 218* đầu Vân Lôi Núi xưa ba (3) cấp phân ngôi
Cửu Cung Bát quái, định rồi dựng xây* Trên cùng Đền Thượng xen cây
Tam Toà Đức Chúa Ông, đây nơi thờ Cấp hai Đền Trung Dương cơ
Ốc Tổ*- Ngũ Vị* phối thờ chính đây
Cấp ba bao bọc nơi này Đất hình tám cánh sen vây ôm vòng
Suối nhỏ uốn lượn nước trong Hai hai (22) Đền - Sở, đây Long, Qui chầu
“Bát Diệp Thừa Tương”*Phong Châu
Trung Tâm linh khí nhiệm mầu Nam Bang
Hai tư (24) “Trung Đường” 219* mở mang Xung quanh đủ bảy hai (72) làng 220* chẳng dư
30
“Nam Thiên thất thập nhị từ” 221* Đình Do Lộ vẫn còn “thư tịch” 222* này . . .
Hồng, Bàng, Thị ở nơi đây Kỳ hoa dị thảo, sắp bày tự nhiên Ba giống cây quí lưu truyền
Đều cho quả ngọt diệu huyền Phong Châu Phía Đông bờ bãi nối nhau
Biển nông, đầm, phá rất giầu cá tôm Thủy triều lên xuống sớm hôm
Chim muông tụ hội bãi cồn hàng giang Thuở ấy Hồng Hạc nhiều đàn
Đại Bàng biển, lượn nghút ngàn trùng khơi *Chim Hồng Hạc đẹp,duyên dáng hiền hòa,chung thủy, bay rất giỏi( hàng trăm Km);được coi là một trong những loài động vật trung thành sẽ di chuyển cùng nhau khi gặp các mối nguy hiểm đe dọa; chim con sẽ được nuôi bằng một loại sữa giàu chất béo và protein được sinh ra từ trong đường ruột của chim bố mẹ. Chúng sống ôn hòa, không có kẻ thù và gần như không bị săn đuổi. **Chim Đại Bàng Biểu tượng cho sức mạnh, lòng can đảm,tầm nhìn xa và sự bất tử. Nó được coi là vua của không trung và sứ giả của vị thần tối cao.
Trống Đồng ghi khắc cả rồi Cây lạ – Chim quí đây thôi Hồng - Bàng
Nay còn “Hồng Xốm” Đình làng Xoay vần Biển cạn; Thị, Bàng về đâu ? ! …
Lôi Phong* chín (9) Họ buổi đầu Họ Nguyễn đến trước bắc cầu trung cung
Tiếp sau mỗi Họ một vùng Tám (8) Họ tám (8) hướng hợp cùng mở mang
Thuỷ Tổ Cửu Tộc rõ ràng
Những Người mở Đất lập làng xưa đây Đắp bờ cát lọc thành dầy
Khử phèn, ngăn mặn, ao đầy nước trong Người Việt Thường, vẫn ghi lòng
Cái thời ăn nước Ao trong “Việt Trì” Đào khe dẫn nước sông đi
Chín (9) Họ chín (9) suối định kỳ tưới tiêu Hoa màu tươi tốt phì nhiêu
“Cửu Tuyền” khi ấy lập nhiều kỳ công Sau này gọi là “Cửu Long”
Toà Tượng Mồ Mả Cha Ông Việt Thường
31
Lưu tồn dấu tích định phương “Phong Châu đồ bản”* minh tường chuyện xưa
Khắc lên đá cổ truyền thừa Sa Pa thung lũng nắng mưa chẳng mòn
Mường Hoa bãi đá dấu son Tổ Tiên để lại cháu con nhiều điều ...
Hồng Bàng – Xích Quỹ hùng siêu Một Thời rực rỡ, lập nhiều Kỳ Công
Muôn sau con cháu Tâm đồng Kinh Dương Vương đã nối vòng Càn-khôn
Ngọc Hoàng Cửu Nghũ Chí Tôn “Ông Trời”- “Ốc Tổ”, Phả còn khắc ghi
“Nam Bang Thánh Tổ” niệm đi Vua Cha Ân Đức gia trì muôn phương …
Kể tiếp Mộ “Kinh Dương Vương”212*? Qua bao thật giả, lo lường, trước sau Kinh ghi “Hoa Nhụy” 237* tầng sâu
Huyệt mộ chữ “Vạn” 238 bốn đầu vào ra 239* Ở ngay Vân Lôi (Vân Nội) 240* chẳng xa
Trung tâm Xốm cổ 241* ấy là Phong Châu Có Bia ghi rõ từ lâu242*
“Xích Quỹ” 210* Quốc Tổ, mở đầu “Kinh Vương ...” 243* Mười lăm tháng tám (15/8 âl) cõi Dương
Ngày sinh Thánh Tổ Nam Phương Đức Ngài Hai nhăm của tháng mười hai (25/12 âl)
Ngày Hóa Thánh Tổ, Linh Đài khói hương ... [Âm phù hiển hóa mười phương
Thỉnh “Đức Ông”* được muôn đường khang ninh Thế Tôn, A Nan đăng trình
Lành thay!!! chứng nghiệm định minh tỏ tường...]* * * *
Các vợ của Vua 212* yêu thương Bà Cả “Long Nữ” 244* cương thường vẹn hai
Con “Động Đình Quân” 245* chẳng sai Từ Nam Dương Tử 207*, sông dài - Hồ sâu
32
Tào khang vạn lý nhiệm mầu Về làm dâu đất Phong Châu 214* linh đài
Trăm năm tơ tóc trúc - mai Năm trai sinh được đức tài song song
“Hoàng Hậu Xích Quỹ” 246* đồng lòng “Sơn Hà Xã Tắc” giúp chồng dựng xây
Đường Lâm - Bất Bạt, xưa đây 247*
Phát triển nghề mở đất này tằm tang
“Bà Chúa Tằm” 248* của muôn làng “Quán Xích Hậu” 249* đó, ẩn tàng tích xưa
“Đăng Ngạn” 250* bao quản nắng mưa “Lôi Phong” 251* nối Động Đình xưa câu thề
Nước non vạn lý sơn khê “Thượng Ngàn Thánh Mẫu” 252* đi về hiển linh
Trọn đời Trung - Hiếu - nghĩa - Tình Đến khi Người hoá ẩn mình Văn La 253*
[Giếng cổ với ba cây đa Sau “Miếu Xích Hậu” 254* Mộ Bà tầng sâu !?
Cõi người lắm nỗi cơ cầu Vẫn mong xây lại? nhiệm mầu khói hương ! ...] 255*
Ngày Giỗ mùng ba tháng ba Lễ “Miếu Xích Hậu”- giếng, đa trước Đình
Tết bánh Trôi - Chay nước mình Là lễ cúng Mẫu Thánh Minh Thượng Ngàn ...
Cơ duyên “Phúc – Lộc” định an Năm con nối nghiệp rỡ ràng trước sau
Nguyễn Khoản - Sùng Lãm (Lạc Long Quân) nhiệm mầu 256* Nghiệp Cha nối tiếp mở đầu Văn Lang 257*
Nguyễn Huề phú quí chẳng màng Gắn bó rừng núi, bản làng khang ninh
[“Ngũ Vị Tôn Ông” - nghĩa tình “Chầu Bà Tứ vị” - dân mình thờ theo] 258*
Thuở ấy trụ cột chống chèo Năm người 5 việc tuân theo Cha mình
33
[Nguyễn Nghiêm - Thần Gió* anh linh Thiên tai địch hoạ, hết mình chăm lo Nguyễn Quyền - Thần Mây* công to
Lương thực ngũ cốc ấm no mọi nhà
Nguyễn Huề - Thần Chớp* gần xa
Khai thác lâm sản vẫn là nghề xưa
Nguyễn Bé được tôn Thần Mưa 259*
Giữ cho thời tiết bốn mùa yên an Nguyễn Khoản (Lạc Long Quân) - Thần Sấm* rõ ràng
Trị thuỷ - khai thác, mở mang cõi bờ Ngũ Phúc Tinh Quân* gây cơ
Ngũ phương Yết Đế * phụng thờ là đây...] 260*
Chương 7: Lạc Long Quân - Quốc Mẫu Âu Cơ, nối tiếp dòng giống Tiên - Rồng
Kể tiếp: Sùng Lãm 256*(Lạc Long Quân) công dầy
Cha truyền ngôi báu dựng xây cơ đồ “Phong Châu” - Tổ Địa 214* kinh đô
“Văn Lang” 257*(文郎) quốc hiệu điểm tô sử vàng Mười lăm Bộ 211** vững giang san
Đế Lai (con trai Đế Nghi) 261* khi ấy “Cổ Nam” tìm về Cùng “Âu Cơ” xuống thăm quê” 262*
Phong Đô văn vật khéo mê lòng Người Cơ duyên như đã mỉm cười
Đế Lai ở lại các nơi tu hành 263* [Chùa Huyền Nhạc* giữa đồng xanh
“Bác Lãm trại - Long Biên thành”] 264* ngày xưa [Lên “Tây Phương” nữa, nắng mưa Sài Sơn quyết chí sớm trưa tu hành
Đế Lai quả vị viên thành “Như Lai Phật Tổ” lưu danh non Sài
Giúp Tất Đạt Đa* hậu lai
34
Đắc Đạo thành Phật nối dài đến nay
Khi hoá Người (Đế Lai)* ẩn Núi này Khói hương thành kính xưa nay phụng thờ...] 265*
Còn Long Quân gặp Âu Cơ
Rồng - Tiên hội ngộ, xe tơ duyên Trời Nước Non rừng biển nơi nơi
Âu Cơ - Sùng Lãm rạng ngời núi sông
Sinh thời Quốc Mẫu 261* dụng công Phát triển tơ tằm bãi rộng: Tiên Châu 266*
Chăm lo quân đội công đầu Tôn “Bà Chúa Lính” 267* đời sau đồng lòng
Còn Hùng Long Quân 256* thần thông Trừ ma, đuổi quỷ, yên lòng muôn nơi*
Diệt Bàng Tinh đã kể rồi “Lôi Bàng” gốc Tổ an Nôi “Việt Thường”...
