Post on 10-Sep-2019
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
********
BÙI THỊ DUNG
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
(HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH)
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI, 2016
Công trình đƣợc hoàn thành tại:
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Xuân Đính
Phản biện 1: PGS.TS. Đinh Thị Vân Chi
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Châm
Viện nghiên cứu Văn hóa
Phản biện 3: PGS.TS. Võ Quang Trọng
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm
luận án tiến sỹ cấp Trường
Tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Số 417, đường La Thành, Đống Đa, Hà Nội
Vào hồi: … giờ …, ngày … tháng … năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện trường Đại học Văn hóa Hà Nội
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Làng nghề có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội, ổn định chính trị ở địa phương. Văn hóa làng nghề có những nét
đặc trưng khác các làng nông nghiệp. Sự nghiệp Đổi mới đã tác động
sâu sắc đến các làng nghề, trong đó có làng Phương La: cơ cấu dân
cư, sự phân tầng xã hội, phong tục tập quán, các quan hệ xã hội v.v.
Nghiên cứu “Biến đổi văn hóa làng dệt Phương La (huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình) góp phần tìm hiểu thực trạng biến đổi văn hóa làng
nghề, xu hướng văn hóa làng nghề, từ đó đưa ra giải pháp bảo tồn,
phát huy văn hóa làng nghề trong giai đoạn CNH - HĐH đất nước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về làng nghề, văn hóa làng
nghề của người Việt ở Bắc Bộ
Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về làng nghề, văn
hóa làng nghề của người Việt ở Bắc bộ: Tác phẩm Người nông dân
châu thổ Bắc kỳ của Nhà Địa lý học Pháp Pièrre Gourou, P. Gourou
dành cả Chương 2 đưa ra vấn đề công nghiệp làng xã. Văn hóa truyền
thống làng Đồng Kỵ, Ninh Hiệp truyền thống và phát triển khảo sát
những nét tiêu biểu về nghề, cấu trúc làng xóm, di tích thờ cúng…
2.2. Những công trình nghiên cứu về biến đổi làng nghề, văn
hoá làng nghề
Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội của Trần Quốc
Vượng và Đỗ Thị Hảo, nêu một số quan điểm phát triển làng nghề.
Làng nghề phố nghề Thăng Long - Hà Nội trên đường phát triển chỉ
ra hướng phát triển và các giải pháp để phát triển làng nghề. Phát
2
triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá phản ánh về các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển các làng
nghề, hướng bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống.
Dưới góc độ Dân tộc học/Nhân học, trong vài năm qua, nhiều
công trình bàn sâu về biến đổi của làng nghề truyền thống từ sau hòa
bình lập lại đến nay, nhất là dưới tác động của quá trình CNH- HĐH:
Sự phát triển của làng nghề La Phù nghiên cứu trường hợp về sự
thay đổi của một làng nghề. Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai
(Hà Nội) - truyền thống và biến đổi nghiên cứu biến đổi của nghề,
làng nghề thủ công huyện Thanh Oai.
2.3. Tổng quan các nghiên cứu về làng nghề Phương La
Làng Phương La được nhắc đến trong các công trình nghiên cứu về
vùng đất, con người Thái Bình: Nhận diện văn hóa làng ở Thái Bình, Lễ
hội truyền thống ở Thái Bình, Tên làng xã Thái Bình, Địa chí Thái
Bình…; các công trình nghiên cứu về nghề thủ công ở Thái Bình:
Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí và Đại Nam nhất thống chí, Tiên
Hưng phủ chí... Ngoài ra, có một số đề tài nghiên cứu trực tiếp về
Phương La: Kỷ yếu Hoằng Nghị đại vương và việc bảo tồn, tôn tạo khu
di tích lịch sử - văn hóa Phương La; Một số giá trị văn hóa của các
nghề thủ công truyền thống ở Thái Bình… Làng Phương La chỉ được
nhắc đến trong các công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hóa, nghề
thủ công ở Thái Bình, góc độ nghiên cứu chủ yếu là Sử học, Văn hóa
Dân gian; chưa nghiên cứu về văn hóa, biến đổi văn hóa làng nghề.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu của Luận án
Thông qua khảo sát, phân tích thực trạng biến đổi văn hóa làng
nghề dệt Phương La; Luận án dự báo xu hướng văn hóa làng Phương
3
La thời gian tới, từ đó đưa ra giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa làng nghề dệt Phương La trong điều kiện CNH - HĐH, giúp làng
Phương La và các làng nghề ở Thái Bình phát triển bền vững.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
Hệ thống lý luận về biến đổi văn hóa, biến đổi văn hóa làng
nghề và một số khái niệm cơ bản, làm cơ sở lý luận chung cho đề tài;
Giới thiệu tổng quan về làng Phương La, nghề dệt và văn hóa làng
Phương La trong xã hội truyền thống; Khảo sát, phân tích thực trạng
biến đổi, dự báo xu hướng của văn hóa; đề xuất giải pháp bảo tồn, phát
huy văn hóa của làng nghề dệt Phương La trong điều kiện CNH - HĐH.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu của Luận án
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là các khía cạnh liên quan đến
biến đổi văn hóa làng nghề dệt Phương La (thực trạng và xu hướng
biến đổi, nguyên nhân biến đổi …).
4.2. Phạm vi nghiên cứu của Luận án
- Về không gian, là làng Phương La (xã Thái Phương, huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình); đồng thời, Luận án có nghiên cứu mở
rộng sang xã nghề dệt đũi Nam Cao (huyện Kiến Xương) và dệt khăn
Minh Tân (huyện Hưng Hà) tỉnh Thái Bình.
- Về thời gian, Luận án nghiên cứu biến đổi văn hóa làng
Phương La khi nghề dệt phát triển, nhất là giai đoạn CNH - HĐH đất
nước (từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, tháng 6/1996 đến nay).
5. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận án
5.1. Hướng tiếp cận
Tiếp cận Văn hóa học: là hướng tiếp cận chính yếu của Luận án.
Luận án còn tiếp cận Nhân học/Dân tộc học, lịch sử, hệ thống.
