Post on 24-Dec-2019
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BÁO CÁO NỘI DUNG NGHIÊN CỨU SỐ 8
NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH, VĂN BẢN PHÁP QUY CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM BẢO ĐẢM CHO VIỆC THỰC
HIỆN HIỆU QUẢ LỘ TRÌNH PHÂN BỔ LẠI CÁC BĂNG TẦN ĐƯỢC ĐỀ XUẤT PHÙ HỢP VỚI CHUYỂN ĐỔI CÔNG NGHỆ.
ĐỀ TÀI:
“Nghiên cứu, định hướng, phân bổ lại các băng tần 700/800/900/1800 MHz đáp ứng phát triển kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng”
Mã số: ĐTĐL-CN-01/16
Cơ quan chủ trì đề tài/dự án: Trung tâm Kỹ thuật- Cục Tần số vô tuyến điện
Chủ nhiệm đề tài/dự án: Ths. Đoàn Quang Hoan
Người chủ trì thực hiện nhánh đề tài
Lê Văn Tuấn
Hà Nội – 2018
MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................2
Danh mục hình vẽ..................................................................................................6
Danh mục bảng biểu..............................................................................................7
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt.................................................................8
I. NỘI DUNG CHÍNH CỦA BÁO CÁO............................................................10
1.1. Mở đầu.....................................................................................................10
1.2. Nội dung khoa học công nghệ của chuyên đề cần giải quyết..................11
1.3. Những công việc và quá trình thực hiện các nội dung nêu tại mục 1.2. . .11
1.4. Các kết quả đạt được................................................................................11
1.5. Kết luận và kiến nghị...............................................................................11
II. TRÌNH BÀY BÁO CÁO................................................................................14
CHƯƠNG 1. NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH, VĂN BẢN PHÁP QUY CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM ĐẢM BẢO CHO VIỆC THỰC HIỆN HIỆU QUẢ LỘ TRÌNH PHÂN BỔ LẠI BĂNG TẦN 700 MHz TẠI VIỆT NAM..................................................................................................15
1.1. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về chính sách quản lý và lộ trình chuyển đổi công nghệ băng tần 700 MHz...................................................................15
1.1.1. Mỹ...................................................................................................15
1.1.2. Canada.............................................................................................21
1.1.3. Châu Âu...........................................................................................21
1.1.4. APT.................................................................................................24
1.1.5. Nhật Bản..........................................................................................26
1.1.6. Úc....................................................................................................29
1.1.7. Anh..................................................................................................302
1.1.8. Đánh giá..........................................................................................32
1.2. Nghiên cứu chính sách quản lý, quy hoạch tần số đối với các băng tần 700MHz...........................................................................................................37
1.2.1. Nghiên cứu, đánh giá về chính sách quy hoạch băng tần 700 MHz tại Việt Nam..............................................................................................37
1.2.2. Nghiên cứu, đánh giá về chính sách quản lý và lộ trình chuyển đổi công nghệ băng tần 700 MHz tại Việt Nam..............................................46
1.2.3. Đánh giá chung................................................................................52
1.3. Đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 700MHz.....................................................................................................57
1.3.1. Đề xuất kế hoạch chuyển đổi kênh tần số truyền hình mặt đất băng tần UHF (470-806)MHz giai đoạn 2018-2020..........................................58
1.3.2. Cơ sở pháp lý để lập kế hoạch chuyển đổi kênh tần số UHF (470-806)MHz...................................................................................................59
1.3.3. Kết quả thực hiện quy hoạch kênh tần số theo thông tư 26/2013/TT-BTTTT và quyết định 80/QĐ-BTTTT......................................................59
1.3.4. Đánh giá..........................................................................................61
1.3.5. Đề xuất nguyên tắc lập kế hoạch chuyển đổi kênh tần số UHF giai đoạn 2018-2020.........................................................................................62
1.3.6. Đề xuất ban hành kế hoạch chuyển đổi kênh tần số UHF (470-806)MHz giai đoạn 2018-2020.................................................................63
1.3.7. Đề xuất nguyên tắc kết hợp số hóa truyền hình với phủ sóng truyền hình số qua vệ tinh đối với các tỉnh có địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa .........................................................................................................67
1.3.8. Đề xuất chính sách hỗ trợ đầu thu truyền hình số qua vệ tinh (DTH) đối với địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa.............................................72
1.3.9. Đề xuất bổ sung, sửa đổi một số quy định tại Quyết định 2451/QĐ-TTg .........................................................................................................74
Kết luận.....................................................................................................75
3
CHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH, VĂN BẢN PHÁP QUY CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM ĐẢM BẢO CHO VIỆC THỰC HIỆN HIỆU QUẢ LỘ TRÌNH PHÂN BỔ LẠI BĂNG TẦN 800 MHz TẠI VIỆT NAM..................................................................................................76
2.1. Nghiên cứu chính sách quản lý, quy hoạch tần số đối với băng tần 800 MHz tại Việt Nam...........................................................................................77
2.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 800 MHz......................................79
2.2.1. Phương án quy hoạch lại băng tần 800 MHz..................................79
2.2.2. Hiện trạng sử dụng băng tần 800 MHz tại Việt Nam......................80
2.2.3. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý đối với băng tần 800 MHz...............................................................................81
2.2.3.1. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi hệ thống RFID hoạt động ở băng tần 866-868 MHz..............81
2.2.3.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách chuyển đổi đối với hệ thống viba truyền dẫn phát thanh hoạt động ở băng tần 845-851 MHz....................................................................................................84
CHƯƠNG 3. NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH, VĂN BẢN PHÁP QUY CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM ĐẢM BẢO CHO VIỆC THỰC HIỆN HIỆU QUẢ LỘ TRÌNH PHÂN BỔ LẠI BĂNG TẦN 900 MHz TẠI VIỆT NAM..................................................................................................89
3.1. Nghiên cứu chính sách quản lý, quy hoạch tần số đối với băng tần 900 MHz tại Việt Nam...........................................................................................90
3.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 900 MHz......................................93
3.2.1. Phương án quy hoạch lại băng tần 900 MHz..................................93
3.2.2. Hiện trạng sử dụng băng tần 900 MHz tại Việt Nam......................94
3.2.3. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 900 MHz...................94
3.2.3.1. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý giới hạn số lượng phổ tần tối đa mà mỗi doanh nghiệp được nắm giữ ở băng tần
4
dưới 1 GHz......................................................................................................95
3.2.3.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý, chuyển đổi công nghệ di động thế hệ 2, thế hệ 3..........................................100
CHƯƠNG 4. NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH, VĂN BẢN PHÁP QUY CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM ĐẢM BẢO CHO VIỆC THỰC HIỆN HIỆU QUẢ LỘ TRÌNH PHÂN BỔ LẠI BĂNG TẦN 1800 MHz TẠI VIỆT NAM................................................................................................112
4.1. Nghiên cứu chính sách quản lý, quy hoạch tần số đối với hệ thống thông tin di động IMT (4G) trên băng tần 1800 MHz tại Việt Nam hiện nay........112
4.1.1. Xu hướng triển khai công nghệ di động băng rộng trên các băng tần 1800 MHz................................................................................................112
4.1.2. Nhu cầu sử dụng thông tin di động băng rộng trong nước............112
4.1.3. Chính sách quản lý, quy hoạch tần số thúc đẩy phát triển công nghệ IMT trên băng tần 1800 MHz.................................................................113
4.1.4. Nhận xét........................................................................................115
4.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 1800 MHz..................................116
4.2.1. Phương án quy hoạch lại băng tần 1800 MHz....................................116
4.2.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 1800 MHz..................................117
4.2.3. Kết luận.........................................................................................138
KẾT LUẬN.......................................................................................................140
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................142
5
Danh mục hình vẽ
Hình 1: Phương pháp nghiên cứu của nhánh nghiên cứu số 8...........................10
Hình 2: Phân kênh tần số từ 746-806 MHz của Mỹ............................................16
Hình 3: Phương án quy hoạch băng tần 700MHz của APT (FDD và TDD)......25
Hình 4: Phân chia tần số đối với băng tần 700MHz...........................................27
Hình 5: Triển khai băng tần 700MHz tại Nhật Bản theo quy hoạch APT (Band 28 của 3GPP)......................................................................................................28
Hình 6: Phân kênh tần số băng tần 470-790MHz của Anh.................................31
Hình 7: Quy hoạch sử dụng kênh tần số UHF (470 - 806 MHz) tại Việt Nam...42
Hình 8: Quy hoạch băng tần 850 MHz...............................................................78
Hình 9: Phương án quy hoạch lại băng tần 800 MHz theo phương án Châu Âu.............................................................................................................................79
Hình 10: Phương án quy hoạch lại băng tần 800 MHz theo phương án Bắc Mỹ.............................................................................................................................79
Hình 11: Phương án quy hoạch băng tần 850 MHz cho các hệ thống viba STLs, SOBs tại Austraylia.............................................................................................85
Hình 12: Một số thiết bị SOBs và các băng tần hoạt động.................................86
Hình 13: Một phương án quy hoạch băng tần 800 MHz của Việt Nam..............87
6
Danh mục bảng biểu
Bảng 1: Kế hoạch triển khai của 03 nhà khai thác băng tần 700MHz tại Nhật Bản.......................................................................................................................28
Bảng 2: Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng phương thức thu xem truyền hình................56
Bảng 3. Kế hoạch chuyển đổi kênh tần số truyền hình UHF (470-806)MHz.....63
Bảng 4. Kinh phí hỗ trợ chuyển đổi các trạm phát lại truyền hình tương tự mặt đất tại các tỉnh vùng núi, có địa hình khó khăn, hiểm trở...................................68
Bảng 5. Kinh phí duy trì hoạt động của các trạm phát lại hàng năm.................69
Bảng 6: Tỷ lệ thu xem truyền hình qua các phương thức khác nhau tại Việt Nam năm 2016.............................................................................................................71
Bảng 7: Bảng thống kê hiện trạng sử dụng băng tần cho RFID tại một số quốc gia trên thế giới....................................................................................................82
Bảng 8: Bảng thống kê băng tần hoạt động của RFID theo ứng dụng................82
7
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Từ ngữ viết tắt
Thuật ngữ tiếng Anh Thuật ngữ Tiếng Việt
GSM Global System for Mobile communication
Hệ thống thông tin di động toàn cầu (2G)
UMTS Universal Mobile Telecommunication System
Hệ thống thông tin di động toàn cầu thế hệ thứ 3(3G)
LTE Long-Term Evolution Hệ thống thông tin di động thế hệ thứ 4 (4G)
LTE-Adv LTE-Advanced Hệ thống thông tin di động thế hệ thứ 4 – nâng cao
IMT International Mobile Telecommunications
Hệ thống thông tin di động quốc tế
ISED Innovation, Science and Economic Development
Bộ Khoa học và phát triển kinh tế Canada
FCC The Federal Communications Commission
Ủy ban liên lạc liên bang
OFCOM The Office of Communications Văn phòng truyền thôngNTIA National Telecommunication
and Information AdministrationCục Quản lý thông tin và viễn thông quốc gia
RSM Radio Spectrum Management Quản lý phổ tần số vô tuyến điện
ARCEP The Autorité de Régulation des Communications Électroniques et des Postes
Cục quản lý thông tin điện tử và bưu chính
CEPT European Conference of Postal and Telecommunications Administrations
APT Asia-Pacific Telecomunity Cộng đồng viễn thông khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
LVM Ministry of Transport and Communications
Bộ Giao thông và Truyền thông
DTT Digital Terrestrial Television Truyền hình số mặt đấtCDMA Code Division Multiple Access Đa truy nhập phân chia theo
mãGSM Global system for mobile
communicationsHệ thống viễn thông di động toàn cầu
FDD Frequency Division Duplex Song công phân chia theo tần số
TDD Time Division Duplex Song công phân chia theo 8
thời gianITU International
Telecommunications UnionLiên minh viễn thông quốc tế
SRDs Short Range Devices Thiết bị cự ly ngắnARNS Aeronautical Radio Navigation
ServicesDịch vụ vô tuyến dẫn đường hàng không
9
I. NỘI DUNG CHÍNH CỦA BÁO CÁO
1.1. Mở đầu
Nhánh nghiên cứu số 8 thực hiện nội dung nghiên cứu “Nghiên cứu đề xuất,
kiến nghị các chính sách, văn bản pháp quy của Nhà nước nhằm bảo đảm cho việc
thực hiện hiệu quả lộ trình phân bổ lại các băng tần được đề xuất phù hợp với chuyển
đổi công nghệ”, thuộc một trong 9 nhánh nghiên cứu của Đề tài nhà nước mã số
ĐTĐL-CN-01/16 về “Nghiên cứu định hướng, phân bổ lại các băng tần
700/800/900/1800MHz đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng”.
Nội dung nghiên cứu chính của nhóm nghiên cứu là căn cứ trên hiện trạng
sử dụng, xu hướng sử dụng công nghệ (nội dung nghiên cứu của nhánh số 1),
định hướng quy hoạch, phương án phân bổ các băng tần 700/800/900/1800 MHz
(nội dung nghiên cứu của nhánh số 2) để đề xuất, kiến nghị các chính sách, văn
bản pháp quy của Nhà nước nhằm bảo đảm cho việc thực hiện hiệu quả lộ trình
phân bổ lại các băng tần.
Phương pháp nghiên cứu của nhánh đề tài được thể hiện như hình dưới
đây:
Hình 1: Phương pháp nghiên cứu của nhánh nghiên cứu số 8
10
1.2. Nội dung khoa học công nghệ của chuyên đề cần giải quyết
Nghiên cứu đề xuất, kiến nghị các chính sách, văn bản pháp quy của Nhà nước nhằm bảo đảm cho việc thực hiện hiệu quả lộ trình phân bổ lại các băng tần 700/800/900/1800 MHz phù hợp với xu hướng sử dụng và chuyển đổi công nghệ tại Việt Nam.
1.3. Những công việc và quá trình thực hiện các nội dung nêu tại mục 1.2
Nghiên cứu chính sách quản lý, quy hoạch tần số đối với băng tần 700/800/900/1800 MHz.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về chính sách quản lý, lộ trình chuyển đổi công nghệ các băng tần 700/800/900/1800 MHz.
Đề xuất chính sách quản lý thúc đẩy chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 700/800/900/1800 MHz.
1.4. Các kết quả đạt được
Trên cở sở nghiên cứu chính sách quản lý, quy hoạch tần số đối với băng tần 700/800/900/1800 MHz tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu chỉ ra các vấn đề còn tồn tại cần nghiên cứu, giải quyết khi thực hiện chuyển đổi công nghệ.
Nhóm nghiên cứu tìm hiểu các thông tin, nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới đã tiến hành quy hoạch lại băng tần 700/800/900/1800 MHz và rút ra các bài học kinh nghiệm và phù hợp để áp dụng tại Việt Nam.
Trên cơ sở đánh giá hiện trạng quy hoạch, xu hướng sử dụng công nghệ, định hướng quy hoạch các băng tần 700/800/900/1800 MHz và các bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới, nhóm nghiên cứu đề xuất, kiến nghị các chính sách quản lý tần số, chính sách về chuyển đổi công nghệ để áp dụng tại Việt Nam.
1.5. Kết luận và kiến nghị
Kết luận:
Từ nghiên cứu, đánh giá hiện trạng sử dụng các băng tần 700/800/900/1800 MHz trong nước; trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp tình hình sử dụng, chính sách quản lý băng tần tại các quốc gia trên thế giới, Nhóm đề tài đã nghiên cứu, đề
11
xuất chính sách để thúc đẩy chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam đối với từng băng tần cụ thể.
Đối với băng tần 700 MHz, nhóm nghiên cứu đã đề xuất 4 nhóm chính sách lớn:
- Đề xuất chính sách và lộ trình thực hiện chuyển đổi kênh tần số truyền hình mặt đất băng tần 470-806 MHz giai đoạn 2014 – 2017 và 2018 – 2020 phù hợp với quy hoạch tần số đã nêu tại Thông tư số 26/2013/TT-BTTTT;
- Đề xuất nguyên tắc kết hợp số hóa truyền hình với phủ sóng truyền hình số qua vệ tinh đối với các tỉnh có địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa;
- Đề xuất chính sách hỗ trợ đầu thu truyền hình số qua vệ tinh (DTH) đối với địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa;
- Đề xuất bổ sung, sửa đổi một số quy định tại Quyết định 2451/QĐ-TTg.
Đối với băng tần 800 MHz, nhóm nghiên cứu và đề xuất 2 nhóm chính sách như sau:
- Chính sách quản lý chuyển đổi hệ thống RFID hoạt động ở băng tần 866-868 MHz;
- Chính sách chuyển đổi đối với hệ thống viba truyền dẫn phát thanh hoạt động ở băng tần 845-851 MHz.
Đối với băng tần 900 MHz, nhóm nghiên cứu và đề xuất 2 nhóm chính sách như sau:
- Chính sách quản lý giới hạn số lượng phổ tần tối đa mà mỗi doanh nghiệp được nắm giữ ở băng tần dưới 1 GHz;
- Chính sách quản lý, chuyển đổi công nghệ di động thế hệ 2, thế hệ 3.
Đối với băng tần 1800 MHz, Nhóm đề tài đã nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về xu hướng kéo dài thời gian sử dụng đối với băng tần di động. Bên cạnh đó, Nhóm phân tích tổng thể thị trường di động Việt Nam với những mục tiêu, tiêu chí quản lý thì việc tiếp tục gia hạn giấy phép khi giấy phép hết hạn là phù hợp với Việt Nam. Trên cơ sở đó, Nhóm đề xuất việc xem xét gia hạn giấy phép tạo sự linh hoạt trong chính sách cấp phép đối với các giấy phép sử dụng băng tần đã cấp cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư nâng cao chất
12
lượng dịch vụ, hiệu quả sử dụng phổ tần, đảm bảo hài hòa lợi ích của toàn xã hội.
Kiến nghị:
Trong bối cảnh các công nghệ viễn thông di động phát triển rất nhanh và như là kết quả tất yếu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên toàn thế giới, yêu cầu quy hoạch lại các băng tần 700/800/900/1800 MHz đặt ra đối với các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng để đáp ứng sự phát triển đó là rất cấp thiết. Trên cơ sở nghiên cứu các hiện trạng chính sách, kinh nghiệm quốc tế, Nhóm nghiên cứu số 8 đã nghiên cứu, đề xuất các nhóm giải pháp chính sách để thúc đẩy việc chuyển đổi công nghệ phù hợp với thực tế Việt Nam. Nhóm nghiên cứu đề xuất sớm áp dụng các giải pháp chính sách này vào thực tế để sớm định hướng việc sử dụng tần số, thúc đẩy công nghệ, đáp ứng nhu cầu phát triển các dịch vụ viễn thông di động trong băng tần 700/800/900/1800 MHz và mang lại lợi ích lâu dài cho kinh tế - xã hội.
Chủ nhiệm đề tài/dự án Đại diện CQ chủ trì (ký và ghi rõ họ và tên) (ký tên và đóng dấu)
Đoàn Quang Hoan Lê Thái Hòa
13
II. TRÌNH BÀY BÁO CÁO
14
CHƯƠNG 1. NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH, VĂN BẢN PHÁP QUY CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM
ĐẢM BẢO CHO VIỆC THỰC HIỆN HIỆU QUẢ LỘ TRÌNH PHÂN BỔ LẠI BĂNG TẦN 700 MHz TẠI VIỆT NAM
1.1. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về chính sách quản lý và lộ trình chuyển đổi công nghệ băng tần 700 MHz
Theo quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện Quốc gia của Việt Nam, sau
năm 2020, băng tần 700MHz sẽ được giải phóng để sử dụng cho thông tin di
động IMT. Vì vậy, để giải phóng được băng tần này, cơ quản quản lý cần xem
xét đến các vấn đề liên quan nhằm đề xuất các chính sách phù hợp để thúc đẩy
việc chuyển đổi về công nghệ từ việc truyền hình sang thông tin di động, đảm
bảo được trách nhiệm, quyền lợi của các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp đang
triển khai các hệ thống vô tuyến tại băng tần này.
Nội dung của phần này sẽ đưa ra nghiên cứu về quy hoạch, kế hoạch
chuyển đổi công nghệ và các chính sách nhằm thúc đẩy quá trình giải phóng
băng tần 700MHz tại các nước. Trên cơ sở đó, Việt Nam có thể xem xét một số
kinh nghiệm để áp dụng thực tiễn cho phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội của Việt Nam.
1.1.1. Mỹ
Theo Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện của Mỹ ban hành tháng 5/2013,
băng tần từ 700 MHz (cụ thể từ 698-763MHz và 775-793 MHz được phân chia
cho nghiệp vụ Cố định, Di động, Quảng bá là nghiệp vụ chính, đoạn 763-
775MHz và 793- 805 MHz được phân chia cho nghiệp vụ CỐ ĐỊNH, DI ĐỘNG
và nghiệp vụ an ninh công cộng.
Tại Mỹ, phân kênh tần số tại băng tần 700MHz gồm các kênh tần số từ 52
tới 69 với băng thông 6MHz. Trước đây, băng 700MHz được sử dụng để truyền
15
dẫn, phát sóng truyền hình tương tự mặt đất, đặc biệt là các kênh UHF từ 52 tới
69.
Mỹ bắt đầu triển khai số hóa truyền hình mặt đất vào năm 2005, tất cả các
đài truyền hình được yêu cầu chuyển đổi về kênh tần số từ 2 tới 51 theo lộ
truyền hình số hóa truyền hình mặt đất. Việc phân bổ lại tần số được diễn ra một
cách liên tục, kênh tần số từ 52 đến 59 (698-746 MHz) được sử dụng nhiều hơn
cho truyền hình tương tự và số so với kênh 60 đến kênh 69 thuộc băng tần
800MHz (hầu như không được sử dụng do vùng phủ sóng nhỏ hơn).
Hình 2: Phân kênh tần số từ 746-806 MHz của Mỹ
Theo Luật chuyển đổi số và an ninh công cộng ban hành năm 2005 của
Mỹ, các trạm phát sóng truyền hình tương tự mặt đất (trạm chính) sẽ ngừng hoạt
động kể từ ngày 17/02/2009. Để hỗ trợ người dân, một ủy ban hỗ trợ đầu thu
truyền hình số mặt đất được thành lập. Tuy nhiên, việc ngừng phát sóng truyền
16
hình tương tự mặt đất tại Mỹ gặp một số khó khăn nhất định, số lượng hộ gia
đình cần được hỗ trợ đầu thu truyền hình số mặt đất của Chính phủ vượt quá số
lượng dự kiến ban đầu. Vì vậy, thời điểm ngừng phát sóng truyền hình tương tự
mặt đất tại Mỹ đã được lùi tới tháng 12/6/2009, các trạm phát sóng chính truyền
hình tương tự mặt đất mới chính thức ngừng phát sóng. Tại thời điểm ngừng
phát sóng truyền hình tương tự mặt đất ban đầu vào ngày 17/2/2009, 641 trạm
phát sóng (chiếm 36% trạm phát sóng chính) được chuyển đổi sang phát sóng
truyền hình số số mặt đất.
Câu hỏi đặt ra ở đây là sau khi Mỹ hoàn thành việc chuyển đổi từ truyền
hình tương tự mặt đất sang truyền hình số mặt đất, kênh tần số từ 52-69 sẽ được
giải phóng và sẽ được quy hoạch lại như thế nào. Câu trả lời cụ thể như sau:
Các đoạn băng tần thuộc băng tần 700MHz đã được đấu giá vào các năm
2000 – 2003, 2008. Đoạn băng tần A, B, C, D được quy hoạch cho mục đích sử
dụng thương mại và đã được đấu giá. Đoạn băng tần từ 764-770MHz và 794-
800MHz sử dụng cho hệ thống an ninh công cộng.
Tuy nhiên, đến năm 2009 Mỹ mới hoàn thành việc số hóa truyền hình đối
với các trạm chính ở khu vực đô thị, đông dân cư, năm 2015 mới hoàn thành số
hóa truyền hình đối với trạm lặp ở vùng sâu, vùng xa. Vậy giải pháp kỹ thuật về
tương thích giữa 2 hệ thống di động băng rộng và truyền hình của Mỹ là gì?
Mạng LTE ở mỹ triển khai khi nào, chính sách gì để tương thích 2 mạng với
nhau khi mà tới 2015 mới hoàn thành ASO. Đấu giá để lấy tiền hỗ trợ STB, giải
phóng băng tần nhanh hơn.
Việc phân kênh tần số 6MHz tại băng tần 700MHz là để đảm bảo tương
thích với việc sử dụng băng tần này cho truyền hình trước đó. Tuy nhiên, LTE
dựa trên băng thông 5MHz, vì vậy phân kênh 6MHz là một thách thức về việc
tối ưu hóa hiệu quả phổ tần số.
Mỹ đã triển khai thúc đẩy quá trình giải phóng băng tần 700MHz nêu trên
như thế nào, các chính sách mà Mỹ đã áp dụng để có thể chuyển đổi công nghệ
tại băng tần này ra sao sẽ được đưa ra trong nội dung tiếp theo. Cụ thể:17
Chính phủ Mỹ quy hoạch các trạm phát sóng truyền hình số mặt đất hoạt
động từ kênh 2 đến kênh 51 sau khi số hóa truyền hình kết thúc và quy hoạch
các kênh từ 52-69 (698-806MHz) cho mục đích sử dụng mới.
Sau khi xem xét rất kỹ lưỡng và đánh giá quy trình ban hành quy định,
FCC đã cho phép các Đài truyền hình được phép linh hoạt trong việc sử dụng
các kênh truyền hình số mặt đất. Các Đài truyền hình cũng được yêu cầu thời
lượng phát sóng tối thiểu như các trạm phát sóng tương tự mặt đất trước đó, điều
này có nghĩa là nếu trạm phát sóng truyền hình tương tự mặt đất hoạt động 24
giờ/1 ngày thì trạm phát sóng truyền hình số mặt đất cũng sẽ được yêu cầu hoạt
động 24 giờ/1 ngày.
Các Đài truyền hình được cung cấp các dịch vụ gần như không giới hạn
qua kênh 6MHz, và được yêu cầu truyền tải kênh chương trình không khóa mã
(free-to-air) với độ phân giải tương đương với dịch vụ hiện có của đài. Ngoài ra,
các Đài truyền hình có thể cung cấp bất cứ dịch vụ nào khác mà các Đài đã chọn
trên hệ thống truyền hình số mặt đất.
FCC không có quy định pháp lý và cũng không yêu cầu các Đài truyền
hình phải cung cấp kênh truyền hình HD. Tuy nhiên, các kênh truyền hình HD
vẫn là tâm điểm đầu tiên của lộ trình số hóa truyền hình ở Mỹ và được áp dụng
trong suốt quá trình triển khai tại Mỹ.
Liên quan tới vấn đề chi phí tần số đối với dịch vụ truyền hình trả tiền,
Quốc hội Mỹ đã tìm cách để đảm bảo rằng các đài truyền hình sẽ phải trả khoản
phí tương đương với khoản phí cho phổ tần số đã được bán đấu giá. Bằng cách
này, người dân sẽ nhận được một phần của giá trị của phổ tần số đã cấp cho các
đài truyền hình. Cụ thể, nếu các Đài truyền hình sử dụng kênh truyền hình số
mặt đất để cung cấp các dịch vụ truyền hình trả tiền cho các thuê bao thì các Đài
này sẽ phải trả cho Chính phủ Mỹ một khoản phí sử dụng tần số vào khoảng 5%
tổng doanh thu từ các dịch vụ truyền hình trả tiền.
Khi chuyển đổi sang công nghệ thu, phát truyền hình kỹ thuật số thì Chính
phủ Mỹ vẫn dành tần số cho cả truyền dẫn, phát sóng kênh truyền hình công ích 18
và kênh truyền hình thương mại. Bằng việc cho đài truyền hình sử dụng tần số
đến ít nhất là năm 2006, không bán đấu giá phổ tần hoặc thu phí, Chính phủ Mỹ
hy vọng sẽ dễ dàng chuyển đổi sang truyền hình số. Các đài truyền hình sẽ có
thời gian để thực hiện các khoản đầu tư đáng kể đối với các thiết bị kỹ thuật số
mới và thay đổi chiến lược và hoạt động; sản xuất TV sẽ có thời gian phát triển
và cải tiến sản phẩm mới và giá cả thấp hơn; và người tiêu dùng sẽ có thời gian
để mua thiết bị mới phục vụ cho việc chuyển đổi từ thu xem truyền hình tương
tự mặt đất sang truyền hình số mặt đất.
Để hỗ trợ các đài truyền hình đáp ứng được thời hạn chuyển đổi vào
31/12/2006, FCC đã đưa ra lộ trình tăng tốc cho sự ra đời của truyền hình số mặt
đất để tất cả người dân Mỹ có thể thu xem được vào năm 2002. Các mạng
truyền dẫn, phát sóng truyền hình hàng đầu của Mỹ gồm ABC, CBS, NBC, Fox
phải thực hiện phát sóng truyền hình số mặt đất từ ngày 01/5/1999, tiếp đó là
01/11/1999. Tất cả các trạm phát sóng thương mại khác phải thực hiện phát sóng
truyền hình số mặt đất từ ngày 01/5/2002.
Kế hoạch chuyển đổi tại Mỹ đã yêu cầu các đài liên kết với 4 mạng truyền
dẫn, phát sóng truyền hình lớn nhất của Mỹ tại 30 thành phố lớn để thực hiện số
hóa truyền hình đầu tiên. Đối với các trạm phát sóng ở các thành phố nhỏ hơn
thì thời hạn chuyển đổi được kéo dài hơn so với ở các thành phố lớn. Đối với
các trạm phát sóng truyền hình tương tự mặt đất thương mại, thời hạn chuyển
đổi sang truyền hình số mặt đất được kéo dài thêm 1 năm. Trạm phát sóng
truyền hình tương tự mặt đất công suất thấp thường sẽ được phép chuyển đổi
sang truyền hình số mặt đất trên các kênh hiện có của họ.
Mỗi một trạm được ấn định một tần số mới để phát kênh truyền hình số
mặt đất với độ cao anten, giản đồ anten, và công suất phát xạ tối đa trong nỗ lực
đảm bảo vùng phủ sóng số mặt đất bằng vùng phủ sóng truyền hình tương tự
mặt đất.
Quốc hội Hoa Kỳ và FCC quyết tâm kết thúc chuyển đổi sang phát sóng
truyền hình số mặt đất càng nhanh càng tốt cho các lý do, đáng chú ý nhất để
19
giải phóng 108 MHz phổ tần số tại băng tần 700MHz. Các đài truyền hình cũng
muốn thực hiện việc chuyển đổi càng nhanh càng tốt để loại bỏ các chi phí của
hoạt động phát song song truyền hình tương tự mặt đất và truyền hình số mặt
đất.
Đầu năm 2006, Quốc hội Mỹ đã ban hành quy định yêu cầu các đài truyền
hình kết thúc truyền dẫn, phát sóng truyền hình tương tự mặt đất từ ngày
17/2/2009. Luật này bao gồm việc cung cấp lên đến 1,5 tỷ USD để trợ cấp đầu
thu truyền hình số mặt đất (STB) cho các người dân thông qua việc phát phiếu
(coupon). Mỗi hộ gia đình sẽ được phép áp dụng đến hai phiếu trị giá 40 đôla
Mỹ để mua STB, một phiếu cho phép mua 1 STB. Giá một bộ STB ở Mỹ tại
thời điểm đó vào khoảng 50 đôla Mỹ.
Ngoài ra, để chuẩn bị sẵn sàng thiết bị thu truyền hình số mặt đất tại thị
trường Mỹ, FCC đã ban hành lộ trình tích hợp chức năng thu truyền hình số mặt
đất theo chuẩn ATSC đối với máy thu hình được sản xuất và nhập khẩu tại thị
trường Mỹ. Tất cả các máy thu hình sẽ phải tích hợp chức năng thu truyền hình
số mặt đất theo chuẩn ATSC từ 01/03/2007.
Mỹ đã thực thi nhiều chính sách để thúc đẩy quá trình số hóa truyền hình
mặt đất và Mỹ đã hoàn thành số hóa truyền hình mặt đất vào tháng 2/2009 để
giải phóng phổ tần số trên phạm vi toàn quốc mà có thể được sử dụng để thúc
đẩy hệ thống an toàn công cộng và an ninh quốc gia, và để hỗ trợ các dịch vụ
không dây mới sẽ là động cơ kinh tế tăng trưởng trong nhiều thập kỷ tới.
Ngoài ra, để thúc đẩy sự phát triển và chuyển đổi sang công nghệ không
dây băng rộng, Mỹ cũng đưa ra các quy định liên quan tới việc xem xét phân
chia băng tần 700MHz thấp (lower band) có độ phủ sóng rộng hơn cho khu vực
nông thôn để các khu vực này có thể tiếp cận công nghệ di động băng rộng, cho
phép các mức giới hạn công suất phát xạ cao hơn tại khu vực nông thôn, băng
tần bảo vệ đảm bảo tránh nhiễu giữa các hệ thống hoạt động trong cùng băng tần
hoặc trong băng tần liền kề, các nhà khai thác phải đảm bảo giới hạn công suất
phát xạ ngoài băng và thực hiện các thủ tục phối hợp tần số, công suất phát xạ
20
tối đa của trạm gốc ở cả băng thấp và cao (lower band và upper band) của băng
tần dành cho dịch vụ thương mại là 1kW/1MHz ERP ở khu vực đô thị,
2kW/1MHz ERP ở khu vực nông thôn.
1.1.2. Canada
Canada hoàn thành số hóa truyền hình vào tháng 8/2011, 108Mhz thuộc
băng tần từ 698-806MHz đã được giải phóng. Chính phủ Canada đã quyết định
theo quy hoạch băng tần của Mỹ để tương thích và hài hòa với phổ tần cho hệ
thống an ninh công cộng và cứu trợ thiên tai PPDR của Mỹ. Với mục đích của
Chính phủ Canada là khuyến khích nhiều lựa chọn hơn và giá thành thấp hơn
cho người sử dụng dịch vụ vô tuyến tại Canada, băng tần 700MHz đã được đấu
giá trong 22 ngày (từ 14/1/2014 – 13/2/2014), 97 giấy phép đã được cấp cho 8
công ty viễn thông gồm Rogers, TELUS,… với tổng giá trị 5.27 tỷ đôla.
1.1.3. Châu Âu
Tại các nước Châu Âu, băng tần 700MHz được phân chia cho nghiệp vụ
Quảng bá và nghiệp vụ Di động cùng là nghiệp vụ chính. Hệ thống truyền hình
tương tự mặt đất đã và đang sử dụng băng tần này. Tuy nhiên, với nhu cầu phát
triển mạnh mẽ về dữ liệu di động đòi hỏi phải dành nhiều phổ tần số hơn cho di
động, các nhà quản lý đã nhận thấy việc cần thiết giải phóng băng tần 700MHz
là một vấn đề vô cùng quan trọng. Việc giải phóng băng tần 700MHz được coi
là một trong những mục tiêu chính của Chương trình chính sách phổ tần số vô
tuyến điện của Liên minh Châu Âu (EU Radio Spectrum Policy Programme) và
đã được Nghị viện Châu Âu thông qua vào tháng 2/2012.
Khuyến nghị của ITU về thời điểm ngừng phát sóng truyền hình tương tự
mặt đất tại các khu vực là 17/6/2015. Tại Châu Âu, mục tiêu ngừng phát sóng
truyền hình tương tự mặt đất là vào tháng 01/2013. Tuy nhiên, thời điểm ngừng
phát sóng truyền hình tương tự mặt đất tại các nước rất khác nhau. Một số nước
đã triển khai sử dụng truyền hình số mặt đất được hơn 15 năm, trong đó có Anh
triển khai truyền hình số mặt đất theo chuẩn DVB-T từ năm 1997. Một số nước
triển khai phát sóng song song truyền hình số mặt đất và truyền hình tương tự 21
mặt đất, do đó đã kéo dài thời gian duy trì phát sóng truyền hình tương tự mặt
đất lâu hơn so với kỳ vọng ban đầu.
Các nhà quản lý đã nhận thấy tầm quan trọng mang tính quốc tế của băng
tần 700MHz, tuy nhiên khi triển khai giải phóng băng tần này trên thực tế gặp
phải rất nhiều vấn đề khác nhau. Các nước đang triển khai mạng đa tần truyền
hình số mặt đất theo chuẩn DVB-T phải xem xét vấn đề nâng cấp hệ thống theo
chuẩn DVB-T2 và triển khai theo mạng đơn tần để đạt được hiệu quả cao hơn về
mặt sử dụng phổ tần số, đồng thời có đủ dung lượng để truyền tải các kênh
chương trình HD. Tuy nhiên, việc quy hoạch lại băng tần 700MHz gặp phải một
vài thách thức như:
- Truyền hình số mặt đất vẫn được sử dụng như là nền tảng phát sóng dịch
vụ công ích ở nhiều khu vực của Châu Âu, mặc dù truyền hình cáp, truyền hình
vệ tinh, truyền hình qua internet cũng truyền tải các chương trình truyền hình
thương mại tới các hộ gia đình. Tại Pháp, Hy Lạp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha và Anh là nơi mà truyền hình số mặt đất là phương thức phát sóng truyền
hình chính, việc giải phóng băng tần đặt ra nhiều thách thức;
- Giấy phép tần số dài hạn được cấp cho các Đài truyền hình hoạt động
trong dải tần từ 470-790MHz; các điều kiện giấy phép được cụ thể hóa như phải
truyền tải các kênh truyền hình công ích, và đảm bảo vùng phủ sóng ( phủ sóng
tới 98.5% dân số ở Anh).