Xưa Lý Ngư Tinh nhiễu nhương Làm hại Ngư Phủ, ngăn đường vào ra
Đông Hải nổi sóng can qua Long Quân bày trận Ngư tà mắc mưu
Diệt trừ quái, giải oán cừu Hà Nam - Phủ Lý danh lưu ẩn truyền ...
Hồ Tây danh địa diệu huyền Nguyên xưa núi đá cổ miền Hồ Tinh
Cáo chín đuôi hại dân tình Long Quân dâng nước, Nghê - Kình bủa vây
Hồ Tinh bị triệt chết ngay “Đầm xác cáo” chính là đây Tây Hồ ...
Tứ Linh Địa bọc Phong Đô
Lôi Bàng Đất Tổ, Tây Hồ tiếp sau Trầm Lĩnh nữa rất nhiệm mầu
Bốn là Phủ Lý ngõ hầu chẳng xa
35
Vạn năm đã có dân ta Năm vùng Linh Địa ai mà dám quyên
Long Quân truyện tích lưu truyền Hiển linh biến hóa diệu huyền khắp nơi
Vua sáng hành đạo thay Trời “Lạc Long Quân” được muôn đời gọi “Cha” 268*
Cuối đời qui ẩn Bình Đà 269* Ba Gò - Đồng Thượng: Mộ là Thổ Long 270*
Đây an thê thiếp cũng đông Mạch nguồn linh địa giữa lòng Phong Châu
Hai tám tháng hai (28/2 âl) nhiệm mầu Là ngày Ngài (“Lạc Long Quân”) hoá, Ân sâu ghi long
Thụy là “Hùng Lãm” chân “Long”
Tự ghi “Phúc Thọ” trọn vòng “Tam Đa”*
“Phúc-Lộc-Thọ”* thờ mọi nhà
Tích xưa Nguồn Cội, truyền xa giống dòng …
Bình Đà đại lễ hồi Long Hàng năm nô nức Đình trong - Đền ngoài ...
Còn “Tết Đoan Nghọ” hỡi ai Là Giỗ Quốc Mẫu Linh Đài Âu Cơ
Mùng năm tháng năm (5/5 âl) Dân thờ “Vía Bà” ngày ấy đến giờ “Đoan Dương”
Khi hoá Đồng Láng*- Mộ thường Về sau Cát Táng cõi Dương Đạo - Đời
Chùa Tường Quang* trở thành nơi Mộ Quốc Mẫu giữa Đất - Trời mênh mông ...] 271*
Chương 8: Nước Văn Lang trong Thời đại các Vua Hùng
Muôn năm công đức Tổ Tông Giữ gìn lãnh thổ, núi sông quê nhà
[Mạch nguồn cội rễ dân ta Vẫn là dòng giống Mẹ - Cha: Tiên - Rồng
Âu Cơ Quốc Mẫu khai thông
36
100 Vua Nhà Hùng, nòi giống dài lâu “Hùng Quốc Vương Lân” * 雄國王, là đầu “Phúc Tâm” tên chữ, nguyện cầu hiển linh
Dư hai trăm năm đăng trình Cả thời mở ấy, Thánh Minh rõ ràng
Miếu thờ ở Thắng Lãm Trang Mộ Ngài Mả Đế, cuối làng Vân Lôi (Vân Nội)
Hai tám tháng năm (28/5 âl) giỗ rồi “Hoàng Trung Nhân Lý Hậu” ngôi Tổ Bà
Mộ tại Đồng Trúc, Tiên La Hoá ngày hai sáu, Giêng (26/01) là tháng Âm
Phúc Thiên - Phúc Địa ươm mầm “Phúc Tâm” truyền nối mạch ngầm muôn sau
Nhà Hùng huyết mạch nhiệm màu Văn Lang Quốc hiệu, nối nhau trị vì
Hai ngàn năm lẻ (2.662 năm ?) qua đi Trăm Vua*vẫn đóng Đô kỳ Phong Châu] 272*
Vua trước đẻ ra Vua sau Không phải “một bọc”, nhắc nhau chớ nhầm
Lòng Người nay còn phân vân Huyền thoại – Sự thật, trầm luân lâu rồi
Mở lòng đón nhận được thôi Di tích – Miếu Quán, đến hồi định minh
Phả ghi thờ cúng Chùa - Đình Trăm Vương huyết thống hiển linh nhiệm mầu …
[Nước non vận hội bể dâu Thiên tai địch hoạ, mưu cầu lợi danh
Các Bộ có khi tranh giành Vua kém tài đức, dân lành tổn thương
May có mười tám (18) vị Vương
Đức - Tài đầy đủ đảm đương cơ đồ
Niềm tin vẫn tụ Phong Đô Mười tám Thời Đại*, điểm tô sử vàng
*Mỗi một thời đại có một Vua tiêu biểu mở đầu tiếp sau còn có nhiều Vua nối nhau trị vì cho đến khi mở ra thời đại kế tiếp. Thời gian và số Vua của các thời đại theo tự nhiên, nên không giống nhau .Các Vua của 18 thời đại nói chung cũng như trong từng thời đại nói riêng đều cùng huyết thống dòng dõi cha truyền con nối
37
Bảo toàn - kiến tạo - mở mang Vươn ra Biển lớn đem hàng giao lưu
Xuống Nam, lên Bắc đã nhiều Châu Phi, Châu Mỹ; thảy đều từng qua Hải hành* truyền thống dân ta Giàu sang phát triển mở ra thịnh cường …
Người Việt tỏa đi bốn phương Nay thành Đại Tộc; cố hương có về ? !
Cội Nguồn non nước sơn khê Đình, Chùa, Miếu , Quán chốn quê – thôn làng
Ngàn sau Dân Việt - Văn Lang Niệm Tên nguyện nhớ muôn vàn yêu thương:
“Quốc” “Kiến” “Hoa” “Nghi” “Quân” vương Đến “Chiêu” “Nghi” “Vĩ” “Định” đường kiên “Trinh”
“Võ” “Việt” “Triệu” “Anh” “Triều” đình “Tạo” “Hỗn” “Duệ” kết đinh ninh lời thề
Thống nhất non nước sơn khê Muôn dân trăm họ nhớ về Hùng Vương * 273*
* * * [Chuyện xưa lại kể cho tường
Âu Cơ sinh bọc trăm Vương như Thần ? * “Nhất bào - Bách noãn” Thiên ân
Bởi 100 Vua hoá: Mộ phần Phong Châu ! “Cửu vĩ đầu tinh” nhiệm mầu
Là chín (9) Miếu - Quán - Mộ sâu ẩn tàng: Mả Đế Vân Nội, khang trang
Quán Miếu số một, cạnh làng gần thôi
Hơn bảy mươi Vua đây rồi Anh Linh Thiên Cổ Chính ngôi Miếu Đường
Chúa Tể vĩnh viễn nhất phương
Hoàng Anh* cổ thụ soi gương mắt Rồng
Khí Thiêng: Nam - Bắc - Tây - Đông
Giữ cho huyết mạch Lạc Hồng dân ta Miếu Quán tiếp theo chẳng xa
38
Hai (2) Văn Phú đó, Văn La ba (3) rồi Động Lãm số bốn (4) đây thôi
Năm (5) Trinh Lương nữa, sáu (6) ngôi Huyền Kỳ Bảy (7), tám (8) Bác Lãm ân uy
Chín (9) hai Mộ Tháp, nội suy đủ rồi !