4
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp: Điền dã Dân tộc học, Điều
tra xã hội học; Nghiên cứu liên ngành; Thống kê; So sánh…
6. Kết quả và đóng góp của Luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống
dưới góc độ Văn hóa học về biến đổi văn hoá làng nghề dệt Phương
La. Luận án đưa ra luận cứ khoa học, đề ra giải pháp bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa của làng Phương La trong điều kiện CNH -
HĐH, giúp Phương La và làng nghề ở Thái Bình phát triển bền vững.
Luận án góp phần nghiên cứu văn hoá truyền thống làng Việt nói
chung và làng nghề nói riêng.
7. Bố cục của Luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án
được chia làm 04 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung và tổng quan về làng
dệt Phương La
Chƣơng 2: Nghề dệt và văn hóa vật chất của làng Phương La hiện nay
Chƣơng 3: Văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng dệt
Phương La hiện nay
Chƣơng 4: Những vấn đề rút ra từ việc nghiên cứu biến đổi văn
hóa làng dệt Phương La.
5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ TỔNG QUAN
VỀ LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
1.1. Những vấn đề lý luận chung
1.1.1. Một số khái niệm dùng trong Luận án
1.1.1.1. Làng nghề, làng nghề truyền thống, làng nghề thủ công
hiện đại
Luận án đã phân tích các khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền
thống của một số học giả đi trước và Luận án cũng đưa ra quan điểm của
NCS về làng nghề: là làng có phần đông cư dân sống bằng một nghề
hoặc nhiều nghề thủ công, có khi chỉ là một công đoạn của nghề, tạo ra
các sản phẩm mang tính cách riêng, thời gian làm nghề và thu nhập của
nghề chiếm tỷ lệ lớn nhất so với các hoạt động kinh tế khác; hoạt động
làm nghề có ảnh hưởng lớn đến các mặt khác của làng (kiến trúc làng
xóm, nhà cửa, nhịp sống, thiết chế tổ chức và các quan hệ xã hội, tâm lý
tính cách, phong tục tập quán...).
1.1.1.2. Văn hóa làng nghề
Trên cơ sở phân tích, làm rõ định nghĩa về văn hóa làng nghề
của một số các nhà nghiên cứu đi trước, NCS xác định Văn hóa làng
nghề là một dạng đặc thù, là một phức thể các yếu tố văn hóa vật
chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần ở các làng nghề, giữa nghề
và làng, giữa con người và các yếu tố ngoài con người, có quan hệ
mật thiết với nhau, ràng buộc và phụ thuộc, tác động vào nhau, trong
đó nghề giữ vị trí trung tâm. Ngoài các yếu tố chung của văn hóa
làng Việt, văn hóa làng nghề có một số yếu tố đặc thù, như nhịp sống
làng nghề, tâm lý và tính cách của người làng nghề…
6
* Cơ cấu văn hóa làng nghề: Văn hóa làng nghề được cấu thành
bởi các thành tố: Văn hóa vật chất, Văn hóa xã hội, Văn hóa tinh
thần. Có điểm khác là nghề phát triển, chi phối các mặt đời sống xã
hội của làng, vì vậy, khi nghiên cứu văn hóa làng nghề không thể
thiếu yếu tố nghề.
1.1.2. Cơ sở lý thuyết
1.1.2.1. Biến đổi văn hóa
- Luận điểm về biến đổi xã hội: Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận
động và biến đổi không ngừng. Sự biến đổi đó bao gồm cả biến đổi
do nội tại của bản thân sự vật, hiện tượng và sự vận động, biến đổi do
các tác nhân bên ngoài. Theo các nhà xã hội học, nói tới biến đổi là
đồng nghĩa với sự biến đổi của xã hội, xã hội phát triển từ cơ cấu xã
hội đơn giản đến phức tạp, đó là sự thay thế kế tiếp các hình thái kinh
tế xã hội mà thực chất là các phương thức sản xuất. Một số nghiên
cứu ở Việt Nam đưa ra nhận định chung là kinh tế thị trường phát
triển tạo ra cơ may, vận hội cho các cá nhân, các nhóm xã hội; song
sự phân hóa giàu nghèo cũng như mức độ phân tầng xã hội càng diễn
ra mạnh mẽ. Những cá nhân, nhóm xã hội „„mạnh‟‟ tạo nên sức mạnh
kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, tạo ra động
lực tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội. Chúng tôi vận dụng những luận
điểm này để nghiên cứu về sự biến đổi xã hội - yếu tố có liên quan mật
thiết với biến đổi văn hóa ở làng Phương La trong điều kiện hiện nay.
- Luận điểm về biến đổi văn hóa: Nhìn chung, các học giả đều
có điểm chung thống nhất cho rằng không có nền văn hóa nào đứng
yên một chỗ, cũng như không có nền văn hóa nào không có sự thay
đổi gì so với thời kỳ khai nguyên của nó. Biến đổi văn hóa mang tính
tất yếu, là hiện tượng phổ biến. Biến đổi văn hóa cũng tuân theo quy
7
luật, biến đổi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, không diễn
ra theo một đường thẳng đơn tuyến mà cũng có những giai đoạn
chững lại, thậm chí là thụt lùi; biến đổi được bắt đầu từ quá trình thay
đổi phương thức sản xuất, kỹ thuật sản xuất, dẫn đến thay đổi về
quan niệm, lối sống,… Biến đổi văn hóa lại cũng chính là động lực
thúc đẩy xã hội biến đổi. Nhờ mối quan hệ biện chứng đó mà văn hóa
và xã hội ngày một phát triển. Đây là cơ sở lý luận để NCS dựa vào
trong suốt quá trình nghiên cứu.
1.1.2.2. Biến đổi văn hóa làng nghề
Sự biến đổi văn hóa của các làng nghề về bản chất chính là lực
lượng sản xuất rất phát triển, phương thức sản xuất được đổi mới,
kinh tế hàng hóa thâm nhập sâu vào mọi mặt đời sống xã hội của
người dân. Sự biến đổi này bao hàm cả những biến đổi đã có chọn
lọc và cả những biến đổi chỉ mang tính trào lưu chưa phù hợp.