- Việc phối hợp tần số biên giới là cần thiết trong việc quy hoạch phổ tần
số để tránh nhiễu giữa các quốc gia láng giềng. Các thỏa thuận phối hợp cấp
quốc gia được ban hành để tránh can thiệp vào khu vực biên giới ở Châu Âu.
Bất kỳ sự thay đổi nào về quy hoạch băng tần phải được phối hợp chặt chẽ giữa
các nước láng giềng.
Hiệp hội các nhà quản lý về Bưu chính và Viễn thông Châu Âu và Ủy ban
Truyền thông Điện tử (CEPT ECC) đã dự thảo báo cáo Ủy ban châu Âu (EC) về
vấn đề cần thiết đưa ra một quy hoạch băng tần thích hợp, sắp xếp lại các kênh
tần số cho nghiệp vụ Di động, sắp xếp kênh tần số thay thế (tần số song công) 22
cho hệ thống làm chương trình và các sự kiện đặc biệt (PMSE) trong phát thanh,
truyền hình, hệ thống an ninh công cộng và cứu trợ thiên tai (PPDR) sử dụng.
Quy hoạch băng tần 700MHz dự kiến cung cấp 2x 30MHz tần số song
công (FDD) sắp xếp theo quy hoạch của APT, với 20MHz bổ sung cho đường
downlink (SDL) hoặc sẵn sàng cho hệ thống PMSE /PPDR song công. Quy
hoạch này hài hoà với quy hoạch 700MHz đã tồn tại trong các khu vực khác và
có khả năng đem lại lợi ích đáng kể về quy mô kinh tế trong sản xuất thiết bị.
Việc các quốc gia sử dụng băng tần 700MHz theo các quy hoạch khác nhau
có tính khả thi về mặt kỹ thuật, nhưng có thể không đem lại hiệu quả kinh tế như
mong muốn. Sau WRC-15, có khả năng một số quốc gia ở Châu Âu sẽ thực thi
ngay các quá trình cấp các giấy phép 700MHz cho nghiệp vụ Di động. Vấn đề
phối hợp tần số biên giới trong quá trình số hóa truyền hình tại băng tần
700MHz cũng được đặt ra tại các nước Châu Âu tương tự như quá trình chuyển
đổi việc sử dụng băng tần 800MHz từ truyền hình số mặt đất sang di động.
Tuy nhiên, đối với băng tần 700MHz, vấn đề sẽ khác hơn là hệ thống
truyền hình số mặt đất bị nhiễu từ đường lênh (uplink) của hệ thống LTE-700
(tức là đường truyền từ các thiết bị di động) hơn là đường xuống (downlink) ở
băng tần 800MHz. Các vấn đề liên quan đến việc chấp nhận sóng truyền hình số
mặt đất DTT ở khu vực biên giới có thể phức tạp hơn so với băng tần 800MHz.
Các nước có thể phải tham gia hiệp định đa phương để đảm bảo đủ phổ tần số
tại mỗi quốc gia hỗ trợ cho các hoạt động của hệ thống truyền hình số mặt đất.
Vì vậy, trong khi có khả năng băng tần 700MHz được sử dụng cho di
động thì nó vẫn được duy trì cho hệ thống truyền hình số mặt đất sử dụng ở các
nước láng giềng, giống như sự thay đổi về cách sử dụng sẽ dẫn đến thay đổi về
các chi phí và các lợi ích ở bất kỳ thị trường quốc gia riêng biệt nào, cụ thể:
- Lợi ích của việc sẵn sàng về phổ tần số di động bao gồm tiết kiệm chi phí
mạng di động, cũng như các lợi ích bổ sung kết hợp với cải thiện vùng phủ sóng,
công suất và hiệu suất mạng.
23
- Tuy nhiên, việc giảm đồng thời phổ tần số cho phép đối với người sử
dụng hiện tại trong băng tần 700MHz (DTT và PMSE) sẽ có nghĩa là thay đổi
chi phí đầu tư mạng truyền hình số mặt đất, thay thế dây ăngten và các thiết bị
trong nhà (Customer Premises Equitment – CPE), và thay thế thiết bị PMSE.
Ngoài ra còn có chi phí cơ hội từ các dịch vụ truyền hình số mặt đất và làm
chương trình các sự kiện đặc biệt không thể cung cấp các dịch vụ sử dụng băng
tần 700MHz, có nghĩa là thu xem được ít kênh chương trình truyền hình hơn,
hoặc thu xem các kênh truyền hình với độ phân giải thấp hơn.
Tại Anh, Ofcom đã tiến hành phân tích chi phí, lợi ích của việc thay đổi
mục đích sử dụng và tìm kiếm các lợi ích, theo tính toán bởi Analysys Mason
chi phí cho việc thay đổi rơi vào khoảng từ 900 triệu – 1.3 tỷ bảng Anh, lớn hơn
rất nhiều con số 550-660 triệu bảng Anh mà Chính phủ Anh dự kiến sẽ hỗ trợ
cho việc chuyển đổi sử dụng băng tần 700MHz tại Anh. Sau khi xem xét đến
vấn đề hỗ trợ chuyển đổi, Ofcom đã quyết định dành phổ tần số sẵn sàng cho dữ
liệu di động và tin rằng sẽ không gây ra sự gián đoạn đối với người xem truyền
hình số mặt đất (từ năm 2022).
Trong khi chi phí và lợi ích phát sinh từ việc thay đổi sử dụng băng tần
700MHz tại các nước Châu Âu là khác nhau, có một động lực thúc đẩy đã lan
rộng khắp các nước sau thay đổi mục đích sử dụng băng tần này. Nhóm Chính
sách phổ tần số vô tuyên điện (RSPG) đã đưa ra hỗ trợ trong tương lai đối với
việc sử dụng băng tần UHF tại Châu Âu, trong đó nêu rõ việc quy hoạch lại
băng tần và thỏa thuận phối hợp biên giới có thể được kết thúc vào năm 2017.
Các nước thành viên Châu Âu phải di chuyển tần số cái Đài PTTH ra khỏi băng
tần 700MHz với một thời hạn nhất định, có thể vào năm 2020 hoặc 2022. Thực
tế, có thể thấy rằng phần lớn các nước Châu Âu đều sử dụng 700MHz cho thông
tin di động.
1.1.4. APT
Quy hoạch băng tần của Liên minh viễn thông Châu Á Thái Bình Dương
(gọi tắt là APT) là một dạng phân chia khác đối với đoạn băng tần từ 698-
24
806MHz (băng tần 700MHz) được ban hành chính thức năm 2010 và đặc biệt
được cấu hình cho việc triển khai các công nghệ di động băng rộng, trong đó nổi
bật nhất là LTE. Quy hoạch APT tồn tại hai phương án phân chia là FDD và
TDD đã được tiêu chuẩn hóa bởi các dự án của 3GPP và các khuyến nghị của
ITU và được thiết kế để cho phép sử dụng phổ tần số hiệu quả nhất. Do đó, quy
hoạch này chia băng tần thành các khối các tần số liền kề nhau đủ lớn để có thể
xem xét việc tránh nhiễu với các nghiệp vụ trong dải tần số khác.
- Phương án TDD gồm 100MHz phổ tần số liên tục.
- Phương án FDD gồm 2 khối lớn gồm 45MHz cho đường uplink và
45MHz cho đường downlink.
- Cả 2 phương án FDD và TDD đều có khoảng bảo vệ 5MHz và 3 MHz ở 2
cận trên và dưới của băng tần 700MHz. Phương án FDD còn bao gồm 10MHz ở
khoảng bảo vệ ở giữa 2 khối 45MHz. Các khoảng tần số bảo vệ phục vụ cho
mục đích giảm thiểu sự can thiệp vào băng tần liền kề và cần thiết để tránh
nhiễu giữa uplink và downlink. Cụ thể, phương án FDD và TDD được minh họa
như hình dưới đây:
Hình 3: Phương án quy hoạch băng tần 700MHz của APT (FDD và TDD)
Quy hoạch APT hỗ trợ các băng thông kênh tần số với phương án FDD
703-748/758-803 MHz và phương án TDD 703-803 MHz như dưới đây:25
3GPP band 1.4MHz 3MHz 5MHz 10MHz 15MHz 20MHz
28 (FDD) Có Có Có Có Có Hạn chế
áp dụng
44 (TDD) Có Có Có Có Có Có
Băng thông kênh tần số theo quy hoạch APT
Quy hoạch của APT cho phép có đến 4 nhà khai thác có thể nhận được
đoạn băng tần mỗi nhà 2x 10 MHz, hoặc 3 nhà khai thác nhận được mỗi 2x 15
MHz, hoặc cấu hình hỗn hợp khác.
Trong khi đó, quy hoạch của Mỹ chỉ có hai nhà khai thác thương mại sử
dụng các băng tần (AT & T và Verizon Wireless), mỗi nhà khai thác có 2x 10
MHz phổ tần.
Quy hoạch băng tần của APT đã đưa băng 700MHz trở thành băng tần có
độ hài hòa ở cấp đa khu vực và cung cấp một hệ sinh thái thống nhất cho các
thiết bị LTE. Hầu hết các nước châu Á, châu Mỹ Latinh đã chọn theo quy hoạch
APT. Ngoài ra, một số nước Trung Đông và châu Phi đã thể hiện xu hướng theo
quy hoạch băng tần của APT.
Quy hoạch của APT cho phép độ linh hoạt đối với quy hoạch phổ tần số tại
mỗi quốc gia, cho phép điều chỉnh kích thước kênh tần số để phù hợp với đặc
thù riêng của từng nền kinh tế bằng cách phân bổ các khối khác nhau, từ 2x 5
MHz lên tới 2x 20 MHz.
1.1.5. Nhật Bản
Trước đây, băng tần 700MHz được quy hoạch cho hệ thống truyền hình
tương tự mặt đất tại Nhật Bản. Để giải phóng băng tần 700MHz, Nhật Bản đã
triển khai số hóa truyền hình mặt đất từ tháng 6/2009 và kết thúc vào 25/7/2011.
Truyền hình số mặt đất được truyền dẫn, phát sóng tại băng tần từ 470-710MHz
sử dụng tiêu chuẩn ISDB-T.
26
Sau khi hoàn thành quá trình chuyển đổi công nghệ phát sóng từ truyền
hình tương tự mặt đất sang truyền hình số mặt đất, và giải phóng được hoàn toàn
băng tần 700MHz, Bộ Nội Vụ và Truyền thông Nhật Bản (MIC) đã công bố kế
hoạch sửa đổi và phân bổ lại tần số trong tháng 9/2011.
Nhật Bản đã xem xét, nghiên cứu các vấn đề liên quan về sử dụng tần số
đối với truyền hình số mặt đất, việc sử dụng băng tần 700MHz và phát triển quy
hoạch tái phân chia tần số đối với băng tần 700MHz được minh họa như hình
dưới đây.
Digital TV
ITS
710 714 718 748 755 765 773 803806 815
850MHz UL845
700 MHz UL 700MHz DLRadio Microphone Radio Microphone(Unlicensed)
Digital TV
710 770 810806 815
850MHz UL845
Radio Microphone(Unlicensed)
Radio MicrophoneBroadcasting Auxiliary Service
Current allocation
After re-allocation
Hình 4: Phân chia tần số đối với băng tần 700MHz
Sau khi phân chia lại băng tần 700MHz, đoạn 718-748 MHz (dành cho
uplink) và 773-803 MHz (dành cho downlink), tổng băng thông là 2x 30MHz
FDD được phân chia sẵn cho hệ thống IMT và phân chia này theo quy hoạch
băng tần của APT.
Ngoài ra, MIC đã hoàn thành các nghiên cứu kỹ thuật về hệ thống IMT
trong băng tần 700MHz bao gồm quy hoạch băng tần (02/2012) và thiết lập quy
chuẩn kỹ thuật có liên quan, quy hoạch ấn định tần số, chính sách cấp phép.
Cuối tháng 6/2012, MIC đã ấn định 600MHz thuộc băng từ 718-748 và 773-
803MHz cho nghiệp vụ di động và cấp phép sử dụng băng tần 700MHz cho 3
nhà khai thác là NTT DoCoMo, KDDI và e-Mobile, mỗi nhà khai thác được ấn
định 2x10MHz FDD.
27
Bảng 1: Kế hoạch triển khai của 03 nhà khai thác băng tần 700MHz tại Nhật Bản
eAccess Ltd. NTT DOCOMO, INC.
KDDI CORPORATION
Công nghệ LTE LTE LTE
Triển khai dịch vụ thương mại
Tháng 12/2015 Tháng 1/ 2015 Tháng 1/ 2015
Phổ tần số được cấp phép
738-748 / 793-803 MHz(2 x 10MHz)
728-738 / 783-793 MHz(2 x 10MHz)
718-728 / 773-783 MHz(2 x 10MHz)
Tuy nhiên, theo thông báo của các nhà mạng thì họ sẽ không thương mại
hóa các dịch vụ LTE trên băng tần 700MHz tới năm 2015 khi các nhà mạng dự
đoán được mức độ dịch chuyển của thuê bao 3G chuyển sang 4G.
Việc triển khai quy hoạch băng tần 700MHz đạt được thông qua việc sử
dụng 1 phần của quy hoạch APT, cụ thể là phân chia băng 700MHz theo Band
28 trong bộ tiêu chuẩn 3GPP. Hơn nữa, quy hoạch của Nhật Bản đạt được bằng
cách sử dụng cấu hình truyền song công tại 1 thiết bị đầu cuối của người sử
dụng. Các quy định về điều kiện kỹ thuật liên quan ở Nhật cũng được phản ánh
trong bộ tiêu chuẩn 3GPP đối với Band 28.
718 748 773 803
700 MHz UL 700MHz DL
APT700(Band 28 of 3GPP) 718 748 773 803
703 733 758 788
2nd duplexer
1st duplexer
Japanese 700MHz band
Hình 5: Triển khai băng tần 700MHz tại Nhật Bản theo quy hoạch APT (Band 28 của 3GPP)
Việc triển khai IMT ở băng tần 700MHz đã đóng góp và tạo thuận lợi
cho việc triển khai quy hoạch 700MHz của APT và band 28 của 3GPP cho dịch
28
vụ di động thương mại ở băng 700MHz sẽ được bắt đầu từ năm 2015 ở các
nước.
1.1.6. Úc
Đoạn băng tần từ 694-820MHz (126MHz) đã được ấn định cho nghiệp vụ
di động vào tháng 6/2010. Trên nền tảng quy hoạch của APT, Úc đã kết thúc
đấu giá 60MHz thuộc đoạn băng tần từ 703-733MHz và 758-788MHz vào tháng
5/2013.
Quá trình giải phóng băng tần 700MHz tại Úc là một quá trình phức tạp
bởi truyền hình mặt đất đang hoạt động tại băng tần này. Úc đã đưa ra lộ trình
ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất vào 31/12/2013. Một số các
chính sách để thúc đẩy quá trình số hóa truyền hình tại Úc cũng đã được triển
khai bao gồm:
- Úc đã khởi động chương trình chuyển đổi hướng tới khách hàng một
cách toàn diện, một loạt các sáng kiến của nhóm chuyên trách bao gồm: chương
trình tư vấn bán lẻ, đào tạo tại các cửa hàng điện máy, gắn nhãn hàng hóa tại các
sản phẩm thiết bị truyền hình số, chương trình truyền hình về hướng dẫn lắp đặt
thiết bị và ăng ten, v.v.. Kết quả của các chương trình này là tạo ra động lực để
các nhà cung cấp khác nhau cùng tham gia chương trình, giúp đẩy nhanh quá
trình chuyển đổi sang truyền hình số mặt đất tại Úc.
- Đối với người sử dụng không thể đáp ứng chương trình chuyển đổi, các
nhóm chuyên trách tổ chức hàng loạt sự trợ giúp nhằm giải quyết những khó
khăn cụ thể để truyền hình số mặt đất có thể thâm nhập một cách thuận lợi hơn
vào nhóm đối tượng này. Cụ thể:
Trợ cấp và lắp đặt cho các hộ gia đình đủ điều kiện nhất định bị ảnh
hưởng (chủ yếu là người nghỉ hưu có thu nhập thấp) một đầu thu truyền hình số
mặt đất (bao gồm cả anten) tương đương với khoản kinh phí hỗ trợ là 350 đô la
Úc cho mỗi hộ. Tổng kinh phí hỗ trợ đầu thu truyền hình số mặt đất tại Úc ước
tính vào khoảng 380 triệu đô la Úc (khoảng 390 triệu đô la Mỹ).
29
Hỗ trợ thu xem truyền hình qua vệ tinh đối với khu vực khó triển khai
truyền hình số mặt đất. Mỗi hộ gia đình tại khu vực này được hỗ trợ khoảng từ
400-700 đô la Úc.
Trong năm 2009, chính phủ Úc đã phát động một Đề án hỗ trợ các hộ gia
đình một bộ giải mã miễn phí và ăng ten tương ứng cho các hộ gia đình đủ điều
kiện được trợ giúp ( phải sở hữu một máy thu hình còn hoạt động và chưa được
tiếp cận với truyền hình kỹ thuật số. Các chi phí của đề án đã được phân bổ
trong ba chu kỳ ngân sách nhà nước liên tiếp, cụ thể:
- 3 triệu đô Úc nhằm mục tiêu vào các khu vực nhỏ đầu tiên thực hiện
ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất;
- 69.3 triệu đô Úc để hỗ trợ cho vùng trung tâm;
- 308.8 triệu đô Úc để hỗ trợ các khu vực còn lại.
Tính đến tháng 5 năm 2011, phân bổ của chương trình 15.1 triệu đô Úc đã
hỗ trợ hơn 38.000 hộ gia đình. Chi phí trung bình tại thời điểm đó là khoảng 390
đô Úc cho mỗi hộ gia đình.
Năm 2010, chính phủ Úc thông báo chương trình thu xem truyền hình số
qua vệ tinh (VAST), việc thu xem truyền hình miễn phí được sử dụng để cung
cấp cho người xem truyền hình tại khu vực vùng lõm (là những khu vực trước
đây nằm trong vùng phủ sóng của truyền hình tương tự mặt đất, nhưng khó thu
xem được truyền hình số mặt đất) thông qua chương trình hỗ trợ vệ tinh (SSS).
Chương trình SSS hỗ trợ tài chính cho các hộ gia đình để mua một đầu thu vệ
tinh, cáp và chảo vệ tinh. Mỗi hộ gia đình được trợ cấp 400 đô Úc, đối với các
hộ gia đình ở vùng sâu, vùng xa được hỗ trợ mức cao hơn vào khoảng từ 550 đô
Úc và 700 đô Úc.
1.1.7. Anh
Theo Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện của Anh ban hành năm 2013,
băng tần từ 470-790MHz được phân chia cho nghiệp vụ Quảng bá là nghiệp vụ
chính, Di động là nghiệp vụ phụ. Trong đó, các hệ thống truy cập có giới hạn
30
được cho phép hoạt động tại đoạn băng tần 606-790MHz để thử nghiệm và phát
triển các thiết bị quân sự đối với các hệ thống khẩn cấp. Các hệ thống truy cập
này không được gây nhiễu tới hệ thống truyền hình hoặc làm hạn chế quy hoạch
hoặc bất kỳ truyền dẫn nào liên quan tới việc thử nghiệm và phát triển các dịch
vụ truyền hình. Băng tần 470-790MHz cũng được cơ quan quản lý của Anh xem
xét cho hệ thống thông tin di động trong tương lai.
Tháng 11/2014, Ofcom đã quyết định quy hoạch và giải phóng “sạch” băng
tần 700MHz để phân chia cho hệ thống thông tin di động. Tại thời điểm đó,
băng tần này được sử dụng cho truyền hình số mặt đất, các dịch vụ làm chương
trình và các sự kiện đặc biệt, và trong tương lai băng tần này được kỳ vọng cũng
sẽ được sử dụng cho các ứng dụng mới dựa trên nền tảng công nghệ TV White
Spaces. Dự kiến tại Anh, băng tần 700MHz “sạch” sẽ được giải phóng hoàn toàn
vào năm 2022.
Các điều chỉnh liên quan tới viễn thông đã khởi động một cuộc thảo luận
mới về việc quy hoạch lại mục đích sử dụng 25MHz của băng tần 700MHz mà
hiện nay đang được phân chia cho nghiệp vụ truyền hình số mặt đất, để chuẩn bị
sẵn sàng băng tần cho hệ thống thông tin di động băng rộng (4G và có thể là 5G)
trong thời gian tới. Trong khi đó, hệ thống truyền hình số mặt đất bị ảnh hưởng
sẽ chuyển đổi sang băng tần 600MHz (cụ thể 550-606MHz).
Hình 6: Phân kênh tần số băng tần 470-790MHz của Anh
Ưu điểm của việc sử dụng băng tần 700MHz cũng giống như băng tần
800MHz là hoạt động ở tần số thấp hơn nên vùng phủ sóng rộng hơn với giá
thành thấp hơn, trong khi đó tỷ lệ thâm nhập qua tường để phủ sóng trong nhà
hiệu quả hơn.
31
Để giải phóng được băng tần 700MHz, dự án nâng cấp, chuyển đổi hạ tầng
truyền dẫn, phát sóng truyền hình số của Anh đã được diễn ra với nguyên tắc
triển khai đảm bảo các đài truyền hình và các công ty truyền dẫn, phát sóng
truyền hình được sắp xếp một cách rõ ràng, sự gián đoạn thu xem truyền hình ở
mức tối thiểu trong giai đoạn chuyển tiếp khi giải phóng băng tần 700MHz.
Ngoài ra, Chính phủ Anh cũng cam kết hỗ trợ từ 550 triệu tới 660 triệu
bảng Anh (tương đương 827 triệu đô la Mỹ) để hỗ trợ cho việc thay đổi mục
đích sử dụng băng tần 700MHz, trong đó gồm chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng,
thanh toán các khoản kinh phí bù trừ phí tần số, hỗ trợ người sử dụng ở các khu
vực khác nhau, điều chuyển các trạm phát truyền hình sang sử dụng các băng
tần thấp hơn ở băng tần 600MHz.
Ngoài ra, các quy định liên quan tới việc cùng tồn tại 2 hệ thống truyền
hình và thông tin di động băng rộng tại băng tần 700MHz cũng được xem xét:
- Giới hạn phát xạ ngoài băng (Out-of-band) của thiết bị đầu cuối di động
IMT;
- Khoảng bảo vệ giữa truyền hình và đường uplink của di động;
- Đánh giá các khả năng ảnh hưởng từ trạm gốc và thiết bị đầu cuối của hệ
thống thông tin di động tới truyền hình
Dự kiến, phát xạ ngoài băng của các thiết bị đầu cuối sẽ được quy định
trong tiêu chuẩn hài hòa của Châu Âu có liên quan (EN 301 908).
1.1.8. Đánh giá
Về lộ trình chuyển đổi
Từ các nghiên cứu về chính sách quản lý và quy hoạch tần số với băng tần
700MHz nêu trên, đa phần các nước trên thế giới đã có kế hoạch để giải phóng
băng tần 700MHz mà trước đây được phân chia cho nghiệp vụ Quảng bá (truyền
hình tương tự mặt đất) để chuyển đổi sang phân chia cho nghiệp vụ Di động (hệ
thống thông tin di động băng thông rộng). Để giải phóng được băng 700MHz,
các nước đều có kế hoạch triển khai ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt
32
đất và chuyển đổi sang phát sóng truyền hình số mặt đất, các Đài truyền hình
phải thực hiện chuyển đổi từ sử dụng kênh tần số cao sang kênh tần số thấp để
giải phóng đoạn băng tần từ 694-806 MHz sẽ được phân chia cho hệ thống
thông tin khác thuộc nghiệp vụ cố định, di động. Để đảm bảo lợi ích tối đa trong
quá trình số hóa truyền hình mặt đất, các nước trong cùng khu vực sẽ thống nhất
việc chuyển đổi sang truyền hình số mặt đất nếu đạt được thỏa thuận về việc
phối hợp tần số biên giới. Châu Âu, Châu Phi, và một số nước Châu Á đã đạt
được sự thống nhất tại Hiệp ước GE 06.
Nội dung hiệp ước GE 06 nêu rõ các mốc thời điểm bắt đầu và kết thúc
việc chuyển đổi sang truyền hình số, cụ thể:
Thời điểm bắt đầu thực hiện lộ trình chuyển đổi từ truyền hình tương tự
mặt đất sang truyền hình số mặt đất vào ngày 17/6/2006.
Thời điểm kết thúc lộ trình số hóa truyền hình được phân chia đối với 2
băng tần như sau:
Đối với các nước được nêu tại GE 06 sẽ kết thúc quá trình chuyển đổi sang
truyền hình số vào 17/6/2020.
Đối với băng tần UHF: kết thúc quá trình chuyển đổi sang truyền hình số
vào ngày 17/6/2020 tại tất cả các nước.
Điều đó có nghĩa là sau thời điểm nêu trên, tất cả các ấn định cho truyền
hình tương tự mặt đất sẽ bị xóa khỏi bảng quy hoạch kênh tần số. Các điều
khoản của GE 06 sẽ không được áp dụng thêm nữa đối với hệ thống truyền hình
tương tự.
Từ kinh nghiệm về lộ trình chuyển đổi công nghệ của các nước nêu trên,
Việt Nam cũng đã nghiên cứu, áp dụng và ban hành lộ trình ngừng phát sóng
truyền hình tương tự mặt đất và chuyển đổi sang phủ sóng truyền hình số mặt
đất theo bốn Giai đoạn tại bốn Nhóm tỉnh khác nhau trên cả nước. Cụ thể:
Giai đoạn I triển khai số hóa truyền hình tại 5 thành phố trực thuộc Trung
ương, thời điểm ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất trước ngày
33
31/12/2016. Hiện nay, Giai đoạn I đã hoàn thành vào ngày 15/08/2016, trễ 08
tháng so với kế hoạch đã được phê duyệt do các nguyên nhân khách quan.
Giai đoạn II triển khai ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất và
chuyển sang phủ sóng truyền hình số mặt đất tại 25 tỉnh trước ngày 31/12/2016.
Giai đoạn III triển khai ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất và
chuyển sang phủ sóng truyền hình số mặt đất tại 18 tỉnh trước ngày 31/12/2016.
Giai đoạn IV triển khai ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất và
chuyển sang phủ sóng truyền hình số mặt đất tại 15 tỉnh thuộc vùng núi, vùng
sâu, vùng xa thuộc khu vực Tây Bắc và Tây Nguyên trước ngày 31/12/2016.
Về chính sách quản lý
Mỹ là một trong các nước triển khai số hóa truyền hình mặt đất từ rất sớm
(năm 2005), tuy nhiên do điều kiện về địa hình tại các khu vực là khác nhau, tới
năm 2015 Mỹ mới hoàn thành việc ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt
đất và chuyển đổi sang phủ sóng truyền hình số mặt đất trên toàn lãnh thổ. Từ
kinh nghiệm của Mỹ có thể tóm tắt lại một số kinh nghiệm có thể áp dụng cụ thể
như sau:
- Thời điểm ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất được áp dụng
đối với các trạm phát sóng chính ở khu vực trung tâm sẽ thực hiện sớm hơn so
với các trạm phát lại đặt tại vùng sâu, vùng xa.
- Quy định thời điểm tích hợp chức năng thu truyền hình số mặt đất (công
nghệ ATSC) vào thiết bị máy thu hình nhằm đảm bảo độ sẵn sàng về thiết bị thu
xem của người dân;
- Hỗ trợ hộ gia đình 02 phiếu giảm giá để mua STB, 01 phiếu áp dụng cho
01 STB.
- Sử dụng phí đấu giá tần số băng tần 700MHz để trích ra hỗ trợ STB cho
người dân.
Úc hoàn thành số hóa truyền hình vào năm 2013, trong đó đáng chú ý là
giải pháp hỗ trợ thu xem truyền hình qua vệ tinh đối với các hộ gia đình tại khu 34
vực vùng lõm thông qua chương trình hỗ trợ vệ tinh (SSS). Chương trình SSS
hỗ trợ tài chính cho các hộ gia đình để mua một đầu thu vệ tinh, cáp và chảo vệ
tinh.
Ngoài ra, một vấn đề rất quan trọng cần xem xét là các quốc gia láng
giềng có chung đường biên giới, việc hài hòa phổ tần số vô tuyến điện được xem
như vấn đề mấu chốt để đảm bảo việc hoạt động của các hệ thống thông tin vô
tuyến trên cùng băng tần không gây can nhiễu tới nhau. Canada là nước láng
giềng của Mỹ và đã lựa chọn quy hoạch băng 700MHz theo quy hoạch của Mỹ
để đảm bảo sự tương thích giữa các hệ thống. Các nước tại khu vực Châu Âu,
các thỏa thuận phối hợp cấp quốc gia được ban hành để tránh can nhiễu tại khu
vực biên giới ở Châu Âu. Bất kỳ sự thay đổi nào về quy hoạch băng tần phải
được phối hợp chặt chẽ giữa các nước láng giềng.
Từ kinh nghiệm về chính sách quản lý của các nước Châu Âu, Châu Mỹ,
Châu Á, tại Giai đoạn I của Đề án số hóa truyền hình mặt đất, Việt Nam cũng đã
ban hành nhiều quy định nhằm hỗ trợ cho việc triển khai số hóa truyền hình mặt
đất và thúc đẩy nhanh quá trình giải phóng băng tần 700MHz tại Việt Nam. Cụ
thể:
Để chuẩn bị sẵn sàng về thị trường thiết bị thu truyền hình số mặt đất,
Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành các quy định, quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về truyền hình số mặt đất; quy định lộ trình tích hợp chức năng thu
truyền hình số mặt đất vào máy thu hình sử dụng công nghệ truyền hình số mặt
đất thế hệ thứ 2 theo chuẩn DVB-T2/MPEG-4 (Thông tư 07/2013/TT-BTTTT
ngày 18/03/2013 quy định thời điểm cụ thể tích hợp chức năng thu truyền hình
số mặt đất đối với máy thu hình sản xuất và nhập khẩu để sử dụng tại Việt
Nam).
Đến nay, các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu máy thu hình tại Việt
Nam đã thực hiện nghiêm túc các quy định nêu trên. Các sản phẩm máy thu hình
LCD, PDP, LED, OLED được sản xuất sau ngày 01/04/2015 đều đã được tích
hợp chức năng thu truyền hình số mặt đất theo quy định. Các doanh nghiệp
35
truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất phát sóng truyền hình số mặt đất tại
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải đảm bảo chất lượng theo quy
chuẩn kỹ thuật Quốc gia đã được ban hành (QCVN 63: 2012/BTTTT; QCVN
64: 2012/BTTTT).
Ngày 22/01/2014, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định
số 80/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch chuyển đổi kênh tần số truyền hình mặt đất
băng tần UHF (470-806) MHz giai đoạn 2014-2017 để thực hiện quy hoạch sử
dụng kênh tần số cho truyền hình mặt đất băng tần UHF (470-806) MHz đến
năm 2020. Trong đó, quy định Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ
thuật số VTC, Công ty cổ phần nghe nhìn toàn cầu AVG, một số Đài Phát thanh
và Truyền hình địa phương phải chuyển đổi kênh tần số theo thời điểm được
quy định nhằm giải phóng các kênh tần số, đảm bảo cho việc triển khai số hóa
truyền hình mặt đất theo đúng lộ trình số hóa truyền hình đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 2451/QĐ-TTg.
Tại Giai đoạn II của Đề án số hóa gồm Quảng Ninh, Thái Nguyên, Ninh
Bình, Bắc Giang, Phú Thọ, Đồng Nai, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu và nhiều
tỉnh thuộc giai đoạn III, IV gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Lâm Đồng, Bình Phước, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai,
Yên Bái, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Kon Tum, Gia Lai,
Đắk Lắk, Đắk Nôngcó địa hình rất phức tạp. Tại địa bàn này hiện có số lượng
lớn các trạm phát lại truyền hình tương tự mặt đất đang hoạt động nên việc số
hóa truyền hình mặt đất sẽ khó khăn hơn nhiều và kém hiệu quả. Do đó, cần
xem xét kết hợp phủ sóng truyền hình số mặt đất với truyền hình qua vệ tinh tại
các địa bàn thuộc vùng sâu, vùng xa.
Để triển khai Đề án số hóa phù hợp với tình hình hiện nay, cần phải xem
xét sửa đổi, bổ sung Quyết định 2451/QĐ-TTg trên cơ sở đánh giá lại việc thay
thế truyền hình tương tự bằng truyền hình số mặt đất tại các khu vực miền núi,
vùng sâu, vùng xa để lựa chọn giải pháp hiệu quả hơn; điều chỉnh lại Giai đoạn
36
và địa bàn số hóa để phù hợp với điều kiện phủ sóng; xem xét việc hỗ trợ thu,
phát sóng truyền hình số mặt đất với truyền hình số qua vệ tinh tại các khu vực
vùng sâu, vùng xa; xem xét lại yêu cầu thành lập doanh nghiệp truyền dẫn, phát
sóng tại các địa bàn chưa có doanh nghiệp khu vực; làm rõ vai trò, trách nhiệm
của địa phương trong quá trình triển khai Đề án số hóa trên địa bàn và một số
nội dung khác,…
Ngoài ra, để tiếp tục triển khai giải phóng băng tần 700MHz để sẵn sàng
cho việc triển khai hệ thống thông tin di động trong giai đoạn thử nghiệm, cần
xem xét ban hành kế hoạch chuyển đổi kênh tần số đối với các Đài Phát thanh
truyền hình Trung ương, địa phương giai đoạn 2017-2020 trong thời gian tới để
đảm bảo tránh gây can nhiễu giữa 2 hệ thống.
1.2. Nghiên cứu chính sách quản lý, quy hoạch tần số đối với các băng tần 700MHz
1.2.1. Nghiên cứu, đánh giá về chính sách quy hoạch băng tần 700 MHz tại
Việt Nam
Tại Việt Nam, băng tần 700MHz được phân bổ cho nghiệp vụ Cố định, Di
động, và Quảng bá. Tới thời điểm hiện tại, băng tần này chủ yếu được sử dụng
cho truyền hình tương tự mặt đất. Trước khi nghiên cứu các quy hoạch đối với
băng tần này, nhóm nghiên cứu sẽ giới thiệu sơ lược hiện trạng hệ thống phát
thanh, truyền hình tại Việt Nam. Cụ thể:
Phát thanh, truyền hình là phương tiện thông tin truyền thông đại chúng
hữu hiệu và có phạm vi ảnh hưởng rộng khắp; là công cụ quan trọng trong việc
tuyên truyền chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần,
dân trí, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Ngoài ra, một vai trò rất
quan trọng nữa của phát thanh, truyền hình là tăng cường thông tin đối ngoại,
đảm bảo hội nhập thông tin trong khu vực và quốc tế.
37
Hiện nay, cả nước có 66 Đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa
phương, trong đó 02 Đài truyền hình Trung ương gồm Đài Truyền hình Việt
Nam (VTV) và Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), 64 Đài Phát thanh, Truyền hình
địa phương (riêng Thành phố Hồ Chí Minh có 02 đài là Đài Truyền hình Thành
phố Hồ Chí Minh và Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh).
Từ khoảng năm 2013 trở về trước, Đài Truyền hình Việt Nam truyền dẫn,
phủ sóng truyền hình tương tự mặt đất gần 90% diện tích lãnh thổ, phát sóng 7
kênh: VTV1 (chính trị, tổng hợp), VTV2 (khoa học - giáo dục), VTV3 (thể thao,
văn hoá, thông tin kinh tế, giải trí), VTV4 (thông tin đối ngoại và phục vụ cho
người Việt Nam ở nước ngoài) và VTV5 (chương trình tiếng dân tộc), VTV6
(Chương trình thanh niên), VTV 9 (phục vụ đồng bào Nam Bộ).
Các Đài Phát thanh, Truyền hình địa phương tiếp, phát sóng các chương
trình phát thanh truyền hình quốc gia và các chương trình do địa phương sản
xuất; mỗi đài đều được cấp kênh tần số riêng để phát sóng truyền hình tương tự
mặt đất (analog). Có 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có diện phủ sóng
truyền hình tương tự mặt đất của địa phương đạt 100%. Các tỉnh miền núi diện
phủ sóng PTTH chỉ đạt 40 – 50% như: Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Lai
Châu, Sơn La, Nghệ An, Kon Tum.
Với thực trạng nêu trên, có thể thấy Việt Nam là một trường hợp đặc biệt
có số lượng Đài Phát thanh, truyền hình lớn so với các nước trên thế giới. Tuy
nhiên, chất lượng truyền hình bao gồm cả chất lượng về nội dung kênh chương
trình truyền hình và chất lượng tín hiệu truyền hình của các Đài chưa cao. Việc
truyền dẫn, phát sóng các kênh chương trình truyền hình của các Đài Phát thanh,
truyền hình còn trùng lặp, gây lãng phí về tài nguyên tần số vô tuyến điện.