Chữ Tâm chứa hết cả thôi * “Nhất bào bách noãn” đây rồi chứ đâu] 274*
Chuyện dân gian Việt thuộc làu Vẫn cần thấu hiểu, ý sâu ẩn tàng
Phả ghi việc Họ - việc làng Chỉ nói người chết, luận càng phải tinh
Huyền thoại - dân gian nước mình Hàm chứa sử - phả, lý tình khúc nhôi 275*
[Nói trăm con, một bọc thôi Ý là một gốc, thờ rồi hiểu ra
Đồng bằng - sông - biển, theo Cha Năm mươi (50) Vua ấy dân ta thờ Thần
Hà Bá - Thổ địa hộ dân Long Thần - Đình Miếu, sông gần - biển xa
Năm mươi (50) theo Mẹ - Đạo nhà “Sơn Thần, Thổ Địa” hoặc là “Quan Ôn”
Phụng thờ ở chốn núi non Xưa nay dân Việt mãi còn khói hương “Bách Thần Sơn Thuỷ” Tổ Đường
Trăm Vua Hùng đấy, mười phương phụng thờ. . .] 276*
Lại kể Nhà Hùng chuyển cơ [Vua cuối Phả chép bấy giờ “Duệ (My) Vương” 277*
Cả trăm năm 277* * vững cương thường Về già nghiệp quả vô thường - đa đoan
Thời ấy Ba Thục bất hoàn
39
Cần Tướng ổn định an toàn biên cương (Thục Phán - Hào Trưởng xứ Mường
Buổi đầu khởi nghiệp quê hương Hoà Bình)] 288 a* Triều Hùng tin tưởng giao binh
Lạc Tướng Ba Thục, tự mình kế sâu Gây dựng lực lượng đối đầu
Lấn dần từng bước, mưu cầu thoán ngôi Duệ Vương khi ấy già rồi
Vương quyền danh lợi lắm người mưu toan Hai mươi con trai hàm oan
Từ người Tỳ Thiếp (vợ bé) 288 b* lăng loàn gian manh Sáu nàng Công chúa tinh anh
Cũng bị hãm hại, dân lành hoang mang Mong cứu sự nghiệp vẻ vang
Truyền ngôi con rể Tuấn Lang thay mình]278a*
Sơn Thánh - “Tả” - “Hữu”278b*trung trinh Lập nhiều công tích hết mình giúp Vua
Cơ Trời vận nước hơn thua Xoay vần bĩ thái nắng mưa thường tình
Tuấn Lang là bậc anh minh Biết Phán đoạn nghĩa dứt tình cướp ngôi
Nhà Hùng giữ đã khó rồi Lại lo dân nước đến hồi lao đao
Cùng Vợ (Ngọc Hoa công chúa) thu xếp thấp cao
Để không hệ luỵ vướng vào oan khiên [Nào ngờ chính sự đảo điên
Từ bà vợ bé (Tỳ Thiếp) mạo quyền Duệ Vương (My Vương) Trong ngoài sắp đặt lo lường
Cô - cháu phối hợp mọi đường, bủa vây Mưu gian đến cơ vận này
Nào còn ai dám tỏ bày chính - nguyên Thục Phán nôn nóng cướp quyền
Ra tay bức hại Vua hiền - tôi trung] 279* Vậy là bĩ vận Nhà Hùng ? !
Thế cuộc đã chuyển bi hùng - bể dâu ! …
40
Điểm lại Hồng Bàng từ đầu Dư hai ngàn tám (2800? 2822?) năm lâu đủ dài
“Ốc Tổ” (Kinh Dương Vương) mở vận chẳng sai
Một trăm linh tám (108 Vua) Anh Tài nối nhau
Vua - Tôi gìn giữ trước sau Bách Việt thuở ấy, đứng đầu Thánh Vương
“Thiệu Tổ Bách Việt”* - Từ Đường Vẫn còn lưu giữ, minh tường vinh quang ...
Gốc từ Cực Lạc – Viêm Bang Phát triển tiếp nối, lan sang mọi miền
Hải hành thế giới đầu tiên Văn Minh truyền bá, Tiên Hiền mở mang
Lập bao kỳ tích vẻ vang Mười tám (18) Thời đại rỡ ràng đỉnh cao
Bốn phương giao hảo ra vào Mười lăm bộ vẫn kết giao hiếu hoà
Giang sơn toàn vẹn - gần xa Dân khang vật thịnh, nước nhà yên an
Hồng Bàng đến hết Văn Lang
Thời oanh liệt đó, vẻ vang muôn đời Tri ân công đức biển - trời
Muôn năm dân Việt khắp nơi phụng thờ
Cho nên trong Phả ghi thơ:
[“Sơ khai Nam Việt hữu Kinh Dương 212 * Nhất thống sơn hà thập bát Vương
Dư bách Đế truyền thiên cổ tạc Ức niên hương hoả ức niên phương”] 280 **
Đến nay linh hiển minh tường
“Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương”* muôn đời
Di sản Văn Hóa loài Người Nhân loại kính ngưỡng Đạo Đời dâng hương !!!
41
Phả còn minh định tỏ tường:
Trung Vương bậc “Thánh” Miếu Đường uy nghi
Bản Sư Thích Ca Mâu Ni (là Ốc Tổ)
Nam Bang Thánh Tổ 212*- nhớ ghi Phật Đài Cùng với Phật Tổ Như Lai (là Đế Lai)
Phật là Tiên Tổ, nguyên khai Đạo Nhà
[Toà Cửu Long chùa Việt ta Thờ ở Tam Bảo (chính là) Ông Cha Việt Thường] 281*
A Di Đà Phật mười phương Nam Vô Phật Chuẩn Đề Vương Mẫu Hoàng
Tâm Kinh Bát Nhã Hào Quang Pháp mầu nhiệm ấy rỡ ràng cõi Dương
“Sôi Kinh - nấu sử” cho tường
Kinh là Sử đó - mở đường Nghĩa Nhân …
Chương 9: Lược kể một vài truyện, tích cổ chép trong các Ngọc phả và thư tịch
về thời Hồng Bàng - Văn Lang
TRUYỆN TRẦU CAU VÀ TRUYỆN KIỀNG BẾP – ĐẦU RAU
Truyện cổ - huyền thoại trong dân Ẩn tàng thông điệp tỏ dần mai sau
Trước Văn Lang: “Truyện Trầu Cau” Và “Truyện Kiềng Bếp - Đầu Rau” lưu truyền:
“Đế Thừa” thời ấy diệu huyền Song sinh một cặp , hữu duyên hai Ngài
“Minh Khiết” - “Nghi Nhân”, trẻ trai Anh Tài tuấn tú như hai Tiên đồng
42
Hai giọt nước, khác biệt không? !
Đều ham du ngoạn, xuống Đông lên Đoài Nghi Nhân một bữa vãng lai
Tây Hồ gặp được anh đài khuê thư Cùng Ngoan Nguy*, ước bấy chừ
Hẹn ngày tái ngộ tiệp dư gia đường ... Lần sau Minh Khiết đơn phương
Tình cờ gặp được Đỗ Nương* hòa hài
Nghỏ lời mong kết Trúc Mai
Tiểu Thư khi ấy tưởng Ngài Nghi Nhân Thuận lòng duyên hợp Châu Trần
Hai Ngài trình bẩm một lần Mẹ Cha Đế Tiết - Đế Thừa cười khà: ...
“Anh Cả lo trước, rồi là đến em !” Nghi Nhân vâng mệnh, chẳng xem
Giúp anh lo việc sớm đem dâu về Kiệu hoa Gia đáo cập kê
Em ra chào Chị, trăm bề rối ren
Té ra “Chị Dâu” là “Em” Người từng đã hẹn, ước nguyền kết đôi
Mộng duyên ấy, lỡ hết rồi Ông Tơ Bà Nguyệt, hỡi ôi phong trần ...
Chị dâu khi ấy phân vân
Người này sao giống mười phần chồng ta
Sau rồi ăn cơm cả nhà
Ai cầm đũa trước nghĩ là chồng đây ... Thoi đưa thấm thoắt tháng ngày
Nhầm lẫn khó tránh, đã gây buồn phiền Cả ba sau rõ chuyện riêng
Chồng thiếu tin tưởng, Vợ hiền nghĩ suy
Nghi Nhân khi ấy ra đi “Chiên Đàn” (Man chiềng) lập trại, sầu bi nguôi lòng
Minh Khiết nạp Thiếp song song
43
Phai nhạt vợ Cả, tình nồng vợ hai
Hai Bà đều có con trai Kế vị, trưởng, thứ - đúng, sai thói thường ? !
Bà Cả đảm lược nhún nhường
Trong hoàn cảnh đó chọn đường đi tu
Cùng chín (9) Cậu, cháu vân du Động Tiên, Lạc Thủy phòng Trù định an ...
Bấy giờ Nghi Nhân bàng hoàng
Vần xoay con Tạo, dở dang cả rồi
Lòng u uẩn, chẳng đôi hồi Xin lên Cổ Bắc lập Ngôi trị vì ...