Nghiên cứu biến đổi văn hóa làng nghề chính là nghiên cứu sự biến
đổi các thành tố cấu thành văn hóa làng nghề dưới tác động của các
yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội. Nghiên cứu biến đổi văn hóa làng
nghề dệt Phương La là nghiên cứu biến đổi các thành tố Văn hóa vật
chất, Văn hóa xã hội và Văn hoá tinh thần của làng. Với làng Phương
La, làm nghề chi phối mọi mặt đời sống. Vì vậy, Luận án tập trung
nghiên cứu về biến đổi nghề dệt truyền thống. Do điều kiện thời gian
nên Luận án chỉ trình bày khái quát các thành tố văn hóa làng nghề
Phương La trong xã hội truyền thống và một số yếu tố văn hóa hiện
nay nổi bật, hình thành và diễn biến dưới tác động của CNH - HĐH:
1/Nghề dệt và văn hóa vật chất (không gian, cảnh quan; di tích tín
ngưỡng...); 2/Văn hóa xã hội (sự hình thành tầng lớp chủ doanh
nghiệp; việc tách họ, dựng nhà thờ mới và vấn đề an ninh - xã hội;
8
3/Văn hóa tinh thần (lối sống; phong tục cưới xin, tang ma..)
1.2. Tổng quan về làng dệt Phƣơng La
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư và lịch sử hình thành làng
1.2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên: Phương La (tên Nôm là làng
Mẹo) thuộc xã Thái Phương, nằm ở phía Tây Nam huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình, có diện tích tự nhiên là 242,768 ha; hình thù làng
giống một cái vó bè, cả bốn góc đều có các đường dẫn vào làng.
1.2.1.2. Dân cư: Phương La là vùng đất cổ, nơi hội tụ của dân di
cư từ nhiều nơi khác đến. Làng có dân số đông, vào 1927, làng có
1528 dân. Con người nơi đây bôn ba, bươn trải, di cư qua nhiều vùng
để mưu sinh nên rất chăm chỉ, cần cù, sáng tạo; nhanh thích ứng …
1.2.1.3. Vài nét về lịch sử hình thành làng: Theo lưu truyền dân
gian, Phương La hình thành từ cuối triều Lý trên vùng đất tự nhiên
sông nước thuộc phủ Long Hưng, một trong 24 phủ thời Trần, gắn
với công lao của Hoằng Nghị Đại Vương, là thân sinh của Thái sư
Trần Thủ Độ. Quá trình lập làng gắn với sự chung lưng đấu cật của
10 dòng họ (Trần, Nguyễn, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn, Đinh).
1.2.2. Nghề dệt làng Phương La trong xã hội truyền thống
1.2.2.1. Nguồn gốc nghề dệt: Nghề dệt ở Phương La có từ bao giờ
và tổ nghề dệt là ai, đến nay, vẫn còn là dấu hỏi. Chỉ biết rằng, từ thời
Trần, dân làng Phương La đã phát triển nghề dệt. Các bậc cao niên
trong làng giải thích, có một thời, tên làng là “Hương La”, nghĩa là lụa
thơm, lụa này nổi tiếng dùng để tiến vua, đối ngoại với các nước láng giềng.
1.2.2.2. Nguyên liệu dệt: Nguyên liệu để dệt đơn giản là tơ tằm,
mua của người các làng xã lân cận.
1.2.2.3. Công cụ dệt: Công cụ dệt của làng Mẹo đơn giản, thủ
công, bao nhiêu năm vẫn là khung con phượng - khung con cò. Bộ
9
công cụ của nghề dệt bao gồm khung cửi, dụng cụ đánh sa, đánh suốt
để tạo nên những con thoi; bàn mắc, bàn tráng, tạo nên những hoa cửi
1.2.2.4. Tổ chức sản xuất và phân công lao động: Việc tổ chức sản
xuất của làng Phương La đều theo quy mô hộ gia đình, tự sản, tự tiêu...
Trong gia đình, người phụ nữ đảm nhiệm công việc dệt là chính.
1.2.2.5. Sản phẩm dệt: Sản phẩm của làng Mẹo xưa đơn giản chỉ
là lụa, vải vuông và các sản phẩm từ tơ tằm.
1.2.2.6. Việc tiêu thụ và thu nhập: Hình thức tiêu thụ sản phẩm
của người làng Mẹo xưa rất đơn lẻ, tiêu thụ tại chợ làng. Người dân
dùng khớp cột đình để đo độ rộng hẹp của lụa.
1.2.2.7. Truyền nghề và học nghề: Người làng Mẹo luôn tôn trọng
truyền thống giữ bí quyết nghề và truyền nghề theo kiểu “cha truyền con
nối”, chỉ truyền nghề cho con trai; chủ yếu là để giữ nghề.
1.2.3. Văn hóa làng Phương La trong xã hội truyền thống
1.2.3.1. Văn hóa vật chất
Không gian, cảnh quan làng: Làng Phương La xưa là một cộng
đồng bền chặt, tự trị, khép kín, được bao bọc bởi lũy tre làng. Mỗi gia
đình ở một khoảnh đất riêng rộng rãi, ở trung tâm làng. Không gian
của làng thoáng đãng với hệ thống đường làng, ngõ xóm ngoằn ngoèo;
vườn cây, ao chuôm rộng rãi; làng khép kín, “biệt lập” với bên ngoài.
Các di tích tín ngưỡng, tôn giáo: Làng Phương La có đủ cả
đình, chùa, miếu, nhà thờ họ…; trong đó, còn nhiều cổ vật quý. Nổi
bật trong các di tích ấy là Đình Đông, chùa Ứng Mão.
1.2.3.2. Văn hóa xã hội của làng Phương La
Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của làng Phương La gồm một
hệ thống các thỉết chế dựa theo các hình thức tập hợp người: dòng họ;
xóm ngõ; giáp; kỳ mục và chức dịch, phường hội.
10
- Dòng họ: Làng có 10 dòng họ là Trần, Nguyễn, Đào, Phạm,
Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn, Đinh. Họ Trần về lập ấp ở Phương La sớm
nhất và là dòng họ có nhiều chi, số đinh đông nhất (33% dân số làng).
- Xóm, làng Phương La có bốn xóm, xóm Vượt là xóm có đình,
có chợ, ở trung tâm làng; xóm Đống; xóm Điếm và xóm Cầu Tiên.
- Giáp: Theo các bậc cao niên, bốn thôn của làng có tám giáp,
giáp của làng Phương La được tập hợp theo dòng họ.
- Hội đồng kỳ mục: Một thời gian dài, làng Phương La là một
khối thống nhất. Sau, do mâu thuẫn trong sinh hoạt, làng phân thành
hai khu, lấy đình Đông làm trung tâm: phía Đông Đình và Tây Đình.