Về cơ bản, truyền hình tương tự mặt đất (truyền hình analog) là công nghệ
truyền hình sử dụng tín hiệu analog để truyền tải hình ảnh và âm thanh. Với
công nghệ này, tín hiệu hình ảnh và âm thanh được biến đổi “tương tự” với hình
ảnh và âm thanh có thật, đồng nghĩa với việc hình ảnh và âm thanh được biến
đổi trực tiếp thành tín hiệu điện mà tính chất của chúng không thay đổi. Tuy
38
nhiên, do phải biến đổi “tương tự” như vậy nên tín hiệu analog thường chiếm
một khoảng không gian rộng (8MHz), chỉ có thể chứa được một chương trình
trong mỗi kênh phát sóng. Ngoài ra, chất lượng hình ảnh và âm thanh của công
nghệ truyền hình này còn nhiều hạn chế, dễ bị nhiễu sóng.
Trong khi đó, truyền hình kỹ thuật số mặt đất (DTT) là công nghệ chuyển
đổi truyền hình mặt đất từ analog (tương tự) sang digital (kỹ thuật số). Ưu điểm
của phương thức này là hình ảnh sắc nét, có chiều sâu, loại bỏ hoàn toàn hiện
tượng nhiễu và bóng ma (ghost) vốn là nhược điểm của truyền hình analog
thông thường, loại bỏ tác hại của các tia sóng phản xạ, hạn chế ảnh hưởng nhiễu
phát ra do máy vi tính, mô-tơ điện, sấm sét, v.v..
Ưu điểm nổi bật của truyền hình số là đem lại hiệu quả sử dụng tần số, giúp
tiết kiệm chi phí phát sóng. Nếu như với truyền hình tương tự, chỉ có thể truyền
tải một kênh chương trình truyền hình trên một kênh tần số 8 MHz, thì với kỹ
thuật số tiêu chuẩn DVB-T2 cho phép truyền tải khoảng 20 chương trình truyền
hình độ nét tiêu chuẩn SD trên một kênh 8 MHz, nghĩa là truyền hình số sẽ cần
ít phổ tần số hơn số so với truyền hình tương tự. Bên cạnh đó, truyền hình kỹ
thuật số mặt đất có khả năng thu cố định hoặc xách tay, thu di động trên các
phương tiện giao thông công cộng như ô tô, tàu hoả, tàu thủy… Để sử dụng
công nghệ này, người dùng cần có ăng-ten thu sóng và đầu thu truyền hình kỹ
thuật số (Set-top-box) để giải mã, chuyển đổi tín hiệu. Chính vì vậy, sau khi
hoàn thành số hóa truyền hình sẽ có một phần băng tần dành cho truyền hình sẽ
dôi dư. Băng tần này được gọi là Băng tần lợi ích số hóa truyền hình (băng tần
Digital Dividend). Băng tần Digital Dividend được bộ phận Thông tin vô tuyến
của Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU-R) đánh giá là băng tần tiềm năng cho
công nghệ thông tin di động băng rộng IMT-Advanced (thông tin di động 4G).
Việc giải phóng được băng tần 700MHz sẽ mang lại nhiều lợi ích về kinh
tế, xã hội nên nhiều nước trên thế giới đều đang tích cực chuyển đổi sang truyền
hình số. Trên thế giới, Mỹ là nước đầu tiên đã hoàn thành số hóa truyền hình và
là thị trường đầu tiên trên thế giới bán đấu giá băng tần Digital Dividend (698-
39
806) MHz và do đó có lợi thế là có thể sớm triển khai các mạng thông tin di
động băng rộng. Các nhà cung cấp dịch vụ lớn ở Mỹ đã đưa ra dịch vụ 4G LTE
thương mại giai đoạn 2010-2011. Nhiều nước châu Âu cũng đang hoàn thành số
hóa truyền hình và triển khai mạng thông tin di động LTE trên băng tần dôi dư.
Để hội nhập với xu hướng phát triển về công nghệ truyền hình và công
nghệ thông tin di động băng thông rộng trên thế giới, đồng thời quy hoạch, tổ
chức, sắp xếp lại hệ thống các Đài phát thanh, truyền hình trên cả nước, Việt
Nam cũng đã ban hành quy hoạch về truyền dẫn, phát sóng phát thanh, truyền
hình đến năm 2020 và lộ trình chuyển đổi công nghệ cho phù hợp với xu thế nói
chung và điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam nói riêng.
Ngày 16/02/2009 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số
22/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch truyền dẫn, phát sóng phát thanh truyền hình
đến năm 2020 quy định băng tần UHF (470 - 806 MHz). Mục tiêu của quy
hoạch này gồm:
Mở rộng vùng phủ sóng phát thanh, truyền hình trong nước và quốc tế, đặc
biệt là các chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam
nhằm phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh của Đảng
và Nhà nước (sau đây gọi chung là nhiệm vụ chính trị) và đảm bảo cung cấp cho
đại đa số người dân trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài các
dịch vụ phát thanh, truyền hình đa dạng, phong phú, chất lượng cao, phù hợp với
nhu cầu và thu nhập của mọi đối tượng.
Phát triển hạ tầng truyền dẫn, phát sóng đồng bộ, hiện đại, hiệu quả, thống
nhất về tiêu chuẩn và công nghệ, đảm bảo có thể chuyển tải được các dịch vụ
phát thanh, truyền hình, viễn thông và công nghệ thông tin trên cùng một hạ
tầng kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu hội tụ công nghệ và dịch vụ.
Thúc đẩy việc chuyển đổi hạ tầng truyền dẫn, phát sóng từ công nghệ
tương tự sang công nghệ số nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng số lượng
kênh chương trình, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ và nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn tài nguyên tần số. 40
Từng bước hình thành và phát triển thị trường truyền dẫn, phát sóng trên cơ
sở tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước hoặc công ty cổ phần mà Nhà nước
nắm cổ phần chi phối nhằm thu hút các nguồn lực để phát triển hạ tầng kỹ thuật
phát thanh, truyền hình, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự quản
lý thống nhất, có hiệu quả của Nhà nước.
Ngày 21/11/2013, Thủ tướng chính phủ đã ký ban hành Quyết định số
71/2013/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện Quốc gia, trong
đó quy định băng tần 700MHz (thuộc đoạn băng tần từ 694 – 806MHz) được
phân chia cho các nghiệp vụ gồm CỐ ĐỊNH, DI ĐỘNG, QUẢNG BÁ là nghiệp
vụ chính. Cụ thể:
- Đoạn băng tần 790-960MHz được phân chia cho nghiệp vụ DI ĐỘNG là
nghiệp vụ chính và được xác định là dành cho cơ quan quản lý (nếu có mong
muốn) sử dụng để triển khai hệ thống thông tin di động IMT. Việc triển khai
IMT không hạn chế việc sử dụng các băng tần này bởi bất kỳ ứng dụng nào
thuộc các nghiệp vụ đã được phân chia cho băng tần này và không đặt ra quyền
ưu tiên trong Thể lệ vô tuyến điện (WRC-12);
- Đến năm 2020, đoạn băng tần 694-790 MHz được ưu tiên sử dụng cho
truyền hình mặt đất.
- Sau năm 2020, băng tần này sẽ được giải phóng để sử dụng cho thông tin
di động IMT. Không sản xuất, không nhập mới để sử dụng tại Việt Nam các hệ
thống vô tuyến điện khác trong đoạn băng tần 790-806 MHz. Các tổ chức, cá
nhân hiện đang sử dụng các hệ thống vô tuyến điện hoạt động trong băng tần
694-806 MHz phải có kế hoạch chuyển đổi;
- Các hệ thống vô tuyến dẫn đường hiện đang hoạt động trong băng tần
750-820MHz và 870-960MHz chỉ được tiếp tục sử dụng trên cơ sở phối hợp với
các hệ thống vô tuyến điện được phân chia trong các băng tần này để hạn chế
nhiễu có hại. Không triển khai mới hệ thống vô tuyến dẫn đường trong các băng
tần này.
41
- Đối với băng tần 620-790 MHz, xem xét thêm Nghị quyết 549 (WRC-
07) (nội dung của Nghị quyết liên quan tới việc sử dụng băng tần 620-790MHz
để ấn định tần số cho các đài phát sóng đang tồn tại thuộc nghiệp vụ quảng bá
qua vệ tinh).
Ngày 27/12/2013, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số
26/2013/TT-BTTTT về Quy hoạch sử dụng kênh tần số cho truyền hình mặt đất
băng tần UHF (470-806) MHz đến năm 2020. Nội dung của thông tư này quy
định điều kiện sử dụng các kênh tần số cho hệ thống truyền hình số mặt đất và
truyền hình tương tự mặt đất đến năm 2020. Các kênh tần số thuộc đoạn băng
tần từ 470-694MHz cho các đơn vị, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền dẫn,
phát sóng truyền hình mặt đất, và quy định đoạn băng tần từ 694-806MHz tạm
thời sử dụng cho truyền hình tương tự mặt đất và truyền hình số mặt đất. Đoạn
băng tần này sẽ được dành cho thông tin di động và các nghiệp vụ vô tuyến điện
khác sau khi ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất theo Kế hoạch số
hóa truyền hình mặt đất.
Hình 7: Quy hoạch sử dụng kênh tần số UHF (470 - 806 MHz) tại Việt Nam
Ba đoạn băng tần B1 (các kênh 25, 26, 27), B2 (các kênh 29, 30, 31), B3
(các kênh 43, 44, 45) được ưu tiên phân bổ cho ba đơn vị truyền dẫn, phát sóng
truyền hình số mặt đất toàn quốc. Đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số
mặt đất toàn quốc được phân bổ đoạn băng tần B3 tạm thời sử dụng các kênh
57, 58, 59 và phải chuyển về sử dụng đoạn băng tần B3 trước ngày 01/7/2017.
Các kênh tần số 24, 32, 42 được ưu tiên phân bổ thêm cho các đơn vị
truyền dẫn phát sóng truyền hình số mặt đất toàn quốc, sử dụng các đoạn băng
tần B1, B2, B3 tương ứng, để đáp ứng nhu cầu thực tế về tăng dung lượng phát 42
sóng truyền hình số mặt đất. Trong trường hợp chưa thể sử dụng được các kênh
tần số này, có thể xem xét cấp phép tạm thời kênh tần số khác; đơn vị truyền
dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất toàn quốc phải chuyển về sử dụng kênh
tần số ưu tiên sau khi kênh này được giải phóng.
Đoạn băng tần C1 (các kênh 33, 34) được ưu tiên phân bổ cho đơn vị
truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất khu vực tại khu vực Nam Bộ. Tại
các khu vực khác, truyền hình tương tự mặt đất được sử dụng đoạn băng tần này
và phải ngừng việc phát sóng theo Kế hoạch số hóa để sử dụng cho truyền hình
số mặt đất.
Đoạn băng tần C4 (các kênh 47, 48) được ưu tiên phân bổ cho đơn vị
truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất khu vực tại khu vực Bắc Bộ. Tại
các khu vực khác, truyền hình tương tự mặt đất được sử dụng đoạn băng tần này
và phải ngừng việc phát sóng theo Kế hoạch số hóa để sử dụng cho truyền hình
số mặt đất.
Các kênh tần số 35, 46 được ưu tiên phân bổ thêm cho đơn vị truyền dẫn,
phát sóng truyền hình số mặt đất khu vực tại khu vực Nam Bộ, Bắc Bộ tương
ứng, để đáp ứng nhu cầu thực tế về tăng dung lượng phát sóng truyền hình số
mặt đất. Trong trường hợp chưa thể sử dụng được các kênh tần số này, có thể
xem xét cấp phép tạm thời kênh tần số khác; đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền
hình số mặt đất khu vực phải chuyển về sử dụng kênh tần số ưu tiên sau khi
kênh này được giải phóng. Tại các khu vực khác, truyền hình tương tự mặt đất
được sử dụng kênh tần 35, 46 và phải ngừng việc phát sóng theo Kế hoạch số
hóa để sử dụng cho truyền hình số mặt đất.
Đoạn băng tần C2 (các kênh 36, 37) được ưu tiên phân bổ cho đơn vị
truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất khu vực tại khu vực Tây Nguyên,
khu vực Tây Bắc. Tại các khu vực khác, truyền hình tương tự mặt đất được sử
dụng đoạn băng tần này và phải ngừng việc phát sóng theo Kế hoạch số hóa để
sử dụng cho truyền hình số mặt đất.
43
Đoạn băng tần C3 (các kênh 40, 41) được ưu tiên phân bổ cho đơn vị
truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất khu vực tại khu vực Trung Bộ. Tại
các khu vực khác, truyền hình tương tự mặt đất được sử dụng đoạn băng tần này
và phải ngừng việc phát sóng theo Kế hoạch số hóa để sử dụng cho truyền hình
số mặt đất.
Các kênh tần số thuộc các đoạn băng tần A1 (các kênh 21, 22, 23), A2 (các
kênh 38, 39) và kênh 28 được sử dụng cho hệ thống truyền hình tương tự mặt
đất và phải ngừng việc phát sóng theo Kế hoạch số hóa để sử dụng cho truyền
hình số mặt đất.
Đoạn băng tần D (694-806) MHz được sử dụng tạm thời cho cả truyền hình
số mặt đất và truyền hình tương tự mặt đất. Đoạn băng tần này sẽ được dành cho
thông tin di động IMT và các dịch vụ thông tin vô tuyến điện khác sau khi
ngừng việc phát sóng truyền hình tương tự mặt đất theo Kế hoạch số hóa.
Hiện nay, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC,
Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn cầu (AVG) đã được cấp phép sử dụng các
kênh tần số thuộc băng tần UHF theo quy hoạch nêu trên để triển khai phủ sóng
truyền hình số mặt đất phạm vi toàn quốc.
Công ty Cổ phần truyền dẫn, phát sóng truyền hình đồng bằng Sông Hồng
(RTB) đã được cấp phép sử dụng 2 kênh tần số 46, 48 để phủ sóng truyền hình
số mặt đất tại khu vực đồng bằng Bắc Bộ (gồm 14 tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Bắc
Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Phú Thọ).
Công ty Trách nhiệm hữu hạn truyền hình Kỹ thuật số Miền Nam (SDTV)
đã được cấp phép sử dụng 3 kênh tần số 33, 34, 35 để phủ sóng truyền hình số
mặt đất tại khu vực đồng bằng Nam Bộ (gồm 20 tỉnh thành phố Hồ Chí Minh,
Cần Thơ, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang, Bến
Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Hậu Giang, Bình Thuận, Bình Phước,
Tây Ninh, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang).
44
Tại phần lớn các địa bàn đã được phủ sóng truyền hình số mặt đất, số lượng
kênh truyền hình người dân có thể thu được từ 26 kênh đến 70 kênh (trong đó có
05 đến 07 kênh truyền hình độ nét cao HDTV), tăng hơn nhiều so với số lượng
từ 04 đến 06 kênh khi thu xem bằng truyền hình tương tự mặt đất. Chất lượng,
số lượng các kênh chương trình truyền hình đã được nâng cao rõ rệt, được nhân
dân phấn khởi đón nhận.
Ngày 22/01/2014, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định
số 80/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch chuyển đổi kênh tần số truyền hình mặt đất
băng tần UHF (470-806) MHz giai đoạn 2014-2017 để thực hiện quy hoạch sử
dụng kênh tần số cho truyền hình mặt đất băng tần UHF (470-806) MHz đến
năm 2020 nêu trên. Theo quyết định này, các Đài Truyền hình Việt Nam, Đài
Truyền hình kỹ thuật số VTC, Công ty cổ phần nghe nhìn toàn cầu AVG, một số
Đài Phát thanh và Truyền hình địa phương phải chuyển đổi kênh tần số theo thời
điểm được quy định nhằm giải phóng các kênh tần số, đảm bảo cho việc triển
khai số hóa truyền hình mặt đất theo đúng lộ trình số hóa truyền hình đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 2451/QĐ-TTg.
Thực hiện Quyết định 80/QĐ-BTTTT, các Đài Phát thanh truyền hình
Trung ương và địa phương đã thực hiện chuyển đổi các kênh tần số, cụ thể như
sau:
Đài Truyền hình Việt Nam đã chuyển đổi và giải phóng kênh tần số 47, 31,
32, 30, 43. Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC đã chuyển đổi và giải phóng kênh
tần số 31, 25, 26. Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Long An đã chuyển đổi và
giải phóng kênh tần số 34. Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bình Phước và
Sóc Trăng đã chuyển đổi và giải phóng kênh 25.
Hiện nay, chỉ còn Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bạc Liêu chưa thực
hiện chuyển đổi và giải phóng kênh 33 tại Bạc Liêu do gặp khó khăn về kinh
phí thực hiện chuyển đổi.
Nhìn chung, việc thực hiện chuyển đổi kênh tần số của các Đài Phát thanh
truyền hình Trung ương và địa phương theo đúng kế hoạch và tạo điều kiện 45
thuận lợi cho các đơn vị, doanh nghiệp truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt
đất trong việc triển khai mạng truyền hình số mặt đất đơn tần.
1.2.2. Nghiên cứu, đánh giá về chính sách quản lý và lộ trình chuyển đổi
công nghệ băng tần 700 MHz tại Việt Nam
Ngày 27/12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
2451/QĐ-TTg phê duyệt Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất
đến năm 2020. Trong đó, một trong những 04 mục tiêu quan trọng của Đề án số
hóa truyền hình mặt đất là chuyển đổi hạ tầng truyền dẫn, phát sóng truyền hình
mặt đất từ công nghệ tương tự sang công nghệ số theo hướng hiện đại, hiệu quả,
thống nhất về tiêu chuẩn và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng
số lượng kênh chương trình, nâng cao hiệu quả sử dụng tần số truyền hình, đồng
thời giải phóng một phần tài nguyên tần số để phát triển các dịch vụ thông tin di
động và vô tuyến băng rộng.
Đề án số hóa truyền hình nêu trên đã được Chính phủ phê duyệt phù hợp
với xu thế chung của thế giới và đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi công nghệ, phát
triển cơ sở hạ tầng mạng truyền hình, nâng cao chất lượng dịch vụ, sử dụng hiệu
quả tài nguyên phổ tần số vô tuyến điện.
Theo kế hoạch số hóa truyền dẫn phát sóng truyền hình số mặt đất thì Việt
Nam sẽ thực hiện phủ sóng truyền hình số mặt đất và ngừng phát sóng truyền
hình tương tự mặt đất theo bốn Giai đoạn với bốn Nhóm tỉnh khác nhau. Cụ thể:
Giai đoạn I sẽ thực hiện số hóa truyền hình mặt đất tại 5 thành phố trực
thuộc Trung ương là Hà Nội (cũ), Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh
và Cần Thơ. 5 thành phố này sẽ ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất
và chuyển sang phủ sóng truyền hình số mặt đất trước ngày 31/12/2015.
Giai đoạn II sẽ triển khai số hóa truyền hình tại 26 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương gồm Hà Nội (mở rộng), Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương,
Hưng Yên, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh
Bình, Bắc Giang, Phú Thọ, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Dương,
46
Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long,
Đồng Tháp, An Giang, Hậu Giang. Thời hạn ngừng phát sóng truyền hình tương
tự mặt đất và chuyển sang phủ sóng truyền hình số mặt đất trước ngày
31/12/2016.
Giai đoạn III tiếp tục triển khai số hóa truyền hình mặt đất mở rộng tới 18
tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Lâm Đồng, Bình Phước, Tây
Ninh, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang. Thời hạn ngừng
phát sóng truyền hình tương tự mặt đất và chuyển sang phủ sóng truyền hình số
mặt đất trước ngày 31/12/2018.
Giai đoạn IV sẽ tiến hành với các tỉnh còn lại thuộc vùng sâu, vùng xa như
thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên gồm Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn,
Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa
Bình, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông. Thời hạn ngừng phát sóng truyền
hình tương tự mặt đất và chuyển sang phủ sóng truyền hình số mặt đất trước
ngày 31/12/2020.
Cũng theo Quyết định 2451/QĐ-TTg, một số chính sách quản lý và thúc
đẩy việc chuyển đổi công nghệ cũng được quy định. Cụ thể:
Doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất các máy phát, máy thu truyền hình số,
đầu thu truyền hình số và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền dẫn, phát
sóng truyền hình số đáp ứng điều kiện doanh nghiệp công nghệ cao và các quy
định trong Luật Chuyển giao công nghệ được hưởng ưu đãi về tài chính, về thuế
theo quy định của pháp luật về tài chính, thuế và pháp luật về công nghệ cao,
pháp luật về chuyển giao công nghệ; nghiên cứu bổ sung đầu thu truyền hình số,
máy thu truyền hình số, truyền hình độ phân giải cao và lập thể vào chương trình
sản phẩm đầu tư trọng điểm;
Huy động nguồn vốn ngân sách nhà nước trung ương và địa phương, vốn
doanh nghiệp, vốn ODA và tạo các cơ chế đặc biệt nhằm huy động các nguồn
vốn hợp pháp khác để phát triển hạ tầng truyền dẫn, phát sóng truyền hình số 47
mặt đất phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu và hỗ trợ
đầu thu truyền hình số cho người dân;
Sử dụng kinh phí từ Quỹ dịch vụ viễn thông công ích theo kế hoạch số hóa
truyền hình mặt đất để:
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền dẫn, phát sóng
truyền hình số mặt đất đầu tư triển khai các máy phát số để phát các kênh
chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu tại
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng biên giới, hải đảo;
- Hỗ trợ đầu thu truyền hình số cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia
đình chính sách;
Xây dựng các chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích trong giai
đoạn 2011 - 2020, trong đó xác định rõ thời gian, khu vực, đối tượng và kinh phí
hỗ trợ để thực hiện kế hoạch số hóa truyền hình mặt đất.
Sử dụng một phần kinh phí thu được từ đấu giá tần số vô tuyến điện để
thực hiện kế hoạch số hóa truyền hình mặt đất.
Một số kết quả triển khai Quyết định 2451/QĐ-TTg theo Giai đoạn I như
sau:
Trên phạm vi toàn quốc có 3 đơn vị, doanh nghiệp gồm Đài Truyền hình
Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn
Cầu (AVG) triển khai truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất.
Trên phạm vi khu vực, Công ty Cổ phần truyền dẫn phát sóng truyền hình
đồng bằng Sông Hồng (RTB) đã được cấp phép thiết lập mạng để truyền dẫn,
phát sóng truyền hình số mặt đất tại khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Công ty Trách
nhiệm hữu hạn truyền hình Kỹ thuật số Miền Nam (SDTV) đã được cấp phép
thiết lập mạng để truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất tại khu vực đồng
bằng Nam Bộ. Tình hình triển khai phủ sóng truyền hình số mặt đất tại các tỉnh,
thành phố cụ thể như sau:
48
VTV đã triển khai mạng phát sóng truyền hình số mặt đất (công nghệ
DVB-T2), sử dụng mạng đa tần với 19 máy phát sóng tại Đà Nẵng, khu vực
đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ phủ sóng cho 36 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương. Vùng phủ sóng số mặt đất của VTV tại thành phố Đà Nẵng,
khu vực đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ khá rộng, đã bao trùm hầu hết
vùng phủ sóng truyền hình tương tự mặt đất đang phát sóng tại 05 thành phố Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Mạng truyền dẫn,
phát sóng của VTV truyền tải 09 kênh truyền hình của VTV trong đó có 06 kênh
truyền hình có độ nét cao HDTV. Chất lượng hình ảnh và âm thanh đã được
nâng cao rõ rệt.
Công ty AVG đã triển khai 32 trạm phát sóng truyền hình số mặt đất (công
nghệ DVB-T2) và phủ sóng toàn bộ khu vực Bắc Bộ, Nam Bộ và một số tỉnh,
thành phố miền Trung như Đà Nẵng, Bắc Quảng Nam, Khánh Hòa, truyền tải
không khóa mã một số kênh truyền hình chính trị thiết yếu.
Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC hiện chủ yếu vẫn phủ sóng truyền hình
số mặt đất bằng công nghệ DVB-T tại nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, truyền tải không khóa mã 24 kênh chương trình trong đó có một số kênh
truyền hình chính trị thiết yếu quốc gia và địa phương.
Bên cạnh đó, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC đã phát sóng truyền hình
số mặt đất (công nghệ DVB-T2) trên kênh tần số 31 tại Hà Nội, kênh tần số 39
tại Cần Thơ truyền tải 04 kênh truyền hình độ nét cao HDTV, 3 kênh truyền
hình có độ nét tiêu chuẩn SDTV.
Công ty SDTV đã triển khai 07 máy phát phủ sóng hầu hết cho khu vực
thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh
Long, Hậu Giang, phủ sóng một phần địa bàn các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng
Tàu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang; 03 máy phát
công suất nhỏ tại Côn Đảo phủ sóng cho huyện Côn Đảo, Bà Rịa- Vũng Tàu.
Công ty RTB đã triển khai 05 máy phát hình số phát sóng (công nghệ
DVB-T2), trong đó có 03 máy phát sóng chính tại Hà Nội, Hải Phòng, Hà Nam 49
và 02 trạm phát sóng công suất nhỏ tại Hải Phòng truyền tải các kênh truyền
hình chính trị thiết yếu của địa phương và các kênh truyền hình khác. Phủ sóng
toàn bộ địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nam, Hải Dương,
Vĩnh Phúc. Phủ sóng một phần các tỉnh Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định, Phú
Thọ, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh.
Nhìn chung, việc phủ sóng truyền hình số mặt đất tại 05 thành phố trực
thuộc Trung ương và các tỉnh lân cận đã được các đơn vị, doanh nghiệp truyền
dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất thực hiện theo đúng lộ trình, đã đảm bảo
lớn hơn hoặc bằng vùng phủ sóng truyền hình tương tự mặt đất.
Tại phần lớn các địa bàn đã được phủ sóng truyền hình số mặt đất, số lượng
kênh truyền hình người dân có thể thu được từ 26 kênh đến 70 kênh (trong đó có
05 đến 07 kênh truyền hình độ nét cao HDTV), tăng hơn nhiều so với số lượng
từ 04 đến 06 kênh khi thu xem bằng truyền hình tương tự mặt đất. Chất lượng,
số lượng các kênh chương trình truyền hình đã được nâng cao rõ rệt, được nhân
dân phấn khởi đón nhận. Đây chính là yếu tố lôi cuốn và thúc đẩy nhân dân chủ
động chuyển đổi sang thu xem truyền hình số mặt đất.
Về chính sách hỗ trợ các hộ gia đình trong quá trình chuyển đổi công
nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông đã thực hiện hỗ trợ cho 460.232 hộ nghèo,
cận nghèo đủ điều kiện hỗ trợ trong vùng ảnh hưởng của việc ngừng phát sóng
truyền hình tương tự mặt đất tại 05 thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó,
có 16.052 hộ nghèo, cận nghèo tại Đà Nẵng và Bắc Quảng Nam; 444.180 hộ
nghèo, cận nghèo tại 04 thành phố Hà Nội, tp. Hỗ Chí Minh, Hải Phòng, Cần
Thơ và địa bàn ảnh hưởng của 19 tỉnh lân cận. Đây là các hộ nghèo, cận nghèo
có máy thu hình (TV) và chưa sử dụng truyền hình số mặt đất, truyền hình cáp,
truyền hình qua vệ tinh, truyền hình qua internet. Ngoài số lượng hộ nghèo, cận
nghèo theo tiêu chuẩn Trung ương được Bộ Thông tin và Truyền thông hỗ trợ,
thành phố Đà Nẵng đã hỗ trợ đầu thu truyền hình số mặt đất cho 5.043 hộ
nghèo, cận nghèo theo chuẩn của Đà Nẵng, Hà Nội đã hỗ trợ cho 12.018 hộ
50
nghèo, cận nghèo theo chuẩn của Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ cho
13.650 hộ nghèo, cận nghèo theo chuẩn của thành phố Hồ Chí Minh.
Với sự phối hợp tích cực của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
Bộ Thông tin và Truyền thông đã hoàn thành việc hỗ trợ đầu thu truyền hình số
mặt đất cho các hộ nghèo, cận nghèo theo quy định. Các hộ gia đình này có thể
tiếp tục thu xem các kênh truyền hình chính trị thiết yếu trên hệ thống truyền
hình số mặt đất sau khi ngừng phát sóng truyền hình tương tự tại địa bàn.
Ngoài ra, để chuẩn bị sự sẵn sàng của thiết bị thu truyền hình số mặt đất tại
thị trường Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành 08 bộ quy
chuẩn kỹ thuật Quốc gia về truyền hình số (mặt đất, cáp, vệ tinh) và quy định lộ
trình tích hợp chức năng thu truyền hình số mặt đất đối với máy thu hình (tivi).
Trong đó, quy định các chủng loại máy thu hình sử dụng công nghệ màn hình
LCD, PDP, LED, OLED và các công nghệ màn hình tiếp theo được sản xuất và
nhập khẩu để sử dụng tại Việt Nam phải tích hợp chức năng thu truyền hình số
mặt đất tiêu chuẩn DVB-T2, tiêu chuẩn mã hóa tín hiệu hình ảnh và âm thanh
MPEG-4 phù hợp với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 63:2012/BTTTT
theo thời điểm cụ thể như sau:
a) Từ ngày 01/04/2014 áp dụng đối với tất cả các máy thu hình có kích
thước màn hình trên 32 inch;
b) Từ ngày 01/04/2015 áp dụng đối với tất cả các máy thu hình có kích
thước màn hình từ 32 inch trở xuống.
Không quy định bắt buộc tích hợp chức năng thu truyền hình số mặt đất đối
với máy thu hình sử dụng công nghệ màn hình CRT sản xuất và nhập khẩu để sử
dụng tại Việt Nam.
Quy định này nhằm thúc đẩy sự chuyển đổi công nghệ thu xem đối với thị
trường Việt Nam. Sau khi quy định này có hiệu lực, các doanh nghiệp sản xuất
và nhập khẩu máy thu hình tại Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các quy định
nêu trên. Các sản phẩm máy thu hình LCD, PDP, LED, OLED được sản xuất
51
sau ngày 01/04/2015 đều đã được tích hợp chức năng thu truyền hình số mặt đất
theo quy định.
Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu trong nước, nhiều doanh nghiệp đã tham
gia tích cực vào việc thiết kế, sản xuất thiết bị thu truyền hình số mặt đất (công
nghệ DVB-T2). Đặc biệt là các công ty như VNPT Technology và TC Group là
các doanh nghiệp nội địa tự nghiên cứu, sản xuất đầu thu truyền hình số mặt đất
có chất lượng cao (gồm các khâu thiết kế, lắp ráp linh kiện, viết phần mềm,
v.v..). Nhà máy sản xuất của VNPT Technology có công suất 10.000 sản phẩm
mỗi ngày. Thời gian qua, VNPT Technology đã cung cấp hơn 550.000 đầu thu
truyền hình số mặt đất DVB-T2 ra thị trường, trong đó có 206.821 bộ đầu thu
truyền hình số mặt đất đã được cấp cho hộ nghèo, cận nghèo theo dự án hỗ trợ
đầu thu truyền hình số mặt đất tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Công ty TC Group cũng đã cung cấp ra thị trường hơn 140.000 bộ đầu thu
truyền hình số mặt đất.
Danh sách các thiết bị thu truyền hình số mặt đất đã được tiếp nhận công
bố hợp quy thường xuyên được đăng tải, cập nhật công khai trên chuyên trang
thông tin điện tử www.sohoatruyenhinh.vn, giúp nhân dân có thể tìm hiểu thông
tin và trang bị thiết bị thu truyền hình số mặt đất đảm bảo chất lượng theo quy
định. Hiện có 874 sản phẩm máy thu hình có chức năng thu truyền hình số mặt
đất (công nghệ DVB-T2) đã được tiếp nhận công bố hợp quy, 81 sản phẩm đầu
thu truyền hình số mặt đất (công nghệ DVB-T2) đã được tiếp nhận công bố hợp
quy.
1.2.3. Đánh giá chung
Từ thực tế triển khai lộ trình chuyển đổi công nghệ của Việt Nam có thể
đánh giá Việt Nam đã và đang rất nỗ lực trong việc thúc đẩy nhanh quá trình số
hóa truyền hình để giải phóng băng tần 700MHz. Với việc ban hành rất nhiều
quy định, chính sách liên quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi để mọi thành phần
có thể tiếp cận với Đề án số hóa một cách nhanh chóng mà vẫn đảm bảo quyền
lợi và trách nhiệm của nhân dân và các đơn vị, doanh nghiệp. Cụ thể:
52
- Phê duyệt Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất đến
năm 2020, trong đó quy định lộ trình chuyển đổi công nghệ truyền hình từ tương
tự mặt đất sang số mặt đất theo bốn giai đoạn tương ứng với bốn nhóm tỉnh khác
nhau.
- Quy hoạch kênh tần số tại băng tần 700MHz cho các hệ thống truyền
hình số mặt đất toàn quốc, khu vực.
- Ban hành các bộ quy chuẩn kỹ thuật quốc gia quy định các điều kiện kỹ
thuật cụ thể liên quan tới chất lượng thu xem truyền hình số mặt đất theo tiêu
chuẩn DVB-T2.
- Quy định lộ trình tích hợp chức năng thu truyền hình số mặt đất đối với
máy thu hình.
- Thực hiện hỗ trợ đầu thu truyền hình số cho các hộ nghèo, cận nghèo có
máy thu hình, chưa sử dụng các phương thức truyền hình khác nhau truyền hình
số mặt đất, truyền hình cáp, truyền hình qua vệ tinh, truyền hình IPTV.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình triển khai lộ trình số hóa truyền
hình tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đã thực hiện thành công
Giai đoạn I của Đề án số hóa truyền hình, cụ thể:
Từ ngày 01/11/2015, đã thực hiện ngừng phát sóng truyền hình tương tự
mặt đất và chuyển đổi sang phủ sóng truyền hình số mặt đất tại Đà Nẵng, hoàn
thành sớm 02 tháng so với kế hoạch đã được phê duyệt. Đà Nẵng được lựa chọn
là thành phố đầu tiên triển khai thí điểm do điều kiện địa hình, điều kiện phát
triển kinh tế, xã hội, mức thu nhập của người dân thuận lợi hơn so với các khu
vực khác.
Tiếp theo đó là từ ngày 15/08/2016 đã thực hiện ngừng phát sóng truyền
hình tương tự mặt đất tại bốn thành phố trực thuộc Trung ương gồm Hà Nội, Hải
Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ.
Việc phủ sóng truyền hình số mặt đất tại 05 thành phố trực thuộc Trung
ương và các tỉnh lân cận đã được các đơn vị, doanh nghiệp truyền dẫn, phát sóng
53
truyền hình số mặt đất thực hiện theo đúng lộ trình, đã đảm bảo lớn hơn hoặc
bằng vùng phủ sóng truyền hình tương tự mặt đất. Tại phần lớn các địa bàn đã
được phủ sóng truyền hình số mặt đất, số lượng kênh truyền hình người dân có
thể thu được từ 26 kênh đến 70 kênh (trong đó có 05 đến 07 kênh truyền hình độ
nét cao HDTV), tăng hơn nhiều so với số lượng từ 04 đến 06 kênh khi thu xem
bằng truyền hình tương tự mặt đất. Chất lượng, số lượng các kênh chương trình
truyền hình đã được nâng cao rõ rệt, được nhân dân phấn khởi đón nhận. Đây
chính là yếu tố lôi cuốn và thúc đẩy nhân dân chủ động chuyển đổi sang thu xem
truyền hình số mặt đất.
Từ thực tế triển khai, Giai đoạn I được đánh giá có vai trò rất quan trọng vì
địa bàn tác động không chỉ 5 thành phố trực thuộc Trung ương mà còn mở rộng
sang địa bàn lân cận thuộc 20 tỉnh khác (bao gồm Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải
Dương, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Ninh, Quảng Nam,
Vĩnh Long, Hậu Giang, Bình Dương, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Trà
Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Đồng Nai, Long An). Theo ước tính, dân số thuộc
địa bàn chuyển đổi theo Giai đoạn I thuộc 25 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương nêu trên chiếm gần 50% dân số cả nước.
Sau khi hoàn thành Giai đoạn I của Đề án số hóa truyền hình, một số kênh
tần số thuộc đoạn băng tần từ (694-806)MHz gồm các kênh 21, 22, 26, 28, 46,
48, 54 của VTV, kênh 33, 39, 44, 46, 51, 54, 60, 61 của VTC, kênh 24 của Đài
Phát thanh và Truyền hình Hà Nội, kênh 28, 38 của Đài Phát thanh và Truyền
hình Hải Phòng, kênh 24 của Đài Phát thanh và Truyền hình Đà Nẵng, kênh 28,
38 của Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh, kênh 43 của Đài Phát thanh và
truyền hình thành phố Cần Thơ đã được giải phóng.
Có thể đánh giá rằng việc triển khai Đề án số hóa trên thực tế gặp một số
khó khăn nhất định nên đối với 04 thành phố Hà Nội, Hải Phòng, tp. Hồ Chí
Minh, Cần Thơ còn bị chậm 08 tháng so với lộ trình đã được phê duyệt. Các
khó khăn, vướng mắc cụ thể như sau:
54
- Địa bàn số hóa truyền hình theo Giai đoạn I là rất rộng. Cụ thể, khi ngừng
phát sóng truyền hình tương tự mặt đất, ngoài 4 thành phố trực thuộc Trung
ương còn có địa bàn thuộc 19 tỉnh lân cận bị ảnh hưởng. Vì vậy, cần phải thực
hiện thêm việc khảo sát, xác định địa bàn ảnh hưởng cùng với số lượng hộ
nghèo, cận nghèo phát sinh, đủ điều kiện hỗ trợ đầu thu tại các địa phương đó.