Chuyện Xưa kể lại lâm li Nay thành cổ tích vân vi truyền đời
Hai Ông, chỉ một Bà thôi Xưa nay Kiềng vẫn vững ngồi ba (3) chân
Đầu Rau Ông Bếp trong dân Ba hòn, ba cục vẫn cần có nhau
Bếp dù biến cải Tây, Tàu Thổ Công - Táo Bếp muôn sau vẫn Thờ
Cưới hỏi xưa, đến bây giờ Cau - Trầu mâm lễ Bàn Thờ quyên đâu
Mẹ chồng mà chẳng đón Dâu Ôm Bình Vôi lánh, lúc sau mới về ?
Đâu chỉ “quê thói - đất lề” (Đất Lề - quê thói !) Đạo Việt ứng xử mọi bề vì nhau
Tình nồng, vôi quyện trầu cau* Duyên trần chưa hết, kiếp sau luân hồi
“Truyện Trầu Cau” tích này thôi Ngàn năm thêu dệt, răn đời nghĩa nhân ...
Âu Cơ với Lạc Long Quân Phải chăng “Tần Tấn” duyên trần tái lai ... ?
Muôn năm ân nghĩa sắc tài Xoay vần Con Tạo, hòa hài trước sau...
* * *
44
Quay về Văn Lang n g õ h ầ u
Một thời rực rỡ, rất giầu chuyện xưa
Lược kể vài chuyện truyền thừa
Tích nào có trước ta đưa lên đầu . . .
“ T R U Y Ệ N T H Á N H G I Ó N G ” Như “ T ruyện Thánh Gióng” nhiệm màu
Một “Tứ - Bất - Tử” ngàn sau phụng thờ:
… ‘Hùng Vương thứ sáu (6) bấy giờ (trong các tích truyện có bản ghi là HV thứ 3)
Vùng Đại Ơn 282* giặc dương cờ Bạch quân 283*
Mắt xanh, tóc bạc, mũi bần Da trắng bệch, lại bắn cung rất tài
Chèo thuyền, tay chân dẻo dai
Khi ẩn, lúc hiện bên ngoài Thạch Linh 284*
Nhiễu nhương, sát hại dân mình Kỳ thị-tàn ác động binh hại đời
Gây thù chuốc oán khắp nơi
Tộc Lão 283* tai ác, Đạo Trời chẳng dung
Quang Lãm làng Gióng trong vùng Có chàng tuổi trẻ anh hùng Nguyễn Cương
Con trai Công Chúa 285* - mà thường Bởi Cha - Mẹ chẳng được Vương tác thành
Không màng phú quý lợi danh Sống trong dân, với phúc lành nghĩa ơn
[Ba nong cà - bảy nong cơm Ngọc thực 7 Tổng, Gióng (là tiếng) Nôm tên làng
Chữ là Đồng phủ (ấu phục) lái sang
Phù Đổng thuở ấy cưu mang bấy chày
Thủ lĩnh trẻ trâu vùng này] 286 *
Xin Vua đánh giặc - sắp bày Hoả công
Cánh đồng lau sậy mênh mông
45
Bỗng thành biển lửa tấn công kẻ thù
[Thạch Linh thành khói mịt mù
Cả vùng Chương Mỹ, giặc thù sạch không
Tận sức - tận lực lập công
Ngài hoá - lưng ngựa tại đồng Sóc đây
Thiên Quan - Thanh Lãm đất này] 287*
Miếu - Mộ “Ông Sóc”, đến nay vẫn còn
Tháng tư mồng tám sắt son
Ngày Giỗ Ngài đó cháu con phụng thờ
Thánh Gióng - linh ứng chuyển cơ
Thiên Vương Phù Đổng, dân thờ muôn năm
Truyện thật một trăm phần trăm
Đã thành huyền thoại ngàn năm nhiệm mầu …’
TRUYỆN “SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG BÁNH DÀY” Truyền thừa Đạo Lý cao sâu
“Lang Liêu” Hiếu Nghĩa, bền lâu Vuông - Tròn
(con trai thứ 18 của Vua Hùng)
[“Bánh Giầy - Bánh Chưng”]* sắt son
(bánh giày, bánh Dầy, bánh Dày)
Là chuyện lựa chọn được Con Đức - Tài
Vua Hùng thứ sáu (hay thứ 7?) truyền Ngai (Ngai Vàng)
Mở thi ẩm thực, “Lang Trai” (con trai Vua Hùng) tự làm
Sơn hào hải vị Bắc - Nam
Của ngon - món lạ, trân cam rất nhiều
Đến Mâm Lễ của Tiết Liêu (Lang Liêu-con thứ 18)
Bánh Giầy tròn trắng, mỹ miều ở trên
Bánh chưng dưới, buộc lạt mềm
Bốn sợi Giang nhỏ, trên nền Dong xanh
Chín ô vuông, thấy rõ rành
Cửu Cung Việt Dịch - Đạo hành Tổ Ta
Dâng lên Vua, bánh chế ra:
46
Nếp, hành, đậu, thịt, muối, là dân gian
Luộc lâu, nhỏ lửa, bền gan
Kết Tinh - Trí - Lực - Tâm - Can Đạo Nhà
Tròn trên, vuông dưới sắp ra
Thành đôi, liên kết đây là Đạo Sinh
Đất vuông, tám hướng hữu tình
Trời tròn vời vợi cao minh ôm vòng
Âm - Dương một cặp song song
Ông - Bà, Cha - Mẹ đẹp lòng cả thôi
Vua Hùng nghe - thấy lạ rồi
Yêu cầu bóc bánh mọi người cùng ăn
Tiết Liêu chiết lạt sợi tăm Lá Dong bóc lửng, dây nằm lớp lang
Hai sợi chéo, hai sợi ngang
Đĩa chồng, lật úp, lá mang ra ngoài
Kéo dây chéo trước chẳng sai
Ngang sau: tám miếng hình hài như nhau
Dụng Tâm tình lý cao sâu
Công bằng - bình đẳng dài lâu vững bền
Miếng bánh lớp xanh in lên
Tượng Thiên bao khắp mọi miền phong vân
Giữa: hành - thịt - đậu là Nhân
Nếp là tượng Địa, bọc cân vuông rồi
Thiên - Địa - Nhân cả đây thôi Bánh Chưng, lạ miệng ăn rồi chẳng quyên
Bánh Giầy trong cặp hữu duyên
Cắt qua Tâm thấy Thiên liền Địa Nhân
Dụng Tâm ứng xử rất cần
Thiên Thời - Địa Lợi - được Nhân Thái Hòa ... Mọi người thán phục xuýt xoa
Cặp Bánh ngon, lạ, giao hòa cao sâu
47
Vua Hùng chẳng để đợi lâu
Phán truyền Ngôi báu đứng đầu Lang Liêu Về sau biến cải cũng nhiều
Giầy Dò, bánh tét ... bao nhiêu luận bài
Nhưng Đạo Việt Dịch chẳng phai
Âm - Dương Tạo Hóa hòa hài bền lâu ...
TRUYỆN “SƠN TINH – THỦY TINH”
Hùng Vương mười tám (18) nhiệm mầu
Với bao truyện tích, đời sau lưu truyền
Ly kỳ - Bi tráng - Hữu duyên
Nhân văn - Đạo lý - lợi quyền, từ Tâm
Phả ghi việc thật, tránh nhầm
Chính - Tà, Thiện Ác, gieo mầm hậu sinh
Kể chuyện “Sơn Tinh - Thủy Tinh”
Vua Hùng kén rể, định minh rõ rồi
Sơn Tinh - Nguyễn Tuấn thắng thôi
Thủy Tinh - Thục Phán, khôn nguôi hận sầu ...