Mỗi khu là một “thôn”, có bộ máy điều hành như hội đồng kỳ mục.
Đây là hiện tượng chia tách không phổ biến ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
- Bộ máy chức dịch: Trước Cách mạng tháng Tám 1945, làng
Phương La cũng là một xã, có một bộ máy chức dịch thực hiện nhiệm vụ
giữ gìn an ninh, thu thuế, điều động binh dịch cho nhà nước phong kiến.
- Phường hội: Xưa, Phương La cũng có các tổ chức phường hội,
như hội Tư văn, hội Tư võ, hội Lão nhiêu... Ngoài ra, làng còn có các
phường nghề, phường tiền để tương trợ, giúp đỡ nhau khi khó khăn.
Hệ thống ngôi thứ trong đình: Xã Hương La xưa (Phương La
nay) cũng quy định các thứ hạng để hưởng bổng lộc và thực hiện
chức trách. Ngoài ngôi thứ dành cho những người có tiêu chuẩn về
bằng cấp, phẩm hàm, chức tước và tuổi tác, Phương La còn có các
ngôi thứ dành cho những người bỏ tiền ra mua như lý trưởng, phó lý,
chùm, giám sự ... Những chức mua này, ra làng cũng được chia các phần
biếu: Trùm được chia đầu gà (hoặc má lợn); Lý trưởng được chia cẳng
giò, phẩm oản; Giám sự được chia miếng nây (miếng bụng) lợn.
1.2.3.3. Văn hóa tinh thần của làng Phương La
11
Việc cưới và việc tang
- Việc cưới: Ngày trước, con cái trong nhà đến tuổi lấy vợ, lấy
chồng đều do bố mẹ sắp đặt. Việc cưới quy định lệ nộp cheo, con gái
lấy chồng nộp tiền cheo, rượu, trầu caun và không được đi lấy chồng
làng khác. Con rể chưa cưới phải sêu Tết bố mẹ vợ tương lai vào
mùng năm tháng Năm, gồm một con ngỗng cùng năm cân đỗ xanh;
dạm ngõ phải có một gà trống và năm đấu gạo nếp.
- Việc tang (việc hiếu): các phong tục tập quán của làng Phương
La được ghi chép trong bản “Tục lệ xã Phương La” lưu giữ tại Viện
Nghiên cứu Hán Nôm. Văn bản được lập ngày 22 tháng Năm năm Tự
Đức thứ 34 (1881), gồm 19 Điều, trong đó có 13 Điều liên quan đến
việc tang, quy định từ việc báo tang, làm nhà tạm đến việc bắc rạp,
hộ tang của họ tộc, của giáp, lệ biếu giáp và mời đãi những người hộ tang.
Các lễ tiết và hội làng
Các lễ tiết trong năm của làng Phương La, gồm: Tết Nguyên
Đán, Lễ tế, Lễ hợp kỵ, Lễ Thượng nguyên… Hội làng Phương La tổ
chức từ ngày 20 đến ngày 25 tháng mười, tái hiện nhiều diễn xướng
dân gian, trong đó có mô phỏng tục truyền nghề ươm tơ dệt lụa.
Tiểu kết
Trên cơ sở kế thừa lý luận của các học giả đi trước, Luận án đã
phân tích và làm rõ thêm các khái niệm làng nghề, văn hóa làng nghề
và biến đổi văn hóa làng nghề. Phương La là một làng cổ được hình
thành và phát triển vào cuối triều Lý, gắn với công lao khai ấp, mở
làng, lập chợ, truyền cho dân nghề dệt của Trần Hoằng Nghị. Ngoài
họ Trần, còn các dòng họ Nguyễn, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ,
Đoàn, Đinh cùng chung lưng đấu cật để gây dựng và phát triển làng.
Xưa, Phương La nổi tiếng là vùng đất trù mật, sản xuất nông nghiệp
12
và nghề thủ công rất phát triển. Sản phẩm lụa của làng nổi tiếng khắp
vùng. Phương La còn lưu giữ được cả một quần thể di tích, công
trình lịch sử văn hóa như Đình Đông, chùa Ứng Mão, các đền
miếu… và nhiều nhà thờ dòng họ. Hội làng Phương La là nơi tái hiện
các nghi thức của cư dân lúa nước; cũng là nơi bảo lưu, trao truyền
và thể hiện những giá trị văn hóa của địa phương… Tóm lại, có một
văn hóa làng nghề Phương La trên nền cảnh chung của văn hóa làng
Việt ở châu thổ Bắc Bộ.
Chƣơng 2
NGHỀ DỆT VÀ VĂN HÓA VẬT CHẤT
CỦA LÀNG PHƢƠNG LA HIỆN NAY
2.1. Nghề dệt của làng Phƣơng La hiện nay
2.1.1. Việc sử dụng và thu mua nguyên liệu dệt
Nguyên liệu rất phong phú đa dạng (bông tự nhiên, nhân tạo, tơ
tằm..) và thông dụng, được mua từ nhiều nơi, hay nhập khẩu ở nước
ngoài. Hình thành thị trường nguyên liệu cung cấp sợi cho Phương La
và các địa phương khác theo hợp đồng có tính pháp lý, ổn định, bền vững.
2.1.2. Về công cụ dệt
Công cụ dệt luôn được sáng tạo, đổi mới, cải tiến: từ thủ công
thô sơ, đến các máy dệt hiện đại. Nhờ vậy, người thợ đỡ mất sức lao
động mà năng suất tăng nhiều lần. Việc chuyển từ lao động cơ bắp
sang lao động trí tuệ, thủ công sang công nghiệp để kịp thời ứng xử
với guồng dệt của máy móc đã giúp tư duy người thợ đổi mới từ
chậm chạp, đủng đỉnh sang nhanh nhẹn, năng động.