Điều này dẫn đến khối lượng công việc phát sinh rất lớn, thời gian thực hiện kéo
dài so với kế hoạch ban đầu.
- Kinh phí dành cho công tác thông tin, tuyên truyền rất hạn hẹp. Theo Kế
hoạch thông tin, tuyên truyền về số hóa của Bộ Thông tin và Truyền thông giai
đoạn 2013 – 2015, tổng kinh phí dành cho hoạt động này là 33,25 tỷ đồng. Tuy
nhiên, giai đoạn 2013-2015 kinh phí được cấp chỉ đạt gần 5 tỷ đồng. Do vậy,
phạm vi, quy mô thông tin tuyên truyền bị thu hẹp. Một số địa phương chưa bố
trí đủ nguồn kinh phí cần thiết cho công tác thông tin tuyên truyền.
- Thuế suất nhập khẩu đối với mặt hàng đầu thu truyền hình số hiện tại
đang được áp dụng với mức cao là 35%. Điều này gây khó khăn cho việc triển
khai số hóa truyền hình, làm tăng chi phí của Nhà nước hỗ trợ đầu thu truyền
hình số cho hộ nghèo, cận nghèo, đồng thời làm chậm tiến độ giải phóng băng
tần truyền hình, phát sinh chi phí lớn cho Nhà nước và vốn đầu tư của doanh
nghiệp.
- Việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều cho giai đoạn 2016 – 2020
làm phát sinh các hộ nghèo, cận nghèo mới. Do đó, Bộ Thông tin và Truyền
thông và các địa phương phải thực hiện rà soát danh sách các hộ nghèo, cận
nghèo phát sinh và hỗ trợ bổ sung đầu thu truyền hình số mặt đất tại 04 thành
phố trực thuộc Trung ương và địa bàn bị ảnh hưởng của 19 tỉnh lân cận.
- Số lượng hộ nghèo, cận nghèo theo tiêu chuẩn tiếp cận đa chiều cho giai
đoạn 2016 – 2020 lớn hơn nhiều so với theo tiêu chuẩn cũ. Do đó, kinh phí đã
được phê duyệt tại Quyết định 2451/QĐ-TTg có thể không đáp ứng đủ nhu cầu
hỗ trợ đầu thu truyền hình số tại các địa phương trong thời gian tới.
55
- Đối với giai đoạn tiếp theo, có thể thấy một số tỉnh thuộc Giai đoạn II
(gồm Quảng Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình, Bắc Giang, Phú Thọ, Đồng Nai,
Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu) và nhiều tỉnh thuộc giai đoạn III, IV (gồm
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Lâm Đồng, Bình Phước, Hà
Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Điện
Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông) có
địa hình rất phức tạp. Tại địa bàn này hiện có số lượng lớn các trạm phát lại
truyền hình tương tự mặt đất đang hoạt động nên việc số hóa truyền hình mặt đất
sẽ khó khăn hơn nhiều và kém hiệu quả. Do đó, cần xem xét kết hợp phủ sóng
truyền hình số mặt đất với truyền hình qua vệ tinh tại các địa bàn thuộc vùng
sâu, vùng xa.
Hiện nay, trên toàn quốc có 60 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã
phát sóng quảng bá kênh truyền hình địa phương qua vệ tinh.
Theo kết quả điều tra của Công ty TNS Media năm 2016, tỷ lệ các hộ gia
đình sử dụng phương thức thu xem truyền hình cụ thể như sau:
Bảng 2: Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng phương thức thu xem truyền hình
Phương thức thu xem truyền
hình
Toàn quốc
Trung du & Miền núi phía Bắc
Đồng bằng Sông Hồng
(không bao gồm
nội thành
Hà Nội)
Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trun
g
Tây Nguyê
n
Đông Nam Bộ (không
bao gồm nội thành
HCM)
Đồng bằng sông Cửu
Long
Tương tự mặt đất 16% 6% 26% 13% 4% 11% 29%
Cáp 29% 12% 25% 17% 26% 38% 22%
Vệ tinh (DTH) 31% 55% 12% 34% 38% 36% 43%
Số mặt đất (DTT) 13% 12% 27% 22% 9% 0% 4%
IPTV 14% 17% 16% 14% 24% 15% 8%
Khác 0% 1% 1% 0% 0% 0% 0%
56
Nhìn chung, tại khu vực miền núi phương thức thu xem truyền hình qua vệ
tinh (DTH) chiếm vai trò chủ đạo, truyền hình tương tự mặt đất chiếm tỷ lệ thấp.
Việc đầu tư và duy trì hệ thống phát lại truyền hình tương tự mặt đất cho
vùng sâu, vùng xa không hiệu quả nên có địa phương đã không duy trì các trạm
phát lại truyền hình không hiệu quả. Trong đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An
đã quyết định chấm dứt 12 trạm phát lại truyền hình đang hoạt động kém hiệu
quả tại các huyện vùng sâu, vùng xa của tỉnh Nghệ An. Hà Giang, Quảng Bình
đã có công văn đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông hỗ trợ việc thu xem
truyền hình qua vệ tinh do các tỉnh này có địa bàn miền núi địa hình phức tạp,
việc triển khai truyền hình số mặt đất gặp nhiều khó khăn.
- Tại khu vực Trung Bộ nơi có điều kiện địa hình phức tạp, hiện chưa có
doanh nghiệp truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất khu vực do hiệu quả
đầu tư vào mạng truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất tại đây không cao.
Để tiếp tục triển khai số hóa truyền hình các giai đoạn tiếp theo, cần thiết rà
soát, đánh giá các chính sách quản lý, hỗ trợ đầu thu cho hộ nghèo, cận nghèo,
yêu cầu thành lập doanh nghiệp truyền dẫn phát sóng đối với một số khu vực,
đơn vị, hỗ trợ thu/phát sóng qua vệ tinh, điều chỉnh phân chia giai đoạn và khu
vực thực hiện số hóa, v.v.. Từ đó đề xuất điều chỉnh các quy định cho phù hợp,
bảo đảm đến năm 2020 tắt sóng truyền hình tương tự thành công trên cả nước.
1.3. Đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 700MHz
Tính tới thời điểm tháng 10/2017, Việt Nam đã hoàn thành việc ngừng phát
sóng truyền hình tương tự mặt đất và chuyển đổi sang phủ sóng truyền hình
tương tự mặt đất tại các địa bàn thuộc 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Cụ thể gồm: 05 thành phố trực thuộc Trung ương thuộc Giai đoạn I gồm Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và 15 tỉnh thuộc
Giai đoạn II gồm Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Thái
Bình, Nam Định, Bình Dương, Vĩnh Long, Hậu Giang, An Giang, Tiền Giang,
Bến Tre, Đồng Tháp, Long An đã hoàn thành việc chuyển đổi hoàn toàn từ 57
truyền hình tương tự mặt đất sang truyền hình số và ngừng phát sóng truyền
hình tương tự mặt đất trên toàn bộ địa bàn; 08 tỉnh thuộc Giai đoạn II gồm
Quảng Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình, Bắc Giang, Phú Thọ, Đồng Nai, Bà Rịa-
Vũng Tàu, Bình Thuận đã hoàn thành việc ngừng phát sóng truyền hình tương
tự mặt đất và chuyển đổi sang truyền hình số mặt đất trên một phần địa bàn (địa
bàn thuộc vùng phủ sóng của các trạm phát sóng chính truyền hình tương tự mặt
đất).
Địa bàn đồng bằng của tỉnh Khánh Hòa và 06 tỉnh tại khu vực đồng bằng
Nam Bộ thuộc Nhóm III gồm Bình Phước, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà
Mau, Kiên Giang sẽ thực hiện ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất
trước ngày 31/12/2017.
Như vậy, các địa bàn chưa triển khai Đề án số hóa bao gồm địa bàn thuộc
vùng phủ sóng của các trạm phát lại truyền hình tương tự mặt đất tại các tỉnh
Nhóm II gồm Quảng Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình, Bắc Giang, Phú Thọ,
Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Thuận; và các tỉnh thuộc Nhóm III, IV gồm
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Lâm Đồng, Hà Giang, Cao
Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai
Châu, Sơn La, Hòa Bình, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông. Trên thực tế,
các tỉnh này là các tỉnh có địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, địa hình phức
tạp nên nếu triển khai phủ sóng truyền hình số mặt đất tại các địa bàn này thì
kinh phí đầu tư lớn và thời gian triển khai kéo dài.
Để tiếp tục triển khai số hóa truyền hình các giai đoạn tiếp theo, cần thiết
rà soát, đánh giá các chính sách quản lý, hỗ trợ đầu thu cho hộ nghèo, cận
nghèo, yêu cầu thành lập doanh nghiệp truyền dẫn phát sóng đối với một số khu
vực, đơn vị, hỗ trợ thu/phát sóng qua vệ tinh, điều chỉnh phân chia giai đoạn và
khu vực thực hiện số hóa, v.v.. Ngoài ra, cần thiết tham khảo các kinh nghiệm
của các nước như đã nêu tại mục 1.1 để xem xét áp dụng tại Việt Nam. Các đề
58
xuất về chính sách quản lý cụ thể hơn được trình bày rõ hơn ở các nội dung dưới
đây thông qua các phân tích, đánh giá các yếu tố liên quan.
1.3.1. Đề xuất kế hoạch chuyển đổi kênh tần số truyền hình mặt đất băng
tần UHF (470-806)MHz giai đoạn 2018-2020
Năm 2013, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 26
/2013/TT-BTTTT về quy hoạch sử dụng kênh tần số cho truyền hình mặt đất
băng tần UHF (470-806) MHz đến năm 2020. Để giải phóng các kênh tần số
quy hoạch cho hệ thống truyền hình số mặt đất, Bộ Thông tin và Truyền thông
đã ban hành Quyết định số 80/QĐ-BTTTT ngày 22/01/2014 phê duyệt kế hoạch
chuyển đổi kênh tần số truyền hình mặt đất băng tần UHF (470-806) MHz giai
đoạn 2014-2017. Để tiếp tục thực hiện quy hoạch tại Thông tư 26 nêu trên cần
ban hành kế hoạch mới để tiếp tục giải phóng kênh tần số cho hệ thống truyền
hình số mặt đất.
1.3.2. Cơ sở pháp lý để lập kế hoạch chuyển đổi kênh tần số UHF (470-
806)MHz
Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017 của Thủ
tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc
gia ban hành kèm theo Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm
2013 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, đoạn băng tần (694-806) MHz sẽ được
sử dụng cho các hệ thống thông tin di động. Các tổ chức, cá nhân đang sử dụng
các hệ thống vô tuyến điện hoạt động trong băng tần này phải có kế hoạch
chuyển đổi. Hệ thống truyền hình mặt đất được sử dụng băng tần này đến hết
năm 2020.
Thông tư số 26/2013/TT-BTTTT ngày 27 tháng 12 năm 2013 của Bộ
trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông về quy hoạch sử dụng kênh tần số cho
truyền hình mặt đất băng tần UHF (470-806) MHz đến năm 2020. Theo đó,
đoạn băng tần (470-694) MHz được phân bổ cho truyền hình số/tương tự mặt
đất (kênh 21 đến kênh 48), đoạn băng tần (694-806) MHz được sử dụng tạm
thời cho cả truyền hình số/tương tự mặt đất và sẽ được dành cho thông tin di 59
động IMT và các dịch vụ thông tin vô tuyến khác sau khi ngừng phát sóng
truyền hình tương tự mặt đất theo kế hoạch số hóa.
1.3.3. Kết quả thực hiện quy hoạch kênh tần số theo thông tư 26/2013/TT-
BTTTT và quyết định 80/QĐ-BTTTT
Hiện trạng sử dụng tần số của các đơn vị, doanh nghiệp truyền hình số mặt
đất:
Đài Truyền hình Việt Nam (Đài THVN) được quy hoạch 3 kênh 25, 26, 27
và 01 kênh mở rộng (kênh 24). Đến nay, Đài THVN đã được cấp phép đối với
23 máy phát sóng số DVB-T2 hoạt động trên các kênh tần số đúng quy hoạch;
tuy nhiên Đài THVN vẫn chưa triển khai mạng đơn tần SFN mà đang sử dụng
mạng đa tần tại khu vực đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ. Ngoài nhóm
kênh 25, 26, 27 được quy hoạch, Đài THVN đang sử dụng 19 kênh tần số khác
để phát sóng truyền hình tương tự và số mặt đất (DVB-T2) do thực trạng để lại
hoặc do tận dụng máy phát có sẵn để phát sóng truyền hình số mặt đất DVB-T2.
Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC (Đài VTC) được quy hoạch 3 kênh 29,
30, 31 và 01 kênh mở rộng (kênh 32). Đến nay, Đài VTC đã được cấp phép đối
với 36 máy phát sóng số DVB-T2 hoạt động trên các kênh tần số đúng quy
hoạch tại một số tỉnh, thành phố gồm Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Sơn La, Đà
Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang. Trong
đó, VTC đã thiết lập mạng đơn tần kênh 31 tại Hà Nội, Thái Bình, Bình Dương,
Đồng Nai.Tuy nhiên, hệ thống phát sóng truyền hình số mặt đất hiện có vẫn
đang sử dụng 09 kênh tần số chưa đúng quy hoạch để phát sóng truyền hình số
(DVB-T/T2).
Công ty CP Nghe nhìn Toàn cầu (AVG) được quy hoạch 3 kênh 43, 44, 45
và 01 kênh mở rộng (kênh 42) để triển khai phát sóng DVB-T2 trên phạm vi
toàn quốc. Đến nay, AVG đã triển khai mạng đơn tần phát sóng truyền hình số
mặt đất DVB-T2 tại toàn bộ khu vực Bắc Bộ, phần lớn Nam Bộ và một số tỉnh,
thành phố miền Trung như Đà Nẵng, Bắc Quảng Nam, Khánh Hòa trên các kênh
60
tần số 50, 56, 57, 58, 59; chưa chuyển về nhóm kênh tần số 43, 44, 45 theo quy
hoạch do có khó khăn về kinh phí.
Công ty cổ phần TDPS truyền hình đồng bằng Sông Hồng (RTB) được quy
hoạch 2 kênh tần số 47, 48 và 01 kênh mở rộng (kênh 46). Đến nay, RTB đã
triển khai mạng đơn tần phát sóng truyền hình số mặt đất DVB-T2 tại khu vực
đồng bằng Bắc Bộ trên các kênh tần số 47, 48 theo đúng quy hoạch. Riêng máy
phát sóng DVB-T2 kênh 49 của RTB tại Hà Nội chưa đúng quy hoạch do tận
dụng máy phát tương tự đã đầu tư trước đây của Đài PTTH Hà Nội.
Công ty TNHH Truyền hình Kỹ thuật số Miền Nam (SDTV) được quy
hoạch 2 kênh tần số 33, 34 và 01 kênh mở rộng (kênh 35). Đến nay, SDTV đã
triển khai mạng đơn tần phát sóng truyền hình số mặt đất DVB-T2 tại khu vực
đồng bằng Nam Bộ trên các kênh tần số (33, 34).
Hiện trạng sử dụng kênh tần số truyền hình của các đơn vị, doanh nghiệp
chi tiết tại Phụ lục đính kèm.
1.3.4. Đánh giá
Nhìn chung, các đơn vị, doanh nghiệp đã thực hiện đúng khá tốt Quyết
định 80/QĐ-BTTTT phê duyệt kế hoạch chuyển đổi kênh tần số cho giai đoạn
2014-2017. Một số trường hợp chưa chuyển đổi được do gặp khó khăn về nguồn
lực tài chính hoặc về khả năng chuyển đổi kỹ thuật của các thiết bị cũ, cụ thể là:
Đài THVN đã thực hiện chuyển đổi 3/5 kênh tần số, còn lại 02 kênh là
kênh 31 (VTV1 tại Quảng Ninh) và kênh 43 (VTV3 tại Nghệ An) do các máy
phát này công nghệ quá cũ, không chuyển đổi được kênh tần số. Đài THVN đã
đề nghị được tiếp tục sử dụng các máy phát này đến khi ngừng phát sóng truyền
hình tương tự mặt đất tại địa bàn.
Công ty CP Nghe nhìn Toàn cầu (AVG) chưa thực hiện chuyển đổi các
kênh tần số 50, 56, 57, 58, 59 (128 máy phát) về các kênh 42, 43, 44, 45. Theo
tính toán của nhóm thực hiện đề tài, 120 máy phát tại 32 điểm phát của Công ty
AVG có thể chuyển đổi về nhóm kênh quy hoạch từ kênh 42 đến kênh 45 mà
61
không bị can nhiễu từ các máy phát số và tương tự hiện có. Theo báo cáo, Công
ty AVG đã đưa dự án chuyển đổi kênh tần số nêu trên vào kế hoạch sản xuất,
kinh doanh năm 2017.
Đài PTTH tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu do gặp một số vấn đề khó khăn liên
quan tới nguồn lực tài chính, vì vậy 02 Đài này chưa thực hiện chuyển đổi kênh
tần số (33 – Bạc Liêu, 25 – Sóc Trăng). Theo kế hoạch đã được Trưởng Ban Chỉ
đạo Đề án số hóa THVN kết luận tại Phiên họp lần thứ 13 của Ban Chỉ đạo, Sóc
Trăng và Bạc Liêu sẽ ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất từ ngày
31/12/2017. Do đó, 02 kênh tần số 33 – Bạc Liêu và 25 tại Sóc Trăng sẽ được
giải phóng từ ngày 31/12/2017.
1.3.5. Đề xuất nguyên tắc lập kế hoạch chuyển đổi kênh tần số UHF giai
đoạn 2018-2020
Trên cơ sở kết quả thực hiện Quyết định 80/QĐ-BTTTT, để tiếp tục thực
hiện quy hoạch tại Thông tư 26/2013/TT-BTTTT, nhóm thực hiện đề tài đã
nghiên cứu, xây dựng dự thảo Quyết định phê duyệt kế hoạch chuyển đổi kênh
tần số truyền hình mặt đất băng tần UHF (470-806)MHz giai đoạn 2017-2020
(dự thảo Quyết định đính kèm phiếu trình). Cụ thể, nhóm thực hiện đề tài đề
xuất kế hoạch chuyển đổi được dựa trên nguyên tắc sau:
Đối với đoạn băng tần 694-806 MHz
Đối với các máy phát sóng số đang phát sóng không đúng quy hoạch, có
ảnh hưởng tới kênh tần số được phân chia cho hệ thống thông tin di động IMT
thì sẽ phải chuyển đổi về đúng tần số quy hoạch để có thể sớm triển khai hệ
thống thông tin di động IMT.
Đối với các máy phát sóng tương tự có ảnh hưởng tới kênh tần số được
phân chia cho hệ thống thông tin di động IMT thì sẽ phải chuyển đổi về đúng
tần số quy hoạch hoặc ngừng hoạt động (tùy thuộc vào điều kiện phủ sóng
truyền hình số mặt đất tại từng địa bàn) để có thể sớm triển khai hệ thống thông
tin di động IMT.
62
Đối với đoạn băng tần 470-694 MHz
Đối với các máy phát sóng số đang phát sóng trên các kênh tần số không
đúng quy hoạch nhưng không ảnh hưởng đến các kênh tần số quy hoạch thì sẽ
được tạm thời không cần chuyển đổi ngay, tuy nhiên vẫn phải thực hiện chuyển
đổi về kênh tần số đúng quy hoạch trước thời hạn 31/12/2018.
Do sau khi rà soát cơ sở dữ liệu, đa số các trạm phát sóng số mặt đất không
đúng quy hoạch của các đơn vị đều đang hoạt động tại các tỉnh thuộc khu vực
đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ. Dự kiến ngày 31/12/2017 sẽ hoàn thành ngừng
phát sóng truyền hình tương tự mặt đất tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và Nam
Bộ, các đơn vị doanh nghiệp truyền hình số mặt đất có thể chuyển đổi về kênh
tần số theo đúng quy hoạch. Vì vậy, nhóm thực hiện đề tài đề xuất thời hạn để
các đơn vị, doanh nghiệp chuyển đổi về kênh tần số đúng quy hoạch đối với các
máy phát số đang hoạt động không đúng quy hoạch là trước 31/12/2018.
Đối với các trạm phát sóng chính truyền hình tương tự mặt đất có ảnh
hưởng can nhiễu tới các máy phát của các đơn vị, doanh nghiệp truyền hình số
mặt đất triển khai theo quy hoạch thì sẽ phải thực hiện chuyển đổi kênh tần số.
Đối với các trạm phát lại truyền hình tương tự mặt đất công suất thấp sẽ
phải chuyển đổi nếu can nhiễu với các máy phát của các đơn vị, doanh nghiệp
truyền hình triển khai theo quy hoạch. Các trạm phát lại không can nhiễu thì sẽ
được tiếp tục hoạt động đến khi ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất
tại địa bàn.
Thời điểm chuyển đổi các kênh tần số có ảnh hưởng đến các mạng khác
phải trước thời điểm ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất tại địa
phương ít nhất 06 tháng để đảm bảo đủ thời gian cho các đơn vị, doanh nghiệp
truyền hình số mặt đất triển khai phủ sóng truyền hình số mặt đất theo quy định.
63
1.3.6. Đề xuất ban hành kế hoạch chuyển đổi kênh tần số UHF (470-
806)MHz giai đoạn 2018-2020
Từ cơ sở các nội dung phân tích nêu trên, nhóm thực hiện đề tài đã đề xuất
Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Quyết định 1761/QĐ-BTTTT ngày
17/10/2017 phê duyệt kế hoạch chuyển đổi kênh tần số truyền hình mặt đất băng
tần UHF (470-806)MHz giai đoạn 2018-2020. Quyết định có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2018 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2020. Kế hoạch cụ
thể như sau:
Bảng 3. Kế hoạch chuyển đổi kênh tần số truyền hình UHF (470-806)MHz
STT Đơn vịĐịa điểm đặt máy
phát hình
Kênh tần số đang được
cấp phép sử dụng
Kênh tần sốchuyển
đổi
Thời hạn chuyển đổi/ ngừng sử
dụng (trước ngày)
Ghi chú
1.
Đài Truyền hình Việt Nam
Hà Nội 51 (DVB-T2) 24 31/12/2018
Giải phóng kênh 51 để triển khai hệ thống thông tin di động IMT. Đài Truyền hình Việt Nam tiếp tục thực hiện chuyển đổi kênh 24 tại Hà Nội về nhóm kênh theo quy hoạch trước ngày 31/12/2020.
2. Ninh Bình 39 (DVB-T2) 25, 26, 27 31/12/2018 Chuyển đổi về kênh tần số theo quy hoạch
3. Hải Dương 22 (DVB T2) 25, 26, 27 31/12/2018 Chuyển đổi về kênh tần số theo quy hoạch
4. Thanh Hóa 40 (VTV6) - 31/12/2018
Giải phóng kênh 40 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số khu vực theo quy hoạch.
Trường hợp đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số khu vực Bắc Trung Bộ cần triển khai máy phát sóng truyền hình số trên kênh 40 theo quy hoạch, Đài Truyền hình Việt Nam phải thực hiện ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất trên kênh 40 (VTV6) để tránh ảnh hưởng can nhiễu với kênh 40 truyền hình số.
5. Nghệ An 43 (VTV3) - 31/12/2018 Giải phóng kênh 43 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số toàn quốc theo quy hoạch.
Trường hợp đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số toàn quốc cần triển khai máy phát sóng truyền hình
64
STT Đơn vịĐịa điểm đặt máy
phát hình
Kênh tần số đang được
cấp phép sử dụng
Kênh tần sốchuyển
đổi
Thời hạn chuyển đổi/ ngừng sử
dụng (trước ngày)
Ghi chú
số trên kênh 43 theo quy hoạch, Đài Truyền hình Việt Nam phải thực hiện ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất trên kênh 43 (VTV3) để tránh ảnh hưởng can nhiễu với kênh 43 truyền hình số.
6. Quảng Trị 30 (VTV3) 23 30/6/2018
Giải phóng kênh 30 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số toàn quốc theo quy hoạch.
Trường hợp đơn vị, doanh nghiệp truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất toàn quốc chưa triển khai máy phát sóng tại kênh 30 theo quy hoạch, Đài Truyền hình Việt Nam có thể sử dụng kênh 30 (VTV3) tới trước ngày 31/12/2018.
7. Thừa Thiên - Huế 41 (VTV6) - 31/12/2018
Giải phóng kênh 41 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số khu vực theo quy hoạch.
Trường hợp đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số Bắc Trung Bộ cần triển khai máy phát sóng truyền hình số trên kênh 41 theo quy hoạch, Đài Truyền hình Việt Nam phải thực hiện ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất trên kênh 41 (VTV6) để tránh ảnh hưởng can nhiễu với kênh 41 truyền hình số.
8. Đà Nẵng 49 (DVB-T2) 25,26,27 31/12/2018Giải phóng kênh 49 để ưutiên cho triển khai hệ thống thông tin di động IMT
9. Quảng Nam 36 (DVB-T2) 25, 26, 27 30/6/2018
Giải phóng kênh 36 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số khu vực theo quy hoạch
10. Ninh Thuận
30 (VTV2) 27 30/6/2018 Giải phóng kênh 30 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số toàn quốc theo quy hoạch.
Trường hợp đơn vị, doanh nghiệp truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất toàn quốc chưa triển khai máy phát sóng tại kênh 30 theo quy hoạch, Đài Truyền hình Việt Nam có thể sử dụng kênh 30 (VTV2) tới trước ngày 31/12/2018.
65
STT Đơn vịĐịa điểm đặt máy
phát hình
Kênh tần số đang được
cấp phép sử dụng
Kênh tần sốchuyển
đổi
Thời hạn chuyển đổi/ ngừng sử
dụng (trước ngày)
Ghi chú
11. Bà Rịa-Vũng Tàu 22 (DVB-T2) 25, 26, 27 31/12/2018 Chuyển đổi về kênh tần số theo quy
hoạch
12. Đắk Lắk 31 (VTV2) 24 31/12/2018
Giải phóng kênh 31 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số toàn quốc theo quy hoạch.
Trường hợp đơn vị, doanh nghiệp truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất toàn quốc chưa triển khai máy phát sóng tại kênh 31 theo quy hoạch, Đài Truyền hình Việt Nam có thể sử dụng kênh 31 (VTV2) tới trước ngày 31/12/2020.
13. Long An 28 (DVB-T2) 25,26, 27 31/12/2018 Chuyển đổi về kênh tần số theo quy hoạch
14. Trà Vinh 24 (DVB-T2) 25, 26, 27 31/12/2018 Chuyển đổi về kênh tần số theo quy hoạch
15. An Giang 21 (DVB-T2) 23 31/12/2018
Chuyển đổi về kênh tần số theo quy hoạch. Đài Truyền hình Việt Nam phải thực hiện chuyển đổi kênh 23 tại An Giang về nhóm kênh theo quy hoạch trước ngày 31/12/2020.
Đài Truyền hình Việt Nam tiếp tục thực hiện chuyển đổi kênh 23 tại An Giang về nhóm kênh theo quy hoạch trước ngày 31/12/2020.
16. Đài Truyền hình Kỹ thuật
số VTC
Hải Phòng 39 (DVB-T2) 29,30,31 30/6/2018 Chuyển đổi về kênh tần số theo quy hoạch
17. Đà Nẵng 39 (DVB-T2) 29,30,31 30/6/2018 Chuyển đổi về kênh tần số theo quy hoạch
18. Khánh Hòa 36 (DVB-T) 29,30,31 01/01/2018
Giải phóng kênh 36 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số khu vực theo quy hoạch
19. Ninh Thuận 36 (DVB-T) 29,30,31 01/01/2018
Giải phóng kênh 36 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số khu vực theo quy hoạch
20. Bình Thuận 36 (DVB-T) 29,30,31 01/01/2018
Giải phóng kênh 36 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số khu vực theo quy hoạch
21. Đắk Lắk 36 (DVB-T) 29,30,31 01/01/2018 Giải phóng kênh 36 để ưu tiên phân
66
STT Đơn vịĐịa điểm đặt máy
phát hình
Kênh tần số đang được
cấp phép sử dụng
Kênh tần sốchuyển
đổi
Thời hạn chuyển đổi/ ngừng sử
dụng (trước ngày)
Ghi chú
bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số khu vực theo quy hoạch
22. Bình Dương 55 (DVB-T) 29 31/12/2018
Giải phóng kênh tần số 55 để ưu tiên cho triển khai hệ thống thông tin di động IMT
23. Cần Thơ 54 (DVB-T) 29,30,31 31/12/2018Giải phóng kênh tần số 54 để ưu tiên cho triển khai hệ thống thông tin di động IMT
24. 39 (DVB-T2) 29,30,31 30/6/2018 Chuyển đổi về kênh tần số theo quy hoạch
25.
Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn cầu
(AVG)
Toàn quốc 50, 56, 57, 58, 59
42, 43, 44, 45 31/12/2018
Giải phóng các kênh tần số để ưu tiên cho triển khai hệ thống thông tin di động IMT
26.
Đài Phát thanh truyền hình tỉnh
Quảng Nam
Quảng Nam 31 (QRT) - 31/12/2018
Giải phóng kênh 31 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số toàn quốc theo quy hoạch
27. 43 (QRT) 31/12/2018
Giải phóng kênh 43 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số toàn quốc theo quy hoạch
28.Đài Phát thanh truyền hình tỉnh
Phú YênPha Yên 37 (PTP) - 31/12/2018
Giải phóng kênh 37 để ưu tiên phân bổ cho đơn vị truyền dẫn, phát sóng truyền hình số khu vực theo quy hoạch
29.
Công ty Cổ phần TDPS truyền hình
đồng bằng Sông Hồng (RTB)
Hà Nội 49 (DVB-T2) 47, 48 31/12/2018Giải phóng kênh tần số 49 để ưu tiên cho triển khai hệ thống thông tin di động IMT
Chú thích: Các trạm phát lại truyền hình tương tự mặt đất công suất thấp sẽ
phải chuyển đổi tần số nếu can nhiễu với hệ thống mạng thông tin di động IMT,
hoặc can nhiễu với các máy phát của các đơn vị, doanh nghiệp truyền dẫn, phát
sóng truyền hình mặt đất triển khai theo quy hoạch. Các trạm phát lại không can
nhiễu thì sẽ được tiếp tục hoạt động đến khi ngừng phát sóng truyền hình tương
tự mặt đất tại địa bàn.
67
1.3.7. Đề xuất nguyên tắc kết hợp số hóa truyền hình với phủ sóng truyền
hình số qua vệ tinh đối với các tỉnh có địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa
Từ kinh nghiệm các nước cho thấy Úc đã tiến hành hỗ trợ thu xem truyền
hình qua vệ tinh đối với khu vực khó triển khai truyền hình số mặt đất. Mỗi hộ
gia đình tại khu vực này được hỗ trợ khoảng từ 400-700 đô la Úc.
Theo khảo sát đánh giá khi triển khai hạ tầng truyền hình số mặt đất, các
nước có 30 tỉnh có địa hình đồi núi, phức tạp, khó khăn trong việc phát sóng
truyền hình mặt đất. Các đia phương này bao gồm: các tỉnh phía Tây Bắc (Sơn
La, Hòa Bình, Điện Biên, Lai Châu), Đông Bắc (Lào Cai, Yên Bái,Hà Giang,
Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Quảng Ninh), Tây Nguyên (Kon
Tum, Gia Lai, Đắc Lắk, Đắc Nông và Lâm Đồng), phía tây các tỉnh Bắc Trung
Bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế),
Nam Trung Bộ (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà,
Ninh Thuận, Bình Thuận).
Dự kiến chuyển đổi các trạm phát lại truyền hình tương tự mặt đất tại các
địa phương này thành trạm kỹ thuật số, đơn giá: 800 triệu đồng/ 1 trạm. Tổng
kinh phí để chuyển đổi các trạm phát lại từ truyền hình tương tự mặt đất sang
truyền hình số mặt đất dự kiến là 740.8 tỷ đồng. Ngoài ra, để duy trì phát sóng
các trạm phát lại truyền hình số mặt đất tại các địa bàn miền núi nêu trên, cần
đầu tư thêm 135.6 tỷ đồng/01 năm. Cụ thể như sau:
Bảng 4. Kinh phí hỗ trợ chuyển đổi các trạm phát lại truyền hình tương tự mặt đất tại các tỉnh vùng núi, có địa hình khó khăn, hiểm trở
STT Tỉnh/TPSố trạm phát lại
Đơn giá 1 trạm Tổng kinh phí
I Miền núi Đông Bắc
1 Hà Giang 45 800.000.000 36.000.000.000
2 Tuyên Quang 27 800.000.000 21.600.000.000
3 Cao Bằng 46 800.000.000 36.800.000.000
68
STT Tỉnh/TPSố trạm phát lại
Đơn giá 1 trạm Tổng kinh phí
4 Lạng Sơn 36 800.000.000 28.800.000.000
5 Lào Cai 30 800.000.000 24.000.000.000
6 Yên Bái 27 800.000.000 21.600.000.000
7 Quảng Ninh 60 800.000.000 48.000.000.000
8 Bắc Cạn 23 800.000.000 18.400.000.000
II Miền núi Tây Bắc 800.000.000
9 Sơn La 85 800.000.000 68.000.000.000
10 Điện Biên 47 800.000.000 37.600.000.000
11 Lai Châu 36 800.000.000 28.800.000.000
12 Hòa Bình 44 800.000.000 35.200.000.000
III Tây Nguyên 800.000.000
13 Gia Lai 37 800.000.000 29.600.000.000
14 Đắc Lắc 42 800.000.000 33.600.000.000
15 Đắc Nông 19 800.000.000 15.200.000.000
16 Kon Tum 36 800.000.000 28.800.000.000
17 Lâm Đồng 20 800.000.000 16.000.000.000
IV Bắc Trung Bộ 800.000.000
18 Thanh Hóa 68 800.000.000 54.400.000.000
19 Nghệ An 33 800.000.000 26.400.000.000
20 Hà Tĩnh 14 800.000.000 11.200.000.000
21 Quảng Bình 17 800.000.000 13.600.000.000
22 Quảng Trị 17 800.000.000 13.600.000.000
23 Thừa Thiên Huế 13 800.000.000 10.400.000.000
V Nam Trung Bộ
69
STT Tỉnh/TPSố trạm phát lại
Đơn giá 1 trạm Tổng kinh phí
24 Quảng Nam 16 800.000.000 12.800.000.000
25 Quảng Ngãi 25 800.000.000 20.000.000.000
26 Bình Định 4 800.000.000 3.200.000.000
27 Phú Yên 11 800.000.000 8.800.000.000
28 Khánh Hòa 15 800.000.000 12.000.000.000
29 Ninh Thuận 9 800.000.000 7.200.000.000
30 Bình Thuận 24 800.000.000 19.200.000.000
Tổng 926 740.800.000.000
Bảng 5. Kinh phí duy trì hoạt động của các trạm phát lại hàng năm
STT Tỉnh/TPKinh phí duy trì hoạt động của các trạm phát lại truyền hình
01 năm (tỷ đồng)
I Miền núi Đông Bắc
1 Hà Giang 6,3
2 Tuyên Quang 4
3 Cao Bằng 7
4 Lạng Sơn 5,5
5 Lào Cai 6,25
6 Yên Bái 6,35
7 Quảng Ninh 9
8 Bắc Kạn 3
II Miền núi Tây Bắc
9 Sơn La 9,5
10 Điện Biên 7
11 Lai Châu 2,4
12 Hòa Bình 7,5
III Tây Nguyên
13 Gia Lai 7
70
STT Tỉnh/TPKinh phí duy trì hoạt động của các trạm phát lại truyền hình
01 năm (tỷ đồng)
14 Đắk Lắk 6
15 Đắk Nông 3
16 Kon Tum 5,5
17 Lâm Đồng 3
IV Bắc Trung Bộ
18 Thanh Hóa 10
19 Nghệ An 5
20 Hà Tĩnh 2
21 Quảng Bình 2,5
22 Quảng Trị 1,25
23 Thừa Thiên Huế 2
V Nam Trung Bộ
24 Quảng Nam 2,24
25 Quảng Ngãi 3,5
26 Bình Định 0,56
27 Phú Yên 1,54
28 Khánh Hòa 2,1
29 Ninh Thuận 1,26
30 Bình Thuận 3,36
Tổng 135,61
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay trên cả nước đã có 53 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đã phát sóng kênh truyền hình thiết yếu của địa phương trên
vệ tinh VINASAT. Kinh phí để truyền dẫn, phát sóng 01 kênh truyền hình thiết
yếu của địa phương qua vệ tinh hiện nay là khoảng 200 triệu đồng/1 tháng. Như
vậy, sơ bộ với 30 tỉnh có địa bàn miền núi cần đầu tư khoảng 72 tỷ/ 1 năm để
phát sóng kênh truyền hình thiết yếu địa phương qua vệ tinh.
Từ cơ sở nêu trên cho thấy mức kinh phí để truyền tải kênh truyền hình địa
phương qua vệ tinh tiết kiệm hơn so với truyền hình số mặt đất. Giải pháp này
giúp cho Nhà nước tận dụng được cơ sở hạ tầng truyền hình đang có sẵn, tiết
71
kiệm ngân sách nhà nước, thúc đẩy nhanh việc triển khai số hóa truyền hình mặt
đất tại các tỉnh, thành phố.