Thánh Tản tài đức cao sâu
Kiên Thần Tả - Hữu, phò chầu giúp Vua
An dân, trị Quốc bốn mùa
Giữ gìn cương vực, thi đua tài bồi
...“Thao giang thủy nhiếu cư Nhân hộ
Tản Lĩnh vân du nhập Đức Môn
Nhật noãn Tiên Cúc Thư cảnh sắc
Phong hòa nguyệt quế phún thu linh
Hát Giang tam lộ phân cẩm thủy
Nghĩa Lĩnh quần sơn tự Cổ Lôi”... (Thơ trong Ngọc Phả)
Vua giao Thánh Tản nối Ngôi
Thục Phán trở mặt, thế rồi chiến tranh
Cầu viện, mưu chiếm “Phong Thành”*
48
Lập Đồn, chiếm đất, hoành hành nhiều nơi
Vua nghe Thánh Tản cho vời:
Linh Lãng Công ngụ ở nơi Châu Hồng
Con cầu tự của Ngư ông
Võ - Văn tài giỏi, tinh thông hơn người
Vua phong Đại Tướng - mệnh Trời
Chỉ huy thủy - bộ nhằm nơi giặc thù
Quân Thục dồn lực - mật khu
Vây hãm, quyết liệt, rối bù hai bên
Đất - Trời bỗng cuộn mây đen
Quân Thục hoảng sợ, ta liền phản công
Thục Phán thua, chẳng cam lòng
Yên bình trở lại, Vua phong thưởng nhiều
Trong đó đặc biệt hùng siêu
Hy sinh lẫm liệt khi tiêu diệt thù:
“Đông Hải Đại Vương”* thiên thu
Truy phong tước hiệu, lập khu phụng thờ
Động Lãm: Đền - Mộ đến giờ
Linh thiêng hương khói tỏa mờ uyên nguyên
Ngài là Phò Mã, kể thêm
Xích Vân Công Chúa ngày đêm đợi Ngài
Khi nghe tin dữ chẳng sai
Tự mình tuẫn tiết theo Ngài hợp song
Mộ - Đền Hạ Vực giữa đồng
Nguyễn Phục - Bạch Tước bên chồng, Đền riêng
Tất cả nay vẫn linh thiêng !!! ...
Chuyện xin kể tiếp mối giềng Thánh siêu:
… Đại Tướng (Lĩnh Lãng) một bữa tiêu diêu
Đến khu Huyền Nhạc, nói điều linh thiêng*
Dân tình hiểu được mối giềng
Rồi Ngài hóa hiển về miền Thiên Cao
Vua, tôi cảm kích anh hào
49
Về nơi Ngài hóa, Tế, trao sắc bằng
Phong tặng “Đại Vương Lĩnh Lãng
Chánh Linh Đại Thánh” kỵ vàng phục y
Tháng 5, lế Vọng (15/5) hành trì
Miếu thờ hương khói chuẩn y lệ rồi ...
***
Thục Phán dã tâm cướp ngôi
Cùng với Cao Lỗ (Nỗ), Hầu Lôi phản thần
Xây Thành Ốc, dụng Nỏ Thần
Thánh Tản biết được âm thầm phản công
Bạch Kê núi ở giữa sông
Đỉnh thắt cổ bồng, gần sát thành Loa
Người thường không thể vượt qua
Anh em Sơn Thánh*+Ngọc Hoa vẫn vào Anh em Sơn Thánh* gồm: Thánh Tản Viên - Cao Sơn - Quý Minh
Đột nhập đêm, từ trên cao
Phá Thành, gần sáng vượt hào thoát ra
Cứ xây lại đổ như ma
Quân Thục bí mật dò la, vu hồi
Phục binh bắt giết hết rồi
Bi hùng kể lại khôn nguôi lệ nhòa ...
Sơn Thánh + Công Chúa Ngọc Hoa
Mười tám tháng tám (18/8 âl) Thành Loa hóa rồi
Phía Bắc, sát Thành: Mộ Đôi
Là gò Bái Vọng, sau rồi có Thơ:
… “Loa Hải tận trung lưu hiển tích
Phúc Nguyên Phò Mã đáo Thanh Khê
Ngọc Hoa tiết liệt toàn chung thủy
Vạn đại lưu truyền tích Bạch Kê”…
Đỉnh đồi Thổ Ngõa an về
Mộ - Miếu Thánh Tản, bốn bề gió mây
Cao Sơn - Quý Minh, gò cây
50
Núi Trầm, ao trước Đình này: Long Môn
Mộ phần đến nay vẫn còn
Tiên Hiền nước Việt sắt son chẳng nhòa ...
*** Ở trên mới điểm Tinh Hoa
Còn bao Tướng Sĩ tham gia hóa rồi
Bao Đời binh lửa nhiều nơi
Võ, Văn, Nghệ, Kỷ ... nhiều người tham gia
“Sơn Tinh - Thủy Tinh” nước nhà
Lưu truyền Mồ mả Ông Bà Tổ Tiên
Sơn Tộc - Thủy Tộc, mối giềng
Sau theo cấp bậc, qui riêng xa gần
Đã là “Sơn Thủy Bách Thần”
Thảy đều qui tập mộ phần Phong Châu
Thủy Tinh - Sơn Tinh ở đâu
Hóa về nơi ấy qui chầu thảnh thơi
Địa danh Thủy Tộc nhiều nơi
Ngư liền Kình, Ngạc tiếp thời Trạch, Chiên ... (Ngư Kình, Ngạc Ngư, Trạch Ngư, Chiên Ngư, gò Con Cá Vàng ... )
Sơn Tộc có khắp mọi miền
“Đống Hổ”, “Đống Mã” chân liền “Đống Voi” ...
Dân gian tự luận mà soi
“Thiên Nga”, “Mục Tỉnh”, hẳn hoi “Giải Kỳ”...
“Hoàng Anh Mộc Đống” nhớ ghi
Lưu danh Mồ Mả hậu kỳ không quyên
Đây là thông điệp ẩn truyền
Giữ Đạo thờ cúng Tổ Tiên Nước Nhà ...
TRUYỆN “TIÊN DUNG – CHỮ ĐỒNG TỬ”
Kho tàng chuyện cổ của ta
Tiên Dung - Chàng Chử cũng là chuyện hay
Hùng Vương mười tám (18) trước đây
Tiên Dung Công Chúa một ngày đầu thu
51
Thuyền Rồng xuôi nước vân du
Khúc Giang bãi nổi, che dù tắm Tiên
Sắp bày Nguyệt Lão xe duyên
Đúng nơi Chàng Chử ngại phiền ẩn thân
Biết là duyên nghiệp Châu Trần
Công Chúa chủ động, ân cần kết giao Chứng Tâm Trời - Nước - Trăng - Sao
Một đêm ân ái, Thiên Cao có ngờ Thục Phán, Cao Lỗ chực cơ
Bao vây, phóng hỏa, phớt lờ ngay gian
Giết ngay chàng Chử cự can
Tách Tiên Dung, lập mưu gian sắp bày Tâu Vua rằng loạn dân này
Đã dám xúc phạm ngâu vầy Tiên Dung
“Chứng cớ”cho thấy bất trung
Thần đã giết hết, trừ hung họa này !?...
Thục Phán mưu tính lâu nay
Lấy Tiên Dung - được kế hay trong ngoài
Công Chúa biết rõ oan, sai
Tỏ bày đã khó, lâu dài chẳng an
Quyết lòng xuống tóc qui an
Ở chùa Hương Tích, khổ nàn mong qua
Thục Phán - Cao Lỗ chẳng tha
Đốt chùa thiêu hết, nói là hỏa tai
Than ôi ! bĩ vận trần ai
Dấu tích Mả Thí* địa đài bi thương ... Dấu tích Mả Thí*: khu nghĩa địa cổ ở địa giới giữa ba làng Vân Nội – Văn La – Văn Phú, nay ở
khoảng giữa 2 phường Phú La và Phú Lương, Hà Đông, Hà Nội.
Dân xây Ô Quán (Quán Quạ) khói hương
Mồng bảy tháng bảy (7/7ÂL) lệ thường Thuyền Hoa
Phú Lãm, Đại Hữu nhập hòa
Rước hai (2) Bài Vị xuôi Đò Ngân Giang
Đoạn sông Khúc Thủy cuối làng
Bắc cầu tre nối thông sang hai bờ
52
An hai (2) Linh vị Quán Ô
Một đêm hương khói tỏ mờ linh thiêng
Hôm sau rước trở về Nguyên*
*Trở về chổ cũ, nơi vẫn thờ 2 Bài vị ở Phú Lãm và Đại Hữu
Cầu tre tháo dỡ, “Chử - Tiên” về Trời ...
Mấy ngàn năm chẳng xa vời
Chuyện xưa có thật nay thời lại không
Ngân Giang khúc xạ sông Hồng
Bãi giữa Khúc Thủy thành đồng Khoái Châu* ...
Dương gian chưa đủ nhiệm mầu
Nâng tầm Vũ Trụ - cao sâu Ngân Hà Ô Thước đầu quạ trọc ra
Cứ năm đến hẹn, kết là Cầu thôi
Ngưu Lang - Chức Nữ gặp rồi
Vợ Chồng Ngâu vẫn mong hồi mưa Ngâu ....
Cổ tích - huyền thoại nhiệm mầu
Đều có gốc rễ cao sâu ẩn tàng
Bể dâu biến cải nhân gian
Cốt Hồn Việt vẫn vững vàng dài lâu ...