13
2.1.3. Về tổ chức sản xuất
Nhờ công cuộc Đổi mới, người Phương La đổi mới trong tổ
chức sản xuất: sản xuất theo hộ gia đình, sản xuất theo tổ hợp và
sản xuất theo công ty, xí nghiệp. Quy trình sản xuất mới với công
nghệ hiện đại, năng suất, chất lượng cao mang lại cho người dân
đời sống sung túc; đồng thời, tạo cho người Phương La có tư duy
quản lý, suy nghĩ vượt trội hơn những người khác. Từ tư duy “trọng
nông”, lấy lương thực làm đầu, cuộc sống “tự cung, tự cấp”, “an
phận” sang tư duy “kinh tế hàng hóa, thị trường”, phấn đấu trở
thành “ông chủ”… Đây là những yếu tố góp phần tạo nên sự biến
đổi của văn hóa; hình thành lối sống, nét tính cách của người
Phương La.
2.1.4. Về sản phẩm
Từ năm 1990, người Phương La đã chuyển hướng chủ yếu dệt
khăn bông các loại cho thị trường trong nước và quốc tế.
2.1.5. Về hình thức tiêu thụ sản phẩm
Các ông chủ của thời kỳ đổi mới phát huy trí tuệ, đẩy mạnh sản
xuất, ký kết hợp đồng với các tỉnh trong nước và các công ty nước
ngoài để xuất khẩu hàng khăn các loại với khối lượng lớn, đem lại
thu nhập mỗi năm hàng tỷ đồng cho các doanh nghiệp. Có điều kiện
kinh tế, người Phương La tăng cường được các mối quan hệ, tự tin
khẳng định mình, tạo được niềm tin trong làm ăn, tham gia các hoạt
động xã hội, từ thiện… góp phần hình thành văn hóa tinh thần, lối
sống của người Phương La.
2.1.6. Về cách thức truyền nghề và học nghề
Việc truyền nghề bây giờ đã “mở” hơn rất nhiều, truyền nghề
cho mọi người học việc, cạnh tranh những thợ có tay nghề cao để
14
phát triển sản xuất. Nhóm đối tượng được gia đình truyền nghề hiện
nay chủ yếu là lao động trẻ, thanh niên.
2.2. Văn hóa vật chất của làng dệt Phƣơng La hiện nay
2.2.1. Không gian, cảnh quan làng
Ao, vườn được san lấp làm nhà xưởng sản xuất, lượng cây xanh
trong làng và ngoài đường ít đi, không gian công cộng cũng bị thu
hẹp. Đường chính dẫn vào làng người đông tấp nập, thậm chí tắc
đường. Phương La nhà cửa san sát nhau, đường ngang ngõ dọc
không khác thành phố là mấy. Bờ rào, bờ dậu, vườn ao đã được thay
thế bằng nhà xưởng, sân nền bê tông. Nhà nào cũng kín cổng, cao
tường, thể hiện sự riêng tư, độc lập của các gia đình, biểu hiện lối
sống đô thị độc lập, đề cao sở hữu cá nhân và sự riêng tư của không
gian sinh sống ở mỗi gia đình.
2.2.2. Việc phục dựng, tu bổ các di tích
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, hệ thống di tích đình, đền,
chùa, miếu ở Phương La được quan tâm dựng mới hoặc tôn tạo
khang trang và quy củ, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống của địa phương; khơi dậy lòng tự hào... Tuy nhiên, việc
trùng tu cũng làm mất đi sự cổ kính, tính đồng nhất của di tích; việc
thực hiện lễ nghi cũng có những biến đổi, có biểu hiện ganh đua…
Tiểu kết
Nghề dệt phát triển, công cụ sản xuất được luôn cải tiến, đổi
mới, mang lại nguồn thu rất lớn cho người dân. Do nhu cầu sản phẩm
ngày một tăng, truyền nghề cho tất cả những người đến làm thuê.
Ngày nay, nghề dệt khăn của làng Phương La phát triển, được nhiều
công ty, xí nghiệp, tổ hợp xuất hiện; nhiều tỷ phú thành đạt từ dệt
khăn. Sản phẩm của làng dệt có mặt không chỉ trên thị trường trong
15
nước mà cả nhiều nước trên thế giới. Đời sống nhân dân trong xã nói
chung, các hộ làm nghề dệt không ngừng được nâng cao. Đây là một
trong những yếu tố tác động góp phần tạo lên những vấn đề nổi bật
về văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La.
Không gian cảnh quan làng biến đổi, đường làng, ngõ xóm không khác
gì thành phố; ao hồ, vườn cây xanh đã bị biến mất, thay vào đó là các
nhà xưởng sản xuất, khu chứa nguyên liệu… Đây là một trong những
yếu tố tác động góp phần tạo nên những vấn đề nổi bật về văn hóa xã
hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La.
Chƣơng 3
VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA TINH THẦN
CỦA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA HIỆN NAY
3.1. Văn hóa xã hội của làng dệt Phƣơng La hiện nay
3.1.1. Sự hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp
3.1.1.1. Sự hình thành các chủ doanh nghiệp và vai trò của họ
trong đời sống kinh tế- xã hội và văn hóa của làng
A. Sự hình thành các chủ doanh nghiệp: Sản xuất phát triển,
hình thành các công ty, doanh nghiệp; đồng thời, là sự hình thành và
trưởng thành của đội ngũ giám đốc, các chủ cơ sở sản xuất. Tại làng
Phương La hiện có khoảng 50 doanh nghiệp. Họ có vai trò ký kết hợp
đồng, chủ động tìm nguồn nguyên liệu rẻ, hình thành hệ thống tổ
chức, sản xuất đảm bảo chất lượng, đảm bảo việc tiêu thụ sản phẩm.
Ba yếu tố trên thúc đẩy sản xuất phát triển.
B. Vai trò của các chủ doanh nghiệp ở Phương La trong đời
sống kinh tế - xã hội và văn hóa của làng: Các chủ doanh nghiệp ở
16
Phương La đã tạo công ăn việc làm cho 78.000 người, ủng hộ tiền
bạc và công sức để xây dựng các công trình phúc lợi của làng xã, hỗ
trợ phục hồi, trùng tu, xây mới các di tích. Họ là động lực quan trọng
để duy trì và thúc đẩy làng nghề phát triển…Tầng lớp chủ doanh
nghiệp ra đời cũng tạo ra những mặt trái cho xã hội: gia tăng sự phân
hóa giàu nghèo, hình thành các giai tầng xã hội khác nhau; tạo ra nhu
cầu hưởng thụ văn hóa khác nhau... dễ dẫn đến sự pha tạp, biến dạng
của văn hóa tâm linh.