Mặt khác, trên thực tế tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa hiện nay
người dân chủ yếu thu xem truyền hình qua vệ tinh. Theo kết quả khảo sát của
Công ty TNS Media năm 2016, tỷ lệ thu xem truyền hình qua các phương thức
khác nhau cụ thể như sau:
Bảng 6: Tỷ lệ thu xem truyền hình qua các phương thức khác nhau tại Việt Nam năm 2016
Toàn quốc
Trung du và miền núi phía
Bắc
Đồng bằng sông Hồng
(không bao gồm nội thành Hà Nội)
Bắc Trung Bộ và Duyên
hải miền
Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ (không
bao gồm nội thành HCM)
ĐB Sông Cửu Long
Free-to-Air Antenna 16% 6% 26% 13% 4% 11% 29%
TV Cable Network 29% 12% 25% 17% 26% 38% 22%
DTH 31% 55% 12% 34% 38% 36% 43%
DTT 13% 12% 27% 22% 9% 0% 4%
IPTV 14% 17% 16% 14% 24% 15% 8%
Other 0% 1% 1% 0% 0% 0% 0%
Do đó, cần thiết bổ sung nguyên tắc kết hợp truyền hình số mặt đất và
truyền hình số vệ tinh tại các địa bàn miền núi để đảm bảo hiệu quả phủ sóng,
tiết kiệm chi phí triển khai phát sóng truyền hình.
1.3.8. Đề xuất chính sách hỗ trợ đầu thu truyền hình số qua vệ tinh (DTH)
đối với địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa
Để đồng bộ với phần phát sóng, cần xem xét bổ sung chính sách hỗ trợ đầu
thu truyền hình vệ tinh cho các hộ nghèo, cận nghèo đủ điều kiện tại địa bàn
thuộc vùng phủ sóng truyền hình tương tự mặt đất trước thời điểm tắt sóng
truyền hình tương tự nhưng không thuộc vùng phủ sóng truyền hình số mặt đất.
72
Nhóm đề tài đã phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, tính toán sơ bộ dự
kiến kinh phí hỗ trợ đầu thu truyền hình số mặt đất/ vệ tinh như sau:
Theo quy định tại Quyết định 2451/QĐ-TTg, nhiệm vụ hỗ trợ đầu thu
truyền hình số mặt đất được phân bổ 1.710 tỷ đồng.
Theo Thông tư Liên tịch số 21/2015/TTLT-BTTTT-BTC ngày 21/7/2015
của Bộ Tài chính-Bộ Thông tin và Truyền thông: Hướng dẫn hỗ trợ thí điểm đầu
thu truyền hình số mặt đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và 4 huyện Bắc
Quảng Nam theo Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất đến
năm 2020, quy định về điều kiện các hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ thiết
bị thu truyền hình kỹ thuật số tại điều 3 như sau:
Đang sử dụng máy thu hình công nghệ tương tự chưa tích hợp tính năng
thu truyền hình số mặt đất theo chuẩn DVB-T2, chưa có đầu thu truyền hình số
DVB-T2, chưa sử dụng bất kỳ một trong các phương thức truyền hình trả tiền
như truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh, truyền hình IPTV trong thời gian triển
khai hỗ trợ.
Trong quá trình thực tế triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ thiết bị
thu truyền hình số mặt đất cho các hộ nghèo, cận nghèo vừa qua, khảo sát tại
địa bàn 15 tỉnh cho thấy số hộ nghèo, cận nghèo thuộc diện đủ điều kiện hỗ trợ
như trên chiếm trung bình 90% tổng số hộ nghèo, cận nghèo.
Theo Quyết định 945/QĐ-LĐTBXH ngày 22/6/2017 của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội về phê duyệt kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo
năm 2016 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020 trên phạm
vi cả nước như sau:
Tổng số hộ gia đình: 24.139.696 hộ
Tổng số hộ nghèo: 1.986.697 hộ (8,23%);
Tổng số hộ cận nghèo: 1.306.928 hộ (5,41%);
Tổng số hộ nghèo, cận nghèo: 3.293.625 hộ.
73
Tổng số hộ nghèo, cận nghèo đã nhận hỗ trợ tại các tỉnh từ Giai đoạn I tính
đến nay: 1.103.718 hộ, kinh phí đã hỗ trợ là: 646.315.495.630 đồng
Tổng số hộ nghèo, cận nghèo tại các địa bàn còn lại chưa số hóa khoảng:
3.293.625 hộ - 1.103.718 hộ/0.9 = 2.067.271 hộ.
- Tính đến ngày 15/8/2017, các địa bàn đồng bằng thuộc khu vực đồng
bằng Bắc Bộ, Nam Bộ sẽ hoàn thành số hóa truyền hình và ngừng phát sóng
truyền hình tương tự mặt đất, chiếm tỷ lệ khoảng 60% hộ gia đình của cả nước
(14.543.343 hộ/ tổng số 24.238.906 hộ trên cả nước). Như vậy, hiện nay còn
khoảng 40% hộ gia đình còn lại chưa nằm trong vùng số hóa truyền hình.
- Để tính toán kinh phí hỗ trợ đầu thu truyền hình số cho các địa bàn còn lại
trong thời gian tới, giảthiết 95% dân số cả nước nằm trong vùng phủ sóng truyền
hình tương tự mặt đất (tỷ lệ này là khá cao so với thực tế phủ sóng truyền hình
mặt đất hiện nay). Với giả thiết này, sau khi trừ đi số hộ gia đình nằm trong
vùng đã số hóa truyền hình thuộc Giai đoạn I, II (60% dân số) thì còn khoảng
85% hộ gia đình tại các địa bàn còn lại nằm trong vùng phủ sóng truyền hình
tương tự mặt đất. Như vậy, số hộ gia đình tại địa bàn còn lại được xem xét hỗ
trợ là:
85% x 2.067.271 hộ = 1.757.180 hộ
- Dựa vào số liệu hỗ trợ đầu thu truyền hình số mặt đất tại Giai đoạn I và II
vừa qua, có thể tạm tính tổng số hộ nghèo, cận nghèo đủ điều kiện nhận hỗ trợ là
90%. Số hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại địa bàn còn lại đủ điều kiện nhận hỗ
trợ là:
90% x 1.757.180 hộ = 1.581.462 hộ
Suất hỗ trợ trung bình 01 hộ nghèo/cận nghèo thiết bị thu truyền hình số
mặt đất/vệ tinh tạm tính là khoảng: 600.000 đồng/ 01 hộ.
Kinh phí hỗ trợ đầu thu truyền hình số cho các hộ nghèo, cận nghèo đủ
điều kiện tại các địa bàn còn lại là:
1.581.462 hộ x 600.000 đ = 948.877.200.000 đồng74
- Tổng kinh phí hỗ trợ đầu thu truyền hình số của 04 giai đoạn là:
646.315.495.630 đ+ 948.877.200.000 đ=1.595.193.190.630 đồng (1)
- Dự phòng kinh phí khác: khoảng 115.000.000.000 đồng (2)
Tổng kinh phí hỗ trợ đầu thu truyền hình số mặt đất/vệ tinh:
(1)+ (2) = 1.710.193.190.630 đồng
Số kinh phí này chưa tính đến việc hàng năm có thể giảm từ 3-4% hộ
nghèo, cận nghèo theo mục tiêu phấn đấu giảm nghèo giai đoạn 2016-2020.
Vì vậy, tổng kinh phí hỗ trợ đầu thu truyền hình số mặt đất và số vệ tinh về
cơ bản là phù hợp với kinh phí quy định tại Quyết định 2451/QĐ-TTg (1.710 tỷ
đồng), không làm tăng thêm kinh phí hỗ trợ đầu thu truyền hình số so với kế
hoạch ban đầu.
1.3.9. Đề xuất bổ sung, sửa đổi một số quy định tại Quyết định 2451/QĐ-
TTg
Từ các đề xuất nêu trên, để phù hợp với tình hình triển khai Đề án số hóa
truyền hình trên thực tế và để có thể sớm giải phóng “sạch” băng tần 700MHz,
nhóm thực hiện đề tài đề xuất sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết định
2451/QĐ-TTg, cụ thể gồm các nhóm vấn đề lớn sau:
1) Điều chỉnh đối tượng hỗ trợ đầu thu truyền hình số.
2) Bổ sung nguyên tắc kết hợp số hóa truyền hình mặt đất với truyền hình
số qua vệ tinh tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa.
3) Bổ sung giải pháp hỗ trợ đầu thu vệ tinh cho hộ nghèo, cận nghèo.
4) Điều chỉnh kế hoạch ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất.
5) Bổ sung, tăng cường trách nhiệm của UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
6) Bổ sung, tăng cường trách nhiệm của Đài Truyền hình Việt Nam đối với
địa bàn mà các doanh nghiệp khu vực không tham gia truyền dẫn, phát sóng.
75
Kết luận
Từ việc nghiên cứu các kinh nghiệm từ thực tế triển khai giải phóng băng
tần 700MHz của các nước và căn cứ nhu cầu thực tiễn của Việt Nam, nhóm
nghiên cứu đã có đề xuất các chính sách cụ thể cho việc thúc đẩy triển khai Đề
án số hóa truyền hình mặt đất tại Việt Nam, đồng thời hỗ trợ thúc đẩy giải phóng
băng tần 700MHz để băng tần này có thể sẵn sàng dành cho hệ thống thông tin
di động trong tương lai gần.
76
CHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH, VĂN BẢN PHÁP QUY CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM
ĐẢM BẢO CHO VIỆC THỰC HIỆN HIỆU QUẢ LỘ TRÌNH PHÂN BỔ LẠI BĂNG TẦN 800 MHz TẠI VIỆT NAM
Xu hướng sử dụng băng tần 800 MHz cho hệ thống thông tin di động LTE
đang ngày càng được khẳng định mạnh mẽ trên toàn thế giới. Nhiều nước, nhiều
khu vực cũng phải trải qua một quá trình lâu dài để làm “sạch” băng tần này,
chuẩn bị sẵn sàng cho việc triển khai LTE. Tại Châu Âu, đó là quá trình chuyển
đổi công nghệ truyền hình từ tương tự sang số để giải phóng băng 800 MHz cho
di động, cùng với lộ trình giải phóng các thiết bị công suất thấp, hoặc các vấn đề
phối hợp biên giới với các nước còn sử dụng hệ thống dẫn đường quân sự trong
băng tần này. Tại châu Á, đó là quá trình chuyển đổi hệ thống vô tuyến trunking
tương tự băng tần 800 MHz sang công nghệ số băng 400 MHz.
Tại Việt Nam, nhóm đề tài đã đề xuất và được pháp quy hóa tại Quyết định
02/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, nhằm định hướng dành băng tần
806-845 MHz và 851-915 MHz cho hệ thống thông tin di động IMT. Đồng thời
xác định chuyển đổi các hệ thống vô tuyến điện khác đang hoạt động trong băng
tần này, nhằm sẵn sàng cho triển khai IMT trên băng tần 800 MHz tại Việt Nam
trong thời gian tới.
Tiếp theo kết quả này, nhóm đề tài đề xuất sửa đổi các quy định liên quan
đến việc sử dụng các hệ thống vô tuyến cố định, di động, vi ba truyền hình, các
hệ thống RFID ở những văn bản pháp quy do Bộ Thông tin và Truyền thông ban
hành để thúc đẩy việc chuyển đổi công nghệ, dịch vụ tại băng tần 800 MHz.
Lộ trình, kế hoạch chuyển đổi hệ thống trunking phục vụ mục đích an ninh
được trình bày tại chuyên đề riêng về an ninh, quốc phòng.
77
2.1. Nghiên cứu chính sách quản lý, quy hoạch tần số đối với băng tần 800 MHz tại Việt Nam
Phân bổ của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) đối với băng tần 806 –
890 MHz đã được quy định tại Điều 5 của Thể lệ vô tuyến đối với khu vực 3
(Việt Nam thuộc khu vực 3) như sau:
Vùng 3
610 – 890 MHz CỐ ĐỊNH
DI ĐỘNG
HÀNG KHÔNG
Đối với Việt Nam, theo Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được
Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số số 71/2013/QĐ-TTg, băng tần
806 – 890 MHz được phân chia cho các nghiệp vụ như sau:
Việt Nam
806 – 824 MHz CỐ ĐỊNH
DI ĐỘNG
QUẢNG BÁ
824 – 890 MHz CỐ ĐỊNH
DI ĐỘNG
Theo Quyết định 25/2008/QĐ-BTTTT ngày 16/04/2008 của Bộ trưởng Bộ
Thông tin và Truyền thông về việc phê duyệt quy hoạch băng tần cho hệ thống
thông tin di động tế bào số của Việt Nam trong dải tần 821-880 MHz được quy
hoạch như sau:
78
Hình 8: Quy hoạch băng tần 850 MHz
Băng tần 824 – 835 MHz và 869 – 880 MHz: dành cho hệ thống CDMA
trên toàn quốc; băng tần 806-821/851-866 MHz được dành cho hệ thống
trunking; băng tần 821-824 MHz, 835-851 MHz, 866-869 MHz được dành cho
các nghiệp vụ cố định, lưu động.
Trên cơ sở nghiên cứu xu hướng sử dụng băng tần 800 MHz tại các quốc
gia trên thế giới, xu hướng phát triển, chuyển đổi công nghệ trên băng tần này,
thực tiễn sử dụng của Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã đề xuất sửa đổi Quyết
định 71/2013/QĐ-TTg, trên cơ sở chuyển băng tần 800 MHz trước đây sử dụng
cho trunking để dành cho hệ thống thông tin di động IMT.
Ngày 17/1/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số
02/2017/QĐ-TTg về sửa đổi, bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc
gia ban hành kèm theo Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm
2013 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó đã sửa đổi nội dung chú thích VTN8
trong Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia, cụ thể như sau:
VTN8 Các băng tần 806-845 MHz; 851-915 MHz; 925-960 MHz; 1710-1785
MHz và 1805-1880 MHz được dành cho các hệ thống thông tin di
động IMT. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan quản lý sẽ điều chỉnh
các đoạn băng tần cụ thể trong các quy hoạch băng tần có liên quan.
Không phát triển mới hệ thống vô tuyến điện thuộc nghiệp vụ Cố định,
Di động trên băng tần 806-824 MHz; 851-869 MHz. Các tổ chức, cá
79
nhân hiện đang sử dụng các hệ thống vô tuyến điện hoạt động trong
băng tần 806-824 MHz; 851-869 MHz phải có kế hoạch chuyển đổi
theo thông báo của Bộ Thông tin và Truyền thông. Riêng các hệ thống
phục vụ mục đích an ninh được tiếp tục sử dụng các băng tần 806-821
MHz; 851-866 MHz cho đến khi có hệ thống thay thế.
Như vậy, các băng tần 806-845 MHz, 851-915 MHz sẽ được dành cho hệ
thống thông tin di động IMT, các hệ thống vô tuyến điện hoạt động trong băng
tần 806-824 MHz; 851-869 MHz phải có kế hoạch chuyển đổi.
2.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 800 MHz
2.2.1. Phương án quy hoạch lại băng tần 800 MHz
Tại chuyên đề về phương án quy hoạch băng 800 MHz đã đề xuất 2
phương án quy hoạch lại băng tần 800 MHz như sau:
Hình 9: Phương án quy hoạch lại băng tần 800 MHz theo phương án Châu Âu
Hình 10: Phương án quy hoạch lại băng tần 800 MHz theo phương án Bắc Mỹ
80
Chính sách chuyển đổi công nghệ đối với hệ thống thông tin di động 2G
trên băng tần 850 MHz đã được Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt tại
Thông tư 04/2015/TT-BTTTT, theo đó cho phép các doanh nghiệp triển khai
công nghệ WCDMA, LTE, LTE-A trên băng tần này.
Nội dung cần thực hiện tiếp theo ở đây là cụ thể hóa Quyết định số
02/2017/QĐ-TTg để có các chính sách quản lý phù hợp đối với các công nghệ
khác, hệ thống vô tuyến điện khác hoạt động trong băng tần này.
2.2.2. Hiện trạng sử dụng băng tần 800 MHz tại Việt Nam
Đoạn băng tần 824-835 MHz và 869-880 MHz
Đoạn băng tần 824-835 MHz và 869-880 MHz đã được cấp phép cho Công
ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thông Sài Gòn-SPT để triển khai công nghệ
từ CDMA, sau đó cho phép chuyển đổi sang WCDMA. Tuy nhiên hiện nay các
giấy phép này đã hết hạn, mạng thông tin di động của Sfone cũng đã ngừng
cung cấp dịch vụ. Do đó băng tần này đã được thu hồi và giải phóng.
Đoạn băng tần trunking 806-821 MHz và 851-866 MHz
Hiện tại mạng trunking ở Việt Nam được cấp phép cho 02 nhóm đối tượng
sử dụng là dân sự và an ninh quốc phòng. Mạng trunking cho dân sự chỉ được
cấp phép ở băng tần 400 MHz. Hiện đã không còn hệ thống trunking dân sự hoạt
động ở băng tần 800 MHz.
Đoạn băng tần 806-821 MHz và 851-866 MHz hiện được dành cho Bộ
Công an để triển khai mạng trunking phục vụ mục đích an ninh tại khu vực Hà
Nội và các tỉnh lân cận. Nội dung chuyển đổi công nghệ của hệ thống Trunking
phục vụ mục đích an ninh được trình bày tại chuyên đề khác.
Đoạn băng tần 866-868 MHz
Theo Thông tư số 46/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016 của Bộ Thông tin
và Truyền thông ban hành quy định về danh mục thiết bị vô tuyến điện được
miễn giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện, điều kiện kỹ thuật và khai thác
81
kèm theo, thiết bị nhận dạng vô tuyến điện (RFID) được sử dụng miễn cấp phép
đoạn băng tần 866-868 MHz với điều kiện cụ thể như sau:
BĂNG TẦN
LOẠI THIẾT BỊ
HOẶC ỨNG DỤNG
VÔ TUYẾN ĐIỆN
PHÁT XẠ CHÍNH PHÁT XẠ GIẢ
866 ÷ 868 MHzThiết bị nhận dạng vô
tuyến điện≤ 500 mW ERP
Theo giới hạn phát
xạ giả 2 (Phụ lục
Thông tư)
Các thiết bị RFID này sử dụng cho một số ứng dụng như: quản lý hàng
hóa, Y tế, giao thông hoặc di động. Tuy nhiên, theo thống kê của Cục Viễn
thông, số lượng thiết bị RFID hoạt động ở băng tần này nhập khẩu vào Việt
Nam là rất ít.
Đoạn băng tần 821-824 MHz và 868-869 MHz
Đoạn băng tần này hiện không có thiết bị VTĐ nào được miễn cấp phép sử
dụng tần số VTĐ và cũng không có thiết bị VTĐ được cấp phép sử dụng.
Đoạn băng tần 845-851 MHz
Trên băng tần 845-851 MHz, hiện nay còn có một số thiết bị viba truyền
dẫn tín hiệu phát thanh. Theo cơ sở dữ liệu cấp phép, hiện trên đoạn băng tần
này có 5 giấy phép viba được cấp cho 4 đơn vị (Đài PTTH tỉnh An Giang, Đài
PTTH tỉnh Cà Mau, Đài TTTH thành phố Hạ Long – Quảng Ninh, Đài PTTH
tỉnh Phú Yên), gia hạn sử dụng theo từng năm.
Như vậy, ngoài hệ thống trunking phục vụ mục đích an ninh đang hoạt
động ở băng 800 MHz cần nghiên cứu chính sách chuyển đổi, còn có các hệ
thống khác là RFID và vi ba truyền dẫn tín hiệu phát thanh cũng cần có chính
sách chuyển đổi để giải phóng băng tần 800 MHz cho thông tin di động IMT.
82
2.2.3. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý đối với
băng tần 800 MHz
2.2.3.1. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý
chuyển đổi hệ thống RFID hoạt động ở băng tần 866-868 MHz
Bảng dưới đây thống kê các dải tần cho các thiết bị RFID tại các thị trường
lớn trên thế giới. Theo đó, chỉ có thị trường EU là sử dụng các thiết bị RFID
hoạt động ở dải tần 866-868 MHz. Lý do là đoạn băng tần 866-868 MHz không
nằm trong băng tần quy hoạch của EU cho IMT trong băng tần 800 MHz.
Bảng 7: Bảng thống kê hiện trạng sử dụng băng tần cho RFID tại một số quốc gia trên thế giới
Thị trường Băng tần
United States902-928 MHz ISM Khu vực 2
Canada
Australia
918-926 MHz: 1 W e.i.r.p.
920-926 MHz: 4 W e.i.r.p.
915-928 MHz: 1W e.i.r.p.
New Zealand918-926 MHz: 1 W e.i.r.p.
(902-928 MHz ISM Region 2)
EU
865-868 MHz
865-865.6 MHz:
865.6-867.6 MHz:
867.6-868 MHz:
China840.5-844.5 MHz:
920.5-924.5 MHz
Republic of Korea 917-923.5 MHz:
Israel 915-916.8
Mặt khác, các ứng dụng sử dụng thiết bị RFID hoạt động ở dải tần 866-869
MHz không đặc thù và có thể thay thế bởi các hệ thống RFID hoạt động ở dải
tần số khác như bảng dưới đây:
83
Bảng 8: Bảng thống kê băng tần hoạt động của RFID theo ứng dụng
Ứng dụng Băng tần hoạt động
Quản lý hàng hóa860-960 MHz
13.56 MHz
Y tế
860-960 MHz
13.56 MHz
LF < 135 kHz
2 450 MHz860-960 MHz
13.56 MHz13.56 MHz
Giao thông
13.56 MHz
866 MHz, 915 MHz
Uplink
890-915 MHz
Downlink
935-960 MHz433.5-434.5 MHz
860-960 MHz2 450 MHz
Di động860-960 MHz
13.56 MHz
Như đã phân tích ở trên, các thiết bị RFID hoạt động ở dải tần 866-868
MHz có thể được thay thế bởi các hệ thống cùng loại hoạt động ở các dải tần số
khác (dải tần 13,553 ÷ 13,567 MHz; dải tần 433,05 ÷ 434,79 MHz; 918 ÷ 923
MHz). Các dải tần này cũng đã được cho phép triển khai các thiết bị RFID miễn
cấp phép sử dụng tần số ở Việt Nam (theo Thông tư số 46/2016/TT-BTTTT).
Như vậy, với thực tế không có nhiều thiết bị RFID hoạt động trong dải tần
866-868 MHz, cùng với khả năng sử dụng các băng tần thay thế khác, để thực
hiện chuyển đổi công nghệ, ứng dụng trên băng tần 800 MHz nhóm thực hiện đề
xuất các chính sách quản lý, chuyển đổi đối với thiết bị RFID như sau:
84
- Sửa đổi Thông tư số 46/2016/TT-BTTTT theo hướng loại bỏ dải tần 866-
868 MHz ra khỏi danh sách các dải tần cho phép triển khai thiết bị cự ly ngắn
RFID.
- Các hệ thống RFID cũ đang hoạt động ở dải tần 866-868 MHz được phép
sử dụng đến hết khấu hao thiết bị nhưng không muộn hơn năm 2023.
- Trường hợp cấp phép cho các doanh nghiệp thông tin di động triển khai
trên băng tần 800 MHz trước 2023, thì yêu cầu các doanh nghiệp hỗ trợ các hệ
thống RFID cũ đang hoạt động trong dải tần này để chuyển đổi sang hoạt động ở
dải tần khác phù hợp.
2.2.3.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách chuyển đổi
đối với hệ thống viba truyền dẫn phát thanh hoạt động ở băng tần 845-851
MHz
Hệ thống Viba truyền hình hoạt động ở băng tần 850 MHz trên thế giới
dùng để truyền dẫn tín hiệu phát thanh, truyền hình băng hẹp phục vụ mục đích
truyền dẫn tín hiệu từ nơi sản xuất chương trình (studio) đến địa điểm phát sóng
(transmitter) hoặc truyền dẫn tín hiệu phát thanh điểm điểm trong các sự kiện
ngoài trời. Thị trường lớn nhất đang sử dụng các thiết bị Viba băng tần 850MHz
trên thế giới hiện tại là Austraylia. Ưu điểm lớn nhất của hệ thống viba này là
chi phí đầu tư thiết bị và chi phí vận hành tương đối thấp. Nhược điểm tương đối
lớn của hệ thống là kích thước lớn, dung lượng truyền dẫn không cao, thường
chỉ phù hợp với các yêu cầu truyền dẫn tín hiệu băng hẹp. Thời gian gần đây,
khi yêu cầu truyền dẫn tín hiệu số, tín hiệu băng thông lớn ngày càng cao, các
hình thức truyền dẫn ngày càng ưu việt (truyền dẫn tín hiệu qua cáp quang, vệ
tinh, …), việc sử dụng các thiết bị viba băng hẹp nói chung và viba 850 MHz
nói riêng ngày càng ít dần đi.
a) Kinh nghiệm phân bổ băng tần cho hệ thống viba băng 850 MHz của
Austraylia
85
Ngày 21/7/2016, Cục quản lý thông tin và truyền thông Úc (ACMA) đã
ban hành bản Hướng dẫn ấn định và cấp phép tần số vô tuyến điện đối với các
dịch vụ truyền dẫn tín hiệu phát thanh điểm điểm ngoài trời (SOBs) và các hệ
thống truyền dẫn tín hiệu từ nơi sản xuất chương trình đến điểm phát sóng
(STLs) đang hoạt động ở băng tần 900 MHz (gọi tắt là RALI: FX11). Theo đó,
băng tần 845-852 MHz được phân chia cho nghiệp vụ cố định (truyền dẫn viba
đơn công điểm điểm STLs) làm nghiệp vụ chính. Trong đoạn băng tần 845-
846.5 MHz và 850.5 – 852 MHz, dịch vụ truyền dẫn tín hiệu phát thanh điểm
điểm ngoài trời (SOBs) cũng được phân chia làm nghiệp vụ chính; trong đoạn
băng tần 846.5 – 850.5 MHz, SOBs được phân chia làm nghiệp vụ phụ.
Tuy nhiên, các quy định về ấn định, cấp phép tần số trong băng tần 849 –
852 MHz cho hệ thống STLs trong RALI: FX11 sẽ bị bãi bỏ chậm nhất là tới
tháng 6/2018 để phù hợp với khung thời gian thực hiện quy hoạch dải tần 803-
960 MHz của Austraylia.
Theo phương án quy hoạch băng tần 800 MHz của Austraylia, sau khi quy
hoạch và sử dụng băng tần 850 MHz (809-824 MHz đường lên và 854-869 MHz
đường xuống), việc sử dụng các hệ thống viba STLs, SOBs sẽ được dồn về đoạn
băng tần 845-849 MHz. Theo đó, đoạn băng tần hiện tại cho STLs từ 845-852
MHz sẽ chuyển đổi thành 845-849 MHz; đoạn băng tần hiện tại cho SOBs từ 2
đoạn 845-846.5 MHz và 850.5 – 852 MHz sẽ dồn về 1 đoạn băng tần 845-846.5
MHz. Cụ thể như hình mô tả dưới đây:
86
Hình 11: Phương án quy hoạch băng tần 850 MHz cho các hệ thống viba STLs, SOBs tại Austraylia
b) Băng tần hoạt động của các thiết bị STLs:
Để đáp ứng yêu cầu truyền dẫn với dung lượng dữ liệu đa dạng (băng hẹp,
băng rộng), trên thị trường, thiết bị truyền dẫn tín hiệu truyền hình từ nơi sản
xuất chương trình đến điểm phát sóng (STLs) có thể đáp ứng được rất nhiều dải
tần hoạt động khác nhau với nhiều băng thông khác nhau. Các dải tần số chủ yếu
là: dải tần 150 MHz, 300 MHz, 900 MHz, 1.5 GHz, 2 GHz, 2.5 GHz, 4 GHz, 6
GHz, 11 GHz, 18 GHz và 23 GHz. Hiện nay, tại Việt Nam, các thiết bị truyền
dẫn tín hiệu phát thanh STLs chủ yếu là hoạt động ở dải tần 300 MHz. Dưới đây
là hình ảnh của một số thiết bị có thể hoạt động ở nhiều dải tần số khác nhau:
87
Hình 12: Một số thiết bị SOBs và các băng tần hoạt động
c) Đối với Việt Nam:
Hiện nay, theo thống kê cơ sở dữ liệu cấp phép, cả nước có 5 giấy phép sử
dụng tần số viba điểm điểm phục vụ mục đích truyền dẫn tín hiệu từ đài phát
thanh truyền hình cấp tỉnh đến điểm phát sóng (thường là đặt trên núi) hoạt động
ở dải tần số 845 – 851 MHz và hầu hết các thiết bị này đã hoặc sắp hết thời gian
khấu hao.
88
Theo định hướng quy hoạch băng tần 800 MHz đã được nêu ở nhánh
nghiên cứu số 2, có khả năng phương án quy hoạch sẽ sử dụng băng tần 847 –
862 MHz cho IMT trong tương lai. Do đó, cần thiết phải xem xét, đề xuất giải
pháp đối với hệ thống viba STLs để đảm bảo không gây can nhiễu cho hệ thống
thông tin di động IMT.
Hình 13: Một phương án quy hoạch băng tần 800 MHz của Việt Nam
Theo Thông tư số 13/2013/TT-BTTTT ngày 14/6/2013 của Bộ Thông tin
và Truyền thông ban hành quy hoạch phân kênh tần số cho nghiệp vụ cố định và
di động mặt đất băng tần (30 – 30000) MHz, các băng tần 320-321,6 MHz và
373-374,6 MHz được ưu tiên phân bổ cho hệ thống viba truyền dẫn tín hiệu phát
thanh. Theo số liệu thống kê từ cơ sở dữ liệu cấp phép, lượng thiết bị hoạt động
ở trong các dải tần ưu tiên này chưa nhiều, do vậy, các dải tần này đã sẵn sàng
để các hệ thống viba đang hoạt động ở dải tần 845-851 MHz chuyển xuống.
Nhóm nghiên cứu đề xuất chính sách chuyển đổi đối với các thiết bị truyền
dẫn viba truyền hình như sau:
- Cho phép các thiết bị viba truyền dẫn tín hiệu phát thanh đã được cấp
phép hoạt động đến hết thời gian khấu hao thiết bị nhưng không muộn hơn năm
2023. Đối với các trường hợp cấp mới giấy phép, đề nghị chuyển xuống hoạt
động ở dải tần quy hoạch 320-321,6 MHz và 373-374,6 MHz.
- Trường hợp cấp phép cho các doanh nghiệp thông tin di động triển khai
trên băng tần 800 MHz trước 2023, thì yêu cầu doanh thực hiện hỗ trợ các hệ 89
thống viba truyền dẫn tín hiệu phát thanh cũ đang hoạt động trong dải tần này để
chuyển đổi sang hoạt động ở dải tần quy hoạch phù hợp.
90
CHƯƠNG 3. NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH, VĂN BẢN PHÁP QUY CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM
ĐẢM BẢO CHO VIỆC THỰC HIỆN HIỆU QUẢ LỘ TRÌNH PHÂN BỔ LẠI BĂNG TẦN 900 MHz TẠI VIỆT NAM
Băng tần 900 MHz là băng tần truyền thống trên toàn thế giới để triển khai
dịch vụ thông tin di động thế hệ thứ 2 (2G). Cùng với sự phát triển của công
nghệ, cũng như nhu cầu sử dụng ngày càng cao của người dùng, băng tần 900
MHz đã và đang được nhiều quốc gia trên thế giới triển khai các công nghệ
thông tin di động khác (như 4G và tương lai sẽ dành cho triển khai 5G).
Tại Việt Nam, băng tần 900 MHz là băng tần di động đầu tiên được triển
khai cho dịch vụ thông tin di động 2G. Qua thời gian, băng tần 900 MHz đã
đóng góp vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của thông tin di động
nói riêng và thị trường viễn thông Việt Nam nói chung.
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu người sử dụng và xu hướng phát
triển của thế giới, việc chuyển đổi công nghệ trên băng tần 900 MHz từ công
nghệ thông tin di động 2G sang công nghệ thông tin di động băng rộng tiên tiến
hơn là xu hướng tất yếu. Tại Việt Nam, ngày 10/3/2015, Bộ Thông tin và
Truyền thông đã ban hành Thông tư số 04/2015/TT-BTTTT quy định triển khai
hệ thống thông tin di động IMT (bao gồm các hệ thống thông tin di động IMT-
2000, IMT-Advanced và các phiên bản tiếp theo, tuân theo định nghĩa của Liên
minh Viễn thông Quốc tế ITU) trên băng tần 824-835 MHz, 869-915 MHz, 925-
960 MHz, 1710-1785 MHz và 1805-1880 MHz. Thông tư này đã tạo hành lang
pháp lý cho phép các doanh nghiệp thông tin di động có thể chủ động lựa chọn
các công nghệ cùng song song tồn tại trên băng tần 900 MHz để triển khai mạng
thông tin di động của đơn vị mình nhằm đáp ứng kế hoạch kinh doanh và nhu
cầu sử dụng của người dùng. Đây là một bước đi kịp thời và đúng đắn của cơ
quan quản lý nhà nước, nhằm quản lý tài nguyên tần số hiệu quả, tạo hành lang
pháp lý để đảm bảo cung cấp dịch vụ thông tin vô tuyến băng rộng với giá cả 91
phù hợp cho người dùng phổ thông, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững
của thị trường thông tin di động Việt Nam.
Như vậy, chính sách quản lý, thúc đẩy chuyển đổi công nghệ trên băng tần
900 MHz đã được Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành từ năm 2015, với
định hướng cho phép doanh nghiệp chủ động lựa chọn công nghệ, triển khai
song song nhiều công nghệ trên băng tần được cấp phép. Đối với đề tài này, việc
nghiên cứu đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả
băng tần 900 MHz, nhóm đề tài đề xuất tập trung vào 2 nội dung sau:
- Chính sách của nhà nước về việc ngừng cung cấp dịch vụ thông tin di động thế hệ cũ.
- Chính sách của nhà nước về giới hạn lượng phổ tần tối đa mà mỗi doanh nghiệp được phép nắm giữ trong các băng tần 700/800/900 MHz.
3.1. Nghiên cứu chính sách quản lý, quy hoạch tần số đối với băng tần 900 MHz tại Việt Nam
Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia ban hành theo quyết định số
71/2013/QĐ-TTg ngày 21/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định phân chia
băng tần 880-960 MHz cho các nghiệp vụ vô tuyến Cố định là nghiệp vụ chính (tại
băng tần 880-890 MHz, 915-935 MHz), nghiệp vụ Di động là nghiệp vụ chính (tại
băng tần 880-960 MHz), nghiệp vụ Cố định là nghiệp vụ phụ (tại băng tần 890-915
MHz, 935-942 MHz), nghiệp vụ Vô tuyến định vị là nghiệp vụ phụ (tại băng tần
890-915 MHz, 915-935 MHz).
Phân chia băng tần 880-960 MHz cho các nghiệp vụ thông tin vô tuyến
Băng tần (MHz) Phân chia của Việt Nam
880-890 CỐ ĐỊNHDI ĐỘNG 5.317AVTN8 VTN8B 5.149 5.306 5.311A 5.320
890-915 DI ĐỘNG 5.317ACố địnhVô tuyến định vị
92
VTN8 VTN8B
915-935 DI ĐỘNG 5.317ACỐ ĐỊNHVô tuyến định vịVTN8 VTN8B
935-942 DI ĐỘNG 5.317ACố địnhVô tuyến định vịVTN8 VTN8B
942-960 DI ĐỘNG 5.317ACố địnhVTN8 VTN8B 5.320
Tại bảng phân chia có hai chú thích quốc gia (VTN) quy định sử dụng tần
số cho các hệ thống vô tuyến điện là Chú thích VTN 8 và Chú thích VTN 8B.
Trong đó Chú thích VTN 8 quy định băng tần 880-915 MHz, 925-960 MHz
được dành cho các hệ thống thông tin di động IMT. Trong trường hợp cần thiết,
cơ quan quản lý sẽ điều chỉnh các đoạn băng tần cụ thể trong các quy hoạch
băng tần có liên quan.
Chú thích VTN8B quy định các hệ thống vô tuyến dẫn đường hiện đang
hoạt động trong băng tần 750-820MHz và 870-960MHz chỉ được tiếp tục sử
dụng trên cơ sở phối hợp với các hệ thống vô tuyến điện được phân chia trong
các băng tần này để hạn chế nhiễu có hại. Không triển khai mới hệ thống vô
tuyến dẫn đường trong các băng tần này.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số 25/2008/QĐ-
BTTTT ngày 16/4/2008 phê duyệt Quy hoạch băng tần cho các hệ thống thông
tin di động tế bào số của Việt Nam trong các dải tần 821 - 960MHz và 1710 -
2200MHz. Theo quy hoạch này, băng tần 880-960 MHz được quy hoạch thành
hai đoạn băng tần ghép cặp với nhau với cấu trúc thành 04 lô song công theo tần
số (FDD) gồm 880-915 MHz cho hướng lên và 925-960 MHz cho hướng xuống
để triển khai hệ thống thông tin di động GSM/E-GSM. Nội dung quy hoạch chi
tiết băng tần này được minh họa tại hình vẽ dưới đây:
93
Tiếp theo Quyết định số 25/2008/QĐ-BTTTT ngày 16/4/2008 của Bộ
Thông tin và Truyền thông, ngày 10/3/2015, Bộ Thông tin và Truyền thông ban
hành Thông tư số 04/2015/TT-BTTTT quy định triển khai hoàn thống thông tin
di động IMT (bao gồm các hoàn thống thông tin di động IMT-2000, IMT-
Advanced và các phiên bản tiếp theo, tuân theo định nghĩa của Liên minh Viễn
thông Quốc tế ITU) trên băng tần 824-835 MHz, 869-915 MHz, 925-960 MHz,
1710-1785 MHz và 1805-1880 MHz. Thông tư này áp dụng đối với doanh
nghiệp viễn thông đã được cấp giấy phép sử dụng băng tần trên các băng tần
824-835 MHz, 869-915 MHz, 925-960 MHz, 1710-1785 MHz và 1805-1880
MHz.