Chương 10: Thục Phán - An Dương Vương và nước Âu Lạc
Kể tiếp Văn Lang đoạn sau
[Âu Lạc tiếp nối - đứng đầu: Thục Vương
[Bấy giờ Bắc Quốc chiến trường
Bảy(7) nước tranh bá, liệu đường tính sao ?] 289*
[Dựng lên Thành Xoáy (ốc) xây cao
“Bảy Giò” dựa núi, ra vào, giáp sông] 290*
Làm mãi mà thành chẳng xong
Bởi luôn bị phá, dân lòng chưa yên
[Sau nhờ Thần Quy mới nên
“Linh Quang Kim trảo”] 291*, vững bền thủ công
53
“Phong Khê - Khả Lãm” 292* giáp sông
Vua có “Thành Xoáy” (ốc) * giữa lòng Phong Châu 214*
Tướng Cao Lỗ 293* góp công đầu
Gạch múi cam kết, móng sâu vững bền
[“Hệ thống Nỏ Thần” bắn tên
Da trâu - Dây Nỏ bện, bền lại dai
Lẫy Nỏ móng Rùa chẳng sai
Tên đồng mười (10) mũi, ống cài phóng ra
Lũy thành xoáy - mở dần ra
Liên châu cài đặt, thủ mà lại công …] 294*
[Hơn hai trăm (>200-TCN), trước lịch công
Nhà Tần xâm chiếm cộng đồng phương Nam
Năm đạo quân - Tướng tham lam
Đồ Thư - hiệu uý - cử làm chỉ huy
Tràn xuống Bách Việt thị uy
Năm vạn binh ấy hiểm nguy khôn luờng
Rất nhanh, chiếm đất Lục Lương
Đông Nam 3 đạo hợp đường Phiên Ngung
Hai đạo Tây Nam lùng nhùng
Đào kênh, xẻ núi qua vùng hiểm nguy
Dân Ngũ Lĩnh chẳng sống quỳ
Liên tục chống trả, có khi giả hoà
Nhà không - vườn trống lùi xa
Địch (Nhà Tần) Nam tiến mãi, quay ra khó về
Cạn lương, khí hậu khác quê
Tây , Âu, Điền Việt … bốn bề bủa vây
Đồ Thư bị giết vùng này
Nhân dân Ngũ Lĩnh chung tay diệt thù
Thuỷ Hoàng mất - Tần rối mù
Sơn Đông nổi dậy phục thù các nơi
Chục năm đánh chiếm hại Người
Giờ Tần thua chạy, đáng đời sài lang
54
Tần suy; Hán nổi Lưu Bang
Lo Hung Nô, lại trấn an chư hầu
Bách Việt chưa thuộc vào đâu] 295*
[Nên Nhâm Ngao mới khởi đầu ly khai
(Nhâm Ngao, Nhâm Hiếu, Vương Hiếu là các cách dịch Phả khác nhau cho tên một người...)
Cùng Triệu Đà tính trong ngoài
Lập nước Nam Việt lâu dài một phương] 296*
[Tiếp tục đánh An Dương Vương
Thuỷ bộ phối hợp hai đường bao vây
Công phá Thành Xoáy (ốc) nhiều ngày
Biết không thắng được, bèn quay nghị hoà] 297
Hai bên kết nối thông gia
Cho Trọng Thuỷ ở rể nhà Thục Vương
Mỵ Châu - Trọng Thuỷ yêu đương
Mối tình trong sáng, ai lường kế sâu
Đến cơ, Trung - Hiếu làm đầu
Nỏ Thần tráo lẫy “phép mầu” hoá không
Cha giết con, vợ lìa chồng
Thục Vương hết nghiệp, đã trông thấy rồi
Năm chục (50) năm Vua ở ngôi 298*
Thành Xoáy (ốc) bị chiếm, Nước rồi cũng xong
Triệu Đà thắng, Thục Phán vong
Mưu sâu kế hiểm - đau lòng hai con
Mỵ Châu - Trọng Thuỷ chẳng còn
Thành Loa (Xoáy) giếng Ngọc - Mộ con ngậm ngùi 299*
Cuộc đời đắng - ngọt, buồn - vui
Bể dâu biến đổi, dập vùi nhân tâm
An Dương Vương cũng thăng trầm
Công tích sự nghiệp Quốc Quân dân thờ
[Mộ phần Vân Nội, ẩn cơ
Sau “Nhà Triệu Tổ”, qua bờ đường ngang …] 300*
55
Chương 11: Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt
Tiền Sử Nước Việt sang trang Đến triều Nam Việt mở mang cõi bờ
[“Triệu Đà” (chính là) - Nguyễn Thận (Lý Thận) bấy giờ
Là con Hùng Dực Công*, cơ vận tàn Hùng Dực Công* là em trai Hùng Duệ Vương - lúc này là cuối Vận Nhà Hùng
Sớm mồ côi Mẹ, gian nan Bị mẹ kế Mẫu làm càn đuổi đi
Cha nghiện rượu chẳng giúp gì
Sống cùng Bà Ngoại hàn vi qua ngày
“Nhâm Ngao” thấy tướng mạo hay (Chữ có hai phiên âm: “Hiêu” và “Ngao”; lại có người dịch là Vương Hiếu?)
Thu xếp* Nguyễn Thận, sắp bày trong quân
Tiến cử từng bước dần dần
Thành con nuôi của Giám - Thần Triệu Cao
Đánh Hung Nô rất anh hào
Tần phong Hiệu Úy, công lao Triệu Đà (Thánh Chèm nức tiếng gần xa
Là Lý Ông Trọng - Úy Đà này đây)* *Một số tài liệu Trung Quốc (như “Quảng Dư Ký”, “Đại Thanh Nhất Thống Chí”, v.v.)
chép là Nguyễn Ông Trọng
Cơ Trời như được sắp bày Tần sai đánh Thục, vận may cận kề
Nhâm Ngao tâm vẫn nguyện thề
Giúp cho Nguyễn Thận quay về giành Ngôi
Như chương 10 đã kể rồi
Vây đánh Âu Lạc, đôi hồi khó phân
Bởi Thục Phán có Nỏ Thần
Nhâm Ngao chết bệnh, thêm phần khó khăn Bình giang thời ấy cách ngăn
Hai bên dàn trận nhiều lần giằng co
Tương kế - tựu kế, liệu lo
Giành được thắng lợi, công to con đầu (Trọng Thủy)
56
Nội trị, đối ngoại chư hầu Quân - quyền, dân - nước kết cầu chung riêng
Sắp bày thu xếp mối giềng
Sau khi thắng lợi, lập riêng cơ đồ
Nước Nam Việt - Phiên Ngung Đô
Đất đai gần kín bản đồ Văn Lang
Xưng Triệu Vũ Đế * đàng hoàng
Nam Việt Hoàng Đế * sánh ngang Hán triều] 301* *Các Danh xưng của Triệu Vũ Đế khi lập nước Nam Việt
Truyền ngôi: Triệu Hổ 302* cháu yêu
Về Phong Châu gốc Vương Triều Hùng xưa
Bao năm chìm nổi, nắng mưa
Truân chuyên dựng nước cho vừa lòng dân
Hoàn thành Quốc nghiệp - Quốc ân
“Nam di Đại Trưởng Lão” thần về quê 303*
*Danh xưng của Triệu Vũ Đế khi về dưỡng già ở thành Khả Lãm – Phong Khê
Ở thành “Khả Lãm - Phong Khê” 291*
Giữ ngôi báu, cháu thường về thăm Ông ...
Ngót trăm năm giữ non sông
Năm đời truyền nối Lạc Hồng vẻ vang ... Nhà Hán xâm lấn giang san
Đại quân năm đạo tham tàn bủa vây
Phiên Ngung binh lửa tràn đầy
Lữ Gia Thừa Tướng phá vây mở đường
Phò Vua dũng cảm can trường
Cùng đường tử trận, nêu gương cứu đời
Quân Nam Việt tản nhiều nơi
Nhiều năm sau vẫn không ngơi phục thù . . .
Nước nhà vận bĩ, rối mù
Hậu duệ Nhà Triệu: Tây Vu xây thành
Xa Luỹ nay là Đông Anh
“Tây Vu Vương” tự xưng danh một vùng
57
Mười bốn năm tỏ lòng Trung
Cơ-Vận-Lực yếu cáo chung “Vương triều”
Mộ trong thành chắc cô liêu
Bởi đời nay nói: “Vương Triều Cổ Loa”... ***
Còn bao sự tích nhạt nhòa Tiên Hiền Đất Việt giao hòa tiêu diêu
Xả thân vì Nước rất nhiều
Mộ phần có được bao nhiêu qui về
[Mộ Triệu Vũ Đế * gần kề
Đình Vân Nội *, gốc Bồ Đề nhìn sang
Không xa Thành Xoáy cuối làng *
Thành không còn nữa, ẩn tàng móng sâu] 305*
Mộ Triệu Văn Vương (huý Hồ)* đời sau
Đưa về Tây - đất Phong Châu: Linh Thành*
Lăng Minh Vương (huý Anh Tề)* vẫn lưu danh
Là Bảo tàng cổ ở thành Quảng Châu
Chôn theo Ngọc Tỷ nhiệm mầu Một trăm mười bốn (114) Ấn đâu? có còn ? !