3.1.1.2. Các mối quan hệ xã hội mới xuất hiện trong quá trình
làm nghề : Quan hệ trước đây của những người dân trong làng là mối
quan hệ dòng họ, huyết thống và quan hệ cộng đồng làng xóm, giờ
đây hình thành những mối quan hệ xã hội mới: quan hệ giữa những
ông chủ doanh nghiệp, giữa chủ doanh nghiệp với công nhân lao
động … Việc xuất hiện các mối quan hệ mới góp phần làm cho dân
làng tự tin, năng động và càng thận trọng giữ gìn các mối quan hệ.
3.1.2. Hiện tượng tách họ, dựng nhà thờ mới
3.1.2.1. Nguyên nhân tách họ: Công cuộc Đổi mới cùng sự phát
triển của kinh tế đã tạo điều kiện cho việc phục hưng dòng họ. Qua
thời gian, ở nhiều địa phương, một số dòng họ đã xảy ra tranh chấp
về thế thứ; dẫn đến mâu thuẫn, không cùng tổ chức các sinh hoạt
chung. Phương La kinh tế phát triển, có một số doanh thích phô trương.
3.1.2.2. Thực trạng hiện tượng tách họ, dựng nhà thờ mới ở
làng dệt Phương La: Nghề dệt phát triển, kinh tế giàu có, song cũng vì
thế mà nảy sinh bất hòa, mâu thuẫn trong các mối quan hệ ruột thịt, họ
hàng, điển hình là sự mâu thuẫn trong các dòng họ, dẫn đến tách họ,
dựng nhà thờ mới, tổ chức cúng lễ riêng, sinh hoạt họ cũng bị chia tách
(như họ Trần, họ Đỗ, họ Đào …). Đây cũng là biểu hiện của sự rạn nứt
17
tính cố kết cộng đồng dòng họ, làng xã trong điều kiện CNH - HĐH và
hội nhập quốc tế.
3.1.3. Vấn đề an ninh - xã hội
Nghề phát triển, quá trình công nghiệp hóa cùng với sự xuất
hiện của những người lao động làm thuê đã khiến cho vấn đề an ninh
- xã hội của Phương La luôn tiềm ẩn những phức tạp: quá tải về mật
độ dân số, hạ tầng cơ sở; tỷ lệ sinh con thứ ba, thứ tư cao; tiềm ẩn
trong một vài gia đình đã có con bị nghiện…
3.2. Văn hóa tinh thần của làng dệt Phƣơng La hiện nay
3.2.1. Lối sống, tâm lý của người Phương La
3.2.1.1. Sự hình thành nhịp sống và tác phong, lối sống công nghiệp
Nghề dệt chiếm ưu thế và chuyển sang sản xuất công nghiệp,
người dân từng bước thay đổi lối sống truyền thống, dần chuyển
thành công nhân. Từ nhịp sống mùa vụ, nông nghiệp sang nhịp sống
công nghiệp chưa đầy đủ, có sự pha trộn, đan xen, chưa hẳn là nhịp
sống đô thị nhưng khẩn trương, gấp gáp và năng động hơn. Cuộc
sống có nhiều thay đổi, mối quan hệ xã hội cũng đổi thay; lối sống đô
thị, công nghiệp đã và đang hình thành, tồn tại đan xen với lối sống
nông nghiệp tình nghĩa làng quê trong làng Phương La.
3.2.1.2. Tính cách người làm nghề : Tính cần cù, kiên nhẫn;
Tính nhanh nhạy, sáng tạo, quyết tâm và khát vọng làm giàu; Tính
mưu mẹo, tính toán và tiết kiệm; Tính cố kết cộng đồng; Tính cách
cư dân thành thị bước đầu hình thành
3.2.2. Phong tục cưới xin, tang ma
3.2.2.1. Việc cưới xin: Ngày nay, trai gái ở Phương La tự do hôn
nhân, việc mời cưới rất rộng, cỗ cưới được đặt sẵn, quà mừng cưới là
tiền, rước dâu bằng xe ô tô dù khoảng cách gần. Để tiết kiệm được
18
thời gian, người Phương La tổ chức ăn cưới sớm vào 8 giờ sáng. Việc
cưới ở làng Phương La cơ bản vẫn giữ được những lễ nghi phù hợp
với truyền thống. Tuy nhiên, hiện tượng đón dâu hai lần diễn ra khá
phổ biến, trong tổ chức lễ cưới vẫn có biểu hiện ganh đua…
3.2.2.2. Việc tang: Về cơ bản, các thủ trong việc tang vẫn được
duy trì, những tiết chính vẫn diễn ra theo đúng trình tự xưa. Các hủ tục
dần xóa bỏ, không còn tình trạng “người mất, lợn ngả theo”. Người
Phương La vẫn chưa quen việc hỏa táng, nhiều gia đình khi bố mẹ mất
đi, coi trọng việc mời thầy địa lý về xem đất để đặt mộ; mua đất xí phần…
3.2.3. Hội làng
Hội làng Phương La vẫn diễn ra tại đình Đông từ ngày 20 đến
ngày 25 tháng 10 âm lịch. Người trảy hội tăng lên rất nhiều, thành
phần tham gia lễ hội cũng phong phú hơn. Lễ hội phục hưng một số trò
hội vốn đã bị mai một; từng bước đưa các sinh hoạt văn hoá hiện đại
vào, thu hút nhân dân tham gia. Tuy nhiên, hoạt động thi dệt vải, thi
đấu gậy đã không còn. Mỗi dòng họ, nhiều gia đình có đoàn tế riêng
cầu kỳ, tốn kém và dễ dẫn đến làm biến dạng hoạt động tâm linh.