Đối với băng tần 880-960 MHz, Thông tư này quy định trên cơ sở giấy
phép sử dụng tần số đã được cấp, doanh nghiệp viễn thông được phép triển khai
thêm hệ thống di động tiêu chuẩn IMT (WCDMA và các phiên bản tiếp theo).
Bên cạnh các băng tần quy hoạch cho hệ thống thông tin di động, Bộ
Thông tin và Truyền thông quy định đoạn băng tần 918-923 MHz cho thiết bị
nhận dạng vô tuyến và thiết bị VTĐ cự ly ngắn dùng cho mục đích chung được
miễn giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện. Nội dung quy định tại Thông tư số
46/2016/TT-BTTTT ban hành danh mục thiết bị vô tuyến điện được miễn giấy
phép sử dụng tần số vô tuyến điện, điều kiện kỹ thuật và khai thác kèm theo như
sau:
Băng tần Loại thiết bị, ứng dụng vô tuyến điện cự ly ngắn
Phát xạ chính
918 ÷ 923 MHz Thiết bị nhận dạng vô tuyến (RFID)
≤ 500 mW ERP
94
918 ÷ 923 MHz Thiết bị VTĐ cự ly ngắn dùng cho mục đích chung
≤ 25 mW ERP
3.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 900 MHz
3.2.1. Phương án quy hoạch lại băng tần 900 MHz
Tại chuyên đề trước đã đề xuất ba phương án quy hoạch và điều kiện sử
dụng băng tần 900 MHz tại Việt Nam với các nội dung cơ bản như sau:
Phương án quy hoạch thứ nhất phân chia băng tần 880-960 MHz gồm đoạn
băng tần phát của trạm gốc 880-915 MHz và đoạn băng tần thu của trạm gốc
925-960 MHz với 4 cặp khối tần số. Loại hình công nghệ thông tin di động triển
khai theo quy hoạch này bao gồm công nghệ GSM, WCDMA và các phiên bản
tiếp theo, LTE, LTE-Advanced và các phiên bản tiếp theo.
95
Phương án quy hoạch thứ hai, bổ sung thêm công nghệ kết nối IoT (EC-
GSM, LTE-M, NB-IoT) bên cạnh các loại hình công nghệ thông tin di động
GSM; WCDMA và các phiên bản tiếp theo; LTE và các phiên bản tiếp theo.
Phương án quy hoạch thứ ba, phân chia băng tần phát và băng tần thu thành
7 cặp khối tần số, mỗi cặp khối tần số có độ rộng 2x5 MHz. Các loại hình công
nghệ triển khai theo quy hoạch này và điều kiện sử dụng băng tần tương tự như
phương án quy hoạch thứ 2.
3.2.2. Hiện trạng sử dụng băng tần 900 MHz tại Việt Nam
Triển khai quy định số 25/2008/QĐ-BTTTT ngày 16/4/2008 của Bộ Thông
tin và Truyền thông, Cục Tần số vô tuyến điện đã cấp phép sử dụng băng tần
880-915 MHz, 925-960 MHz cho bốn doanh nghiệp viễn thông để triển khai hệ
thống thông tin di động GSM/E-GSM toàn quốc gồm có Tập đoàn viễn thông
quân đội Viettel, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông VNPT, Tổng công ty viễn
thông Mobifone, Công ty Cổ phần Viễn thông Di động Vietnamobile. Trong số
2x35 MHz băng tần cấp phép, Viettel được cấp 2x8,2 MHz, VNPT được cấp
2x8,5 MHz, Mobifone được cấp 2x8,3 MHz, Vietnammobile được cấp 2x10
MHz. Chi tiết đoạn băng tần cấp phép và thời hạn cấp phép cho từng doanh
nghiệp được minh họa tại hình vẽ dưới đây:
Các thiết bị RFID, thiết bị VTĐ cự ly ngắn chung được sử dụng dưới hình thức miễn cấp phép.
Như vậy, từ phương án quy hoạch lại băng tần 900 MHz và hiện trạng sử dụng trên băng tần này có thể thấy không có sự thay đổi về băng tần dành cho thông tin di động trên băng tần này. Do vậy không phải chuyển đổi các hệ thống thiết bị VTĐ khác đang hoạt động trong băng tần 900 MHz để thực hiện quy hoạch.
96
3.2.3. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý
chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 900 MHz
Thông qua việc ban hành Thông tư số 04/2015/TT-BTTTT, Bộ Thông tin
và Truyền thông đã tạo hành lang pháp lý cho phép các doanh nghiệp thông tin
di động có thể chủ động lựa chọn công nghệ để triển khai mạng thông tin di
động của đơn vị mình trên băng tần 900 MHz nhằm đáp ứng kế hoạch kinh
doanh và nhu cầu sử dụng của người dùng.
Cùng với việc các mạng 4G LTE đang được triển khai mạnh mẽ trên toàn
thế giới, nhiều quốc gia đã, đang tắt sóng các mạng di động thế hệ trước (2G,
3G). Tại Việt Nam, các nhà mạng trong nước cũng đã bắt đầu triển khai mạng
LTE nên vấn đề tắt sóng mạng 2G, 3G cần được nghiên cứu và đề xuất sớm.
Bên cạnh đó, trong gần 2 thập kỷ phát triển vừa qua, sự cạnh tranh sôi động
giữa các doanh nghiệp (DN) cung cấp dịch vụ thông tin di động đã góp phần
thúc đẩy thị trường viễn thông Việt Nam phát triển nhanh, trở thành một trong
những thị trường có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Để
tiếp tục duy trì tính cạnh tranh của thị trường, đặc biệt là trong bối cảnh một
lượng lớn phổ tần mới dưới 1GHz sẽ được giải phóng để triển khai dịch vụ
thông tin di động cần nghiên cứu để đạt được sự cân bằng hơn trong việc sử
dụng tài nguyên tần số giữa các doanh nghiệp, tạo động lực thúc đẩy thị trường
thông tin di động tại Việt Nam. Do đó, câu hỏi về giới hạn lượng phổ tần dành
cho các doanh nghiệp thông tin di động ở các băng tần dưới 1 GHz cũng phải
được nghiên cứu và đề xuất sớm.
3.2.3.1. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý giới hạn số lượng phổ tần tối đa mà mỗi doanh nghiệp được nắm giữ ở băng tần dưới 1 GHz
Pháp luật Việt Nam (Quyết định 16/2012/QĐ-TTg) cho phép các doanh
nghiệp được cấp phép thông qua đấu giá được chuyển nhượng quyền sử dụng
tần số trúng trong đấu giá cho doanh nghiệp khác.
97
Trong các quy hoạch băng tần hiện hành, chỉ quy định giới hạn số lượng
phổ tần mà mỗi nhà khai thác được phép nắm giữ đối với từng băng tần cụ thể.
Với xu hướng cấp phép thông qua hình thức đấu giá đối với các băng tần mới,
đồng thời doanh nghiệp được phép mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng
băng tần thì bài toán cần đặt ra là làm thế nào để những băng tần quý hiếm, là cơ
sở để phát triển và cung cấp dịch vụ di động, không tập trung trong tay một số ít
nhà khai thác, làm giảm tính cạnh tranh của thị trường.
Giới hạn lượng phổ tần tối đa mà mỗi nhà khai thác được phép nắm giữ -
Spectrum cap được sử dụng lần đầu tiên vào những thập niên 90 tại Mỹ để đảm
bảo việc cạnh tranh của thị trường viễn thông di động. Spectrum cap đã được sử
dụng tại nhiều nước với mục đích để đảm bảo rằng không một nhà khai thác
mạng nào có thể nắm giữ tất cả hoặc hầu hết tài nguyên tần số thông qua các quá
trình như xin giấy phép, sáp nhập hoặc mua bán, chuyển nhượng.
Mục đích của việc này là ngăn cản các nhà khai thác có thể kiểm soát kiểm
soát thị trường bằng việc nắm giữ phần lớn nguồn tài nguyên tần số quý giá gây
nên sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, làm tổn hại thị trường, từ đó ảnh hưởng trực
tiếp đến người sử dụng. Một số quốc gia áp dụng spectrum cap, tuy nhiên, cách
tiếp cận có thể khác nhau tại từng nước.
Băng tần dưới 1 GHz, được coi là băng tần quý hiếm, với khả năng truyền
xa và xuyên thấu tốt. Tuy nhiên lượng phổ tần ở các băng tần này bị giới hạn
hơn nhiều so với các băng tần cao hơn. Chính vì vậy, giới hạn lượng phổ tần tối
đa đối với mỗi nhà khai thác ở băng tần dưới 1 GHz được các nước quan tâm
đặc biệt.
Các nước châu Âu áp đặt spectrum cap ở dải tần dưới 1 GHz nghiêm ngặt
hơn hẳn so với dải tần trên 1 GHz với quan điểm cho rằng việc phân bổ không
đồng đều ở dải tần này có thể ảnh hưởng đáng kể đến môi trường cạnh tranh.
Các nền kinh tế lớn của Liên minh châu Âu, đều quy định spectrum cap với
băng tần dưới 1 GHz, gồm các nước: Đức, Thụy Điển, Tây Ba Nha, Ý, Bồ Đào
Nha, Pháp, Đan Mạch, Ireland, Anh, Áo, Phần Lan, Cộng hòa Séc, Ba Lan.
98
Riêng Hà Lan làm theo cách khác, đó là dành một lượng phổ tần nhất định trong
dải tần này cho nhà khai thác mới. Cụ thể ở các nước Châu Âu như sau:
Nước Giới hạn tổng lượng băng tần dưới 1 GHz với mỗi nhà khai thác
Áo 54% (3 nhà mạng, băng tần 800 MHz và 900 MHz)
Bỉ 35% (3 nhà mạng, băng tần 800 MHz và 900 MHz)
Đan mạch 49 % (4 nhà mạng, băng tần 800 MHz và 900 MHz)
Pháp 32% (4 nhà mạng, băng tần 700 MHz, 800 MHz và 900 MHz)
Đức 37% (3 nhà mạng, băng tần 700 MHz, 800 MHz và 900 MHz)
Hy Lạp 39 % (3 nhà mạng, băng tần 800 MHz và 900 MHz)
Hungary 33% (4 nhà mạng, băng tần 800 MHz)
Ireland 39% (3 nhà mạng, băng tần 800 MHz và 900 MHz)
Ý 31% (4 nhà mạng, băng tần 800 MHz và 900 MHz)
Romania 34% (4 nhà mạng, băng tần 800 MHz và 900 MHz)
Slovakia 35% (4 nhà mạng, băng tần 800 MHz và 900 MHz)
Thụy Điển 31% (4 nhà mạng, băng tần 800 MHz và 900 MHz)
Mỹ quy định, mỗi nhà khai thác không được nắm giữ quá 33% tổng lượng
phổ tần khả dụng tại các băng tần dưới 1 GHz. Ở khu vực châu Mỹ La tinh,
Columbia quy định mỗi nhà khai thác không được nắm giữ quá 30 MHz ở băng
tần dưới 1 GHz.
Tại Châu Á, Nhật quy định giới hạn phổ tần ở các băng tần 700 MHz, 850
MHz và 900 MHz là 34% với mỗi nhà khai thác; Hàn Quốc là 38% với các băng
tần 850 MHz và 900 MHz; Singapore 43% với băng tần 900 MHz.
99
Trên thực tế, thông qua nhiều hình thức cấp phép, từ cấp trực tiếp đến đấu
giá, thi tuyển, số lượng phổ tần mà mỗi nhà khai thác được nắm giữ ở băng dưới
1 GHz thay đổi khác nhau ở các nước. Cụ thể như sau:
Anbania
Đan M
ạch Pháp
Hungary Ita
lyLat
via
Luxembourg
Romania
Slova
kia
Slove
nia
Tây ban
nha
Thụy Đ
iển
Mexico
Panam
a
Paragu
ayPeru Úc
Hồng Kông
Nhật Bản
Mông Cổ
Philipine
00.10.20.30.40.50.60.70.8
ABCD
Như vậy, có thể thấy thực tế phân bổ băng tần dưới 1 GHz giữa các doanh
nghiệp không đồng đều. Một số nước, có doanh nghiệp không có băng tần dưới
1 GHz, trong đó nguyên nhân chủ yếu là các doanh nghiệp này được thành lập
sau khi các băng tần 800MHz/850MHz/900MHz đã được cấp phép trước đó
(Hungary, Latvia, Luxembourg, Slovenia, Slovakia, Tây ban nha, Panama,
Paraguay, Úc, Hồng Kông, Mông Cổ, Philipine).
Một số nước có tỉ lệ phân bổ băng tần theo tỉ lệ 3+1, trong đó mô hình 3
doanh nghiệp có tỷ lệ băng tần tương đối đồng đều và 1 doanh nghiệp có ít hơn
băng tần là : Albania, Đan Mạch, Pháp, Ý, Romania, Tây Ban Nha, Mexico,
Panama, Paraguay, Pêru, Hồng Kông, Nhật Bản, Mông Cổ, (13 nước); các nước
có 3+1 nhưng doanh nghiệp thứ 4 có ít hơn hẳn băng tần so với 3 doanh nghiệp
còn lại (chỉ chiếm khoảng dưới 5% tổng số băng tần): Hungari, Philipine,
Lativa, Luxembourg, Slovakia, Slovenia,Thụy Điển, Úc (8 nước).
Một số nước chỉ phân bổ tần số cho 3 doanh nghiệp có số lượng băng tần
tương đối đồng đều (doanh nghiệp ít nhất chiếm khoảng 23% tổng số băng tần)
gồm : Áo, Bỉ, Đức, Hy Lạp, Ireland, Trung Quốc, Hàn Quốc, Myanma,
Singapore (9 nước).
100
Như vậy có thể thấy những thị trường thông tin di động phát triển trên thế
giới thì chủ yếu lượng phổ tần phân bổ cho 3 nhà khai thác với mức độ tương
đối đồng đều hoặc cho 3+1 nhà khai thác với nhà khai thác thứ 4 ít hơn so với 3
nhà khai thác còn lại.
Ủy ban Châu Âu sau khi quan sát việc sáp nhập doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ thông tin di động thời gian qua đã nhận định rằng thị trường di động
cạnh tranh hiệu quả chỉ nên có từ 3 đến 4 nhà mạng cung cấp dịch vụ thông tin
di động.
Tại Việt Nam, hiện có 5 nhà mạng cung cấp dịch vụ thông tin di động.
Trong đó, tổng lượng băng thông đã cấp phép cho các doanh nghiệp viễn thông
tại các băng tần 900 MHz như sau:
900 MHz
VNPT 8.4
MobiFone 8.2
Viettel 8.2
VietnamMobil
e 10
GTEL 0
34.8 MHz
Theo phương án quy hoạch đề xuất tại các chuyên đề trước, tổng lượng phổ
tần ở băng 700 MHz là 45x2 MHz; băng 800 MHz là 21x2 MHz hoặc 26x2
MHz, tuy nhiên còn có những đoạn băng tần chưa khả dụng do chưa giải phóng
được thiết bị trunking.
Như vậy, tổng băng thông của cả 3 băng tần 700/800/900 MHz nằm trong
khoảng từ 100x2 MHz đến 105x2 MHz. Chia đều cho 5 nhà khai thác, 4 nhà
khai thác, 3 nhà khai thác thì mỗi nhà khai thác sẽ có phổ tần dưới 1 GHz như
sau:
101
Số nhà khai thác Lượng phổ tần của mỗi nhà khai thác
5 20% đến 21%
4 25% đến 26,25%
3 33,33% đến 35%
Quy hoạch định hướng phát triển viễn thông đến năm 2020, Việt Nam có từ
3 đến 4 Tập đoàn, Tổng công ty mạnh để cung cấp dịch vụ thông tin di động. Ủy
ban Châu Âu cũng có nhận định thị trường di động cạnh tranh hiệu quả với 3
đến 4 nhà mạng cung cấp dịch vụ thông tin di động. Kinh nghiệm thực tiễn của
các nước cũng cho thấy, phần lớn các thị trường phát triển tốt với sự tham gia
của 3 đến 4 nhà mạng.
Giới hạn phổ tần tối đa cho mỗi nhà mạng ở các nước trình bày trên đây
cho thấy nằm trong khoảng mức khá cao, phổ biến nhất là trong khoảng từ 30%
đến 35%.
Trên cơ sở kinh nghiệm các nước, hiện trạng sử dụng và quy hoạch dự kiến
tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu đề xuất, giới hạn phổ tần tối đa như sau:
Tổng lượng phổ tần dưới 1 GHz Giới hạn phổ tần tối đa với mỗi nhà
khai thác
100 MHz/105 MHz Trong khoảng từ 25% - 30%
Với giới hạn như vậy, doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc, lựa chọn phương án
đề nghị cấp phép và không có khả năng đồng thời sở hữu cả 3 băng tần
700/800/900 MHz theo phương án quy hoạch băng tần thành các khối lớn hơn
5MHzx2. Đồng thời lượng phổ tần sẽ được phân phối đồng đều hơn cho cả 5
doanh nghiệp khi có thêm băng tần 800 MHz.
102
3.2.3.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý, chuyển đổi công nghệ di động thế hệ 2, thế hệ 3
Trong những năm gần đây, nhiều nhà khai thác di động trên thế giới đang
cân nhắc chiến lược của họ đối với các mạng di động thế hệ thứ 2 - 2G và thứ 3
- 3G là vì họ cần nhiều quang phổ hơn cho 4G và triển khai 5G trong tương lai.
Mặt khác việc triển khai đồng thời các công nghệ khác nhau 2G, 3G, 4G …
cũng sẽ làm gia tăng chi phí và độ phức tạp của hệ thống mạng. Dù rằng các
mạng 4G hiệu quả hơn khi xét về khía cạnh chi phí so với các mạng 2G và 3G,
nhưng với sự phổ biến của thị trường M2M / IoT ở một số quốc gia trên thế giới
đã khiến cho các nhà mạng phải cân nhắc việc dừng công nghệ nào trước 2G
hay 3G để chuyển sang công nghệ mới một cách hiệu quả nhất.
Lý do rất nhiều nhà khai thác di động trên thế giới hiện đang cân nhắc
chiến lược của họ đối với các mạng di động thế hệ thứ 2 - 2G và thứ 3 - 3G là vì
họ cần nhiều phổ tần hơn cho 4G và triển khai 5G trong tương lai. Mặt khác việc
triển khai đồng thời các công nghệ khác nhau 2G, 3G, 4G … cũng sẽ làm gia
tăng chi phí và độ phức tạp của hệ thống mạng. Mặc dù mạng 4G hiệu quả hơn
về chi phí so với các mạng 2G và 3G, nhưng với sự phổ biến của thị trường
M2M / IoT ở một số quốc gia trên thế giới đã khiến cho các nhà mạng phải cân
nhắc việc dừng công nghệ 2G hay 3G trước để chuyển sang công nghệ mới một
cách hiệu quả nhất.
Bảng dưới đây tóm tắt thông tin tắt dịch vụ 2G ở một số quốc gia trên thế
giới.
Operator Country 2G Switch-Off Technology
KDDI Japan 3/31/08 CDMA
Softbank Japan 3/31/10 PDC
KT Corp South Korea 1/1/12 CDMA
NTT DOCOMO Japan 4/1/12 PDC
Spark New Zealand 7/31/12 CDMA
103
CAT Telecom Thailand 4/30/13 CDMA
CNT Ecuador 12/31/14 CDMA
CTM, Hutchison, SmarTone* Macau 6/30/15 GSM
Manitoba Telecom Canada 12/1/16 CDMA
Telstra Australia 12/1/16 GSM
Bell Canada 1/1/17 CDMA
Telus Canada 1/31/17 CDMA
Optus Australia 4/1/17 GSM
SingTel, M1, StarHub Singapore 4/1/17 GSM
SakTel Canada 7/31/17 CDMA
Vodafone Australia 9/30/17 GSM
Chungwa, FET, Taiwan Mobile Taiwan 12/31/17 GSM
Verizon Wireless US 12/31/19 CDMA
T-Mobile Netherlands 12/31/20 GSM
Swisscom Switzerland 12/31/20 GSM
Telenor Norway 12/31/25 GSM
Tại Châu Âu
Vodafone đã tuyên bố sẽ không tắt mạng GSM ở châu Âu cho đến sớm
nhất là năm 2025. Lý do, theo Giám đốc điều hành của Vodafone – ông Erik
Brenneis, là sự cần thiết phải hỗ trợ các kết nối truyền thống giữa máy và máy
(M2M) và kết nối vạn vật (IoT) chạy trên 2G. Ông Brenneis cho rằng mặc dù
các công nghệ IoT mới như IoT băng hẹp có thể mang lại những lợi ích tương tự
cho kết nối 2G, nhưng vẫn còn rất nhiều kết nối trước đây sẽ không được nâng
cấp trong nhiều năm. Do vậy, kế hoạch của Vodafone là sẽ không tắt mạng 2G ở
châu Âu cho đến năm 2025, dài hơn thời gian sống của hầu hết các kết nối IoT,
ngay cả khi thiết bị được đưa vào thị trường ở thời điểm hiện tại.
104
AT & T đã tắt mạng 2G. T-Mobile đã hé lộ kế hoạch để làm như vậy, dự
kiến vào năm 2019 nhưng theo cách khác. T-Mobile đã chuẩn bị kế hoạch
chuyển sang LTE một cách hoàn hảo. Với 70% các cuộc điện thoại hiện nay của
T-Mobile là VoLTE và tất cả các điện thoại gần đây cung cấp cho khách hàng
của họ có hỗ trợ VoLTE, dự kiến 2019 T-Mobile có thể chuyển sang mạng hoàn
toàn LTE. Theo T-Mobile, tắt 3G trước 2G mang lại nhiều lợi ích hơn cho họ.
Nhờ giữ lại mạng 2G, T-Mobile đã có thêm được khách hàng sử dụng dịch vụ
M2M từ AT & T. Các ứng dụng 2G từ dịch vụ M2M như máy bán hàng, hệ
thống đỗ xe tự động được T-Mobile sử dụng trên các đoạn rìa băng LTE. Phổ
tần 3G có thể sử dụng lại cho 4G. Như vậy, với việc chuẩn bị chu đáo cho việc
chuyển đổi các ứng dụng thoại sang VoLTE và chuyển đổi M2M của dịch vụ
2G, T-Mobile đã sẵn sàng để chuyển sang mạng toàn 4G, LTE vào năm 2019.
Sunrise dự kiến sẽ ngừng cung cấp dịch vụ 2G vào cuối năm 2018 để giải
phóng băng tần cho 4G. Đối thủ cạnh tranh của Sunrise là Swisscom đã thông
báo vào năm 2015 rằng họ sẽ tắt mạng 2G vào năm 2020. T-Mobile Netherlands
dự kiến ngừng dịch vụ vào cuối năm 2020.
Các nhà khai thác Thụy Sỹ cũng đang chuẩn bị kế hoạch ngừng công nghệ
"GSM", công nghệ GPRS và EDGE đã lạc hậu để cung cấp cho khách hàng 2G
các dịch vụ với phạm vi phủ sóng và chất lượng cuộc gọi thoại tốt hơn nhiều
bằng cách đẩy nhanh việc mở rộng 4G và 4G +. Các nhà mạng này cũng đã sẵn
sàng cung cấp dịch vụ thoại qua VoLTE, nhưng chưa xác định ngày chính thức.
Vào cuối năm 2017, nhờ việc có thêm phổ tần, các nhà mạng sẽ cung cấp dịch
vụ 4G cho 92% dân số Thụy Sỹ.
Tại Châu Á
Nhật Bản
Nhật Bản là nước đi đầu một xu hướng rõ ràng đầu tiên ở châu Á, với việc
nhà mạng KDDI kết thúc dịch vụ 2G vào tháng 3/2008. Tất cả các nhà mạng
khác của Nhật Bản đã dừng cung cấp các dịch vụ 2G vào tháng 4 năm 2012, trở
thành nước đầu tiên chuyển đổi hoàn toàn thành mạng di động 3G và 4G.
105
Đài Loan
Tháng 7/2017, các nhà mạng Đài Loan đã chính thức ngừng ngừng cung
cấp dịch vụ 2G. Mặc dù còn gần 90.000 lượt lưu động (0.3% trong tổng số 31
triệu kết nối di động của cả nước), nhưng 3 doanh nghiệp là Chunghwa
Telecom, Đài Loan Mobile và Far EasTone đã ngừng cung cấp dịch vụ trên
mạng 2G, ngoại trừ các cuộc gọi khẩn cấp. Như vậy, trong suốt sáu tháng nỗ lực
chuyển đổi, với số thuê bao 2G chiếm một tỷ lệ phần trăm khá nhỏ, các nhà
mạng Đài Loan đã thành công trong việc tắt 2G để chuyển sang 4G, 5G.
Úc
Úc bắt đầu kế hoạch tắt sóng 2G khi ước tính còn khoảng 250.000 thuê bao
(ước tính 1% thuê bao) đang sử dụng 2G. Để chuẩn bị tắt sóng, các nhà mạng đã
có những chiến dịch tuyên truyền, gửi tin nhắn đến các thuê bao trong vòng 18
tháng trước đó để thông báo thời điểm tắt sóng và cảnh báo bất cứ ai sử dụng
điện thoại di động 2G hoặc thẻ 2G sẽ không còn có thể thực hiện cuộc gọi điện
thoại hoặc gửi tin nhắn văn bản nữa, kể cả cuộc gọi tới các dịch vụ khẩn cấp
cũng không còn được kết nối.
Vào tháng 12 năm 2016, nhà khai thác di động lớn nhất nước Úc Telstra đã
đóng mạng 2G, hoạt động trong hơn 23 năm. Đối thủ Optus (thuộc sở hữu của
Singtel) đã ngừng cung cấp dịch vụ 2G vào đầu tháng 4/2017, trong khi
Vodafone Australia ngừng khai thác mạng GSM vào cuối tháng 9/2017.
Singapore
Các nhà khai thác mạng di động của Singapore là M1, Singtel và StarHub
đã tắt mạng 2G vào giữa tháng 4/2017, sau ba tuần ngừng hoạt động.
Như vậy, kể từ khi khai trương dịch vụ 2G vào năm 1994, với sự phát triển
mạnh của các mạng di động 3G và 4G hiện đại và số thuê bao 3G, 4G ngày càng
chiếm ưu thế tuyệt đối, các nhà mạng cuối cùng đã ngừng cung cấp dịch vụ 2G
để chuyển đổi phổ tần này cho phát triển các dịch vụ 3G và 4G nhanh hơn, tiên
tiến hơn. Để thực hiện được động thái này, trong vòng vài năm, các nhà khai
106
thác di động đã tiến hành các chương trình tiếp cận để khuyến khích khách hàng
chuyển sang các mạng mới hơn. Đối với những người dùng 2G bị ảnh hưởng,
các nhà khai thác di động đã tiếp cận thông qua các kênh khác nhau khi có liên
quan, bao gồm cả tin nhắn SMS, các cuộc gọi và áp phích tại các điểm bán lẻ
của họ, trước khi kết thúc mạng lưới 2G.
Một loạt các thiết bị cầm tay 3G và 4G cũng có sẵn ở các mức giá khác
nhau để giúp khách hàng chuyển đến các mạng mới một cách thuận tiện.
Hàn Quốc
KT, nhà khai thác lớn thứ hai Hàn Quốc, đã dẫn đầu việc tắt sóng 2G vào
đầu năm 2012. Để chuẩn bị quá trình tắt sóng di động 2G, theo quy định của
pháp luật về viễn thông của Hàn Quốc, các nhà khai thác phải gửi văn bản đề
nghị lên cơ quan quản lý. Sau khi được phê duyệt nhà mạng thực hiện tắt sóng
theo kế hoạch phê duyệt.
Thực tế triển khai đối với nhà mạng KT như sau: KT đề nghị được tắt sóng
dịch vụ 2G kể từ cuối tháng 6 năm2011. Sau khi xem xét, cơ quan quản lý viễn
thông Hàn Quốc - KCC, đã quyết định trì hoãn (không từ chối) cho phép KT
chấm dứt dịch vụ 2G mặc dù công nhận sự cần thiết phải chấm dứt 2G để
chuyển phổ tần này cho triển khai LTE.
Hai lý do được đưa ra, đó là KT còn quá nhiều thuê bao 2G. Tính đến cuối
tháng 5 năm 2011, số thuê bao dịch vụ 2G của KT là khoảng 810.000, chiếm
khoảng 5% tổng số thuê bao di động của KT. KCC đề cập đến thực tế là khi
Softbank Mobile của Nhật chấm dứt dịch vụ 2G, chỉ còn 2,45% tổng số thuê
bao 2G. NTT Docomo, nhà mạng lớn nhất Nhật Bản, chấm dứt dịch vụ 2G vào
cuối tháng 3 năm 2012, đã giảm số lượng thuê bao 2G đến 202.000, chỉ chiếm
khoảng 0,3% tổng số thuê bao di động, vào cuối năm 2011.
Lý do thứ hai để từ chối cho phép là thời gian thông báo đến thuê bao quá
ngắn. KCC chỉ ra rằng ba tháng là quá ngắn để các thuê bao còn lại chuyển sang
các dịch vụ khác mặc dù KT đã hoàn thành các yêu cầu theo quy định của pháp
107
luật. Khi đưa ra phán quyết về thời gian thông báo thích hợp cho thuê bao, KCC
đã dẫn chiếu đến trường hợp của Softbank (2008) đã thông báo ý định ngừng
cung cấp dịch vụ 2G vào ngày 3 tháng 7 năm 2008, trước ngày chấm dứt kế
hoạch khoảng 21 tháng (ngày 31 tháng 3 năm 2010). Tương tự như vậy, NTT
Docomo (2009) cũng đã công bố chính sách chấm dứt dịch vụ 2G vào ngày 20
tháng 1 năm 2009, tức là 38 tháng trước ngày kết thúc dự kiến là ngày 31 tháng
3 năm 2012.
Cuối cùng, sau nhiều nỗ lực chuyển đổi thuê bao 2G, KT đã được cơ quan
quản lý đồng ý cho ngừng cung cấp dịch vụ 2G khi số thuê bao 2G còn lại là
0,96%.
Bài học rút ra từ Hàn Quốc khi các nhà quản lý quy định quá trình chấm
dứt các dịch vụ cũ, cần phải giải quyết ít nhất ba vấn đề chính sách chính.
Một là, thời gian thông báo cho thuê bao bao lâu là phù hợp kể từ khi thông
báo đến khi chấm dứt dịch vụ.
Hai là, tắt dịch vụ khi số thuê bao đang sử dụng dịch vụ của nhà mạng
chiếm bao nhiêu % tổng số thuê bao của nhà mạng đó.
Ba là, các nhà quản lý cân nhắc việc đưa ra quy định về mức bồi thường
tiểu thiểu áp dụng cho thuê bao.
Theo số liệu mới nhất của GSMA Intelligence, trong quý 1 năm 2017, LG
Uplus, doanh nghiệp xếp hạng thứ ba của Hàn Quốc, đã di chuyển người dùng
3G cuối cùng sang 4G. Đây là một trong số ít nhà khai thác trên thế giới có 100
phần trăm khách hàng sử dụng trên nền tảng mạng LTE. Người dùng 3G chiếm
17% tổng số thuê bao di động tại Hàn Quốc, trong khi đó 4G chiếm tới 82% số
kết nối.
Thái Lan
Thái Lan hiện chỉ còn 1,3 triệu thuê bao 2G, chiếm 1,4% trong số 95 triệu
kết nối di động của đất nước này.
108
Công ty điện thoại di động hàng đầu Thái Lan AIS, với tổng số 40 triệu
thuê bao, đã ngừng dịch vụ 2G vào tháng 3 năm 2016 với khoảng gần 400.000
thuê bao 2G (tương đương 1% thuê bao) chưa được chuyển đổi sang dịch vụ
3G/4G hoặc sang nhà mạng khác bị ngừng cung cấp dịch vụ. Để làm được việc
này, AIS đã chuyển khoảng 5 triệu thuê bao 2G sang dịch vụ 3G và 4G và
chuyển 7,6 triệu người dùng 2G vào nhà mạng di động đứng thứ hai của nước
này là Total Access Communication Pcl (DTAC.BK). Theo yêu cầu của Cơ
quan quản lý viễn thông, AIS không được tự động chuyển các thuê bao 2G sang
các dịch vụ 3G mà không có yêu cầu từ khách hàng của họ. Để hỗ trợ cho thuê
bao 2G, AIS có một số chính sách cung cấp điện thoại thông minh miễn phí để
khuyến khích khách hàng 2G chuyển sang dịch vụ 3G hoặc 4G
New Zealand
Spark (trước đây là Telecom New Zealand) là doanh nghiệp đầu tiên ở
New Zealand ngừng cung cấp dịch vụ 2G vào cuối năm 2012. 2degrees
(2degrees có trên 1,4 triệu khách hàng) ngừng cung cấp truy cập 2G vào tháng 3
năm 2018. Vodafone đang xét thời điểm tắt 2G.
2degrees đã không còn bán điện thoại di động 2G từ năm 2015 và nhà
mạng này đã tích cực khuyến khích khách hàng 2G chuyển sang điện thoại 3G
và 4G trong thời gian qua. Khách hàng 2G có sáu tháng để nâng cấp thiết bị,
dịch vụ của mình. Việc ngừng cung cấp dịch vụ 2G cũng sẽ ảnh hưởng đến các
kết nối Máy – Máy (M2M) như một số thiết bị đầu cuối thanh toán và thiết bị
GPS, nhưng công ty sẽ làm việc trực tiếp với khách hàng. 2degrees đã thiết lập
trang web nơi khách hàng có thể kiểm tra xem điện thoại di động của họ có phải
là thiết bị cầm tay 2G và xem lại các tùy chọn nâng cấp của họ.
Vodafone sẽ giữ mạng lưới hoạt động 2G cho đến năm 2025, nhưng chỉ để
hỗ trợ các ứng dụng Máy – Máy (M2M) như các máy đo điện thông minh có
thể gửi lại dữ liệu đo qua mạng di động. Còn đối với thiết bị cầm tay 2G và tắt
dịch vụ thoại sẽ tắt trước năm 2025. Thời điểm cụ thể sẽ sớm được khẳng định.
Vodafone sẽ liên hệ với tất cả các khách hàng 2G để đảm bảo họ được thông
109
báo đầy đủ về ngày, và nhận thức được các lựa chọn chuyển tiếp có sẵn cho họ
để họ có thể tin tưởng kết nối với mạng Vodafone.
Hồng Kông
Hồng Kông có khoảng 3 triệu thuê bao 2G (23% tổng số kết nối), một nửa
trong số đó là với China Mobile Hong Kong, không có mạng 3G. Gần một phần
sáu khách hàng của CSL là khách hàng 2G. Hồng Kong hiện vẫn chưa tắt 2G.
Trung Quốc
Ở Trung Quốc, thị trường di động lớn nhất thế giới, 2G vẫn còn triển vọng
lâu dài trong thời gian tới mặc dù đã có sự tăng trưởng nhanh chóng của 4G.
Người dùng 2G chiếm 20% kết nối di động của đất nước so với chưa tới 15 %
cho mạng 3G.
Khoảng cách này thậm chí còn lớn hơn ở China Mobile, thuê bao 2G gấp
gần bốn lần so với 3G (289 triệu và 74 triệu). GSMA Intelligence dự đoán khách
hàng 2G của họ vẫn sẽ chiếm 15% tổng số kết nối vào cuối năm 2019.
Nhưng vào thời điểm đó, số người sử dụng 3G của nhà khai thác dự kiến sẽ
giảm xuống chỉ còn 2,5% tổng số thuê bao, do đó dự báo mạng 2G sẽ tồn tại lâu
hơn sau khi mạng 3G tắt sóng.
Ấn Độ
Trong khi Ấn Độ có 844 triệu người sử dụng 2G (72% tổng số), 195 triệu
thuê bao 3G (17% tổng số) và 130 triệu thuê bao 4G (11%).