Vần xoay biển cạn, non mòn Hai Vua sau cuối, mộ còn ở đâu ?
Ai Vương, Dương Vương bể dâu !?
Nào ai tính được trước sau cho tròn !? …
Chương 12: Hai Bà Trưng Phất cờ khởi nghĩa, khôi phục giang san, tiếng thơm lừng vang Bách Việt.
Trở lại vận mệnh nước non Nước tuy đã mất, vẫn còn lòng dân
Sau Lữ Gia, có nhiều lần
Các nơi vẫn chống Hán quân bạo tàn
Đất Lôi Phong 214* của Trời Nam
Nhà Hùng Định306* có hai (2) nàng đẹp xinh (Lý và Huệ)
58
Võ - Văn - tài - sắc - nghĩa - tình
Trên có anh Cả (Khổng Khắc) 307* ẩn mình giúp cho Dưới còn Khổng Chủng 308* em lo
Được Mẹ Man Thiện 309* luyện cho chu toàn Quân Sư Năng Tế 310* lo toan
Chu Diên tướng sĩ hợp đoàn Mê Linh 311* Giặc vây đàn áp nghĩa binh
Lạc Tướng Hùng Định 306* hy sinh chống càn Trường kỳ kháng chiến gian nan
[Kết giao Họ Đặng, bảo toàn dài lâu Đặng Lý (Định, Nghiêm ?) - Trưng Trắc tình sâu
Trưng Nhị lại lấy anh đầu Đặng Xuân] 312* Bấy giờ lực lượng nghĩa quân
Hợp đoàn tập luyện, nên cần thời gian Hạ Bằng 313* lập cứ chống càn
Giặc đến, ta đã đánh tan vài lần [Tô Định 314* giở thói “Chiêu dân”
Mời ngay đại diện nghĩa quân “nghị hoà” Một vì nghĩa khí quân ta
Hai để chuẩn bị gần xa chu toàn
Đặng Lý (Định ?) + Đinh Lượng một đoàn *Trước khi khởi nghĩa thì Nguyễn Trình Nghiêm (Lý? Định? khác nhau do các bản dịch) là em Nguyễn Trình Xuân lấy Trưng Trắc, còn Nguyễn Trình Xuân là anh lại lấy em là Trưng Nhị. (Sau này để tránh Mã Viện đàn áp Anh em Nguyễn Trình Xuân đổi họ là Đặng Xuân, Đặng Diễn, Đặng Tiến, Đặng Trần.)
Vào Phủ Tô Định, mất còn sợ chi ! Giặc mua chuộc chẳng được gì
Bèn chuốc rượu độc, Lượng thì gục ngay
Đặng Lý (Định?) vung kiếm ra tay
Bị tên bắn trúng, thoát vây chạy về; Khổng Chủng đón anh hôn mê
Vết thương quá nặng, hồn về qui tiên …] 315* Quân thù thâm độc, đảo điên
Đặng Lý (Định?) - Đinh Lượng: Tiên Hiền chí cao Phong Châu 214* nổi sóng ba đào
59
Tô Định hiểm ác, Trời nào dung tha !
“Nay vì nợ Nước, thù nhà *! “Thề xin nối nghiệp Ông Cha Họ Hùng” !
Hai Bà Trưng quyết đồng lòng
Dựng cờ, truyền Hịch tiến công giặc thù
Vừng Dương xua sạch mây mù Khắp nơi nổi dậy cùng thu Biên Thành
Sáu lăm (65) Quận, Phủ yên lành Lũ giặc Tô Định tan tành tháo thân
Phong Đô lập Quốc An Dân Phương Nam Đế Nữ xoay vần mở ra
Góp công giành lại nước nhà [Hơn bảy mươi (70) Tướng gần xa anh tài
Hai mốt (21) Nữ Tướng trong ngoài] 318*
Trước sau lo tính lâu dài cho dân
Nhưng rồi nhà Hán dốc quân Mã Viện 319* hiểm độc, sát nhân hung tàn
Ta chưa lo kịp liên hoàn
Đã bị chia cắt, đánh đòn tung thâm Bộ chỉ huy lại phân tâm
Chặn xa, vây gần chẳng kịp cứu nhau Thế là vận nước bể dâu
Hai Bà tuẫn tiết, hận sầu khôn nguôi ...
Mộ phần an ở Cổ Lôi 320*
Tháng hai ngày sáu hóa rồi sử ghi
Mồng chín tháng ba định kỳ Đại tế lễ rất uy nghi Điện tiền
Miếu Đường Phú Lãm: “Linh Tiên” Ân sâu nghĩa nặng Tiên Hiền Anh linh
Đền thờ khắp Bách Việt mình 321* Công tích vang vọng sử trình tráng ca:
‘Những năm bốn mươi bốn ba (40~43 SCN), Đầu Công Nguyên ấy nước nhà bình an
60
Cửu Chân, Hợp Phố, Nhật Nam .v.v.
Sáu lăm thành, quận: tôn làm “Bà Vương” 322*
Nữ Lưu Anh Tiết Quật Cường
Hai Bà Trưng đó Sáng gương muôn đời !.’ ...
* * *
TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM *SỐNG KHÔN CHẾT THIÊNG
Ngàn sau tiếp bước bao người Để nay non nước được thời yên an
Sử trình gìn giữ giang san Tiên Hiền nam nữ vô vàn kể ra …
Phả ghi Ân Đức các Bà Tám tư ngàn (84.000) Vị: Tiên Na (La) - Tiên Đào
Tượng thờ Tam Bảo - Thanh Cao Biểu trưng Phụ Nữ công lao bao đời
Từ thời Mẫu hệ xa vời Chuyển sang Phụ hệ vẫn ngời sáng trong
Vạn Linh Tứ Phủ Công Đồng Tinh hoa các Mẫu, kết vòng Càn - Khôn
Nghĩa Mẹ như nước trong Nguồn
Vĩnh hằng tuôn chảy chẳng buồn ai đong Cội Nguồn Huyết Mạch ghi lòng
“Nghĩa Lĩnh”*- mộ địa ẩn trong đất này Hoàng Hậu, Vương Phi xưa đây
Mỵ Nương, công chúa ... nơi này cả thôi Hai Bà Trưng ! Nhớ khôn nguôi
Cùng vạn Tướng, sĩ hoá rồi thiên thu Hy sinh lẫm liệt thắng thù
Tầng tầng lớp lớp âm phù địa linh ...
*Hai khu nghĩa địa cổ ở Kinh Đô Phong Châu (Nghĩa Lĩnh) an táng 84.000 các bà Hoàng Hậu, Vương Phi, Mỵ Nương,
công Chúa, tỳ Thiếp ... ở Châu Tiên La và châu Tiên Đào . *Tại Tam Bảo các chùa có Tòa tượng Cửu Long tượng trưng
“Rồng-Tiên” Sơn Thủy Bách Thần, trong đó có tượng 2 vị Tiên: một Tiên dâng trái Na, một Tiên dâng trái Đào, biểu thị
cho 2 khu nghĩa địa an táng tám vạn bốn ngàn (84.000) các Hoàng Hậu, Vương Phi, Mỵ nương, công chúa nói trên
61
Muôn sau kết nối hậu sinh
Tháng ba mồng tám (8/3) định hình lịch Dương
Phụ Nữ và Hai Bà Vương
Quốc Tế kỷ niệm, lệ thường Việt Nam Giỗ Cha, tháng Tám (8) dân làm
Tháng ba (3) Giỗ Mẹ luận đàm nghĩa ân Nay còn di tích Mộ Phần
Bách Thần Sơn Thủy muôn dân vẫn thờ Tòa Cửu Long Việt ứng cơ
Biểu trưng Linh Địa chẳng chờ định minh
Phong Châu là Đất Đế Kinh Địa Long “Cửu Vỹ Đầu Tinh” lưu truyền
Là chín (9) Miếu - Quán diệu huyền Trăm Vua Hùng hóa, Mộ miền “Cửu Văn”
Xứ này từng cụm ba căn So le tam giác, Mộ nằm nối nhau
Kiểu như Ông Bếp đầu rau “Đông Trù Tư Mệnh”, muôn sau thỉnh về ...
Đời nay sao vẫn u mê Phong Châu hồn cốt, chẳng về khói hương ?
Trùng trùng Tam giới hiển Dương Thiên-Địa-Nhân tự Minh Đường Làng Vân ...
Ngẫm xem con tạo xoay vần
Vì đâu “Nghĩa Lĩnh” chịu phần xót xa
Đời sau có biết chăng là
Hàng trăm nghĩa địa vậy mà còn đâu Thực dân phong kiến Tây , Tầu
Bao lần triệt phá, cơ cầu tai ương Hậu sinh nay vẫn chưa tường
Phát triển đổi mới, phải lường Đạo sinh
Sâu rễ - bền gốc định minh
Để con cháu khỏi tự mình hại Thân
Mồ Mả di tích rất cần
62
Giữ gìn - tôn tạo, phải Dân cùng làm
Nhiều nơi trót lỡ, đừng tham Biết rồi nên liệu chớ làm xót đau
Nhà cửa đường sá trên đầu Xác thân – quan – quách, tầng sâu mất còn ?!