Tiểu kết
Việc hình thành các công ty, doanh nghiệp làm cho làng nghề
Phương La ngày càng giàu có, nhiều tỷ phú nổi lên, dẫn tới hình
thành tầng lớp chủ doanh nghiệp và xuất hiện các mối quan hệ mới
trong làng nghề. Quá trình đô thị hóa, nhất là kinh tế phát triển đã tác
động đến đời sống văn hóa - xã hội của làng. Vốn là làng cổ, các
dòng họ về sinh sống đã được nhiều đời, ngày một đông, cộng thêm
sự tác động của các yếu tố kinh tế,... đã dẫn đến tách họ, xây nhà thờ
mới, chi phối tính cố kết cộng đồng, dòng họ. Nghề dệt phát triển,
làng Phương La luôn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp: quá tải về mật
19
độ dân số, tiềm ẩn trong một vài gia đình đã có con bị nghiện…Khi
nghề dệt chiếm ưu thế và chuyển sang sản xuất công nghiệp, người
dân thay đổi lối sống truyền thống, nhưng các lễ tiết, phong tục vẫn
được bảo lưu, coi trọng và thể hiện theo nhịp điệu của đời sống nông
nghiệp mùa vụ nhưng được đầu tư và tiến hành trang trọng hơn…
Tuy nhiên, thực hành lễ nghi có những biểu hiện chưa đúng với truyền
thống, một số giá trị văn hóa trong lễ hội còn mờ nhạt…
Chƣơng 4
NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
4.1. Những tác động của biến đổi văn hóa làng dệt Phƣơng La
đến kinh tế - xã hội và văn hóa của làng
Nghề phát triển, nhiều “ông chủ” ra đời dẫn đến phân hóa giàu
nghèo sâu sắc. Vấn đề về xã hội nảy sinh: an ninh trật tự, không gian
cảnh quan, môi trường… Việc chấp hành chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước của người dân chưa cao. Biểu hiện suy giảm tính
cộng đồng: xu hướng tách họ, lập nhà thờ mới; một bộ phận cư dân ít
tham gia vào các hoạt động chung... Kiến trúc làng thiếu đồng bộ.
4.2. Dự báo xu hƣớng văn hóa làng dệt Phƣơng La trong thời gian tới
4.2.1. Xu hướng chú trọng, đề cao các giá trị văn hóa truyền thống
“Phú quý sinh lễ nghĩa”, vì thế, các lễ nghi được tăng cường,
khôi phục, các lễ nghi mới được cập nhật và sáng tạo. Sự thay đổi
này kéo theo những sự thay đổi lớn trong cộng đồng làng, dễ dẫn đến
sự pha tạp, biến dạng của văn hóa tâm linh…
4.2.2. Xu hướng đa dạng văn hóa
Những người đến làm thuê đã mang theo tập tục, những nét văn
20
hóa riêng góp phần làm phong phú thêm văn hóa của làng Phương
La: từ âm ngữ, giọng nói, nét sinh hoạt, phong tục tập quán…
4.2.3. Xu hướng phân hóa trong đời sống văn hóa
Phương La giờ đây có không gian làng rất „„mở‟‟. Sự tăng
nhanh mức sống, sinh hoạt của các gia đình khác nhau, dẫn đến sự
phân hóa trong đời sống văn hóa, từ quan niệm về văn hóa, thực hành
các lễ thức thờ cúng... Đặc biệt, sự phân hóa về trình độ học vấn, khả
năng nhận thức của người dân trong làng nghề càng rõ nét.
4.2.4. Xu hướng đề cao vai trò cá nhân, thích thể hiện mình
Trong xu hướng phát triển của tương lai, chắc chắn có sự cạnh
tranh gay gắt giữa chủ cơ sở sản xuất trong từng làng nghề cũng như
giữa các làng nghề và khi đó những mặt hạn chế, tiêu cực của người
làng nghề sẽ có dịp bộc lộ, đó là sự đề cao, thích thể hiện mình... dễ
dẫn đến sự ganh đua thiếu lành mạnh giữa các cá nhân, dòng họ.
4.3. Đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng dệt
Phƣơng La
4.3.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng
Đời sống văn hóa cơ sở ở làng nghề
4.3.1.1. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho người dân:
Người làng nghề, có mối quan hệ giao lưu rộng, cần phải hiểu biết
toàn diện về pháp luật, nhất là Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật
bảo vệ môi trường.... nên các cấp chính quyền cần nâng cao nhận
thức về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước cho
nhân dân; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành
pháp luật của người dân; xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.
4.3.1.2. Cần phải có biện pháp mạnh để ngăn chặn, phòng ngừa
sự gia tăng của các tệ nạn xã hội: Phải phòng ngừa, ngăn chặn hiệu
21
quả các tệ nạn xã hội; xử lí nghiêm minh, triệt để đối với các loại đối
tượng này. Đây là việc làm cấp bách không của riêng ai; gia đình
cùng nhà trường, địa phương quản lý tốt hoạt động của con em.
4.3.1.3. Tăng cường các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao:
Phải thành lập các đội văn nghệ, thể thao của các dòng họ, sử dụng các
từ đường dòng họ, các thiết chế văn hoá của thôn làng để giao lưu giữa
các dòng họ,… tạo không khí sôi nổi, vui tươi, đoàn kết, gắn bó tình
cảm giữa các cá nhân, gia đình, dòng họ.
4.3.2. Nhóm giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
4.3.2.1. Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống: Bảo tồn, tôn
tạo các di tích thờ cúng; Bảo tồn các lễ thức thờ cúng, hội làng theo
đúng khuôn mẫu của các cụ ta xưa. Tuyên truyền, vận động làm cho
mọi người hiểu đủ, đúng về các giá trị văn hóa đó.
4.3.2.2. Phát triển làng nghề kết hợp với phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống để phát triển du lịch: Phải đánh giá được giá trị
của các di tích, lễ hội và các giá trị văn hóa khác như sản phẩm nghề,
các truyền thuyết… Làm tốt công tác tuyên truyền quảng bá, khôi
phục một số trò diễn dân gian, tục thi tay nghề… nhằm phát triển
được kinh tế lại bảo lưu, phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Phát
huy vai trò của các nghệ nhân và cần có chính sách đãi ngộ, tôn vinh
các nghệ nhân; cần quy hoạch không gian kiến trúc, cảnh quan…
4.3.3. Nhóm giải pháp về phát triển nghề
4.3.3.1. Quy hoạch làng nghề, tạo điều kiện mở rộng mặt bằng
sản xuất: Hiện nay, người dân không còn nhu cầu làm nông nghiệp vì
thu nhập thấp nên ruộng bị bỏ hoang, các cấp chính quyền tạo điều
kiện để các chủ cơ sở sản xuất thuê lại ruộng đất, mở rộng nhà xưởng,
thu thuế đất theo quy định của Nhà nước, lấy kinh phí xây dựng hạ tầng…
22
4.3.3.2. Hoàn thiện hệ thống giao thông; cung cấp điện, nước; giải
quyết triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường: Cần hoàn thiện hệ thống giao
thông đảm bảo cho lưu lượng xe và người tham gia hàng ngày. Đảm
bảo điện ổn định và nước cho người dân. Cần khống chế, đẩy lùi ô
nhiễm môi trường; quy hoạch tổng thể cho làng nghề.