Đặc điểm của thị trường Ấn Độ là mặc dù các nhà khai thác Ấn Độ đã đầu
tư đáng kể vào mạng 3G từ năm 2010 đến năm 2015, nhưng việc phổ cập dịch
vụ 3G ở Ấn Độ khá chậm, trong 5 năm triển khai 3G chỉ chiếm khoảng 10%
thuê bao. Một trong các lý do chính là các điện thoại thông minh và giá cả dữ
liệu 3G còn đắt đỏ với người dân. Như vậy, nhiều khoản đầu tư cho 3G vẫn
chưa thu lại được. Tuy nhiên, các nhà mạng Ấn Độ đang cân nhắc tắt 3G trước
và xác lập mô hình mạng 2G và 4G. Các lý do chính được cho là:
110
Thứ nhất, chất xúc tác chính là nhà mạng Reliance Jio, đã phát triển một
mạng lưới chỉ trên nền tảng LTE với mức đầu tư khoảng 20 tỷ USD. Các nhà
khai thác khác cũng đang phản ứng bằng cách đầu tư mạnh mẽ vào mạng 4G.
Thứ hai, với sự đầu tư lớn của các nhà mạng dự kiến sẽ dẫn đến việc giảm
giá thành dữ liệu 4G có thể gần với mức giá dữ liệu 2G hiện tại để thúc đẩy việc
sử dụng dịch vụ.
Thứ ba, hệ sinh thái thiết bị đang nhanh chóng chuyển sang 4G. Trong Q4
năm 201515, các lô hàng điện thoại thông minh ở Ấn Độ vượt xa các điện thoại
2G và điện thoại thông minh 4G vượt quá điện thoại 3G.
Thứ tư, ở mức 10%, thâm nhập của 3G ở Ấn Độ được xem là rất thấp so
với một số thị trường khác. Một số lượng lớn trong số các thuê bao 3G này sẽ
chuyển sang 4G với nâng cấp điện thoại tiếp theo của họ. Hầu hết khách hàng
mới sẽ sử dụng 4G. Do vậy, với sự sụt giảm mạnh về thuê bao 3G thì việc tiếp
tục duy trì mạng 3G sẽ không mang lại hiệu quả kinh tế.
Thứ năm, giá phổ tần ở Ấn Độ khá đắt đỏ. Dải tần số 3G mà các nhà khai
thác đã mua trong năm 2010 có hiệu lực đến năm 2030 và cũng có thể được sử
dụng cho LTE. Điều này sẽ cho phép các nhà khai thác thúc đẩy tính kinh tế của
quy mô thông qua một kiến trúc mạng đơn giản hơn, giảm chi phí cho mỗi trạm
và cung cấp giá thấp hơn cho khách hàng.
Sự phát triển ở Ấn Độ cũng có tác động lớn đến các nước khác. Nếu cả
Trung Quốc và Ấn Độ chuyển sang 4G sẽ dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng
của hệ sinh thái thiết bị LTE và làm giảm giá thành thiết bị. Điều này có thể gây
áp lực lên các nước đang phát triển khác trong khu vực Châu Á Thái Bình
Dương, để di chuyển đến 4G sớm hơn so với kế hoạch.
Nhận xét
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ LTE trên thế giới, cùng với
tính hiệu quả của nó so với các công nghệ 2G, 3G và khả năng nâng cấp lên
công nghệ 5G, LTE đang là xu hướng phát triển di động trong tương lai. Nhiều
111
nhà mạng trên thế giới đã cân nhắc ngừng cung cấp dịch vụ đối với các mạng di
động cũ, thế hệ thứ 2 và thứ 3 để chuyển phổ tần này cho triển khai 4G và 5G
trong tương lai. Bằng cách này, nhà mạng có thể giảm chi phí và độ phức tạp khi
quản lý hệ thống mạng với ít công nghệ hơn cùng song song tồn tại. Ví dụ
mạng chỉ toàn LTE – 4G hoặc mạng 4G kết hợp với 2G.
Tại một số nước phát triển ở châu Âu, do các ứng dụng M2M/IoT của dịch
vụ 2G đã được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội và do việc chuẩn bị tốt
cho phần thoại của máy di động chuyển sang VoLTE, nên nhiều nhà mạng lớn
đã lựa chọn phương án tắt 3G trước 2G. Đồng thời chuyển mạng lưới sang 4G
hoàn toàn.
Khu vực châu Á dường như tiên phong hơn trong việc ngừng cung cấp dịch
vụ 2G. Điển hình là các nước Nhật Bản, Đài Loan, Úc, Singapore, Hàn Quốc.
Trung Quốc, Ấn Độ và Hồng Kong thì nghiêng về phía tắt 3G trước 2G và
chuyển sang mạng 4G kết hợp với 2G.
Thời điểm ngừng cung cấp dịch vụ cũ, 2G/3G ở từng nước khác nhau và ở
mỗi doanh nghiệp ở cùng một nước cũng khác nhau. Doanh nghiệp được chủ
động quyết định phương án ngừng cung cấp dịch vụ 2G/3G tùy theo chiến lược
kinh doanh của mình và nếu bảo đảm quyền lợi hợp pháp của khách hàng thì
được cơ quan quản lý chấp thuận.
Để ngừng cung cấp dịch vụ đang tồn tại, các nhà mạng phải có một kế
hoạch chuẩn bị cụ thể và phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý để bảo vệ
quyền lợi cho những khách hàng đang sử dụng dịch vụ. Có 3 điều kiện cơ bản
mà cơ quan quản lý cần xem xét khi cho phép doanh nghiệp ngừng cung cấp
dịch vụ:
Một là, thời gian thông báo cho thuê bao bao lâu là phù hợp kể từ khi thông
báo đến khi chấm dứt dịch vụ. Thông thường kế hoạch ngừng cung cấp dịch vụ
phải được thông báo trước cho khách hàng ít nhất 01 năm.
112
Hai là, tắt dịch vụ khi số thuê bao đang sử dụng dịch vụ của nhà mạng
chiếm bao nhiêu % tổng số thuê bao của nhà mạng đó. Nhiều nhà mạng ngừng
cung cấp dịch vụ khi ở thời điểm đó chỉ còn khoảng 1% thuê bao chưa được
chuyển đổi sang công nghệ khác.
Ba là, xem xét việc đưa ra quy định về mức bồi thường tiểu thiểu áp dụng
cho thuê bao.
Công tác chuẩn bị cho việc ngừng cung cấp một dịch vụ đòi hỏi phải có
chiến lược lâu dài. Khi đã được phê duyệt, nhà mạng phải thông tin tới khách
hàng bị ảnh hưởng qua nhiều kênh ví dụ như gửi thư giấy, nhắn tin, thiết lập
cổng thông tin điện tử hỗ trợ khách hàng, …Ngoài ra, một số nhà mạng có
những chính sách ưu đãi để khuyến khích người sử dụng thay đổi dịch vụ, ví dụ
như tặng máy điện thoại mới, hỗ trợ các gói cước dịch vụ ưu đãi, …
Đề xuất
Theo số liệu thống kê từ sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông
của Bộ Thông tin và Truyền thông, trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2016,
số lượng thuê bao 3G đã tăng gần gấp đôi (từ 19.685.175 thuê bao năm 2013 lên
36.188.417 thuê bao năm 2016), trong khi đó số lượng thuê bao 2G giảm 10,8%
(từ 104.050.381 thuê bao năm 2013 xuống còn 92.807.762).
Tuy nhiên, hiện nay, tỷ lệ thuê bao di động sử dụng dịch vụ 2G vẫn chiếm
71,9% tổng lượng thuê bao (92.807.762 thuê bao 2G trong tổng số 128.996.179
thuê bao). Do đó, việc xem xét tắt dịch vụ 2G đối với các nhà mạng của Việt
Nam tại thời điểm hiện tại là chưa phù hợp.
Bên cạnh đó, việc triển khai đồng thời các công nghệ khác nhau 2G, 3G,
4G … sẽ làm gia tăng chi phí và độ phức tạp của hệ thống mạng. Do đó, nhóm
nghiên cứu khuyến nghị các doanh nghiệp thông tin di động xây dựng kế hoạch
dài hơi về tắt dịch vụ 2G, 3G của doanh nghiệp mình. Khi đến thời điểm thích
hợp, doanh nghiệp di động chủ động đề xuất cơ quan quản lý để được xem xét
ngừng cung cấp dịch vụ. Trên cơ sở số lượng thuê bao đang sử dụng dịch vụ
113
cũng như xu hướng phát triển thực tế của thông tin di động, cơ quan quản lý sẽ
có ý kiến về việc ngừng cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp.
114
CHƯƠNG 4. NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH, VĂN BẢN PHÁP QUY CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM
ĐẢM BẢO CHO VIỆC THỰC HIỆN HIỆU QUẢ LỘ TRÌNH PHÂN BỔ LẠI BĂNG TẦN 1800 MHz TẠI VIỆT NAM
4.1. Nghiên cứu chính sách quản lý, quy hoạch tần số đối với hệ thống thông tin di động IMT (4G) trên băng tần 1800 MHz tại Việt Nam hiện nay
4.1.1. Xu hướng triển khai công nghệ di động băng rộng trên các băng tần
1800 MHz
Trên thế giới những năm gần đây đang có xu hướng triển khai công nghệ
LTE trên băng tần 1800 MHz. Tính đến tháng 1/2017, theo số liệu thống kê của
Hiệp hội các nhà cung cấp dịch vụ di động toàn cầu (GSA) thì băng tần 1800
MHz là băng tần được sử dụng phổ biến nhất cho công nghệ 4G LTE (chiếm
47.1%); được triển khai tại hơn 150 quốc gia với 350 mạng được thương mại
hóa với hơn 4305 thiết bị đầu cuối LTE hỗ trợ băng tần 1800 MHz (chiếm
61.1% trên tổng số thiết bị đầu cuối hỗ trợ LTE).
Với ưu điểm của LTE và tiến tới là LTE-A (kết hợp nhiều sóng mang), xu
hướng triển khai LTE/LTE-A trên thế giới đang chiếm ưu thế. Giá thành thiết bị
mạng LTE/LTE-A đang có xu hướng giảm và dự báo sẽ giảm mạnh trong thời
gian sắp tới.
Tại Cộng đồng chung châu Âu (EU), giấy phép ban đầu về các băng tần
900 MHz và 1800 MHz dành riêng cho công nghệ GSM nhưng gần đây đã thay
đổi và cho phép công nghệ UMTS và LTE có thể được sử dụng trong những dải
tần này.
4.1.2. Nhu cầu sử dụng thông tin di động băng rộng trong nước
Tính tới tháng 1/2017, Việt Nam có khoảng 36,1 triệu thuê bao 3G có phát
sinh lưu lượng. Nhu cầu sử dụng dữ liệu di động của người dùng ngày càng cao,
115
dự báo trong giai đoạn sắp tới sẽ có sự phát triển lớn về cả số lượng thuê bao 3G
và nhu cầu sử dụng dữ liệu di động băng rộng. Do vậy, cần thiết phải xem xét
cung cấp thêm băng thông để triển khai các dịch vụ di động băng rộng. Với đặc
tính của thị trường Việt Nam, dịch vụ vô tuyến băng rộng nên được mở rộng
trên các băng tần vùng phủ để phục vụ người dùng tốt hơn, đồng thời cũng đảm
bảo hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp thông tin di động của Việt Nam đã thể hiện nhu cầu rõ
ràng về việc mở rộng khả năng cung cấp các dịch vụ thông tin di động băng
rộng. Năm 2014, các doanh nghiệp viễn thông bao gồm Tập đoàn Bưu chính,
Viễn thông Việt Nam VNPT, Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel, Tổng công
ty viễn thông Mobifone đã gửi văn bản đề xuất tới Bộ Thông tin và Truyền
thông đề nghị triển khai thử nghiệm công nghệ 4G (LTE, LTE-Advanced) trên
băng tần 1800 MHz.
Nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đánh giá toàn diện mức độ đáp
ứng và khả năng mở rộng của hạ tầng viễn thông thụ động và tích cực, tính linh
hoạt và đa dạng trong cung cấp dịch vụ, xây dựng năng lực, tích lũy kinh
nghiệm để triển khai và khai thác mạng LTE/LTE-A , ngày 27/8/2015, Bộ
Thông tin và Truyền thông đã hướng dẫn cấp phép thử nghiệm mạng và dịch vụ
LTE/LTE-A.
Trên cơ sở cân đối tài nguyên phổ tần được cấp phép, doanh nghiệp viễn
thông chủ động tham vấn Cục Tần số vô tuyến điện về đoạn băng tần 1800 MHz
và các băng tần khả dụng khác để triển khai thử nghiệm LTE/LTE-A.
4.1.3. Chính sách quản lý, quy hoạch tần số thúc đẩy phát triển công nghệ
IMT trên băng tần 1800 MHz
Nhằm đáp ứng nhu cầu chuyển đổi công nghệ của doanh nghiệp, trên cơ sở
nghiên cứu xu hướng của thế giới về triển khai công nghệ thông tin di động
băng rộng IMT trên các băng tần 850/900/1800 MHz, kết quả thử nghiệm của
các doanh nghiệp, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng chính sách để
triển khai công nghệ thông tin di động băng rộng IMT tại Việt Nam.116
Ngày 21/11/2013, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 71/2013/QĐ-
TTg ngày 21/11/2013 về ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia
quy định tại chú thích VTN8: Các băng tần 824-845 MHz, 869-915 MHz, 925-
960 MHz, 1710-1785 MHz và 1805-1880 MHz được dành cho các hệ thống
thông tin di động IMT. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan quản lý sẽ điều
chỉnh các đoạn băng tần cụ thể trong các quy hoạch băng tần có liên quan.
Ngày 10/03/2015, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ký ban hành
Thông tư số 04/2015/TT-BTTTT quy định triển khai hệ thống thông tin di động
IMT (công nghệ thông tin vô tuyến băng rộng) trên các băng tần 824-835MHz,
869-915MHz, 925-960MHz, 1710-1785MHz và 1805-1880MHz. Thông tư có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/04/2015.
Thông tư 04/2015/TT-BTTTT áp dụng đối với doanh nghiệp viễn thông đã
được cấp giấy phép sử dụng băng tần trên các băng tần 824-835 MHz, 869-915
MHz, 925-960 MHz, 1710-1785 MHz và 1805-1880 MHz. Đối với băng tần
1710-1785 MHz, 1805-1880 MHz, quy định trên cơ sở giấy phép sử dụng tần số
đã được cấp, doanh nghiệp viễn thông được phép triển khai thêm hệ thống di
động tiêu chuẩn IMT-A (LTE, LTE-A và các phiên bản tiếp theo). Doanh
nghiệp viễn thông triển khai thử nghiệm hoặc chính thức hệ thống thông tin di
động IMT tại các băng tần nêu trên, phải có Giấy phép thử nghiệm mạng viễn
thông có sử dụng băng tần số vô tuyến điện, Giấy phép thiết lập mạng viễn
thông công cộng, Giấy phép cung cấp dịch vụ viễn thông, Giấy phép sử dụng
băng tần tương ứng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đây là một bước đi kịp thời và đúng đắn của cơ quan quản lý nhà nước,
nhằm quản lý tài nguyên tần số hiệu quả, tạo hành lang pháp lý để đảm bảo cung
cấp dịch vụ thông tin vô tuyến băng rộng với giá cả phù hợp cho người dùng
phổ thông, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường thông tin di
động Việt Nam.
117
Tháng 10/2016, Bộ Thông tin và Truyền thông đã cấp giấy phép thiết lập
mạng viễn thông công cộng và giấy phép cung cấp dịch vụ viễn thông 4G cho
Viettel và VNPT trên băng tần 1800 MHz.
4.1.4. Nhận xét
Việc chuyển đổi từ công nghệ GSM sang công nghệ LTE là xu hướng
trên toàn thế giới. Vận dụng kinh nghiệm triển khai công nghệ GSM tại Việt
Nam thì sự thành công của công nghệ mới phụ thuộc rất lớn vào giá thành thiết
bị, mức độ phổ biến của công nghệ và nhu cầu người sử dụng. Do vậy thời điểm
cấp phép 4G được cân nhắc sao cho phù hợp với lợi ích tổng thể về đầu tư của
xã hội bao gồm chi phí đầu tư của doanh nghiệp, sự phổ biến và giá thành của
thiết bị đầu cuối.
Tuy việc triển khai áp dụng công nghệ LTE tại Việt Nam chậm hơn các
quốc gia khác trong khu vực. Và thực tế đã cho thấy nhờ triển khai vào thời
điểm giá thành thiết bị giảm, chủng loại thiết bị đầu cuối phong phú hơn nên
chúng ta có được nhiều thuận lợi. Trong một thời gian ngắn các nhà mạng đã
triển khai cung cấp dịch vụ 4G trên toàn quốc.
Sau khi được Bộ Thông tin và Truyền thông chính thức cấp phép 4G vào
giữa tháng 10/2016 thì chưa đầy 1 tháng sau đó, các nhà mạng đã chính thức
khai trương dịch vụ 4G và tính đến giữa tháng 4/2017, đã có gần 40.000 trạm
4G được lắp đặt xong để phủ sóng 4G trên diện rộng tại 63 tỉnh, tỷ lệ trạm 4G
đã gần bằng 50% tổng số trạm 3G. Từ nay đến cuối năm 2017, dự kiến sẽ có
thêm 20.000 trạm 4G được lắp đặt để nâng cao tốc độ cho mạng 4G và phủ sóng
4G đạt tới 90% dân số.
Như vậy có thể nói, kinh nghiệm triển khai công nghệ GSM đã giúp
chúng ta triển khai công nghệ 4G phát triển rất nhanh, rút ngắn được thời gian
lựa chọn công nghệ với thời điểm phổ biến của công nghệ.
Từ thực tiễn phát triển công nghệ thông tin di động có thể thấy, việc có
được băng tần cho thông tin di động hài hòa trên phạm vi toàn cầu là vô cùng
118
khó khăn. Chính vì vậy, các công nghệ thông tin di động thế hệ mới luôn được
nghiên cứu phát triển, cho phép triển khai được trên chính những phổ tần hiện
có. Tại Việt Nam, để nâng cao chất lượng dịch vụ viễn thông, doanh nghiệp đã
có những bước đầu tư đáng kể để phát triển dịch vụ LTE trên băng tần 1800
MHz. Vậy sau năm 2023, khi giấy phép băng tần cấp cho các doanh nghiệp này
trên băng tần 1800 MHz hết hạn sử dụng, thì cần làm gì để bảo vệ và khuyến
khích doanh nghiệp tiếp tục đầu tư, phát triển dịch vụ và bảo đảm quyền lợi của
khách hàng.
4.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 1800 MHz
4.2.1. Phương án quy hoạch lại băng tần 1800 MHz
Theo chuyên đề trước, ba phương án quy hoớc, bh lại băng tần ề xuất chính
sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dTrong phương án quy hoạch thứ nhất,
băng tần 1800 MHz được chia thành đoạn băng tần phát (1710-1785 MHz) và
băng tần thu (1805-1880 MHz) của trạm gốc. Phần băng tần phát và băng tần
thu được chia thành bốn cặp khối tần số ghép song công theo tần số (FDD)
A/A’, B/B’, C/C’, D/D’. Các khối tần số A/A’, B/B’, C/C’ có độ rộng như nhau
(20 MHz), khối tần số D/D’ có độ rộng 15 MHz. Loại hình công nghệ thông tin
di động triển khai theo quy hoạch này bao gồm công nghệ GSM, WCDMA và
các phiên bản tiếp theo, LTE và các phiên bản tiếp theo.
Trong phương án quy hoạch thứ nhất,băng tphương án quy hoạch thứ nhất,
băng tần 1800 MHz được chia thành đo. Tuy nhiên, các lo hoạch thứ nhất, băng
tần 1800 MHz được chia thành đoạn băng tần phát (1710-1785 MHz) và bnhư
119
phương án 1, bư phương án 1, lo hoạch thứ nhất, băng tần 1800 MHz đưTrong
phương án quy hoạch thứ nhất, băng tần 1800 MHz được chia thành đoạn băng
tần phát (1710-1785 MHz) và băng tần thu (1805-1880 MHz) hương án này,
không cho phép triển khai công nghệ thông tin di động băng hẹp 2G, tiêu chuẩn
GSM sử dụng băng tần 1800 MHz.
Như vậy, phương án quy hoạch lại băng tần 1800 MHz không đòi hỏi phải
chuyển đổi các hệ thống vô tuyến điện khác đang hoạt động ở băng tần 1800
MHz.
Tại mục 1 đã đề cập đến kinh nghiệm quốc tế và chính sách của Việt Nam
cho phép doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ từ GSM sang LTE trên băng tần
1800 MHz đã được cấp phép, góp phần thúc đẩy chuyển đổi công nghệ và sử
dụng hiệu quả phổ tần.
Tại mục này đặt ra bài toán đến năm 2023, khi giấy phép cấp cho doanh
nghiệp trên băng tần 1800 MHz hết hạn sử dụng, thì chính sách, phương thức
quản lý nào là phù hợp với Việt Nam để sử dụng hiệu quả phổ tần.
4.2.2. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất chính sách quản lý chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần 1800 MHz
4.2.2.1. Thực trạng vấn đề
Luật Tần số vô tuyến điện số 42/2009/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2010, quy định thời hạn giấy phép sử dụng băng tần tối đa là 15 năm. Luật
cho phép gia hạn giấy phép với tổng thời hạn của cả lần cấp đầu và các lần gia
hạn không quá thời hạn tối đa (15 năm) của giấy phép; trường hợp cấp lần đầu
15 năm thì được gia hạn tối đa 01 năm. Sau khi giấy phép băng tần hết hạn, nhà
nước có thể thu hồi băng tần để cấp phép lại theo thủ tục cấp mới giấy phép.
Đối với băng tần 1800 MHz, thời điểm đến năm 2023 giấy phép sử dụng
đối với băng tần này sẽ hết hạn. Những nhà mạng đang cung cấp dịch vụ di
động sử dụng băng tần 1800 MHz (VNPT, Mobifone, Viettel, Gtel) đứng trước
120
khả năng bị thu hồi băng tần. Để tiếp tục sử dụng các băng tần này, doanh
nghiệp phải thực hiện thủ tục cấp mới theo quy định hiện hành của Luật tần số
VTĐ.
Đối với các băng tần có giá trị như băng tần di động, theo quy định của
Luật Tần số vô tuyến điện thì việc cấp mới giấy phép có thể phải thông qua hình
thức đấu giá hoặc thi tuyển. Khi đó, doanh nghiệp đối diện với khả năng không
được tiếp tục sử dụng băng tần. Đây là một rủi ro lớn đối với cả doanh nghiệp và
người sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp, nhất là trong trường hợp doanh nghiệp
đang hoạt động kinh doanh ổn định, hạ tầng đã đầu tư lớn và đang sử dụng hiệu
quả băng tần đó.
Nhiều nước trên thế giới cũng đã, đang đối mặt với việc cấp lại như thế
nào cho các giấy phép di động đã, đang, sắp hết hạn để mang lại lợi ích lớn nhất
cho toàn thể cộng đồng. Việc đấu giá, thi tuyển lại hoặc xem xét gia hạn sử dụng
trong một thời hạn đủ dài 10 - 20 năm đều có những ưu nhược điểm riêng và
phù hợp áp dụng với từng trường hợp, điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Các nước
thường giao cho Bộ quản lý chuyên ngành quyết định hình thức cấp phép lại phù
hợp, khi giấy phép mạng thông tin di động hết hạn sử dụng.
Đối với giấy phép sử dụng băng tần (dành cho cung cấp dịch vụ thông tin
di động) để triển khai cung cấp dịch vụ thông tin di động, ngoài việc phải nhận
được quyền sử dụng tần số vô tuyến điện từ nhà nước, doanh nghiệp phải thực
hiện đầu tư nguồn nhân lực và tài lực rất lớn để phát triển cơ sở hạ tầng trang
thiết bị, công trình, nhà trạm, cột kèo và đầu tư phát triển mạng lưới dịch vụ bán
hàng trên toàn quốc (theo pháp luật Viễn thông, doanh nghiệp viễn thông phải
cam kết đầu tư ít nhất 2.500 tỷ đồng Việt Nam trong 3 năm đầu tiên và ít nhất
7.500 tỷ đồng Việt Nam trong 15 năm để phát triển mạng viễn thông. Thực tế
triển khai, mức đầu tư còn lớn hơn nhiều so với quy định này). Mặt khác, do
công nghệ phát triển nhanh, hệ thống thiết bị tiên tiến, không ngừng đổi mới và
yêu cầu chất lượng thông tin ngày càng cao từ khách hàng, doanh nghiệp viễn
121
thông phải không ngừng đầu tư thì mới có thể phát triển, nâng cấp mạng lưới,
cung cấp dịch vụ và thu hút khách hàng.
Khi giấy phép sử dụng tần số hết hạn, theo quy định của Luật Tần số vô
tuyến điện, doanh nghiệp không được tiếp tục sử dụng băng tần, điều này đồng
nghĩa với doanh nghiệp sẽ không có phương tiện truyền dẫn để cung cấp dịch vụ
thông tin di động. Muốn được sử dụng tiếp tần số, doanh nghiệp phải thực hiện
cấp phép lại, có thể thông qua thông qua đấu giá hay thi tuyển. Đối với cả hai
trường hợp này, doanh nghiệp đều gặp rủi ro khi không trúng đấu giá, hoặc
không trúng tuyển trong thi tuyển.
Khi doanh nghiệp không chắc chắn được tiếp tục sử dụng băng tần khi
giấy phép hết hạn có thể làm giảm đầu tư vào việc mở rộng mạng lưới, nâng cao
chất lượng dịch vụ, chậm triển khai các công nghệ, dịch vụ mới, cũng như giảm
sự cạnh tranh của nhà mạng để thu hút khách hàng. Điều này dẫn đến các thuê
bao không được sử dụng dịch vụ tốt hơn với chi phí rẻ hơn đồng thời không
được sử dụng dịch vụ mới. Những tác động trên gây tác động xấu đối với các
nhà mạng, khách hàng sử dụng dịch vụ, tăng trưởng thị trường viễn thông. Bên
cạnh đó, việc giảm đầu tư của doanh nghiệp ảnh hưởng đến sự phát triển của thị
trường viễn thông, bỏ lỡ những cơ hội tăng trưởng thị trường.
Do đó, để đảm bảo tổng thể các lợi ích về kinh tế xã hội, lợi ích của người
sử dụng và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thông tin di động, đánh giá các
mục tiêu chính sách đã thực hiện đối với thị trường viễn thông cần nghiên cứu,
xem xét lại chính sách đối với vấn đề cấp giấy phép băng tần khi giấy phép hết
hạn 15 năm.
4.2.2.2. Các phương pháp tiếp cận
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, có 03 phương pháp tiếp cận
cơ bản đã được các cơ quan quản lý áp dụng để xác định quyền sử dụng phổ tần
khi các giấy phép đến thời điểm hết hạn sử dụng. Đó là:
122
- Tiếp tục cấp mới giấy phép trừ trường hợp đặc biệt (vi phạm nghiêm
trọng các điều kiện của giấy phép hoặc cơ quan quản lý có thay đổi về chính
sách, quy hoạch sử dụng tần số VTĐ).
- Đấu giá hoặc thi tuyển quyền sử dụng phổ tần cho những doanh nghiệp
đang khai thác và những doanh nghiệp tiềm năng có thể tham gia đấu giá để có
được quyền sử dụng băng tần.
- Phân bổ hành chính trong đó cơ quan quản lý quyết định chuyển quyền
sử dụng phổ tần số từ nhà mạng này cho nhà mạng khác.
Theo báo cáo kết quả nghiên cứu của Analysys Mason đối với 43 quốc
gia từ năm 2006 đến 2013 cũng cho thấy rằng không có một "câu trả lời đúng"
nào cho cơ quan quản lý chuyên ngành và phương pháp tiếp cận cần được xem
xét cẩn thận theo tình hình thị trường của từng quốc gia và các mục tiêu chính
sách cụ thể. Cơ quan quản lý quốc gia nên chọn cách tiếp cận hết hạn giấy phép
dựa trên tình hình thị trường và mục tiêu chính sách.
So sánh các phương án cấp phép đối với giấy phép hết hạn xét trên một số
tiêu chí
Các phương án cấp phép khi giấy phép sử dụng đến thời
điểm hết hạn
Cấp mới
giấy phép
Đấu giá Thi tuyển Phân bổ
hành chính
1 Đầu tư của
doanh
nghiệp
Giảm rủi ro
cho doanh
nghiệp do đó
khuyến
khích đầu tư,
phát triển
mạng lưới.
Hạn chế đầu
tư của doanh
nghiệp trong
thời gian
những năm
gần hết hạn
giấy phép.
Hạn chế đầu
tư của doanh
nghiệp trong
thời gian
những năm
gần hết hạn
giấy phép.
Tác động
tiêu cực đến
tâm lý đầu
tư của doanh
nghiệp.
Thường
doanh
123
Ảnh hưởng
tiêu cực đến
sự phát triển
của thị
trường.
Ảnh hưởng
tiêu cực đến
sự phát triển
của thị
trường.
nghiệp sẽ
hạn chế đầu
tư.
2 Cung cấp
dịch vụ liên
tục cho
người sử
dụng
Đảm bảo
cung cấp
dịch vụ liên
tục
Có khả năng
gián đoạn do
không trúng
đấu giá
Có khả năng
gián đoạn do
không trúng
tuyển
Khả năng
cao gián
đoạn về dịch
vụ
3 Tiền trúng
đấu giá
không Có không không
4 Tính phức
tạp trong tổ
chức cấp
phép
không Có Có không
5 Mức độ điều
kiện kỹ
thuật, cam
kết dịch vụ
Tối thiểu Tối thiểu Mức cao -
6 Cạnh tranh Đảm bảo thị
trường ổn
định, bền
vững.
Có thể có
doanh
nghiệp mới
tham gia thị
trường. Tuy
nhiên, khả
năng thành
Có thể có
doanh
nghiệp mới
tham gia thị
trường. Tuy
nhiên, khả
năng thành
Hạn chế
cạnh tranh.
Áp dụng đối
với các thị
trường mà
sự phân bổ
phổ tần số
124
công của
doanh
nghiệp chưa
chắc chắn,
đặc biệt nếu
chỉ có lượng
phổ tần số
VTĐ quá
nhỏ so với
các doanh
nghiệp hiện
đang cung
cấp dịch vụ.
công của
doanh
nghiệp chưa
chắc chắn,
đặc biệt nếu
chỉ có lượng
phổ tần số
VTĐ quá
nhỏ so với
các doanh
nghiệp hiện
đang cung
cấp dịch vụ.
không đồng
đều, có sự
chênh lệch
quá lớn giữa
các nhà khai
thác (Ví dụ
Pháp thực
hiện phân bổ
lại băng tần
900 MHz để
có băng tần
cho nhà khai
thác mới)
4.2.2.3. Xu hướng tiếp tục gia hạn giấy phép khi giấy phép băng tần hết hạn
Tại nhiều quốc gia, giấy phép di động GSM (2G) được cấp từ những năm
1990 có thời hạn từ 15 đến 20 năm đến thời điểm hiện tại đã, đang hoặc sắp hết
hạn. Xu hướng nhiều nước trên thế giới đã có những chính sách tiếp tục gia hạn,
kéo dài thời hạn giấy phép đối với các băng tần di động này.
a) Anh
Theo quy định của pháp luật Anh thì Cơ quan quản lý chuyên ngành về
truyền thông (OFCOM) có chức năng xây dựng và thực hiện các chính sách
quản lý về phổ tần số, trong đó có việc quy định về cấp giấy phép sử dụng tần số
vô tuyến điện và các vấn đề có liên quan.
Đối với băng tần di dộng, những năm gần đây, Anh đã thay đổi chính sách
cấp phép. Theo đó, đối với giấy phép cho thông tin di động được cấp với thời
hạn không xác định, trong đó, lần đầu có thời hạn là 15 hoặc 20 năm; sau khi hết
thời gian cấp lần đầu này, các nhà khai thác sẽ được tiếp tục gia hạn giấy phép
125
không giới hạn về mặt thời gian. Giấy phép sử dụng tần số sẽ bị thu hồi trong
trường hợp các nhà khai thác vi phạm nghiêm trọng các điều khoản giấy phép,
hoặc cơ quan quản lý có chính sách quản lý mới đối với băng tần này và cơ quan
quản lý sẽ thông báo cho nhà khai thác 05 năm trước khi giấy phép hết hạn.
Việc gia hạn giấy phép cũng là thời điểm thích hợp để cơ quan quản lý xem
xét, đánh giá lại hiệu quả, cam kết, nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải thực hiện đối
với băng tần được cấp trước đó; đồng thời quy định các quyền và nghĩa vụ mới
mà doanh nghiệp được gia hạn giấy phép phải tuân thủ, phục vụ mục tiêu quản
lý, phát triển thị trường.
Đối với giấy phép sử dụng băng tần di động được gia hạn, cơ quan quản
lý sẽ thu phí sử dụng cố định hàng năm. Mức phí thu này được xác định dựa trên
việc xác định một lần giá trị của băng tần với thời hạn cấp phép 20 năm.
Vào thời điểm 2010, đối với mức phí sử dụng tần số vô tuyến điện băng
tần 900 MHz và 1800 MHz, OFCOM đã có yêu cầu sửa đổi các khoản phí phải
trả cho giấy phép sử dụng phổ vô tuyến điện trong băng tần này để các khoản
phí này phản ánh thị trường đầy đủ, trong đó có đánh giá trúng đấu giá trong các
cuộc bán đấu giá băng tần 800 MHz và 2.6 GHz (cuộc đấu giá 4G). OFCOM đã
cung cấp các bằng chứng liên quan để ước tính giá trị thị trường của giấy phép
trong 02 dải tần này, bao gồm tổng giá trúng đấu giá trong cuộc đấu giá 4G, giá
trúng đấu giá phổ tần ở nước ngoài và đặc điểm kỹ thuật và thương mại của
băng tần này.
Như vậy, ở Anh tuy không thực hiện đấu giá lại băng tần di động, nhưng
Cơ quan quản lý OFCOM vẫn thu về đầy đủ các giá trị kinh tế mà phổ tần có thể
mang lại, đồng thời có thể đánh giá lại doanh nghiệp hiện đang chiếm giữ phổ
tần để quyết định việc gia hạn giấy phép và áp đặt các điều kiện mới đối với
giấy phép được gia hạn.
b) New Zealand
126
Theo quy định của pháp luật New Zealand thì cơ quan quản lý phổ tần
(RSM) chịu trách nhiệm quản lý hiệu quả phổ tần, bao gồm phân bổ quyền sử
dụng phổ tần số và thực thi việc tuân thủ để đảm bảo quyền lợi của người sử
dụng hợp pháp. RSM có trách nhiệm tư vấn chính sách cho chính phủ về phân
bố phổ tần số vô tuyến điện quốc gia, quản lý việc phân bổ phổ tần số.
Theo quan điểm của cơ quan quản lý New Zealand, để thúc đẩy việc sử
dụng phổ tần số vô tuyến điện tốt nhất, điều quan trọng là phải xây dựng và thực
hiện chính sách thích hợp để tái phân bố quyền sử dụng phổ tần số. Từ khía cạnh
kinh tế, việc phân bố lại quyền sử dụng phổ tần thương mại cần tính đến các yếu
tố sau:
- Tối đa hóa các ưu đãi để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư: bằng cách
cho phép doanh nghiệp được cấp phép tần số với thời gian đủ dài, nhằm bảo
đảm sự chắc chắn cho các nhà khai thác đầu tư vào phát triển mạng lưới (thời
hạn giấy phép sử dụng tần số đối với băng tần di động là 20 năm).
- Giảm thiểu có rủi ro để đầu tư bị mắc kẹt: có thể xảy ra nếu các nhà khai
thác hiện đang sở hữu quyền sử dụng tần số vô tuyến điện bị mất quyền phát
sóng, cung cấp dịch vụ và phải thu hồi bất kỳ khoản đầu tư nào.
- Giảm thiểu sự gián đoạn cung cấp dịch vụ: có thể xảy ra nếu nếu các
nhà khai thác hiện đang sở hữu quyền sử dụng tần số vô tuyến điện bị mất quyền
phát sóng và do đó phải dừng cung cấp các dịch vụ cho khách hàng.
Để giái quyết vấn đề này, Chính phủ đã công bố tài liệu thảo luận công
khai vào tháng 6 năm 2000 với nội dung về hết hạn các quyền quản lý và giấy
phép sử dụng phổ tần. Tài liệu đã lấy ý kiến các bên có liên quan về các lựa
chọn chính sách do Chính phủ đưa ra khi quyền sử dụng phổ tần số VTĐ của
doanh nghiệp hết hạn.
Quan điểm chung của các bên có liên quan khi góp ý tài liệu thảo luận là
các quyền phải được xem xét phân bổ lại cho các nhà khai thác hiện tại ít nhất
05 năm trước ngày hết hạn, kèm theo yêu cầu về một mức giá xác định mà
127
doanh nghiệp phải trả. Về cơ bản, các nhà đầu tư muốn Chính phủ quyết định
chính sách tái phân bổ trước khi quyền lợi của họ hết hiệu lực để họ có thể lên
kế hoạch và đầu tư có hiệu quả và bảo vệ đầu tư dài hạn vào thiết bị và tài sản,
bao gồm cả thương hiệu.
Chính phủ đã công bố quyết định về chính sách phân bổ lại quyền sử
dụng băng tần, với nội dung chính là:
- Quyền sử dụng tần số vô tuyến điện được phân bổ lại cho các nhà khai
thác đang sở hữu quyền này, thực hiện 05 năm trước khi giấy phép hết hạn, trên
cơ sở tiếp tục cho phép sử dụng thêm 20 năm tùy thuộc vào việc xem xét từng
trường hợp cụ thể, để đảm bảo phù hợp với mục tiêu chung là tối đa hóa giá trị
phổ tần cho toàn xã hội.