Phách Hồn vương vấn cháu con !?
Âm phù trợ giúp nước non giống nòi
Phật - Tiên - Thần - Thánh gương soi
Từ Bi Hỷ Xả, nguyện noi theo cùng ...
TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM *MẠCH NGUỒN DÒNG GIỐNG RỒNG TIÊN
Nay cùng nhìn lại Gốc chung Mạch Nguồn dòng dõi Anh Hùng Rồng -Tiên
Kể từ sơ khởi: Bình Yên Long Vân Tự với Cảnh Tiên Mộ Đền
Sang đến Cực Lạc xây nền Nước Phật khởi thủy một miền dài lâu
Địa Linh: Long - Hổ qui chầu Tây Phương - Cực Lạc, bắc cầu “Kim Long”
“Địa Mẫu Chân Kinh” ghi lòng Tam nhật Mậu lễ, nối vòng bình yên “Lễ cầu vọng thấu Cung Tiên
Nơi Tây Vương Mẫu diệu huyền chứng minh”
( Địa Mẫu Chân Kinh- trích trong “Bách Việt Ngọc Phả truyền thư”)
Đế Thiên (Phục Hy) truyền dạy Dịch Kinh Âm - Dương diễn dịch: Nghĩa Tình “Rồng - Tiên”
Muôn sau Đạo Pháp hoằng truyền
“Tây Phương - Cực Lạc” Quê Tiên* nẻo về
Viêm Bang rộng mở sơn khê
*“Quê Tiên chốn cũ là nơi trở về”( Địa Mẫu Chân Kinh- trích trong “Bách Việt Ngọc Phả truyền thư”)
63
Hỏa Đức Tiên* Mẫu, bộn bề lo toan
Nhiều phát kiến mới mở mang Vẫn an nhiên với hai (2) Bàn Cờ Tiên*
Quốc Oai (Quốc Uy) linh địa diệu huyền Chi Long gân mạch Tản Viên chuyển về
“Thập bát danh sơn” một quê Bên ni Linh Tượng, bên tê Non Sài
Núi Thầy (Sài Sơn) có một không hai Long - Ly - Qui - Phượng hòa hài cả đây
Thiên Phúc tự là Chùa Thầy Cũng là Chùa Cả nơi đây “Đất Rồng”
Trước chùa “Long Chiếu” thinh không
“Hàm Rồng” tiếp với “Ao Rồng” bóng mây “Nhật - Nguyệt Tiên Kiều” sắp bày
“Nanh (Sừng) Rồng” tả, hữu nơi này địa linh “Ngọc Rồng” là tòa Thủy Đình
“Núi Đầu Rồng” nữa, trời sinh vậy rồi
“Long Đầu Tự” tọa đây thôi
Địa danh tên gọi muôn đời nhớ ghi ... Rồng – Tiên Nguồn Mạch duy trì
Phụng Châu-Trầm Bản thời kỳ Thần Nông Trung tâm Chùa Động Tiên Rồng
“Long Tiên Tự” ở giữa lòng Kinh Đô
Trầm Hang, Thiên - Địa đường đồ Phật Đài trong Động tỏa mờ uyên nguyên
Quang Minh Chính Đại an nhiên “Chùa Rồng Tiên” nữa, gần miền “Long Môn”
Bên kia “Tiên Lữ” trường tồn
Bên này Trầm Lĩnh cốt hồn Vô Vi ... Qua Chu Diên đất Thánh Kỳ
“Cửu Tuyền”, “Cửu Tộc” dấu ghi rất nhiều “Tòa Cửu Long” Việt huyền siêu
Biểu trưng đầy đủ những điều cốt căn
64
Chín Họ - Chín suối: Cửu Long Cũng là “Chín Miếu - Mộ Rồng” trăm Vua
Tản Viên ba đỉnh, bốn mùa Tiếp Thiên nối Địa, truyền thừa Phong Châu
“Tam đầu cửu vỹ” nhiệm mầu Mạch nguồn vẫn nối từ đầu đến đuôi
“Cửu Vỹ Đầu Tinh” đây thôi Chín Miếu Mộ đó luân hồi Đạo sinh
“Tiên Na - Tiên Đào” định minh Phần trên đã nói - dân mình khói hương
“Sa Bà Giáo Chủ” trung phương
Là “Phật Mẫu Chuẩn Đề Vương Cửu Trùng”
“Thiên - Địa - Nhân” hợp hòa chung “Bách Thần Sơn Thủy Nhà Hùng” triều cương
Bình Đà - Đình Tổ Miếu Đường Một trăm linh tám (108) Thánh Vương ảnh thờ
Tam Quan Vân Nội ẩn cơ Phía sau cổng ấy “Điện Thờ Bách Linh”
“Mạnh ư Hồng Bàng Dã” minh Trưởng Hồng Bàng Thị nghĩa tình vẫn đây
Vậy là Nguồn Mạch Cội Cây “Rồng - Tiên” dòng giống Xưa Nay còn dài ...
TRƯỜNG CA TIỀN SỬ VIỆT NAM -*PHẦN KẾT
Giờ đây nhìn lại toàn bài Trường ca mong chẳng nhạt phai Đạo Nhà
Mạch Nguồn - Gốc gác dân ta Vẫn là dòng giống Ông Bà - Rồng Tiên
Định Minh Tiền Sử - Tiên Hiền Cũng là góp nhặt đủ Duyên đến ngày
Nôm na vẫn chuyện Xưa Nay Những mong mở rộng - tỏ bày mọi nơi ...
Tổ Tiên Đất Việt Rạng ngời Minh Quang Nhật Nguyệt muôn nơi rỡ ràng
65
Phúc dầy - Ân Đức mênh mang Làm sao bia đá - bảng vàng đủ ghi
Linh Thiêng mải miết phù trì Mong sao con cháu biết đi đường dài ...
Nay đang chuyển đổi trong ngoài Vàng thau lẫn lộn, đúng sai khó tường
Nhìn ra Thế Giới nhiễu nhương Vẫn là Nhân - Quả vô thường chúng sinh
Vũ Trụ - Trái Đất chuyển mình Qui luật lớn nhỏ định hình nay mai …
Sống điều cốt tử: Hòa Hài Minh tường Nguồn Cội, Gương Đài ngẫm soi
Hỡi ai thương Nước thương Nòi Hãy cùng Đoàn Kết trong ngoài Một muôn
Nếu quay lưng lại Cội Nguồn Tương Lai chẳng có, mà buồn Nay đây
Thờ ơ - vô cảm - theo bầy Dễ bị ngộ nhận dắt dây sai đường
Từ Bi - An Tịnh - Hiền Lương Thiện Tâm làm lõi, Yêu Thương bắc cầu
Mở lòng Bác Ái nhớ câu Tề Gia - An Quốc bắt đầu từ Thân
Phúc Thiên - Phúc Địa - Phúc Nhân
Biết ơn Nguồn Cội - Phúc phần tái lai
Đức năng thắng số hoạnh Tài Người Hiền tích “Phúc - Đức - Tài” vì Dân
Đêm tàn - Mai sáng xoay vần Những năm chuyển tiếp, sống cần khác đi
An Nhiên “Sinh Ký Tử Qui” Tịnh “Thân - Khẩu - Ý”, hành trì tự Thân
Tám tư ngàn Pháp hồng trần Từng giây sống Thiện, chuyên cần tạo Duyên
Cội Nguồn soi lối về Nguyên* *Về Nguyên tức trở về với Gốc Tổ Tiên Dân Tộc Rạng rỡ Linh Thiêng theo qui luật của vòng xoáy
trôn Ốc Tiến Hóa đi lên trong Tâm Thế Cao hơn ...
66
Mở ra Thời Mới, Thiên liền Địa – Nhân ...
Tinh hoa Nhân loại góp phần
Rõ ra Việt Tộc Chủ Nhân khởi đầu
Văn Minh Phương Đông dài lâu
Nay là cầu nối nhiệm mầu Chuyển Luân
Tâm Linh Vũ Trụ xoay vần Việt Nam Linh Địa Thiên Ân huy hoàng
Gian nan bởi lửa thử vàng Vượt lên thử thách - Vinh Quang muôn đời
Vững Tâm sống Thiện Người ơi Ở đâu cũng có Phật - Trời độ sinh …
Nôm na bộc bạch Trần Tình Góp lời minh định Hiển Linh Cội Nguồn !
67
68
69
Giấy phép xuất bản Trường ca Tiền sử Việt Nam của Nhà xuất
bản Văn Hóa Thông Tin cấp ngày 28/7/2014.
70