4.3.3.3. Xây dựng đội ngũ doanh nhân - yếu tố giữ vai trò quyết
định việc duy trì và phát triển nghề: Đội ngũ doanh nhân có phẩm chất,
năng lực cạnh tranh thời hội nhập vô cùng quan trọng trong giữ gìn
và phát triển nghề, làng nghề. Cần mở lớp tập huấn về nghiệp vụ
quản lý, tiếp thị, ngoại ngữ cho họ. Thành lập hiệp hội doanh nghiệp
để các chủ doanh nghiệp học hỏi kinh nghiệm.
Tiểu kết
Nghề phát triển, đời sống người dân nâng cao, đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến biến đổi văn hóa làng nghề, có những
biến đổi tích cực và cả những biến đổi chưa phù hợp với truyền
thống, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi mặt đời sống xã hội của làng. Dự
báo xu hướng biến đổi của văn hóa làng nghề Phương La trong thời
gian tới là: phục hồi các giá trị truyền thống; đa dạng văn hóa; sự
phân hóa trong đời sống văn hóa; đề cao vai trò cá nhân;…
Từ những nhận định, đánh giá trên, Luận án đề xuất ba nhóm
giải pháp bảo tồn, phát triển văn hóa làng nghề giai đoạn CNH -
HĐH, gồm: bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; nâng
cao hiệu quả quản lý hoạt động xây dựng Đời sống văn hóa cơ sở ở
và giải pháp về phát triển nghề.
23
KẾT LUẬN
1. Trên cơ sở kế thừa lý luận của các học giả đi trước, Luận án
sử dụng lý thuyết về biến đổi văn hóa và xã hội của các nhà Xã hội
học; từ đó, phân tích và làm rõ thêm khái niệm làng nghề, văn hóa
làng nghề và biến đổi văn hóa làng nghề. Dựa vào lý thuyết và
những khái niệm trên, Luận án giải quyết các vấn đề được đặt ra. Văn
hóa làng nghề mà Luận án đề cập, không đơn thuần là số cộng giữa
văn hóa làng và văn hóa nghề, mà là một dạng đặc thù, là một phức
thể các yếu tố văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần
của làng nghề, giữa nghề và làng, giữa con người và các yếu tố ngoài
con người, quan hệ mật thiết với nhau, ràng buộc và phụ thuộc, tác
động vào nhau… Ngoài các yếu tố chung của văn hóa làng Việt, văn
hóa làng nghề có yếu tố đặc thù, như nhịp sống, tâm lý và tính cách
của người làng nghề… Căn cứ các yếu tố trên, Đề tài Biến đổi văn
hóa làng dệt Phương La (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) phân tích,
lý giải: 1/Tổng quan làng dệt Phương La; 2/ Nghề dệt và văn hóa vật
chất làng Phương La hiện nay; 3/Văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần
của làng dệt Phương La hiện nay; 4/ Những vấn đề rút ra từ việc
nghiên cứu biến đổi văn hóa làng dệt Phương La.
2. Từ 1986, với đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước; các hộ
gia đình trở lại vai trò là đơn vị kinh tế tự chủ. Sự thay đổi này cùng
với sự biến đổi tự thân của cuộc sống đã tác động sâu sắc đến nghề
thủ công của làng. Công cụ sản xuất được người Phương La cải tiến,
sản phẩm của làng có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trong nước và
nhiều nước trên thế giới. Với sự năng động của người Phương La;
các công ty xuất hiện ngày một nhiều, làm cho Phương La càng giàu có.
3. Quá trình CNH - HĐH, nhất là kinh tế phát triển đã tác động
24
đến đời sống văn hóa - xã hội của làng, đặt ra hàng loạt những thách
thức cho sự phát triển văn hóa của làng nghề. Môi trường cảnh quan
biến đổi, một số vấn đề văn hóa truyền thống bị mai một, an ninh trật tự
có nhiều bất cập…. Vốn là làng cổ, các dòng họ về sinh sống đã được
nhiều đời, ngày một đông, cộng thêm sự tác động của các yếu tố kinh tế,
những ông chủ doanh nghiệp muốn khẳng định mình đã dẫn đến việc
tách họ, xây nhà thờ mới. Các di tích tín ngưỡng luôn được quan tâm,
tu bổ nên đều rất quy củ nhưng tu bổ đôi khi làm mất đi sự đồng nhất
trong kiến trúc. Làm nghề đã tạo cho người dân có tác phong công
nghiệp, lối sống gần với người thành thị, con người ít có thời gian để
tham gia hoạt động xã hội. Tuy vậy, tính cố kết cộng đồng ở Phương
La vẫn bền chặt, trật tự của dòng họ, làng xã vẫn được giữ vững. Từ
những vấn đề đã trình bày, Luận án đưa ra một số giải pháp, bước đi thích
hợp giúp các làng nghề phát triển bền vững trong điều kiện CNH-HĐH.
4. Những kết luận trên được rút ra từ thực tế nghiên cứu, tìm
hiểu và phân tích về biến đổi văn hóa làng dệt Phương La. Luận án
đã chỉ ra biến đổi của nghề dệt truyền thống, những vấn đề nổi bật về
văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La hiện
nay. Chắc chắn, văn hóa và sự biến đổi văn hóa của làng Phương La
còn biểu hiện ở nhiều chiều cạnh khác nữa dưới tác động của quá
trình toàn cầu hóa, NCS sẽ tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG
BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Bùi Thị Dung (2012), “Phát triển làng nghề gắn với du
lịch”, Tạp chí Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, (11+12), tr.36.
2. Bùi Thị Dung (2012), “Văn hóa làng nghề Thái Bình trong
tiến trình xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật,
(339), tr.68 - 70.
3. Bùi Thị Dung (2015), “Về tầng lớp chủ doanh nghiệp ở
Phương La”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật; (371), tr.39 - 44.
4. Bùi Thị Dung (2015), “Tính cách người làng dệt Phương La”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (372), tr.104 -107.