- Quyền sử dụng phổ tần sẽ được gia hạn với một mức giá được xác định
bằng các công thức định giá ước tính giá trị thị trường.
- Nếu các nhà mạng đang sở hữu các quyền đối với băng tần và giấy phép
hiện tại không muốn trả giá này thì các quyền tương ứng sẽ được phân bổ lại
bằng cách đấu giá.
Thực tế, băng tần 1800 MHz và 2100 MHz, giấy phép sử dụng băng tần
này cấp cho các nhà khai thác sẽ hết hiệu lực vào năm 2021. Theo quy hoạch,
các băng tần này được xác định là IMT, hiện đang được 03 nhà cung cấp dịch vụ
viễn thông di động chính sử dụng để cung cấp các dịch vụ 3G và 4G.
Năm 2016, tại thời điểm 05 năm trước khi giấy phép hết hiệu lực, RSM
đã xây dựng báo cáo các phương án cho việc gia hạn giấy phép tại các băng tần
1800 MHz và 2100 MHz nhằm tạo cơ sở cho các cuộc thảo luận với các chủ thể
được cấp phép hiện tại (các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông) về tương lai của
các quyền này.
c) Canada
128
Việc quản lý sóng vô tuyến điện của Canada được giao cho Bộ Khoa học
và phát triển kinh tế Canada (ISED). Quan điểm của ISED về mục tiêu cho việc
gia hạn giấy phép là:
- Thúc đẩy đổi mới và đầu tư.
- Hỗ trợ cạnh tranh bền vững để người tiêu dùng và doanh nghiệp được
hưởng lợi.
- Tạo điều kiện cho việc triển khai và cung cấp kịp thời các dịch vụ trên
cả nước, bao gồm cả các vùng nông thôn.
Băng tần AWS (băng tần 1800 MHz và 2100 MHz) được ghép nối với
nhau, hỗ trợ các hệ thống di động 3G và 4G và dự kiến sẽ hỗ trợ các công nghệ
trong tương lai (5G). Các giấy phép băng tần AWS được cấp có thời hạn 10
năm. Các quy tắc được quy định trong Khung đấu giá ở Canada được áp dụng
cho giấy phép băng tần sẽ được trao thông qua đấu giá AWS, bao gồm: "Tư vấn
cộng đồng liên quan đến việc gia hạn giấy phép sẽ bắt đầu chậm nhất là hai năm
trước khi kết thúc thời hạn giấy phép nếu cơ quan quản lý dự báo khả năng sẽ
không gia hạn giấy phép hoặc xem xét phí gia hạn".
Các quy tắc trên được áp dụng chung cho băng tần di động. Tối thiểu 02
năm trước khi hết hạn giấy phép, người được cấp phép có thể đăng ký gia hạn
giấy phép có thời hạn cấp phép thêm tối đa là 10 năm. Việc gia hạn giấy phép
AWS sẽ được thực hiện theo một quy trình tham vấn cộng đồng được bắt đầu
vào năm thứ 08 của giấy phép. Việc tham vấn cộng đồng sẽ xem xét mức độ bao
phủ địa lý trong khu vực được cấp phép, trong số các yếu tố khác được nêu
trong khung chính sách AWS. Khi đạt được các điều kiện về giấy phép và người
được cấp phép có thể chứng minh được phạm vi địa lý tối thiếu phù hợp với các
mục tiêu đưa ra trong Phụ lục 02 của khung chính sách AWS, giấy phép AWS
sẽ có một kỳ vọng cao được cấp giấy phép mới thông qua quá trình gia hạn trừ
khi vi phạm điều kiện giấy phép, hoặc cơ quan quản lý có kế hoạch quy hoạch
phổ tần sang dịch vụ mới hoặc phát sinh chính sách quan trọng.
129
Theo quy định pháp luật, Bộ trưởng có quyền sửa và sửa đổi các điều
khoản và điều kiện của giấy phép băng tần trong thời hạn của giấy phép. Phí
giấy phép phản ánh giá trị thị trường sẽ áp dụng cho giấy phép mới được cấp
thông qua quá trình gia hạn. Theo đó, quá trình gia hạn sẽ xác định xem giấy
phép mới sẽ được cấp hay không, điều khoản và điều kiện áp dụng cho giấy
phép mới và lệ phí giấy phép.
d) Mỹ
Tại Mỹ có 2 cơ quan quản lý tần số là FCC và NTIA. Trong đó FCC trực
thuộc quốc hội, có trách nhiệm quản lý việc sử dụng tần số dùng riêng và dùng
cho mục đích thương mại (bao gồm cả phát thanh, truyền hình); NTIA trực
thuộc Chính phủ, quản lý toàn bộ việc sử dụng tần số của Chính phủ, gồm cả
việc sử dụng tần số phục vụ mục đích an ninh công cộng, quốc phòng, hàng
không, hàng hải, khí tượng thuỷ văn,… Để phối hợp trong công tác quản lý tần
số giữa FCC và NTIA có thoả thuận phối hợp chung.
Mục tiêu quản lý của FCC:
- Thúc đẩy cạnh tranh, đổi mới, đầu tư vào các dịch vụ và cơ sở hạ tầng
băng rộng.
- Khuyến khích sử dụng hiệu quả cao nhất phổ tần số trong nước và quốc
tế.
- Sửa đổi các quy định về truyền thông để các công nghệ mới phát triển.
Quan điểm cơ quan quản lý cho rằng với điều khoản cấp phép 10 năm kết
hợp với kỳ vọng cấp mới lại giấy phép sẽ giúp tạo ra môi trường pháp lý ổn định
hấp dẫn các nhà đầu tư, từ đó khuyến khích phát triển các băng tần này.
Nhà mạng đã được cấp phép băng tần sẽ nhận được quyền ưu tiên hoặc cấp
mới lại giấy phép nếu cung cấp dịch vụ đáng kể trong khoảng thời gian cấp phép
và đã tuân thủ Đạo luật truyền thông và các quy tắc và chính sách của Ủy ban.
e) Pháp
130
Theo quy định của pháp luật Pháp thì cơ quan quản lý quốc gia (ARCEP)
đưa ra đề xuất về việc tái cấp phép phổ tần (đấu giá, thi tuyển hoặc đổi mới giấy
phép).
Theo quan điểm của cơ quan quản lý, sẽ không có ưu tiên cho các nhà
mạng hiện tại khi tham gia đấu giá hoặc thi tuyển đối với các băng tần di động
mới (chưa được cấp phép).
Đối với những băng tần đã cấp cho các nhà khai thác, Cơ quan quản lý có
xu hướng cam kết về cấp mới giấy phép khi giấy phép hết hạn để đảm bảo sự
chắc chắn về mặt pháp lý cho các khoản đầu tư của các nhà khai thác. Các điều
kiện để được cấp mới lại giấy phép sẽ được thông báo cho các nhà khai thác 02
năm trước khi giấy phép hết hạn.
Tại thời điểm năm 2006 và 2009, giấy phép của các nhà mạng Orange,
SFR và Bouygues Telecom tại băng tần 900 MHz và 1800 MHz hết hạn, các
giấy phép này tại thời điểm trước đó đang được triển khai GSM và được cấp
phép cho các nhà mạng thông qua hình thức thi tuyển, ARCEP đã gia hạn những
giấy phép này thêm 15 năm với các nghĩa vụ kèm theo, cụ thể là bổ sung những
nghĩa vụ về vùng phủ đối với các nhà mạng.
Phí cấp phép do chính phủ quy định bao gồm 02 phần: một khoản thanh
toán cố định hàng năm là 25 triệu Euro và một khoản phí là 1% doanh thu của
nhà mạng.
f) Nhận xét
Thực tiễn áp dụng đối với các nước Anh, Pháp, Mỹ, Canada, New
Zealand đã chứng minh rằng: việc cơ quan quản lý có những chính sách về cấp
phép băng tần đảm bảo được tiếp tục cấp mới giấy phép khi giấy phép hết hạn
hoặc thời hạn của giấy phép di động dài tạo sự chắn chắn về pháp lý, giảm rủi ro
để khuyến khích đầu tư và có ảnh hưởng rất lớn đối với niềm tin của các nhà đầu
tư, họ sẵn sàng chấp nhận lợi nhuận thấp hơn và tỉ lệ đầu tư vào lớn hơn.
131
Trước khi đến thời điểm hết hạn giấy phép (thông thường từ 2 đến 5
năm), cơ quan quản lý có thông báo đến các nhà khai thác những điều kiện để
được tiếp tục gia hạn giấy phép, trừ những trường hợp có những chính sách thay
đổi đối với những băng tần đang được khai thác này.
Để tránh trường hợp những nhà khai thác kém hiệu quả được tiếp tục gia
hạn, đồng thời tăng cường hiệu quả sử dụng phổ tần số hiệu quả, tối đa hóa lợi
ích cho xã hội thì cơ quan quản lý các nước trên cơ sở đưa ra những điều kiện
(đánh giá chất lượng dịch vụ, vùng phủ, các điều kiện kỹ thuật, việc đóng phí và
xem xét các hành vi vi phạm điều kiện giấy phép) để xem xét, đánh giá doanh
nghiệp có được tiếp tục gia hạn hay không. Cơ quan quản lý thông qua cơ chế
tham vấn đưa ra các lựa chọn, điều kiện, phương thức và cả phí sử dụng kèm
theo để có thể được tiếp tục gia hạn.
Các lập luận bảo vệ quan điểm đấu giá sau khi giấy phép sử dụng băng
tần đó hết hạn chủ yếu với mục đích thu ngay được một khoản tiền cho ngân
sách. Tiền trúng đấu giá thường rất lớn, nếu các nhà khai thác phải đóng ngay
khoản tiền này cho Chính phủ thì có thể ảnh hưởng đến vốn đầu tư phát triển
mạng lưới, đồng thời làm gián đoạn việc tiếp tục đầu tư khi doanh nghiệp sắp
hết hạn giấy phép. Thực tiễn, các nước xem xét ở trên đã có chính sách bù đắp
khoản tiền này vào phí sử dụng tần số hàng năm, điều này tạo các ưu đãi đầu tư
cho các nhà khai thác, họ không phải trả tiền ngay lập tức mà sử dụng số tiền
này vào đầu tư phát triển mạng lưới và dịch vụ. Sự phát triển của thị trường viễn
thông các nước trên đã chứng minh những chính sách đúng đắn của cơ quan
quản lý.
4.2.2.4. Thị trường viễn thông Việt Nam
4.2.2.4.1. Hiện trạng thị trường di động Việt Nam
Sự phát triển số lượng thuê bao di động
132
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2015 20160
20
40
60
80
100
120
140
160
22.41
52.86
86.85
113.4127.68
144.19 148.33137.93 137.9 139.2
Số thuê bao điện thoại di động / 100 dân
Số thuê bao điện thoại di động / 100 dân
Hình 9: Số thuê bao di động/ 100 dân giai đoạn 2006-2016
Tính từ năm 2005 đến 2010, số lượng thuê bao di động tại Việt Nam có
sự phát triển bùng nổ, tính đến tháng 12/2006 cứ khoảng 5 người dân thì có một
người sử dụng thuê bao di động. Qua mỗi năm số lượng người sử dụng điện
thoại di động tăng trung bình khoảng 150%, đột biến từ năm 2006 đến 2007 tăng
230%. Năm 2009, số lượng thuê bao di động vượt quá dân số, đạt tỉ lệ cứ mỗi
người dân sử dụng 1,134 số thuê bao di động. Xuất hiện tình trạng một người
dân sở hữu hơn một số điện thoại.
Tính từ năm 2011 đến 2016, tỉ lệ số thuê bao điện thoại di động trên 100
dân ổn định và dao động khoảng cứ mỗi người dân có 1,4 số thuê bao di động và
cao nhất vào năm 2012 với tỉ lệ 148,33 số thuê bao di động trên 100 dân.
Sự phát triển dịch vụ dữ liệu băng rộng
133
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2015 20160
20
40
60
80
100
120
140
Số lượng thuê bao di động 2G và 3G (triệu thuê bao)
Thuê bao 2G Thuê bao 3G
Hình 10 : Số lượng thuê bao di động 2G và 3G tại Việt Nam
Theo biểu đồ thống kê số lượng thuê bao di động 2G và 3G tại Việt Nam
giai đoạn từ năm 2005 - 2016, tỉ trọng số lượng thuê bao di động 2G và 3G còn
rất chênh lệch, số lượng thuê bao 2G tính đến 2016 vẫn chiếm khoảng 70% số
lượng thuê bao di động (cả 2G và 3G).
Tuy nhiên, do chất lượng và vùng phủ sóng tập trung chủ yếu ở các thành
phố, cước dịch vụ cao hạn chế sự phát triển thuê bao 3G. Trong khi nhu cầu sử
dịch vụ dữ liệu của người dùng ngày càng cao, đây là thị trường tiềm năng cho
các dịch vụ dữ liệu băng rộng.
Sự tham gia, sát nhập, rút khỏi thị trường của các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ
Giai đoạn những năm 2010-2016 là giai đoạn cạnh tranh khắc nghiệt giữa
các nhà mạng về thị phần thuê bao di động, một số nhà mạng đã phải sát nhập
như (EVNtelecom sát nhập vào Viettel) hoặc rút khỏi thị trường (S-fone) hoặc
cải tổ lại (Beeline, HT mobile). Tính từ năm 2014 đến nay, số lượng nhà mạng
cung cấp dịch vụ di động ổn định với 05 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ 2G,
trong đó 04 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ 3G. Tuy nhiên thị phần thuê bao của
134
các nhà mạng rất khác nhau, trong 05 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ di động
mặt đất thì thị phần thuê bao tập trung phần lớn (khoảng 94%) vào 03 doanh
nghiệp Viettel, Vinaphone, Mobifone, trong đó Viettel là doanh nghiệp đang
chiếm lĩnh thị trường với 42.5% thị phần di động 2G và 57.7% thị phần di động
3G. 02 doanh nghiệp Vietnammobile và Gtel chiếm thị phần rất nhỏ (khoảng
5%).
Trong đó, các doanh nghiệp lớn (Viettel, MobiFone, VinaPhone-VNPT)
có hoạt động kinh doanh dịch vụ thông tin di động hiệu quả.
Vietnamobile hiện có số lượng thuê bao đứng thứ 4 trên thị trường Việt
Nam. Trong năm 2016, sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển đổi
từ hình thức hợp tác kinh doanh giữa Hanoi Telecom và Hutchison thành Công
ty cổ phần Viễn thông di động Vietnamobile, doanh nghiệp này đã tiếp tục đầu
tư để mở rộng mạng lưới và đang có những đề xuất với cơ quan quản lý tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc.
Gtel-Mobile thời gian gần đây có hoạt động kinh doanh dịch vụ thông tin
di động gặp nhiều khó khăn và là doanh nghiệp hiện có lượng thuê bao di động
ít nhất trên thị trường. Công ty Gtel-Mobile còn nợ phí sử dụng băng tần và kho
số viễn thông.
Nhận xét
Từ những đánh giá thị trường di động Việt Nam, có thể thấy rằng, giai
đoạn những năm 2005 - 2010 là giai đoạn bùng nổ thị trường với sự phát triển
về số lượng các thuê bao, số lượng các nhà khai thác, dịch vụ cung cấp chính là
thoại và tin nhắn. Giai đoạn những năm 2011-2016 là giai đoạn thị trường cạnh
tranh cao giữa các nhà khai thác về thị phần thuê bao với việc sáp nhật, rút khỏi
thị trường của các nhà khai thác. Thị trường ổn định với 03 nhà cung cấp dịch
vụ lớn chiếm hơn 95% thị phần thuê bao di động. Tỉ lệ thuê bao di động 2G (chủ
yếu là thoại và tin nhắn) còn chiếm tỉ trọng cao. Sự phát triển của các thiết bị
smartphone giá rẻ, các dịch vụ về băng rộng phát triển thể hiện nhu cầu sử dụng
135
dữ liệu băng rộng là rất lớn, do đó đây là thị trường tiềm năng cho các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ di động dữ liệu băng rộng khai thác.
4.2.2.4.2. Hiện trạng băng tần đã cấp cho các doanh nghiệp
Hiện nay, có 05 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin di động đang
được cấp giấy phép sử dụng băng tần với tổng lượng phổ tần đã cấp phép là
339,6 MHz. Cụ thể như sau:
Băng tần900
MHz
1800
MHz
2100
MHz
Tổng cộng
(MHz)
Chiếm tỷ lệ
%
Vinaphone 2 x 8.4 2 x 20 2 x 15 86.8 25,56 %
MobiFone 2 x 8.2 2 x 20 2 x 15 86.4 25.44%
Viettel 2 x 8.2 2 x 20 2 x 22.5 101,4 29,86%
Vietnamobile 2 x 10 0 2 x 7.5 35 10,31%
Gtel-Mobile 0 2 x 15 0 30 8,83%
Trong các băng tần dành cho thông tin di động, băng tần dưới 1000 MHz
(băng tần dưới 1GHz) là các băng tần có vai trò đặc biệt quan trọng, thiết yếu
đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin di động do ưu thế về truyền
sóng, mở rộng vùng phục vụ và có hiệu quả đầu tư cao. Hiện nay, việc cấp phép
băng tần dưới 1 GHz cho thông tin di động như sau:
Doanh nghiệp Lượng phổ tần đã được cấp phép Chiếm tỷ lệ
Vinaphone 2 x 8.4 MHz 24,14 %
MobiFone 2 x 8.2 MHz 23,56 %
Viettel 2 x 8.2 MHz 23,56 %
Vietnamobile 2 x 10 MHz 28,74 %
136
Gtel-Mobile 0 0 %
Băng tần dưới 1GHz cấp cho các doanh nghiệp tương đối đồng đều
Đánh giá chung hiện trạng cấp phép các băng tần cho doanh nghiệp:
- Ba doanh nghiệp lớn (Viettel, MobiFone, VinaPhone-VNPT) hiện nắm
giữ trên 80% tổng lượng phổ tần đã được cấp phép. Lượng phổ tần phân bổ cho
ba doanh nghiệp này là không chênh lệch nhiều.
- Lượng phổ tần của Vietnamobile, Gtel-Mobile ít, chỉ bằng 1/3 đến 1/2
lượng phổ tần của doanh nghiệp lớn.
- Gtel-Mobile là doanh nghiệp duy nhất không có băng tần thấp dưới
1GHz.
4.2.2.5. Mục tiêu chính sách
Dựa trên những chính sách vĩ mô về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị
trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước.
Đối với thị trường viễn thông, cơ quan quản lý sử dụng các công cụ, chính
sách để đảm bảo tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và minh bạch, phân bổ
các nguồn lực phù hợp với cơ chế thị trường. Nhóm đề tài đề xuất như sau:
Mục tiêu quản lý
Linh hoạt trong chính sách cấp phép đối với các giấy phép sử dụng băng
tần đã cấp cho doanh nghiệp (trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước
trên thế giới).
Tạo điều kiện cho doanh nghiệp triển khai công nghệ mới, bắt kịp với xu
hướng phát triển công nghệ viễn thông trên thế giới, nâng cao chất lượng dịch
vụ, hiệu quả sử dụng phổ tần;
137
Đảm bảo hài hòa lợi ích về kinh tế của quốc gia, lợi ích của doanh nghiệp
và người sử dụng dịch vụ.
Tiêu chí cụ thể:
- Bảo đảm sự ổn định, phát triển của thị trường viễn thông tuân theo cơ
chế thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước;
- Bảo đảm cung cấp dịch vụ liên tục cho người sử dụng và chất lượng
dịch vụ ngày càng được nâng cao;
- Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư và đổi mới công nghệ;
- Sử dụng hiệu quả phổ tần số, đem lại lợi ích tối đa cho nhà nước, xã hội;
- Thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa giữa các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ.
4.2.2.6. Đề xuất chính sách
Theo quy định của phát luật hiện hành thì sau khi giấy phép sử dụng băng
tần hết hạn thì doanh nghiệp muốn tiếp tục sử dụng băng tần phải trúng đấu giá
hoặc trúng tuyển trong thi tuyển.
Đánh giá của nhóm nghiên cứu về quy định hiện hành đối với tiêu chí
quản lý như sau:
- Bảo đảm sự ổn định, phát triển thị trường viễn thông tuân theo cơ chế thị
trường dưới sự điều tiết của nhà nước: theo phân tích về hiện trạng thị trường di
động Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang có 05 doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ, trong đó, 03 doanh nghiệp lớn chiếm hơn 95% thị phần thuê bao (03 doanh
nghiệp này đều là doanh nghiệp nhà nước), đang cung cấp dịch vụ ổn định cho
khách hàng. Giấy phép băng tần sau khi hết hạn thì băng tần đó sẽ được mang ra
đấu giá hoặc thi tuyển (theo quy định) dẫn đến các doanh nghiệp đang khai thác
băng tần có khả năng không tiếp tục được sử dụng khối băng tần, doanh nghiệp
mới có khả năng tham gia thị trường. Tuy nhiên, với quy định hiện hành về điều
kiện gia nhập thị trường, cam kết đối với doanh nghiệp mới thì khả năng việc có
thêm nhà khai thác hay việc doanh nghiệp đang khai thác không được tiếp tục sử 138
dụng băng tần đều ảnh hưởng không tốt đến sự ổn định, phát triển của thị
trường.
- Cung cấp dịch vụ liên tục cho khách hàng: Nếu áp dụng theo quy định
này thì trường hợp doanh nghiệp đang khai thác không trúng đấu giá hoặc trúng
tuyển dẫn đến có thể làm gián đoạn việc cung cấp dịch vụ cho người sử dụng.
Lúc này, người sử dụng dịch vụ sẽ bị ảnh hưởng, trước hết gián đoạn sử dụng
dịch vụ, chất lượng dịch vụ không được cải thiện do doanh nghiệp giảm đầu tư
vì không chắc chắn có tiếp tục được sử dụng băng tần hay không.
- Khuyến khích đầu tư của doanh nghiệp: Nếu thực hiện theo quy định
hiện hành, lấy lại băng tần đã cấp để đấu giá hoặc thi tuyển lại sẽ hạn chế doanh
nghiệp đầu tư vào giai đoạn những năm cuối của thời hạn giấy phép. Thực tế đã
chứng minh với các nước theo xu hướng đảm bảo việc doanh nghiệp có thể
được tiếp tục cấp mới giấy phép sau khi giấy phép cũ hết hạn có ảnh hưởng rất
lớn tới niềm tin đầu tư của các nhà khai thác, khuyến khích họ đầu tư nhiều hơn.
Nhà nước quản lý thông qua việc đưa ra các điều kiện để tiếp tục được cấp phép
(có tính thêm giá trị kinh tế của khối băng tần).
- Sử dụng phổ tần số đem lại lợi ích tối đa cho nhà nước, xã hội: giấy
phép băng tần sau khi hết hạn thì băng tần đó sẽ được mang ra đấu giá hoặc thi
tuyển (theo quy định). Với thực trạng phát triển, tính cạnh tranh của thị trường
viễn thông Việt Nam hiện nay (số lượng thuê bao, dịch vụ, lượng băng tần đã
cấp, số nhà khai thác) và các điều kiện gia nhập thị trường thì việc có thêm nhà
khai thác mới sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định của thị trường, sự phân bổ lại phổ
tần có khả năng ảnh hưởng đến đầu tư của các nhà khai thác hiện có, trong khi
nhà khai thác mới cần lượng vốn đầu tư lớn và thời gian tương đối dài mới có
thể chiếm được thị phần thuê bao nhất định, đảm bảo cung cấp dịch vụ với chất
lượng theo quy định. Xét về tính hiệu quả đầu tư thì việc có thêm nhà khai thác
mới trong giai đoạn hiện nay không chắc chắn đem lại hiệu quả kinh tế, gây lãng
phí nguồn lực của xã hội. Trường hợp doanh nghiệp đang được cấp phép hiện
nay được tiếp tục xem xét, cấp mới giấy phép kèm theo những điều kiện ràng
139
buộc nhất định, cùng với các nghĩa vụ về tài chính, phí, lệ phí khác, thì có thể
mang lại lợi ích nhiều hơn cho doanh nghiệp, người dùng, xã hội.
- Thúc đẩy cạnh tranh: Việt Nam hiện nay đang có 05 nhà khai thác dịch
vụ thông tin di động, con số này là khá lớn so với các nước phát triển châu Âu
(chỉ với 3 đến 4 doanh nghiệp). Thực tế, 02 nhà khai thác (G-Tel,
Vietnammobile) đang gặp khó khăn trong phát triển dịch vụ, tăng số lượng thuê
bao do cạnh tranh của thị trường tập trung vào 03 nhà khai thác lớn (Vietel,
Mobifone, Vinaphone). Nhưng xét trên khía cạnh phân tích thị trường di động
Việt Nam thì trong giai đoạn này đây là thị trường ổn định, có tính cạnh tranh
cao (lượng phổ tần đã được phân bổ, số lượng thuê bao, cơ sở hạ tầng đã triển
khai sâu rộng, điều kiện tham gia thị trường). Do vậy, không cần thu hút thêm
doanh nghiệp mới tham gia thị trường. Theo kết quả nghiên cứu kinh nghiệm
quốc tế, khi thị trường đã ổn định, cạnh tranh trong thị trường tập trung vào các
doanh nghiệp chiếm thị phần nhất định, những doanh nghiệp chiếm thị phần nhỏ
có xu hướng liên kết với nhau hoặc rời bỏ thị trường.
- Sự linh hoạt của quy định hiện hành: theo quy định hiện hành thì không
có sự phân biệt giữa việc cấp phép băng tần sau khi giấy phép hết hạn và cấp lần
đầu. Việc cấp phép lần đầu và cấp phép băng tần sau khi giấy phép hết hạn có sự
khác biệt rất lớn về số tiền đầu tư để có thể triển khai mạng cung cấp dịch vụ
trên phạm vi cả nước. Do đó, cần có quy định riêng đối với trường hợp cấp phép
mới đối với các băng tần sau khi giấy phép hết hạn.
Từ những phân tích tiêu chí quản lý với quy định hiện hành, kết quả phân
tích thị trường di động Việt Nam, kết quả tham khảo kinh nghiệm của các nước
Anh, New zealand, Canada, Mỹ, Pháp, nhóm nghiên cứu đề xuất chính sách đối
với việc cấp mới giấy phép đối với giấy phép băng tần khi giấy phép này hết hạn
như sau:
Kéo dài thời hạn gia hạn giấy phép sử dụng băng tần sau khi giấy phép
hết hạn bằng với thời hạn cấp mới (15 năm), trong đó có thêm điều kiện để được
gia hạn và tính toán bổ sung thêm vào phí sử dụng hàng năm đối với những
140
băng tần này (ngoài phí sử dụng hàng năm có tính thêm giá trị kinh tế của băng
tần).
Đề xuất cụ thể:
Về quy định kéo dài thời hạn gia hạn giấy phép sử dụng băng tần sau khi
giấy phép hết hạn
Sửa đổi quy định về gia hạn tại khoản 1 Điều 22 Luật Tần số vô tuyến
điện, bổ sung điểm d khoản 1 Điều 22:
“d) Đối với giấy phép sử dụng băng tần: thời hạn gia hạn được xét không
vượt quá thời hạn tối đa quy định tại điểm b khoản 2, Điều 16 của Luật này, căn
cứ vào kết quả triển khai thực tế các nội dung quy định của giấy phép viễn
thông, giấy phép sử dụng băng tần và quyền lợi hợp pháp của người sử dụng
dịch vụ viễn thông, Bộ Thông tin và Truyền thông quy định cụ thể các điều kiện
để tiếp tục gia hạn.
Bộ TTTT thông báo về việc gia hạn giấy phép 03 năm trước thời điểm giấy
phép hết hạn. Trường hợp không gia hạn do sự thay đổi về chính sách, quản lý,
quy hoạch tần số VTĐ, Bộ TTTT thông báo cho doanh nghiệp 03 năm trước
thời điểm giấy phép hết hạn. "
Điều kiện đối với doanh nghiệp để tiếp tục được gia hạn:
- Đã thực hiện đầy đủ, đúng hạn các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
pháp luật về viễn thông, tần số VTĐ: bao gồm phí, lệ phí về viễn thông, tần số
VTĐ, trách nhiệm đóng góp vào quỹ dịch vụ viễn thông công ích.
- Đảm bảo tuân thủ các yêu cầu trong giấy phép viễn thông, giấy phép sử
dụng băng tần (cam kết dịch vụ, vùng phủ tối thiểu; các điều kiện kỹ thuật, khai
thác,...). Không vi phạm nghiêm trọng các điều khoản trong giấy phép.
Về tính toán bổ sung vào phí sử dụng tần số hàng năm
Sửa đổi, bổ sung Thông tư 265/2016/TT-BTC, trong đó, bổ sung đối
tượng trong bảng phí sử dụng tần số vô tuyến điện tại mục 3.3.1 và 3.3.2 đối với
nhóm băng tần dưới 2200 MHz và nhóm băng tần trên 2200 MHz. Cụ thể, tách 141
nhóm băng tần dưới 2200 MHz thành 02 đối tượng: đối tượng cấp phép lần đầu
và đối tượng tiếp tục gia hạn giấy phép; tách nhóm băng tần trên 2200 MHz
thành 02 đối tượng: đối tượng cấp phép lần đầu và đối tượng tiếp tục gia hạn
giấy phép.
Đối với đối tượng cấp phép lần đầu thì phí sử dụng hàng năm sẽ được giữ
nguyên theo quy định hiện hành.
Đối tượng gia hạn giấy phép ngoài phí sử dụng hàng năm sẽ được tính
thêm giá trị kinh tế của băng tần đó. Phương pháp xác định giá trị kinh tế của
băng tần cụ thể sẽ được cơ quan quản lý xây dựng đối với từng loại băng tần.
4.2.3. Kết luận
Quyết định số 25/2008/QĐ-BTTTT ngày 16/04/2008 của Bộ Thông tin và
Truyền thông ban hành quy hoạch các băng tần cho hệ thống thông tin di động
tại Việt Nam. Trong đó đã quy định triển khai công nghệ GSM đối với băng tần
1800 MHz.
Cùng với sự phát triển của xã hội, việc chuyển đổi công nghệ trên băng
tần 1800 MHz từ công nghệ GSM sang các công nghệ thông tin di động băng
rộng tiên tiến hơn là xu hướng tất yếu trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, với nhu
cầu sử dụng dữ liệu di động ngày càng tăng, các doanh nghiệp thông tin di động
đã có các động thái để chuyển đổi công nghệ trên băng tần 1800 MHz nhằm đáp
ứng nhu cầu của khách hàng.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 04/2015/TT-
BTTTT quy định triển khai hệ thống thông tin di động IMT (công nghệ thông
tin vô tuyến băng rộng) trên các băng tần 824-835MHz, 869-915MHz, 925-
960MHz, 1710-1785MHz và 1805-1880MHz. Đây là một bước đi kịp thời và
đúng đắn của cơ quan quản lý nhà nước, nhằm quản lý tài nguyên tần số hiệu
quả, tạo hành lang pháp lý để đảm bảo cung cấp dịch vụ thông tin vô tuyến băng
rộng với giá cả phù hợp cho người dùng phổ thông, đồng thời đảm bảo sự phát
triển bền vững của thị trường thông tin di động Việt Nam.
142
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về xu hướng kéo dài thời gian
sử dụng đối với băng tần di động, phân tích tổng thể thị trường di động Việt
Nam với những mục tiêu, tiêu chí quản lý thì việc tiếp tục gia hạn giấy phép khi
giấy phép hết hạn là phù hợp với Việt Nam. Việc xem xét gia hạn giấy phép tạo
sự linh hoạt trong chính sách cấp phép đối với các giấy phép sử dụng băng tần
đã cấp cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư nâng cao chất
lượng dịch vụ, hiệu quả sử dụng phổ tần, đảm bảo hài hòa lợi ích của toàn xã
hội.
Đối với giấy phép băng tần 1800 MHz sẽ hết hạn vào năm 2023, để đảm
bảo việc cấp phép được kịp thời, không gián đoạn cung cấp dịch cho khách hàng
cần tham vấn những điều kiện tiếp tục cấp phép với doanh nghiệp và kịp thời đề
xuất sửa đổi, bổ sung Luật Tần số vô tuyến điện và các quy định pháp luật về
phí cho phù hợp.
143
KẾT LUẬN
Từ nghiên cứu, đánh giá hiện trạng sử dụng các băng tần 700/800/900/1800 MHz trong nước; trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp tình hình sử dụng, chính sách quản lý băng tần tại các quốc gia trên thế giới, Nhóm đề tài đã nghiên cứu, đề xuất chính sách để thúc đẩy chuyển đổi công nghệ, sử dụng hiệu quả băng tần phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam đối với từng băng tần cụ thể.
Đối với băng tần 700 MHz, nhóm nghiên cứu đã đề xuất 4 nhóm chính sách lớn:
- Đề xuất chính sách và lộ trình thực hiện chuyển đổi kênh tần số truyền hình mặt đất băng tần 470-806 MHz giai đoạn 2014 – 2017 và 2018 – 2020 phù hợp với quy hoạch tần số đã nêu tại Thông tư số 26/2013/TT-BTTTT;
- Đề xuất nguyên tắc kết hợp số hóa truyền hình với phủ sóng truyền hình số qua vệ tinh đối với các tỉnh có địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa;
- Đề xuất chính sách hỗ trợ đầu thu truyền hình số qua vệ tinh (DTH) đối với địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa;
- Đề xuất bổ sung, sửa đổi một số quy định tại Quyết định 2451/QĐ-TTg.
Đối với băng tần 800 MHz, nhóm nghiên cứu và đề xuất 2 nhóm chính sách như sau:
- Chính sách quản lý chuyển đổi hệ thống RFID hoạt động ở băng tần 866-868 MHz;
- Chính sách chuyển đổi đối với hệ thống viba truyền dẫn phát thanh hoạt động ở băng tần 845-851 MHz.
Đối với băng tần 900 MHz, nhóm nghiên cứu và đề xuất 2 nhóm chính sách như sau:
- Chính sách quản lý giới hạn số lượng phổ tần tối đa mà mỗi doanh nghiệp được nắm giữ ở băng tần dưới 1 GHz;
- Chính sách quản lý, chuyển đổi công nghệ di động thế hệ 2, thế hệ 3.
Đối với băng tần 1800 MHz, Nhóm đề tài đã nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về xu hướng kéo dài thời gian sử dụng đối với băng tần di động. Bên cạnh đó, Nhóm phân tích tổng thể thị trường di động Việt Nam với những mục tiêu, tiêu
144
chí quản lý thì việc tiếp tục gia hạn giấy phép khi giấy phép hết hạn là phù hợp với Việt Nam. Trên cơ sở đó, Nhóm đề xuất việc xem xét gia hạn giấy phép tạo sự linh hoạt trong chính sách cấp phép đối với các giấy phép sử dụng băng tần đã cấp cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ, hiệu quả sử dụng phổ tần, đảm bảo hài hòa lợi ích của toàn xã hội.
Trong bối cảnh các công nghệ viễn thông di động phát triển rất nhanh và như
là kết quả tất yếu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên toàn thế giới, yêu cầu
quy hoạch lại các băng tần 700/800/900/1800 MHz đặt ra đối với các quốc gia trên
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng để đáp ứng sự phát triển đó là rất cấp
thiết. Trên cơ sở nghiên cứu các hiện trạng chính sách, kinh nghiệm quốc tế, Nhóm
nghiên cứu số 8 đã nghiên cứu, đề xuất các nhóm giải pháp chính sách để thúc đẩy
việc chuyển đổi công nghệ phù hợp với thực tế Việt Nam. Nhóm nghiên cứu đề
xuất sớm áp dụng các giải pháp chính sách này vào thực tế để sớm định hướng việc
sử dụng tần số, thúc đẩy công nghệ, đáp ứng nhu cầu phát triển các dịch vụ viễn
thông di động trong băng tần 700/800/900/1800 MHz và mang lại lợi ích lâu dài
cho kinh tế - xã hội.
145
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Quy hoạch phổ tần số quốc gia, Ban hành theo Quyết định số 71/2013/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ, năm 2013.
[2] Bộ Thông tin và Truyền thông, Quyết định số 25/2008/QĐ-BTTTT về việc
phê duyệt quy hoạch băng tần cho các hệ thống thông tin di động tế bào số
của Việt Nam trên các dải tần 821 – 960 MHz và 1710 – 2200MHz, năm
2008.
[3] Bộ Thông tin và Truyền thông, Thông tư số 04/2015/TT–BTTTT quy định
triển khai hệ thống thông tin di động IMT trên các băng tần 824-835 MHz,
869-915 MHz, 925-960 MHz, 1710-1785 MHz và 1805-1880 MHz, năm
2015.
[4] Sách trắng công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam các năm 2010,
2011, 2012, 2013, 2014, 2017.
[5] www.mic.gov.vn
[6] www.rfd.gov.vn
[7] www.vnta.gov.vn
[8] www.itu.int
[9]https://www.ofcom.org.uk
[10]https://www.rsm.govt.nz
[11] https://www.ic.gc.ca
[12] https://www.fcc.gov
[13]https://www.arcep.fr
[14]www.gsacom.com
[15] www.analysysmason.com
[16] www.gsma.com
[17] www. coleago.com146